Luận văn Xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang

Tài liệu Luận văn Xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang: LUẬN VĂN: Xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đói nghèo là một vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc của nhiều quốc gia trên thế giới. Đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển thì đói nghèo không những là vấn đề xã hội mà còn là một trong những thách thức đối với sự phát triển. Chính vì vậy, những năm gần đây, các quốc gia, các tổ chức quốc tế đã nỗ lực tìm các giải pháp để giảm đói nghèo, thu hẹp dần khoảng cách giữa giàu và nghèo ở phạm vi quốc gia và quốc tế. Là một nước đang phát triển lựa chọn xu hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề xoá đói, giảm nghèo và đầu tư nhiều công sức, tiền của cho chương trình xoá đói, giảm nghèo cả trên bình diện quốc gia lẫn trên bình diện địa phương. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng (năm 1996), Đảng ta đã khẳng định: “Thực hiện tốt chương trình xoá đói, giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số...

pdf99 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đói nghèo là một vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc của nhiều quốc gia trên thế giới. Đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển thì đói nghèo không những là vấn đề xã hội mà còn là một trong những thách thức đối với sự phát triển. Chính vì vậy, những năm gần đây, các quốc gia, các tổ chức quốc tế đã nỗ lực tìm các giải pháp để giảm đói nghèo, thu hẹp dần khoảng cách giữa giàu và nghèo ở phạm vi quốc gia và quốc tế. Là một nước đang phát triển lựa chọn xu hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề xoá đói, giảm nghèo và đầu tư nhiều công sức, tiền của cho chương trình xoá đói, giảm nghèo cả trên bình diện quốc gia lẫn trên bình diện địa phương. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng (năm 1996), Đảng ta đã khẳng định: “Thực hiện tốt chương trình xoá đói, giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số” [20, tr.115]. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4 năm 2001) tiếp tục khẳng định: “Phấn đấu đến năm 2010, về cơ bản không còn hộ nghèo. Thường xuyên củng cố thành quả xoá đói, giảm nghèo"[21, tr.211]. Quá trình thực hiện chương trình quốc gia về xoá đói, giảm nghèo ở nước ta thời gian qua đã đạt được một số thành tựu nhất định như số hộ nghèo theo chuẩn cũ giảm cả tuyệt đối và tương đối, số hộ nghèo vươn lên làm giàu ngày một nhiều hơn, Việt Nam được Ngân hàng Thế giới đánh giá là nước có thành tích vượt trội trong xoá đói, giảm nghèo… Tuy nhiên, kết quả xoá đói giảm nghèo ở nước ta thời gian qua chưa vững chắc, số hộ nghèo theo chuẩn mới còn cao. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ lần thứ X nhận định: “Thành tựu xoá đói, giảm nghèo chưa thật vững chắc. Số hộ nghèo và tái nghèo ở một số vùng còn lớn, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới còn cao. Đời sống nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn gặp nhiều khó khăn, nhiều vùng dân tộc thiểu số có tỷ lệ hộ nghèo cao hơn so với bình quân cả nước"[22, tr.173]. Thực trạng đó đòi hỏi nước ta cần nỗ lực hơn nữa trong tìm tòi giải pháp hiệu quả để tiếp tục tổ chức thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo ở tầm cao hơn. Kiên Giang là một trong những tỉnh nghèo của khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Theo số liệu điều tra mẫu khảo sát mức sống hộ gia đình của Tổng cục Thống kê tổng hợp năm 2005 thì tỷ lệ nghèo theo chuẩn mới của tỉnh Kiên Giang là 13,73%, đứng thứ 10 về trình độ phát triển trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Trong những năm qua Kiên Giang đã tích cực thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo và thu được một số kết quả đáng kể, tính bình quân cả giai đoạn 2001-2005 thì mỗi năm giảm hơn 1% hộ nghèo. Tuy nhiên kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, nguy cơ tái nghèo cao, đặc biệt ở vùng người dân tộc thiểu số. Còn có những hạn chế đó là do việc thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo ở các địa bàn không đều, nhận thức ý nghĩa tầm quan trọng của chương trình xoá đói, giảm nghèo của các cấp lãnh đạo và người dân còn chưa đầy đủ… Thực tế đó đặt cho tỉnh Kiên Giang nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo trong thời gian tới. Vì những lý do đó, đề tài “Xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang"được chọn nghiên cứu trong luận văn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề xoá đói, giảm nghèo cả ở trong nước lẫn ngoài nước, cả về giác độ xã hội lẫn giác độ kinh tế…. Đáng chú ý là một số công trình sau: - UNDP (1996), Tiến kịp. - Báo cáo Phát triển của Việt Nam (2000), Tấn công nghèo đói, Báo cáo chung của nhóm Công tác chuyên gia Chính phủ - Nhà tài trợ - Tổ chức phi Chính