Tài liệu Luận văn Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương: ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----------------
NGUYỄN THỊ NGỌC ANH
YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG TIỂU THUYẾT
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ HỒNG MY
Thái nguyên, 2008
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................................... 1
Lý do chọn đề tài ..........................................................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ..........................................................................................................................................3
3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................................................ 12
4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................
102 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----------------
NGUYỄN THỊ NGỌC ANH
YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG TIỂU THUYẾT
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ HỒNG MY
Thái nguyên, 2008
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................................... 1
Lý do chọn đề tài ..........................................................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ..........................................................................................................................................3
3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................................................ 12
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................................ 13
5. Mục đích của luận văn ...................................................................................................................... 13
6. Đóng góp của luận văn ..................................................................................................................... 13
7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................................................ 14
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN KỲ ẢO TRONG TIỂU THUYẾT
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG ................................................................................................................. 15
1.1. Không gian kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương .................................... 15
1.1.1. Không gian mang màu sắc địa phủ âm giới .................................................. 15
1.1.2. Núi rừng hoang vu chứa đầy sự huyền bí ....................................................... 22
1.1.3. Không gian chập chờn trong cõi vô thức ........................................................ 27
1.2. Thời gian biến ảo ............................................................................................................................. 33
1.2.1. Thời gian hư ảo, phi tuyến tính không xác thực ......................................... 34
1.2.2. Thời gian trong cõi vô thức..................................................................................... 37
CHƯƠNG 2: NHÂN VẬT KỲ ẢO TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH
PHƯƠNG ........................................................................................................................ 41
2.1. Nhân vật người điên ...................................................................................................................... 42
2.2. Nhân vật biến hình, hư ảo .......................................................................................................... 47
2.3. Nhân vật chuyển tiếp ..................................................................................................................... 57
2.4. Nhân vật ma quái ............................................................................................................................. 59
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG THỨC TẠO DỰNG CÁC YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG
TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG ............................................................................ 65
3.1. Xây dựng kết cấu lồng ghép cốt truyện .............................................................................. 65
3.2. Tạo những hình ảnh và môtip trần thuật mang ý nghĩa biểu tượng ................... 69
3.2.1. Những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng..................................................... 69
3.2.2. Môtip trần thuật ............................................................................................................. 75
3.3. Sử dụng các yếu tố ngôn ngữ giàu khả năng gợi tả sự kỳ ảo................ ............. ...............85
KẾT LUẬN ................................................................................................................................................... 92
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 96
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ..............................................100
PHỤ LỤC ........................................................................................................101
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Sử dụng yếu tố kỳ ảo là một trong những thủ pháp nghệ thuật hữu
hiệu giúp các nhà văn thể hiện quan niệm về cuộc sống và con người. Trong
văn học viết Việt Nam, yếu tố kỳ ảo tuy xuất hiện với mức độ đậm nhạt khác
nhau nhưng thời kỳ nào cũng có (tiêu biểu như: Lĩnh Nam chích quái, Truyền
kỳ mạn lục - văn xuôi trung đại; Trại Bồ Tùng Linh, Ai hát giữa rừng khuya,
Yêu ngôn, Hậu thiên đường, Giàn thiêu - văn xuôi hiện đại).
Từ giai đoạn sau 1986, yếu tố kỳ ảo trong văn học có chiều hướng gia
tăng và trở thành “một hiện tượng văn học” trong sáng tác của Hồ Anh Thái,
Nguyễn Thị Việt Hà, Phạm Thị Hoài, Thuận, Châu Diên, Hoàng Diệu, Tạ
Duy Anh, Võ Thị Hoài... Các nhà văn này đồng thời cũng là các cây bút tích
cực đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết về nhiều phương diện: kết cấu, nhân vật,
giọng điệu, ngôn ngữ... Họ đã góp phần làm mới diện mạo tiểu thuyết Việt
Nam trong mấy thập niên vừa qua.
1.2. Chất liệu kỳ ảo đã tạo nên những bước đột phá trong nghệ thuật tự
sự đương đại. Song, trong thực tế, cũng còn một khoảng cách khá xa giữa
việc sử dụng yếu tố kỳ ảo của nhà văn với khả năng tiếp nhận yếu tố kỳ ảo
của độc giả. Ngày nay, sự phát triển siêu tốc của khoa học, kỹ thuật có tác
dụng kích thích khả năng tiếp nhận của độc giả, giúp họ có nhu cầu tìm đến
cái mới, nhanh chóng thích ứng và tiếp nhận cái mới. Văn học kỳ ảo tỏ ra
thích hợp với công chúng độc giả thời hiện đại. Trong công nghệ thông tin,
hàng loạt các trò chơi thế giới ảo đã tạo thành lực tương tác hướng người ta
tìm đến văn học kỳ ảo. Tuy nhiên, việc tiếp nhận cái kỳ ảo trong công nghệ
thông tin với tiếp nhận cái kỳ ảo trong văn học lại là những phương diện khác
nhau. Bởi vì, cái kỳ ảo trong thế giới Game là cái kỳ ảo được lập trình, cài đặt
sẵn để người chơi có thể dễ dàng nhập cuộc; còn kỳ ảo trong văn học là sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
phẩm sáng tạo riêng, đòi hỏi độc giả phải đồng sáng tạo cao độ với nhà văn,
giàu kinh nghiệm và vốn sống, cộng với một năng lực đọc hiểu tác phẩm văn
học kỳ ảo nhất định thì mới nhận thấy sự hấp dẫn của chúng... Do vậy, trong
thực tế, không ít người ngại đọc tác phẩm có yếu tố kỳ ảo, hoặc nếu tìm đọc
thì cùng gặp khó khăn khi tiếp nhận.
1.3. Nhưng, không bị trói buộc bởi quán tính tiếp nhận của một số độc
giả, nhiều cây bút văn xuôi của chúng ta những năm gần đây vẫn nỗ lực tìm
kiếm và thể nghiệm sức biểu hiện cuộc sống của “cái kỳ ảo” trong văn học.
Nguyễn Bình Phương là một trong số đó. Với Nguyễn Bình Phương, yếu tố kì
ảo đã trở thành một công cụ đắc dụng trong việc chuyển tải ý tưởng, một yếu
tố "không thể thiếu" trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Yếu tố kì ảo cũng
khiến tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương mang nét khác lạ so với tiểu
thuyết của lớp nhà văn trước.
1.4. Yếu tố kỳ ảo đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu phê bình
văn học nước ta. Nhiều hiện tượng văn học kỳ ảo đã được “giải mã” trong các
sách chuyên luận, luận văn khoa học (Cái kỳ ảo trong tác phẩm của Balzac -
Lê Nguyên Cẩn, Đặc sắc thể tài Yêu ngôn của Nguyễn Tuân - Nguyễn Thị
Thanh Vân...) giúp người đọc cảm nhận được cái hay, cái đẹp của những tác
phẩm văn học này. Trên hành trình khám phá miền đất văn học kì ảo nhiều bí
ẩn, một số cây bút nghiên cứu phê bình văn học đã hướng tới một “mảnh đất
mới”: sáng tác của Nguyễn Bình Phương. Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương đã được khai phá nhưng chưa đạt được mức độ toàn
diện, hệ thống.
Tóm lại, sự gia tăng yếu tố kỳ ảo trong văn học những năm gần đây đòi
hỏi sự gia tăng tương ứng các công trình nghiên cứu về cái kỳ ảo. Có như vậy,
nghiên cứu phê bình văn học mới tiếp cận và tác động kịp thời, hữu ích tới
thực tế sáng tác văn học. Khám phá văn học kỳ ảo, đi sâu vào các công trình
nghệ thuật kỳ lạ và hấp dẫn đó, hoạt động nghiên cứu văn học tiếp tục vai trò
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
người đồng hành đáng tin cậy của nhà văn, góp phần thúc đẩy văn học phát
triển. Đặc biệt, cần có một công trình nghiên cứu hệ thống, toàn diện hơn về
yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương nhằm đánh giá đúng
mức sức sáng tạo đóng góp của tác giả đối với tiểu thuyết Việt Nam đương
đại.
Đó chính là những lí do cơ bản khiến chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên
cứu: “Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương”.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1.Tình hình nghiên cứu chung về Nguyễn Bình Phƣơng
Nhà văn Nguyễn Bình Phương sinh ngày 29 tháng 12 năm 1865 tại
Thái Nguyên. Thời chiến tranh, tác giả cùng gia đình sơ tán về xã Linh Nham
thuộc huyện Đồng Hỷ, đến năm 1979 mới trở lại thành phố Thái Nguyên.
Nguyễn Bình Phương học hết phổ thông trung học năm 1985 rồi vào bộ
đội; năm 1989 vào học trường viết văn Nguyễn Du; ra trường công tác một
năm ở Đoàn kịch nói Quân đội; sau đó là biên tập viên của Nhà xuất bản
Quân đội và hiện nay công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Nguyễn Bình Phương viết văn bằng niềm đam mê, nhạy cảm cộng với
tri thức văn chương của một cây bút được đào tạo qua trường lớp. Tác giả viết
đều tay ở nhiều thể loại: tiểu thuyết, thơ, truyện ngắn, tản văn...
Cho đến nay, Nguyễn Bình Phương đã xuất bản các tập thơ: Khách của
trần gian (1986), Lam chướng (1992), Xa thân (1997) cùng một số tiểu luận,
truyện ngắn; tiêu biểu có truyện ngắn Đi in trên báo Văn nghệ trẻ (số ra ngày
10 tháng 1 năm 1999). Truyện ngắn này đã gây được sự chú ý của dư luận.
Sau cuốn tiểu thuyết đầu tay: Vào cõi (Nxb Thanh niên, 1991), Nguyễn
Bình Phương tập trung vào thể loại tiểu thuyết. Và cũng chính tiểu thuyết đã
làm cho bút danh nhà văn trở nên quen thuộc trong đời sống văn học. Nguyễn
Bình Phương được bạn đọc biết đến nhiều hơn với sự xuất hiện liên tiếp
những cuốn tiểu thuyết có cách viết mới cả về hình thức lẫn nội dung: Bả giời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
(Nxb Quân đội nhân dân, 2004), Những đứa trẻ chết già, (Nxb Văn học,
1994), Người đi vắng (Nxb Văn học, 1999), Trí nhớ suy tàn (Nxb Thanh niên,
2000), Thoạt kỳ thuỷ (Nxb Hội nhà văn, 2004), Ngồi (Nxb Đà Nẵng, 2006).
Trong khoảng chưa đầy chục năm, không kể các thể loại khác, Nguyễn Bình
Phương đã có tới bảy cuốn tiểu thuyết được xuất bản.
Cũng như các cây bút văn xuôi Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Dương Thu
Hương, Thuận, Nguyễn Việt Hà, Bảo Ninh... Nguyễn Bình Phương đã nỗ lực
"bứt phá" tìm hướng đi mới cho tiểu thuyết. Với quan niệm “Nghệ thuật tiểu
thuyết, ở một chừng mực nào chính đó là nghệ thuật của sự nối kết các điểm
chính với nhau chứ không phải sự nhẫn nại đi theo lộ trình tuần tự, đều đặn
của thời gian và sự kiện” [40;7]. Nguyễn Bình Phương viết trong sự "trôi dạt"
cảm xúc, đào sâu vào miền vô thức. Tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương có
những khác lạ về kết cấu, xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần thuật... Chính sự
khác lạ ấy đã thu hút giới nghiên cứu phê bình văn học. Nguyễn Bình Phương
đã được báo chí trong nước cũng như các tạp chí trên mạng giới thiệu qua các
báo: Pháp luật, Văn hoá, Văn nghệ trẻ, Tạp chí Hợp Lưu...; trên các trang
Webside:
bên cạnh đó còn có các bài báo cáo khoa học, luận
văn tốt nghiệp đại học, luận văn cao học Ngữ văn... Tập hợp tài liệu nghiên
cứu về Nguyễn Bình Phương, chúng tôi thấy những người đi trước đã quan
tâm tới các phương diện sau:
* Chân dung nhà văn
Phùng Văn Khai đã dựng nên chân dung nhà văn Nguyễn Bình Phương
từ ngoại hình đến tinh thần và sự nghiệp sáng tác văn chương: "Nguyễn Bình
Phương có một khuôn mặt rất buồn. Anh ít nói trong các đám đông hoặc hai
người với nhau. Nhưng anh chăm chú mọi người, chăm chú vào câu chuyện
và rất sắc sảo, độc đáo trong suy nghĩ” [31;52], "Nếu coi văn chương là một
nghề thì cái nghề ấy đã đeo gông đóng số Nguyễn Bình Phương(...). Yêu nghề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
đến ngơ ngẩn, yêu đến hành xác, tâm linh, sùng tín như anh quả là của hiếm”
[31,17]. Nhà nghiên cứu này đã đánh giá: "Trữ lượng văn xuôi Nguyễn Bình
Phương là một trữ lượng tiềm tàng mà nhà khai thác đang vào độ thuận để
đưa ra những đời sống, những thân phận, những tư tưởng, những thắc mắc,
những lo toan, những dự báo cho chính đời sống này [31,91]. Theo Phùng
Văn Khai: “Chỉ một thời gian không xa nữa, với nội lực sáng tạo của nhà văn,
chúng ta sẽ có một cái gì đó về văn xuôi đương đại, một cái gì đó mà phải nói
thật rằng chúng ta đã chờ đợi từ lâu, không phải để phủ định những thành tựu
văn xuôi trước đó mà là một bước phát triển tiếp nối” [31;98].
* Kết cấu trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng
Đây là yếu tố đổi mới đầu tiên của Nguyễn Bình Phương được các nhà
phê bình nghiên cứu văn học tập trung khám phá. Thụy Khuê là người sớm
quan tâm tới sáng tác của Nguyễn Bình Phương, đã viết nhiều bài phê bình về
những cuốn tiểu thuyết của nhà văn. Trong bài “Thoạt kỳ thuỷ trong vùng đất
Cậm Cam hoang vu của Nguyễn Bình Phương”, Thụy Khuê nêu cảm nhận về
mặt nội dung của cuốn tiểu thuyết: “Thoạt kỳ thuỷ là một bài thơ đẫm máu và
nước mắt, đẫm tang thương, đầy huyễn hoặc, viết về hành trình của một cộng
đồng, dù đã nửa phần điên loạn, vẫn không biết mình đang đi dần đến toàn
phần điên loạn”; và về hình thức nghệ thuật: “Thoạt kỳ thuỷ là cuốn tiểu
thuyết khác thường, khó đọc bởi lối hành văn và cấu trúc truyện rất lạ... Đây
không phải là trang viết truyền thống vì vậy cần cách đọc không truyền thống.
Những yếu tố vừa kịch, vừa phi kịch, vừa thơ, vừa phi thơ là những mấu chốt
cấu trúc tiểu thuyết” [33]. Thụy Khuê cũng đã chỉ ra một hướng tiếp cận mới
đối với tiểu thuyết Thoạt kỳ thuỷ: cần tập trung khám phá sự giao thoa của các
thể loại kịch, thơ, tiểu thuyết trong tác phẩm này.
Cùng chung với suy nghĩ của Thụy Khuê về sự đan xen của nhiều thể
loại trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, Hoàng Cẩm Giang trong đề tài :
“Cấu trúc thể loại tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI” Luận văn Thạc sỹ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
(Đại học Quốc gia Hà Nội) đã chỉ ra vấn đề cấu trúc tác phẩm và sự phá vỡ
đặc trưng thể loại. Tác giả nhận xét: “xen kẽ giữa các dòng tự sự, người đọc
liên tục bắt gặp những khúc đoạn lạ - mang chức năng “ngoại đề” - vốn không
nằm trong “chính mạch tự sự”... để lại những khoảng trống mênh mang trên
văn bản”.
