Luận văn Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc Á: Thực trạng và giải pháp

Tài liệu Luận văn Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc Á: Thực trạng và giải pháp: LUẬN VĂN: Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á - thực trạng và giải pháp Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một chủ trương của Đảng và Nhà nước, được coi là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho một bộ phận lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. XKLĐ còn là biện pháp để tiếp thu, chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, giúp đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng và tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam, tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu hơn vào khu vực và quốc tế. Khu vực Đông Bắc á có các nước có trình độ cao về phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật và công nghệ, trong đó Nhật Bản còn là nước công nghệ nguồn, là khu vực có nhu cầu nhập khẩu nhiều loại lao động. Vì vậy, XKLĐ sang khu vực này còn có mục đích tiếp thu các kiến thức khoa học công nghệ (KHCN), kỹ thuật sản xuất tiên tiến, ...

pdf113 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1478 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc Á: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á - thực trạng và giải pháp Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một chủ trương của Đảng và Nhà nước, được coi là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho một bộ phận lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. XKLĐ còn là biện pháp để tiếp thu, chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, giúp đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng và tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam, tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu hơn vào khu vực và quốc tế. Khu vực Đông Bắc á có các nước có trình độ cao về phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật và công nghệ, trong đó Nhật Bản còn là nước công nghệ nguồn, là khu vực có nhu cầu nhập khẩu nhiều loại lao động. Vì vậy, XKLĐ sang khu vực này còn có mục đích tiếp thu các kiến thức khoa học công nghệ (KHCN), kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, kinh doanh hiện đại từ các nước trong khu vực này, nâng cao tay nghề và rèn luyện tác phong công nghiệp cho người lao động. Thực tế, khu vực Đông Bắc á là một thị trường XKLĐ khu vực quan trọng đối với Việt Nam, trong đó các nước nhập khẩu lao động (NKLĐ) chính là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Từ đầu những năm 1990 đến nay, hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực này chiếm tỷ trọng lớn và có tác động tích cực đối với người lao động cũng như đối với sự phát triển chung của các ngành, địa phương của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan, hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn, có những diễn biến phức tạp và phát sinh các tiêu cực, rủi ro. Xảy ra hiện tượng lao động Việt Nam bị phân biệt đối xử về tiền công, về điều kiện làm việc và sinh hoạt, bị lạm dụng, lao động tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc và cư trú bất hợp pháp, v.v... Đặc biệt, số lượng lao động Việt Nam tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ngày càng lớn, đến mức các nước này đã nhiều lần lên tiếng sẽ đóng cửa thị trường nếu Việt Nam không tìm cách ngăn chặn và giải quyết dứt điểm, thậm chí Đài Loan đã tạm thời ngừng tiếp nhận lao động Việt Nam ở một số lĩnh vực. Những vấn đề đó đã tác động tiêu cực tới quan hệ hợp tác lao động của Việt Nam với các nước trong khu vực, là nguyên nhân gây ra nguy cơ bị đóng băng hoặc mất thị trường XKLĐ vào tay các nước XKLĐ khác, làm phức tạp thêm tình hình, gây khó khăn cho công tác quản lý lao động Việt Nam ở các nước này. Hơn nữa, xét về tầm chiến lược, những vấn đề đó nếu không được giải quyết triệt để sẽ làm mất uy tín của người lao động cũng như các doanh nghiệp XKLĐ của Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế, tạo dư luận và tâm lý không tốt trong xã hội đối với hoạt động XKLĐ, ảnh hưởng xấu tới mục tiêu và hiệu quả của hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực này trong thời gian tới. Từ tình hình thực tế nêu trên, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á để tìm ra những nguyên nhân của thành công và hạn chế, rút ra các bài học kinh nghiệm, đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế những phát sinh tiêu cực, thúc đẩy hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực này phát triển là rất có ý nghĩa và cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, vấn đề "Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á - thực trạng và giải pháp" được chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ta trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề XKLĐ, như: Nguyễn Lương Trào (1993): Mở rộng và nâng cao hiệu quả việc đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài - Luận án tiến sĩ kinh tế; Cao Văn Sâm (1994): Hoàn thiện hệ thống tổ chức và cơ chế xuất khẩu lao động - Luận án tiến sĩ kinh tế; Trần Văn Hằng (1995): Các giải pháp nhằm đổi mới quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động trong giai đoạn 1995-2010 - Luận án tiến sĩ kinh tế; Nguyễn Đình Thiện (2000): Một số vấn đề về xuất khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị; Nguyễn Văn Tiến (2002): Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động - thực trạng và giải pháp - Luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế; Nguyễn Phúc Khanh (2004): Xuất khẩu lao động với chương trình quốc gia về việc làm - Thực trạng và giải pháp - Đề tài khoa học cấp Bộ. Ngoài ra còn có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, các bài nghiên cứu đăng trên nhiều tạp chí viết về vấn đề này. Các công trình nghiên cứu này nhìn chung đã tiếp cận vấn đề XKLĐ của Việt Nam ở nhiều góc độ khác nhau, tập trung nhiều vào việc phân tích đánh giá hoạt động XKLĐ của Việt Nam nói chung, hoặc về các khía cạnh chính sách, cơ chế quản lý hoạt động XKLĐ. Tuy đề cập đến thực trạng và hướng phát triển XKLĐ của Việt Nam sang các nước thuộc khu vực Đông Bắc á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, nhưng các công trình này mới chỉ dừng lại ở mức độ đánh giá chung, tổng quát, chưa đi sâu vào phân tích, đánh giá đầy đủ về nhu cầu tuyển dụng lao động nước ngoài (LĐNN) của khu vực cũng như hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Hơn nữa, trong điều kiện nền kinh tế thế giới, khu vực và bản thân Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan cũng luôn hàm chứa những yếu tố có tác động không nhỏ tới việc tuyển dụng LĐNN ở từng nước, hoạt động XKLĐ của nước ta còn nhiều tồn tại, khó khăn, có nhiều diễn biến phức tạp chưa giải quyết được thì việc nghiên cứu, làm rõ cả về lý luận và thực tiễn về XKLĐ nói chung, hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á nói riêng cần phải được tiến hành thường xuyên, để từ đó đưa ra được các giải pháp phù hợp thúc đẩy hoạt động này tăng trưởng ổn định và phát triển bền vững. Do đó, tiếp tục nghiên cứu về XKLĐ nói chung và hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á nói riêng là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong bối cảnh hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về XKLĐ của một số nước và ở nước ta trong thời gian qua, luận văn có mục đích xác định những quan điểm cơ bản về hoạt động XKLĐ và kiến nghị một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á trong thời gian tới, góp phần phát triển hoạt động XKLĐ nói chung của nước ta. Để thực hiện được mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ chính sau đây: - Phân tích làm rõ bản chất, đặc điểm, các yếu tố tác động tới hoạt động XKLĐ và vai trò của hoạt động XKLĐ. - Khái quát những kinh nghiệm của một số nước về XKLĐ. - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á; rút ra một số kinh nghiệm đối với hoạt động XKLĐ của Việt Nam. - Phân tích nhu cầu tuyển dụng LĐNN của khu vực Đông Bắc á và nêu phương hướng XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á. - Xác định một số quan điểm về hoạt động XKLĐ cần nhận thức đúng; đề xuất một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, hạn chế và đẩy mạnh hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á. 4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu XKLĐ với tính chất là một hoạt động xuất khẩu hàng hóa sức lao động - một loại hàng hóa đặc biệt và chỉ nghiên cứu hình thức XKLĐ trực tiếp: đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại các nước và vùng lãnh thổ ngoài Việt Nam theo các hợp đồng cung ứng lao động giữa các tổ chức kinh tế của Việt Nam và nước ngoài, có sự quản lý của nhà nước. Hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á được thực hiện chính thức từ năm 1992 và chủ yếu là XKLĐ sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Vì vậy, nghiên cứu thực trạng hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu hoạt động XKLĐ trực tiếp của Việt Nam sang các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan từ năm 1992 đến năm 2004. Đối tượng nghiên cứu là hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại các cơ sở sản xuất kinh doanh và làm dịch vụ giúp việc tại các nước và vùng lãnh thổ này. Thuật ngữ xuất khẩu sức lao động và xuất khẩu lao động được dùng tương đương trong luận văn và đồng nhất về cách hiểu, mặc dù về khía cạnh khoa học, chỉ có sức lao động mới là hàng hóa và là đối tượng của trao đổi, mua bán, trong đó có xuất khẩu. Người lao động ở các trình độ, nghề nghiệp khác nhau được đưa đi làm việc ở nước ngoài theo các hợp đồng cung ứng lao động được nghiên cứu chung là lao động xuất khẩu (LĐXK). 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời kết hợp với một số phương pháp khác như thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp một cách logíc, có kế thừa những kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu khoa học trước đây để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra. 6. Những đóng góp của luận văn - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động XKLĐ. - Làm rõ nhu cầu tuyển dụng LĐNN của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan và phương hướng XKLĐ của Việt Nam sang các nước này. - Tìm ra một số nguyên nhân của thành công và hạn chế trong hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á, rút ra một số kinh nghiệm về hoạt động XKLĐ của Việt Nam. - Đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, hạn chế các phát sinh tiêu cực, đồng thời thúc đẩy hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á phát triển trong thời gian tới. 7. ý nghĩa thực tiễn của luận văn Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách kinh tế - xã hội, nhất là đối với những người làm công tác XKLĐ, các nhà nghiên cứu và các độc giả quan tâm. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết. Mục lục Trang Mở đầu 1 Chương 1: những vấn đề lý luận và thực tiễn về xuất khẩu lao động 7 1.1. Xuất khẩu lao động - một hình thức hợp tác kinh tế quốc tế 7 1.2. Vai trß cña ho¹t ®éng xuÊt khÈu lao ®éng ®èi víi c¸c n-íc h÷u quan 27 1.3. Kinh nghiÖm cña mét sè n-íc trong khu vùc về xuất khẩu lao động 33 Ch-¬ng 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động của việt nam sang thị trường khu vực đông bắc á 40 2.