Tài liệu Luận văn Xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN và Trung Quốc: LUẬN VĂN:
Xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN
và Trung Quốc
Lời mở đầu
Việt Nam là một nước nông nghiệp có lợi thế rất lớn về sản xuất và xuất khẩu nông
sản. Hàng năm xuất khẩu nông sản đã đưa về cho Việt Nam một lượng ngoại tệ lớn góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước.
Trung Quốc là một thị trường rộng lớn đầy tiềm năng với dân số trên một tỷ
người.Trong những thập niên gần đây Trung Quốc đã lớn mạnh không ngừng với tốc độ
nhanh chóng mặt. Trung Quốc lại là người bạn láng giềng thân thiết có chung đường biên
giới với Việt Nam, cùng thuộc vòng cung châu á-Thái Bình Dương năng động nhất trên
thế giới về phát triển kinh tế. Quan hệ thương mại Việt-Trung đã trở lại bình thường và
phát triển nhanh chóng kể từ khi hai nước kí Hiệp định thương mại Việt-Trung vào năm
1991. Đặc biệt khi Trung Quốc và ASEAN kí Hiệp định khung về hợp tác toàn diện
ASEAN-Trung Quố...
67 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1185 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN và Trung Quốc, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN
và Trung Quốc
Lời mở đầu
Việt Nam là một nước nông nghiệp có lợi thế rất lớn về sản xuất và xuất khẩu nông
sản. Hàng năm xuất khẩu nông sản đã đưa về cho Việt Nam một lượng ngoại tệ lớn góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước.
Trung Quốc là một thị trường rộng lớn đầy tiềm năng với dân số trên một tỷ
người.Trong những thập niên gần đây Trung Quốc đã lớn mạnh không ngừng với tốc độ
nhanh chóng mặt. Trung Quốc lại là người bạn láng giềng thân thiết có chung đường biên
giới với Việt Nam, cùng thuộc vòng cung châu á-Thái Bình Dương năng động nhất trên
thế giới về phát triển kinh tế. Quan hệ thương mại Việt-Trung đã trở lại bình thường và
phát triển nhanh chóng kể từ khi hai nước kí Hiệp định thương mại Việt-Trung vào năm
1991. Đặc biệt khi Trung Quốc và ASEAN kí Hiệp định khung về hợp tác toàn diện
ASEAN-Trung Quốc(2002), trong đó Trung Quốc dành những ưu đãi cho các nước
ASEAN mới trong chương trình thu hoạch sớm, quan hệ giữa hai nước đã có những tiến
triển mới. Bộ thương mại Việt Nam cũng đã xác định Trung Quốc là quốc gia xuất khẩu
trọng điểm của Việt Nam trong 5 năm tới(2006-2010) nhất là đối với hàng nông sản xuất
khẩu của Việt Nam-đối tượng ưu tiên trong chương trình thu hoạch sớm.
Thấy được tầm quan trọng của vấn đề này nên tôi đã quyết định chọn đề tài “Xuất
khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN
+Trung Quốc” làm đề tài thực tập chuyên ngành. Bài viết của tôi sẽ đi sâu phân tích
đánh giá tác động của Hiệp định khung ASEAN -Trung Quốc tới xuất khẩu nông sản của
Việt Nam. Việt Nam được gì, phải làm gì để tận dụng hết những lợi thế và hạn chế tối đa
những khó khăn có thể xảy ra trong quá trình thực hiện Hiệp định tới xuất khẩu nông sản
của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc.
Kết cấu bài viết gồm ba chương
Chương I: Tổng quan về xuất khẩu và Hiệp định khung ASEAN + Trung Quốc
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Trung
Quốc trong bối cảnh ASEAN + 1
Chương III: Các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc trong
bối cảnh ASEAN+Trung Quốc
Chương I. Tổng quan về xuất khẩu và Hiệp định khung ASEAN + Trung Quốc
1.1. Khái niệm về xuất khẩu và các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu
Khái niệm
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về xuất khẩu
Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng hóa, dịch
vụ được đưa đưa ra khỏi phạm vi biên giới một quốc gia
Xuất khẩu hàng hóa là một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương
mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong
nước ra ngoài nước để thu ngoại tệ, qua đó có thể đẩy mạnh sản xuất hàng hóa phát triển,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao đời sống nhân dân.
Xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở
dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán.
Hoạt động xuất khẩu ban đầu là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá cả hàng hoá
vô hình và hàng hoá hữu hình trong nước. Nhưng do sản xuất phát triển, các nhà sản xuất
vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, việc trao đổi giữa các nước có lợi do lợi thế trong cạnh
tranh nên hoạt động này mở rộng ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia, hoặc giữa thị
trường nội địa và khu chế xuất ở trong nước.
Xuất khẩu là hoạt động cơ bản của ngoại thương, lịch sử phát triển của nó đã có từ
rất lâu đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Ban đầu,
hình thức cơ bản của nó chỉ đơn thuần là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia.
Ngày nay nó đã phát triển rất mạnh và được biểu hiện dưới nhiều hình thức. Trong xu thế
toàn cầu hoá hiện nay hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rộng khắp trong hầu hết
tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, đóng một vai trò vô cùng quan
trọng trong cơ cấu nền kinh tế với tỉ trọng ngày càng cao.
Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau thuộc cả về
quốc gia xuất khẩu và quốc gia nhập khẩu hay chính là chiụ ảnh hưỏng của cả môi trường
kinh doanh quốc gia và môi trường kinh doanh quốc tế. Các nhân tố trong hai môi trường
này gồm
Các yếu tố về chính trị và luật pháp
Đó là vấn đề liên quan đến chính trị và luật pháp của chính phủ tới hoạt động xuất
khẩu của các doanh nghiệp. Nó bao gồm sự ổn định của Chính phủ, mức độ tham nhũng
trong hệ thống chính trị và tiến trình chính trị có ảnh hưởng đến chính sách kinh tế. Điều
dễ hiểu là không một ai muốn bán hàng hoá sang một nước đang có sự tranh chấp về mặt
chính trị, có sự đấu tranh giành giật giữa các Đảng phái hay có chiến tranh loạn lạc như
irac vừa rồi. Tất cả sẽ thay đổi khi người đứng đầu thay đổi và những thoả thuận đã được
đảm bảo bằng luật pháp trước khi có sự thay đổi này đều có thể bị vô hiệu với những điều
luật mới ra đời cùng với chính phủ mới.
Các yếu tố luật pháp bao gồm các đạo luật điều chỉnh việc trả lương tối thiểu, an
toàn lao động cho công nhân, bảo vệ môi trường và người tiêu dùng…và những gì được
quy định là hành vi cạnh tranh hợp pháp hay bất hợp pháp. Mỗi nước lựa chọn đi theo
con đường chính trị riêng của mình tuỳ thuộc vào hoàn cảnh tình hình và sự lựa chọn của
mỗi nước. Nhưng dù có theo chế độ chính trị nào đi nữa thì sự ổn định hay không của hệ
thống chính trị và luật pháp vẫn tác động rất lớn tới hoạt động xuất khẩu của các doanh
nghiệp, nó thúc đẩy hay kìm hãm hoạt động xuất khẩu
Chính sách thương mại quốc tế của Chính phủ
Là một hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện pháp mà Nhà nước áp dụng để
thực hiện, điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia trong một thời kì
nhất định nhằm đạt được các mục đích đã định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã
hội của quốc gia đó
Nó bao gồm: Chính sách thị trường; Chính sách mặt hàng; Chính sách hỗ trợ có
liên quan mật thiết với nhau
Nó được thực hiện thông qua hai công cụ chủ yếu là các biện pháp thuế quan và
các biện pháp phi thuế quan
Các biện pháp thuế quan: gồm có thuế quan nhập khẩu và thuế quan xuất khẩu
trong đó được áp dụng chủ yếu là thuế quan nhập khẩu. Thuế quan nhập khẩu ngày nay
được áp dụng chủ yếu là hạn ngạch thuế quan là sự kết hợp của thuế quan nhập khẩu và
hạn chế về số lượng nhập khẩu. Trong lượng được phép nhập sẽ được hưởng mức thuế
ưu đãi riêng có thể được miễn giảm thuế (thuế từ 0-5%), ngoài hạn ngạch thì phải chịu
mức thuế suất cao
Các công cụ phi thuế quan: Gồm có các biện pháp hành chính (như hạn ngạch, hạn
chế xuất khẩu tự nguyện…), các biện pháp tiêu chuẩn kĩ thuật (tiêu chuẩn vệ sinh thực
phẩm, tiêu chuẩn vệ sinh phòng dịch, bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn đo lường, đóng gói,
an toàn lao động, kí mã hiệu, nguồn gốc xuất xứ…), các đòn bẩy kinh tế (các biện pháp
hỗ trợ tín dụng, trợ cấp trợ giá…)
Ngày nay trong xu hướng tự do hoá thương mại, các biện pháp thuế quan được
tháo bỏ dần trong các tổ chức như WTO, các khu vực mậu dịch tự do, các liên minh kinh
tế…Các biện pháp phi thuế cũng được giảm dần như các biện pháp về hạn ngạch, các
đòn bẩy kinh tế…và được sử dụng tăng cường như các biện pháp về tiêu chuẩn kĩ thuật
(đặc biệt sử dụng các biện pháp tiêu chuẩn liên quan tới môi trường sinh thái, vệ sinh
dịch tễ và các tiêu chuẩn liên quan tới đạo đức xã hội). Hầu hết các biện pháp này đều có
tác dụng làm giảm nhập khẩu các sản phẩm từ nước ngoài vào quốc gia đó, khuyến khích
tiêu thụ hàng hoá được sản xuất trong nước, nâng cao năng lực sản xuất quốc gia, cản trở
hoạt động xuất khẩu hàng hoá.
Các yếu tố văn hoá.
Nó phản ánh thẩm mỹ và giá trị, phong tục tập quán, cấu trúc xã hội, tôn giáo, giao
tiếp cá nhân, giáo dục và các môi trường vật chất và môi trường tự nhiên của con người.
Mỗi nước có một nền văn hoá mang đậm bản sắc riêng của mình. Do đó hiểu biết về nền
văn hoá sẽ giúp cho các quốc gia xuất khẩu có thể hoạch định chính xác chiến lược đối
với từng nước nhập khẩu riêng biệt, khả năng thành công cao tránh trường hợp thất bại
do không hiểu biết gì về văn hoá của họ mà áp dụng những chiến thuật cho các nước
khác nhau vẫn giống nhau dù nền văn hoá của họ hoàn toàn khác nhau. Chúng ta chỉ có
thể thất bại khi sản phẩm của ta không đủ sức cạnh tranh trên thị trường do chất lượng và
thương hiệu của ta chưa đủ mạnh chứ không thể thất bại do thiếu hiểu biết vì đó là một
cái chết ngu ngốc. Như trường hợp của công ty Cocacola, khi quảng cáo sản phẩm ở một
nước đạo Hồi đã không chú ý đến văn hoá tín ngưỡng của họ nên sản phẩm của công ty
lập tức đã bị tẩy chay mặc dù công ty là một trong số những thương hiệu hàng đầu trên
thế giới và chất lượng sản phẩm thì khỏi bàn. Việc tìm hiêu văn hoá của mỗi quốc gia để
ta có cách đàm phán sao cho có lợi nhất cho ta trong những hợp đồng kinh doanh xuất
khẩu, xuất khẩu với giá lời nhất, điều kiện ưu đãi nhất…cho ta, đem lại lợi nhuận cao
nhất, đó chính là mục đích cuối cùng các doanh nghiệp xuất khẩu hướng tới
Các yếu tố kinh tế.
Bao gồm các biến số về kinh tế và tài chính như lãi suất, thuế suất, cơ cấu tiêu
dùng, năng suất và mức sản lượng. Nó còn bao gồm những chỉ số về hạ tầng cơ sở như
truyền thông, mạng lưới phân phối , đường cao ốc, sân bay,…mức độ sẵn có và phí tổn
về năng lượng. Nó tác động tới hoạt động xuất khẩu cả ở tầm vi mô và vĩ mô. Xét tổng
thể chúng tác động đến đặc điểm và sự phân bố các cơ hội kinh doanh quốc tế cũng như
quy mô thị trường. Còn ở tầm vi mô, các yếu tố kinh tế ảnh hưởng tới cơ cấu tổ chức và
hiệu quả của doanh nghiệp. Các yếu tố giá cả và sự phân bố tài nguyên ở các thị trường
khác nhau cũng ảnh hưởng tới quá trình sản xuất, phân bố nguyên vật liệu, vốn, lao động
của và do đó ảnh hưởng tới giá cả, chất lượng hàng hoá xuất khẩu. Bên cạnh đó, còn có
công cụ thuế quan và phi thuế quan mà mỗi quốc gia sử dụng để quản lý hoạt động xuất
nhập khẩu. Trên thế giới hiện nay, với xu hướng tự do hoá thương mại, các hàng rào thuế
quan và phi thuế quan từng bước được loại bỏ. Thay vào đó nhiều liên minh thuế quan
được hình thành trên cơ sở loại bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các thành
viên trong liên minh thuế quan.
Các yếu tố cạnh tranh.
Các yếu tố cạnh tranh bao gồm số lượng các đối thủ cạnh tranh và chiến lược của
chúng. Các đối thủ cạnh tranh bao gồm các đối thủ cạnh tranh hiện tại và các đối thủ cạnh
tranh tiềm năng. Hiện tại là các nước đã thâm nhập được vào thị trường đó và tạo dựng
được uy tín thương hiệu trên đất nước đó giống như nhắc đến đồ điện tử ở nước ta người
ta nghĩ ngay tới nước Nhật với chất lượng tốt, độ bền cao, tính năng vượt trội…hàng Thái
Lan nổi tiếng ở nước ta là các sản phẩm rau quả tươi, gạo, hàng tiêu dùng…với chất
lượng tốt, giá cả phải chăng hơn so với các loại hàng hoá cùng loại nhưng được sản xuất
ở nước ta. Nhưng ta còn xem xét trong đoạn thị trường mà ta được phân có các đối thủ
cạnh tranh nào. Xem xét trên thị trường đồ điện tử thì ta không thể coi Nhật là đối thủ
cạnh tranh bởi đoạn thị trưòng mà Nhật chiếm lĩnh là đoạn thị trường cao cấp. Khách
hàng cần là những tính năng vượt trội, mới được phát minh, kiểu dáng thời trang… và họ
sãn sàng bỏ tiền ra để có được nó. Còn ta phải nói đến là đoạn thị trường với những
khách hàng trung bình cấp thấp nên trong đoạn thị trường đó ta có đối thủ đáng gờm nhất
là Trung Quốc và các nước ASEAN
Với các đối thủ tiềm năng là những đối thủ hiện tại chưa có động tĩnh gì nhưng
đang có triển vọng rất lớn trong lĩnh vực đó thì ta phải đề phòng nhiều hơn. Ta ngay từ
bây giờ phải làm thế nào để ngày càng mạnh và có chỗ đứng vững chắc trên đoạn thị
trường mà ta đang chiếm lĩnh đồng thời có kế hoạch phát triển sang đoạn thị trường khác
Các yếu tố cạnh tranh còn phụ thuộc vào sức ép người cung cấp các yếu tố là
nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Hầu hết các sản phẩm phục vụ cho hoạt động
xuất khẩu đều được sản xuất bằng nguồn nguyên liệu ngoại nhập. Với các nước phát triển
thì nguồn nguyên liệu này chủ yếu là các nguồn tài nguyên thiên nhiên được nhập từ các
nước đang và kém phát triển về để chế biến thành những sản phẩm tinh chế và bán lại
cho các nước khác với giá cao. Ví như dầu thô được các nước phát triển nhập về chế biến
và bán lại dầu đã tinh chế thành các sản phẩm như xăng, nhớt…cho các nước đang phát
triển với mức giá cao hơn rất nhiều. Còn các nước đang phát triển nhập nguồn nguyên
liệu do yêu cầu của phía đối tác là nước nhập khẩu đòi hỏi sản phẩm phải được sản xuất
bằng nguyên liệu đó.