phủ, Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, 14 - 15/12/1999. - Nguyễn Văn Thường (2004), Một số vấn đề kinh tế xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Thị Hằng (1997), Vấn đề xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Dương Phú Hiệp, Vũ Văn Hoà (1999), Phân hoá giàu - nghèo ở một số quốc gia khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. - Ngô Quang Minh (1999), Tác động kinh tế của nhà nước góp phần xoá đói, giảm nghèo trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam(2001), Xoá đói, giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số; phương pháp tiếp cận. - Trần Thị Hằng (2001), Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Thống kê, Hà Nội. - Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang...(2001), Nghèo đói và xoá đói, giảm nghèo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Ngân hàng Thế Giới (2004), Đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam. - Trần Đình Đàn (2002), Những giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm xoá đói, giảm nghèo ở Hà Tĩnh, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Trần Thị Hằng (2000), Vấn đề giảm nghèo trong nền Kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Hoàng Thị Hiền (2005), Xoá đói, giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc ít người tỉnh Hoà Bình-Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Nguyễn Đình Huấn (8/1999), Suy giảm năng lực nội sinh ở nông thôn nước ta, nguyên nhân và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế. - Nguyễn Hoàng Lý (2005), Xoá đói, giảm nghèo ở tỉnh Gia Lai, thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Nguyễn Thị Hải (2000), Những giải pháp chủ yếu về quản lý nhằm xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn phú thọ hiện nay, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội. - Đỗ Thế Hạnh (2000), Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm xoá đói, giảm nghèo ở vùng định canh định cư tỉnh Thanh Hoá, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội. - Thái Văn Hoạt (2007), Giải pháp xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Kinh doanh và quản lý, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội. - Ở Kiên Giang, đã có một số đề tài, nghị quyết, chỉ thị, chiến lược về công tác xoá đói, giảm nghèo trong tỉnh như: + Võ Trọng Đường (2000), Phân hoá giàu nghèo của các hộ nông dân ở tỉnh Kiên Giang - thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. + Tỉnh uỷ và Hội đồng nhân dân tỉnh (2001 – 2005), Nghị quyết thực hiện Chương trình xoá đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm. + Uỷ ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang (2006 – 2010), Chương trình giảm nghèo. Nhìn chung các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn đề xoá đói, giảm nghèo. Đây là những tư liệu khoa học quý sẽ được tiếp thu có chọn lọc trong quá trình viết luận văn của tác giả. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu - Ðánh giá thực trạng đói nghèo và hoạt động xoá đói, giảm nghèo của Kiên Giang trong 5 năm gần đây. - Xác định những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về đói nghèo và xoá đói, giảm nghèo. - Phân tích kinh nghiệm xoá đói, giảm nghèo của một số địa phương và rút ra bài học cho Kiên Giang. - Phân tích thực trạng đói nghèo và xoá đói, giảm nghèo ở tỉnh Kiên Giang hiện nay, rút ra các nhận xét về kết quả và nguyên nhân của thực trạng đó. - Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu tiếp tục thực hiện xoá đói, giảm nghèo ở tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu là tình hình đói nghèo và hoạt động xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang - Phạm vi nghiên cứu: Đói nghèo là hiện tượng vừa mang tính xã hội, tính kinh tế, tính văn hoá… Trong khuôn khổ luận văn này, vấn đề đói nghèo và xoá đói, giảm nghèo chủ yếu được nghiên cứu dưới giác độ kinh tế. Không gian nghiên cứu là tỉnh Kiên Giang. Thời gian nghiên cứu tập trung vào giai đoạn từ 2002 - đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xoá đói, giảm nghèo, tiếp thu có chọn lọc các quan điểm của Ngân hàng Thế giới và kinh nghiệm của địa phương khác để xem xét các vấn đề đói nghèo của Kiên Giang. Trong các vấn đề cụ thể, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế học như dựa vào số liệu thống kê; phân tích tài liệu đã công bố; phương pháp kinh nghiệm; phương pháp điều tra xã hội học… 6. Những điểm mới của luận văn - Đưa ra bức tranh khái quát về đói nghèo và xoá đói, giảm nghèo ở tỉnh Kiên Giang những năm gần đây. - Đề xuất một số giải pháp khả thi nhằm tiếp tục xoá đói, giảm nghèo ở Kiên Giang một cách hiệu quả hơn, nhất là xoá đói, giảm nghèo ở các vùng biên giới hải đảo, vùng có đông đồng bào dân tộc sinh sống. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 03 chương, 08 tiết. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO 1.1.QUAN NIỆM VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH CHUẨN ĐÓI NGHÈO 1.1.1. Quan niệm về đói nghèo * Quan niệm đói nghèo trên thế giới Đến nay đã có nhiều nhà nghiên cứu và tổ chức quốc tế đưa ra khái niệm khác nhau về đói nghèo, nhưng nhìn chung, chúng không có sự khác biệt đáng kể. Tiêu chí chung nhất để xác định đói nghèo trong các khái niệm này là mức thu nhập hay chi tiêu để thoả mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu của con người về: ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác nhau giữa các khái niệm là mức đo lường độ thoả mãn cao hay thấp, mà mức đó lại phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế- xã hội cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia. Đáng chú ý là nhiều công trình nghiên cứu và nhiều quốc gia đã sử dụng khái niệm người nghèo của Tổ chức Liên Hợp quốc. Theo quan điểm của Tổ chức Liên Hợp quốc (UN): Người nghèo là những người có thu nhập dưới đường ranh giới nghèo, được xác định bằng số tiền cho nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở,…mà trước mắt là lương thực, thực phẩm để duy trì sự sống với mức tiêu dùng nhiệt lượng 2.100 - 2.300 Calo/người/ngày. Khái niệm về đói nghèo được nêu ra tại Hội nghị bàn về xoá đói, giảm nghèo ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc tháng 9/1993 cũng đáng được chú ý. Hội nghị này cho rằng: “Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận"[3, tr.11]. Có thể xem đây là khái niệm chung nhất về đói nghèo, một khái niệm có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu, phổ quát về đói nghèo. Các tiêu chí và chuẩn mực đánh giá còn tính đến sự khác biệt giữa các vùng, các điều kiện lịch sử cụ thể qui định trình độ phát triển ở mỗi quốc gia. Quan niệm hạt nhân có trong khái niệm này là nhu cầu cơ bản của con người. Căn cứ xác định đói hay nghèo là ở chỗ đối với những nhu cầu cơ bản mà con người không được hưởng và thoả mãn. Nhu cầu cơ bản nói ở đây chính là cái thiết yếu, tối thiểu để duy trì sự tồn tại của con người như: ăn, ở, mặc, Theo đó, sự nghèo khổ tuyệt đối, sự bần cùng được biểu hiện là đói, là tình trạng con người không có ăn, ăn không đủ lượng dinh dưỡng tối thiểu cần thiết, sự đứt đoạn trong nhu cầu ăn. Nói cách khác, đói là tình trạng con người ăn không đủ no, không đủ năng lượng tối thiểu cần thiết để duy trì sự sống hàng ngày và không đủ sức để lao động, để tái sản xuất sức lao động. Nghèo là chỉ tình trạng mà thu nhập thực tế của người dân chỉ dành để chi tiêu cho nhu cầu ăn, thậm chí không đủ chi cho ăn, phần tích lũy hầu như không có. Các nhu cầu tối thiểu khác như: ở, mặc, văn hóa, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp chỉ được đáp ứng một phần rất ít, không đáng kể. Cần phân biệt hai dạng nghèo: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống. Trên thực tế, một bộ phận dân cư nghèo tuyệt đối rơi vào tình trạng đói và thiếu đói. Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng tại địa phương. * Quan niệm đói nghèo của Việt Nam Căn cứ trên thực tế về trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta và hiện trạng đời sống trung bình phổ biến của dân cư hiên nay, có thể đánh giá đói nghèo theo 4 chỉ tiêu chính: thu nhập; nhà ở và tiện nghi sinh hoạt; tư liệu sản xuất và vốn liếng để dành. Song, ở nước ta, do nền văn hoá và bản sắc dân tộc Việt Nam, nên quan niệm về đói nghèo không chỉ đơn thuần đề cập đến vấn đề thu nhập vật chất mà còn liên quan đến khía cạnh bản sắc văn hoá, đạo đức, nhân văn… Trong các tiêu chí như thu nhập, nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, chi tiêu gia đình, hưởng thụ văn hoá,…thì tiêu chí thu nhập về kinh tế là đáng chú ý hơn cả. Ở nước ta chỉ tiêu đánh giá hộ giàu, nghèo, đói, có thể dựa trên chỉ tiêu chính là thu nhập bình quân nhân khẩu một tháng (hoặc năm) được đo lường bằng chỉ tiêu giá trị qui đổi hoặc hiện vật qui đổi. Khái niệm thu nhập ở đây được hiểu là thu nhập thuần tuý. Đối với hộ dân cư ở nông thôn, thu nhập được tính bằng cách lấy doanh thu trừ đi chi phí bỏ ra. Chỉ tiêu thu nhập bình quân nhân khẩu/ tháng là chỉ tiêu cơ bản nhất để xác định mức đói nghèo. Ngoài ra, còn căn cứ vào chỉ tiêu phụ là dinh dưỡng bữa ăn, mặc, nhà ở và các điều kiện học tập, chữa bệnh, đi lại. Trong điều kiện giá cả không ổn định như ở nước ta hiện nay cần phải sử dụng hình thức hiện vật, phổ biến là qui ra gạo để xác định đói nghèo. Việc sử dụng hình thức hiện vật qui ước này có tác dụng loại bỏ được yếu tố giá cả, từ đó có thể so sánh mức thu nhập của người dân theo thời gian và không gian dễ dàng, thuận tiện. Đặc biệt đối với người nghèo nói chung và nông dân nghèo nói riêng, chỉ tiêu số lượng kg gạo bình quân đầu người/ tháng rất có ý nghĩa thực tế. Một hộ có thu nhập cao thì nhất thiết không phải là nghèo và ngược lại. Còn mức độ chi tiêu và cơ cấu chi tiêu không thể thay thế thu nhập, vì chi tiêu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: sở thích, phong tục tập quán, điều kiện khí hậu, quan hệ thị trường. Tương tự như vậy, vấn đề mặc, nhà ở, phương tiện đi lại cũng không thể thay thế chỉ tiêu thu nhập, ngược lại chỉ có tác dụng bổ sung cho chỉ tiêu thu nhập. Qua nhiều cuộc khảo sát, nghiên cứu và đi đến thống nhất ở các Bộ, ngành, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã đưa ra khái niệm đói nghèo ở Việt Nam như sau: Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống. Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thoả mãn một phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng mức sống tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện Hộ đói là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái thất học, ốm đau không có tiền chữa trị, nhà cửa rách nát. Hộ nghèo là hộ thiếu ăn nhưng không đứt bữa, mặc không lành và không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất. Xã nghèo là xã có trên 40% tổng số hộ nghèo đói, không có hoặc rất thiếu những cơ sở hạ tầng thiết yếu, trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao. Vùng nghèo là chỉ những địa bàn tương đối rộng, nằm ở những khu vực khó khăn, hiểm trở, giao thông không thuận lợi, có tỷ trọng xã nghèo, hộ nghèo cao. 1.1.2.Tiêu chí xác định chuẩn nghèo đói * Tiêu chí xác định chuẩn nghèo đói của các tổ chức thế giới: Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra các tiêu chí đánh giá mức độ giàu nghèo của các quốc gia căn cứ vào bình quân thu nhập đầu người theo hai cách tính: - Phương pháp ATLAS tức là tỷ giá hối đoái và tính theo USD. - Phương pháp PPP (Purchasing Power Parity) là phương pháp sức mua tương đương tính theo USD. Theo phương pháp ATLAS, ở cấp quốc gia, căn cứ mức thu nhập bình quân đầu người năm 1990, WB phân loại giàu nghèo trên thế giới thành 6 mức như sau: + Nước cực giàu: trên 25.000 USD + Nước giàu: từ trên 20.000 USD đến 25.000 USD + Nước khá giàu: từ trên 10.000 USD đến 20.000 USD + Nước trung bình: từ trên 2.500 USD đến 10.000 USD + Nước nghèo: từ trên 500 USD đến 2.500 USD + Nước cực nghèo: dưới 500 USD Với mục tiêu hàng đầu là đấu tranh chống nạn nghèo khổ ở các nước đang phát triển, WB đã đưa ra chuẩn nghèo đói tính theo số Calo tối thiểu cần thiết cho một người để sống là 2100 Calo/người/ngày, những hộ gia đình không đảm bảo được mức này là những hộ nghèo khổ. Tiêu chuẩn này được tính chung cho các nước trên thế giới, do đó nghèo khổ theo tiêu chuẩn này chính là nghèo tuyệt đối. Theo mức đánh giá chung của thế giới, để đảm bảo mức 2100 Calo/người/ngày thì cần ít nhất là 1USD/người/ngày. Theo tiêu chuẩn này, thế giới có khoảng 1,3 tỷ người đói nghèo, các khu vực có người nghèo nhất thế giới hiện nay là Châu Phi và Châu Á. WB còn đưa ra khuyến nghị thang đói nghèo như sau: Các cá nhân bị coi là nghèo đói khi mà có thu nhập dưới: + Đối với nước nghèo là 0,5 USD/ ngày; + Đối với nước đang phát triển là 1 USD/ngày; + Đối với các nước thuộc khu vực Mỹ La tinh và Caribe là 2 USD/ngày; + Các nước Đông Âu là 4 USD/ngày; + Các nước công nghiệp phát triển là 14,4 USD/ngày. Tuy nhiên, để phù hợp với điều kiện đặc thù của từng nước, các quốc gia đều tự đưa ra chuẩn riêng của mình. Thông thường, chuẩn quốc gia thấp hơn thang nghèo đói mà WB đưa ra.Ví dụ, Mỹ đưa ra là thu nhập dưới 16.000 USD đối một gia đình chuẩn (gia đình 4 người) trong một năm, tương đương với 11,1 USD/ngày/người, Trung Quốc đưa ra chuẩn nghèo là 960 Nhân dân tệ/năm/người tương đương với 0,33 USD/người/ngày. Trong quá trình nghiên cứu đói nghèo và thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam, WB cũng đã đưa ra hai mức chuẩn nghèo đối với Việt Nam: Thứ nhất, số tiền cần thiết để mua một số lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng với lượng 2100 Calo/người/ngày, gọi là chuẩn nghèo về lương thực thực phẩm. Thứ hai, số tiền cần thiết bao gồm cả chi tiêu cho lương thực, thực phẩm và chi tiêu cho nhu cầu phi lương thực thiết yếu khác, gọi là chuẩn nghèo chung. Theo quan niệm của WB, ngoài chỉ tiêu tối thiểu về lương thực, thực phẩm để đảm bảo đủ lượng 2.100 Calo/người/ngày (tương đương 70% chi tiêu) còn có những khoản chi tiêu tối thiểu phi lương thực, thực phẩm (tương đương 30% chi tiêu). Dựa vào số liệu điều tra mức sống dân cư tại nước ta năm 1993, năm 1998, và căn cứ vào sức mua của đồng tiền Việt Nam, WB đưa ra chuẩn nghèo đối với từng loại ở Việt Nam như sau: Năm 1993 Năm 1998 - Chuẩn nghèo LTTP: 62.500 đ/người/tháng 107.000đ/người/tháng - Chuẩn nghèo chung: 96.600 đ/người/tháng 149.000 đ/người/tháng * Tiêu chí xác định chuẩn nghèo đói của Việt Nam Ở Việt Nam, ngoài gợi ý về cách xác định chuẩn đói nghèo theo mức hưởng thụ calo do bữa ăn mang lại hàng ngày qui đổi ra thu nhập của WB đã nêu trên, các nhà nghiên cứu và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đã nêu ra các mức xác định chuẩn mực đói nghèo khác nhau, điển hình là cách xác định của Tổng cục Thống kê (TCTK) và của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (BLĐ-TB&XH). Theo quan niệm của TCTK, tiêu chuẩn nghèo được xác định thông qua tiêu thụ lương thực, thực phẩm, chưa tính đến việc tiêu thụ hàng hóa phi lương thực, thực phẩm. Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới chuẩn này thuộc vào diện hộ nghèo. Tiêu chuẩn nghèo được tính riêng cho 2 khu vực: thành thị và nông thôn. Trên cơ sở định mức chuẩn dinh dưỡng 2100 Calo/người/ngày, TCTK đã xác định chuẩn nghèo của Việt Nam qua các năm như sau: Đối với thành thị Đối với nông thôn Năm 1993: 70.000 đ/người/tháng 51.000 đ/người/tháng Năm 1994: 102.000đ/người/tháng 76.000 đ/người/tháng Năm 1995: 125.000đ/người/tháng 95.000 đ/người/tháng Năm 1996: 130.000đ/người/tháng 100.000 đ/người/tháng Năm 1997-1998, TCTK không tiến hành điều tra đa mục tiêu như các năm trước, mà phối hợp với WB tiến hành điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam, trong đó tình trạng nghèo được nghiên cứu theo phương pháp đo lường mức sống của WB. Theo TCTK, tiêu chuẩn nghèo của TCTK và WB tương đương nhau, tỷ lệ nghèo do hai cơ quan này đưa ra cũng rất gần nhau và đều dựa trên số liệu về thu nhập hoặc chi tiêu được điều tra một cách khách quan. Bộ LĐ-TB&XH đồng tình với quan điểm về đói nghèo của hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á- Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9/ 1993. Chuẩn nghèo được dùng để đánh giá mức độ đói nghèo ở Việt Nam là tính theo thu nhập nhân khẩu một tháng hoặc một năm và được đo bằng giá trị hoặc hiện vật qui đổi. Vì chuẩn nghèo là một khái niệm động, nó biến động theo không gian và thời gian. Về không gian, ở Việt Nam, chuẩn nghèo biến động theo 3 vùng sinh thái khác nhau, đó là: vùng thành thị, vùng nông thôn đồng bằng và vùng nông thôn miền núi. Về thời gian, Bộ LĐ-TB&XH đã đưa ra chuẩn đói nghèo chủ yếu dựa vào các số liệu về thu nhập của hộ gia đình tùy theo thời kỳ phát triển của đất nước. Theo phương pháp trên và căn cứ vào mức sống thực tế của các địa phương, Bộ LĐ- TB &XH đã 3 lần công bố chuẩn nghèo tính theo thu nhập bình quân đầu người cho các giai đoạn cụ thể khác nhau: giai đoạn 1993- 1995, giai đoạn 1996- 2000 và giai đoạn 2001- 2005. - Năm 1993, để đáp ứng yêu cầu cấp bách về chỉ đạo xóa đói, giảm nghèo, Bộ LĐ- TB &XH đã đưa ra chuẩn đói nghèo ở nước ta là: Hộ đói là hộ có thu nhập bình quân đầu người trong 1 tháng qui đổi ra gạo dưới 8 kg ở nông thôn, dưới 13 kg ở thành thị; Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người trong 1 tháng qui đổi ra gạo dưới 13 kg ở nông thôn, dưới 20 kg ở thành thị. - Đến năm 1997, Bộ LĐ - TB & XH đã đưa ra tiêu chí chi tiết hơn cho từng mức độ đói nghèo và từng khu vực, cụ thể được qui định như sau: Hộ đói là có bình quân thu nhập đầu người trong 1 tháng qui đổi ra gạo dưới 13 kg, tương đương với 40.000 đồng Việt Nam (đối với tất cả các vùng). Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người/tháng được phân biệt theo vùng như sau: + Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15 kg gạo; + Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg gạo; + Vùng thành thị: dưới 25 kg gạo. - Từ năm 2001, theo quyết định số 1143/2000/QĐ - LĐ-TB&XH ngày 01/11/2000 của Bộ LĐ-TB &XH, hộ đói nghèo ở nước ta giai đoạn 2001 - 2005 được điều chỉnh theo mức chuẩn mới với mức thu nhập bình quân 1 đầu người trong hộ cho từng vùng như sau: + Vùng nông thôn miền núi, hải đảo : 80.000 đ/tháng; + Vùng nông thôn đồng bằng : 100.000 đ/tháng; + Vùng thành thị : 150.000 đ/tháng. * Quyết định số 170/2005/QĐ - TTg, ngày 08/07/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 như sau: + Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo; + Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 260.000 đồng /người/tháng (3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Nhìn chung, chuẩn nghèo của nước ta giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước. Ví dụ, so với chuẩn nghèo giai đoạn 1996-2000, chuẩn nghèo giai đoạn 2001- 2005 tăng khoảng 1,5 lần. Sở dĩ có lựa chọn phương án tăng lên 1,5 lần là vì trong 5 năm (1996 - 2000) mức sống dân cư Việt Nam tăng lên khoảng 1,47 lần. Theo chuẩn trên, đầu năm 2001, Việt Nam có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 17,2%. Theo chuẩn nghèo giai đoạn 2002 - 2010, hiện nay nước ta có khoảng 3,7 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 19,5%. * Tiêu chí về hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn: theo qui định của Ủy ban dân tộc, hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn được áp dụng đối với các gia đình dân tộc thiểu số cư trú ở các xã khu vực III thuộc chương trình phát triển KT- XH, các xã đặc biệt khó khăn, miền núi và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là