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động xuÊt khÈu lao ®éng sang NhËt B¶n, Hµn Quèc, §µi Loan vµ nguyªn nh©n 40 2.2. Những hạn chế, khó khăn trong hoạt động xuất khẩu lao động của ViÖt Nam sang NhËt B¶n, Hµn Quèc, §µi Loan vµ nguyªn nh©n 51 2.3. Một số kinh nghiệm rút ra từ thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vùc §«ng B¾c á 67 Ch-¬ng 3: một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động của việt nam sang thị trường khu vực đông bắc á 70 3.1. Nhu cÇu sö dông lao ®éng n-íc ngoµi cña khu vùc §«ng B¾c á vµ ph-¬ng h-íng xuÊt khÈu lao ®éng cña ViÖt Nam sang khu vùc nµy 70 3.2. Những quan điểm về hoạt động xuất khẩu lao động cần được nhận thức đúng 76 3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường Đông Bắc á trong thêi gian tíi 82 Kết luận 100 những công trình liên quan đến luận văn đã được công bố 102 Danh mục tài liệu tham khảo 103 Chương 1 Những Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn Về Xuất Khẩu LAO Động 1.1. Xuất khẩu lao động - một hình thức hợp tác kinh tế quốc tế Xuất khẩu lao động là một hoạt động có tính chất phức tạp, nhạy cảm do liên quan trực tiếp đến con người, tới nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội, quan hệ đối ngoại cũng như do có nhiều quan điểm và nhận thức khác nhau. Bởi vậy, làm rõ bản chất, đặc điểm, các yếu tố tác động tới hoạt động XKLĐ sẽ giúp cho có được một cách nhìn toàn diện, thống nhất về quan điểm trong lý luận cũng như thực tiễn về hoạt động XKLĐ ở nước ta. 1.1.1. Bản chất, đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động 1.1.1.1. Một số vấn đề liên quan đến thuật ngữ XKLĐ Theo cách hiểu thông thường, việc khảo sát thị trường lao động, tìm kiếm người sử dụng lao động ở nước ngoài, ký kết các hiệp định hợp tác hoặc hợp đồng lao động, tiến hành đưa người lao động đi làm việc ở các nước và các hoạt động kèm theo là nội dung chính của hoạt động XKLĐ. Theo cách hiểu đó, hoạt động XKLĐ bao hàm việc di chuyển của người lao động từ một nước này đến nước khác làm việc. Tuy nhiên, không phải bất cứ một sự di chuyển lao động nào như vậy của người lao động đều là hoạt động XKLĐ. Vấn đề này, ở các quốc gia, thậm chí ở một quốc gia, tùy từng điều kiện cụ thể mà người ta có các cách hiểu, quan niệm khác nhau. Nhưng nhìn chung, về thực chất, sự di chuyển này là việc người lao động đi làm thuê cho người sử dụng lao động ở ngoài nước. Để làm rõ bản chất cũng như đưa ra được khái niệm đầy đủ về hoạt động XKLĐ, cần xem xét tới một số vấn đề liên quan sau: Thị trường lao động: Là thị trường trao đổi sức lao động, là một không gian trao đổi, tiến tới một thỏa thuận giữa người sở hữu sức lao động và người cần sức lao động đó để sử dụng. Kết quả của sự trao đổi đó là sự thỏa thuận bằng hợp đồng về tiền công cùng với một số điều kiện khác cho một công việc cụ thể. Thị trường lao động chính là biểu hiện của sự trao đổi, là mối quan hệ kinh tế cần thiết giữa người sở hữu và người sử dụng sức lao động. Hàng hóa trên thị trường lao động là sức lao động - một loại hàng hóa đặc biệt, giá cả của nó cũng chịu sự tác động của các quy luật kinh tế, nhất là quy luật cung - cầu. Lao động di cư (migrant worker) chỉ người lao động di chuyển từ nước này sang nước khác để làm việc, thuộc phạm trù di dân quốc tế (international migration). Di dân quốc tế bao gồm những vấn đề lớn hơn khái niệm lao động di cư, để chỉ những người hoặc dòng người di chuyển từ nước này sang nước khác vì nhiều mục đích khác nhau, với nhiều lứa tuổi khác nhau, trong đó có một bộ phận thuộc lực lượng lao động. Xuất khẩu lao động: Được hiểu như là công việc đưa người lao động từ một nước đi lao động tại nước có nhu cầu thuê mướn, sử dụng lao động. Nó có liên quan đến các khái niệm: lao động xuất cư - chủ yếu đề cập tới người lao động ra đi từ một nước nào đó tới nước mà họ lao động; lao động nhập cư - chủ yếu đề cập đến người lao động từ nước ngoài vào một nước nào đó để làm việc; lao động xuất khẩu - đề cập đến người lao động của một nước có độ tuổi, sức khỏe và kỹ năng lao động khác nhau được đưa đi làm việc ở ngoài nước theo các quy định của pháp luật nước đó. Trên thế giới, thuật ngữ thông dụng để chỉ sự di chuyển của người lao động ra khỏi biên giới một nước là lao động di cư hay lao động di trú. Theo Điều 11 của Công ước số 97 (1949) của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), khái niệm người lao động di cư chỉ một người di cư từ nước này sang một nước khác để làm thuê cho người khác [47]. Như vậy, bất cứ sự di chuyển nào của người lao động từ nước này đến nước khác để làm việc đều được gọi chung là lao động di cư, không phân biệt hình thức tổ chức và đối tượng tham gia. Với cách hiểu này, thuật ngữ lao động di cư chỉ phản ánh biểu hiện bề ngoài sự di chuyển của người lao động đi làm việc ở nước ngoài dưới bất kỳ hình thức nào, chưa thể hiện được bản chất của nó là quá trình mua bán sức lao động giữa người lao động (người sở hữu sức lao động) với người thuê lao động (người sử dụng sức lao động). Hơn nữa, khái niệm cũng bao hàm và không phân biệt các trường hợp di chuyển hợp pháp (có sự quản lý của nhà nước) và di chuyển bất hợp pháp (nhà nước không kiểm soát được) của người lao động. ở Việt Nam, liên quan đến sự di chuyển của người lao động đi làm việc ở nước ngoài có một số quan niệm, thuật ngữ được sử dụng ở các thời kỳ khác nhau như: hợp tác quốc tế về lao động, đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, xuất khẩu lao động. Hợp tác quốc tế về lao động hay hợp tác quốc tế về sử dụng lao động là cụm từ được sử dụng vào những năm 1980, phản ánh hoạt động cung ứng và tiếp nhận lao động giữa Việt Nam với một số nước xã hội chủ nghĩa cũ và một số nước ở châu Phi và Trung Đông theo các hiệp định chính phủ. Như vậy, hợp tác quốc tế về lao động bao gồm các hoạt động: đưa lao động Việt Nam sang nước khác làm việc, cung cấp lao động cho nước ngoài sử dụng ngay trong nước và tiếp nhận LĐNN vào Việt Nam làm việc. Nhưng thực tế lúc đó chủ yếu là Việt Nam thực hiện cung cấp lao động đáp ứng nhu cầu lao động bị thiếu hụt ở các nước tiếp nhận, được thể hiện dưới hình thức Nhà nước tuyển chọn và trực tiếp đưa lao động ra nước ngoài nhằm mục đích đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề ở các nước tiếp nhận trên tinh thần giúp đỡ, hợp tác hữu nghị, chưa chú trọng đến mục đích kinh tế. Vì vậy, "hợp tác quốc tế về lao động" chỉ được sử dụng với nghĩa hẹp, phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung và điều kiện lịch sử lúc đó, không thể hiện được bản chất của nó đó là sự trao đổi, mua bán hàng hóa sức lao động trên cơ sở ngang giá và cân bằng lợi ích giữa các chủ thể tham gia. Đưa người lao động đi làm việc (có thời hạn) ở nước ngoài: Là cụm từ được sử dụng vào đầu những năm 1990 thay cho cụm từ hợp tác quốc tế về lao động, gắn liền với sự thay đổi nhận thức về sức lao động và quan niệm về việc đưa lao động ra nước làm việc. Sức lao động đã được thừa nhận là một hàng hóa có thể trao đổi, mua bán ở cả trong và ngoài nước. Hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài là nhằm các mục tiêu: kinh tế (thu nhập cho người lao động và thu ngoại tệ cho đất nước), xã hội (giải quyết việc làm); quan hệ quốc tế (hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật), được thực hiện theo các hình thức tổ chức: hiệp định giữa hai chính phủ (nếu có); các hợp đồng cung ứng lao động giữa các tổ chức kinh tế của Việt Nam và nước ngoài; các hợp đồng lao động giữa người lao động với các tổ chức kinh tế Việt Nam hoặc các tổ chức kinh tế và cá nhân nước ngoài [22]. Nhà nước không trực tiếp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài mà chủ yếu do các tổ chức kinh tế được cấp phép đảm nhiệm. Hoạt động này đã phản ánh sát thực bản chất của việc cung ứng và tiếp nhận lao động giữa các quốc gia, đó là sự trao đổi, mua bán hàng hóa sức lao động nhằm mục đích kinh tế - xã hội, nằm trong quỹ đạo của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Xuất khẩu lao động: Là thuật ngữ hiện được sử dụng phổ biến, có ý nghĩa tương đương với cụm từ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong nhiều văn bản pháp luật, tài liệu nghiên cứu về người lao động đi làm việc ở ngoài nước. Trong cơ chế kinh tế thị trường, XKLĐ phản ánh hoạt động cung - cầu lao động trên thị trường lao động quốc tế theo các quy luật kinh tế, trên cơ sở giá cả của hàng hóa sức lao động và lợi ích kinh tế của các chủ thể tham gia; phản ánh được sự khác biệt giữa hình thức tổ chức đưa lao động ra nước ngoài làm việc một cách hợp pháp với các hình thức tổ chức khác. 1.1.1.2. Bản chất của hoạt động XKLĐ Từ hiện tượng di chuyển lao động tự do đến XKLĐ là một quá trình gắn liền với quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước. Đó cũng là một quá trình nhận thức khách quan về vai trò của người lao động và sức lao động tiềm ẩn trong các nước dư thừa lao động. Vấn đề di chuyển lao động và XKLĐ về thực chất là việc đem sức lao động từ một nước này tới một nước khác nhằm mục đích kinh tế, nhưng giữa chúng có sự khác nhau về chất. Việc di chuyển lao động ban đầu mang tính tự phát còn việc di chuyển lao động trong XKLĐ lại mang tính tự giác, tức là có việc tổ chức đưa lao động đi và về kèm theo hạch toán kinh tế, có ý nghĩa chiến lược của một quốc gia. Như vậy, XKLĐ bản thân nó là một hoạt động nhằm mục đích kinh tế, có liên quan đến nhiều vấn đề nhạy cảm và phức tạp vì gắn liền với hoạt động của người lao động. Từ thực tế nêu trên cùng với tính đặc biệt của hàng hóa sức lao động đã tạo ra sự phức tạp trong hoạt động XKLĐ, do đó vẫn còn có những điểm khác nhau trong các khái niệm khi nghiên cứu về hoạt động XKLĐ ở Việt Nam. Dưới góc độ chuyên ngành kinh tế và tổ chức lao động, theo tác giả Nguyễn Lương Trào: "Việc tổ chức đưa lao động ra nước ngoài làm việc được nhà nước xem đó là một lĩnh vực hoạt động kinh tế hợp pháp và cho phép các tổ chức kinh tế (nhà nước hoặc tư nhân) thực hiện thì đó chính là hoạt động xuất khẩu lao động" [45, tr. 5]. Trên giác độ phân tích một hoạt động nghiệp vụ ngoại thương, tác giả Nguyễn Phúc Khanh cho rằng: "Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế đối ngoại đặc thù của một quốc gia, thực hiện việc cung ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở hợp đồng có thời hạn, có tính chất pháp quy được thống nhất giữa quốc gia đưa và nhận lao động" [25, tr. 10]. Phân tích XKLĐ dưới góc độ quản lý kinh tế, XKLĐ được quan niệm: "Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế của một quốc gia, thực hiện việc cung ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định, hợp đồng giữa các nhà nước, tổ chức kinh tế, pháp nhân, cá nhân của quốc gia xuất khẩu với các quốc gia nhập khẩu" [44, tr. 5]. Có thể thấy, trong các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, theo cách tiếp cận khác nhau, người nghiên cứu đưa ra các khái niệm khác nhau, hoặc có điểm khác nhau trong quan niệm về XKLĐ. Các khái niệm này nhìn chung đã phản ánh những biểu hiện cụ thể, mang tính kỹ thuật của hoạt động XKLĐ: cung ứng lao động cho nước ngoài theo các hợp đồng đã ký kết. Việc phản ánh bản chất của hoạt động XKLĐ mới ở mức độ khái quát những biểu hiện chung nhất - đó là một hoạt động nhằm mục đích kinh tế qua việc đưa lao động từ nước này sang nước khác, mà chưa thể hiện được đó là việc bán hàng hóa sức lao động trong nước cho chủ sử dụng ở nước ngoài. Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động được coi là hàng hóa, được đem ra trao đổi, mua bán trên thị trường. Nhưng người lao động là chủ sở hữu sức lao động, chỉ bán giá trị sử dụng của sức lao động và bán nó trong một khoảng thời gian nhất định cho người mua là người sử dụng lao động, theo những điều kiện đã được thỏa thuận giữa hai bên. Người mua chỉ được sử dụng sức lao động trong thời gian đã thỏa thuận để thu giá trị thặng dư do người lao động tạo ra, hết thời hạn này, sự ràng buộc giữa hai bên chấm dứt. Hoạt động mua bán này diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể người lao động trực tiếp tìm đến người sử dụng hoặc thông qua các môi giới trung gian theo các hợp đồng cung ứng lao động. Nếu người lao động bán sức lao động, đi làm thuê cho người sử dụng ở ngoài nước thì việc mua bán này diễn ra trên thị trường lao động quốc tế, khi đó hoạt động này vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia và do đó, liên quan tới các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội,… giữa quốc gia mà người lao động đi và quốc gia mà người lao động đến để làm việc. Để đảm bảo quyền lợi của người lao động cũng như các lợi ích khác của quốc gia, nhà nước đã phải tham gia vào hoạt động này. Cho đến nay, hầu hết sự di chuyển của người lao động ra nước ngoài làm việc đều có sự can thiệp của nhà nước, nhưng với các mức độ khác nhau ở các nước khác nhau. Vì thế trên thế giới người ta thường xếp XKLĐ vào hoạt động kinh tế đối ngoại hay hoạt động kinh tế quốc tế. Như vậy có thể thấy, thực chất XKLĐ là hoạt động xuất khẩu hàng hóa sức lao động - một loại hàng hóa đặc biệt, bản chất của hoạt động này là việc bán hàng hóa sức lao động trong nước cho nước ngoài. Người lao động thông qua các tổ chức môi giới giao dịch hàng hóa sức lao động, hay các tổ chức XKLĐ, của nhà nước hoặc tư nhân, để bán sức lao động, đi làm thuê cho chủ sử dụng lao động ở ngoài nước. Từ những phân tích trên, chúng tôi mạnh dạn tóm lược các nội dung trên và đưa ra một khái niệm tương đối đầy đủ về XKLĐ như sau: Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế - xã hội đặc thù, thuộc lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế của một quốc gia nhằm thực hiện việc cung ứng hàng hóa sức lao động cho nhu cầu sử dụng ở nước ngoài theo các hình thức do nhà nước quy định. Đây là một hình thức giao dịch hàng hóa sức lao động trên thị trường lao động quốc tế, trong đó người chủ bán hàng hóa sức lao động cho người sử dụng ở nước ngoài thông qua các tổ chức môi giới trung gian của nhà nước hoặc tư nhân. 1.1.1.3. Đặc điểm của hoạt động XKLĐ Sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt, do đó, hoạt động XKLĐ cũng có những đặc điểm khác với hoạt động xuất khẩu các hàng hóa khác. - Hoạt động XKLĐ là một hoạt động đặc thù thuộc lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế. Tính đặc thù này được thể hiện hoạt động XKLĐ là một hoạt động nhằm mục đích kinh tế nhưng mang tính xã hội sâu sắc trong quan hệ với nước ngoài. Là một hoạt động kinh tế, ở nhiều nước, XKLĐ đã trở thành một giải pháp để giải quyết việc làm cho lực lượng lao động ngày càng tăng, tích lũy tư bản từ nguồn tiền chuyển về nước của người lao động đi XKLĐ và các khoản thu khác từ hoạt động này. Những lợi ích kinh tế này buộc nước XKLĐ phải nỗ lực để có thể chiếm được thị phần XKLĐ cao nhất. Chính vì vậy, nước XKLĐ phải tính toán sao cho bù đắp được chi phí trong hoạt động XKLĐ và thu được các lợi ích kinh tế cho các chủ thể tham gia, vì vậy phải có cơ chế thích hợp để tăng tối đa khả năng cung lao động. Mục tiêu kinh tế luôn được chú trọng trong hoạt động XKLĐ, do đó, mọi chủ trương, chính sách, các biện pháp quản lý, điều tiết của nhà nước về hoạt động XKLĐ đều bám sát đặc điểm này, định hướng và bảo đảm cho hoạt động XKLĐ đạt được mục tiêu về lợi ích kinh tế. Tính chất xã hội của hoạt động XKLĐ bắt nguồn từ tính chất đặc biệt của hàng hóa sức lao động. Sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra sử dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó [34, tr. 251]. Vì vậy, xét cả về số lượng và chất lượng, hàng hóa sức lao động phụ thuộc hoàn toàn vào bản thân người mang loại hàng hóa này. Hơn nữa, sức lao động còn bao hàm các yếu tố về lịch sử và tinh thần [34, tr. 257], nên hàng hóa sức lao động có một đặc tính xã hội riêng có. Người lao động có khả năng tư duy và tự làm chủ bản thân, mang trong mình các đặc điểm về đạo đức, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán… của một quốc gia, dân tộc, chúng di chuyển cùng người LĐXK. Vì thế, các chính sách điều tiết hoạt động XKLĐ đều phải kết hợp với các chính sách xã hội khác, nhất là phải đảm bảo được quyền lợi của người lao động, trong các hiệp định hợp tác lao động, hợp đồng XKLĐ cũng phải có những điều khoản đề cập đến đời sống chính trị, tinh thần, văn hóa, sinh hoạt của người lao động như vấn đề thăm thân, tham gia các hoạt động văn hóa, lễ hội, sinh hoạt tập thể... Hoạt động XKLĐ luôn đòi hỏi phải có sự tham gia của nhà nước - với tư cách là một chủ thể tham gia vào quá trình này. Nhà nước tham gia vào hoạt động XKLĐ bằng cách xây dựng các khuôn khổ pháp lý cho hoạt động XKLĐ để bảo đảm các lợi ích quốc gia, quyền lợi của các tổ chức, doanh nghiệp, người lao động tham gia XKLĐ, duy trì và phát triển quan hệ hợp tác với các nước NKLĐ,... Trong những trường hợp cần thiết, nhà nước phải trực tiếp giải quyết các vấn đề mà bản thân các tổ chức, doanh nghiệp XKLĐ không thể đảm đương được như bảo vệ người lao động ở nước ngoài, đàm phán ký kết các hiệp định chính phủ về hợp tác lao động với nước ngoài, ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến người lao động, giải quyết các vấn đề tiêu cực trong hoạt động XKLĐ như lao động vi phạm pháp luật ở nước NKLĐ, lừa đảo trong hoạt động XKLĐ,... - Hoạt động XKLĐ là một hoạt động xuất khẩu dịch vụ đặc thù. Đặc điểm này được thể hiện qua tính chất vô hình không thể chia cắt và tính chất không xác định trong hoạt động XKLĐ. + Tính chất vô hình, không thể chia cắt: Hoạt động dịch vụ thông thường có đặc điểm không hiện hữu, không tồn tại dưới dạng vật thể, không thể sờ mó, tiếp xúc hay nhìn thấy được khi ra quyết định sử dụng. Đối với XKLĐ, yếu tố không hiện hữu thể hiện ở chỗ, hoạt động XKLĐ không chấm dứt khi đã hoàn thành thủ tục đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, nó kéo dài từ khi đưa người lao động đi XKLĐ, giúp người lao động thích nghi với công việc ở nước ngoài cho đến khi người lao động về nước. Các bên liên quan đến hoạt động XKLĐ có quyền lợi và nghĩa vụ trong suốt thời hạn của hợp đồng, đồng thời, phải thường xuyên có những hành động để thực hiện nghĩa vụ quy định trong hợp đồng, hoặc cả trường hợp không quy định trong hợp đồng nhưng có liên quan đến quyền lợi của người lao động, người cung ứng lao động và người sử dụng lao động [24, tr. 12]. + Tính chất không xác định: Dịch vụ có tính không đồng nhất, sản phẩm dịch vụ phi tiêu chuẩn hóa, chất lượng thường không xác định bởi các dịch vụ phụ thuộc vào người cung cấp chúng. Tính chất không xác định trong hoạt động XKLĐ được quy định bởi chất lượng hàng hóa sức lao động. Chất lượng của hàng hóa sức lao động được phản ánh và phụ thuộc vào nguồn lực thể chất và tinh thần của người lao động, hay là khả năng dẻo dai, bền bỉ trong lao động, khả năng thành thạo và sáng tạo của người lao động cũng như điều kiện làm việc, sinh hoạt nghỉ ngơi, các hoạt động văn hóa… cho người lao động. Tuy nhiên, các yếu tố này ở mỗi người, ở mỗi địa phương, khu vực là khác nhau, có thể thay đổi làm cho chất lượng hàng hóa sức lao động thay đổi theo, không ổn định, do đó tạo ra tính chất không xác định trong hoạt động XKLĐ. - Hoạt động XKLĐ có cách tính giá cả hàng hóa xuất khẩu khác biệt. Hàng hóa xuất khẩu trong hoạt động XKLĐ là sức lao động, giá cả hàng hóa sức LĐXK là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động của người LĐXK và được xác định trên thị trường lao động. Giá trị của hàng hóa sức lao động được xác định gồm: giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì sự sống và đảm bảo tái sản xuất sức lao động của bản thân người lao động, để nuôi sống gia đình, con cái của người lao động và các chi phí đào tạo nghề nghiệp, kỹ năng lao động, các chi phí để thỏa mãn các nhu cầu văn hóa tinh thần của người lao động [34, tr. 256-258]. Do đó, ngoài vấn đề phải đảm bảo được sức cạnh tranh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, việc tính toán giá cả hàng hóa trong XKLĐ phải tính đúng và tính đủ các yếu tố hình thành giá trị hàng hóa sức lao động, phải tính toán trong điều kiện từng thị trường cụ thể, nơi diễn ra việc trao đổi sức lao động vì mỗi thị trường có chi phí và điều kiện sinh hoạt khác nhau. Như C.Mác đã chỉ ra "những nhu cầu thiết yếu, cũng như phương thức thỏa mãn những nhu cầu đó... phụ thuộc phần lớn vào trình độ văn minh của mỗi nước, ngoài ra còn phụ thuộc rất nhiều vào những thói quen và những nhu cầu sinh hoạt" [34, tr. 256]. - Hoạt động XKLĐ phải đảm bảo lợi ích kinh tế cho ba chủ thể tham gia. Hoạt động XKLĐ, ngoài sự tham gia của Nhà nước và doanh nghiệp XKLĐ, còn có sự tham gia trực tiếp của người lao động. Người lao động tham gia vào hoạt động XKLĐ với tư cách vừa là người tạo ra hàng hóa xuất khẩu, vừa là người trực tiếp mang hàng đi bán, lợi ích của họ là các khoản thu nhập hay tiền công lao động ở nước ngoài; lợi ích của các doanh nghiệp XKLĐ chủ yếu là các loại phí trong việc giúp cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài; lợi ích của nhà nước là các khoản ngoại tệ ròng nhận được thông qua các khoản tiền của người lao động gửi về nước, các khoản phí và thuế từ hoạt động XKLĐ. Vì lợi ích kinh tế, cả người lao động và doanh nghiệp XKLĐ rất dễ vi phạm các quy định của pháp luật. Do đó, các chính sách điều chỉnh phải đảm bảo được sự hài hòa lợi ích trực tiếp của các chủ thể tham gia, trong đó phải chú trọng đến lợi ích của người lao động. - Hoạt động XKLĐ không có sự chuyển quyền sở hữu hàng hóa xuất khẩu, việc thực hiện quyền sử dụng hàng nhập khẩu có thời hạn. Sức lao động gắn chặt với người lao động, không thể tách rời khỏi cơ thể sống của người lao động và luôn thuộc quyền sở hữu của người lao động. Người lao động với tư cách là một con người phải thường xuyên duy trì mối quan hệ đối với sức lao động của mình như là đối với một vật sở hữu của mình hay như đối với một hàng hóa của bản thân anh ta [34, tr. 252]. Do đó, người lao động chỉ bán sức lao động của mình và bao giờ cũng chỉ để cho người mua sức lao động sử dụng hay tiêu dùng sức lao động đem bán trong một thời hạn nhất định, không từ bỏ quyền sở hữu về sức lao động đó. Nếu người lao động chuyển quyền sở hữu sức lao động của mình cho người mua, tức người lao động đã "bán đứt hẳn toàn bộ sức lao động ấy trong một lần thì người lao động sẽ tự bán cả bản thân anh ta, và từ chỗ là một người tự do, anh ta sẽ trở thành nô lệ, từ chỗ là người chủ hàng hóa, anh ta sẽ trở thành một hàng hóa" [34, tr. 252]. Vì vậy, trong hoạt động XKLĐ không có sự chuyển quyền sở hữu hàng hóa xuất khẩu từ người bán cho người mua như hoạt động xuất khẩu hàng hóa thông thường, quyền sở hữu sức lao động vẫn thuộc về người lao động khi hợp đồng được thực hiện. Trong khoảng thời gian của hợp đồng XKLĐ, người chủ sử dụng tiến hành khai thác và sử dụng sức lao động mua về một cách hiệu quả nhất nhằm thu được tối đa giá trị tăng thêm do sức lao động đó tạo ra. Tuy nhiên, việc sử dụng đó là có giới hạn, phải tuân theo các điều kiện, thỏa thuận đã ký kết giữa họ và người LĐXK, tuân theo các hiệp định chính phủ ký kết giữa nước họ với nước XKLĐ và phù hợp với các quy ước, thông lệ quốc tế về lao động nhập cư. Sau thời hạn hợp đồng, người chủ sử dụng hết quyền sử dụng hàng hóa sức lao động đó và phải trả người lao động về nước XKLĐ. - Hoạt động XKLĐ có sự đa dạng về thị trường, hình thức và chủng loại hàng hóa. Đây là một thực tế phản ánh quá trình phân công lao động quốc tế trong bối cảnh tự do hóa kinh tế và toàn cầu hóa, dưới tác động của sự phát triển mạnh mẽ của KHCN. Trong quá trình phát triển kinh tế, vì nhiều lý do khác nhau, có nhiều ngành, lĩnh vực mà bản thân lực lượng lao động của mỗi nước cũng không đáp ứng được, do đó có nhu cầu sử dụng LĐNN. Hơn nữa, trong điều kiện tự do hóa kinh tế và tác động của các quy luật kinh tế, người lao động sẽ di chuyển từ nơi dư thừa lao động, thu nhập thấp đến nơi thiếu hụt lao động, thu nhập cao. Đặc biệt, ở nhiều nước, nhất là các nước đang và chậm phát triển, sự di chuyển này được thúc đẩy mạnh mẽ bởi các chính sách của chính phủ, coi việc đưa lao động ra nước ngoài làm việc bằng nhiều hình thức khác nhau là một hướng đi để góp phần giải quyết vấn đề việc làm trong nước, tăng thu nhập ngoại tệ cho quốc gia. Quá trình đó đã tạo ra sự đa dạng trong hoạt động XKLĐ: diễn ra ở tất cả các nước, khu vực trên thế giới, không chỉ đơn thuần hướng từ các nước đang và chậm phát triển sang các nước phát triển mà còn có chiều ngược lại, hoặc giữa các nước có cùng trình độ phát triển, dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm nhiều loại lao động có trình độ khác nhau, làm việc trong nhiều lĩnh vực khác nhau theo nhu cầu của các nước tiếp nhận. Do đó, quá trình này đã tạo ra tình trạng một nước vừa XKLĐ loại này nhưng vẫn phải NKLĐ loại khác. Tuy nhiên, dòng XKLĐ từ các nước phát triển sang các nước kém phát triển hơn thường gắn liền với các hiệp định chính phủ, các hoạt động đầu tư, thương mại, các công trình thầu khoán của các tập đoàn, công ty xuyên quốc gia của các nước phát triển. Đây là sự di chuyển của dòng lao động chất lượng cao, có trình độ tay nghề, chuyên môn kỹ thuật cao như các chuyên gia, các nhà quản lý, kỹ thuật viên cao cấp,… sức lao động của họ được định ở mức giá cao hay có mức lương luôn lớn hơn so với mức lương của người lao động bản xứ, thậm chí trong cùng một công việc, do đó, giá trị XKLĐ của các nước phát triển thường cao hơn. - Hoạt động XKLĐ có sự di chuyển và giao thoa của các yếu tố truyền thống, văn hóa, phong tục tập quán giữa các quốc gia, dân tộc. Sức lao động bao hàm cả yếu tố lịch sử và tinh thần, vì thế người lao động luôn mang trong mình các yếu tố thuộc về đạo đức, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán... của một quốc gia, dân tộc và chúng được di chuyển cùng người lao động sang nước NKLĐ. Người LĐXK, để sống và làm việc ở nước NKLĐ, buộc phải thích nghi, hòa nhập với phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, pháp luật, thói quen sinh hoạt và làm việc,... của nước sở tại, do đó tạo ra sự trao đổi, hiểu biết về các yếu tố đó giữa người LĐXK và người dân bản địa. Vì vậy, hoạt động XKLĐ cũng là một nhân tố thúc đẩy giao lưu văn hóa và hợp tác hữu nghị giữa nước XKLĐ và nước NKLĐ. 1.1.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động xuất khẩu lao động 1.1.2.1. Sự hình thành hoạt động XKLĐ Hoạt động kinh tế của bất cứ một quốc gia nào cũng luôn phải tính đến nguồn nhân lực, trong đó vấn đề chính là sự dư thừa lao động ở trong nước. Trước sức ép về việc làm, tỷ lệ thất nghiệp và thu nhập, việc XKLĐ để giảm các sức ép này và thu ngoại tệ là một yêu cầu khách quan. Tuy nhiên, hoạt động XKLĐ không nhất thiết phải từ các nước dư thừa lao động. Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự hình thành hoạt động XKLĐ là: - Sự phát triển không đều giữa các quốc gia trên thế giới. Các nước trên thế giới ngày càng có xu hướng phát triển cao dựa trên nền tảng KHCN tiên tiến và có những cải tiến vượt bậc trong các lĩnh vực cơ khí hóa và tự động hóa. Trong điều kiện tự do kinh tế, các nước, nhất là các nước phát triển, đều không ngừng đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế để nâng cao năng lực sản xuất và hiệu quả của nền kinh tế, tăng cường khả năng cạnh tranh của quốc gia. Quá trình này đã dẫn đến hiện tượng, ở nhiều ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế của một quốc gia nào đó, đôi khi chính lực lượng lao động của nước đó cũng không đáp ứng được, do vậy có nhu cầu sử dụng lao động từ nước ngoài. Trong khi đó, ở một số nước khác, thường là các nước đang và chậm phát triển, nước nghèo nhưng đông dân, có mức tiền công lao động thấp, thường xuyên dư thừa lao động, đã nảy sinh nhu cầu cung ứng lao động cho những nước thiếu lao động. Từ mối quan hệ cung và cầu về lao động đó tất yếu dẫn đến hoạt động XKLĐ giữa các quốc gia. - Sự phân bổ tài nguyên không đồng đều giữa các nước trên thế giới. Những nước có ít tài nguyên thiên nhiên bị thiếu hụt nguyên, nhiên, vật liệu trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nhất là các nước phát triển, phải tìm kiếm từ nước khác. Một số nước đã trở thành khách hàng của các nước nhiều tài nguyên (dầu mỏ, than đá, khoáng sản...), trong khi các nước nhiều tài nguyên này lại rất cần kỹ thuật, vốn đầu tư, lao động từ các nước phát triển hơn để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế. Chính mối quan hệ này đã nảy sinh các nhu cầu lao động phục vụ cho các dự án khai thác tài nguyên và phát triển kinh tế này, từ đó thúc đẩy khuyến khích một cách không tự giác việc XKLĐ trong các nước có dư thừa lao động. - Sự phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã đẩy nhanh quá trình chuyên môn hóa sản xuất và phân công lao động ở cả phạm vi quốc gia và quốc tế, hình thành lên các ngành nghề, lĩnh vực mới trong nền kinh tế dựa trên các kỹ thuật, công nghệ cao ở nhiều nước. ở các nước phát triển, sự tập trung các nguồn lực vào phát triển các ngành, lĩnh vực mới, có lợi nhuận cao một mặt dẫn tới sự thiếu hụt lao động ở các ngành kinh tế truyền thống sử dụng nhiều lao động, thậm chí ở cả những ngành, lĩnh vực mới do sự phát triển của các ngành này vượt quá khả năng cung cấp nhân lực của nước đó, do đó các nước này có nhu cầu sử dụng LĐNN; mặt khác, lại có nhu cầu đưa một số lao động trong nước theo các dự án chuyển giao các công nghệ (cũ) sang các nước khác. ở các nước đang và chậm phát triển, việc đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), thực hiện chuyên môn hóa và phân công lao động quốc tế một mặt tạo ra sự dư thừa lao động, thiếu việc làm trong nền kinh tế, do đó có nhu cầu đưa lao động sang các nước khác làm việc. Mặt khác, lại cần lao động chất lượng cao từ nước ngoài vào làm việc trong các lĩnh vực sử dụng nhiều chất xám, hoặc theo các dự án tiếp nhận công nghệ từ nước ngoài mà lao động trong nước chưa đáp ứng được. Dưới tác động của các quy luật kinh tế các quá trình trên tất yếu dẫn đến sự trao đổi lao động để đáp ứng các nhu cầu về lao động giữa các nước, hình thành lên hoạt động XKLĐ. - Quá trình toàn cầu hóa và hoạt động của các công ty xuyên quốc gia (TNCs). Quá trình toàn cầu hóa đã thúc đẩy mạnh mẽ sự di chuyển của các dòng đầu tư và thương mại giữa các quốc gia, kéo theo sự di chuyển của người lao động. Tác động của quá trình này cũng thúc đẩy người lao động có xu hướng di chuyển tới làm việc ở những nơi có thu nhập cao hơn, sức lao động được định giá cao và xác thực hơn. Xu hướng này đã kéo theo sự tham gia của các tổ chức, doanh nghiệp làm trung gian để đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, và để đảm bảo được quyền lợi của các bên tham gia cũng như giữ được trật tự an toàn xã hội, đến lượt nhà nước phải trực tiếp tham gia vào hoạt động này. Việc TNCs bành trướng hoạt động ra phạm vi toàn cầu đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phân công lao động và quá trình tái cơ cấu kinh tế ở các quốc gia, làm nảy sinh nhu cầu trao đổi lao động giữa các nước. Một mặt, việc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản để thực hiện sự bành trướng kinh tế của TNCs đã thúc đẩy việc tìm kiếm nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào giá rẻ từ các nước khác, trong đó có sức lao động, do đó tạo ra sự di chuyển lao động giữa các nước, nhất là từ các nước nghèo, đông dân sang các nước giàu hơn. Mặt khác, quá trình tái cơ cấu TNCs ở các quốc gia cũng thúc đẩy sự di chuyển lao động từ nước này sang nước khác. Việc hình thành các chi nhánh, công ty con của TNCs để thực hiện chuyên môn hóa trong hệ thống sản xuất kinh doanh của TNCs đã tạo ra các nhu cầu lao động khác nhau ở các nước khác nhau. Một sản phẩm hàng hóa của một công ty ở một nước nào đó không nhất thiết phải được sản xuất tại chính nước đó, do vậy, tự nó phát sinh các nhu cầu lao động kỹ thuật như nhau, tất yếu phải có trao đổi lao động kỹ thuật và chuyên gia giữa các nước. Do đó, sự di chuyển lao động từ nơi này đến nơi khác tất yếu xảy ra, làm xuất hiện hoạt động XKLĐ giữa các nước. 1.1.2.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động XKLĐ XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối ngoại có tính đặc thù, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, bị tác động của nền kinh tế và chính sách phát triển của cả nước XKLĐ và nước NKLĐ, đồng thời có tác động trở lại đối với nền kinh tế - xã hội của các nước này. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hoạt động XKLĐ chịu tác động của một số yếu tố sau: - Quan hệ cung - cầu về lao động: Từ thực trạng hoạt động xuất và nhập khẩu lao động của các nước trên thế giới cho thấy, một nước phải sử dụng LĐNN khi nguồn lao động trong nước không đáp ứng được cho nhu cầu phát triển kinh tế của nước đó. Sự thiếu hụt một hay nhiều loại lao động của một nước nào đó không chỉ do thiếu dân số mà còn do không đủ lực lượng lao động có đủ kỹ năng cần thiết để đảm nhận công việc, hoặc đơn giản chỉ do người lao động nước đó không sẵn sàng làm việc. Điều này thể hiện rất rõ ở các nước phát triển, trường hợp Nhật Bản và Hàn Quốc là ví dụ điển hình ở châu á. Bên cạnh đó, do thị trường lao động là một bộ phận không thể tách rời với chu kỳ kinh tế, vì thế sự tăng trưởng hay suy thoái, khủng hoảng hay phục hồi của một nền kinh tế cũng có những tác động tới nhu cầu lao động trong nền kinh tế, có thể tạo ra việc làm cho người lao động hay cũng có thể làm giảm bớt số việc làm cho họ. Trong những điều kiện như vậy, nhu cầu về lao động và khả năng cung ứng ở các nước có tác động rất lớn tới hoạt động XKLĐ trên phạm vi quốc tế. Thực trạng quan hệ cung - cầu về lao động là cơ sở để một quốc gia quyết định NKLĐ hay XKLĐ, xác định số lượng lao động, cơ cấu ngành nghề, loại lao động cần nhập khẩu hay có thể xuất khẩu. Sự phù hợp giữa nhu cầu lao động của nước NKLĐ và khả năng cung ứng của nước XKLĐ là yếu tố quyết định đảm bảo cho sự ổn định của hoạt động XKLĐ giữa các quốc gia. Trình độ phát triển kinh tế và KHCN là yếu tố có tác động mạnh mẽ tới quan hệ cung - cầu về lao động giữa các nước, quyết định loại hình và số lượng lao động mà một nước sẽ nhập khẩu hay xuất khẩu. Các nước có trình độ công nghệ tiên tiến như Mỹ, Đức, Nhật Bản thực hiện các chính sách khuyến khích và ưu đãi để thu hút lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao từ các nước khác, hạn chế tuyển dụng lao động phổ thông, trong khi những nước có trình độ kém hơn như Đài Loan lại nhập khẩu nhiều loại lao động đáp ứng các nhu cầu lao động bị thiếu hụt trong nước, phần lớn là lao động có trình độ kỹ thấp, lao động phổ thông; hoặc như Malaysia, Thái Lan lại vừa xuất khẩu và nhập khẩu lao động phổ thông, lao động giản đơn. - Sự cạnh tranh: Thị trường lao động quốc tế vừa là thị trường tự do cạnh tranh, vừa là thị trường cát cứ giữa các quốc gia. Do đó, hoạt động XKLĐ vừa diễn ra sự hợp tác giữa các nước vừa cạnh tranh nhau mạnh mẽ, sự hợp tác là yêu cầu bắt buộc, yếu tố cạnh tranh đảm bảo cho sự sống còn của hoạt động XKLĐ. Sự cạnh tranh trong hoạt động XKLĐ diễn ra giữa các doanh nghiệp XKLĐ của một nước XKLĐ, hay của các nước XKLĐ, thậm chí giữa các nhà nước của các quốc gia XKLĐ. Sự cạnh tranh thể hiện qua số lượng hợp đồng XKLĐ, cơ chế quản lý lao động ở nước ngoài, mức lương, sự đa dạng về ngành nghề, trình độ, kỹ năng lao động, khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật tại nơi làm việc, khả năng thích nghi về văn hóa, khả năng giao tiếp… của người lao động. Ngoài ra, còn có sự cạnh tranh giữa LĐXK với lao động bản địa về việc làm ở nước NKLĐ. Do sự cạnh tranh này, công đoàn tại các nước NKLĐ thường tạo sức ép với chính phủ để hạn chế số lượng LĐNN được tiếp nhận vào làm việc. - Chất lượng lao động: Chất lượng hàng hóa sức lao động được xem xét dưới góc độ là sự tổng hòa các yếu tố tạo ra năng lực lao động của người lao động như thể lực, trí lực, các mối quan hệ xã hội của người lao động có ảnh hưởng tới năng lực làm việc của người lao động ở nước NKLĐ. Chất lượng lao động phải đảm bảo được việc tạo ra giá trị tăng thêm trong thời gian sử dụng sức lao động đó, bảo đảm cho người lao động duy trì và tái tạo sức lao động, phát huy được các khả năng sáng tạo, đảm bảo được cường độ lao động, tạo được nhiều giá trị thặng dư cho người chủ sử dụng. Yếu tố này có tác động quan trọng tới quyết định của chủ sử dụng về quy mô tuyển dụng LĐNN. Chính vì vậy, chất lượng lao động là yếu tố căn bản quyết định khả năng cạnh tranh và lợi thế trong việc chiếm lĩnh thị trường XKLĐ, đảm bảo cho sự phát triển của hoạt động XKLĐ. - Các chính sách, pháp luật: Hoạt động XKLĐ liên quan đến nhiều người, nhiều tổ chức, liên quan đến nước XKLĐ và nước NKLĐ, liên quan đến các tổ chức quốc tế như Tổ chức di cư quốc tế (IOM), Tổ chức lao động quốc tế (ILO), do đó nó chịu tác động mạnh mẽ của môi trường chính trị, pháp luật và chính sách của chính phủ cả nước XKLĐ và nước NKLĐ cũng như luật pháp quốc tế. Hoạt động XKLĐ của một quốc gia luôn có sự tham gia của chính phủ nước đó nhằm bảo vệ các lợi ích của quốc gia, dân tộc. Vì vậy, hoạt động XKLĐ chịu tác động trực tiếp từ chủ trương và các chính sách, biện pháp quản lý, điều tiết của chính phủ nước XKLĐ. Các văn bản, chính sách đó có thể khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động XKLĐ nhưng cũng có thể gây khó khăn, cản trở hoạt động này. Trong khi đó, bất cứ một sự điều chỉnh trong chính sách tiếp nhận LĐNN, những quy định, điều kiện nhập cư, thậm chí những thay đổi trong chính sách đầu tư, tái cơ cấu kinh tế, chính sách đối ngoại... của chính phủ các nước NKLĐ đều có những tác động có thể làm thay đổi nhu cầu LĐNN ở nước NKLĐ, thậm chí trở thành rào cản hạn chế số lượng lao động nhập khẩu, do đó làm thay đổi mức cung ứng lao động của nước XKLĐ. Ví dụ, Hàn Quốc cho phép Việt Nam tham gia đưa lao động vào Hàn Quốc làm việc Luật cấp phép cho LĐNN mới đã làm cho chỉ tiêu lao động Việt Nam được tiếp nhận vào nước này trong năm 2005 tăng hơn 3.000 người so với năm 2004; Đài Loan quyết định ngừng tiếp nhận lao động giúp việc gia đình và chăm sóc người bệnh từ Việt Nam đã cản trở việc tăng số lượng LĐXK của Việt Nam vào thị trường này và làm cho hơn 30 doanh nghiệp XKLĐ của Việt Nam bị đình chỉ hoặc tạm dừng hoạt động XKLĐ vào Đài Loan. Sự thay đổi chính sách đầu tư của chính phủ Malaysia trong lĩnh vực xây dựng làm cho hàng trăm LĐXK Việt Nam ở nước này bị mất việc làm phải về nước sớm hoặc phải chuyển làm các công việc khác vào đầu năm 2003,... - Các yếu tố truyền thống văn hóa và con người: Các chính sách tuyển dụng LĐNN của bất kỳ quốc gia nào cũng hàm chứa sự bảo tồn và gìn giữ các giá trị truyền thống văn hóa và phù hợp với tôn giáo của quốc gia đó. Vì vậy, một quốc gia sẽ có chủ trương ưu đãi hơn đối với lao động đến từ các nước có nền văn hóa tương tự (về tôn giáo, phong tục tập quán, về ngôn ngữ…). Hơn nữa, thị trường thực chất là sự kết hợp của con người và nền văn hóa của thị trường đó. Vì thế, một số thị trường lao động có thể tạo ra rất nhiều cơ hội đối với một loại việc làm cho LĐNN do tính chất riêng có của thị trường ấy hoặc đơn thuần chỉ vì thị trường đó không có đủ lao động có khả năng đảm nhận công việc đó. Ví dụ, ở châu Âu, Nhật Bản nhu cầu về y tá là rất lớn gắn liền với sự già hóa dân số ở các nước này, nhưng các nước ở Trung Đông lại ít khi có ý định thuê nữ y tá chăm sóc cho bệnh nhân nam; hoặc ở những nước mà phụ nữ tham gia tích cực vào lực lượng lao động hoặc đấu tranh để khẳng định quyền bình đẳng về việc làm, thu nhập, trình độ và địa vị trong xã hội