Bên cạnh người cung cấp hoạt động xuất khẩu còn chịu sức ép người tiêu dùng là
những người trực tiếp quyết định sự sống còn của sản phẩm trên thị trường đó bằng quyết
định có mua hay không. Người tiêu dùng nhạy cảm với thương hiệu sản phẩm, chất
lượng sản phẩm và giá cả sản phẩm phù hợp với từng loại khách hàng. Sản phẩm xuất
khẩu chịu sự đe doạ của các sản phẩm thay thế và các yếu tố cạnh tranh trong nội bộ
ngành. Các sản phẩm thay thế ngày nay xuất hiện ngày càng nhiều cùng với sự tiến bộ
của khoa học kĩ thuật do sự cạn kiệt của tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh
thái…vì thế để tăng cường hoạt động xuất khẩu thì việc không ngừng cải tiến mẫu mã,
nâng cao chất lượng, tăng cường tính năng cho sản phẩm là điều cần thiết để sản phẩm
không bị xoá sổ.
Các yếu tố tỷ giá hối đoái.
Trong buôn bán quốc tế, vấn đề thanh toán phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tỷ giá
hối đoái do đồng tiền trong thanh toán quốc tế thường là ngoại tệ với một trong hai bên
hoặc cả hai bên. Tỷ giá hối đoái tác động làm tới giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu làm cho
hàng hoá trở lên đắt hay rẻ hơn một cách tương đối làm tăng hoặc giảm sức cạnh tranh
của hàng hoá trên thị trường quốc tế. Sức ảnh hưỏng của nó càng mạnh khi quốc gia xuất
khẩu kí kết các hợp đồng xuất khẩu hàng hoá kì hạn chứ không phải hợp đồng giao ngay.
Sau một thời hạn nhất định bên bán sẽ đưa hàng và bên mua nhận tiền theo thoả thuận
trong hợp đồng đã kí, theo một mức tỷ giá thoả thuận trong hợp đồng mà không được
thay đổi dù lúc đó tỷ giá có tăng hoặc giảm, bên bán hay bên mua sẽ chịu thiệt trong độ
co dãn phần trăm nào đó. Nó trực tiếp tác động tới lượng hàng hóa được trao đổi trên thị
trường quốc tế của một quốc gia, tăng hoặc thu hẹp hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó.
Khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mạnh lên, có giá trị cao hơn trước sẽ khuyến khích các quốc
gia nhập khẩu hàng hoá và khi tỷ giá giảm thì các quốc gia sẽ tăng cường xuất khẩu do
lúc này hàng hoá chợt trở lên rẻ hơn một cách tương đối so với trước kia, sức cạnh tranh
của hàng hoá trên thị trường tăng
Các yếu tố về công nghệ
Ngày nay với sự phát triển ngày càng cao của khoa học công nghệ, làm thay đổi
cục diện của toàn bộ hoạt động xuất khẩu. Đời sống của con người cũng được nâng cao
làm cho nhu cầu của họ cũng thay đổi. Con người ngày nay cần những loại hàng hoá và
dịch vụ chất lượng cao, đảm bảo các yêu cầu về tiêu chuẩn hàng hoá, giá cả cạnh
tranh…Sự phát triển của công nghệ đã đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của
con người. Các sản phẩm được tạo ra có chất lượng cao, giá thành phải chăng…công
nghệ càng tiên tiến sản phẩm càng có sức cạnh tranh cao. Do vậy hoạt động nghiên cứu
và triển khai đang được khuyến khích phát triển và đã phát triển rất mạnh ở các nước như
Mỹ, Nhật Bản…, các nước có công nghệ nguồn. Công nghệ tác động tới hoạt động xuất
khẩu còn thông qua tác động vào các lĩnh vực như bưu chính viễn thông, vận tải giao
nhận hàng hóa, ngân hàng…
1.2. Khu vực mậu dịch tự do và tác động đối với xuất khẩu
Khái niệm
Liên kết kinh tế quốc tế là một hình thức trong đó diễn ra quá trình xã hội hoá sản
xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng mang tính chất quốc tế với sự tham gia của các chủ
thể kinh tế quốc tế dựa trên các Hiệp định đã thoả thuận và kí kết để hình thành nên các
tổ chức kinh tế với những cấp độ nhất định
Khu vực mậu dịch tự do là một hình thức liên kết kinh tế mà các thành viên cùng
nhau thoả thuận thống nhất một số vấn đề nhằm mục đích tự do hoá trong buôn bán về một
hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó. Các thoả thuận đó là
Giảm hoặc xoá bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế số lượng đối
với một phần các loại sản phẩm và dịch vụ khi buôn bán với nhau
Tiến tới tạo lập một thị trường thống nhất về hàng hoá và dịch vụ
Mỗi thành viên trong khối vẫn có quyền độc lập tự chủ trong quan hệ buôn bán
với các quốc gia ngoài khối
Khu vực mậu dịch tự do là hình thức liên kết đầu tiên của Liên kết kinh tế. Trước
xu hướng tự do hoá kinh tế ngày nay, hai cấp độ của tự do hoá kinh tế là toàn cầu hoá và
khu vực hoá tác động tới tất cả các quốc gia và ngày càng có nhiều quốc gia tham gia
vào, một loạt các liên kết kinh tế được hình thành và phát triển với nhiều cấp độ khác
nhau trong đó khu vực mậu dịch tự do là cấp độ liên kết kinh tế đầu tiên, từ đó sẽ phát
triển và mở rộng thành các liên kết kinh tế ngày càng chặt chẽ hơn và có thể dẫn tới một
liên minh chính trị-kinh tế toàn diện, hợp nhất giữa các quốc gia trong khối liên kết đó
Khu vực mậu dịch tự do có thể được thành lập dựa trên cơ sở các nước có sự gần
gũi về mặt địa lý nhưng cũng có thể là các FTA song phương giữa một khu vực, Hiệp hội
với một nước nào đó. Song song với trào lưu toàn cầu hoá, chủ nghĩa khu vực cũng phát
triển mạnh với hình thái ngày càng phong phú là các FTA song hoặc đa phương có phạm
vi hợp tác rộng, không giới hạn trong việc thực hiện tự do hoá mậu dịch mà còn trong
lĩnh vực dịch vụ, đầu tư, thủ tục hành chính Hải quan…
Tác động của khu vực mậu dịch tự do tới hoạt động xuất khẩu
Việc thành lập khu vực mậu dịch tự do có nghĩa là các hàng rào thuế quan và các
biện pháp phi thuế sẽ dần dần được tháo bỏ tạo ra một sân chơi bình đẳng cho tất cả các
thành viên trong khu vực hay chính là sự tự do hoá thương mại trong khu vực. Tự do hóa
thương mại chính là mục đích mà tất cả các nước đều hướng tới, là một trong hai xu
hướng cơ bản trong chính sách thương mại quốc tế. Trong chính sách thương mại quốc tế
của mỗi quốc gia, công cụ để thực hiện gồm hai loại: thuế quan và phi thuế quan. Khu
vực mậu dịch tự do tiến tới giảm dần hàng rào thuế quan và hàng rào phi thuế ở một mức
độ nhất định, với các mặt hàng cụ thể với các nước thành viên, còn các nước khác thì
không có sự thay đổi trừ khi hai nước có kí hiệp định thương mại song phương với những
điều khoản tương tự. Tiến tới một mức độ cao hơn khu vực mậu dịch tự do sẽ chuyển
thành liên minh thuế quan, liên kết kinh tế hợp tác trên tất cả các lĩnh vực về thương mại
dịch vụ, hàng hoá hữu hình
Khu vực mậu dịch tự do có tác dụng tạo lập mậu dịch tức là việc thành lập khu
vực mậu dịch tự do có tác dụng mở rộng hơn nữa khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá giữa
các nước trong khu vực với nhau do hàng hoá và dịch vụ của các nước trong khu vực giờ
đây được tự do di chuyển trong nội bộ mà không phải chịu các hạn chế do các rào cản
thuế quan hay các rào cản phi thuế quan mang lại. Hàng hóa chỉ cần có giấy chứng nhận
xuất xứ từ khu vực đó là có thể di chuyển tự do trong nội bộ khu vực đó mà không chịu
bất kì rào cản gì. Hàng hoá của nước khác ngoài khối xuất sang được một nước thuộc khu
vực đó là có thể xuất sang các nước khác thuộc khu vực mà không cần qua các thủ tục rắc
rối để kiểm tra về tiêu chuẩn hàng hoá…
Tuy nhiên bên cạnh việc tạo lập mậu dịch việc thành lập khu vực mậudịch tự do
cũng có tác động tiêu cực là tạo ra sự chuyển hướng mậu dịch. Do nó gần như xoá bỏ
hàng rào thuế quan về hàng hoá và dịch vụ của các nước thuộc khu vực nên các nước này
sẽ chuyển hướng sang mua hàng hoá và dịch vụ của các nước thuộc khu vực mà bỏ qua
hàng hoá và dịch vụ của các nước ngoài khu vực dù cho hàng hoá của các nước đó có tốt
hơn hay rẻ hơn một cách tương đối. Như đã nói ở trên, chính sách thương mại của Chính
phủ mà cụ thể là bằng các công cụ thuế quan và phi thuế quan tác động tới xuất khẩu qua
việc làm cho hàng hoá sản xuất trong các nước thuộc khu vực mậu dịch tự do tăng khả
năng cạnh tranh trên thị trường nước cùng khối so với các sản phẩm khác cùng loại
nhưng được sản xuất ở nước ngoài khối. Điều này tạo điều kiện cho các nước thuộc khu
vực phát triển các ngành sản xuất để xuất khẩu những sản phẩm mà trước kia họ ít lợi thế
tại thị trường các nước trong khu vực so với các nước khác ngoài khối. Việc chuyển dịch
mậu dịch này ép các nước ngoài khối buộc phải giảm giá bán, nâng cao chất lượng sản
phẩm, tăng tính năng công dụng cho sản phẩm mới có thể giữ vững thị phần tại khu vực
này. Nhưng cũng chính nó đã thúc đẩy cho đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển. Các
nước ngoài khối lựa chọn một nước có điều kiện đầu tư tốt nhất so với yêu cầu của họ để
đầu tư sản xuất ngay tại nước bản địa và sau đó thì xuất khẩu sang các nước khác cùng
khối và nghiễm nhiên họ được hưởng lợi từ hợp tác khu vực này
1.3. Vai trò của xuất khẩu nông sản với nền kinh tế Việt Nam
1.3.1. Tiềm năng sản xuất và xuất khẩu nông sản của Việt Nam
Việt Nam là một nước có tiềm năng rất lớn trong sản xuát và xuất khẩu nông sản.
Theo báo cáo của Tổng cục địa chính, diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng vào
khoảng 9,345 triệu ha và khoảng 9,277 triệu ha đất chưa được sử dụng ( trong đó 83% là
đất đồi núi có thể sử dụng cho mục đích lâm nghiệp; 1,6% tổng diện tích có thể sử dụng
mặt nước để nuôi trồng thủy sản; còn lại là đất bằng ). Địa hình của nước ta cũng rất đa
dạng về chủng loại thích hợp cho việc trồng nhiều loại nông sản
Việt Nam có rất nhièu vùng khí hậu thuận lợi cho việc trồng các loại nông sản có giá
trị cao
Các loại cây ôn đới có thể trồng tại các vùng cao có nhiệt độ thấp như Sa Pa, Đà
Lạt…; Vùng đồng bằngg sông Hồng có thể phát triển các lọai rau chịu lạnh như bắp cải,
cà rốt, su hào…còn vùng đồng bằng sông Cửu Long là miệt vuờn trái cây nhiệt đới của
cả nước và cũng rất thích hợp để sản xuất các loại cây công nghiệp như cà phê, chè,
cacao, điều, cao su, tiêu…đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa, chuyên
cung cấp lúa gạo cho cả nước để tiêu dùng và xuất khẩu
Việt Nam là một nước có nguồn lao động dồi dào. Với dân số gần 80 triệu người trong
đó có gần 50 triệu lao động, lao động nông thôn chiếm khoảng 60% dân số và vẫn được
bổ sung thường xuyên, số lao động này mới sử dụng hơn 70% quỹ thời gian cho sản xuất
nông nghiệp còn lại là thời gian nhàn rỗi. Lao động Việt Nam được đánh giá là trẻ, chăm
chỉ, cần cù. Đây là một lợi thế rất lớn của Việt Nam trong sản xuất nông nghiệp
So với các nước khác trong khu vực tỷ lệ đóng góp hàng năm cho tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam của khu vực nông nghiệp khá cao tới gần 30%, trong khi của Thái
Lan chỉ là gần 15%, Trung Quốc là 7%. Nó phản ánh vai trò của ngành nông nghiệp
trong nền kinh tế Việt Nam còn quá cao và một cơ cấu kinh tế bất hợp lý
Tuy năng suất cây trồng của ta còn thấp so với các nước trên thế giới nhưng trong
những năm qua ta đã vươn lên và đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ hai về
xuất khẩu cà phê, thứ tư về nhân điều và đứng đầu về xuất khẩu hồ tiêu. Việt Nam là một
nước nông nghiệp đang phát triển nhưng tận dụng lợi thế của một nước đi sau ta đã từng
bước áp dụng những thành tựu công nghệ tiên tiến mà thế giới đã nghiên cứu và thử
nghiệm thành công như các giống mới (lúa lai, gà siêu thịt, siêu trứng, lợn nạc…)
1.3.2. Vai trò của xuất khẩu nông sản tới nền kinh tế Việt Nam
Hiện nay nông sản Việt Nam hiện đang có mặt ở trên 80 quốc gia và vùng lãnh
thổ, ngày càng có nhiều mặt hàng có khả năng cạnh tranh khá có thể xâm nhập vào
những thị truờng khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản…
Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối
ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng hoạt động xuất khẩu
để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho
phát triển các hạ tầng là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại của từng
quốc gia.
Nền kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong những năm thực
hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn, đặc biệt là hoạt
động xuất khẩu đã góp phần quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nền kinh tế đất nước. Xuất khẩu góp phần tạo ra nguồn vốn cho hoạt động nhập khẩu, thu
hút hoạt động đầu tư nước ngoài và phát triển đầu tư trong nước vì sự nghiệp phát triển
kinh tế. Đặc biệt với lợi thế về sản xuất nông sản của mình hoạt động xuất khẩu nông sản
là một hoạt động tất yếu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và có vai trò to lớn với
nền kinh tế Việt Nam.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Xuất
khẩu không chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội
địa mà còn làm chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Liên quan tới nông nghiệp là sự phát
triển của công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu đồng thời kéo theo sự phát triển của
công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó hoặc các ngành dịch vụ khác liên quan đến
nó. Do đó có thể nói xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam đóng góp vào việc chuyển dịch
cơ cấu nền kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển.
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm góp phần cho sản
xuất phát triển ổn định.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng
cao năng lực cạnh tranh cho sản xuất trong nước.
Thông qua xuất khẩu, hàng hóa sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế
giới về giá cả, chất lượng.
Xuất khẩu hàng nông sản giải quyết tới công ăn việc làm cải thiện đời sống nhân
dân trước hết là người dân ở vùng nông thôn và người dân ở miền núi góp phần xoá đói
giảm nghèo.
Xuất khẩu tạo ra một nguồn vốn quan trọng để phát huy nội lực đất nước góp phần
vào sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước đưa đất nước đi lên trở thành một
trong những con rồng châu á. Chỉ bằng con đường xuất khẩu chúng ta có thể mở rộng
được quy mô sản xuất tránh được sự bão hòa của thị trường nội địa, khai thác hiệu quả
nguồn tài nguyên trong nước. Vậy có thể nói hoạt động xuất khẩu góp phần không nhỏ
vào việc tạo tiền đề vững chắc phát huy nội lực để có được sự tăng trưởng kinh tế lành
mạnh vững chắc.