Nguyễn Thị Ngọc Hân trong www.tienve.org đã tìm ra đặc điểm xoắn
kép nhiều mạch chảy song song trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương:
“Nguyễn Bình Phương và một số cây bút đương đại lại không đi theo lối kết
cấu cũ. Anh đã phá tung mọi đường biên, rào cản để tạo ra sự tự do tối đa cho
tác phẩm. Ở đó, các mạch truyện đan xen, móc nối nhằng nhịt: có những tác
phẩm có hai mạch chảy song song đến cuối tác phẩm đã hoà vào một mạch
chung, có những tác phẩm được xây dựng nên bởi rất nhiều mạch tạo thành
kiểu đa giọng điệu độc đáo”. Hồ Bích Ngọc trong Luận văn Thạc sỹ năm
2006 (Đại học Sư phạm Hà Nội) đã khái quát về cấu trúc tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương trong lĩnh vực khai thác tiềm năng thể loại để hiện đại hoá tiểu
thuyết, chỉ ra sự đổi mới, hiện đại hoá tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
về kết cấu, về nhân vật và về ngôn ngữ, giọng điệu.
Tác giả Nguyễn Chí Hoan trong www.evan.com.vn với bài viết “Hành
trình qua trống rỗng” quan tâm đến vấn đề kỹ thuật của tiểu thuyết Ngồi ở lối
kết cấu lập thể, kết cấu thời gian đồng nhận, lối hành văn với sự giản yếu của
các câu văn. Tác giả cũng chỉ ra mặt hạn chế của tác phẩm “bị kỹ thuật kết
cấu kéo căng ra quá mức, khiến cho tham vọng luận đề của cuốn sách trở nên
giống như một tham vọng khái quát bằng kỹ thuật dựng truyện hơn là những
hoa trái của một trải nghiệm thực sự”.
Bùi Thị Thu khi nghiên cứu; “Một số đặc điểm đáng chú ý của tiểu
thuyết ngắn ở Việt Nam những năm gần đây” - Khoá luận tốt nghiệp đại học
(Đại học Sư phạm Hà Nội, 2005) đã khảo sát một số tiểu tuyết đương đại
trong đó có tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Tác giả đã chỉ ra những đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
trưng trong cấu trúc, ngôn ngữ, giọng điệu của các tiểu thuyết nói trên là cấu
trúc phức hợp, cấu trúc hệ thống biểu tượng, sự khiêu khích người đọc của
ngôn ngữ và tính đối thoại của giọng điệu.
Đồng thời Thụy Khuê, Nguyễn Thị Ngọc Hân, Nguyễn Chí Hoan...
cũng đã đi vào phân tích những đổi mới của Nguyễn Bình Phương trong việc
phá vỡ kiểu kết cấu tiểu thuyết truyền thống để thể nghiệm sự cách tân theo
hướng kết cấu xoắn kép nhiều mảnh, kết cấu phân mảnh, cấu trúc liên văn
bản.....
* Nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng
Nguyễn Mạnh Hùng, Hoàng Thị Quỳnh Nga, Bùi Thị Thu, Hoàng Cẩm
Giang tập trung vào tìm hiểu các loại hình nhân vật tiêu biểu và phương thức
xây dựng nhân vật của nhà văn. Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng có bài “Người đi
vắng, ai đọc Nguyễn Bình Phương? Hay nỗi cô đơn của tiểu thuyết cuối thế
kỷ?” đã phát hiện ra “nhân vật của Nguyễn Bình Phương dấu kín những ám
ảnh của mình và sống với nó” [29].
Hoàng Cẩm Giang phát hiện ra kiểu nhân vật ký hiệu – biểu tượng,
nhân vật biến mất trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương ở Luận văn Thạc sỹ
"Cấu trúc thể loại tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI, 2006".
Các tác giả trên đều nhận thấy sự đổi mới của Nguyễn Bình Phương
trong việc chối từ những quan điểm xây dựng nhân vật truyền thống điển hình
để khám phá ra nhiều dạng thức nhân vật mới mang ý nghĩa biểu tượng cao.
* Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng
Ngôn ngữ tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương cũng bước đầu được giới
nghiên cứu phê bình văn học quan tâm.
Hoàng Thị Quỳnh Nga, trong Báo cáo khoa học năm 2004 đã tìm hiểu
phương diện “Lời câm của nhân vật Tính trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thuỷ”.
Nội dung của lời câm biểu hiện những ám ảnh của bạo lực, cái chết, của máu
và của trăng. Hình thức của lời câm là ngôn ngữ chắp dính, sự phá vỡ quan hệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
lôgic giữa các câu, các câu ngắn, câu đặc biệt, câu bị khuyết thành phần hoặc
bị bẻ gãy không theo một trật tự nào.
Tác giả Hồ Bích Ngọc trong Luận văn Thạc sỹ năm 2006 (Đại học Sư
phạm Hà Nội) “Nguyễn Bình Phương với việc khai thác tiềm năng thể loại để
hiện đại hoá tiểu thuyết” đã phát hiện ra những câu văn ngắn, phi ngữ pháp;
khoảng trắng giữa hai dòng đối thoại và các hình thức nhại ngôn ngữ như sử
dụng ngôn ngữ của lối chép sử biên niên, ngôn ngữ cắt dán – những phiến
đoạn của đời sống.
Các tác giả đã chỉ ra đặc trưng về ngôn ngữ của Nguyễn Bình Phương
thể hiện ở một số phương diện như tạo câu văn ngắn, phi lôgíc; mảng trắng
trong đối thoại; lời của người âm; lời câm của nhân vật...
2.2. Tình hình nghiên cứu về cái kỳ ảo trong tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phƣơng.
* Khái niệm yếu tố kỳ ảo trong văn học
Kỳ ảo vốn là một khái niệm xuất phát từ thời cổ đại. Cách hiểu về nó
cũng thay đổi theo thời gian. Theo từ điển ngôn ngữ Pháp, “kỳ ảo” là tính từ,
bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp“Phantastitos”, tiếng La tinh“Phantasticus” để chỉ
những gì được tạo nên bởi trí tưởng tượng chứ không tồn tại trong thực tế.
Các từ ngữ Hy Lạp và La Tinh trên đều có liên quan với từ “Phantasia”
(tiếng Pháp: “Fantasie”, tiếng Anh: “Fantasy”) có nghĩa là trí tưởng tượng
phóng túng. Trong tiếng Việt, “kỳ ảo” là từ Hán Việt “kỳ” là “lạ lùng”, “ảo”
là không có thật. Cái kỳ ảo là cái lạ lùng, không có thật, không thể bắt gặp
trong thực tế.
Trên thế giới, người đầu tiên đề cập đến thuật ngữ cái kỳ ảo là một học
giả người Anh tên là Joseph Addison (1672-1719). Theo ông, những sáng tác
kỳ ảo “tạo ra một khoái cảm về nỗi sợ hãi trong tâm trí độc giả và làm thoả
mãn trí tưởng tượng của độc giả bởi những cái lạ lùng và tính chất khác
thường của những con người được miêu tả trong đó. Chúng nuôi dưỡng trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
trí nhớ của chúng ta những câu chuyện ma mà chúng ta nghe từ thuở ấu thơ
và thích thú với những nỗi khiếp sợ bí mật, những nỗi sợ hãi mà trí óc con
người phải lệ thuộc vào nó một cách tự nhiên” [35;43]. Sau đó có rất nhiều ý
kiến khác nhau về khái niệm kỳ ảo như Roger Caillor, Tz.Todorov,
M.Schemider... Các nhà nghiên cứu văn học phương Tây đề cập tới bản chất
của kỳ ảo là sự do dự, gắn liền với sợ hãi, nó được tạo ra từ những giấc mơ,
sự mê tín, hối hận, từ sự kích thích quá độ của trí não hay tâm linh...
Ở Việt Nam, Lê Nguyên Cẩn trong chuyên luận“Cái kỳ ảo trong tác
phẩm Balzac” đã làm rõ nội hàm thuật ngữ kỳ ảo trong văn học: “Cái kỳ ảo là
một phạm trù tư duy nghệ thuật. Nó được tạo ra nhờ trí tưởng tượng và được
biểu hiện bằng các yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi thường, độc đáo. Nó có mặt
trong văn học dân gian và văn học viết qua các thời đại. Nó tồn tại trên trục
thực ảo và tồn tại độc lập, không hoà tan vào các dạng thức khác nhau của
tưởng tượng... Yếu tố kỳ ảo trong văn học tạo nên sự đứt gãy trong chuỗi liên
kết vũ trụ, tạo ra sự do dự, phân vân trong lòng độc giả. Nó là quãng lặng, là
sự ngắt mạch, là sự xâm lấn của cái siêu nhiên trong cuộc sống đời thường, là
sự xâm lấn của cái phi lôgic trong một thế giới lôgic” [19;56].
Tác giả Ngô Tự Lập có ý kiến rằng: “Kỳ ảo, đó chính là mê lộ nghệ
thuật cũng như trong lĩnh vực nghệ thuật khác, nó xuất hiện ở mọi nơi khi trật
tự đã trở nên vừa bó buộc vừa đáng ghét vừa đáng sợ và tính hợp lý của trật tự
ấy bị đặt thành câu hỏi. Tuy nhiên những thiết chế văn minh càng chặt chẽ,
càng ráo riết thì sự xuất hiện của nó càng kịch tính như những gì chúng ta
chứng kiến ở phương Tây” [30;10].
Nhìn chung, những tài liệu nghiên cứu về văn học kỳ ảo đã dần dần làm
sáng rõ quan niệm:
1. Yếu tố kỳ ảo trong văn học thuộc phạm trù tư duy nghệ thuật, là sản
phẩm trí tưởng tượng của người nghệ sĩ. Nó phản ánh trình độ hư cấu nghệ
thuật ở mức độ cao. Yếu tố kỳ ảo có thể xuất hiện ở nhiều phương diện trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
thế giới nghệ thuật của nhà văn từ chất liệu phản ánh, phương thức phản ánh
đến tầng lớp ý nghĩa, từ đó tạo nên hiệu ứng tiếp nhận ở người đọc.
2. Yếu tố kỳ ảo là phương tiện nghệ thuật để nhà văn bộc lộ quan niệm
về đời sống, về con người.
3. Những biểu hiện chủ yếu của yếu tố kỳ ảo trong văn học là: không
gian, thời gian chứa đựng các yếu tố siêu nhiên; nhân vật kì dị, biến hóa, giấc
mơ...
Quan niệm đó là cơ sở để chúng tôi tìm hiểu quá trình nghiên cứu của
những người đi trước về yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
và tiếp tục đi sâu hơn vào vấn đề này.
* Tình hình nghiên cứu về cái kỳ ảo trong tiểu thuyết của Nguyễn
Bình Phƣơng:
Trong số những tài liệu nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương đã trình bày
có một số bài viết trực tiếp đề cập đến yếu tố kỳ ảo, đó là: Hoàng Thị Quỳnh
Nga với “Dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Người đi
vắng của Nguyễn Bình Phương”; Đoàn Minh Tâm với “Những đặc trưng của
bút pháp hiện thực huyền ảo trong Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình
Phương”; Nguyễn Chí Hoan với bài viết “Cấp độ hiện thực và sự hão huyền
của ý thức trong Thoạt kỳ thuỷ”; Đoàn Cầm Thi với “Sáng tạo văn học: giữa
mơ và điên”...
Tác giả Hoàng Thị Quỳnh Nga đã chỉ ra hiện thực huyền ảo trong tiểu
thuyết Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương ở hiện thực lai ghép: thành thị
- nông thôn, yếu tố thực - ảo. Nhân vật của Nguyễn Bình Phương được gọi
tên là “nhân vật tàn khuyết về tâm lý”, bao gồm nhân vật mắc bệnh và nhân
vật chịu ám ảnh. Trong các báo cáo khoa học về “Lời câm của nhân vật Tính
trong Thoạt kỳ thuỷ”,“Dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong Người
đi vắng”, tác giả đã chỉ ra những sáng tạo riêng của Nguyễn Bình Phương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
trong việc sáng tạo ra một thế giới nhân vật chịu nhiều ám ảnh; một thứ ngôn
ngữ đặc biệt của giấc mơ, ngôn ngữ lời câm chắp dính, phi lôgic.
Thụy Khuê trong bài viết “Thế tĩnh toạ trong tiểu thuyết Ngồi của
Nguyễn Bình Phương” đã đề cập tới nhận thức bên trong của nhân vật dựa vào
triết học hiện sinh: “trái với quy ước xác định và chỉ định, tiểu thuyết Ngồi dựa
trên sự bất định trong một không gian ảo: đó là không gian suy tưởng của kẻ
ngồi thiền. Bất định và sắc không trở thành yếu tố chính trong tác phẩm... cho
nên tất cả đều có thể thật mà có thể giả, có thể chỉ là một giấc mộng”.
Đoàn Minh Tâm (Văn nghệ Trẻ ngày 14/1/2007) khái quát “Những đặc
trưng của bút pháp huyền ảo trong tiểu thuyết Ngồi” ở ba dạng: bút pháp
huyền ảo phi lý của Kafka, bút pháp huyền ảo siêu nhiên và huyền ảo tâm lý.
Qua đó thấy được những ảnh hưởng của chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa tự
nhiên, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo đậm nét trong sáng tác của Nguyễn Bình
Phương nói riêng và trong sáng tác văn chương nói chung.
Báo cáo khoa học của Đặng Thị Lan Anh đã trình bày kết quả nghiên
cứu cái vô thức trong phân tâm học và cái vô thức trong tiểu thuyết Thoạt kỳ
thuỷ: “để cái kỳ ảo xuất hiện ồ ạt giữa cõi thực sẽ sa vào vụn vặt, cấu trúc sẽ
mất đi tính mạch lạc”. Nguyễn Chí Hoan trong bài viết “Cấp độ hiện thực và
sự hão huyền của ý thức trong Thoạt kỳ thuỷ” đã khẳng định “Nguyễn Bình
Phương là nhà văn Việt Nam đã đẩy cuộc thăm dò vô thức đi xa nhất” [28].
Đoàn Cầm Thi trong “Sáng tạo văn học: giữa mơ và điên đã đưa ra nhận
định: “Với Thoạt kỳ thuỷ, chúng ta đọc lại Hàn Mặc Tử qua con mắt khác.
Nhưng giá trị của nó còn cao hơn thế: Tôi tin rằng thử nghiệm mới này của
Nguyễn Bình Phương, như mọi tác phẩm nghệ thuật đích thực, sẽ góp phần
biến đổi thẩm mỹ người đọc đương thời. Bằng ngôn ngữ người điên” [46].
Những bài nghiên cứu trên các khía cạnh kỳ ảo tạo nên những điểm
khác lạ trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Xung quanh những ý kiến về cái kỳ ảo trong tiểu thuyết của Nguyễn
Bình Phương có những mức độ đánh giá, tiếp nhận khác nhau. Lời khẳng
định, khích lệ nhiều; song lời “phê” hàm ý nhắc nhở, thậm chí cả “phủ định
sạch trơn” không phải là không có.