như Đài Loan thì nhu cầu về người giúp việc gia đình, trông trẻ và chăm sóc người già cũng cao hơn. Điều này cũng có tác động nhất định về số lượng, ngành nghề, loại lao động trong việc cung ứng lao động của nước XKLĐ. 1.1.2.3. Các hình thức XKLĐ Theo cách tổ chức thực hiện, XKLĐ có một số hình thức chủ yếu sau: - XKLĐ theo các hiệp định được ký kết giữa chính phủ hai quốc gia. ở hình thức này, người lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài theo các hiệp định về hợp tác lao động giữa chính phủ hai quốc gia. ở Việt Nam, căn cứ vào các hiệp định đã ký, Nhà nước phân bổ chỉ tiêu cho các Bộ, ngành, địa phương tiến hành tuyển chọn và đưa người lao động đi làm việc ở các nước, chủ yếu là các nước Đông Âu và Liên Xô cũ. Lao động Việt Nam ở nước ngoài được sự quản lý thống nhất từ trên xuống dưới, làm việc xen ghép với lao động của các nước khác. Hiện nay, lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài theo hiệp định chủ yếu là các chuyên gia trong các chương trình hợp tác quốc tế giữa chính phủ Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế về các lĩnh vực y tế, nông nghiệp, giáo dục,... - XKLĐ thông qua hợp đồng cung ứng lao động. Hợp đồng cung ứng lao động có thể ký dưới hai loại: + Hợp đồng cung ứng lao động được ký kết giữa doanh nghiệp, tổ chức kinh tế của nước XKLĐ với tổ chức thuê và sử dụng lao động ở nước ngoài. Căn cứ vào nhu cầu của tổ chức sử dụng LĐNN, các doanh nghiệp, tổ chức làm dịch vụ cung ứng lao động tiến hành tuyển và đưa lao động từ trong nước ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng đã ký kết. Đây là hình thức phổ biến nhất trong XKLĐ hiện nay. + Hợp đồng cá nhân: Do người lao động trực tiếp ký kết với người sử dụng lao động ngoài nước được pháp luật chấp nhận. - XKLĐ thông qua liên doanh liên kết chia sản phẩm với nước ngoài (hợp tác trực tiếp) hoặc doanh nghiệp nhận thầu, khoán công trình hoặc đầu tư ở nước ngoài có sử dụng lao động trong nước. Hình thức nhận thầu, khoán công trình được thực hiện chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng công trình cơ sở hạ tầng mà các chủ đầu tư của nước XKLĐ trúng thầu ở nước ngoài. Hình thức này thường phải đưa đồng bộ cả máy móc, phương tiện kỹ thuật cùng lực lượng lao động ra nước ngoài làm việc. 1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu lao động đối với các nước hữu quan Hoạt động XKLĐ có các tác động, ảnh hưởng cả trước mắt và lâu dài đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước XKLĐ và nước NKLĐ. Luận văn chỉ nghiên cứu vai trò của hoạt động XKLĐ đối với các nước này trong ngắn hạn, ở một số khía cạnh sau: 1.2.1. Đối với nước xuất khẩu lao động - Góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người lao động. XKLĐ là một biện pháp tốt để góp phần giải quyết một phần lao động dôi dư ở nhiều nước, nhất là các nước đang và chậm phát triển, những nước đông dân, thiếu việc làm và có mức thu nhập thấp, tỷ lệ thất nghiệp lớn, trong khi dân số lại tăng nhanh. Đây cũng là mục tiêu quan trọng trong chính sách XKLĐ của các nước này. Đối với những nước luôn có tỷ lệ thất nghiệp cao, XKLĐ được coi là một giải pháp lâu dài, còn đối với những nước xảy ra khủng hoảng kinh tế thì XKLĐ sẽ là đối sách trước nạn thất nghiệp tạm thời. Ví dụ, Anbani có tỷ lệ thất nghiệp thực tế lên đến 35 - 40% và luôn có khoảng 600 nghìn trong tổng số hơn 3 triệu dân của nước này lao động ở nước ngoài. XKLĐ của Philippine đã giải quyết việc làm cho khoảng 500 nghìn - 900 nghìn lao động mỗi năm [23], [48]. LĐXK khi ra nước ngoài làm việc có mức lương cao hơn nhiều lần so với mức lương của những lao động có cùng ngành nghề và trình độ ở trong nước, vì vậy người lao động có điều kiện tích luỹ được một số lượng vốn lớn nướcmà ở trong nước họ rất khó có cơ hội để có được. Ví dụ, lương một y tá Philippine ở trong nước là 180 USD/tháng nhưng ở Anh họ được trả 2.200 - 2.600 USD/tháng [11]. Theo ước tính của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Việt Nam, nếu một LĐXK Việt Nam ở khu vực Đông Bắc á làm việc đúng hợp đồng ký kết, sau 2 năm làm việc cũng tiết kiệm được ít nhất 100 triệu đồng Việt Nam [3]. Nguồn thu nhập này đã góp phần cải thiện được đời sống của người lao động trong nước, giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, giảm đói nghèo. Ngoài ra, từ nguồn thu nhập ở XKLĐ, nhiều lao động sau khi về nước đã đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, trở thành các nhà đầu tư và các chủ doanh nghiệp, tạo việc làm và thu nhập cho một bộ phận lao động khác, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. - Góp phần vào việc đào tạo tay nghề cho người lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong thời gian làm việc ở nước ngoài, bên cạnh việc rèn luyện và nâng cao trình độ các thao tác, kỹ năng đã được học trước khi đi XKLĐ, người lao động có cơ hội, điều kiện tiếp cận và học tập được các kiến thức về kỹ thuật, công nghệ sản xuất mới, kinh nghiệm quản lý kinh doanh, vận hành các dây chuyền sản xuất hiện đại,… khi hết hợp đồng về nước, họ sẽ trở thành đội ngũ lao động có đủ khả năng đáp ứng các công việc trong quá trình đổi mới, thực hiện CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, hoạt động XKLĐ là biện pháp giúp nước XKLĐ đào tạo tay nghề, trình độ cho người lao động, tạo điều kiện nâng cao trình độ, kỹ năng và kỷ luật lao động, đồng thời giảm được các chi phí đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đội ngũ lao động đi XKLĐ sau thời gian làm việc ở nước ngoài sẽ có được những kinh nghiệm, tác phong lao động công nghiệp, thành thạo về chuyên môn kỹ thuật. Những người này sẽ dễ dàng thích ứng với việc tiếp thu và chuyển giao công nghệ hay đáp ứng được các nhu cầu lao động của các công ty nước ngoài hay các xí nghiệp liên doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút đầu tư nước ngoài. Đây cũng là nguồn lao động đủ khả năng đáp ứng cho quá trình phát triển kinh tế thời kỳ CNH, HĐH. - Tạo nguồn thu quốc gia, tăng tích lũy cho nền kinh tế quốc dân. Lượng tiền do người lao động đi làm việc ở nước ngoài tích lũy được gửi về nước là nguồn vốn quan trọng cho nhiều quốc gia XKLĐ. Đối với nhiều nước đang phát triển, lượng tiền do người lao động gửi về ngang với thu nhập từ xuất khẩu một số loại hàng hóa và là một trong những nguồn thu ngoại tệ nhiều nhất, giúp cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đối phó với tình trạng nợ nần, nhập siêu. Ví dụ, số tiền người lao động ở nước ngoài gửi về đã giúp tổng sản phẩm quốc dân của các nước như Enxanvado, Eritơria, Giamaica, Gioocdani, Nicaragoa và Yêmen năm 2000 tăng hơn 10%. Năm 2002, lượng tiền này đã lớn hơn cả giá trị xuất khẩu của Enxanvado và chiếm hơn một nửa giá trị xuất khẩu của Đôminica và Nicaragoa [23]. Số tiền người lao động Philippine đang làm việc ở nước ngoài gửi về nước hàng năm từ 8 - 10 tỷ USD, XKLĐ là một trong 4 ngành có mức thu nhập ngoại tệ lớn nhất của Philippine [48]. Đặc biệt, lượng tiền gửi từ nước ngoài về thường được xem là phương thuốc để phá vỡ chiếc vòng luẩn quẩn của nghèo đói. Trong dân chúng, lượng tiền này được dành cho tiêu dùng hàng ngày, mua sắm vật dụng trong gia đình giúp nâng cao chất lượng cuộc sống hoặc có thể được gửi tiết kiệm hay đầu tư như mua đất đai, công cụ sản xuất, tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó lại tạo ra nguồn thu mới trong dân chúng, tăng tích lũy vốn trong nền kinh tế. Đây cũng là nguồn vốn tiềm năng, rất cần thiết và quan trọng có thể huy động được cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. - Góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước XKLĐ và nước NKLĐ. Hoạt động XKLĐ có diễn ra sự giao thoa, hòa nhập của các yếu tố lịch sử và tinh thần của người LĐXK với người bản địa. Do đó, hoạt động XKLĐ là cầu nối, hình thức để trao đổi, giao lưu các nền văn hóa, phong tục tập quán các dân tộc, góp phần tăng cường sự hiểu biết giữa các quốc gia, thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các nước XKLĐ và NKLĐ. Hơn nữa, hoạt động XKLĐ tạo ra một đội ngũ lao động có hiểu biết về phong tục tập quán, được đào tạo tay nghề và rèn luyện tác phong lao động ở các nước NKLĐ. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi giúp nước XKLĐ thu hút các dự án đầu tư từ các nước NKLĐ, tạo điều kiện duy trì và phát triển các quan hệ nhiều mặt giữa nước XKLĐ và nước NKLĐ. Tuy nhiên, hoạt động XKLĐ cũng có những tác động tiêu cực nhất định tới sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Hoạt động XKLĐ có khả năng làm giảm bớt một bộ phận lao động trẻ, khỏe, có trình độ văn hóa, chuyên môn tương đối cao, do đó có thể làm giảm sức sản xuất của nước XKLĐ. Hoạt động XKLĐ cũng có thể gây biến động về sức mua trong nước (giảm khi người lao động đi xuất khẩu, tăng đột ngột khi lao động trở về); ảnh hưởng đến an ninh kinh tế quốc gia, trật tự an toàn xã hội, như: xảy ra tình trạng chảy máu chất xám, mất bí mật quốc gia (do người lao động mang đi bán) nhất là đối với các nước phát triển, người lao động có thể làm gián điệp cho nước ngoài, cung cấp thông tin gây thiệt hại cho đất nước, người lao động cũng có thể mang theo nếp sống không phù hợp, các bệnh xã hội từ nước ngoài về nước sau thời gian đi XKLĐ. Hoạt động XKLĐ cũng có thể tác động xấu tới quan hệ quốc tế của nước XKLĐ khi LĐXK có các hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng ở nước NKLĐ làm phương hại đến quan hệ hợp tác giữa nước XKLĐ và nước NKLĐ. 1.2.2. Đối với nước nhập khẩu lao động Giữa hai quốc gia, hoạt động XKLĐ của một nước này sẽ là hoạt động NKLĐ của nước kia. Do đó, nghiên cứu vai trò của hoạt động XKLĐ đối với nước NKLĐ là nghiên cứu vai trò của hoạt động NKLĐ đối với nước này. - Bù đắp sự thiếu hụt nguồn lao động trong nước. Hoạt động NKLĐ cung cấp nguồn nhân lực từ nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt lao động ở các ngành, lĩnh vực mà lực lượng lao động trong nước không đáp ứng được. Vai trò này được thể hiện rất rõ ở nhiều nước phát triển ở châu Âu, Nhật Bản, những nước đang phải đối mặt với với xu hướng già hóa dân số ngày càng tăng, lực lượng lao động đang già đi, tỷ lệ sinh đẻ thấp không bổ sung kịp lực lượng lao động kế cận và một bộ phận trong lực lượng lao động không muốn làm việc. Thông qua việc sử dụng LĐNN, các nước NKLĐ có điều kiện giải quyết các áp lực về kinh tế - xã hội do tình trạng thiếu lao động ở nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế gây ra, đảm bảo cho các hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh tiếp tục vận hành bình thường, đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh theo phân công lao động quốc tế. - Góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Người LĐXK đã được đào tạo cơ bản về kỹ năng lao động, trình độ tay nghề, do đó họ có thể tham gia làm việc luôn mà không cần hoặc chỉ mất ít thời gian và vốn đầu tư để đào tạo lại. Hơn nữa, sử dụng LĐNN sẽ giúp nước NKLĐ tiết kiệm được một khoản tài chính lớn do người LĐNN thường chấp nhận lương thấp hơn rất nhiều so với người lao động bản xứ ở cùng một công việc. Tại Thái Lan, nguồn LĐNN đã giúp tiết kiệm được khoảng 35 triệu bath/ngày công hay gần 13 tỷ bath/năm. Trong số đó, thậm chí người lao động Myanma sẵn sàng nhận mức lương 800 bath/tháng cho những công việc mà người Thái Lan đòi 3.000 bath [23]. Ngoài ra, người LĐNN hầu hết làm việc trong thời hạn ngắn, do đó nước NKLĐ thường không phải chi trả nhiều cho các khoản chi phí về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, đặc biệt là tiền lương hưu. Những khoản tiết kiệm từ chi phí thấp trong việc tuyển dụng LĐNN làm giảm được chi phí đầu vào, tăng được lợi nhuận, tạo sức mạnh và lợi thế cạnh tranh quốc tế. - Tận dụng được nguồn LĐNN trẻ có hiệu suất lao động cao, tạo điều kiện thực hiện phân công lao động và tái cơ cấu nền kinh tế. Lao động đi XKLĐ hầu hết là lao động trẻ, đang ở độ tuổi sung mãn về thể lực và trí lực, được đảm bảo về sức khỏe. Đây là giai đoạn người lao động có khả năng làm việc với hiệu suất cao nhất, tạo ra được nhiều giá trị thặng dư nhất cho chủ sử dụng, nhất là trong việc sử dụng, khai thác chất xám từ LĐXK chất lượng cao như các chuyên gia, kỹ thuật viên chuyên ngành,... Đây là yếu tố thuận lợi để nước NKLĐ tăng năng lực sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm thặng dư và tăng lợi nhuận. Không những thế, NKLĐ sẽ làm tăng sự cạnh tranh về việc làm trong nước, kích thích tăng năng suất lao động. Số lượng công việc giảm đã tạo sức ép làm cho người lao động, kể cả LĐNN và lao động bản địa ở các ngành nghề phải tập trung làm việc để cạnh tranh nhau về chỗ làm, do đó tạo ra năng suất cao hơn và hiệu quả làm việc tốt hơn cho người chủ sử dụng lao động và nền kinh tế. Hơn