Phát huy các lợi thế so sánh, khai thác tiềm năng đất nước. Đối với nước ta có ưu
điểm về khí hậu nhiệt đới gió mùa nên rất thuận lợi cho phát triển sản phẩm nhiệt đới,
nhân công nhiều cụ thể là 60% dân số sống bằng nghề nông thêm vào đó giá nhân công
thấp nên đã tạo điều kiện cạnh tranh ở thị trường nước ngoài. Hơn thế sản xuất hàng
nông sản còn đem lại một lượng ngoại tệ lớn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá
của nước ta do xuất khẩu nông sản chúng ta không cần dùng nhiều ngoại tệ để nhập khẩu
nguyên liệu đầu vào như các ngành khác mà laị thu về một lượng ngoại tệ đáng kể
Xuất khẩu nông sản còn góp phần giải quyết vấn đề lương thực thực phẩm cho
người dân. Xuất khẩu nông sản góp phần thúc đẩy các ngành công nghiệp đặc biệt là
công nghiệp chế biến nông sản phát triển. Hiện nay nước ta chủ yếu là xuất khẩu nông
sản thô, hàm lượng chế biến thấp nhưng để tăng thu ngoại tệ, phát triển và mở rộng sản
xuất, xuất khẩu nông sản thì ta phải tăng hàm lượng chế biến của nông sản lên bằng việc
phát triển và mở rộng các nhà máy chế biến nông sản
1.4. Hiệp định khung giữa ASEAN với Trung Quốc về việc thành lập khu vực
mậu dịch tự do
1.4.1. Bối cảnh ra đời
Qua các hội nghị thượng đỉnh giữa Trung Quốc và các nước ASEAN đã dần dần
đạt được các thoả thuận để đi tới quyết định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN-
Trung Quốc. Điều đáng nói ở đây là việc thành lập khu vực mậu dịch tự do giưã ASEAN
và Trung Quốc là do đề xuất của phía Trung Quốc. Nó đã đánh dấu một bước phát triển
mới trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước Đông Nam á. Theo đánh giá của các
chuyên gia đây là một động thái rất thông minh của Trung Quốc và các nước ASEAN đã
hành động đúng khi chấp nhận đề nghị này. Nó đã góp phần cải thiện mối quan hệ của
Trung Quốc với các nước ASEAN, từ đây ASEAN sẽ là một người bạn của Trung Quốc.
Đứng tại vị trí cuả Việt Nam đánh giá ta thấy Việt Nam cũng như nhiều nước ASEAN
khác đều có lợi về kinh tế khi hiệp định này được kí kết. Hơn thế nữa Việt Nam lại là cầu
nối cho hoạt động thông thương giữa Trung Quốc với các nước ASEAN nên nguồn lợi
thu được từ Hiệp định này của Việt Nam là rất đáng kể
Tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 5 tại Brunây (6/11/2001) Trung Quốc và
ASEAN đã nhất trí thành lập khu mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc. Tới ngày
4/11/2002, tại PhnomPenh, các nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đã chính thức thông
qua Hiệp định khung hợp tác kinh tế toàn diện giữa Trung Quốc và ASEAN, dự tính đến
2010 sẽ xây dựng khu mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN (CAFTA) và xác nhận 5 lĩnh
vực ưu tiên hợp tác, trong đó có nông nghiệp, thông tin, khai thác nguồn tài nguyên nhân
lực, đầu tư vào nhau và khai thác nguồn lợi từ lưu vực sông Mekong…
Tới 29/11/2004, tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Trung Quốc ở Viêng Chăn
(Lào), các Bộ trưởng kinh tế ASEAN và Trung Quốc đã kí kết Hiệp định về thương mại
hàng hóa, nó tạo ra bước tiến mới trong quan hệ kinh tế ASEAN –Trung Quốc. bước đầu
hiện thực hóa Hiệp định khung về hợp tác toàn diện ASEAN –Trung Quốc. Hiệp định có
hiệu lực từ 1/7/2005
1.4.2. Nội dung chính của Hiệp định
Khu mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc là một khu mậu dịch tự do với thị
trường tiêu thụ gần 2 tỷ dân, chiếm 40% nguồn dự trữ ngoại tệ toàn cầu và tổng GDP lên
tới trên 2000 tỷ USD (chiếm 10% GDP thế giới). Đây cũng là khu vực kinh tế năng động
nhất thế giới, nó nằm trên vòng cung châu á-Thái Bình Dương. Việc thành lập khu mậu
dịch tự do ASEAN-Trung Quốc cũng thúc đẩy sự thành lập khu mậu dịch tương tự giữa
ASEAN và Nhật Bản, Hàn Quốc.Và chúng ta có thể hi vọng trong tương lai về sự hợp
nhất thị trường châu á, một thị trường mậu dịch phi thuế quan hay tiến xa hơn là nó có
thể đi theo con đường của liên minh Châu âu.
Hiệp định gồm 3 phần (không kể phần mở đầu). Phần I gồm 4 điều về ACFTA
bao gồm các lĩnh vực hợp tác trong thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và
điểm mấu chốt của nó là chương trình thu hoạch sớm (Early Havert Program): Trung
Quốc sẽ tiến hành giảm thuế ngay từ đầu năm 2004 những mặt hàng nông phẩm mà đa số
các nước ASEAN quan tâm, và đặc biệt chiếu cố những nước thành viên mới (Việt Nam
, Lào, Myanmar, Campuchia) :Trung quốc dành những ưu đãi cho cả những nước chưa
gia nhập WTO cho các nước này được hưởng quy chế tối huệ quốc, trì hoãn thực hiện
nghĩa vụ với các thành viên mới trong khi họ vẫn được hưởng quyền lợi
Trung Quốc tiến hành cắt giảm thuế phân chia theo loại mặt hàng.
Loại thông thường (normal track): Trung Quốc và các nước thành viên cũ bắt đầu
giảm thuế từ tháng 1/2005 và bãi bỏ hoàn toàn thuế quan vào năm 2010. Các nước thành
viên mới thì mục tiêu bỏ hoàn toàn thuế quan vào năm 2015
Loại nhạy cảm chưa được bàn bạc
Nhưng theo chương trình thu hoạch sớm Trung Quốc sẽ tiến hành cắt giảm thuế
đối với các thành viên cũ của ASEAN bắt đầu từ 2004-2006 và từ 2004-2008 với Việt
Nam( Lào, Myanmar là hết 2009, Campuchia là hết 2010)
Căn cứ vào mức thuế 1/7/2003, các mặt hàng nông phẩm thuộc chương trình thu
hoạch sớm được chia làm 3 loại (từ chương I đến chương VIII của biểu thuế HS)
Loại I: có mức thuế hiện hành trên 15%và được giảm xuống 10% vào năm 2004,
5% vào năm 2005 và 0% vào năm 2006
Loại II: Mức thuế hiện hành là dưới 15% giảm còn 5% vào 2004 và bãI bỏ hoàn
toàn vào 2005
Loại III: Mức thuế hiện hành là dưới 5% được bãi bỏ hoàn toàn vào năm 2004
Đối với Việt Nam là một trong những thành viên mới sẽ được hưởng ưu đãi hơn
so với các nước thành viên cũ nhằm giảm tình trạng phát triển không đồng đều trong nội
bộ ASEAN
Loại I: có mức thuế quan trên 30% sẽ được giảm xuống còn 20% năm 2004 và
giảm dần đến 0% vào 2008
Loại II: mức thuế hiện hành từ 15%-30% giảm còn 10% vào năm 2004 và giảm
dần đến 0% vào năm 2008
Loại III: có mức thuế suất hiện hành dưới 15% được giảm xuống còn 5% vào
2004 và 0% vào 2008
Cụ thể, Trung Quốc sẽ tiến hành cắt giảm dần 206 dòng thuế nhập khẩu từ Việt
Nam xuống thuế suất 0% vào năm 2006, bắt đầu thực hiện vào 2004. Về phía Việt Nam
cũng sẽ cắt giảm dần 88 dòng thuế nhập khẩu từ Trung Quốc xuống còn 0% vào 2008
Bảng 1: Lịch trình cắt giảm thuế quan của CAFTA
Năm Tỷ lệ thuế quan Danh mục thuế Các nước tham gia
1/7/2003 Tỷ lệ thuế quan tối
huệ quốc WTO
Toàn bộ Trung Quốc và 10
nước ASEAN
1/10/2003 Thuế quan hàng rau quả
của Trung Quốc và Thái
Lan giảm xuống 0%
Rau quả của Trung Quốc
và Thái Lan
Trung Quốc, Thái
Lan
2004 Thuế quan hàng nông Hàng nông sản Trung Quốc và 10
sản bắt đầu giảm nước ASEAN
1/2005 Bắt đầu giảm bớt thuế
quan với tất cả các nước
thành viên
Toàn bộ Trung Quốc và 10
nước ASEAN
2006 Thuế quan hàng nông
sản là 0%
Hàng nông sản Trung Quốc và 10
nước ASEAN
2010 Thuế quan giảm xuống
0%
Toàn bộ trừ những sản
phẩm nhạy cảm
Trung Quốc và 10
nước ASEAN
2015 Thuế quan giảm xuống
0%
Toàn bộ trừ những sản
phẩm nhạy cảm
ASEAN 4
Nguồn: Trang wed của ban thư kí ASEAN, 2003
Tuy nhiên trong nội bộ khối ASEAN cũng có nhiều bất hòa xung quanh thực hiện
lộ trình cắt giảm thuế với các mặt hàng từ Trung Quốc. Một số nước đã dành những ưu
đãi riêng cho Trung Quốc hơn cả đối với các nước ASEAN. Phía Việt Nam cũng đã
thành lập tổ công tác liên bộ về Khu vực thương mại dịch vụ tự do ASEAN-Trung Quốc
nhằm đáp ứng yêu cầu làm đầu mối điều phối và tổ chức đàm phán với các bên đối tác về
nội dung hợp tác kinh tế trong khuôn khổ hiệp định. Chính phủ cũng đã ban hành nghị
định 99/2004/NĐ-CP ngày 25/2/2004 về việc ban hành danh mục hàng hóa và thuế suất
xuất nhập khẩu của Việt Nam cho các năm 2004-2008 để thực hiện theo chương trình thu
hoạch sớm
Sau khi hiệp định khung được kí kết các nước ASEAN và Trung Quốc sẽ tiếp tục
đàm phán những vấn đề liên quan đến
+Lộ trình cắt giảm thuế với các mặt hàng thuộc danh mục SEL và NT
+Thời gian hoàn thành đàm phán về quy tắc xuất xứ hàng hóa
+Xử lý thuế ngoài hạn ngạch
+Sửa đổi cam kết
+Các biện pháp phi thuế quan về hạn chế nhập khẩu
+Các biện pháp tự vệ dưa trên nguyên tắc của WTO
+Nguyên tắc trợ cấp xuất khẩu, các biên pháp đối kháng và các biện pháp chống
bán phá giá
+Các biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Nhìn chung các nguyên tắc thỏa thuận đàm phán đều phù hợp với những quy định
chung của WTO và ASEAN về thương mại dịch vụ, đầu tư
Căn cứ chính để thực hiện những ưu đãi thuế quan về hàng hóa trong CAFTA là
quy tắc xuất xứ hàng hóa. ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí xây dựng quy tắc xuất xứ
hàng hóa và việc này đã được kết thúc vào cuối năm 2003
Ngoài chương trình thu hoạch sớm trong hiệp định còn đề cập đến những vấn đề
Thúc đẩy tự do hóa dịch vụ: Mở rộng phạm vi tự do hóa theo GATTS và tăng
cường hợp tác trên kĩnh vực dịch vụ( trên 7 lĩnh vực chính mà ASEAN đang thực hiện)
Thỏa thuận hiệp định khung về đầu tư nhằm tự do hóa và tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động đầu tư giữa hai bên
Quy định các lĩnh vực và biện pháp hợp tác khác: Hợp tác công nghiệp, công
nghệ thông tin, phát triển nguồn nhân lực và thúc đẩy hợp tác Tiểu vùng sông Mekong
mở rộng…
Chương II . Thực trạng xuất khẩu nông sản của
Việt Nam sang Trung Quốc trong bối cảnh
ASEAN + Trung Quốc
2.1. Thực trạng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung
Quốc
Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1950, kí
Hiệp định thương mại từ 1991. Từ đó đến nay quan hệ của hai nước đã có nhiều bước
phát triển mới trên mọi lĩnh vực đặc biệt trong lĩnh vực thưưong mại. Trước hết ta sẽ xem
xét đánh giá một cách tổng thể về tình hình xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung
Quốc từ năm 2000-2005
Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc
từ 2000-2005
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Kim ngạch XK 929 1418 1703.4 1747.6 2735 2961
Kim ngạch NK 1537 1606 2158.8 3119 4456 5778
CCTM -608 -188 -455.4 -1371.4 -1721 -2817
Nguồn: Hải quan Trung Quốc
Theo thống kê của Hải quan Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam và
Trung Quốc liên tục tăng qua các năm, nó được đánh dấu bắt đầu từ khi Việt Nam và
Trung Quốc kí Hiệp định thương mại song phương (1991). Tuy vậy, cán cân thương mại
của Việt Nam với Trung Quốc luôn ở trong tình trạng thâm hụt, Việt Nam luôn nhập siêu
các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ từ phía Trung Quốc. Các sản phẩm việt Nam xuất sang
Trung Quốc phần lớn là các sản phẩm nông sản, khoáng sản,…chưa qua chế biến và nhập
khẩu từ Trung Quốc các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao giá trị lớn như các sản
phẩm máy chế tạo, xăng dầu các loại, ô tô, xe máy nguyên chiếc các loại, linh kiện phụ
tùng ô tô, xe máy, phân bón, thuốc trừ sâu…với giá trị lớn hơn rất nhiều lần trị giá xuất
khẩu của ta sang Trung Quốc
B¶ng 2.1: BiÕn ®éng kim ng¹ ch xuÊt khÈu cña
ViÖt Nam vµo Trung Quèc tõ 2000-2005
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
2000 2001 2002 2003 2004 2005
K
im
n
g¹
ch
(t
ri
Öu
U
SD
)
B¶ng 2.2:C¸ n c©n th- ¬ng m¹ i cña ViÖt Nam vµ
Trung Quèc tõ n¨m 2000-2005
-3000
-2500
-2000
-1500
-1000
-500
0
2000 2001 2002 2003 2004 2005
Nhìn vào đồ thị trên ta thấy được giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
Trung Quốc liên tục tăng qua các năm và đặc biệt tăng mạnh trong những năm gần đây
(2004-2005), là những năm EHP bắt đầu có hiệu lực. Nhưng theo đó cán cân thương mại
cũng thâm hụt nhiều hơn, ta nhập nhiều sản phẩm giá rẻ của Trung Quốc do phía ta cũng
bắt đầu giảm thuế theo lộ trình của Hiệp định. Chỉ có năm 2001 là kim ngạch xuất khẩu
vẫn tăng so với 2000 nhưng CCTM thâm hụt lại ít hơn so với các năm trước và thấp nhất
trong thời kì 2000-2005. Điều này có được là do trong năm 2001, năm Trung Quốc gia
nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu rau quả và một số sản phẩm khác của Việt Nam vào thị
trường Trung Quốc tăng đột biến do nhu cầu của Trung Quốc tăng và cũng do Trung
Quốc đã nới lỏng rào cản thương mại đối với hàng hoá nhập khẩu vào theo quy định của
WTO
2.1.1. Trước khi Hiệp định có hiệu lực
Hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trước
năm 2004 diễn ra khá sôi động, Trung Quốc là một trong những thị trường nhập khẩu
nông sản chủ yếu của Việt Nam.