Nguyễn Hoà với bài viết “Một cách lý giải về thực trạng tiểu thuyết
Việt Nam đương đại” cho rằng những cố gắng cách tân của một số tác giả
trong đó có Nguyễn Bình Phương “chưa thật sự tạo nên những đột biến trong
tư duy thể loại... và môtíp nhân vật bị chi phối bởi trạng thái bệnh lý tâm thần,
điên trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương có thể cung cấp một cái nhìn
bất thường về cuộc sống và con người, nhưng sự trở đi trở lại của môtíp này
dường như đang đẩy tác giả tới nguy cơ đơn điệu nhàm chán” [39;209]. Ý
kiến của nhà văn khác theo Phùng Văn Khai ghi lại trong “Tản mạn Nguyễn
Bình Phương”: “Phương thiếu đời sống thực tế nên luôn luôn trốn trong tháp
ngà mờ mờ sương khói do chính mình tạo ra” [31;86]. Những nhận xét đó có
nhưng không nhiều.
Nhìn chung, hầu hết những người nghiên cứu Nguyễn Bình Phương
đều khẳng định đóng góp của nhà văn vào sự đổi mới của tiểu thuyết Việt
Nam đương đại về các phương diện: cấu trúc, nhân vật, ngôn ngữ và sử dụng
yếu tố kỳ ảo... Tuy nhiên, chưa có ai nghiên cứu một cách hệ thống về những
yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Vì thế cần có một đề
tài khoa học có tính hệ thống, toàn diện hơn về vấn đề này.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1.Năm cuốn tiểu thuyết có nhiều yếu tố kỳ ảo của Nguyễn Bình Phương:
- Những đứa trẻ chết già (Nxb Văn học, 1994)
- Người đi vắng (Nxb Văn học, 1999)
- Trí nhớ suy tàn (Nxb Thanh niên, 2000)
- Thoạt kỳ thuỷ (Nxb Hội nhà văn, 2004)
- Ngồi (Nxb Đà Nẵng, 2006)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
3.2. Một số các tác phẩm khác có yếu tố kỳ ảo để so sánh, đối chiếu.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu thi pháp học:
Vận dụng lí thuyết thi pháp về không gian, thời gian, nghệ thuật và thi pháp
nhân vật để làm sáng tỏ yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
4.2. Phƣơng pháp hệ thống:
Nghiên cứu yếu tố kỳ ảo trong mối quan hệ hệ thống với các phương diện
khác trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Bình Phương.
4.3. Phƣơng pháp thống kê, khảo sát:
Nhằm nhận biết những tín hiệu “kỳ ảo” của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
làm cơ sở để hệ thống hoá thành những luận điểm khoa học của vấn đề.
4.4. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh:
Làm rõ đặc điểm và giá trị nghệ thuật của các yếu tố kỳ ảo trong tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương, đối chiếu so sánh với các đối tượng văn học
khác để thấy được nét mới mẻ, độc đáo của nhà văn.
5. MỤC ĐÍCH CỦA LUẬN VĂN
5.1. Xuất phát từ những vấn đề lý thuyết cơ bản về cái kỳ ảo trong văn
học, luận văn sẽ khảo sát, phân tích và miêu tả các dạng thức biểu hiện của
yếu tố kỳ ảo, khám phá giá trị của yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương.
5.2. Tìm ra phương thức tiếp cận những yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương nói riêng và trong tiểu thuyết đương đại nói chung.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
6.1. Có được những kết luận khoa học về yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương, tiếp tục mở rộng con đường đi vào thế giới nghệ thuật
của tác giả.
6.2. Góp phần giải mã các yếu tố kỳ ảo trong văn học và cách tiếp cận văn
học kỳ ảo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
6.3. Đóng góp một tài liệu học tập, nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương
và văn học Việt Nam đương đại...
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Phần nội dung được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Không gian và thời gian kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương.
Chương 2: Nhân vật kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
Chương 3: Phương thức tạo dựng các yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
NỘI DUNG
Chƣơng 1
KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN KỲ ẢO
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG
1.1. Không gian kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng
Trong sáng tác văn học, không gian nghệ thuật là “một phương thức
chiếm lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc và khái quát tư tưởng
thẩm mĩ” [44;72]. Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng
nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật nào cũng có không gian nghệ thuật của nó.
Không gian nghệ thuật tồn tại dưới các dạng: hiện thực, siêu thực.
Tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương chứa đựng nhiều yếu tố kỳ ảo tạo
nên không gian của chiều sâu tâm tưởng, không gian của cõi âm, không gian
của núi rừng hoang vu - nơi mà cảm nhận về cuộc sống cứ chập chờn đan cài
giữa âm và dương, hư và thực; và những linh cảm, điềm báo cứ quẩn quanh
bủa vây con người. Không gian kỳ ảo xâm nhập vào mọi ngõ ngách của đời
sống và tâm hồn nhân vật. Đó có thể là không gian ở cõi trần với vô vàn cái
kỳ lạ, không gian cõi âm, không gian trong cõi vô thức, không gian tâm linh
của con người như không gian địa phủ, âm giới trong Những đứa trẻ chết già;
không gian cõi tâm linh, vô thức của những nhân vật trí thức trong Trí nhớ
suy tàn và Ngồi.
1. 1.1. Không gian mang màu sắc địa phủ, âm giới
Đó là những khung cảnh âm u, gợi không khí chết chóc hoang lạnh.
Trong Những đứa trẻ chết già, không gian mang màu sắc âm giới hiện
hình với những âm thanh lạ, với bóng ma, ánh sáng... mang đặc điểm riêng
của cõi âm ti, địa phủ. Không gian của cõi âm có khi ám ảnh cõi trần bởi
những tiếng vọng âm u từ dưới lòng đất. Nơi gốc si vào những đêm trăng “vợ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
ông Bồi què đi ăn giỗ ở nhà họ hàng làng bên cạnh về, qua chỗ cây si bà ta
nghe thấy tiếng người, chính xác hơn là tiếng đàn ông kêu thầm thì ở đó”
[3;199]. Rồi những âm thanh đó lại tự nhiên biến đi “Ngọn Rùng đen thẫm in
trên nền trời. Khói hương bốc ngùn ngụt. Ngay cả tiếng thầm thào ở gốc si
cũng biến mất như kẻ tuân theo một mệnh lệnh nghiêm khắc” [3;59]. Có khi
kỳ lạ hơn là những cái chết từ bao nhiêu năm tự nhiên trôi về. Sau khi cái xác
của ông Trạch – một người làng chết mất xác ở chiến trường bao nhiêu năm
nay tự dưng xuất hiện dưới gốc si thì có hàng loạt những cái xác của dân làng
chết nơi đất khách quê người cũng tự tìm về. “Rồi mọi thứ cũng trở nên
thường tình đến mức thành lệ. Hễ gia đình nhà ai có người chết ở nơi xa, cứ
ra chỗ gốc si thế nào cũng thấy xác” [3;202]. Những hồn ma, xác chết hiện
hình trở về khiến cuộc sống làng Phan trở nên u ám, hoang lạnh như cõi âm.
Trong tác phẩm còn có khung cảnh bãi tha ma với “những vì sao đột nhiên
rùng mình”, “một vì sao mé Tây phình to rồi lao vút xuống”, “đám cỏ úa vàng
cứ run rẩy, dãy dụa” và những ngôi mộ tự nhiên phát sáng, tiếng khóc ai oán
vọng lên, những vết chân thú tự nhiên ứa máu, hình ảnh con Nghê hiện về
trong dáng hình kỳ lạ...
Không gian cõi âm còn hiện lên qua hình ảnh chiếc xe trâu lọc cọc
nặng nề đi trong hoàng hôn rề rà mệt mỏi; không điểm xuất phát, không điểm
dừng lại. Nó cứ đi, đi mãi trong cõi vô tận, chở theo bao nhiêu điều bí ẩn,
rùng rợn: “Không khí ảm đạm và lưu cữu. Hoàng hôn trung du bao giờ cũng
rề rà, mệt mỏi. Những quả đồi chầm chậm lùi lại, chầm chậm xuất hiện. Đôi
chỗ, chè hoang mọc xanh lên tận chóp đồi. Hương chè nhả ra, đặc chát”
[3;18], “người âm dường như đang di chuyển, họ thấy những quả đồi chầm
chậm lùi lại... như thế chết vẫn tiếp tục sống một đời sống không có âm thanh,
hay âm thanh trong cõi trần, người trần không nghe thấy được” [3;40]. Chiếc
xe trâu kỳ lạ đó là cách để trí tưởng tượng của nhà văn “du linh” vào quá khứ
đã tàn để có thể khám phá bí mật của con người từ thời nguyên thuỷ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Theo quan niệm của người Việt Nam xưa, thế giới của người âm gián
cách trên bàn thờ, trong cây đa, cây đề, trong núi Voi, hang ông Tạ... Cõi địa
phủ ấy, cất giấu linh hồn của tạo vật để tạo ra những “điềm” báo về cõi
dương gian mà theo kinh nghiệm dân gian sẽ biết đó là điềm gở hay điềm
lành. Từ đó, con người có những cách giải điềm, giải hạn khác nhau. Trong
những Những đứa trẻ chết già, cũng có những điềm gở nhân vật nhận biết từ
không gian âm giới.
Trong tiểu thuyết Người đi vắng có không gian của bãi tha ma với
những âm thanh ghê rợn cùng với ánh sáng đom đóm ma quái và những đốm
lân tinh xanh lét. Người ta cảm thấy: “Hình như có những âm thanh lạ vọng ra
từ bãi tha ma, tiếng rì rầm hổn hển lúc dâng lên hạ xuống khi ùa đến gần rồi
lùi xa chập chờn mê hoặc... Đom đóm tự nhiên dạt ra, tán loạn, hốt hoảng”.
Nơi ấy đêm đêm còn có tiếng rì rầm chuyện trò của các hồn ma, kể về cuộc
đời, số phận của mình với bao nỗi niềm oan trái, bao ám ảnh tàn khốc: “Tiếng
thét lại cất lên từ bãi tha ma thê lương, tuyệt vọng giữa cơn mưa thốc tháo”.
Hay khung cảnh ma quái rợn ngợp như trò chơi ú tim đầy bí ẩn: “những tiếng
thều thào cất lên cùng tiếng gõ cành cạch vào cửa kính”.
Nhạc điệu của âm giới là những âm thanh: kình kịch, rì rầm, hổn hển,
chập chờn, sột soạt, thều thào, cành cạnh...; những âm thanh nhỏ, yếu, mơ
hồ, không rõ nét làm nên “tiếng vọng nghe âm u” tự cõi âm vọng về. Âm
thanh xuất hiện mỗi lúc với mỗi âm điệu, sắc nhịp riêng, khi xa khi gần, khi
đau thương ai oán, lúc não nùng man dại...; như lời yêu thương vụng trộm,
như tiếng kêu oan, như lời đe dọa ác độc... tất cả xô bồ hiện về giữa cõi trần
gợi ám ảnh ghê rợn.
Trong những âm thanh ma quái vọng lên từ tiểu thuyết Người đi vắng,
lời người cõi âm xuất hiện nhiều nhất, với những giọng điệu khác nhau: lúc
thì thầm ai oán, khi dậm dọa thách thức, khi oan trái tức tưởi hoặc âu yếm nhẹ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
nhàng... Lời cõi âm vọng lên cả ban ngày lẫn ban đêm, trong không gian ảo –
thực, trong tiềm thức, trong vô thức.
Bảng khảo sát sau cho thấy các dạng biểu hiện của lời người cõi âm đã
biến thành hồn ma trong tác phẩm.
Bảng 1.1. Khảo sát lời người cõi âm trong tiểu thuyết Người đi vắng
Chủ thể
(lời người cõi
âm)
Nội dung
Thời gian
xuất hiện
Giọng điệu
Một thanh niên
Kêu than mình bị oan và mình
không giết người.
Nằm mơ và đã bóp cổ một
người đàn ông trong khi ông ta
bị sốt cao
Đêm
Kể lể, than
vãn, kêu ca
Họa sĩ – đồng
đội của Thắng
Luôn trở về gọi “Thắng ơi”
Chết vì bị Thắng bắn oan vào
trán.
Mơ được vẽ nốt bức chân dung
về 40 khuôn mặt
Đêm, trong
giấc ngủ
của Thắng)
Day dứt,
trăn trở
Nam – học
sinh cấp 3
Kể chuyện lớp học có cô giáo
dạy môn sinh học với giờ thực
hành mổ ếch.
Thuật lại tỉ mỉ cái chết của
mình do tai nạn ô tô ở cổng
trường khi tan học
2h đêm bãi
tha ma Linh
Nham
Buồn, đau
xót và tiếc
nuối
Đứa trẻ mô côi
Ru em ngủ bằng những câu
chuyện kể về mẹ, về ông thiến
lợn (chính là bố chúng)
(Ngôi mả)
Nhẹ nhàng
đầy yêu
thương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Tử thi trên
chiếc băng ca
tự tử cắt mạch
máu ở cổ tay
trái (Một thanh
niên có khuôn
mặt dài, mũi
mỏng, cằm
nhọn, lông
mày lưỡi mác)
Kể về mối tình với người con
gái tên Tuyết.
Thảm kịch xảy ra: giết kẻ đã
hãm hiếp Tuyết, sau đó thả
Tuyết xuống dòng sông.
Đau xót
Người đàn bà
bị chồng ruồng
bỏ
Nói về một vụ giết người, thủ
phạm không bị tuyên án. Cuộc
đời bất hạnh của người đàn bà
bị chồng đánh đập, ruồng bỏ
theo nhân tình. Ba năm sau,
chồng trở về, chị ta chết vì bị
chồng lấy búa bổ giữa đỉnh đầu
và chồng chị cũng chết do xô
xát với vợ.
Cay đắng
và oan ức
Cái thai
Tâm sự với Dế rằng nó tự bỏ đi
vì mẹ nó không muốn có nó.
Hờn dỗi,
trách móc
Cô gái trẻ
Thắt cổ tự tử ở cây bàng vì bị
người yêu phụ bạc.
Giãi bày,
chia sẻ
mong được
giải thoát
linh hồn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Qua bảng khảo sát trên, ta thấy hiện lên dấu ấn cõi âm đậm đặc. Với lời
người cõi âm, cuộc đời những người đã chết được tiếp nối giúp người ta hiểu
thêm nhiều điều về cuộc sống. Các hồn ma đều chịu chung số phận đau khổ,
khi sống thì oan ức, khi chết thì trở thành những oan hồn không tìm được nơi
hoá giải nỗi oan khổ đã mang theo xuống dưới mồ. Lời người âm đã giúp ta
nhận ra rằng, đâu phải ba thước đất có thể vùi lấp đi tất cả. Còn bao nhiêu
khao khát cần được thực hiện, bao nhiêu ẩn ức cần giải toả, bao nỗi đau cần
xoa dịu... Hãy nghe giọng dỗi hờn rất trẻ con của một cái thai đã chết: “Mình
là một cái thai, mình bỏ đi mặc dù chẳng bao giờ tự ái. Người đàn bà ấy
không thích thì mình đi...”, hoặc tâm sự buồn buồn mà đau xót của đứa trẻ bị
xe ô tô cán chết: “Con vẫn nhớ lời mẹ dặn nhưng không hiểu sao lúc ấy con
quên mất cứ thế chạy thẳng từ cổng ra. Chú lái xe cũng hiền... bánh xe to quá
mẹ ạ... con chẳng đau đớn gì, chỉ tội buồn, rất buồn, tất cả những cái gì đen
đen bên cạnh cũng buồn”... Một bức tranh về cõi sống hiện lên từ cõi chết với
nỗi đau của lòng mẹ, khuôn mặt đầm đìa máu của người đàn bà. Lời cõi âm
vọng về biết bao điều đau đớn mà những đứa trẻ, những người mẹ... đã trải
qua.