chương trình 135), tiêu chí cụ thể như sau: Tiêu chí 1: Hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn là các hộ gia đình dân tộc thiểu số ở vùng dân tộc, miền núi và vùng sâu, vùng xa có mức thu nhập bình quân đầu người từ 80.000 đ/người/tháng trở xuống. Tiêu chí 2: Hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn là các hộ có tập quán sản xuất còn mang nặng tính tự nhiên hái lượm, chủ yếu phát rẫy làm nương, chăn nuôi theo tập quán cũ, lạc hậu, công cụ sản xuất thô sơ, thiếu đất hoặc chưa có đất sản xuất (tính theo mức bình quân diện tích đất canh tác cho mỗi hộ gia đình của địa phương). Tiêu chí 3: Hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn là các hộ có tổng giá trị tài sản bình quân đầu người dưới 1 triệu đồng (không tính giá trị sử dụng của đất, giá trị của các lán trại trên nương rẫy); hộ có hoàn cảnh neo đơn, thiếu lao động hoặc có người ốm đau kéo dài, không có điều kiện tiếp cận thông tin để phục vụ cho sản xuất và đời sống. * Quan niệm về xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo: ngoài tiêu chí xác định hộ nghèo, hộ dân tộc đặc biệt khó khăn, Việt Nam còn có tiêu chí xác định xã đặc biệt khó khăn và tiêu chí xã nghèo (ngoài số xã đặc biệt khó khăn) [3, tr.15]. Xã đặc biệt khó khăn là xã đáp ứng 5 tiêu chí sau: + Vị trí địa lý của xã ở xa trung tâm KT- XH, xa đường quốc lộ, phương tiện giao thông khó khăn. + Môi trường xã hội chưa phát triển, trình độ dân trí thấp, còn nhiều tập tục lạc hậu. + Trình độ sản xuất còn lạc hậu, chủ yếu mang tính tự cung tự cấp. + Đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn thiếu thốn, mức sống thấp. + Hạ tầng cơ sở chưa phát triển, chưa đủ các công trình thiết yếu như: điện, đường giao thông, trường học, trạm xá, nước sạch, chợ,… Xã nghèo được xác định trên cơ sở tỷ lệ đói nghèo trên địa bàn và tình trạng cơ sở hạ tầng thiết yếu. - Thời kỳ 1996-2000, Bộ LĐ-TB&XH đưa ra hướng dẫn xác định xã nghèo như sau: + Tỷ lệ hộ đói nghèo của xã chiếm từ 40% trở lên; + Thiếu 1 trong số các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, điện thắp sáng, trường học, trạm y tế, nước sạch sinh hoạt, chợ). - Theo Quyết định số 587/2002/QĐ-LĐTBXH ngày 22/05/2002 của Bộ LĐ-TB&XH về việc ban hành tiêu chí xã nghèo giai đoạn 2001-2005, thời kỳ 2001-2005, xã nghèo là xã đáp ứng 2 tiêu chí sau: tỷ lệ hộ đói nghèo của xã chiếm từ 25% trở lên; chưa đủ 3 trên tổng số 6 công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu (điện, đường giao thông, nước sạch, phòng học, trạm xá và chợ) biểu hiện cụ thể như sau: + Dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt; + Dưới 30% số hộ sử dụng nước sạch; + Chưa có đường ô tô tới trung tâm xã hoặc có nhưng không đi lại được cả năm; + Chưa có đủ phòng học theo qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; + Chưa có trạm xá hoặc có nhưng còn tạm bợ; + Chưa có chợ hoặc mới có chợ tạm. 1.1.3. Tác động của đói nghèo đến sự phát triển kinh tế - xã hội - Tác động của đói nghèo đến sự phát triển kinh tế: Đói nghèo không những ngăn cản hộ nghèo có thể phát huy hết nguồn lực của chính họ và xã hội để có cuộc sống đầy đủ hơn, mà còn hạn chế sự phát triển kinh tế chung của đất nước. Hộ đói nghèo không có khả năng cho con em học vấn và tay nghề tốt, do đó, trong ngắn hạn dẫn đến hiện tượng trẻ em thất học, bỏ học, về lâu dài dẫn đến giảm năng lực sản xuất của gia đình và mất cơ hội tăng thu nhập. Đói nghèo còn khiến hộ gia đình không có khả năng nuôi dưỡng con cái khoẻ mạnh, không có khả năng để hưởng thụ văn hoá, không có kinh phí chữa bệnh khi ốm đau…, do đó càng làm cho mức sống về lâu dài giảm sút hơn. Đặc biệt, hộ nghèo hầu như không có khả năng tích luỹ cho đầu tư mở rộng sản xuất, không có tài sản thế chấp khi đi vay, khó tiếp cận thị trường tín dụng chính thức vì mức độ rủi ro khi cho họ vay cao, chi phí cho vay lớn, nên các tổ chức tín dụng ngại cho người nghèo vay. Vì không có vốn, trình độ học thức và tay nghề thấp, nên các hộ gia đình đói, nghèo không có khả năng áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất của gia đình. Hậu quả của tất cả các tác động kể trên là người nghèo rơi vào vòng xoáy không có lối thoát: không có điều kiện để nâng cao mức sản xuất nên không có thu nhập; không có thu nhập nên không được hưởng thụ sự đào tạo và không thể cải thiện năng lực sản xuất. Nếu không có sự hỗ trợ của xã hội và Nhà nước thì vòng xoáy đó sẽ đẩy người nghèo vào con đường bần cùng hoá và ngày càng nghèo khổ hơn. Về mặt quốc gia, đói nghèo đi liền với sự lạc hậu, là một cửa ải phải vượt qua để tiến tới một xã hội giàu có, phồn vinh và văn minh. Đói, nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của cả cộng đồng dân cư, xã hội, gây trở ngại tới sự phát triển chung của đất nước. Tác động này thể hiện trên các mặt sau đây: + Sự hiện diện của một bộ phận dân cư nghèo đói trong xã hội thể hiện tình trạng mất công bằng trong phân phối thu nhập. Nếu Nhà nước và xã hội không tìm cách làm giảm nhẹ tình trạng bất công bằng này, thì đến một lúc nào đó sẽ làm phát sinh mâu thuẫn và bất ổn định xã hội, phá vỡ trạng thái bình thường của nền kinh tế, làm giảm hiệu quả phát triển kinh tế, thậm chí có thể dẫn tới đổ vỡ, suy thoái, chiến tranh và nghèo khổ chung của cả nước. + Xét về mặt xã hội, việc con em hộ nghèo không được đào tạo nghề đầy đủ, một mặt làm giảm năng suất lao động xã hội nói chung, mặt khác có thể làm trầm trọng thêm tình trạng thất nghiệp, vừa tăng gánh nặng cho Nhà nước, xã hội, vừa giảm năng lực sản xuất của đất nước. Hơn nữa, các nguồn lực gia đình của người nghèo, nếu bị bỏ quên cũng làm cho năng lực sản xuất của quốc gia xa rời mức sản xuất tiềm năng. - Tác động của đói nghèo đến trật tự an ninh-xã hội: Đói nghèo dẫn đến tình trạng các tệ nạn xã hội, phạm pháp gia tăng vì họ sẽ “đói ăn vụng, túng làm liều”. Vì vậy, đói nghèo là một nguy cơ âm thầm, là nguyên nhân chủ yếu gây nên các tệ nạn xã hội, bạo lực, tội phạm, mất an ninh xã hội như: mại dâm, cờ bạc, trộm cắp, cướp giật tài sản, thậm chí giết người cướp của… Nói tóm lại, đói nghèo không chỉ dẫn đến hậu quả KT-XH nghiêm trọng, mà còn là nguyên nhân quan trọng của xung đột, mất ổn định chính trị. Vì vậy, xoá đói, giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các quốc gia để không những góp phần đảm bảo ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, mà còn tăng trưởng và phát triển bền vững. 1.2. XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM 1.2.1. Quan điểm xóa đói giảm nghèo của Việt Nam 1.2.1.1. Xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ to lớn của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội Vì nghèo đói là vấn đề không chỉ mang tính kinh tế, mà còn mang tính xã hội và chính trị sâu sắc, nên nhiệm vụ xoá đói, giảm nghèo (XĐGN) đã được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Đảng ta cho rằng, muốn XĐGN phải đảm bảo ổn định về chính trị - xã hội. Sự bất ổn về mặt chính trị, xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, tranh giành quyền lực trong các giới lãnh đạo xẩy ra thường xuyên sẽ không thể tạo ra được môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế và do đó sẽ không có môi trường và phương tiện để XĐGN. Xóa đói, giảm nghèo phải được thực hiện đồng thời với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác và phải thu hút sự nỗ lực từ nhiều phía: Nhà nước, cộng đồng và bản thân người nghèo, phải phát huy nguồn lực bên trong, đồng thời khai thác nguồn lực bên ngoài. Ở nước ta XĐGN được coi là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, là yếu tố quan trọng bảo đảm sự ổn định, phát triển kinh tế-xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngay từ khi mới thành lập (1945) Nhà nước ta đã rất quan tâm đến XĐGN. Lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước non trẻ Việt Nam đã coi đói nghèo là một loại "giặc"cần phải chống như giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh đã nói: "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do; thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì" [39, tr.56] và "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành" [39, tr.161]. Từ khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954) và thống nhất đất nước (1975), Đảng và Nhà nước đã có nhiều quyết sách để xóa dần đói nghèo như: thực hiện cải cách ruộng đất, xây dựng các công trình thủy lợi, miễn giảm thuế…để giúp các tầng lớp dân nghèo. Đảng ta coi XĐGN là điều kiện để giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công, thực hiện công bằng xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có ghi: Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội [17, tr.13]. Từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986), đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới toàn diện, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sau này là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng sức sản xuất, kinh tế phát triển, thu nhập, đời sống của đa số nhân dân từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, hiện nay, do điểm xuất phát thấp, lại chịu hậu quả của thiên tai và chiến tranh, dưới tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường, nên phân hóa thu nhập, chênh lệch mức sống giữa nông thôn - thành thị, giữa các vùng ngày càng tăng nhanh. Hơn nữa, trong tiến trình đổi mới, bộ phận dân nghèo thường chịu nhiều thiệt thòi. Do đó, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo và trợ giúp người nghèo vươn lên đã trở thành yêu cầu bức thiết của nước ta hiện nay, là một trong những quyết tâm của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong nhiều năm gần đây, xóa đói, giảm nghèo được chú trọng với tư cách Chương trình quốc gia trọng