Bảng 3: Các mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường
Trung Quốc từ 2000-2003
Đơn vị: triệu USD
Năm
Mặt hàng
2000 2001 2002 2003
Hạt điều 53,3 58,6 62,4 65,1
Cao su 66,4 62,2 82 147
Rau quả 120,351 142,8 121,529 67,068
Lúa gạo 0,5 0,54 1,68 0,297
Cà phê 3,061 2,243 3,92 7
Hạt tiêu 11,56 8,4 3,24 0,7
Chè 0,3 0,84 0,6 0,77
Nguồn: Thống kê Hải quan
Các mặt hàng nông sản chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc vẫn là các
mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như rau quả, hạt điều, cao su (chiếm tới 90% tổng
kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc )
0
20
40
60
80
100
120
140
160
G
i¸
tr
Þ k
im
n
g¹
ch
(t
ri
Öu
U
SD
)
2000 2001 2002 2003
B¶ng 3.1: Kim ng¹ ch mét sè mÆt hµng n«ng s¶n
chñ yÕu xuÊt khÈu sang Trung Quèc tõ n¨m 2000-
2003
H¹ t ®iÒu
Cao su
Rau qu¶
Trong các mặt hàng trên mặt hàng rau quả là mặt hàng luôn có kim ngạch ổn định,
lớn. Đặc biệt năm 2001, do nhu cầu mặt hàng này tăng mạnh ở Trung Quốc, giá trị kim
ngạch xuất khẩu rau quả cuả Việt Nam sang Trung Quốc tăng mạnh, giảm dần trong
những năm tiếp theo nhưng vẫn có kim ngạch khá. Tới 2003, mặt hàng này xuất khẩu vào
Trung Quốc chững lại, kim ngạch giảm đột ngột xuống gần 68 triệu USD do Hiệp định
về rau quả của Thái Lan và Trung Quốc có hiệu lực vào 1/7/2003
Mặt hàng rau quả xuất khẩu sang Trung Quốc phát triển mạnh là do Việt Nam chủ
yếu xuất theo con đường biên mậu qua các của khẩu lợi dụng đường biên giơí liền nhau
vào các tỉnh như Vân Nam, Quảng Tây…chứ không thông qua con đường chính ngạch để
xuất khẩu vào sâu trong thị trường Trung Quốc do xuất khẩu qua con đường tiểu ngạch
Việt Nam sẽ được hưởng những ưu đãi về thuế mà Trung Quốc dành cho hàng hoá theo
con đường biên mậu, và cũng để giảm được phí bảo quản hàng hóa với một loại hàng hoá
dễ hỏng như rau quả tươi
Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu rau quả vào thị trường Trung Quốc
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2000 2001 2002 2003
Tổng KNXK rau quả của Việt Nam 213,1 329,97 201,156 152,47
Vào Trung Quốc 120,351 142,8 121,529 67,068
Tỷ trọng (%) 56,47 43,28 60,42 44
Nguồn: Bộ Thương mại
B¼ng 4.1 :Tû träng xuÊt khÈu n«ng s¶n vµo
Trung Quèc trong tæng kim ng¹ ch xuÊt
khÈu rau qu¶ tõ 2000-2003
0
10
20
30
40
50
60
70
2000 2001 2002 2003
P
hÇ
n
tr
¨m
Xuất khẩu rau quả sang Trung Quốc có sự ổn định về giá trị kim ngạch, luôn đạt
ngưỡng cao, chiếm tỷ trọng gần 50% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt
Nam. Tới 2001, năm đỉnh cao của xuất khẩu rau qủa và rau qủa xuất khẩu sang Trung
Quốc cũng tăng đột biến cả về lượng lần giá trị kim ngạch do thị trường Trung Quốc
dành cho Việt Nam những ưu đãi biên mậu. Tuy nhiên, theo tỷ trọng xuất khẩu rau quả
thì năm 2001 tỷ trọng xuất khẩu rau qủa của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc lại
kém nhất trong những năm 2000-2003. Điều đó có thể lý giải bằng việc Trung Quốc nhập
khẩu lượng lớn rau quả của Việt Nam qua biên mậu với giá thấp nên kim ngạch không
tăng nhiều và ta bắt đầu chú trọng đi tìm thị trường khác trả giá cao hơn
Về hạt điều: Việt Nam là nước xuất khẩu hạt điều lớn thứ hai trên thế giới chỉ sau
ấn Độ. Trung Quốc là một trong những thị trường chính tiêu thụ các sản phẩm hạt điều
của Việt Nam (thứ hai sau Mỹ), luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu
hạt điều của Việt Nam
Bảng 5: Tỷ trọng xuất khẩu hạt điều sang Trung Quốc trong tổng KNXK hạt
điều của Việt Nam giai đoạn 2000-2003
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2000
2001
2002
2003
Tổng KNXK hạt điều của Việt Nam 167.3 105.7 171 276.6
Vào Trung Quốc 53.3 58.6 62.4 65.1
Tỷ trọng(%) 32 55.4 36.5 23.5
Nguồn: Bộ Thương mại
B¶ng 5.1: Tû träng xuÊt khÈu h¹ t ®iÒu vµo
Trung Quèc giai ®o¹ n 2000-2003
0
10
20
30
40
50
60
2000 2001 2002 2003
Xuất khẩu hạt điều vào Trung Quốc có sự gia tăng liên tục về kim ngạch xuất
khẩu. Ngay cả trong năm 2001 khi tổng kim ngạch xuất khẩu hạt điều của cả nước giảm
thì kim ngạch xuất khẩu hạt điều vào Trung Quốc vẫn tăng, điều trườngVề cao su: Cao
su luôn là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt giá trị cao của Việt Nam. Do có tiềm
Xuất khẩu hạt điều vào Trung Quốc có sự gia tăng liên tục về kim ngạch
xuất khẩu. Ngay cả trong năm 2001 khi tổng kim ngạch xuất khẩu hạt điều của
cả nước giảm thì kim ngạch xuất khẩu hạt điều vào Trung Quốc vẫn tăng, điều
đó chứng tỏ sự ổn định của thị trường Trung Quốc và hạt điều Việt Nam đã có
uy tín tại Trung Quốc
năng rất lớn về loại hàng này và do nhu cầu của thị trường Trung Quốc với mặt hàng này
nên những năm qua kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam sang Trung Quốc luôn
cao, luôn chiếm tỷ trọng gần 40% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam
Bảng 6: Tỷ trọng xuất khẩu cao su sang Trung Quốc trong tổng KNXK cao
su của Việt Nam giai đoạn 2000-2003
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2000
2001
2002
2003
Tổng KNXK cao su của Việt Nam 166 166.2 271.76 378.77
Vào Trung Quốc 66.4 62.2 82 147
Tỷ trọng (%) 40 37.4 30.2 38.8
Nguồn: Bộ Thương mại
Xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu vẫn là cao su thiên nhiên phục vụ cho nhu
cầu của các ngành công nghiệp của Trung Quốc, xuất khẩu ở dạng mủ chưa qua sơ chế
hoặc mới sơ chế qua loa, giá trị thấp.
B¶ng 6.1: Tû träng xuÊt khÈu cao su cña ViÖt
Nam sang Trung quèc giai ®o¹ n 2000-2003
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
2000 2001 2002 2003
Kim ngạch xuất khẩu cao su sang Trung Quốc liên tục tăng, duy chỉ có năm 2001
là giảm về kim ngạch xuất khẩu do phía Trung Quốc tạm ngưng không cấp quota nhập
khẩu cao su Việt Nam làm cho hàng ngàn tấn cao su bị ứ đọng tại cửa khẩu.
Tuy nhiên xét về tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam thì
năm 2002 tỷ trọng xuất khẩu cao su Việt Nam sang Trung Quốc thấp nhất. Năm 2002
lượng cao su nước ta xuất khẩu qua cửa khẩu Móng Cái chưa bằng 50% của năm 2001.
Nguyên nhân do phía Trung Quốc tăng lệ phí xin hạn ngạch nhập khẩu cao su của Việt
Nam, thuế nhập khẩu cao su cũng rất cao tới 40%(cả VAT). Với nhập khẩu qua đường
biên mậu còn cao hơn, tới 166% so với nhập khẩu chính ngạch. Nhưng phí nhập khẩu cao
su từ các nước Thái Lan, Indonexia, Malaysia thấp hơn rất nhiều, chỉ bằng 65% lệ phí
hạn ngạch nhập khẩu cao su của Việt Nam khiến các doanh nghiệp Trung Quốc quay ra
mua bán với các nước khác và ép giá cao su Việt Nam
Dựa vào lợi thế của mình về sản xuất nông sản, Việt Nam luôn là nước đứng thứ
hai thế giới về xuất khẩu gạo (sau Thái Lan), cà phê (sau Brazil) nhưng hiện những mặt
hàng này vẫn chưa chiếm lĩnh đựoc thị trường Trung Quốc mặc dù Trung Quốc là một thị
trường phong phú và đa dạng về thị hiếu tiêu dùng. Trong khi đó ta có thể thấy Thái Lan,
người bạn ASEAN của ta từ lâu đã thâm nhập thị trường Trung Quốc và chiếm thị phần
không nhỏ của những mặt hàng này tại Trung Quốc. Không những là các mặt hàng như
gạo, rau quả mà còn nhiều nông sản khác với tỷ trọng lớn
Về phương thức giao thương: Xuất khẩu theo con đường tiểu ngạch qua biên giới
vẫn chiếm tỷ lệ cao (40%) do hai nước đã kí với nhau một số Hiệp định về buôn bán qua
biên giới trong đó thuế suất qua đường biên mậu chỉ bằng 50% thuế theo con đường
chính ngạch (thuế nhập khẩu và VAT) và nhiều ưu đãi khác như thanh toán trực tiếp,
kiểm dịch không khắt khe như qua đường chính ngạch... Tuy nhiên, xuất khẩu qua con
đường chính ngạch đã có nhiều chuyển biến đáng kể, ngày càng có nhiều mặt hàng xuất
khẩu theo chính ngạch. Các mặt hàng xuất khẩu qua biên giới theo con đường tiểu ngạch
chủ yếu là rau quả, do vậy lượng rau quả của ta xuất sang Trung Quốc năm 2001 là 143
triệu USD nhưng theo thống kê con số đó chỉ là gần 58 triệu USD do khác biệt trong
thống kê xuất khẩu của hai nước. Năm 2002, 2003 có sự giảm sút về rau quả xuất sang
Trung Quốc (lượng và giá trị) nhưng thống kê lại cho thấy tăng về giá trị kim ngạch, cho
biết giao thương qua đường biên mậu giảm.
2.1.2. Sau khi Hiệp định có hiệu lực (từ 2004-nay)
Bắt đầu từ 1/1/2004, Trung Quốc giảm thuế cho các mặt hàng của Việt Nam theo
EHP và Trung Quốc sẽ kết thúc lộ trình giảm thuế của mình vào 1/1/2006.
Để đánh giá được tác động của EHP tới xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang
Trung Quốc trước hết ta hãy xét cơ cấu những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
sang thị trường Trung Quốc năm đầu tiên khi EHP có hiệu lực và so sánh nó với giá trị
kim ngạch năm 2003 để có cái nhìn thực về vấn đề này
Bảng 7: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc năm 2004
Mặt hàng Đơn vị tính Kim ngạch
Tổng kim ngạch 1000 USD 2.735.496
Cà phê Tấn 5.898
Cao su Tấn 247.442
Cao su và sản phẩm cao su Tấn 131.628
Chất dẻo nguyên liệu Tấn 3.054
Chè Tấn 3.507
Dầu mỡ động thực vật 1000 USD 2.348
Dây điện và dây cáp điện 1000 USD 5.092
Đường Tấn 95
Giấy Tấn 110
Giày dép 1000 USD 19.162
Gỗ và sản phẩm gỗ 1000 USD 30.126
Gỗ, sản phẩm gỗ, mây, tre, thảm 1000 USD 996
Hàng điện tử và linh kiện 1000 USD 21.565
Hàng hóa khác 1000 USD 1.719.960
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Theo bảng trên từ khi Trung Quốc tiến hành cắt giảm thuế đối với các mặt hàng
cuẩ Việt Nam theo EHP, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đối với một số mặt hàng đã
tăng, những mặt hàng mà trước kia Việt Nam không hoặc ít xuất khẩu sang Trung Quốc
giờ tăng cả về lượng và giá trị do thuế quan đã được bãi bỏ. Nó tạo điều kiện cho các mặt
hàng có thế mạnh của Việt Nam vào được Trung Quốc như chè, cà phê, đường…và chủ
yếu các mặt hàng vẫn là hàng nông sản-chiếm đa số
Ta sẽ xem cơ cấu hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc năm 2004
Bảng 8: Cơ cấu hàng nông sản chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc
năm 2004
Mặt hàng Đơn vị Trung
Quốc
Tổng KN
04
Tỷ trọng
(%)
2003 SS 04/03
(%)
Cao su Nghỡn tấn 300 513 61 187,09 143,45
triệu USD 357,9 147
Hạt điều triệu USD 64,55 436 14,8 65,1 99,15
Rau quả triệu USD 24,9 178,8 14 67,068 43,8
Nguồn: Tổng cục Hải quan
0
50
100
150
200
250
300
350
400
Cao su H¹ t ®iÒu Rau qu¶
B¶ng 8.1: Kim ng¹ ch xuÊt khÈu c¸ c hµng n«ng
s¶n chñ yÕu cña ViÖt Nam sang Trung Quèc
n¨m 2003-2004
2003
2004
Năm 2004, năm đầu tiên Trung Quốc đã thực hiện cắt giảm thuế quan đối với
hàng nông sản nhập khẩu từ Việt Nam, thuế quan đối với hàng nông sản của Việt Nam
xuất khẩu sang Trung Quốc đã được miễn giảm gần hết. Chính điều này đã tạo đà cho
hàng nông sản Việt Nam có thể xâm nhập vào thị trường Trung Quốc một cách dễ dàng.
Tuy nhiên, nhìn vào bảng trên ta nhận thấy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
Trung Quốc về phía các mặt hàng nông sản chủ yếu sang Trung Quốc của Việt Nam trừ
cao su ra còn lại đều có kim ngạch giảm so với 2003. Tệ nhất là mặt hàng rau quả của ta
xuất khẩu sang Trung Quốc giảm chỉ chiếm 43,8% kim ngạch xuất khẩu so với năm
2003. Điều này có thể do bắt đầu từ 4/2004 Trung Quốc thực hiện nghĩa vụ của thành
viên WTO, yêu cầu mặt hàng rau quả tươi xuất khẩu vào Trung Quốc phải có hạn ngạch
và đáp ứng yêu cầu về kiểm dịch thực phẩm khiến cho nhiều doanh nghiệp lao đao do
không kịp chuẩn bị thích ứng mà vẫn quen với lối làm ăn cũ: xuất khẩu theo con đường
tiểu ngạch với chất lượng không đảm bảo. Nó cũng lí giải cho việc hàng trăm tấn dưa hấu
đổ đống ở cửa khẩu Tân Thanh mà không xuất sang được thị trường Trung Quốc vì
không đạt yêu cầu chất lượng, bị trả lại, bị tư thương Trung Quốc ép giá.
Về phía hạt điều, sang năm 2004 cũng không có sự tăng trưởng về kim ngạch xuất
khẩu sang thị trường Trung Quốc do giá bán của ta thấp hơn các nước khác. Các doanh
nghiệp lại không nhanh nhạy trong nắm bắt thông tin về thị trường Trung Quốc nên vội
vàng kí hợp đồng bán hạt điều cả năm cho Trung Quốc với giá thấp ( cao nhất cũng chỉ 4
USD/kg), và đến cuối năm khi giá hạt điều tăng cao (5USD/kg) các doanh nghiệp đành
chịu lỗ trung bình 300USD/ngày
Với mặt hàng cao su, so với năm 2003, lượng xuất khẩu tăng 1,6 lần, trong khi
kim ngạch tăng 2,5 lần. Điều này do giá cao su tự nhiên tăng, có lợi cho xuất khẩu cao su
của ta và cũng do kể từ 1/1/2004, trung Quốc đó xoỏ bỏ quản lớ giấy phộp hạn ngạch
nhập khẩu cao su thiờn nhiờn và chuyển sang quản lớ bằng giấy phộp nhập khẩu tự động.