Có khi lời cõi âm trong tác phẩm dã dựng lại những vụ án mà người
sống không tìm ra cách phá án. Trong thế giới của cõi âm, mọi tội lỗi, cái xấu
được phơi bày không giấu giếm: “tình cảm vợ chồng dẫn đến một vụ án mạng
về cái chết kỳ bí của người chồng và sự mất tích của người vợ; tình yêu đôi
lứa lại gây ra cái chết oan uổng tức tưởi cho người con gái nông nổi; tình mẫu
tử lại buộc những đứa trẻ chưa kịp thành hình phải lặng lẽ bỏ đi trong oán
giận” [41].... Qua các dạng biểu hiện của lời người cõi âm, ngòi bút tác giả đã
đưa chúng ta đến một nơi bí mật có thể chứng kiến biết bao số phận, cảnh đời
oan trái. Nguyễn Bình Phương mượn lời người đã chết để khám phá về người
còn sống. Hồn ma và lời những bóng ma mang tính kỳ ảo nhưng những yếu tố
của đời sống được phản ánh lại mang tính chân thực.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Không gian cõi âm còn xuất hiện qua ánh sáng lạnh lẽo, đầy ám khí:
“Con mèo chụm chân giương đôi mắt xanh lét nhìn ra khu vườn um tùm...
cạnh cửa sổ, ánh sáng lờ mờ soi lên chiếc phản bỏ không”, “trăng sáng lạnh
giữa bãi cỏ mấp mô”... Thứ ánh sáng ma quái đó khi thì thu gọn trong một
chấm nhỏ trong mắt mèo, khi trải dài bàng bạc vô định bao trùm khắp không
gian, có khi tan chảy thành dòng sông mờ ảo, làm toát lên một không khí lạnh
lạnh rợn rợn.
Trong Những đứa trẻ chết già, có không gian mộ nơi diễn ra nhiều biến
hoá kỳ ảo. Không gian mộ của tác phẩm không còn là điểm không gian khép
kín "đào sâu, chôn chặt" mà là sự biến đổi khôn lường gắn liền với định mệnh
về kho báu của một dòng họ. Gần cuối tác phẩm, khi mọi yếu tố được hội tụ
đầy đủ cho hành trình mở cửa kho báu truyền từ ngàn đời của nhà cụ Trường
thì một biến cố xảy ra: Ba ngôi mộ của những người thân đã được gia đình cụ
canh giữ cẩn thận bỗng phát sáng, biến dạng: “Cùng một lúc cả ba ngôi mộ
nhấp nháy phát sáng. Ánh sáng xanh lét, nhoáng nhoàng tạo nên một không
khí ma quái rùng rợn. Rồi có tiếng cười the thé cất lên. Qua ánh chớp mọi
người nhìn thấy một chiếc xe trâu vụt loãng thành làn khói mỏng mảnh tan
vào không khí lấp lánh” [3;299]; cả ba ngôi mộ bay vút lên không trung: “một
cơn gió thốc mạnh kèm theo tiếng nổ kinh hoàng. Cả quả đồi rùng mình bửa
đôi. Ba ngôi mộ bay vút lên thành ba vệt đen thẫm sau đó mất hút vào giữa
khoảng không vô tận. Ở kẽ nứt của quả đồi, khói phun lên dày đặc, trong đó
thấp thoáng hàng đoàn người lả lướt bay, mặt ngoái về phía Bắc” [3;307].
Những ngôi mộ biến mất, cuộc giành giật kho báu cũng kết thúc thảm thương,
ảo tưởng của những kẻ tham lam cũng tan thành mây khói.
Không gian bãi tha ma hiện diện hầu hết trong các tác phẩm của
Nguyễn Bình Phương với những đốm lân tinh màu xanh, vệt sáng hắt lên,
tiếng kêu thì thầm ai oán... Khung cảnh đó thường hiện ra giữa núi rừng Thái
Nguyên vào lúc hoàng hôn bảng lảng, trong những đêm đen hay ngập chìm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
trong những cơn mưa: “đom đóm bị trăng át đi chỉ còn là vô vàn đốm sáng
mờ nhạt thoi thóp như đống lá cháy đang tàn. Tiếng chó tru lên lúc gần lúc xa
nghe day dứt” [6;93]. Thụy Khuê đã phát hiện trong Người đi vắng có tính
chất hiện thực linh ảo âm dương. Tiểu thuyết tạo cho người đọc cảm giác bị
lạc vào vùng đất bị ma ám, nơi những linh hồn vẩn vơ đi lại.
Đọc Nguyễn Bình Phương người ta thường đặt câu hỏi vì sao nhà văn
hay viết về không gian mang màu sắc địa phủ, âm giới như vậy? Có thể tìm
lời giải đáp từ quan niệm sáng tác của nhà văn.
Trong một lần trả lời phỏng vấn báo Thể thao, Nguyễn Bình Phương đã
nói: hành trình sống của mỗi con người là một cuộc trôi dạt, với tư cách công
dân, tôi trôi dạt trong các sự kiện xã hội; với tư cách nghệ sĩ, tôi trôi dạt trong
các nhân vật. Nhà văn đã trôi dạt cả vào những vùng địa hạt “cấm” trong cảm
nhận trực giác là cõi âm, cõi tâm linh, vô thức ngàn đời bí hiểm. Đẩy ngòi
bút tiểu thuyết của mình "trôi dạt" trong cõi âm ti, địa phủ đó, Nguyễn Bình
Phương đã mở rộng giới hạn phản ánh hiện thực của tiểu thuyết theo quan
niệm của nhà văn.
Viết về cõi âm, về cuộc sống với những bóng ma, âm thanh, màu sắc,
cả sự hoài thai sinh nở..., Nguyễn Bình Phương đã dùng yếu tố kỳ ảo để vẽ
lên màn sương huyền bí bao phủ không gian cõi âm như một phương tiện để
truyền tải thông điệp về cuộc sống.
1. 1.2. Núi rừng hoang vu chứa đầy sự huyền bí
Ở Thái Nguyên, người ta rất quen với những cái tên Linh Nham, làng
Phan, núi Hột... Nhưng đọc tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, cũng những địa
danh ấy người đọc lại lạc vào một thế giới kỳ bí, hoang sơ thời “Thoạt kỳ
thuỷ”. Khung cảnh núi rừng thâm u với những địa danh làng Phan, núi Rùng,
núi Hột, dòng Linh Nham, sông Cái, xóm Soi... là những không gian có thực
của vùng bán sơn địa Thái Nguyên, cũng là không gian nghệ thuật của nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
văn. “Núi Voi”, “Linh Nham” đầy lam chướng ấy chứa nhiều điều huyền bí,
hư ảo mang tính siêu thực.
Trong Những đứa trẻ chết già, không gian núi rừng bí hiểm vây đặc
mọi chốn: “Ngày mùng bảy tháng sáu giờ Dậu, dân làng thấy trong đáy ao
nhà Trường hấp bốc lên cột khí trắng hình con rắn”; “Ngày 9 tháng đó, phía
Tây có đám mây màu đỏ xuất hiện, hình dáng không khác gì người đàn ông
cụt đầu, tay cầm dao quắm”; “Tháng 8 ngày mùng 10, làng bị mưa tơi bời...
Rạng sáng ngày 12, mưa tạnh. Đang trưa, tự dưng doi đất bồi dưới chân cầu
Linh Nham nứt toác, sâu thẳm, không ai dám đến gần. Từ kẽ nứt đó có tiếng
vọng lên ầm ì như sấm ”. Cảnh núi rừng hoang vu với những hình ảnh kỳ bí
về bầu trời, khu rừng, những ngọn đồi, dòng sông và cùng với thứ ánh sáng,
âm thanh ma mị cứ trở đi trở lại trong tác phẩm, tạo cảm giác vừa tò mò vừa
rùng rợn, đồng thời cũng kích thích trí tưởng tượng và khả năng khám phá
hiện thực của người đọc.
Sự huyền bí của không gian trong Những đứa trẻ chết già thể hiện
trong bảng khảo sát sau:
Bảng1.2. Khảo sát sự huyền bí của không gian trong Những đứa trẻ chết già
Yếu tố
không gian
Sự huyền bí
Bầu trời
làng Phan
“Đột ngột nứt toác ra. Từ đỉnh trời, một chiếc cột sắt khổng lồ
vùn vụt xuyên thẳng vệ đường” [3;282]
“Xám ngoét, nặng võng xuống” [3;224]
“Thi thoảng lại rung rinh chao đảo” [3;232]
Khu rừng
Linh Nham
“Như chiếc quan tài đen lập lờ giữa màn sương run rẩy huyền
bí” [3;96]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
Đồi
“Phập phồng cháy chéo nhau” [3;289]
“Quả đồi chao bên nọ, bên kia” [3;299]
“Cả quả đồi rùng mình bửa đôi: ba ngôi mộ nay vút lên thành
ba vệt đen thẫm sau đó bay mất vào khoảng không vô tận”
[3;307]
Sông Linh
Nham
“Sau trận huyết chiến đẫm máu nhuộm đỏ cả dòng Linh Nham
ấy, đêm đêm các oan hồn còn hiện về kêu gào, khóc lóc đòi
trả lại đầu” [3;209]
“Rì rầm ai oán” [3;115]
Ánh sáng
“Làng Phan co mình dưới ánh sáng lờ đờ uể oải”
“Những ánh lân tinh lập lòa, thứ ánh sáng xanh lơ kỳ quái
chẳng khác gì mắt mèo hoang”.
Rõ ràng, tác giả đã có chủ ý tô đậm sự huyền bí của không gian trong
tác phẩm gợi lên miền đất hoang sơ, man dại, bí hiểm của rừng thiêng nước
độc heo hút thuở xa xưa.
Từ thủa khai thiên lập địa đến mãi về sau, dân làng Phan đã truyền tụng
bao giai thoại về những đám mây cụt đầu, con cá trê khổng lồ, những tiếng nổ
hãi hùng.... Rồi những chuyện kinh dị về việc tìm kho báu của gia đình cụ
Trường. Môi trường dày đặc âm khí chưa thoát khỏi nét hoang dại sơ khai.
Bao bọc lấy làng Phan là ám ảnh về một miền đất, một không gian đêm nhiều
hơn ngày, nơi mà mọi điều dữ dội đều có thể xảy ra. Không gian ngập chìm
trong bóng tối và khí lạnh ghê người, ở đó ánh sáng chỉ là những tia nắng yếu
ớt đang lịm dần vào cái chết “Ánh sáng thoi thóp lê lết rút về nơi cố hữu của
mình sau dãy đồi”. Làng Phan đầy huyền bí: “Cứ về đêm, mọi âm thanh của
người và vật đều biến mất. Những con chó không sủa thành tiếng chỉ thấy mõm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
chúng ló ra, nhậm vào như hình ảnh trong giấc mơ”. Đó là một không gian ma ảo
chập chờn, chứa đầy hiện tượng kỳ lạ mà không ai có thể lý giải nổi.
Trong tác phẩm, Nguyễn Bình Phương đã sử dụng gam màu sáng lạnh
của sương khói, của mồ mả và âm thanh dồn dập, xối xả của những cơn mưa
dữ gợi cảm giác về sự huỷ diệt tàn khốc. Tưởng như một cơn đại hồng thủy
sắp ập tới làng Phan. Vạn vật, con người và sự sống đều bị đẩy xuống vực
thẳm chết chóc: “Đang trưa, tự dưng doi đất bồi dưới chân cầu Linh Nham
nứt toác, sâu hoắm, không ai đến gần”, “Trời vàng rực sau lớp rừng cháy tơ
tướp đang cố sức hồi sinh”, “Ngày 17, dòng Linh Nham bị sạt lở hàng chục
mét”, “Ngày 21, nước sông Linh Nham cạn sạch”, “Cánh rừng sau làng Phan
bỗng nhiên xao động, hai bên bờ sông ngày càng toát ra và tiếng kêu kỳ lạ cứ
rú rít lạnh người”, “Những cánh đồng trở nên héo rũ, cây cối, đá sỏi tan rữa
thành tro bụi, không thể trồng gì trên đó...”. Dường như cái chết đang rình
rập, xâm lấn, hủy diệt sự sống và cõi sống.
Với Thoạt kỳ thủy Nguyễn Bình Phương đã tạo nên một không gian
mang tính biểu tượng về một cõi hỗn mang từ một địa danh xác thực là làng
Linh Sơn, không xa Đồng Hỷ Thái Nguyên là mấy: “Bên rặng bạch đàn rì
rầm đen, những đám sương loé sáng. Từng luồng trắng vươn đến, uốn cong,
va chạm rồi ngả ra, sáp lại, quằn quại, rạp xuống, xắn bện thành một mớ hỗn
độn, bùng nhùng” [6;36]. Hình ảnh Núi Hột thật khủng khiếp: “Quả núi bị vẹt
một nửa, trông như cơ thể mất thịt, lộ ra màu trắng pha chút đỏ của máu”
[6;12], hoặc: “núi ở trên đầu, một khối nhọn hoắt đâm vào cổ lợn” [6;50]. Ở
đó có hàng đàn hang dơi ẩn hiện bay qua bay lại như những bóng ma giữa các
nhũ đá óng ánh.
Âm thanh của núi rừng: “Gió từ núi Hột mang đến những tiếng rì rầm
man dại” [6;54].
Và toàn cảnh thiên nhiên chứa đầy ám khí: “Ao Lang đen thẫm, lầm lì,
bí ẩn như khuôn mặt người câm” [6;41].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Không gian núi rừng ma quái bí ẩn đã trở thành nỗi sợ hãi, triền miên,
ám ảnh các nhân vật: “Khi về, trời đã khuya ông Phùng thấy bên kia sông dân
xóm Soi đi thành vòng tròn trắng đục ma quái” [6;25] rồi “Bè vó ông Bồi lập
lòe sáng. Sương loãng ra. Bên kia sông, bóng người gánh nước chập chờn”
[6;65].
Khi Nguyễn Bình Phương bước vào nghề văn, Thái Nguyên đã có
“điện, đường, trường, trạm”, không còn lạc hậu so với trước đó và so với
nhiều miền đất khác. Linh Nham cũng chỉ cách thành phố một cây cầu, một
dòng sông, không còn u tối nữa. Vậy tại sao Nguyễn Bình Phương lại viết về
Thái Nguyên hoang dại kỳ bí như thế? Có lẽ đây là cảm quan nghệ thuật ẩn
sâu trong tâm thức của nhà văn. Sinh ra và lớn lên ở vùng đất Thái Nguyên –
một vùng trung du đồng bằng Bắc bộ, thời chiến tranh nhà văn cùng gia đình
sơ tán về xã Linh Nham, huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Mảnh đất đó xưa kia
là vùng núi đá khi dựng đứng khi nhấp nhô dàn trải với dòng sông hoang
vắng, núi rừng thâm u với những câu chuyện kỳ bí về con người, thiên nhiên.
Có lẽ, dáng vẻ thiên nhiên cùng những giai thoại về không gian núi rừng trở
thành nỗi ám ảnh kích thích trí tưởng tượng của nhà văn. Và những cái tên núi
Rùng, Linh Sơn, núi Hột... với những dáng hình kỳ lạ cứ trở đi trở lại trong
các sáng tác của nhà văn. Song, điều quan trọng là dựng nên không gian rừng
núi hoang vu kỳ bí, Nguyễn Bình Phương có điều kiện thể hiện những quan
niệm nghệ thuật về hiện thực và con người.
Trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, người ta bắt gặp những không
gian nghệ thuật khác với không gian của Nguyễn Bình Phương: không gian
mờ ảo lung linh trong Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà và Chinatown
của Thuận mang tính cá nhân hóa, phản ánh tâm linh của từng nhân vật.
Trong Cơ hội của Chúa, “mỗi nhân vật bị ám ảnh bởi một không gian mang
sắc màu tính cách và số phận riêng biệt” [25;96]: Hoàng với không gian linh
thiêng của nhà thờ, của chúa Jesus; Tâm với không gian đô hộ, thương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
trường; Thủy với không gian học trò và những day dứt vì không thể níu giữ
nổi mối tình đầu thơ mộng đã qua...
Tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương xuất hiện nhiều không gian rừng
núi. Nói tới rừng là người ta liên tưởng tới sự tối tăm, hoang vu và rậm rạp
nên “nó tượng trưng cho vô thức. Đi vào rừng là hành trình bước vào thế giới
vô thức – bản năng của con người ” [14;786]. Không gian rừng núi là cái nền
để Nguyễn Bình Phương phản ánh hành trình ấy có khi là sự vật lộn giữa sự
sống và cái chết, phản ánh cuộc tranh đấu của con người với dục vọng của
chính mình, phản ánh hậu quả của những ảo tưởng về giàu sang.
1. 1.3. Không gian chập chờn trong cõi vô thức
Khái niệm vô thức theo Từ điển tiếng Việt là “những suy nghĩ, cảm
giác ở ngoài ý thức, là những gì bản thân con người hoàn toàn không ý thức
được” [38;98].
Theo Tâm lí học:
Chủ thể của vô thức là “tập hợp các quá trình hình hành động và trạng
thái mà chủ thể không ý thức được xuất xứ của chúng”.
Đối tượng khám phá và chiếm lĩnh của vô thức là “hình thức khám phá
tâm lí trong đó hình ảnh của hiện thực và thái độ của chủ thể đối với hiện thực
cấu kết với nhau thành một thể thống nhất hòa nhập” [17;6].
Các dạng tồn tại của vô thức là thói quen và những trạng thái không thể
giải thích được như mộng du, mê sảng hay những hành động không biết trước
và không kiểm soát được.
Lí thuyết Phân tâm học quan niệm vô thức là vùng chứa toàn bộ những
nhu cầu bản năng bị dồn nén, cấm kị, không được phát lộ ra ngoài “là những
lục địa tiềm ẩn, chôn vùi, dấu kín ngay trong mỗi chúng ta” [24;16]. Freud
đặc biệt coi trọng biểu hiện của vô thức qua những giấc mơ bằng cả một hệ
thống biểu tượng giải mã và những hành vi sai lạc, chủ yếu là những trạng
thái mộng mị, mê sảng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Từ những khái niệm cơ bản về vô thức, có thể khái quát như sau:
- Vô thức là lĩnh vực thuộc về tinh thần mang đậm dấu ấn của tâm linh, dự
cảm. Nó nằm ngoài sự kiểm soát của ý thức, nó thể hiện miền sâu tâm lí của
con người. Vô thức thường xuất hiện trong trạng thái chấn động tinh thần,
tâm lí...
- Vô thức biểu hiện ở các dạng thức: mộng mị, giấc mơ, trạng thái mê
sảng, những ẩn ức hay sự kiềm chế bản năng, những dục vọng, bản năng
nguyên thủy của con người.
Trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương có những miền không gian
trong cõi vô thức: không gian của những giấc mơ, không gian dự cảm, không
gian tâm linh. Không gian của vô thức thường được hiện lên qua dự cảm về
ngày tận thế, về lời sấm truyền ngày tận thế, về sắc màu đỏ của máu và chết
chóc trong Thoạt kỳ thủy. Nhìn không gian thủa Thoạt kỳ thuỷ, ta nhận thấy:
“Nắng thoi thóp đỏ quạch rọi vào mặt” và “Dòng sông khựng lại. Nó bị kéo
lên như tấm vải... và dòng sông bị dứt khỏi đôi bờ” [6;161].
Không gian bóng tối đi vào vô thức của Linh Sơn, trong mối quan hệ
giữa con người với con người và “trong từng âm thanh, màu sắc, chuyển động
của tự nhiên” [17;20]; “Linh Sơn nhiều người điên, họ hay tụ tập ở cột số hát
í a” [6;16] và “chó tru ằng ặc. Những người điên cũng tru ằng ặc” [6;107].
Có thể nhận thấy biểu hiện của không gian cõi vô thức qua các yếu tố
không gian mang ý nghĩa tâm linh của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương qua
bảng tóm tắt sau:
Bảng1.3. Khảo sát yếu tố không gian mang ý nghĩa tâm linh
trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
Tên tác
phẩm
Không gian
Những đứa
trẻ chết già
- Khi hai ngôi mộ của gia đình cụ Trường được chôn nơi đỉnh
đồi lập tức có con chim đen ập về sinh sống, bay lượn cho đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
khi kho cửa được mở.
Người đi
vắng
- Sáng cả vùng thức dậy đã thấy vết chân ngài in trên đá. Lạ
một nỗi vết chân mới in nửa đêm về sáng đã lạnh ngắt như
hàng nghìn năm.
- Ngài giáng là có chuyện nhưng lần này chẳng biết lành hay
dữ. Lần ngài về gần đây nhất là năm Ất Tị, năm ấy ông Đội
Cấn làm cuộc binh biến, cả Thái Nguyên chao đảo, sông Cầu
rống suốt đêm... Giờ ngài lại về, một cái gì đó đang đến.
- Thái Tuế xuất hiện: Đất quặn lên, tụt hẫng xuống sàng sang
hai bên... Bầu trời vụt tối sầm lại, một tiếng thét của ai đó như
âm thanh trầm trầm kéo dài xuống hố móng... đúng chỗ tay
thợ vừa bổ cuốc xuống, một cái bọc lùng nhùng trồi lên lớp da
nhẵn màu đất sét. Cái xác thịt đó lớn dần dần, chảy tràn sang
hai bên phủ kín mặt móng và bắt đầu dâng cao như một khối
bùn lỏng. Khi tiếng trầm trầm tắt đi, ánh sáng tăng một độ trở
về bình thường. Tất cả mọi người đều giật mình kinh hãi. Cái
móng biến mất. Mặt đất bằng phẳng như cũ, như chưa hề bị
đào xuống sâu gần một mét.
Thoạt kỳ
thủy
- Không khí mù mịt, cuồn cuộn. Tiếng đập tràn lan khắp nơi
khô khốc, lanh lảnh, triền miên bất tận.
- Trời nắng, xám, mê man như người hấp hối.
Ngồi
- Ở bờ nước sát với mép vườn nhà Trương có một vùng sáng
kỳ lạ, nó long lanh, rờn rợn như có tấm gương hắt từ dưới đáy
hồ lên. Đó chính là tinh rồng.
Trí nhớ suy
tàn
- Ba vạch lượn song song xuất hiện.
Như vậy, cả năm cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương đã khảo
sát đều có không gian tâm linh, không gian của cõi vô thức, mơ hồ, vô hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
nhưng vẫn tồn tại trong thế giới tinh thần của con người. Nguyễn Bình
Phương đã sử dụng yếu tố kỳ ảo để khám phá thế giới tâm linh bí ẩn đó.
Theo Từ điển tiếng Việt (NXB KHXH – 1991) định nghĩa: “Tâm linh
là khả năng đoán trước được việc nên xảy ra theo quan niệm duy tâm”.
Trong bài viết về Một phương diện đổi mới trong quan niệm nghệ thuật
về con người trong văn xuôi từ sau năm 1975, Nguyễn Thị Bình cho rằng:
“Tâm linh có thể có sự tham gia của ý thức, nhưng thường là với một vai trò
không thật rõ rệt. Toàn bộ cái đời sống bên trong gắn với tín ngưỡng, niềm
tin, những thế lực siêu hình cùng các mối quan hệ bí ẩn của con người, những
sức mạnh thuộc về “linh giác”, “trực cảm”, những khả năng kỳ lạ khoa học
chưa giải thích được nhưng có thể diễn tả bằng nghệ thuật, những xúc cảm về
cái linh thiêng cùng những khoảnh khắc vụt sáng của toàn bộ tâm thức như có
sự mách bảo của một nhà thông thái vô hình, phải chăng đó là tâm linh ” [28].
Văn học nghệ thuật tìm đến với tâm linh như cách thể hiện quan niệm,
tư tưởng về con người và hiện thực một cách sâu sắc, toàn diện ở mọi khía
cạnh, đi sâu vào những vấn đề bí ẩn của loài người mà đến nay chưa có câu
trả lời chính xác. Tâm linh là yếu tố liên quan tới tâm hồn, tinh thần, trực
giác, linh giác, vô thức..., là một thế giới của niềm tin thiêng liêng mang màu
sắc tôn giáo đầy bí ẩn. Tâm linh thể hiện khát vọng tự hoàn thiện, khát vọng
tự giải thoát để tạo trạng thái cân bằng cho con người. Ngòi bút tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương đã đưa người đọc nhập sâu vào cõi tâm linh như một
con đường để chiếm lĩnh hiện thực, mảng hiện thực không thể trông, nhìn,
cầm, nắm trực tiếp mà chỉ có thể cảm nhận bằng “linh giác”.
Không gian của Những đứa trẻ chết già mang tính định mệnh, dự cảm
bất an và thể hiện sự tha hoá trong quan hệ giữa thiên nhiên và con người ẩn
hiện trong sự linh ứng của đất trời. Tính chất điềm báo: tự nhiên có con chim
đen đến bay lượn quanh ngôi mộ, có các sự kiện, hiện tượng đặc biệt bí hiểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
xảy ra... Vạn vật như đang đắm chìm trong thuở hồng hoang. Thiên nhiên,
con người như đang trên đường dẫn tới sự huỷ diệt.
Trong tiểu thuyết Người đi vắng: không gian có sự xuất hiện của vết
chân thần thánh, khung cảnh thay đổi khi Thái Tuế hiện hình, dự cảm điều bất
hạnh sẽ xảy đến với nhân vật. Ở đây, nhà văn đã miêu tả một hiện thực chứa
đầy điều kỳ ảo, một cuộc sống thường nhật chất chứa sự hoang đường. Từ
xưa tới nay, trong quan niệm của nhân dân ta thì Thần Thánh là một hiện
tượng thuộc về đời sống tâm lí, được mọi người sùng kính và tôn thờ. Thái
Tuế được coi là ông vua cai quản một vùng đất. Thái Tuế khi xây nhà động
chạm tới long mạch của đất gợi một linh cảm về hậu quả khốc liệt giáng
xuống con người. Thái Tuế chính là biểu tượng cho sức mạnh thiêng liêng của
đất. Thiên nhiên có qui luật riêng của nó, con người không phải lúc nào cũng
có thể biến đổi thiên nhiên hay có sức mạnh phi thường bắt thiên nhiên phải
qui phục. Vì thế không gian vô thức trong Người đi vắng đã giúp nhà văn nêu
một dự cảm không lành về môi trường sống nếu con người xâm phạm thiên
nhiên một cách thô bạo, trắng trợn.
Không gian của Thoạt kỳ thuỷ luôn gắn liền với bầu không khí u ám,
sắc màu ảm đạm gợi ra viễn cảnh của cuộc sống âm u, lạnh lẽo hoang vu thời
tiền sử. Con người như đang sống trong cơn quặn mình hấp hối, mê sảng và
sắp đi đến chỗ diệt vong. Trong Ngồi, không gian chập chờn trong cõi vô thức
của nhân vật Khẩn, Kim... cho ta cảm giác về một sự khác lạ, ma quái đang
diễn ra giữa thế giới của đời sống thực.
Trí nhớ suy tàn có một không gian siêu thực, không gian được cảm
nhận qua tâm tưởng, qua những trải nhiệm cá nhân; đó là một không gian
được thể hiện qua ảo giác của một cô gái. Ở đó có một mê cung với nhiều ngã
rẽ, nhiều con đường cứ mờ ảo, chập chờn. Từ đó, ta thấy mỗi người tồn tại
như một cá nhân nhỏ bé trôi dạt giữa dòng đời mênh mông, vô tận.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
“Ngày bé đã từng lạc ở khu phố cổ, chưa đến mức đi hết ba mươi sáu
phố phường nhưng cũng loanh quanh hàng tiếng đồng hồ trong Hàng Mã,
Ngõ Gạch, Hàng Đồng. Khu phố cổ là một sơ đồ chập chờn uẩn khúc giam
giữ bao nhiêu người già với những ký ức phiền não, giam giữ cho đến chết
mới thả họ ra tựa chiếc lá bàng khô đột ngột hiện ra từ miệng cống. Những ký
ức phiền não quẩn quanh trong những bức tường tróc lở rêu phong” [5;11].
Qua không gian vô thức trong Trí nhớ suy tàn, Nguyễn Bình Phương đã
đề cập đến phương diện đa chiều của cuộc sống thường nhật. Có lúc do áp lực
nào đó, người ta rơi vào sự bế tắc, vô hướng, vô nghĩa và cảm giác chập chờn,
ngột ngạt, nhất là trong cuộc sống đô thị. Trong không gian huyền ảo của
những giấc mơ, những phức tạp trong suy tưởng, nhân vật "em" lạc trong bầu
không khí đan xen hoài niệm quá khứ - hiện tại nhập nhoà gây ảo giác lẫn lộn
giữa hư - thực. Từ đó, nhà văn nói được nhiều hơn, thấm thía hơn nỗi cô đơn
của nhân vật.
Tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương hướng về một không gian
bao la, lành lạnh của dòng sông. Ở đó nhân vật Khẩn tự thấm thía sự tồn tại
mong manh của mình: “Sông Hồng lạnh lùng mê mải với hành trình của mình
như nó đã từng chảy hàng ngàn năm trước để cuốn trôi mọi thứ về không gian
khác, thời gian khác. Khẩn nổi da gà khi nghĩ mình chỉ là một chấm nhỏ, vô
cùng nhỏ trên hành trình dài dằng dặc của con sông này” [7;136].
Bên cạnh đó còn có không gian của truyền thuyết: truyền thuyết tinh
rồng “Liên kể quanh khu vực hồ này từ lâu đã truyền nhau về một huyệt đất
chứa tinh rồng, ai táng được mả người nhà vào đấy sẽ phát... Cứ rằm nguyên
tiêu là có một chấm sáng vàng hiện ra trong làn nước ấy. Chấm sáng di
chuyển liên tục cho tới khi có ai dùng nơm úp trúng thì nó sẽ dừng lại. Chỗ đó
chính là nơi huyệt táng” [7;212].
Thụy Khuê trong bài “Thế tĩnh tọa trong tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn
Bình Phương” nhận xét: “tiểu thuyết “Ngồi” dựa trên sự bất định trong một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
không gian ảo” [32]. Đúng vậy, không gian mà tác giả tạo dựng trong tác
phẩm đa phần là không gian của suy tưởng, không gian của những giấc mộng,
không gian của truyền thuyết... tất cả chập chờn mờ ảo trong cõi vô thức của
các nhân vật. Tính không cản trở của không gian kỳ ảo đã tạo điều kiện cho
thế giới nghệ thuật của nhà văn biểu hiện được tận cùng mọi ý nghĩa của cuộc
sống dương thế. Không gian vừa như một thực thể hữu hình, vừa như vô hình
tồn tại trong tâm tưởng con người. Con người có thể sống một lúc trong nhiều
không gian khác nhau (âm – dương, thực - ảo), nhiều khi không xác định
được rõ nét ranh giới của nó. Không gian ảo đưa con người vào sâu thế giới
vô thực để từ đó tăng cường khả năng cảm nhận hiện thực cuộc sống và chính
bản thân mình.