nữa, việc sử dụng LĐNN tạo điều kiện cho các nước NKLĐ phân bổ lại các nguồn lực sản xuất và cơ cấu lại các lĩnh vực, ngành nghề. Đối với các nước phát triển, các lĩnh vực ngành nghề có mức lương thấp, nặng nhọc... sẽ dần tập trung nhiều cho LĐNN, người lao động bản địa sẽ tập trung nhiều vào các ngành, lĩnh vực mới, những ngành có mức lương cao hơn. Do đó, hình thành lên một cơ cấu sử dụng lao động mới tương ứng với quá trình tái cơ cấu nền kinh tế ở các nước này. Đối với các nước đang và chậm phát triển, việc sử dụng LĐNN có chất lượng cao còn giúp các nước này bù đắp được sự thiếu hụt các kỹ thuật viên, chuyên gia làm việc trong các ngành công nghiệp mới, giúp họ thực hiện việc tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng CNH, HĐH nhanh hơn. Ngoài ra, nước NKLĐ cũng có thể đánh cắp được bí quyết công nghệ cần thiết từ các nước khác thông qua LĐNN. Tuy nhiên, NKLĐ cũng có những tác động tiêu cực nhất định, làm giảm bớt số lượng việc làm ở nước NKLĐ, người lao động bản địa sẽ phải chia sẻ việc làm với LĐNN và ít có cơ hội lựa chọn việc làm hơn, phải cạnh tranh mạnh hơn, làm việc tích cực hơn để giữ chỗ làm, chấp nhận một mức tiền lương thấp hơn, nhất là đối với các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động phổ thông. ở khía cạnh này, NKLĐ tác động tới sự phân phối lại thu nhập và phúc lợi đối với người lao động của nước NKLĐ, trong đó bộ phận lao động chất lượng thấp bị tác động mạnh nhất. Hơn nữa, việc NKLĐ nước ngoài cũng có thể gia tăng những vấn đề xã hội, đặc biệt vấn đề lao động bỏ trốn đang trở thành vấn đề nghiêm trọng. Người lao động bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp, không được bảo vệ, không có sự quản lý của các cơ quan chức năng, do đó dễ gây nên các vấn đề xã hội như bị bóc lột sức lao động, cưỡng bức lao động, tệ nạn xã hội… Đây là những vấn đề cản trở hoạt động NKLĐ và quản lý LĐNN cũng như bảo đảm trật tự an toàn xã hội ở các nước NKLĐ, gây căng thẳng trong quan hệ hợp tác giữa nước XKLĐ và nước NKLĐ. 1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực về xuất khẩu lao động Nhiều nước trong khu vực như Thái Lan, Philippine, Indonesia, Trung Quốc đều là những nước đã tiến hành chương trình XKLĐ từ lâu và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Để đạt được kết quả đó, các nước này có các chủ trương, kế hoạch cũng như các chính sách quản lý khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh kinh tế - xã hội ở mỗi nước. - Philippine Philippine thực hiện XKLĐ từ giữa những năm 1970, coi XKLĐ như một quốc sách, là một trong những chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, có sự phối hợp tham gia đồng bộ của tất cả các ngành, các cấp có liên quan. Hiện nay, Philippine là một trong những nước XKLĐ lớn nhất trên thế giới, có khoảng hơn 7,5 triệu lao động đang làm việc ở nước ngoài, bình quân mỗi năm Philippine xuất khẩu trên 500.000 lao động ra nước ngoài, nếu tính từ giữa những năm 1970 đến nay đã có hơn 15 triệu lượt người lao động ra nước ngoài làm việc. Trong số lao động Philippine ở nước ngoài có 75% làm việc trên đất liền và 25% làm việc trên các tàu biển, 70% làm công nhân, giúp việc gia đình, làm tại nhà hàng, khách sạn, giải trí, 30% làm quản lý, điều hành các công ty. Mỗi năm, lao động ở nước ngoài gửi về nước từ 8-10 tỷ USD, XKLĐ trở thành một trong 4 lĩnh vực có thu nhập ngoại tệ lớn nhất ở Philippine. Phương châm phát triển XKLĐ của Philippine là phải kết hợp giữa việc phát triển thị trường XKLĐ với việc bảo vệ quyền lợi của người lao động, coi giảm chi phí XKLĐ là một trong các biện pháp hữu hiệu để mở rộng thị trường. Philippine xây dựng một cơ chế quản lý, điều hành hoạt động XKLĐ hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương, ở trong và ngoài nước, ban hành nhiều luật lệ, chính sách ưu đãi nhằm thúc đẩy XKLĐ và tránh những vụ việc tiêu cực trong XKLĐ. Hoạt động XKLĐ của Philippine do một cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm quản lý và điều hành là Bộ Lao động và Việc làm. Cục quản lý lao động Philippine ở nước ngoài (POEA) và Cục đảm bảo phúc lợi cho người lao động Philippine ở nước ngoài (OWWA) trực thuộc Bộ này chịu trách nhiệm giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động XKLĐ. POEA có nhiệm vụ quản lý việc tuyển dụng, đưa ra các chính sách để thúc đẩy hoạt động XKLĐ, cử cán bộ phụ trách lao động với tư cách là Tham tán hay Tùy viên lao động tại các cơ quan đại diện ngoại giao của Philippine ở những nước có đông người lao động đến làm việc; thẩm định các hợp đồng cung ứng lao động của các công ty XKLĐ, cấp giấy phép cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài... Chính phủ Philippine thực hiện chủ trương vừa quản lý chặt chẽ, vừa tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động XKLĐ. Việc cấp giấy phép hoạt động XKLĐ cho các doanh nghiệp tư nhân có hạn chế và được thẩm định nghiêm ngặt về khả năng tài chính, tư cách và khả năng điều hành của người đứng đầu doanh nghiệp và tính khả thi của hợp đồng ký kết. Các doanh nghiệp XKLĐ vi phạm các quy định sẽ bị thu hồi giấy phép, hoặc phải chấm dứt hoạt động XKLĐ, không được cấp lại giấy phép hoạt động XKLĐ; đồng thời, có thể bị phạt không dưới 6 năm tù và 20.000USD đối với hoạt động tuyển dụng LĐXK bất hợp pháp. Chính phủ khuyến khích mọi thành phần kinh tế và người lao động tham gia hoạt động XKLĐ. Người lao động Philippine được tự do tìm việc ở nước ngoài không cần qua các công ty XKLĐ nhưng phải ký hợp đồng lao động với phía tiếp nhận và làm thủ tục XKLĐ thông qua POEA. POEA quy định mức lương tối thiểu cho người lao động Philippine ở nước ngoài là 135 USD/tháng và không cấp giấy phép cho người lao động đi làm các công việc ở nước ngoài có mức lương thấp dưới mức lương này; đồng thời yêu cầu phía tiếp nhận có những điều kiện tối thiểu đảm bảo cuộc sống, sinh hoạt cho lao động Philippine. Để tăng cường sức cạnh tranh của LĐXK, chính phủ Philippine có các kế hoạch nâng cao tay nghề cho LĐXK cũng như hợp tác chặt chẽ với các tổ chức phi chính phủ và ILO trong việc giáo dục, giúp đỡ pháp lý, đào tạo nghề cho lao động. POEA tổ chức các lớp học giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi XKLĐ. Việc tuyển chọn người đi XKLĐ làm giúp việc gia đình ở nước ngoài dựa trên tiêu chuẩn sức khỏe tốt và trình độ ngoại ngữ khá, người lao động phải trải qua một khóa học về các công việc giúp việc gia đình, học cách sử dụng các đồ dân dụng hiện đại, cách giao tiếp, ứng xử, sau đó được cấp giấy chứng nhận đào tạo để tham gia vào hoạt động XKLĐ. Philippine thực hiện chính sách hỗ trợ cho lao động trở về tái hòa nhập cộng đồng như tuyển dụng lại với mức lương cao hơn, khuyến khích, tạo điều kiện cho người lao động dùng vốn của mình để kinh doanh, sản xuất. Nhà nước không đánh thuế thu nhập và thuế chuyển tiền về nước đối với người lao động ở nước ngoài, khuyến khích người thân nhận tiền do lao động Philippine ở nước ngoài gửi về sử dụng vào những mục đích thiết thực, có lợi cho bản thân và xã hội, đặc biệt là đầu tư cho sản xuất kinh doanh [25], [48], [50]. - Thái Lan Chính phủ Thái Lan có chính sách lâu dài và rõ ràng về XKLĐ từ những năm 1970. Với sự hỗ trợ của chính phủ, hoạt động XKLĐ của Thái Lan được thực hiện khá thuận lợi thông qua các công ty môi giới. Tính trung bình từ 1973 - 2002, Thái Lan xuất khẩu khoảng 117.360 lao động và thu về hơn 3 tỷ USD mỗi năm. LĐXK của Thái Lan hầu hết có nguồn gốc từ vùng nông thôn, nơi có cuộc sống còn nhiều khó khăn về phát triển kinh tế như miền Bắc và Đông Bắc, có trình độ văn hóa thấp và không có nghề chuyên môn. Năm 2003, 67% LĐXK của Thái Lan từ khu vực Đông Bắc và 19% từ miền Bắc, trình độ học vấn là 77,70% ở cấp phổ thông cơ sở. Thái Lan XKLĐ chủ yếu vào thị trường khu vực Đông á, chiếm 80-88% tổng số LĐXK của Thái Lan, trong đó Đài Loan là thị trường chính, tiếp nhận khoảng 60% tổng số LĐXK vào khu vực này. Thái Lan xuất khẩu lao động phổ thông sang các nước làm việc trong các lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng, phục vụ và nấu bếp, lao động lành nghề làm việc trong các ngành điện tử, cơ khí, chế biến nông sản thực phẩm và chủ yếu xuất khẩu lao động có tay nghề cao sang các nước khu vực châu Âu và Bắc Mỹ. Khoảng 70% lao động Thái Lan tại Đài Loan làm việc trong các công ty xây dựng, xí nghiệp may, lắp ráp điện tử và giúp việc gia đình. Cũng như Philippine, Thái Lan thực hiện chính sách tự do hóa XKLĐ, cho phép và khuyến khích các công ty tư nhân tham gia hoạt động XKLĐ, người dân Thái Lan được tự do đi lao động ở nước ngoài theo năm kênh khác nhau: tự đi; đi cùng người chủ tuyển dụng nước ngoài; đi với tư cách là thực tập sinh đến các nước có chế độ tiếp nhận thực tập sinh làm việc tạm thời như người học việc; thông qua các công ty XKLĐ tư nhân và thông qua Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội. Có 52% lao động Thái Lan đi XKLĐ thông qua các công ty XKLĐ tư nhân, 41% đi theo cách riêng của cá nhân và chỉ gần 1% thông qua Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội. Nhằm tăng cường khả năng XKLĐ, Thái Lan thành lập trung tâm tìm kiếm việc làm để phục vụ những người muốn tìm việc làm ngoài nước, trang bị cho họ những kiến thức và quy trình tuyển dụng như kiểm tra sức khỏe, nâng cao tay nghề để đáp ứng yêu cầu của chủ sử dụng. Trung tâm này là đầu mối để các công ty XKLĐ và các chủ sử dụng tuyển dụng lao động Thái Lan ra nước ngoài làm việc; Thành lập các trung tâm đặc biệt nhằm đối phó với các hành vi lừa đảo và trái phép trong XKLĐ ở 36 tỉnh trên cả nước, nhất là các khu vực có nhiều LĐXK và tỷ lệ khiếu kiện cao trong các vấn đề tìm việc làm ở nước ngoài như miền Bắc và Đông Bắc Thái Lan. Để bảo vệ người lao động ở nước ngoài, Chính phủ Thái Lan quy định chỉ XKLĐ tới các thị trường có quy định mức lương tối thiểu đối với lao động Thái Lan. LĐXK Thái Lan khi đến nước tiếp nhận phải đến khai báo tên và địa chỉ tại Đại sứ quán Thái Lan ở nước sở tại để được giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp; tích cực đàm phán với chính phủ các nước tiếp nhận nhằm hạn chế những rủi ro, đảm bảo an sinh xã hội và phúc lợi của người lao động, đền bù cho người lao động bị chấm dứt hợp đồng trước thời hạn,... Để hỗ trợ cho người LĐXK, Thái Lan thành lập Quỹ hỗ trợ cho lao động ngoài nước nhằm giúp đỡ những lao động gặp rủi ro và không có tiền trở về cũng như hỗ trợ những lao động gặp khó khăn trước khi đi. Thái Lan cũng chỉ định ba ngân hàng chuyên cho những người muốn đi XKLĐ vay tiền với lãi suất thấp để giúp họ tránh được những rủi ro trong tìm kiếm nguồn tài chính đi XKLĐ. Tuy nhiên, chỉ có 12% số lao động đi XKLĐ vay tiền từ Nhà nước, khoảng 22,7% vay tiền từ những cơ sở tư nhân và 15% vay tiền từ người thân. Công tác thông tin tuyên truyền về XKLĐ được các cơ quan chức năng của nhà nước (Cục Việc làm - Bộ Lao động Thái Lan) và các công ty XKLĐ tư nhân thực hiện, các cơ hội, thông tin về việc làm ở nước ngoài được phổ biến rộng rãi, công khai, đẩy đủ cho tất cả mọi người lao động. Thái Lan chú trọng đến việc tăng chất lượng nguồn XKLĐ, chính phủ quy định tất cả lao động đi làm việc ở nước ngoài trước khi xuất cảnh phải tham gia khóa học định hướng miễn phí của Cục Việc làm - Bộ Lao động Thái Lan về các kiến thức cơ bản như văn hóa, điều kiện sống, hợp đồng lao động, lương và các quy định liên quan đến người lao động cũng như quyền được hưởng các phúc lợi xã hội của họ. Hàng năm chính phủ và các công ty XKLĐ mở các khóa đào tạo cho lao động nông thôn để chuẩn bị đi XKLĐ, khoảng 80.000 - 120.000 lao động, tập trung vào các ngành nghề cơ khí, điện tử, thợ hàn, xây dựng, lái xe, mỹ thuật công nghiệp và dịch vụ [25], [35], [44]. - Trung Quốc Trung Quốc hiện là một trong những nước XKLĐ đứng đầu trong khu vực và trên thế giới. XKLĐ của Trung Quốc bắt đầu từ cuối những năm 1970 và đã tăng lên một cách đáng kể cùng với tốc độ gia tăng cải cách kinh tế và chính sách mở cửa ra thế giới bên ngoài trong những năm gần đây. Trung Quốc chủ yếu XKLĐ thông qua dự án xây dựng ở nước ngoài, XKLĐ qua các đại lý dịch vụ việc làm có hợp đồng cung ứng lao động và xuất khẩu thuyền viên. Trung Quốc XKLĐ sang các thị trường chính là Nhật Bản, Hàn Quốc, một số nước Trung Đông và đặc biệt là Mỹ. Trung Quốc XKLĐ sang các nước làm việc chủ yếu trong các lĩnh vực nông nghiệp, may mặc, dịch vụ gia đình và giải trí, xuất khẩu thuyền viên, trong đó, xuất khẩu thuyền viên tàu đánh cá là một phần quan trọng trong XKLĐ của Trung Quốc. Việc quản lý hoạt động XKLĐ của Trung Quốc cũng được tập trung vào một cơ quan nhà nước là Bộ Lao động và Bảo hiểm xã hội Trung Quốc, Bộ này chịu trách nhiệm ban hành các chính sách và các văn bản liên quan đến hoạt động XKLĐ. Chính phủ Trung Quốc quy định các đại lý dịch vụ việc làm phải thực hiện được đầy đủ các dịch vụ liên quan đến hoạt động XKLĐ như thông tin thị trường lao động, giới thiệu việc làm và tuyển lao động, ký kết hợp đồng lao động, đào tạo ngoại ngữ và tay nghề, trợ giúp xã hội, bảo vệ quyền lợi của người lao động. Thực hiện quản lý chặt chẽ hoạt động của các đại lý này thông qua các điều kiện thành lập, tiêu chuẩn hoạt động của các đại lý, thực hiện kiểm tra giấy phép hoạt động và đình chỉ những đại lý không đạt yêu cầu. Đồng thời, tăng cường thông tin cho nhân dân các chính sách về XKLĐ, các điều kiện của các đại lý dịch vụ việc làm hợp pháp và các tiêu chuẩn dịch vụ của các đại lý này thông qua hệ thống thông tin đại chúng nhằm nâng cao nhận thức của người lao động đối với hoạt động XKLĐ, nhất là cảnh giác với hoạt động bất hợp pháp. Trung Quốc cũng rất quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của người lao động ở nước ngoài, chính phủ Trung Quốc đã xây dựng quy chế bảo vệ quyền và quyền lợi của người lao động Trung Quốc ở nước ngoài để có các cơ sở hợp pháp về quản lý và thanh tra việc làm nước ngoài. Đặc biệt, chú trọng tăng cường hợp tác với các nước khác trong việc đấu tranh ngăn chặn, các hoạt động XKLĐ bất hợp pháp và di cư bất hợp pháp để bảo vệ người lao động Trung Quốc ở nước ngoài [25], [30]. Một số kinh nghiệm rút ra từ hoạt động XKLĐ của một số nước trong khu vực - Chính phủ các nước đều coi XKLĐ là chiến lược, là quốc sách lâu dài nên đều có chương trình quốc gia về XKLĐ. Vấn đề hợp tác lao động thường xuyên được đề cập đến trong các cuộc trao đổi cấp cao và được thể hiện trong các thỏa thuận song phương với nước ngoài; đồng thời, thường xuyên theo dõi diễn biến tình hình của các nước tiếp nhận lao động để chiếm lĩnh thị trường XKLĐ. - Vấn đề quản lý nhà nước về XKLĐ đều tập trung vào một cơ quan của chính phủ, đó là Bộ Lao động. Vai trò của Đại sứ quán tại nước ngoài được đặc biệt quan tâm, thông qua phát huy vai trò của Tùy viên lao động tại các nước đó để thẩm định các hợp đồng và quản lý lao động. - Công tác bảo vệ quyền lợi của LĐXK ở nước ngoài được chú trọng; đồng thời, thành lập các quỹ hỗ trợ cho người lao động khi đi XKLĐ hay gặp khó khăn khi đang làm việc ở nước ngoài. - Chính phủ khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế và người lao động tham gia tìm việc làm ở ngoài nước. Các ngành chức năng có trách nhiệm tạo mọi điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thực hiện có hiệu quả chương trình việc làm ở ngoài nước. - Công tác đào tạo nghề cho người lao động trước khi đi được đặc biệt chú ý với việc hình thành trung tâm đào tạo quốc gia và quản lý nhà nước về đào tạo LĐXK. - Công tác thông tin tuyên truyền về XKLĐ được chú trọng, có sự tham gia của cả cơ quan chức năng và các công ty hoạt động XKLĐ, các thông tin về cơ hội về việc làm ở nước ngoài được phổ biến công khai, minh bạch. Chương 2 Thực Trạng Hoạt Động Xuất Khẩu LAO Động Của Việt NAM SANG Thị Trường KHU Vực ĐÔNG Bắc á Việt Nam thực hiện XKLĐ vào khu vực Đông Bắc á từ đầu những năm 1990 và chủ yếu là XKLĐ sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Các nước này đã trở thành những thị trường XKLĐ chính, quan trọng của Việt Nam từ đó đến nay. Nghiên cứu thực trạng hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á thông qua phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. 2.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động xuất khẩu lao động sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và nguyên nhân - Số lượng LĐXK tăng, ngành nghề lao động có xu hướng mở rộng Từ năm 1992 đến năm 2004, số lượng LĐXK của Việt Nam vào Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan có xu hướng tăng lên, mặc dù mức tăng không đều qua các năm, thậm chí có năm giảm mạnh. Trong đó đáng kể là số lượng LĐXK vào Đài Loan đã tăng mạnh từ năm 2000, sau khi Việt Nam ký được thỏa thuận chính thức đưa lao động Việt Nam sang làm việc tại nước này năm 1999, làm cho số lượng LĐXK của Việt Nam vào khu vực Đông Bắc á cũng có sự gia tăng đáng kể. Năm 1992, số lượng LĐXK của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á là 210 người, năm 2000 là 16.912 người và năm 2004 đã tăng lên 44.675 người. Số lượng LĐXK vào khu vực Đông Bắc á luôn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số LĐXK của Việt Nam, năm năm 1993 là 87,93%, năm 1995 là 77,31% năm 2000 là 53,69% và năm 2004 là 66,24%, khu vực Đông Bắc á trở thành thị trường XKLĐ chủ yếu của Việt Nam (xem bảng 2.1). Riêng 6 tháng đầu năm 2005, Việt Nam đã xuất khẩu 20.803 lao động sang thị trường khu vực Đông Bắc á, bằng 2/3 tổng số LĐXK của cả nước, trong đó số lượng LĐXK sang Đài Loan là 15.759 người, Hàn Quốc là 3.275 người và Nhật Bản là 1.769 người. Lao động nữ chiếm hơn 1/4 tổng số LĐXK vào khu vực Đông Bắc á, đáng kể là số lượng lao động nữ xuất khẩu sang Đài Loan chiếm 66% tổng số LĐXK Việt Nam sang nước này. Lao động nữ xuất khẩu sang khu vực Đông Bắc á chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực dệt, may, điện tử và làm giúp việc. Đài Loan đã trở thành thị trường XKLĐ chủ lực của Việt Nam từ sau năm 1999, số lượng LĐXK của Việt Nam vào thị trường này luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số LĐXK của cả nước và trong tổng số LĐXK sang khu vực Đông Bắc á. Năm 2000, tổng số LĐXK vào Đài Loan chiếm 47,89% tổng số lao động Việt Nam xuất khẩu vào khu vực Đông Bắc á và chiếm 25,71% tổng số LĐXK của cả nước, các con số tương ứng năm 2002 là 79,55% và 28,60%, năm 2004 là 83,14% và 55,07% (xem bảng 2.1). Các lĩnh vực, ngành nghề XKLĐ có xu hướng mở rộng. Từ chỗ chỉ XKLĐ theo hình thức tu nghiệp sinh công nghiệp và thực tập kỹ thuật tại Nhật Bản và Hàn Quốc, tập trung chủ yếu trong các lĩnh vực sản xuất chế tạo, xây dựng, điện tử, dệt may, đến nay LĐXK của Việt Nam đã tham gia vào một số lĩnh vực khác như vận tải biển, đánh bắt cá, chăm sóc người bệnh, giúp việc gia đình, nông nghiệp,... Sự thay đổi về cơ cấu ngành nghề trong XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á từ khi Đài Loan tiếp nhận lao động giản đơn, phổ thông của Việt Nam vào nước này làm việc. Đặc biệt, việc đạt được thỏa thuận đưa lao động Việt Nam sang Hàn Quốc làm việc theo các chương trình tu nghiệp sinh công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, làm việc trong các ngành công nghệ cao và theo Luật cấp phép cho LĐNN mới của nước này đã tạo cơ hội và là điều kiện để Việt Nam tăng số lượng LĐXK, thực hiện đa dạng hóa cơ cấu ngành nghề trong XKLĐ cả ở Hàn Quốc nói riêng và khu vực Đông Bắc á nói chung. 40 - Giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động, tăng thu nhập cho người lao động, giảm gánh nặng ngân sách nhà nước đầu tư tạo việc làm. Với số lượng LĐXK sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan trong thời gian qua như đã nêu, hoạt động XKLĐ sang thị trường khu vực Đông Bắc á đã và đang góp phần quan trọng vào việc giải quyết tình trạng lao động dư thừa trong nền kinh tế, giảm tình trạng thất nghiệp và số người thiếu việc làm trong lực lượng lao động ở nước ta. Số LĐXK sang khu vực Đông Bắc á so với số lao động được giải quyết việc làm của cả nước những năm gần đây có xu hướng tăng lên, năm 2001 là 1,07%, các năm 2002, 2003 là 1,17% và 2,38% (xem bảng 2.2). Ngoài ra, số người đi XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á còn tạo cho nhiều người có thêm việc làm từ các khâu dịch vụ y tế, chuyên chở hàng không, dịch vụ giao nhận hàng hóa, làm thủ tục xuất nhập cảnh... Bảng 2.2: Tỷ lệ lao động xuất khẩu sang khu vực Đông Bắc á so với lao động được giải quyết việc làm trong nước Năm Số LĐ được giải quyết việc làm trong nước (người) Số LĐXK sang khu vực Đông Bắc á (người) Tỷ lệ LĐXK/LĐ được giải quyết việc làm trong nước 2001 1,40 triệu 14.941 1,07% 2002 1,42 triệu 16.583 1,17% 2003 1,50 triệu 35.661 2,38% 2004 1,58 triệu 44.675 2,83% Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Mức lương bình quân một tháng của lao động Việt Nam tại Đài Loan khoảng 300 USD/tháng. Mức lương tu nghiệp sinh tại Hàn Quốc từ 500 - 700USD/tháng, tại Nhật Bản là 300 - 500USD/tháng (năm đầu) và từ 600 - 800USD/tháng (từ năm thứ 2), sau khi trừ đi các khoản chi phí, mỗi người lao động 41 XKLĐ cũng có thể có được ít nhất 100 triệu đồng sau 2 năm làm việc. So với thu nhập trong nước, một lao động có việc làm nói chung có mức thu nhập là 617.340 đồng/người/tháng và một lao động làm công ăn lương là 844.860 đồng/người/tháng [2], [3], đó là khoản thu nhập khá lớn, rất có ý nghĩa đối với người LĐXK Việt Nam. Số tiền này sẽ là nguồn tài chính tương đối lớn để cải thiện đời sống của người lao động ở những khu vực có thu nhập thấp, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội ở những khu vực này. Đặc biệt, khi được sử dụng hợp lý cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho bản thân người LĐXK trở về và những người khác, hiệu quả của nguồn tài chính này đối với nền kinh tế quốc dân còn cao hơn nữa. Xét trên khía cạnh này, hoạt động XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á còn góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo ở nước ta. Với kết quả như trên, hoạt động XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á cũng đã góp phần giảm chi ngân sách đầu tư tạo việc làm, tăng tích lũy cho nền kinh tế. Theo tính toán của Vụ Lao động, Văn hóa xã hội - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, bình quân để tạo một làm việc với trang thiết bị kỹ thuật như hiện nay là 39,3 triệu đồng [25], thì với 171.378 lao động được đi làm việc ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan trong thời gian qua đã tiết kiệm được một khoản vốn đầu tư không nhỏ cho toàn xã hội, giảm bớt được gánh nặng chi phí tạo việc làm cho ngân sách nhà nước. Ngoài ra, ngân sách nhà nước còn thu được hàng trăm triệu USD từ phí bảo hiểm xã hội, thuế thu nhập cao, thuế doanh thu và thuế lợi tức của doanh nghiệp XKLĐ tính trên số tiền phí dịch vụ thu từ người lao động, lệ phí cấp giấy phép hoạt động XKLĐ (10 triệu đồng/giấy phép), lệ phí cấp giấy phép thực hiện hợp đồng (5USD/người) [8]. Các khoản thu này cùng với khoản tiền tiết kiệm từ chi phí đầu tư tạo việc làm cho người lao động nêu trên sẽ là nguồn vốn tích lũy lớn cho nhà nước để đầu tư vào các hạng mục phát triển kinh tế xã hội khác ở trong nước. - Thị phần xuất khẩu lao động từng bước được mở rộng, số lượng các doanh nghiệp tham gia XKLĐ được củng cố. 42 Mặc dù không phải là nước XKLĐ truyền thống vào khu vực Đông Bắc á nhưng số lượng LĐXK của Việt Nam sang khu vực này ngày càng tăng, thị phần XKLĐ từng bước được mở rộng. Từ chỗ chỉ là nước mới tiếp cận thị trường vào đầu những năm 1990 nhưng hiện Việt Nam đang có vị trí cao trong số những nước xuất khẩu nhiều lao động vào khu vực Đông Bắc á. Năm 1992, Việt Nam XKLĐ sang Hàn Quốc theo chương trình tu nghiệp sinh công nghiệp, làm việc trong lĩnh vực sản xuất chế tạo, sau đó mở rộng sang lĩnh vực xây dựng, nông nghiệp, điện lực vào các năm 2003, 2004. Năm 2004, Việt Nam đạt được thỏa thuận XKLĐ chất lượng cao sang Hàn Quốc làm việc trong các ngành kinh tế mũi nhọn, XKLĐ phổ thông vào Hàn Quốc theo Luật cấp phép lao động mới, tạo điều kiện cho Việt Nam gia tăng số lượng XKLĐ vào thị trường này. Việt Nam hiện đứng thứ ba sau Trung Quốc và Indonesia là những nước XKLĐ có nhiều lao động ở Hàn Quốc. Tại Nhật Bản, một thị trường khó tính, có các điều kiện tiếp nhận lao động cao và chặt chẽ, nhưng số lượng lao động Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản cũng ở mức trên 2.000 lao động/năm từ năm 2001 trở lại đây và hiện đứng thứ 4 sau Trung Quốc, Philippine và Indonesia về số lượng LĐXK. Tại Đài Loan, thị phần XKLĐ của Việt Nam được mở rộng nhanh chóng nhờ chính sách tiếp nhận lao động không hạn chế về số lượng của Đài Loan dành cho Việt Nam. Số lượng LĐXK của Việt Nam tại Đài Loan không ngừng tăng mạnh kể từ khi thị trường này được khai thông, từ 558 người năm 1999 lên 37.144 người năm 2004. Năm 2003, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 3 trong số các nước có số lượng LĐXK lớn tại Đài Loan, sau Thái Lan, Indonesia và Philippine [12]. Các doanh nghiệp XKLĐ của Việt Nam vào khu vực đã được chấn chỉnh và củng cố về cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm trong XKLĐ, nhất là sau khi có sự cố tại thị trường Đài Loan. Các cơ quan chức năng thực hiện tạm ngừng và rút giấy phép các doanh nghiệp vi phạm quy định về XKLĐ, doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả… Hiện có trên 120 doanh nghiệp Việt Nam thực hiện XKLĐ vào Đài Loan, 35 doanh nghiệp đưa lao động sang Nhật Bản và 12 doanh nghiệp XKLĐ vào Hàn Quốc, trong đó 08 doanh nghiệp XKLĐ đưa