Do vậy, mặt hàng cao su của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc trong năm 2004 tăng
mạnh.
Ta tiếp tục xem xét tới năm thứ hai của lộ trình giảm thuế theo EHP, xuất khẩu
nông sản Việt Nam sang Trung Quốc có gì đổi khác so với 2004
Bảng 9: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Trung Quốc
năm 2005 (Trị giá>5 triệu USD)
Mặt hàng Lượng (tấn) Trị giá (triệu
USD)
Cao su 369.764 519,20
Hạt điều 23.298 97,36
Gỗ và sản phẩm gỗ 60,34
Hàng rau quả 34,94
Gạo 48.282 11,96
Cà phê 9.516 7,62
Chè 5.828 6,07
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Tới 2005, tình hình có vẻ khả quan hơn. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu của
Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đã tăng . Cơ cấu các mặt hàng cũng được bổ sung
phong phú hơn, các mặt hàng trước kia có kim ngạch nhỏ hoặc xuất khẩu số lượng ít
không đáng kể vào thị trường Trung Quốc sau khi giảm thuế đã tăng đáng kể. Các mặt
hàng mà Việt Nam có lợi thế như gạo, cà phê, chè đã có thể xâm nhập vào thị trường
Trung Quốc với kim ngạch đáng kể (trị giá >5 triệu USD)
Ta sẽ xem xét cơ cấu hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc
trong hai năm của lộ trình EHP
Bảng 10: Kim ngạch hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam xuất sang thị
trường Trung Quốc thời kì 2004-2005
Đơn vị: Triệu USD
Năm
Mặt hàng
2004 2005
Cao su 357.9 519.2
Rau quả 24.9 34.94
Hạt điều 64.55 97.36
Nguồn: Thống kê Hải quan
Chiếm tỷ trọng lớn vẫn là mặt hàng cao su và hạt điều. Rau quả tuy có tăng lượng
nhưng không cao vì hầu hết các mặt hàng rau quả của Việt Nam đều có chất lượng không
cao lại không có công nghệ bảo quản tốt như các nước khác. Vả lại Trung Quốc và Thái
Lan đã kí Hiệp định về hàng rau quả trong đó các mặt hàng rau quả của Thái Lan sẽ được
hưởng thuế suất 0% khi nhập khẩu vào Trung Quốc từ năm 2003. Đến tận 2004 các mặt
hàng rau quả của Việt Nam mới bắt đầu được giảm thuế một cách từ từ trong khi đó các
mặt hàng rau quả của Thái Lan đã chiếm lĩnh thị trường Trung Quốc. Các mặt hàng nông
sản khác như gạo , cà phê, hạt tiêu chiếm tỷ trọng nhỏ
0
100
200
300
400
500
600
Cao su Rau qu¶ H¹ t ®iÒu
B¶ng 10.1: C¸ c mÆt hµng n«ng s¶n chñ yÕu
xuÊt khÈu sang Trung Quèc n¨m 2004-2005
2004
2005
Về cao su: Thị trường Trung Quốc nhập khẩu cao su tự nhiên chủ yếu từ các nước
ASEAN trong đó có Việt Nam do nhu cầu cao su của Trung Quốc rất lớn phục vụ cho
ngành công nghiệp ô tô đang phát triển mạnh. Trung Quốc là nhà nhập khẩu cao su tự
nhiên lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ. Theo số liệu thống kê của hải quan, thị trường
xuất khẩu lớn nhất trong hai tháng đầu năm 2006 vẫn là Trung Quốc đạt 16.555 tấn, trị
giá 27,19 triệu USD, trung bình mỗi ngày Việt Nam xuất sang Trung Quốc 1000 tấn cao
su tự nhiên qua các cửa khẩu
Về hạt điều: liên tục tăng về khối lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu. Với vị thế
của một nước xuất khẩu điều lớn thứ hai trên thế giới, Việt Nam đã xuất khẩu sang Trung
Quốc lượng điều hạt tăng đột suất tới gần 100 triệu USD. Với tình hình này thì khả năng
đạt 114 triệu USD sang Trung Quốc mà Bộ Thương mại đạt ra cho ngành điều trong năm
2006 là hoàn toàn có thể hi vọng
Về rau quả: có sự tăng trưởng rõ rệt trong năm 2005, kim ngạch xuất khẩu tăng
nhanh. Điều đó đã phần nào thể hiện sự quan tâm chú trọng vào thị trường Trung Quốc
của Việt Nam và Việt Nam đã bắt đầu chú ý và biết tận dụng những lợi ích của EHP
mang lại
Bên cạnh đó các mặt hàng như gạo, cà phê, chè cũng dần có chỗ đứng tại thị
trường Trung Quốc. Đây đều là những mặt hàng Việt Nam có sức cạnh tranh cao và khả
năng mở rộng thị phần của những mặt hàng này tại Trung Quốc là rất lớn
Về phương thức giao thương: Sau khi Hiệp định có hiệu lực phương thức buôn
bán giữa hai nước đã có một số thay đổi. Buôn bán theo con đường chính ngạch gia tăng
nhanh chóng do bây giờ theo con đừơng chính ngạch cũng có nhiều ưu đãi và an toàn
hơn con đường tiểu ngạch. Tuy nhiên do con đường tiểu ngạch qua biên giới đã có từ xưa
và người dân ở biên giới vẫn quen với cách làm ăn đó nhiều năm trước nên vẫn tồn tại
buôn bán qua đường biên mậu mặc dù từ đầu 2004 Trung Quốc đã bỏ những ưu đãi cho
những hàng hóa nhập khẩu vào qua đường biên mậu theo những quy định của WTO, hiện
những ưu đãi chỉ tồn tại cho hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào tỉnh Vân Nam và hàng
hoá xuất qua cửa khẩu Lào Cai
2.2. Đánh giá về tác động của Hiệp định ASEAN +Trung Quốc tới xuất khẩu
nông sản của Việt Nam sang Trung Quốc
Tác động của Hiệp định đối với xuất khẩu nông sản của Việt Nam chủ yếu được
xem xét trên khía cạnh tác động của chương trình thu hoạch sớm tới xuất khẩu nông sản
của Việt Nam sang Trung Quốc sau khi Hiệp đinh có hiệu lực so với trước khi nó có hiệu
lực. Cũng như một tờ giấy luôn có hai mặt hay vấn đề nào cũng có hai mặt, Hiệp định
này cũng vậy nó tạo cho Việt Nam cơ hội lớn nhưng cũng tạo ra nhiều thách thức khó
khăn cho Việt Nam trong việc đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc
và đẩy mạnh việc hội nhập kinh tế quốc tế của mình
2.2.1. Những kết quả đạt được
Từ 1991, khi hai nước kí Hiệp định thương mại quan hệ buôn bán giữa Việt Nam
và Trung Quốc đã có nhiều chuyển biến. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước ngày
càng tăng. Đặc biệt khi Hiệp định ASEAN- Trung Quốc bắt đầu được phía Trung Quốc
thực hiện, nghĩa là Trung Quốc sẽ thực hiện cắt giảm thuế đối với các mặt hàng nông sản
xuất khẩu của Việt Nam theo chương trình thu hoạch sớm, xuất khẩu nông sản của Việt
Nam vào thị trường Trung Quốc tăng nhanh.
Về kim ngạch xuất khẩu: liên tục tăng qua các năm. Các mặt hàng nông sản từ
xưa đã là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc.
Nay lại được hỗ trợ thêm bằng cách giảm thuế nhập khẩu từ phía Trung Quốc nên khả
năng cạnh tranh của hàng nông sản của Việt Nam càng được tăng cường.
Về cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu: Hiện nay cao su thiên nhiên vẫn là mặt
hàng nông sản số một của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc cả về số lượng lẫn giá
trị. Điều này xuất phát từ nhu cầu của Trung Quốc về mặt hàng này cho ngành công
nghiệp ô tô đang rất phát triển của mình. Hàng năm Trung Quốc nhập khẩu khoảng 60%
tổng kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam. Tiếp nữa là các mặt hàng hạt điều và rau
quả đều có giá trị kim ngạch xuất khẩu khá (trên 30 triệu USD mỗi năm).
Việt Nam là một nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo nên thông qua
thị trường Trung Quốc, Việt Nam có thể xuất khẩu gạo sang các thị trường láng giềng
của Trung Quốc và các nước châu Phi. Trong những tháng đầu năm 2006, Trung Quốc
đang tăng cường nhập khẩu gạo của Việt Nam để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước
và đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường thứ ba
Chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp nông thôn sang các ngành nghề, lĩnh
vực kinh tế khác nhằm tận dụng thời gian nhàn rỗi của người nông dân đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Các mô hình mới đã xuất hiện ở đồng bằng chấu thổ sông
Hồng: Các làng nghề đó phỏt triển thành "cụm cụng nghiệp", vượt ra khỏi giới hạn làng
trở thành các trung tâm năng động, biến những người nông dân thành các doanh nhân,
chủ các xí nghiệp nhỏ, vừa và hiện đại, như: đồ gỗ Đồng Kỵ, sứ Bát tràng, lơn nạc Nam
Sách, rau Gia Lộc, cây cảnh Mễ Sở, rau hoa Mê Linh-Đông Anh…
Theo Bộ NN&PTNT Chương trỡnh "Làng mới" sẽ được Bộ phát động và triển
khai từ năm 2006-2010. "Làng mới với các chỉ tiêu: thu nhập bỡnh quõn theo đầu người
cao gấp 1,5 lần thu nhập bỡnh quõn của tỉnh, số hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt
85%, số hộ sử dụng điện đạt 100% và tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 20%. Dự kiến ban
đầu sẽ có 400 làng được lựa chọn tham gia chương trỡnh này, trung bỡnh 6-8 làng/tỉnh.
Chương trỡnh sẽ được thực hiện theo phương châm nhân dân làm là chính, Nhà nước hỗ
trợ chủ yếu về mặt kỹ thuật và một phần vốn đầu tư. Khác với Chương trỡnh 135,
Chương trỡnh nước sạch và vệ sinh môi trường…Chương trỡnh "Làng mới "nhằm xõy
dựng một nụng thụn phỏt triển toàn diện về hạ tầng cơ sở, sản xuất hàng hoá, việc làm và
vệ sinh môi trường.
Theo Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn (NN&PTNT), chỉ riêng năm 2004,
đó cú 31 dự ỏn được kí kết, với tổng vốn 405 triệu USD từ nguồn ODA của hơn 20 nhà
tài trợ, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực thuỷ lợi, lâm nghiệp, xoá đói giảm nghèo, phũng
chống giảm nhẹ thiờn tai…nhiều dự ỏn đó đi vào hoạt động, trong đó có một số dự án lớn
như: Thuỷ lợi Tổng hợp Phước Hoà có tổng vốn vay trên 124 triệu USD từ Ngân hàng
Phát triển Châu Á; Hỗ trợ Quản lý Tài nguyờn Việt Nam, vốn vay từ Ngân hàng Thế giới
trên 157,8 triệu USD; Phục hồi rừng sau cháy với nguồn vốn viện trợ không hoàn lại 1,7
triệu USD từ Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản…
Ngoài ra cũn cú nhiều dự ỏn hỗ trợ khẩn cấp nhằm giỳp nụng dõn Việt Nam khắc
phục hậu quả do thiên tai, bệnh dịch như dự án viện trợ khẩn cấp chống dịch cúm gia
cầm quốc gia với khoản viện trợ không hoàn lại là 1,3 triệu USD của Cộng đồng châu Âu
hay dự án viện trợ khẩn cấp lúa giống và phân bón cho nông dân Tây Nguyên khắc phục
thiệt hại do hạn hán với khoản viện trợ không hoàn lại của Tổ chức Nông-Lương LHQ
(FAO) trị giá 400.000 USD…giúp người nông dân nâng cao năng lực cạnh tranh của
hàng nông sản qua việc tăng năng suất và chất lượng sản phẩm
Về phương thức buôn bán giữa hai nước: Từ 1991 khi có Hiệp định thương mại
buôn bán chính ngạch mới tăng nhanh. Trước kia chủ yếu là buôn bán tiểu ngạch do Việt
Nam và Trung Quốc có chung đường biên giới, buôn bán qua biên giới không đòi hỏi
những điều kiện, thủ tục giấy tờ khắt khe như buôn bán chính ngạch lại được hưởng
nhiều ưu đãi thông qua những chính sách ưu đãi riêng của hai nước về buôn bán qua biên
giới. Buôn bán biên mậu áp dụng với xuất khẩu chủ yếu là mặt hàng rau quả sang Trung
Quốc đảm bảo nhanh chóng, vẫn giữ được độ tươi ngon của hàng hoá nên vẫn được chú
trọng phát triển
Hai nước Việt-Trung cũng đã kí kết “Quy tắc kiểm dịch an toàn vệ sinh thủy hải
sản, gạo và thực phẩm”, do đó các mặt hàng nông sản của Việt Nam với chất lượng thông
thường không cần cao lắm nhưng đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh là có thể xuất sang Trung
Quốc.
Sau khi là thành viên của WTO, Trung Quốc đã dành cho Việt Nam được hưởng
ngay lập tức và đầy đủ MFN về thuế quan theo chuẩn mực WTO mà Trung Quốc đã cam
kết dù Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO. Vì thế kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang Trung Quốc liên tục tăng và dự đoán sẽ còn tăng nữa khi Việt Nam chính thức
gia nhập WTO vào năm 2006 này
Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng về mặt chính trị, xã hội, văn
hóa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt có thể xâm nhập thị trường Trung Quốc
thuận lợi hơn. Các mặt hàng của Việt Nam đều hợp với khẩu vị và sở thích của người
Trung Quốc.
Là thành viên của WTO thì Trung Quốc phải tuân thủ chặt chẽ những quy định
trong các Hiệp định đa phương của WTO về hàng nông sản như Hiệp định nông nghiệp,
Hiệp định về tiêu chuẩn kĩ thuật…hay Trung Quốc sẽ phải dần tự do hóa thị trường nông
sản. Cho tới nay Trung Quốc đã bãi bỏ hầu hết các quy định bảo hộ nông sản như quyền
kinh doanh phân phối nông sản đã được mở rộng sang cho các doanh nghiệp tư nhân
cũng được tham gia; áp dụng hạn ngạch thuế quan như các thành viên khác của WTO
như đường, gạo…và muốn nhập khẩu các mặt hàng này phải có giấy phép của Bộ
Thương mại Trung Quốc cấp
Mặc dù Trung Quốc là một đất nước rộng lớn, tỷ lệ dân số sống bằng nghề nông
khá cao nhưng đến nay Trung Quốc vẫn phải nhập khẩu lương thực. Theo Hiệp định
nông nghiệp của WTO, Trung Quốc phải cắt giảm dần trợ cấp trong nước cho sản xuất
hàng nông sản, tạo điều kiện cho hàng nông sản nhập khẩu từ các nước ASEAN trong đó
có Việt Nam vào thị trường Trung Quốc nhiều hơn.
Việc trồng cây ăn trái cũng đạt được một số thành tích đáng kể, xuất hiện nhiều
trang trại, HTX chuyờn về trỏi cõy (xoài, nhón, vải, thanh long, quớt…), tạo được nhiều
nguồn cung tập trung có chất lượng và đồng nhất.
Ngành trái cây cũng đó nhập và trồng được nhiều giống mới nước ngoài như dứa
Cayen, cây ăn trái đặc sản Thái Lan (sầu riêng, măng cụt, chôm chôm…). Phương thức
gieo trồng mới cũng được đưa vào áp dụng ngày càng nhiều, sử dụng phân hữu cơ ngày
càng tăng, giảm lượng thuốc trừ sâu, nếu có sử dụng thỡ ngày càng an toàn, hiệu quả hơn.