Không gian nghệ thuật có thể xem như “một quan niệm về thế giới và
con người, một phương thức chiếm lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm
xúc và khái quát tư tưởng thẩm mĩ của nhà văn” [44;67].
Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương mở ra những miền không gian mới.
Nhà văn đã chủ ý giảm bớt sắc màu không gian hiện thực, gia tăng các yếu tố
kỳ ảo để tạo dựng không gian âm giới, không gian rừng núi huyền bí, không
gian tâm tưởng, mở ra nhiều chiều, nhiều kích cỡ, trạng thái khác với không
gian thực. Từ những bình diện không gian mới, nhà văn đã tìm đến những con
đường khác nhau để lý giải cuộc sống, khám phá tình trạng hiện sinh của con
người.
1.2. Thời gian biến ảo
Thời gian nghệ thuật là phạm trù đặc trưng của văn học, là hình thức
cảm nhận thế giới của con người với một quan niệm nhất định về thế giới.
Thời gian nghệ thuật được thi pháp học hiện đại định nghĩa: “Thời gian nghệ
thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với
tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều thời
gian hiện tại, quá khứ hay tương lai. Thời gian nghệ thuật do được sáng tạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
nên mang tính chủ quan, gắn với thời gian tâm lí. Nó có thể kéo dài hay rút
ngắn thời gian thực tế. Nó có thể đảo ngược hay vượt tới tương lai” [44;77].
Cũng giống như không gian nghệ thuật, sự hiện diện và chi phối của
yếu tố kỳ ảo đã đem đến cho thời gian nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn
Bình Phương những đặc trưng riêng – thời gian biến ảo.
Biến ảo là “biến hóa không biết đâu mà lường” [38;78]. Thời gian biến
ảo là thời gian vận động biến hóa khác thường, đó là thời gian tuyến tính đan
xen thời gian phi tuyến tính (Thoạt kỳ thuỷ, Người đi vắng), thời gian nhập
nhoà trong cõi vô thức (Trí nhớ suy tàn, Ngồi)... Đó không phải là thời gian
khép kín mà là thời gian có sự vận động linh hoạt, đan xen nhiều yếu tố.
1.2. 1. Thời gian hƣ ảo, phi tuyến tính, không xác thực
Một trong những đặc điểm của việc đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu
thuyết là sự xuất hiện của thời gian phi tuyến tính bên cạnh dòng thời gian
tuyến tính. Thời gian trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương là sự pha
trộn, đan xen của cái kỳ ảo trong quá khứ và hiện tại. Thời gian được mơ hồ
hóa tạo nên tính chất hư ảo, góp phần tạo không gian kỳ ảo trong tác phẩm.
Những đơn vị thời gian và những mốc thời gian thường mang tính chất mơ
hồ, không xác định.
Thoạt kỳ thủy có dòng thời gian về cuộc đời của con cú, biểu tượng sức
mạnh tăm tối của cõi âm. Dòng đời của nó diễn ra trong 45 phút với từng thời
điểm xuất hiện: “Lông hoa mơ, sải cánh dài 40 phân. Mỏ khoằm, sắc... 11giờ
45 phút con cú giật mình rơi từ vòm lá xuống ”, “11 giờ mười bảy, dòng sông
trườn dưới bụng con cú mèo. Những chiếc móng ngâm nước có cảm giác.
Con cú thở nhè nhẹ. Đôi mắt mở to, tròn, dửng dưng, vô cảm. Trong đôi mắt
ấy thấp thoáng bóng cành sung già, lá xanh thẫm”, 11 giờ 20, 12 giờ kém 19
phút... 12 giờ con cú hít một hơi dài bay đi mất. Con cú được miêu tả bằng
năm đoạn văn, từ khi nó rơi xuống nước đến khi bay lên được. Tại sao lại là
cú mà không phải là một loài chim khác? Bởi “cú vốn được xem là hoá thân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
của đêm, mưa, bão tố, nó cũng có mối dây liên hệ mật thiết với các yếu tố
thuộc về vô thức: nguyệt (trăng), thổ (đất)” [34;20]. Con cú hiện diện với từng
thời điểm cụ thể chính xác đến từng phút, từng giờ song lại không biết xảy ra
vào ngày, tháng năm nào. Thời gian tưởng như cụ thể mà lại không xác định.
Thời gian hư ảo, không xác thực ấy đã đưa người đọc vào trạng thái bất định.
Người đọc không thể xác định được thời gian diễn ra câu chuyện, đó là câu
chuyện từ thuở “thoạt kỳ thuỷ” nhưng không biết là vào giai đoạn nào, vào
năm nào.
Quãng thời gian của con cú xuất hiện song song với cuộc đời của nhân
vật Tính cùng với lịch sử sinh ra và mất đi của cả một ngôi làng.
Trong tiểu thuyết Người đi vắng có sự chồng chéo của các lớp thời gian
quá khứ và hiện tại. Thời gian hiện tại chủ yếu là câu chuyện về gia đình
Thắng. Thắng là một công chức nhà nước có gia đình ở quê với đông đủ anh
chị em. Thắng lấy vợ là Hoàn và sống ở thành phố cùng gia đình nhà vợ.
Hoàn làm diễn viên của một đoàn chèo, tuy có chồng nhưng cô vẫn có quan
hệ tình cảm riêng tư với Cương – một đồng nghiệp. Sau một buổi giỗ mẹ
Thắng, hàng loạt các biến cố xảy ra: chuyện xây nhà dưới quê bị động mạch,
Hoàn bị tai nạn, Sơn – em trai Thắng chết, rồi Thắng có quan hệ với Thư –
người bạn gái thân thiết, người làm cùng cơ quan với Hoàn.
Thời gian quá khứ có hai mảng đan xen, đó là chuyện về cuộc khởi
nghĩa Thái Nguyên của Đội Cấn và chuyện về hành trình của Diên Bình công
chúa “Nàng rùng mình khi nghĩ rằng sẽ ở đây vĩnh viễn. Nàng bị bứt ra khỏi
vườn ném vào giữa đại ngàn hoang dại... Nàng thở dài, nỗi ấm ức dâng lên,
dâng lên nữa và những ngọn núi nhòe đi rủ xuống méo xệch rùng rinh. Nàng
khóc. Đó là một ngày mờ nhạt nhất của năm 1127”.
Sự đồng hiện giữa thời gian hiện tại với thời gian huyền thoại, thời gian
lịch sử tạo ra không khí hư ảo cho tác phẩm. Khi thời gian thực tế ào ạt chảy,
thời gian lịch sử từ từ trôi qua trong từng giây từng phút.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
Trong tiểu thuyết Ngồi kể về nhiều sự kiện, hiện tượng hư ảo. Mỗi sự
kiện ấy được huyền thoại hóa cho một giai đoạn, thời đại lịch sử cụ thể. Nhắc
tới nó người ta nhớ ngay về một thời điểm của quá khứ hay lịch sử mang màu
sắc tôn giáo. Mở đầu câu chuyện là “hình ảnh cột trụ đồng là biểu tượng của
thời Giao Chỉ, dáng hình của người đàn bà lưng ong tay vượn, núm vú chảy
dài gợi cho ta nhớ về thời bán sơ khai. Tiếp theo, tiểu thuyết nhiều lần nhắc
đến ngôi chùa với người ni cô có dáng bồ tát, đến cuộc đời bất hạnh của
người đàn bà coi đền mang dáng dấp của sự tích Phật giáo. Nhà văn kể đến
những dấu ấn của truyền thuyết thời xưa, về vị pháp sư già bày và phá trận
huyền đồ bát quái trong giấc mơ của Khẩn, hình ảnh chữ "Niểu" với mười
tám con rắn bay lượn và truyền thuyết tinh rồng cùng cơn cuồng phong trong
đám ma bà ngoại Nhung tạo cho người đọc có cảm giác đang sống lại thời
binh thư trận mạc kéo dài hàng mấy thế kỉ, trở về với truyền thống Hán học,
nền thư họa và sau cùng là dấu tích của thuật phong thuỷ” [32]. Những sự
kiện, hiện tượng diễn ra lần lượt cũng gợi ra sự trôi chảy của dòng thời gian
từ từ từng chặng, từ quá khứ đến hiện tại.
Bằng việc sử dụng thời gian huyền thoại hoá, Nguyễn Bình Phương đã
gợi lên một lịch sử dân tộc với bề dày quá khứ và văn hóa.
Hay trong Những đứa trẻ chết già, thời gian quá khứ được cụ thể hóa
song lại mang đầy yếu tố mờ ảo, huyền kỳ. Tới 16 lần thời gian được nhắc
đến với giờ giấc cụ thể đến từng phút, từng mùa nhưng không rõ vào năm
nào, thời đại nào và luôn mang tính chất điềm báo, định mệnh:
“Ngày 21, sông Linh Nham cạn sạch. Ao nhà bà Liêm tự dưng đầy ắp
nước, trong ao có con cá trê đỏ to bằng bụng chân, mắt mù, đuôi dài như
chiếc khăn phu la” [3;86]
“Giờ Thìn, phía sau quả đồi nhà lão Liêm có tiếng kêu dài và lạ. Tiếng
kêu ấy không biết của người hay thú” [3;267]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
“Giờ Ngọ cùng ngày, trời trở lạnh dữ dội, cá ở sông Linh Nham chết
nhiều vô kể. Có hai cây cổ thụ trong làng tự dưng đổ ập xuống cùng một lúc
và tan ra thành bụi” [3;267]
“Giờ Thân, vết chân thú in ở mặt đá trong ngôi miếu nhà cô Nguyệt tự
dưng ứa máu đầm đìa” [3;267] ...
Thời gian được cụ thể, chính xác đến từng giờ từng phút song lại gây
cảm giác mơ hồ không xác định cho độc giả. Thời gian dường như cũng hoà
chung trong dòng chảy biến hoá khôn lường của không gian để tạo ra ấn
tượng về một thời xa xưa, một miền xa vắng chứa đầy những sự kiện, hiện
tượng kỳ ảo.
1.2.2. Thời gian trong cõi vô thức
Trong Những đứa trẻ chết già có nhân vật được tác giả gọi bằng cái tên
chung là “ông”. Nhân vật “ông” thường ngược dòng về những câu chuyện của
quá khứ. Các lớp thời gian quá khứ cứ chồng chất đan xen lẫn nhau làm
người đọc như lạc vào mê cung của quá khứ, của tâm tưởng, kí ức. Thời điểm
thường được nhắc tới là hoàng hôn, thời điểm giáp ranh sáng tối, lúc đó mọi
sự vật, hiện tượng được soi rọi bởi thứ ánh sánh le lói sắp tắt của ngày tàn,
bởi không khí trầm buồn, hoàng hôn miền trung du rề rà, mệt mỏi.
Trong tiểu thuyết Người đi vắng quãng thời gian mà Hoàn bị hôn mê
sau vụ tai nạn trở thành “thời gian trắng”. Từ lúc ngã xe, bất tỉnh, Hoàn đã
hoàn toàn lạc vào thế giới của vô thức. Trong đó, cô tìm lại với quá khứ tuổi
thơ, kỉ niệm ngày cưới và những giây phút thời gian dừng lại ở kiếp trước, ở
kiếp sau của chính mình. Nơi đó, Hoàn đã sống bằng tâm tưởng, chiêm
nghiệm... Trong ký ức của Hoàn không gian hầu như đã bị tẩy trắng, ý thức
về thời gian không còn tồn tại: “không thời gian, không mùa” hay “bóng tối
vít thời gian lại, đóng đinh nó lên những cành sung và tất cả đều ẩm ướt, ảm
đạm”. Nếu còn chút ý thức mơ hồ về thời gian, nhận thức cũng bị xáo trộn
“Mỗi lần Hoàn chớp mắt cô gái lại thay đổi vị trí, từ lúc im lặng chuyển sang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
đung đưa rồi những ngón chân co giật tuyệt vọng. Hoàn chớp mắt liên tục, cô
gái dứng trên chiếc ghế đẩu với sợi dây tròng qua cổ, mắt mở to điên dại mịt
mù trong màu đen... Cô gái úp mặt xuống giường răng cắn chặt gối... Hoàn
ngừng chớp mắt vì không muốn đi sâu vào cuộc đời người khác” [6;78].
Thời gian trong cõi vô thức đưa Hoàn trở về với những mảng ký ức xáo
trộn, rời rạc. Có khi Hoàn nhập vào cuộc đời của một cô gái treo cổ tự tử vì bị
người tình phụ bạc. Lúc này thời gian dường như được kéo căng như một sợi
dây để người đi trên đó thấm thía đến tận cùng cảm giác kinh hãi về số phận
mỏng manh của chính mình. Trong cõi vô thức, khi chạy trốn vào tiền kiếp,
nhân vật Hoàn còn gặp nhiều nhân vật khác là những bóng ma chập chờn (cô
gái tự tử vì người yêu phụ bạc, người đàn bà xa lạ, con mèo được tạc vào
nước, hàng trăm khuôn mặt biến ảo...).
Bên cạnh đó còn có thời gian bị tẩy trắng hoàn toàn. Khi nhân vật Yến
- em chồng của Hoàn - lên thành phố để chăm sóc Hoàn, Yến dần dần đánh
mất khái niệm về thời gian, cô chỉ cặm cụi với những trang sách và nghiện
mùi cồn ở bệnh viện. Với cô, thời gian không còn có một ý nghĩa nào. Cô
luôn đắm chìm trong những câu chuyện về bi kịch tình yêu của tiểu thuyết
tình ái. Cô sống giữa cuộc đời thường nhật mà như tồn tại giữa một thế giới
xa lạ, ảo ảnh. Yến trở nên vô cảm, thờ ơ với những người thân thiết trong gia
đình mình. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh “chiếc xe cứu thương chở xác của
Sơn không ghé vào bệnh viện mà cứ chạy đều đều, vô cùng tận mang theo cả
Yến với trạng thái ngây ngất khoan khoái” [4;383].
Thời gian trong cõi vô thức đã mất tính khách quan của nó, trở thành
phương tiện phản ánh sự trôi dạt miên man của tâm thức con người. Dòng
chảy tuyến tính của thời gian bị phá vì bởi sự xuất hiện của các mảng quá
khứ, ký ức. Điều đó phù hợp với việc diễn tả tâm thức của con người trong
tình trạng hôn mê, tạo nên khung cảnh huyền ảo làm nền cho nhân vật hư ảo
xuất hiện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
Nhân vật “em” của Trí nhớ suy tàn luôn sống với hoài niệm, chìm sâu
trong kí ức - nơi có hình ảnh cây bằng lăng, con đường, có hình ảnh của
người bạn trai cũ. Nhân vật hiện tại mà lại sống bằng thời điểm của ngày xưa,
tồn tại giữa cuộc đời thực mà như hư ảo, mộng mị. Trong dòng thời gian trôi
nổi nhiều chiều, lang thang trong tiềm thức kiếm tìm những điều mới mẻ, cô
gái ấy dần dần lãng quên đi cả thực tại và cả quá khứ đầy kỉ niệm. Tất cả rơi
rụng, cô rơi vào trạng thái “Trí nhớ suy tàn”.