tu 43 nghiệp sinh công nghiệp, 03 doanh nghiệp đưa tu nghiệp sinh xây dựng, 01 doanh nghiệp đưa tu nghiệp sinh nông nghiệp sang nước này [12]. - Chất lượng lao động sau khi kết thúc hợp đồng XKLĐ về nước được nâng lên, góp phần hình thành đội ngũ lao động có chất lượng phục vụ cho quá trình CNH, HĐH đất nước. Hiện nay vẫn chưa có các số liệu thống kê chính thức về hiệu quả của XKLĐ trên khía cạnh nâng cao chất lượng lao động trong nước, nhưng về mặt định tính, vai trò của hoạt động XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ lao động của Việt Nam là có thể khẳng định được. Một mặt, LĐXK đều được đạo tạo những kỹ năng lao động cơ bản cho các công việc ở nước ngoài trước khi đi, kể cả lao động làm các công việc giản đơn như giúp việc gia đình. Tỷ lệ LĐXK được đào tạo nghề cho LĐXK năm 2001 là 22,5%, năm 2002 là 30% và năm 2003 là 35,5%, năm 2004 là 40%, tuy còn ở mức thấp để tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế nhưng vẫn cao hơn so với tỷ lệ lao động được đào tạo nghề chung (22,5%) của nước ta hiện nay. Mặt khác, người lao động khi làm việc ở các nước tiếp nhận lao động có điều kiện tiếp cận với các kiến thức mới, hình thành được ý thức kỷ luật lao động, tác phong lao động công nghiệp. Đặc biệt, độ ngũ lao động làm việc ở các nhà máy, xí nghiệp có điều kiện tiếp cận và học tập các kiến thức khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, phương pháp quản lý lao động sản xuất tiến tiến, có điều kiện nâng cao tay nghề, trình độ lao động... Vì vậy, hoạt động XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á rõ ràng có tác dụng nâng cao kỹ năng lao động cho người lao động do được đào tạo nghề, tăng khả năng nhận thức của họ về quan hệ lao động và tác phong lao động trong nền kinh tế thị trường so với những lao động không tham gia XKLĐ. Đội ngũ lao động này nếu được khai thác, sử dụng hợp lý sau khi về nước sẽ góp phần nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế, đáp ứng được các nhu cầu lao động đa dạng trong quá trình đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện CNH, HĐH ở nước ta. 44 Những kết quả, thành tựu trong hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan trong thời gian qua như nêu trên, theo chúng tôi xuất phát từ hai nguyên nhân cơ bản sau: - Thứ nhất, hoạt động XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á được thực hiện dựa trên một chủ trương đúng đắn về XKLĐ của Đảng, một hệ thống pháp luật về XKLĐ ngày càng được hoàn thiện và đồng bộ. Chủ trương đúng đắn và linh hoạt của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động XKLĐ đã bắt kịp sự vận động của nền kinh tế thế giới, khu vực cũng như quá trình đổi mới kinh tế của nước ta. Đây là một trong những yếu tố quyết định hiệu quả của hoạt động XKLĐ của Việt Nam nói chung và hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á nói riêng. Thực tế hoạt động XKLĐ của Việt Nam được bắt đầu từ những năm 1980, Đại hội Đảng lần thứ V xác định: "Mở rộng đưa lao động ra nước ngoài bằng nhiều hình thức kết hợp, coi đó là một bộ phận hữu cơ của chương trình lao động nói chung". Nhưng trong suốt thời kỳ từ 1980 đến năm 1992, các quan điểm, chủ trương của Đảng về XKLĐ đều mang đậm dấu ấn của cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung, phục vụ các mục đích chính trị trong quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa cũ. Trong giai đoạn này, hoạt động XKLĐ của Việt Nam theo cơ chế tập trung: Nhà nước ký kết các hiệp định Chính phủ cung cấp lao động và chuyên gia cho một số nước xã hội chủ nghĩa cũ và một số nước ở châu Phi và Trung Đông, đồng thời trực tiếp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Mục tiêu của hoạt động này chỉ nhằm đào tạo, nâng cao tay nghề cho công nhân, nhất là nắm bắt các quy trình sản xuất, kỹ thuật tiên tiến của các nước xã hội chủ nghĩa để phục vụ cho sự phát triển đất nước, trên tinh thần hỗ trợ, giúp đỡ và quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước tiếp nhận lao động nước ta. Trong giai đoạn này các quan hệ kinh tế thị trường chưa được đề cập, do đó các khái niệm về hàng hóa sức lao động, thị trường lao động và vấn đề trao đổi ngang giá theo cơ chế thị trường không xuất hiện, kể cả trong các văn bản chính 45 thức của nhà nước. Hoạt động XKLĐ lúc đó không dựa trên các quan hệ thị trường, không tính tới mục đích kinh tế cũng như vấn đề đảm bảo trao đổi ngang giá trị. Quan điểm, chủ trương về XKLĐ sau đó đã có những thay đổi vào cuối những năm 1980, nhà nước cho phép thành lập các tổ chức kinh tế xuất khẩu lao động và chuyên gia, mục đích kinh tế đã được chú trọng. Quan điểm, chủ trương về hoạt động XKLĐ đã thay đổi căn bản kể từ Đại hội Đảng lần thứ VIII. Tại Đại hội này, Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh chủ trương "đẩy mạnh xuất khẩu lao động", tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII đã chỉ rõ: "Mở rộng xuất khẩu lao động trên thị trường đã có và trên thị trường mới. Cho phép các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu lao động và làm dịch vụ xuất khẩu lao động trong khuôn khổ pháp luật dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, kiên quyết chấn chỉnh những hoạt động dịch vụ xuất khẩu lao động trái với quy định của Nhà nước". Chỉ thị 41-CT/TƯ ngày 22/9/1998 của Bộ Chính trị về XKLĐ và chuyên gia khẳng định: "Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước". Sự thay đổi quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về XKLĐ này đã tạo ra một bước ngoặt cho hoạt động XKLĐ của Việt Nam. Từ sự thay đổi đó, XKLĐ được thực hiện theo cơ chế mới, nhiều thị trường XKLĐ của Việt Nam đã được mở ra, trong đó có thị trường XKLĐ khu vực Đông Bắc á. Trên tinh thần của chủ trương, quan điểm đó, một hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến XKLĐ được ban hành, ngày càng hoàn thiện và đồng bộ. Quốc hội đã thông qua Bộ Luật lao động sửa đổi trong đó có 6 điều quy định một số vấn đề liên quan đến XKLĐ. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 152/NĐ-CP ngày 20/91/1999, sau đó thay thế bằng Nghị định số 81/NĐ-CP ngày 17/7/2003 để cụ thể hóa thành các văn bản pháp lý về đổi mới chính sách và cơ chế xuất khẩu lao động và chuyên gia. Theo các nghị định này, hoạt động XKLĐ và chuyên gia đã được 46 thực hiện theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, ngày càng phù hợp với cơ chế tiếp nhận lao động của thị trường lao động quốc tế. Theo chủ trương, quan điểm của Đảng và các văn bản của Chính phủ, các Bộ ngành hữu quan cũng ban hành các văn bản quy định, thông tư về tuyển chọn lao động, đào tạo, giáo dục định hướng cho người lao động, tổ chức quản lý LĐXK, hỗ trợ trong XKLĐ,... của Việt Nam nói chung và XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á nói riêng. Ngoài ra, quỹ hỗ trợ XKLĐ, Hiệp hội các doanh nghiệp XKLĐ Việt Nam cũng được thành lập để hỗ trợ cho hoạt động XKLĐ cũng như đảm bảo sự thống nhất và ổn định của hoạt động này. Đối với hoạt động XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á còn có các quy định riêng về xử phạt đối với những lao động, tu nghiệp sinh bỏ trốn và cư trú bất hợp pháp để quản lý, điều tiết theo những diễn biến của tình hình thực tế. Những chính sách, văn bản này bước đầu đã tạo ra được một hành lang pháp lý và là cơ sở đảm bảo cho hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á ổn định và phát triển. - Thứ hai, nhu cầu NKLĐ ngày càng tăng và chính sách mở cửa thị trường lao động của các nước trong khu vực Đông Bắc á cho Việt Nam. Sự thiếu hụt lao động ngày càng tăng cao cùng với sự phát triển kinh tế ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, nhất là đối với các lĩnh vực kinh tế truyền thống sử dụng nhiều lao động đã buộc các nước này phải xem xét tới việc tuyển dụng ngày càng nhiều LĐNN. Thực tế nhu cầu tuyển dụng LĐNN ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, về khách quan là do thiếu hụt lao động trong nước, nhưng về chủ quan là do các tính toán lợi ích của chủ sử dụng lao động cũng như chính phủ các nước này, kể cả việc tuyển dụng bất hợp pháp. Việc sử dụng LĐNN giúp cho các nước tiếp nhận tiết kiệm được một khoản tài chính tương đối lớn do chi phí lương thấp, thường ở mức lương tối thiểu cho LĐNN (thậm chí các tu nghiệp sinh ở Nhật Bản và Hàn Quốc còn chỉ nhận được tiền trợ cấp trong năm đầu tiên tu nghiệp) và không phải chi trả lương hưu hay bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội khi người lao động hết hợp đồng. Ngay cả khi cân đối với những tác động của việc tuyển dụng LĐNN đối với nền kinh tế - xã hội như tăng tỷ 47 lệ thất nghiệp, phân bổ lại thu nhập và phúc lợi đối với lao động giản đơn, các vấn đề xã hội khác thì lợi ích thu được vẫn lớn hơn, kích thích sử dụng LĐNN nhiều hơn ở các nước này. Điều này đã tạo cơ hội cho các nước XKLĐ, trong đó có Việt Nam, đẩy mạnh hoạt động XKLĐ vào khu vực Đông Bắc á. Bên cạnh đó, hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang các nước Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan trong thời gian qua được hỗ trợ bởi các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội khác. Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đang muốn lợi dụng Việt Nam như là một cầu nối, mắt xích quan trong để tiếp cận, thâm nhập, gây ảnh hưởng cả về chính trị và kinh tế ở khu vực ASEAN. Chính vì vậy, các nước này đều đã và đang giữ những mối quan hệ kinh tế, chính trị quan trọng với Việt Nam. Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đều là những nhà đầu tư lớn ở Việt Nam, là đối tác thương mại lớn trong khu vực của Việt Nam, Nhật Bản còn là nước viện trợ ODA hàng đầu cho Việt Nam,… Các quan hệ này, một mặt tạo ra sự ràng buộc chặt chẽ trong quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam và các nước khu vực Đông Bắc á, nhưng mặt khác cũng có tác động tích cực tới hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang các nước này. Điều này được thể hiện rõ ở chỗ, mặc dù mới chỉ tiếp cận thị trường XKLĐ nhưng Việt Nam đã được Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan tạo thuận lợi tăng cường XKLĐ vào các nước này. Việt Nam được chọn là một trong 6 nước được tham gia XKLĐ vào Hàn Quốc theo Luật cấp phép cho LĐNN mới của Hàn Quốc, là một trong số các nước ở châu á được tham gia vào Chương trình tu nghiệp sinh của Nhật Bản. Đặc biệt, Việt Nam vẫn đang được nương nhẹ trong việc xử lý các tiêu cực liên quan đến hoạt động XKLĐ sang các nước này như lao động bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp, lao động vi phạm pháp luật nước sở tại,... Do đó, những thay đổi về chính sách tiếp nhận LĐNN của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đã mở ra cơ hội và khả năng để Việt Nam tăng cường XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á khi được khai thác và thực hiện một cách nghiêm túc. 2.2. Những hạn chế, khó khăn trong hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và nguyên nhân 48 Hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường các nước Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là một hoạt động nhạy cảm, liên quan đến nhiều vấn đề như chính trị, xã hội, văn hóa, quan hệ đối ngoại, do đó, không thể tránh khỏi những khó khăn, khiếm khuyết khi thực hiện, cần tiếp tục nghiên cứu để đưa ra các giải pháp phù hợp và hiệu quả. Thực tế hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang các nước này trong thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn trong toàn bộ quy trình XKLĐ từ tạo nguồn LĐXK, đến quản lý lao động ở nước ngoài, giải quyết các vấn đề sau khi LĐXK về nước. Những hạn chế, khó khăn đó có thể khái quát thành những vấn đề sau đây: - Tình trạng lao động Việt Nam bỏ trốn và cư trú bất hợp pháp tại Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan ở mức cao. Việt Nam là nước có số lượng LĐXK vào Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan tương đối lớn so với nhiều nước XKLĐ khác ở khu vực, nhưng lại là một trong những quốc gia có tỷ lệ lao động bỏ trốn cao nhất. Số lượng tu nghiệp sinh tự ý phá hợp đồng bỏ trốn tại Nhật Bản tăng qua các năm cùng với sự gia tăng số lượng lao động Việt Nam sang Nhật Bản làm việc. Năm 2000, số tu nghiệp sinh sang Nhật Bản và 1.497 người, nhưng tỷ lệ bỏ trốn là 18,51%, các con số tương ứng trong năm 2001 là 3.249 và 28,53%, năm 2002 là 2.202 và 27,09%. Nếu so sánh với tỷ lệ bỏ trốn năm 1996 là 3,6%, số liệu trên cho thấy tỷ lệ LĐXK Việt Nam bỏ trốn tăng rất mạnh tại thị trường này. Bên cạnh đó, xuất hiện tình trạng tu nghiệp sinh Việt Nam bỏ trốn hình thành các nhóm người chuyên lôi kéo tu nghiệp sinh khác bỏ hợp đồng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á - thực trạng và giải pháp (2).pdf
Tài liệu liên quan