Đặc biệt, gần đây ngành đó đưa được phương pháp trồng trái cây theo tiêu chuẩn GAP
(Good Agricultural Practices - thực hành nông nghiệp tốt) qua các dự án như Dự án
VNCI (Mỹ) trồng thanh long theo EUREGAP (tiêu chuẩn châu Âu) tại Bỡnh Thuận, Tiền
Giang; dự ỏn liờn kết GAP 6 tỉnh sụng Tiền… Cỏc dự án này sẽ xây dựng cho trái cây
Việt Nam có tiêu chuẩn GAP Việt Nam, tăng được sức cạnh tranh trên thương trường,
cạnh tranh được với GAP Thái Lan, GAP Trung Quốc, GAP ASEAN…
Để tăng thêm sức cạnh tranh cho trái cây, Cục Sở hữu Trí tuệ và các cơ quan chức
năng cũn hỗ trợ doanh nghiệp rau quả xõy dựng, bảo hộ thương hiệu và đó cú nhiều
thương hiệu trái cây được xây dựng, bảo hộ. Công tác xúc tiến thương mại (XTTM) cho
trái cây cũng được tăng cường. Ba năm trở lại đây, Nhà nước tăng cường tập trung hỗ trợ
tài chớnh cho doanh nghiệp, Hiệp hội trỏi cõy Việt Nam tham gia nhiều hội chợ, triển
lóm quốc tế, khảo sỏt thị trường rau quả nước ngoài, mời các nhà nhập khẩu rau quả
nước ngoài đến Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp rau quả cũn được thưởng xuất khẩu, được
Bộ thương mại công nhận doanh nghiệp xuất khẩu uy tín. Các công tác XTTM đó giỳp
nhiều cho doanh nghiệp rau quả xuất khẩu, nhà vườn tiếp cận thuận tiện hơn với khách
hàng, quảng bá sản phẩm…
Việt Nam đã thành công trong việc chế biến trái cây, nước trái cây cô đặc, nước ép
trái cây tươi…Từ quả dứa, một doanh nghiệp chế biến thực phẩm ở Nghệ An đã chế biến
ra các loại nước ép trái cây tươi, nước trái cây cô đặc… và sản phẩm đã được xuất sang
một số thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, EU và được các thị trường này rất ưa
thích. Các đơn đặt hàng ngày càng nhiều. Sản phẩm đã vượt qua nhiều hãng đồ uống nổi
tiếng trên thế giới để nhận giải thưỏng vàng do Câu lạc bộ các nhà doanh nghiệp hàng
đầu trao tặng. Giải thưỏng này tôn vinh các công ty xuất sắc có chất lượng và dịch vụ
vượt trội trong lĩnh vực thực phẩm và đồ uống trên thế giới dựa trên đánh giá của chính
những người tiêu dùng ở châu Âu
Tương lai hi vọng nó có thể xâm nhập thị trường Trung Quốc, bước khởi đầu cho
sản phẩm trái cây đã qua chế biến xâm nhập thị trường đầy tiềm năng này
Tuy Trung Quốc đang phát triển khá nhanh và mạnh nhưng trình độ phát triển
giữa các vùng của Trung Quốc không đồng đều. Khu vực miền Trung và Tây Trung
Quốc là nơi có thể tiêu thụ hàng hóa của Việt Nam thuận lợi nhất vì trình độ tiêu dùng
của cư dân ở đây phù hợp với trình độ sản xuất của Việt Nam. ở đây sức mua và các tiêu
chuẩn về hàng hóa thấp hơn nhiều so với các vùng khác của Trung Quốc và Việt Nam có
thể tiêu thụ hàng hóa chất lượng không cao lắm tại đây. Phần này gồm 10 tỉnh của Trung
Quốc, đang được Nhà nước Trung Quốc khuyến khích hỗ trợ phát triển kinh tế nên cơ hội
cạnh tranh của hàng Việt Nam đang rất thuận lợi. Hai nước cũng khuyến khích giao
thương tại đây không phải sử dụng ngoại tệ.
Chính phủ đang cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đường xá, hệ thống kho bãi…
sát với biên giới Trung Quốc nhằm tạo điều kiện cho xuất khẩu hàng hóa.
Việt Nam cũng thực hiện nhiều chương trình xúc tiến thương mại tại Trung Quốc
nhằm hỗ trợ thông tin và tìm kiếm đối tác cho các doanh nghiệp Việt Nam. Thông qua
các hoạt động của các thương vụ Việt Nam tại Trung Quốc cùng với phía Trung Quốc tổ
chức các hội chợ triển lãm giới thiệu hàng hóa của hai nước, quảng bá thương hiệu hàng
Việt Nam.
Về phương thức giao thương: Hiện xuất khẩu theo con đường chính ngạch thông
qua Hải quan đã tăng đáng kể chiếm tới 70% buôn bán của Việt Nam với Trung Quốc.
Tình trạng buôn lậu qua cửa khẩu giảm nhiều, hạn chế được thất thoát ngân sách. Trung
Quốc vẫn thực hiện quy chế ưu đãi biên mậu cho hàng hóa nhập khẩu vào Vân Nam từ
Việt Nam.
2.2.2. Những thách thức đặt ra
Tuy nhiên bên cạnh những cơ hội các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của Việt
Nam còn phải đối đầu với rất nhiều những thách thức khi Hiệp định có hiệu lực.
Trung Quốc cũng là một nước sản xuất và xuất khẩu nông sản lớn. Cơ cấu các mặt
hàng xuất khẩu của Trung Quốc và Việt Nam tương tự như nhau nhưng năng lực cạnh
tranh của hàng hóa Việt Nam yếu hơn nhiều cả về chất lượng và giá cả
Trước kia Trung Quốc thực hiện chế độ bảo hộ cao đối với hàng nông sản làm hạn
chế tối đa lượng nông sản nhập khẩu vào bằng các biện pháp thuế quan nhập khẩu. Nay
theo WTO, Trung Quốc đã dần thay các biện pháp thuế quan đó bằng những biện pháp
phi thuế mà WTO cho phép như các rào cản kĩ thuật, hạn ngạch thuế quan, các biện pháp
kiểm dịch…. Hàng hóa nhập khẩu vào Trung Quốc cũng phải đăng kí xuất xứ bằng tiếng
Trung, có nhãn hiệu công khai chất lượng hàng hóa, kiểm dịch thực vật và an toàn thực
phẩm. Tuy nhiên hiện Việt Nam và Trung Quốc vẫn chưa có một Hiệp định nào về chất
lượng hàng hóa tối thiểu, chưa có hiệp định kiểm dịch rau quả-loại nông sản chủ yếu xuất
sang Trung Quốc (chiếm tới 50% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam).
Cũng không rõ là do chính sách thuế bất cập, lí do các doanh nghiệp cậy vào để lí giải
cho tình trạng giảm sút về giá trị rau quả xuất khẩu sang Trung Quốc khi Hiệp định có
hiệu lực, Trung Quốc bắt đầu giảm thuế cho rau quả Việt Nam vì hiện Trung Quốc đã
giảm tới mức thuế suất 0% cho rau quả từ Thái Lan và Singapore (từ 2003). Còn phía
Trung Quốc lại nói mẫu mã và chất lượng nông sản Việt Nam còn kém, khó có khả năng
cạnh tranh với hàng nông sản từ Thái Lan. Hàng rau quả của Việt Nam và Thái Lan đang
chạy đua vào thị trường rộng lớn bậc nhất này. Thái Lan đã thực hiện nhiều biện pháp
nhằm đẩy mạnh xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc trong khi Việt Nam vẫn dậm chân
tại chỗ, vậy có phải Việt Nam đã chậm chân hơn, đến sau liệu Việt Nam có thể kiếm
được gì trên đất Trung Quốc từ hàng nông sản của mình không? Tuy tham gia vào EHP,
Việt Nam sẽ xuất khẩu được hàng nông sản sang Trung Quốc nhưng từ 2004 Việt Nam
cũng bắt đầu giảm thuế theo lộ trình thực hiện EHP, các hàng nông sản Trung Quốc cũng
đã được nhập khẩu vào Việt Nam một cách ồ ạt với số lượng lớn do giá thành rẻ do
Trung Quốc cũng là một nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Các hàng nông sản
Trung Quốc được xuất khẩu qua đường biên mậu, chất lượng không được kiểm định kĩ
càng, chủ yếu là hàng chất lượng không cao. Như rau quả Trung Quốc sau khi được Bộ y
tế kiểm tra đã cho thấy có sử dụng thuốc bảo quản như cáp tăng, Linh đan, DDT (loại
thuốc BVTV đã bị cấm sử dụng ở Việt Nam) rất nguy hiểm tới sức khoẻ con người
Đó là về phía khách quan còn về phía chủ quan từ tình trạng sản xuất nông sản của
Việt Nam mà đánh giá thì hiện sản xuất nông nghiệp của ta đang còn rất nhiều bất cập.
Cụ thể:
Công tác quy hoạch vùng nguyên liệu tiến hành chậm và chưa tốt, sản xuất nông
nghiệp vẫn ở trong tình trạng manh mún nhỏ lẻ khiến số lượng hàng nông sản tham gia
vào thị trường xuất khẩu không lớn, không ổn định rất khó khăn cho việc kí kết những
hợp đồng lớn vì khó tập trung được lượng hàng hóa lớn ngay trong một thời gian ngắn
Công nghệ phục vụ cho sản xuất, chế biến nông sản từng bước đã được chuyển
giao qua các dự án đầu tư vào nông nghiệp của các đối tác nước ngoài hoặc mua lại
nhưng hầu hết đó là những công nghệ lạc hậu chỉ ở trình độ trung bình thấp của thế giới,
thuộc thế hệ công nghệ của những năm 70s, 80s. Tiềm năng về sản xuất và xuất khẩu rau
quả của nước ta là rất lớn nhưng cả nước hiện mới chỉ có trên dưới 20 nhà máy chế biến
và xuất khẩu rau quả nên hầu hết rau quả xuất khẩu là rau quả chưa qua chế biến, ở dạng
thô, giá trị thấp, khó bảo quản, nhanh hỏng, dẫn đến tình trạng dễ bị tư thương ép giá.
Hơn thế các nhà máy này có trình độ công nghệ thấp nên sản phẩm nông sản đã qua chế
biến tại Việt Nam có chất lượng thấp, chỉ đạt 45-50% chất lượng của thế giới. Trái cây
Việt Nam có chất lượng thấp, thường bị bầm dập, xây xước (do thu hái, đóng gói, vận
chuyển, bốc xếp … không đúng cách); bị sâu bệnh, mau hư hỏng; không đồng đều, xấu
mó; bao bỡ xấu, khụng cú nhón hiệu hàng hoỏ; trỏi nhón bị xụng SO2 quỏ mức quy định,
phải trả lại hoặc huỷ… Trong khi đó, trái cây Thái Lan đẹp hơn, chất lượng cao hơn, mẫu
mó, bao bỡ hấp dẫn hơn. Chính vỡ vậy, trỏi cõy Việt Nam vẫn chỉ mới vào được các tỉnh
biên giới phía Nam của Trung Quốc, với số lượng cũn hạn chế, mà chưa thể đi sâu vào
nội địa nước này.
Việt Nam có tiềm năng về sản xuất và xuất khẩu nông sản như vậy nhưng dường
như các doanh nghiệp ít có người muốn tham gia vào lĩnh vực này do lợi nhuận thu được
từ sản xuất và xuất khẩu nông sản quá ít ỏi, không có tốc độ tăng trưởng cao như các
ngành công nghiệp hay dịch vụ khác. Chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa chứ chưa
có một tập đoàn kinh doanh trong lĩnh vực này tại Việt Nam mạnh về vốn, công nghệ,
giỏi về Marketing và đủ năng lực để gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của người nông
dân, các doanh nghiệp chế biến vệ tinh, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản với Nhà
nước
Hơn 60% dân số Việt Nam sống bằng nghề nông nhưng họ chưa có ý thức về việc
sẽ làm giàu bằng nghề này, họ không quan tâm đến nhiều vấn đề ngay cả những vấn đề
có ảnh hưởng đến xuất khẩu nông sản vì việc của họ chỉ là sản xuất và bán hàng với số
lượng nhỏ, việc còn lại là của người khác những người đã mua hàng của họ. Do vậy
những vấn đề như tiêu chuẩn kĩ thuật hay vệ sinh an toàn thực phẩm…không được chú ý
nhiều. Họ chỉ bằng mọi cách để tăng lượng, bán được nhiều hàng, thu nhập nhiều nên họ
sử dụng vô tội vạ các loại thuốc bảo vệ thực vật, chăm sóc cũng không đúng cách khiến
sản phẩm làm ra chất lượng không đồng đều không đáp ứng được yêu cầu của khách
hàng. Vì thế mới có chuyện hàng trăm tấn dưa hấu tắc nghẽn ở cửa khẩu Tân Thanh mà
không xuất sang Trung Quốc được do chất lượng không đạt
Các hợp tác xã ở nước ta hầu như chưa phát triển. Cán bộ phụ trách vừa yếu vừa
thiếu, không làm tốt được chức năng là cầu nối trung gian trung chuyển vốn, vật tư, kĩ
thuật, công nghệ…từ Nhà nước, doanh nghiệp đến hộ nông dân và ngược lại
Về phương thức giao thương còn rất nhiều bất cập. Các doanh nghiệp Việt Nam
quen làm ăn theo con đường tiểu ngạch qua biên giới. Trước kia được hưởng nhiều ưu
đãi từ cung cách làm ăn này( thuế biên mậu chỉ bằng 50% thuế thường). Nhưng theo
WTO, Trung Quốc phải thực hiện cắt giảm tất cả những ưu đãi này để dần tiến tới tự do
hoá thương mại hàng nông sản nên ngay từ đầu 2004, Trung Quốc đã thực hiện cắt bỏ
những ưu đãi theo con đường biên mậu vào tỉnh Quảng Tây, giờ chỉ còn tỉnh Vân Nam
thực hiện ưu đãi cho hàng Việt Nam vào theo hình thức này.
Buôn bán biên mậu cũng gặp không ít những khó khăn rủi ro, chủ yếu là ở khâu
đánh giá chất lượng hàng hóa, giao dịch và thanh toán không thông qua hệ thống Ngân
hàng, không theo tập quán quốc tế… Quy chế biên mậu chỉ cho phép một số doanh
nghiệp đầu mối của Trung Quốc giao dịch với ta và mọi thủ tục nhập khẩu kể cả kiểm
dịch, cấp phép, thanh toán, tiêu thụ hàng đều hoàn toàn phụ thuộc vào nhà nhập khẩu
Trung Quốc.
Về thanh toán: Tuy đã có các quy định về thanh toán qua Ngân hàng như Thông tư
08/2002/TT/BTC ngày 23/1/2002 hay công văn 3910/TCHQ-KHTT ngày 13/8/2003 của
Tổng cục Hải quan Việt Nam quy định về hình thức thanh toán quốc tế là L/C, TTR, T/T,
D/A, D/P qua cửa khẩu Trung Quốc nhưng hiện nay hình thức thanh toán phổ biến nhất
vẫn là tiền mặt trao ngay không thông qua hệ thống Ngân hàng. Tất cả đều do thủ tục
thanh toán qua Ngân hàng quá phức tạp, tỷ giá thấp hơn thị trường chợ đen…khiến các
doanh nghiệp không muốn thanh toán theo hình thức này
Vận chuyển hàng hoá qua biên giới hai nước cũng gặp không ít khó khăn. Trước
hết là do hai nước có nhiều cách trở về địa lý đi lại khó khăn mà hình thức vận chuyển
chủ yếu là thô sơ, mang vác hay vận chuyển bằng thuyền nhỏ ven biển. Hiện nay hai
nước đã có nhiều tuyến đường liên vận quốc tế như: Hà Nội- Đồng Đăng- Đông Hưng-
Nam Ninh; Hà Nội- Lào Cai- Hà Khẩu- Côn Minh hay tuyến Côn Minh- Hà nội –Hải
Phòng nối liền tỉnh Vân Nam với các thành phố lớn, phục vụ lưu thông hàng hoá giữa các
thành phố lớn thuộc hai nước
Các doanh nghiệp của ta cũng có rất ít hiểu biết về thị trường Trung Quốc như luật
lệ, chính sách và dễ bị phía đối tác Trung Quốc gây sức ép đặc biệt đối với các mặt hàng
có tính thời vụ như rau quả tươi. Hàng hóa được giao nhận ở biên giới, người bán không
biết sau đó hàng hóa sẽ được làm gì, vận chuyển và đi tiêu thụ ở đâu với nguồn gốc xuất
xứ như thế nào vì họ không quan tâm mà lại đi lo cho chuyến hàng khác. Và thường có
một nghịch cảnh là khi hàng được giao nhận xong thì người mua thay đổi luôn nhãn mác
và gắn cho hàng nông sản của ta một nhãn mác mới của một thương hiệu khác dù có thể
chất lượng vẫn không thay đổi.