Trong văn học đương đại, các nhà văn rất chú ý đến việc tạo ra những
kiểu không gian, thời gian khác biệt so với truyền thống. Sử dụng nhiều yếu
tố kỳ ảo trong việc khắc hoạ hình tượng không gian, thời gian, họ không chỉ
nhằm mục đích “lạ hóa” hấp dẫn thị hiếu độc giả mà ở đây còn có một dụng ý
khác. Theo Hoàng Cẩm Giang “thông qua bút pháp kỳ ảo, các tác giả rất có ý
thức làm dày tác phẩm bằng những trầm tích văn hóa dân tộc và nhân loại và
đồng thời cũng thể hiện một cảm quan thực sự về nhân sinh, về thế giới”
[25;100].
Nguyễn Bình Phương xây dựng không gian, thời gian kỳ ảo như một
phương tiện để thể hiện những vấn đề về nhân sinh, về thế giới. Việc ảo hoá
không gian, thời gian để tạo ra tính huyền kỳ cho câu chuyện đã giúp tác giả
mở rộng, khơi sâu thế giới nghệ thuật của mình, cũng đồng thời mở rộng khả
năng phản ánh hiện thực của tác phẩm. Sự lồng ghép, đan xen của yếu tố kỳ
ảo trong không gian và thời gian nghệ thuật giúp nhà văn phản ánh sâu sắc
một hiện thực đầy bất trắc có thể xảy ra và gợi lên những ám ảnh về số phận
con người. Trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, không gian và thời
gian có mối quan hệ tương ứng. Ứng với không gian mang sắc màu địa phủ,
âm giới, không gian núi rừng hoang vu là thời gian phi tuyến tính, không xác
thực; ứng với không gian chập chờn trong vô thức là kiểu “thời gian trắng”,
thời gian xáo trộn trong cõi vô thức. Không gian mang sắc màu âm giới, hay
núi rừng hoang vu mang đậm những yếu tố hư ảo tương ứng với thời gian bất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
định, không xác thực. Không gian biến đổi lúc hư lúc thực và kéo theo nó là
dòng thời gian cũng biến hoá nhiều chiều đa dạng, phức tạp; vừa cụ thể vừa
khái quát, vừa thực tế vừa mơ hồ. Chú ý xây dựng không gian không xác thực
và thời gian phi tuyến tính, nhà văn đã tạo nền cho sự xuất hiện của các nhân
vật kỳ ảo trở nên khác lạ hơn, ám ảnh hơn.
Sử dụng kiểu không gian, thời gian kỳ ảo là một dụng ý nghệ thuật của
Nguyễn Bình Phương nhằm khám phá thiên nhiên, khám phá thế giới tinh
thần của con người. Tác giả đi sâu vào nhận thức về mối quan hệ giữa con
người với thiên nhiên, mối quan hệ xã hội của con người và mối quan hệ
trong mỗi bản thể con người: đề cập đến những vùng sâu kín nhất của con
người là ý thức, vô thức và tâm linh. Với cách xây dựng không gian, thời gian
kỳ ảo, Nguyễn Bình Phương đã phủ nhận cách đọc hiểu giản đơn về tác
phẩm, đòi hỏi người đọc phải suy ngẫm nhiều hơn. Đó cũng là cách nhà văn
thể hiện niềm tin vào năng lực tiếp nhận văn học và khả năng “đồng sáng
tạo” của độc giả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
Chƣơng 2
NHÂN VẬT KỲ ẢO TRONG
TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, khái niệm nhân vật được định nghĩa là
“con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học... một đơn vị nghệ
thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người thật trong đời
sống... thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con
người... luôn gắn chặt với một chủ đề tác phẩm” [34;126]. Nhân vật luôn là
trung tâm của sáng tác văn học, là hình chiếu tư tưởng và năng lực nghệ thuật
của nhà văn. Trong sự biến đổi của kỹ thuật dòng tiểu thuyết đương đại (cấu
trúc lắp ghép phân mảnh, sự luân chuyển ngôi kể, đa dạng hóa các loại giong
trần thuật...) xu hướng xây dựng hình tượng nhân vật cũng thay đổi. Các tác
giả Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Thuận, Nguyễn Việt Hà ... ít chú ý lấy nguyên
mẫu của nhân vật trong đời sống mà thiên về hướng “mờ hóa, vô danh hóa”.
Họ thường “dị hoá” nhân vật về hình thức và tính cách. Nguyễn Bình Phương
cũng xóa bỏ khoảng cách giữa cái bình thường và cái dị biệt “cái không bình
thƣờng dễ dàng đƣợc chấp nhận và trở thành cái nhật thƣờng, đó là bút
pháp nghệ thuật của Nguyễn Bình Phƣơng khi xây dựng các nhân vật kỳ
ảo” [43;53]. Với quan niệm: “không xây dựng những nhân vật điển hình”,
Nguyễn Bình Phương đã mạnh dạn đổi khác so với cách xây dựng nhân vật
của tiểu thuyết sử thi trước đó. Nhà văn tạo nên hệ thống nhân vật mang tính
đặc thù: nhân vật người điên, nhân vật hư ảo, nhân vật biến hình, nhân vật
chuyển kiếp, nhân vật ma quái.
Trong văn học trung đại, nhân vật kỳ ảo thường tồn tại dưới hình thức
bóng ma, oan hồn (trong Truyền kỳ mạn lục, Lĩnh Nam chích quái...). Đến văn
học đương đại, nhân vật kỳ ảo xuất hiện dưới các dạng tồn tại mới như Bào
thai trong Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh, Quang lùn, bé Hon trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Mai Trừng trong Cõi người rung chuông tận thế
của Hồ Anh Thái, Từ Lộ, Dã Nhân, Cá bơn trong Giàn thiêu của Võ Thị
Hảo... So với các cây bút văn xuôi hiện nay, Nguyễn Bình Phương có hướng
“đầu tư” nhiều hơn cho nhân vật kỳ ảo cả về số lượng và dạng thức biểu hiện.
2.1. Nhân vật ngƣời điên
Trong năm cuốn tiểu thuyết của nhà văn, cuốn nào cũng có nhân vật
người điên. Tiểu thuyết Thoạt kỳ thuỷ xuất hiện nhiều người điên; có khi là cả
một lũ điên, một làng “nhiều người điên”; khi là người điên ở hiện thực, cũng
có khi là bóng dáng của người điên trong vô thức... Có những người điên
hoàn toàn, có người chỉ điên từng lúc do bị “tàn khuyết về mặt tâm lý”...
Nghiên cứu về nhân vật người điên trong văn học, Đoàn Cầm Thi đã
khái quát thành hai loại nhân vật điên trong văn chương:
1. Kiểu điên – “vĩ đại” là “những bậc hiền triết chỉ tồn tại với thiên
hướng duy nhất là tra tấn vũ trụ và thời đại mình” như Don Quichotte của
Xecvantec hay Thằng Ngốc của Lỗ Tấn;
2. Kiểu điên – “con bệnh” là “hậu quả của sự ức chế, không thỏa mãn
về tình dục, tình yêu” như Nga trong Lá ngọc cành vàng của Nguyễn Công
Hoan và Thảo trong Người sót lại của rừng cười của Võ Thị Hảo... [47;39].
Nhân vật điên của Nguyễn Bình Phương không thuộc về hai loại trên.
Nhà văn sáng tạo thế giới nhân vật người điên của mình theo một bút pháp
riêng: không có kiểu điên - vĩ đại; người điên cũng không phải là “con bệnh”
reo hò nhảy múa man dại, hành động kỳ quặc vô lý... Nhân vật người điên của
Nguyễn Bình Phương vẫn có tâm hồn, có phần bản thể trong suy nghĩ và hành
động. Họ là những kẻ dị tật, tàn khuyết về tâm lý.
Đây là “những người điên” trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy:
Người bị tâm thần như Hưng do ảnh hưởng của chiến tranh. Người là
nhà văn bị nhiễm ảo tưởng về tài năng nghệ thuật của mình dần dần bị suy tổn
tinh thần. Nhân vật điên điển hình hơn cả là Tính. Tính có ngoại hình kỳ dị:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
“Tóc dài, lưng dài, chân ngắn. Lông tay đỏ hồng, ngón không phân đốt. Lông
mày nhạt, hình vòng cung ôm nửa mắt. Tai nhỏ, mồm rộng, răng cải mả.
Tiếng nói đục. Đi như vượn, ngồi như gấu” [6;7]. Khi mẹ mang thai Tính,
người cha trong cơn nghiện rượu đã đạp trúng bụng mẹ song bà không bị sảy
thai, Tính vẫn ra đời, nhưng đã phải mang một tâm hồn khuyết tật trong một
môi trường tha hoá. Tính lớn lên trong tiếng ngặm đít chén lách cách của cha
mỗi khi thèm rượu. Từ bé, Tính sợ hãi lẩn trốn ánh trăng, chỉ thích theo ông
Điện đi chọc tiết lợn, dần dần Tính thích nhìn thấy máu nên đã chọc tiết bao
nhiêu con lợn, cầm kéo đâm vào cổ thằng bé điên tới chết để thấy máu phun
ra thành những tia ở yết hầu của nó, rút dao đâm mạnh vào cổ ông Khoa...
Tính ngày càng trượt vào bản năng thú tính do cái vô thức điều khiển: “Bà
Liên đi sau lẩm nhẩm: Nó thành thú mất”; “bóng Tính lờ mờ, gù gù như bóng
đười ươi”. Tính cưới vợ, người con gái đẹp nhất làng nhưng vẫn không khỏi
điên. Khi Tính chết thì "người Tính nổi rõ, xanh lét, kỳ quái” [6;102].
Tính bị điên là do hậu quả của bạo lực ngay từ khi còn nằm trong bụng
mẹ. Biết đâu, Tính đã bị chấn động thần kinh từ lúc còn là bào thai. Lớn lên
hắn sống trong một môi trường đầy rẫy những con người bị bóp méo về tinh
thần. Xung quanh Tính: ông Phước nghiện rượu quanh năm chửi mắng vợ;
Hưng thương binh giả, "B quay"; ông Điện, ông Thụy chuyên nghề giết lợn;
ông Khoa kiếm sống bằng nghề hoạn lợn; bà Liên suốt đời nhẫn nhục, cam
chịu... Đó là môi trường bị nhiễm độc về tinh thần với đầy rẫy những căn bệnh:
bạo lực, hèn nhát, giả dối, vụ lợi, hoang tưởng... Tính “điên” từ môi trường bị
huỷ diệt ấy.
Kiểu điên của Tính khác các kiểu điên khác: “điên” mà vẫn tồn tại như
người bình thường, lao động kiếm sống, lấy vợ, sống cùng gia đình. Phần
điên trong con người Tính chỉ những người sống cùng Tính mới nhận biết
được. Mẹ Tính biết từ bé hắn đã thích giết công cống. Hiền vợ Tính biết
chồng thích chơi với đám người điên gồm lão già điên, cô gái Thổ, mụ điên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
và thằng bé điên. Lớn lên, không biết chữ, Tính làm nghề đập đá, khi đập đá,
Tính lại tưởng mình đang được giết: “Đá này, sống lại này. Đá này, sống lại
này” đập đá mà nhìn thấy máu. Tính luôn bị ám ảnh bởi con dao chọc tiết lợn,
thích máu, có những hành động phi lý: “Đêm... Tính vùng dậy, xô cửa ra sân,
nhặt đá đáp lên trời” [6;26].
Trong khung cảnh đêm khuya khi mọi vật đã chìm vào giấc ngủ, con
người cũng nghỉ ngơi sau một ngày làm việc vất vả, Tính lại trằn trọc không
ngủ được. Trong người Tính đầy cảm giác bứt rứt đến điên loạn muốn làm
một cái gì đó để giải thoát. Và Tính đã đáp đá lên trời như thế. Qua Tính,
Nguyễn Bình Phương đã nhìn thấu nỗi đau trong tâm hồn những người điên,
sự dày vò về tinh thần của họ. Độc giả cũng cảm nhận được tận cùng nỗi đau
ấy để chia sẻ với những thiệt thòi bất hạnh của một lớp người kém may mắn
trong xã hội. Bởi người điên không phải lúc nào cũng là những kẻ đáng sợ
cần xa lánh. Kẻ điên ẩn hình ngay trong người tỉnh. Người tỉnh có khi cũng có
một phần “điên” nếu khuyết thiếu phần “tính bản thiện” trong tâm hồn, suy
nghĩ và hành động. Nhân vật của Nguyễn Bình Phương “điên” là hậu quả của
môi trường phi nhân tính. Người điên là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh
cần được cảm thông, chia sẻ; song, họ cũng là tội ác xã hội cần ngăn chặn. Đó
chính là tư tưởng nhân văn sâu sắc của tác giả đối với kiểu nhân vật này.
Qua nhân vật người điên, Nguyễn Bình Phương cũng cho ta thấy thế
giới mà chúng ta đang sống chưa phải đã tròn đầy, tươi đẹp. Nó còn có những
phần khiếm khuyết, còn những số phận thiệt thòi, những mảnh đời không
nguyên vẹn cần được thấu hiểu và cải thiện. Nguyễn Bình Phương nhìn Tính
để khám phá về số phận con người ở những miền đất heo hút còn mang dấu
ấn của thời “Thoạt kỳ thuỷ”. Tính thoát khỏi các chuẩn mực đúng, sai, tích
cực, tiêu cực như các nhân vật tiểu thuyết trước đây. Tính đáng thương hay
đáng ghét? Tính đúng hay sai? Những cảm giác đó độc giả sẽ không thể phán
xét rạch ròi bằng lí trí đơn thuần mà phải cảm nhận về một cuộc đời, một số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
phận nghiệt ngã bằng cả tình thương của trái tim mình. Tính không giống
Đônkihôtê điên loạn về lý tưởng hiệp sĩ, cũng không giống thằng Ngốc trong
Nhật ký người điên của Lỗ Tấn bị ám ảnh bởi cảm giác sắp bị ăn thịt. Tính
“điên” trong cuộc sống của một người “tỉnh”; đi đập đá kiếm tiền, lấy vợ như
bao người đàn ông bình thường. Nhưng Tính lại giết người và tự giết mình
như một kẻ điên: “Tính quặt đầu dao, ấn mạnh vào cổ mình. Máu từ cổ Tính
trào ra, ấm, nóng. Tính buông dao, ngón trỏ vuốt vuốt dòng máu đang tràn
theo khuy áo. Tính cười khoái trá, khuỵu đầu gối, mặt gục lên chiếc vại đựng
nước. Bả vai Tính rung rung” [6;159]. Hành động cuối cùng của Tính là đỉnh
điểm của ham muốn giết chóc trong chuỗi vô thức của kẻ điên hay là sự bừng
tỉnh và sám hối của một con người có ý thức bị đắm chìm? Có lẽ là cả hai.
Hành động tự huỷ diệt của Tính là hậu quả của cuộc sống của con người bị
huỷ hoại.
Nguyễn Bình Phương đã tìm những con đường giải thoát khác nhau
cho những người “điên” và Tính. Con đường thứ nhất, là tình thương. Tình
thương lớn nhất là tình mẫu tử. Bị chồng đánh, mẹ Tính vẫn bảo vệ được đứa
con trong bụng. Tính chào đời, người mẹ ấy luôn tin yêu đứa con trai duy
nhất của mình. Cả đời bà chịu nhẫn nhục vì người chồng tệ bạc, vũ phu để
tiếp tục sống với mong muốn được chở che cho con, được gây dựng hạnh
phúc cho con. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng ấy không đủ sức để đưa Tính
thoát ra khỏi số phận của một người điên. Con đường thứ hai, Nguyễn Bình
Phương để Tính tìm đến với tình yêu, tình cảm có sức mạnh cảm hoá nhất.