Chương III - Các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu
nông sản sang Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN+Trung Quốc
3.1 . Triển vọng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Trung Quốc
Quan hệ buôn bán giữa Việt Nam và Trung Quốc đã nâng lên một tầm cao mới khi
hai nước bình thường hóa quan hệ. Trao đổi mậu dịch đã đạt được những thành tựu đáng
kể mang lại nguồn lợi lớn cho nhân dân hai nước đặc biệt là nhân dân các tỉnh biên giới.
Sự gắn kết về kinh tế góp phần làm tăng tình đoàn kết láng giềng hữu nghị giữa hai nước
sau những vụ tranh chấp về biên giới. Tuy nhiên mối quan hệ về kinh tế giữa hai nước
chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên (theo nhận định của giới quan sát), nó còn có
thể phát triển lên một tầm cao mới nếu hai nước bỏ qua những tranh chấp về lãnh thổ và
những hiềm khích trong quá khứ để tiến tới hợp tác toàn diện lâu dài trên mọi mặt, giúp
đỡ nhau cùng phát triển
Với chủ trương phát triển kinh tế đối ngoại theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế,
Đảng và Nhà nước đã từng bước sửa đổi chính sách kinh tế đối ngoại cho phù hợp hơn
với tình hình trong nước và trên thế giới, từng bước tham gia vào quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực. Phương châm của Đảng là phải biết kết hợp nội lực và ngoại lực,
phát huy sức mạnh tổng hợp để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo, yếu kém về kinh tế, hòa nhập vào nền
kinh tế thế giới. Điều này là hoàn toàn phù hợp trước xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế, khiến
ta không đứng ngoài cuộc chơi, có thể tận dụng mọi lợi thế do toàn cầu hóa mang lại.
Theo số liệu thống kê của Hải quan, trong năm 2004, Trung Quốc đã vươn lên trở
thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều
lên tới 7,19 tỷ USD, tăng 47,68 lần so với năm 2003 và tăng 190 lần trong 13 năm kể từ
năm 1991. Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc 2,735 tỷ USD, đứng thứ ba sau Hoa Kì
và Nhật Bản. Tới 2005, tuy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ đạt
2,961 tỷ USD, chiếm 9,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, thấp hơn so
với mục tiêu đạt ra từ đầu năm là 3 tỷ USD nhưng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn
tăng do Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc khá lớn 2,817 tỷ USD. Bộ Thương mại Việt
Nam đã xác định Trung Quốc sẽ là thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong 5
năm tới. Năm 2006 sẽ là 3,4 tỷ USD, năm 2007 là 3,9 tỷ USD, năm 2008 là 4,4 tỷ USD,
năm 2009 là 5,5 tỷ USD, và 2010 là 6,2 tỷ USD do hiện nay Trung Quốc đã bước vào
giai đoạn phát triển kinh tế nhanh và ổn định. Lợi thế từ sự phát triển vững mạnh của
Trung Quốc đảm bảo nhu cầu tiêu thụ hàng hóa của người dân Trung Quốc cũng sẽ tăng
và ổn định nên cơ hội cho hàng xuất khẩu của Việt Nam là rất lớn đặc biệt là hàng nông
sản ngành hàng nhận được nhiều ưu đaĩ nhất trong chương trình thu hoạch sớm cũng là
mặt hàng mà Việt Nam có khả năng cạnh tranh lớn nhất tại thị trường Trung Quốc trừ
dầu thô
Bảng 11: Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam năm 2005 và 2006
Đơn vị: triệu USD
Thị trường
Năm 2005
Dự báo năm 2006
Giá trị Tỷ trọng
(%)
Giá trị Tỷ trọng
(%)
Cả nước 32.442 100 36.000 100
Châu Á 14.122 43,5 15.885 44,1
Trong đó: + Nhật Bản 4.411 13,6 4.942 13,7
+ ASEAN 5.450 16,8 5.648 15,7
+ Trung Quốc 2961 9,1 3.400 9,4
Nguồn: Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan
Theo trên, cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2006 hầu như
không có sự thay đổi nhiều. Thị trường châu á vẫn chiếm tỷ trọng cao, gần 50% nhưng
trong khi tỷ trọng xuất khẩu sang các nước ASEAN giảm 1,1% thì tỷ trọng xuất khẩu
sang Trung Quốc tăng 0,3%. Ta cũng biết việc cắt giảm thuế theo CEPT đã được các
nước ASEAN6 hoàn thành vào năm 2003, và Việt Nam là năm 2006 (trừ những hàng
nông sản nhạy cảm), mức thuế bình quân theo CEPT chỉ còn 3,7% vào 2006, với hàng
nông sản chế biến mức thuế cao nhất cũng chỉ còn 5%. Với những hàng nông sản nhạy
cảm thì tới 2010 Việt Nam mới phải giảm thuế xuống còn 0-5%, bắt đầu từ năm 2004.
Nhưng theo EHP, Việt Nam sẽ được hưởng ngay lập tức lợi ích từ EHP bằng việc Trung
Quốc sẽ giảm thuế cho các mặt hàng chủ yếu là hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu
sang Trung Quốc mà chưa cần Việt Nam thực hiện nghĩa vụ giảm thuế. Tới 2006, Trung
Quốc đã hoàn thành việc giảm thuế còn Việt Nam vẫn ung dung nhận lợi ích mà chỉ phải
từ từ giảm thuế vì thời hạn của Việt Nam là tới tận 2008. Mức thuế trong EHP cũng ưu
đãi hơn nhều vả lại Trung Quốc lại là một thị trường béo bở với mọi quốc gia nên việc
Việt Nam muốn tăng tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc là điều đương nhiên
Bảng 12: Số liệu xuất nhập khẩu 2005 và dự báo năm 2010 của Việt Nam và
Trung Quốc
Chỉ tiêu mặt hàng 2000 2005
2010
PAI PAII
Tổng giá trị XNK (Triệu USD) 2.966 8.739 12.994 11.680
Tổng giá trị NK (Triệu USD) 1.432 5.778 6.524 6.000
Tổng giá trị XK (Triệu USD) 1.534 2.961 6.470 5.680
Các mặt hàng chính
- Cao su (1000 tấn) 66,4 369,764 157,9 130,2
- Hải sản (Triệu USD) 223,0 61,977 740,0 640,0
- Hạt điều (1000 tấn) 11,2 23,298 26,0 29,1
- Hoa quả (Triệu USD) 120,4 34,942 540,0 450,0
- Hạt tiêu (1000 tấn) 3,2 4,8 7,9 7,9
Ghi chú: PAI, PAII (Phương án I, Phương án II)
Nguồn: Dự án quy hoạch phát triển thương mại tại các vùng cửa khẩu biên giới phía Bắc
Theo trên thì trong những năm tới cụ thể là tới năm 2010 thì các mặt hàng nông
sản vẫn là thế mạnh của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm. Các
mặt hàng nông sản xuất khẩu chính của Việt Nam vẫn là các mặt hàng mà Việt Nam có
lợi thế như rau quả, hạt điều, cao su. Với tình hình hiện tại phía Trung Quốc đang có nhu
cầu rất lớn về các mặt hàng này thì triển vọng tăng lượng và giá trị các sản phẩm này
sang thị trường Trung Quốc là rất lớn.
Theo Viện Nghiên cứu chiến lược Mỹ (Center for Strategic & International
Study) dự đoán rằng đến năm 2050, Trung Quốc sẽ cùng với Mỹ trở thành hai cường
quốc lớn nhất trên thế giới. Thực trạng như vậy khiến cho miếng bánh Trung Quốc là một
miếng mà tất cả các quốc gia đều không nỡ bỏ qua vỡ sự hấp dẫn của nú, một thị trường
rộng lớn nhưng có nhu cầu đa dạng khiến các quốc gia với đủ cung bậc trỡnh độ sản xuất
các sản phẩm thuộc những thang chất lượng khác nhau đều có thể tiếp cận và chiếm thị
phần tại Trung Quốc
3.2. Thị trường nông sản của Trung Quốc
3.2.1. Tiềm năng thị trường nông sản của Trung Quốc
Trung Quốc nằm phía đông Châu á, thuộc Đông Bắc á, nằm trên vòng cung Châu
á-Thái Bình Dương, khu vực phát triển kinh tế năng động nhất trong những năm gần đây.
Trung Quốc là một thị trường khổng lồ với số dân lớn nhất trên thế giơí, tính đến tháng
7/2005, dân số Trung Quốc đã lên tới 1,304 tỷ người. Với diện tích 9,6 triệu km2, Trung
Quốc là nước có diện tích lớn thứ ba trên thế giới sau Nga và Canada. Trung Quốc có
tiềm năng rất lớn về sản xuất nông sản
Trung Quốc có 5 loại địa hình là cao nguyên, núi, gò đồi, đồng bằng và thung
lũng. Miền tây cao, miền đông thấp, nó thể hiện địa hình bậc thang thấp dần. Trung Quốc
có ba đồng bằng lớn là đồng bằng Đông Bắc, đồng bằng Hoa Bắc (Hoàng Hoài) và đồng
bằng hạ lưu sông Trường Giang. Các đồng bằng này đất đai màu mỡ, là nơi tập trung sản
xuất nông nghiệp, cung cấp lương thực, thực phẩm quan trọng cho Trung Quốc
Trung Quốc là khu vực khí hậu gió mùa rõ nét nhất, biểu hiện ở lượng mưa biến
đổi theo mùa, mưa nhiều, chủ yếu vào mùa hạ, mùa đông khí hậu khô và lạnh. Khí hậu
cũng phân theo đặc điểm địa hình, có những nơi quanh năm chủ yếu là mùa hạ không có
mùa đông như Vân Nam, Quảng Tây…, có nơi quanh năm lại là mùa đông, còn lại đa số
là có bốn mùa rõ rệt. Sự khác biệt về khí hậu giữa các vùng tạo điều kiện cho Trung
Quốc có thể phát triển các ngành nông nghiệp phù hợp với điều kiện thời tiết và phù hợp
với địa thế của từng vùng khác nhau. Chính điều này cũng tạo cho Trung Quốc có được
sự đa dạng, phong phú về chủng loại nông sản, Trung Quốc có đủ cả các sản phẩm nông
sản nhiệt đới và ôn đới tuỳ điều kiện thời tiết của các vùng
Trung Quốc cũng là một nước có nhiều sông ngòi, kênh rạch. Với 1500 con sông
thuộc hệ thống nước Thái Bình Dương và ấn Độ Dương, trong đó Trường Giang là con
sông lớn nhất Trung Quốc, lớn thứ ba trên thế giới bồi đắp phù sa cho đồng bằng hạ lưu
sông. Hệ thống sông ngòi dày đặc giúp Trung Quốc phát triển hệ thống thuỷ lợi, tưới tiêu.
Trung Quốc có một cơ cấu tổ chức hành chính khác phức tạp với 31 tỉnh thành phố: 22
tỉnh, 5 khu tự trị và 4 thành phố trực thuộc trung ương; 4 cấp hành chính gồm tỉnh, dịa
khu, huyện, xã. Mỗi tỉnh thành lại rất rộng lớn và đa dạng về nhu cầu, về tập quán văn
hóa…nên để có thể thâm nhập thành công vào thị trường Trung Quốc sâu hơn ta cần
nghiên cứu kĩ luật pháp và các tập tục văn hóa của mỗi vùng miền, nghiên cứu về tiềm
năng trong việc cung cấp loại nông sản đó của họ ra sao, đối thủ cạnh tranh hiện tại của ta
ở trên vùng đó là những ai
Trung Quốc là một nước đang phát triển với gần 20% dân số làm việc trong ngành
nông nghiệp. Tổng thu nhập quốc dân của Trung Quốc khá cao vào khoảng gần 1500 tỷ
USD, bình quân đầu người gần 1450 USD/người/năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế của
Trung Quốc vào loại cao nhất trên thế giới, trung bình vào 8-10%/năm. Tuy vậy ở Trung
Quốc có sự chênh lệch khá lớn về khoảng cách giàu nghèo, tỷ lệ dân số nghèo đói vẫn
cao, hơn 20 triệu người/ năm. Sự chênh lệch này sẽ giúp Việt Nam có khả năng thâm
nhập vào thị trường Trung Quốc dễ dàng hơn vì các phân đoạn thị trường của Trung
Quốc. Hiện với chất lượng hàng hóa như hiện nay thâm nhập vào đoạn thị trường cao cấp
ta chưa đủ sức nhưng ngoài ra Trung Quốc còn có đoạn thị trường trung và sơ cấp lớn
hơn đoạn thị trường cao cấp rất nhiều và khả năng thâm nhập những đoạn thị trường này
của ta là khá lớn.
Sản xuất nông nghiệp hàng năm của Trung Quốc được gần 500 triệu tấn lương
thực trong khi nhu cầu của Trung Quốc lớn hơn rất nhiều. Tình trạng thiếu hụt lương thực
khiến Trung Quốc phải nhập khẩu lương thực nhiều. Chính phủ Trung Quốc cũng có
nhiều biện pháp nhằm phát triển ngành nông nghiệp nông thôn Trung Quốc. Cụ thể như
việc Chính phủ đã Ban hành chính sách khuyến khích sản xuất lương thực, áp dụng “giá
sàn” đối với gạo; áp dụng thí điểm miễn 100% thuế đất nông nghiệp cho 6 tỉnh, giảm 2%
cho 11 tỉnh và giảm 1% cho các tỉnh còn lại. Năm 2005, miễn toàn bộ thuế đât nông
nghiệp trong cả nước. Ngoài ra còn có chính sách trợ cấp nông nghiệp thông qua chương
trình Giống và máy móc, trang thiết bị. Ngoài ra chính phủ cũng khuyến khích nhân dân
chuyển dịch từ ngành nông nghiệp sang các ngành khác đem lại thu nhập cao hơn, và
cũng để giải quyêt tình trạng dôi dư lao động trong nông nghiệp trong tình trạng dân số
Trung Quốc đang lớn như hiện nay. Khoảng 200 triệu dân Trung Quốc đã chuyển từ
nghề nông sang các ngành nghề khác hoặc ra các đô thị làm ăn trong những năm gần đây.
Hiện nay ngành nông nghiệp chỉ đóng góp hơn 10% GDP của Trung Quốc.
Một số sản phẩm nông sản xuất khẩu chủ yếu của Trung Quốc
Dựa vào đặc điểm địa hình và khí hậu của Trung Quốc ta có thể thấy được Trung
Quốc có tiềm năng lớn về sản xuất các loại nông sản như lúa gạo, rau quả ôn đới, nhiệt
đới, chè, …là những mặt hàng mà Việt Nam cũng có tiềm năng xuất khẩu lớn. Hiện
Trung Quốc đang đứng đầu thế giới về diện tích trồng chè, đứng thứ 2 về sản lượng chè,
đứng thứ 3 thế giới về xuất khẩu chè nhưng chỉ đứng thứ thứ 4 về thu nhập do chè mang
lại. Nguyên nhân chủ yếu đó là do có năng suất thấp (50kg/mẫu), thiếu thương hiệu nổi
tiếng. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng trong chất lượng vệ sinh an
toàn thực phẩm, công ty chè Durdas Trung Quốc đã đi tiên phong trong việc mở rộng các
nông trại, ứng dụng khoa học kĩ thuật tiên tiến vào sản xuất, thực hiện theo quy chuẩn
hiện đại nghiêm ngặt. Lá chè thu hoạch được phân thành 14 mức độ chất lượng khác
nhau, chè loại thượng hạng có giá gấp 11 lần loại chè cấp thấp
Trung Quốc cũng là nước sản xuất và tiêu thụ các loại nông sản nhiệt đới lớn trên
thế giới như hồ tiêu, cao su, dừa…Chúng được trồng chủ yếu trên đảo Hải Nam, nơi có
khí hậu nhiệt đới ẩm ướt, phù hợp với sự phát triển của các loại cây này( chiếm tới 90%
lượng tiêu của Trung Quốc). Hàng năm thu nhập từ tiêu xuất khẩu cũng mang về cho
Trung Quốc lượng ngoại tệ không nhỏ do ngành công nghiệp chế biến tiêu của Trung
Quốc khá phát triển, và các ngành công nghiệp khác như chiết xuất tinh dầu, sản xuất
oleoresin từ hạt tiêu, sản xuất gia vị hỗn hợp, đống gói gia vị xuất khẩu…đã trở thành
một trong những ngành công nghiệp quan trọng của đảo này. Đảo Hải Nam cũng là nơi
sản xuất cao su tự nhiên chủ yếu của Trung Quốc.
Với ba đồng bằng lớn màu mỡ rất thuận lợi cho sản xuất lúa nước phát triển.
Trung Quốc hàng năm sản xuất một lượng không nhỏ ngũ cốc phục vụ cho tiêu dùng và
xuất khẩu như lúa gạo, đỗ tương, lúa mỳ, lạc…Nhiều cao nguyên thuận lợi cho việc chăn
nuôi của Trung Quốc phát triển, Trung Quốc đã xuất khẩu nhiều loại gia cầm, gia súc
lớn…Nhìn chung, tiếm năng sản xuất nông sản của Trung Quốc là rất lớn và các loại
nông sản của Trung Quốc đa dạng, phong phú về chủng loại: ôn đới có, nhiệt đới có. Nó
giúp Trung Quốc trở thành một nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới, giúp ngành
nông nghiệp nông thôn Trung Quốc phát triển lớn mạnh không ngừng
Quan hệ với Việt Nam
Việt Nam và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 18 tháng 1 năm 1950.
Hai nước Việt Trung núi liền núi, sông liền sông, tỡnh lỏng giềng hữu nghị cú từ ngàn
xưa. Trung Quốc luôn hết lũng ủng hộ Việt Nam trong cụng cuộc đấu tranh cách mạng,
chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, hai nước đó cú sự hợp tỏc trờn nhiều lĩnh vực. Cuối
thập kỷ 70, quan hệ Việt Trung xấu đi. Tháng 11 năm 1991, Tổng bí thư Đảng cộng sản
Việt nam Đỗ Mười và Chủ tịch hội đồng bộ trưởng Vừ Văn Kiệt dẫn đầu đoàn đại biểu
cấp cao Việt Nam sang thăm chính thức Trung Quốc, hai nước bỡnh thường hoá quan hệ.
Từ đó, quan hệ Việt Trung khôi phục và phát triển toàn diện. Lónh đạo hai nước
qua lại mật thiết. Hai nước đó đưa ra 4 Thông cáo chung và 3 Tuyên bố chung. Năm
1999, lónh đạo hai nước đó xỏc định khuôn khổ quan hệ mới giữa hai nước hướng tới thế
kỷ mới: “Đoàn kết hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.
Trong tuyên bố chung năm 2000, hai bên đó lờn kế hoạch cụ thể phỏt triển quan hệ hợp
tác hữu nghị song phương. Ban lónh đạo mới của Trung Quốc tiếp tục quan tâm phát
triển mối quan hệ với Việt Nam.
Ngày 30 tháng 12 năm 1999, hai bên đó ký kết Hiệp ước biên giới trên bộ, đem lại
ý nghĩa quan trọng cho hoà bỡnh, ổn đỉnh và phát triển khu vực biên giới Việt Trung.
Ngày 25 tháng 12 năm 2000, hai bên đó ký kết Hiệp định quy hoạch lónh hai Vinh bắc
bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá. Cả hai hiệp định này bắt đầu có hiệu lực ngày 30 tháng
6 năm 2004, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển quan hệ hợp tác toàn diện, láng giềng
hữu nghị và môi trường hoà bỡnh ổn định trên Vịnh Bắc Bộ.Trong thời gian qua, quan hệ
Việt-Trung tiếp tục được thúc đẩy trên tất cả các lĩnh vực.
Trong chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Phan Văn Khải (5/2004), Tổng Bí
thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào nêu đề nghị 2 điểm về giải quyết những vấn đề nảy sinh
về biên giới lónh thổ và hai bờn đó ký đựoc thỏa thuận về việc này trong chuyến thăm
Trung Quốc của thứ trưởng Ngoại giao Vũ Dũng (8/2004). Tháng 10/2004, Thủ tướng
Trung Quốc Ôn Gia Bảo thăm hữu nghị chính thức Việt Nam nhân dịp dự ASEM5. Theo
Lê Dũng, người phát ngôn Bộ ngoại giao (3/11/2005) trong chuyến thăm Việt nam của
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào, Việt Nam và Trung Quốc đó ký nhiều Thoả
thuận hợp tỏc kinh tế với tổng giá trị hơn 1 tỷ đô la
Ta đó khai trương hai Tổng Lónh sự quỏn mới tại Cụn Minh-Võn Nam (30/4) và
Nam Ninh-Quảng Tõy (2/5) với sự chứng kiến của Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Phú
Bỡnh và lónh đạo hai tỉnh bạn. Trong giai đoạn dịch cúm gà, Chính phủ Trung Quốc đó
viện trợ khụng hoàn lại 100.000 USD và Bộ Nụng nghiệp Trung Quốc đó cung cấp thiết
bị trị giỏ 200.000 NDT, một số cụng ty Trung Quốc quyờn tặng nhiều dược phẩm và thiết
bị giúp ta khắc phục và phũng chống dịch bệnh.
Dịp Thủ tướng Phan Văn Khải thăm Trung Quốc (5/2004), hai bên đó thoả thuận
nõng kim ngạch buụn bỏn hai chiều lờn 10 tỷ USD vào năm 2010. Trung Quốc trở thành
đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam. Để đưa sự hợp tác kinh tế-thương mại giữa
hai nước tương xứng với tiềm năng và mong muốn của cả hai bên và tăng cường một
bước hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước, hai bên đó đồng ý xây dựng hành lang
kinh tế Hà Nội-Hải Phũng-Lạng Sơn-Nam Ninh và Hà Nội-Hải Phũng-Lào Cai-Cụn
Minh và vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ, coi đây là kế hoạch hợp tác trung-dài hạn giữa
hai nước. Trong chuyến thăm Trung Quốc của Bộ trưởng Trương Đỡnh Tuyển (5/2004),
hai bờn cũng trao đổi các biện pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại hai nước tăng
trưởng ổn định trong các năm tới.
Tại đàm phán vũng 10 cấp Chớnh phủ (tháng 1/2004), hai bên thoả thuận cố gắng
đẩy nhanh tiến độ phân giới cắm mốc, riêng năm 2004 sẽ phấn đấu xác định 50% số mốc
cũn lại (khoảng 700 mốc). Hai bờn đó đạt thoả thuận sẽ ngừng thi công toàn bộ các công
trỡnh đang xây dựng trên sông suối biên giới trước ngày 30/6/2004, đồng thời hoàn thành
công tác phân giới, cắm mốc trên sông, suối biên giới trước cuối tháng 6 năm 2005.
Hai bên đó ký chớnh thức Nghị định thư bổ sung Hiệp định nghề cá (4/2004).
Ngày 30/6/2004, hai bên tiến hành Lễ trao đổi thư phê chuẩn Hiệp định phân định Vịnh
Bắc Bộ và trao đổi công hàm phê duyệt Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ để hai
Hiệp định này chính thức có hiệu lực kể từ ngày 30/6/2004. Để triển khai thực hiện hai
Hiệp định trên, hai bên đó tiến hành phiờn họp lần thứ 1 Ủy ban liên hợp nghề cá Vịnh
Bắc Bộ từ 13-15/7. Hai bên cũng đó tiến hành 8 vũng đàm phán cấp chuyên viên về vấn
đề trên biển.
Hàng năm, hai bên cũng sẽ tiếp tục trao đổi các đoàn đại biểu cấp cao, các đoàn
chuyên gia, nghiên cứu sâu những kinh nghiệm công tác trên các lĩnh vực mà mỗi bên
quan tâm; mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chính
hiệp Trung Quốc đến các tỉnh thành phố, tạo điều kiện cho các tỉnh, thành phố có chung
đường biên giới đẩy mạnh các hoạt động, giao lưu để xây dựng đường biên giới hũa
bỡnh, hữu nghị
3.2.2. Chính sách biên mậu của Trung Quốc
Hoạt động kinh tế biên mậu là kết quả tất yếu khách quan của sự hợp tác giữa các
quốc gia có chung đường biên giới. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia”Núi liền
núi, sông liền sông…”, láng giềng hữu nghị nên sự hợp tác này không thể không nhắc tới.
Để tìm hiểu quan hệ biên mậuu giữa Việt Nam và Trung Quốc ta phải tìm hiểu trước hết
về chính sách kinh tế biên mậu của Trung Quốc
Kinh tế biên mậu là hình thức thương mại truyền thống của Trung Quốc, là một bộ
phận hữu cơ trong hoạt động thương mại quốc tế, đóng góp phần quan trọng trong phát
triển kinh tế của Trung Quốc do Trung Quốc có đường biên giới trên bộ dài 22000km,
với 8 tỉnh giáp biên giới với 15 quốc gia, quan hệ biên mậu với 13 quốc gia trong đó có
Việt Nam
Nội dung chính sách biên mậu của Trung Quốc
Thuế quan và các ưu đãi thuế quan
Với các nhu yếu phẩm hàng ngày được miễn các khoản thuế nhập khẩu và thuế giá
trị gia tăng liên quan nếu giá trị hàng hóa không quá 1000 RMB/người/ngày. Nếu giá trị
trao đổi lớn hơn hạn mức này thì phần vượt trội sẽ phải chịu thuế với mức thuế suất quy
định là 3000 RMB/người/ngày
Ngoại trừ các hàng hóa như thuốc lá, rượu, mỹ phẩm…chịu sự quản lý chung của
Nhà nước, các hàng hóa khác nhập khẩu vào Trung Quốc qua hình thức biên mậu sẽ
được giảm 50% thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng
Quản lý hoạt động xuất nhập khẩu với hình thức trao đổi kinh tế biên mậu có
giá trị nhỏ
Quy định doanh nghiệp được tham giá trao đổi biên mậu có giá trị nhỏ: Vốn đăng
ký từ 500000 RMB trở lên, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh nhất định, có đủ các yêu
cầu về tài chính, nhân lực đáp ứng yêu cầu của Hoạt động kinh tế biên mậu
Bộ thương mại Trung Quốc quyết định số doanh nghiệp được phép tiến hành kinh
doanh dưới hình thức trao đổi biên mậu có giá trị nhỏ
Việc nhập khẩu hàng hóa bị quản lý theo hạn chế về số lượng như phải có giấy
phép nhập khẩu hoặc quota phải có giấy phép của Sở thương mại các tỉnh biên giới cấp
Doanh nghiệp được hoàn thuế theo chính sách hoàn thuế chung
Quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài tại khu vực cửa khẩu
Việc quản lý, cấp phép do Bộ thương mại Trung Quốc quản lý
Không hạn chế về loại hình và phạm vi thương mại và các doanh nghiệp đó cũng
được hưởng các chính sách về khấu trừ hoặc ưu đãi miễn thuế với các giao dịch có giá trị
nhỏ
Thúc đẩy thanh toán biên mậu qua hệ thống Ngân hàng
Ngân hàng nhân dân Trung Quốc và Uỷ ban quản lý ngoại hối đã ban hành quy
định về việc điều chỉnh các chính sách về ngoại tệ có hiệu lực từ ngày 1/10/2002 điều
chỉnh các giao dịch biên mậu có giá trị nhỏ
-Thiết lập và hoàn thiện cơ chế thanh tóan qua hệ thống ngân hàng
Các ngân hàng thương mại mở rộng mạng lưới đổi tiền
Tăng giá mua vào các đồng ngoại tệ, xây dựng tỷ giá với các ngoại tệ, áp dụng tỷ
giá thả nổi trong phạm vi nhất định ở khu vực biên giới
Đưa thêm vào danh mục đồng tiền của các quốc gia khác không có chung đường
biên giới
3.2.3. Hiệp định tạm thời về giải quyết công việc trên vùng biên giới hai nước
Được ký vào ngày 7/11/1991. Nội dung chính của hiệp định
Hai bên đồng ý mở các chợ biên giới và chợ qua lại biên giới tại các thị xã thị
trấn dọc biên giới hai nước . Các điểm mở chợ do hai nước thỏa thuận
Hàng hóa trao đổi và phương tiện vận tải trong buôn bán biên mậu phải có giấy
phép của cơ quan Hải quan và các ngành chủ quản
Hai bên căn cứ vào quy định pháp luật về thuế của mình để thu thuế
Ngăn cấm nhập khẩu những mặt hàng cấm và ngăn cấm buôn lậu. Hàng hóa
phải được phép cho qua lại giữa biên giới hai bên theo quy định của pháp luật hai bên
Đến nay đã có 25 cặp cửa khẩu đuợc mở, 4 cặp tiểu ngạch trong đó chỉ có 18 cặp
được mở theo Hiệp định, 7 cặp ngoài Hiệp định là: Đàm Thủy (Cao Bằng), Bản Vược (
Lào Cai), Thượng Phùng (Hà Giang), Tân Thanh và Cốc Nam (Lạng Sơn), Ka Lôong và
Bắc Phong Sinh (Quảng Ninh)
Ngoài ra còn có 59 cặp đường mòn, 13 chợ biên giới đã được mở cửa để phục vụ
cho hoạt động buôn bán biên mậu giữa hai nước
3.2.4. Hiệp định về mua bán hàng hóa ở vùng biên giới
Về phương thức thanh tóan: Được Thanh toán bằng đồng tiền tự do chuyển đổi
hoặc VND hoặc RMB theo phương thức thanh toán do hai bên thỏa thuận. Các vấn đề cụ
thể về thanh toán do NHNN hai bên thỏa thuận
Về quản lý chất lượng: Hai bên kí kết hợp đồng tăng cường quản lý chất lượng
hàng hóa để đảm bảo lợi ích người tiêu dùng, bảo hộ sản xuất, chống hàng giả, hàng kém
phẩm chất, đồng thời tổ chức giám định hàng hóa và cấp giấy chứng nhận giám định
hàng hóa theo tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa của hai bên
3.3. Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu nông sản của Việt Nam
sang Trung Quốc
Từ những số liệu thực tiễn về quan hệ buôn bán nông sản giữa hai nước và những
đánh giá về tình hình cung nông sản của Việt Nam và cầu nông sản của Trung Quốc cũng
như hướng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đã xác định Trung Quốc là thị trường trọng
điểm cần đẩy mạnh xuất khẩu vào. Trong bối cảnh nhập siêu của nước ta từ Trung Quốc
đang gia tăng do nhu cầu sử dụng các sản phẩm trung gian nhập khẩu từ Trung Quốc để
phát triển kinh tế trong nước, cơ hội duy nhất để thu hẹp nhập siêu là đẩy mạnh xuất khẩu
của ta sang thị trường này. Hy vọng với sự đổi mới tư duy kịp thời của phía doanh
nghiệp, sự hỗ trợ của chính sách của nhà nước, ACFTA sẽ thực sự mang lại lợi ích thiết
thực cho nền kinh tế nước ta, đặc biệt khi EHP đã hoàn thành đối với phía Tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN và Trung Quốc.pdf