Tính lấy vợ - một người vợ hiền dịu xinh đẹp nhưng Tính vẫn điên. Đó cũng
không phải là hướng giải thoát. Con đường thứ ba, nhà văn để nhân vật tìm
đến với lao động, Tính làm nghề đập đá nhưng vừa đập đá vừa tưởng tượng
mình đang chọc dao vào cổ lợn. Lao động không giúp Tính hoá giải được số
phận. Tính vẫn gặp những người điên, Tính giết người rồi tự giết mình. Vậy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
thì đâu là cách giải thoát cho Tính? Câu hỏi gợi lên thật nhức nhối. Làm sao
có thể "giải điên" được trong một môi trường u tối, lạc hậu như thế?
Trong Thoạt kỳ thuỷ, còn có nhân vật người đàn bà điên trong tác phẩm
“Và cỏ” của nhà văn Phùng. Có thể nói “Và cỏ” là sự tiếp nối của Thoạt kỳ
thuỷ, báo hiệu hình tượng nhân vật người điên lại xuất hiện và sẽ có nhiều
biểu hiện mới. Trong Người đi vắng, dấu vết của bạo lực cũng dẫn đến tổn
thương vĩnh viễn về tâm lý: lão Việt kể chuyện bố lão đá mẹ lão vào bụng khi
bà ấy mang thai thằng em khiến cậu ta ngơ ngơ ngẩn ngẩn đến tận bây giờ
[4;183]; ngoài em lão Việt còn có một số nhân vật người điên khác như Luân
điên, một gã tâm thần ở cổng cơ quan Thắng và nhân vật Trương cũng tự
dưng bị điên.
Trong cuốn Trí nhớ suy tàn có hình ảnh một người đàn bà điên mặc áo
vàng hiện lên trong tâm tưởng của nhân vật “em”. Hai lần nhân vật “em” mơ
thấy hình ảnh người đàn bà điên này.
Như vậy, trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương có cả một thế giới
nhân vật điên thuộc các độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, địa bàn cư trú khác
nhau. Tại sao ở nhiều nơi (và nhất là vùng Linh Nham) trong thế giới nghệ
thuật của Nguyễn Bình Phương lại có nhiều người điên đến thế? Có thể lí giải
sự xuất hiện hàng loạt nhân vật điên này bằng cái nhìn cuộc sống của nhà văn
Nguyễn Bình Phương nhận thấy trong cuộc sống còn nhiều mảnh đời không
lành lặn, nhiều tâm hồn bị tàn khuyết về tâm lí, hậu quả của hoàn cảnh sống
nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất, thấp kém về tri thức, sự tàn phá của chiến
tranh, sức huỷ hoại của những thói hư danh, tham vọng không tưởng... làm
“tàn khuyết tâm lí” con người. Việc hành sát súc vật thô sơ cũng gây ám ảnh
bạo lực, nó gián tiếp huỷ hoại nhân tính của con người. Tất cả tạo nên không
khí nặng nề, bức bối, ngột ngạt dẫn tới xuất hiện “hội chứng điên”. Để điều trị
“cắt cơn” cho con bệnh và chống sự lây lan, huỷ hoại của nó đâu chỉ cần một
vài ba lần “bắt mạch”, “kê đơn”, “bốc thuốc” mà là cả một vấn đề cải thiện xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
hội cần phải kiên trì và nỗ lực giải quyết. Xây dựng nhân vật người điên, đặt
vấn đề “hội chứng điên” trong tác phẩm có nghĩa là Nguyễn Bình Phương
cũng đồng thời đặt vấn đề tìm thuốc chữa và mong rằng căn bệnh xã hội đó
cần phải sớm được cứu chữa.
Từ cuộc đời của Tính và vô số những người điên khác, tác giả đã gợi
lên trong lòng người đọc bao nỗi trăn trở, suy tư về xã hội và về thân phận
con người. Từ trang viết của Nguyễn Bình Phương, người ta cũng nhận thấy
có rất nhiều điều cần phải làm để có được cuộc sống tốt đẹp. Mặt khác,
Nguyễn Bình Phương cũng giúp người đọc nhận ra rằng “điên” còn là sự mất
thăng bằng quá mức về tinh thần tại một thời điểm nào đó. Nếu bị mất khả
năng kiểm soát, điều khiển và làm chủ suy nghĩ, tình cảm, hành động của
mình, con người ta sẽ rơi vào trạng thái “điên”. (Kiểu “điên” vì “say thơ” của
ông Phùng trong Thoạt kỳ thuỷ). Vì vậy, sự tỉnh táo, tự chủ, cân bằng trong
tình cảm và suy nghĩ cũng là điều vô cùng cần thiết trong cuộc sống của mỗi
người để xã hội được bình ổn.
Có thể thấy, trong cảm quan nghệ thuật của mình, Nguyễn Bình
Phương bị ám ảnh bởi kiểu nhân vật người điên và tác giả đã có nỗ lực đáng
kể trong việc tạo chân dung các nhân vật và phản ánh chiều sâu tư tưởng của
mình. Đây quả là sự “dấn thân” trên con đường nghệ thuật đầy thử thách của
nhà văn.
2.2. Nhân vật biến hình, hƣ ảo
Trong văn học phương Tây, KafKa, Inôexcô thường xuyên sử dụng
môtíp nhân vật biến dạng như con người biến thành tê giác, thành con bọ
khổng lồ. Trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương cũng có những nhân
vật biến dạng hết sức kỳ lạ:
* Ngƣời biến thành cây
Trong Những đứa trẻ chết già ở phần Vô Thanh, một nhân vật đã bị
biến thành cái cây. Đó là lão Hạng làm nghề bán dép cao su. Lão có bốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
người con, vợ lão mất sớm, cuộc sống rất nghèo khổ. Song điều đáng nói là
cái tật mê cây của lão Hạng. Thời còn sống, lão Hạng mê cây đến độ ngồi
hàng giờ trước cái chõng bày dép cao su bán để ngắm những cây xà cừ xanh
thẫm và “lão miên man như thèm khát”. Những lúc vậy “mặt lão xanh lét,
giần giật chạy” [3;50]. Tới khi chết, “Lão Hạng dang hai tay ghi chặt gốc xà
cừ vào người, trán lão tì vào lớp vỏ sần sùi”, “Khi gỡ lão ra, người ta thấy
ngực lão có một vết rạch rộng bằng gang tay, chỗ rạch ấy áp vào thân cây,
cũng đúng chỗ vỏ bị rạch một vết thương tương tự. Từ vết rạch ở thân cây, ứa
ra một dòng nhựa đỏ bầm, đặc quánh. Khi đặt lão xuống đất, người ta phát
hiện người lão cứ xanh dần như lá cây già” [3;52].
Hình ảnh lão Hạng trở về đêm đêm trong trí nhớ của nhân vật “ông”
trong tác phẩm cũng là hình ảnh kỳ quái “Lão Hạng mỉm cười rì rào. Hai tay
lão mọc đầy lá xà cừ. Tóc lão xanh um” [3;52].
* Ngƣời mọc đầy lông, đầy tóc
Lão Biền trong Những đứa trẻ chết già là một người thợ cắt tóc, lão đã
phạm một sai lầm khủng khiếp là ăn cắp tiền của người đã chết, sau đó lão
luôn sống trong những giấc mơ bị ám ảnh bởi hình ảnh của người đàn bà về
đòi tiền. Túi tiền mà lão ăn cắp ấy chính là của một bà mẹ đã giúp đì lão rất
nhiều khi còn sống. Sự việc được phát hiện khi em gái của nhân vật “ông” kể
lại: hôm mẹ ông hấp hối có gọi lão Biền vào dặn dò và chính mắt cô nhìn thấy
lão lấy một bọc gì đó ở đầu giường của người đã mất. Sau này, người ta thấy
tự dưng lão xây nhà cửa đàng hoàng mà không bao giờ biết lão lấy đâu ra số
tiền lớn như vậy. Một thời gian sau, lão bị ốm và chết trong tình trạng người
mọc đầy lông và ngứa ngáy đau đớn: “Ngứa kinh khủng... Lông. Lông chân
lão đen tuyền. Nó mọc đầy tóc. Tóc dài lắm. Dài tới mức rũ xuống và bện
thành một lớp dày bọc lấy ống chân... Người lão đầy lông. Lão kinh hoàng
chạy trốn cả chính mình” [3;105]. Sau đó, dân làng tìm thấy lão chết nằm sấp
mặt trên một ngôi mộ “người mọc đầy tóc, không ai nhận ra mặt lão nữa vì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
tóc đã phủ kín. Tay lão nắm chặt bó tiền âm phủ nhàu nát. Trên lưng lão chi
chít vết chân cú mèo. Khi chôn lão xong, mộ lão mọc lên một loại cỏ đen và
nhỏ” [3;108].
Vì sao nhân vật của Nguyễn Bình Phương lại biến dạng kỳ lạ như vậy?
Phải chăng cái chết biến thành cây xà cừ của lão Hạng là mong muốn được
giải thoát khỏi kiếp sống cơ cực nghèo khổ và bất hạnh: thà làm một cái cây
còn hơn là người chồng, người cha hàng ngày phải chứng kiến, chịu đựng
cảnh vợ con cơ cực nheo nhóc. Có lẽ vì thế lão Hạng biến thành một cái cây?
Hình ảnh lão trong dáng hình của cây xà cừ đêm đêm trở về mỉm cười có phải
là thể hiện sự hoá kiếp mãn nguyện này?
Quá trình biến hình của lão Biền diễn tả một sự tha hoá nhanh chóng.
Từ một con người chăm chỉ, hiền hậu, lòng tham khiến lão trở thành kẻ đê
tiện, dám cả gan ăn cắp tiền của người đã mất – nhất là người đó đã từng có
ơn giúp đỡ lão. Ăn trộm đồ của người đã mất xưa nay là một điều cấm kị bởi
hành động vô đạo đức đó chạm tới phần thiêng liêng của tâm linh. Kẻ làm
điều đó là tự sỉ nhục nhân cách. Để cho nhân vật mang trọng tội này chết
trong đau đớn, ngứa ngáy, cái chết đến dần dần xâm lấn cơ thể bằng một lớp
lông và tóc dày đặc, tác giả nhằm cảnh tỉnh con người trước thực trạng tha
hoá về nhân cách. Chỉ vì mưu sinh, lão Biền làm nghề cắt tóc để kiếm tiền
song cũng chỉ vì lòng tham vô độ mà lão ăn cắp tiền của người chết để dẫn
đến hậu quả khôn lường. Những mớ tóc mà lão đã từng cắt dường như đại
diện cho hàng ngàn cái đầu, hàng ngàn con người lương thiện mà cả cuộc đời
lão từng gắn bó trở về tìm lại lão để trừng phạt lão.
* Ngƣời thay đổi hình dạng
Trong tiểu thuyết Ngồi khi bà Quỳnh, mẹ của Nhung từ nước ngoài về
chịu tang mẹ chồng thì có một hiện tượng lạ xảy ra. Những người chứng kiến
cảnh tượng ấy là Khẩn, Nhung, ông Trung không thể tin vào mắt mình: “mặt
bà Quỳnh già đi hàng vài chục tuổi, ngay cả cái dáng cũng khác, nó xiêu vẹo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
y hệt dáng bà cụ trước khi mất... Cả Khẩn lẫn ông Trung đều sững lại, rùng
mình trước giọng nói thều thào của người đã khuất... Khi hình ảnh hiện lên thì
bà Quỳnh loạng quạng đến chiếc ghế bà cụ vẫn hay nằm xem, lấy tay phủi
phủi mấy cái rồi từ từ ngả người nằm xuống, co hai chân lại. Bát hương chao
đảo trên ban thờ và bức ảnh viền khung vải đen rung rinh chực đổ sập xuống,
vỡ tung ra trong khi hình ảnh người đã khuất mờ dần, mờ dần. Bà Quỳnh rên
rỉ, mắt đùng đục như có một cuộc lột xác cực kỳ gian nan” [7,84]. Bà Quỳnh
đã thay đổi hình dạng và trong một khoảnh khắc bà đã biến thành bà mẹ
chồng mới qua đời của mình. Qua cuộc lột xác này nhà văn muốn giãi bày
một nỗi niềm day dứt, một tâm nguyện cuối cùng về nỗi đau tuyệt vọng của
một người mẹ mỏi mòn chờ con và khát khao đi tìm con, muốn được sống
tiếp để tiếp tục tìm con: “Mẹ tìm mãi mà chẳng thấy con, Dũng ơi là Dũng ơi,
bây giờ con đang ở đâu hả con” [7;85]. Đó là lời tâm nguyện mong tìm được
người con trai đã không thấy trở về sau chiến tranh mà người mẹ già giao lại
cho những người còn sống, và đó cũng là lời nhắc nhở những người còn sống
phải có trách nhiệm với những người đã hy sinh.
* Ngƣời già trẻ lại hoặc trẻ con biến thành ngƣời già
Người già trẻ lại là trường hợp một người đàn bà trong Những đứa trẻ
chết già: từ một bà già, người đàn bà trạc 40 tuổi, cô gái trẻ, đứa con gái 13
tuổi, đứa bé nằm trong nôi.
Có khi là sự biến hình ngược lại, trẻ con biến thành người già như
chuyện “đẻ ngược” ở làng Phan trong Những đứa trẻ chết già. Một người đàn
bà đã sinh ra những đứa trẻ mang các đặc điểm kỳ lạ.
- Lần sinh thứ nhất: Đứa trẻ là trai. Người ta phát hiện ra rằng thằng
con bà giáo có râu. Không những thế, ba bốn ngày sau tóc nó còn bạc trắng.
Đứa trẻ không khóc, nó giương đôi mắt kèm nhèm nhìn mọi người như phán
xét... Hai tuần sau nó chết [2;56].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
- Lần sinh thứ hai: Đứa trẻ ở độ già của người ba nhăm, bốn mươi tuổi
gì đó. Tóc nó bàng bạc, răng vàng ố, nói như người lớn: “Mẹ lấy cho tôi cái
điếu”. Đêm, đột nhiên dân làng nghe từ nhà bà giáo vọng ra tiếng như hai
người đàn ông trạc tuổi nhau, gầm ghè trò chuyện... Đứa bé đã biến mất
[2;59].
- Lần sinh thứ ba: Bà mẹ sinh con gái. Nhưng đứa trẻ vẫn mang bộ mặt
già trước tuổi. Lọt lòng được hai ngày, con bé có cơ thể như gái mười tám...
Sau đó nó có chửa. Nó chửa, bụng to quá cì bình thường. Nó đẻ, đứa con ra
đời và chết... Một sớm tinh mơ những người dạy sớm nhìn thấy nó trôi là là
về phía núi Rùng như một chiếc lá. Nó biến mất... [2;61].
Trong khoa học, hiện tượng quái thai hay hiện tượng con người bị lão
hóa được giải thích là do tác động của những nhân tố sinh học có tính chất
tiêu cực (đột biến gen...). Nhưng trong văn học, hiện tượng “đẻ ngược”, “quái
thai” này là một hiện tượng mang ý nghĩa xã hội nhức nhối mà Nguyễn Bình
Phương muốn gợi lên trong lòng độc giả. Vì sao có những đứa trẻ bị dị tật
ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ? Vì sao có những đứa trẻ chết già? Vì sao
có những trường hợp thiên chức bản năng của người phụ nữ lại không thể
thực hiện được? Người đọc có thể tìm thấy câu trả lời từ sự “đồng vọng” với
“tiếng lòng” của nhà văn trong tác phẩm.
* Ngƣời đột nhiên xuất hiện hoặc biến mất
Con tàu trong tâm tưởng nhân vật “ông” trong Những đứa t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG.pdf