yếu. Tại Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) Đảng ta chủ trương "Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo. coi việc một bộ phận dân giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Đồng thời có chính sách ưu đãi hợp lý về tín dụng, về thuế, đào tạo nghề nghiệp để tạo điều kiện cho người nghèo có thể tự mình vươn lên đủ sống và phấn đấu trở thành khá giả" [23, tr.47]. Để đảm bảo và hướng tới công bằng xã hội, Đảng ta khẳng định phải: Khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp đi đôi với chăm lo xóa đói giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, giữa các dân tộc, giữa các tầng lớp dân cư, đặc biệt quan tâm đến các vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, các gia đình thuộc diện chính sách, làm cho mọi người, mọi nhà đều tiến tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm, có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và chữa bệnh, từng bước thực hiện điều Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước [23, tr.31]. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nắm bắt những ưu điểm và hạn chế của cơ chế thị trường, Đảng ta đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo: Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận trên thực tế còn có sự bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội, nhưng phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm cho mọi người, mọi nhà đều khá giả [23, tr.73]. Năm 1992, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã đi đầu trong việc đề ra chính sách XĐGN. Sáng kiến của Thành phố Hồ Chí Minh nhanh chóng được các địa phương khác trong cả nước nhiệt liệt hưởng ứng, phát huy sáng kiến của chính quyền địa phương các cấp và căn cứ vào kết quả điều tra mức sống dân cư lần thứ nhất, từ năm 1993, chính phủ lần lượt ban hành các chính sách có liên quan đến XĐGN thực hiện trên phạm vi cả nước và đặt trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 1991-2000. Năm 1995, Báo cáo quốc gia của Chính phủ Việt Nam tại hội nghị thượng đỉnh Compenhagen về phát triển xã hội đã khẳng định XĐGN là một chính sách quốc gia quan trọng. Đến Đại hội VIII của Đảng, XĐGN chính thức được xác định là một trong những chương trình quốc gia. Trên cơ sở đó Nhà nước cũng đã có một loạt các chương trình cấp quốc gia và dự án đang được thực thi đều có nội dung gắn với xóa đói giảm nghèo. Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh: "Thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo nhất là vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng và phát triển quỹ xóa đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả" [20, tr.115]. Chủ trương xóa đói, giảm nghèo đã được đưa lên thành chương trình về XĐGN với mục tiêu: "Giảm tỷ lệ nghèo đói trong tổng số hộ của cả nước từ 20- 25% hiện nay xuống còn khoảng 10% vào năm 2000, bình quân giảm 300.000 hộ/năm. Trong 2-3 năm đầu của kế hoạch 5 năm, tập trung xóa về cơ bản nạn đói kinh niên" [20, tr.221]. Tiếp theo, Chính phủ đã cho tiến hành điều tra mức sống dân cư lần thứ hai (năm 1997-1998) và trên cơ sở đó xây dựng, ban hành Chương trình mục tiêu XĐGN giai đoạn 1998-2000 theo quyết định 133/198/QĐ-TTg ngày 20 tháng 7 năm 1998, gọi tắt là chương trình 133. Chương trình này bao gồm một hệ thống các chính sách có nội dung trực tiếp hoặc gián tiếp hướng tới mục tiêu XĐGN. Tại Đại hội IX, Đảng ta chỉ rõ: "Thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo thông qua những biện pháp cụ thể, sát với tình hình địa phương, sớm đạt mục tiêu không còn hộ đói, giảm mạnh các hộ nghèo" [21, tr.106]. Trong Định hướng phát triển các lĩnh vực xã hội đến năm 2005, Đảng nhấn mạnh: Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo…, phải rất coi trọng việc tạo nguồn lực cần thiết để dân cư ở các vùng nghèo, xã nghèo đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề, tăng thu nhập. Phấn đấu đến năm 2005 về cơ bản không còn hộ đói và chỉ còn khoảng 10% số hộ thuộc diện nghèo…Nâng dần mức sống của các hộ đã thoát nghèo, tránh tình trạng tái nghèo [21, tr.299]. Đại hội X của Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển", "Khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, đồng thời thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói giảm nghèo, thực hiện tốt hơn công bằng xã hội", phấn đấu đến năm 2010, "tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 10- 11%" [22, tr.32, 89]. 1.2.1.2. Xóa đói, giảm nghèo là sự kết hợp thống nhất giữa các biện pháp về kinh tế với chính sách xã hội và giữ vững ổn định chính trị Đói nghèo trước hết là vấn đề kinh tế, đồng thời cũng là vấn đề xã hội nhức nhối. Nó tác động sâu sắc vào các quan hệ xã hội, làm phát sinh và lây lan các tệ nạn, làm mất ổn định xã hội và có thể làm mất ổn định về chính trị. Đặc biệt nếu phân hoá giàu nghèo vượt quá giới hạn an toàn sẽ biến thành phân hoá giai cấp và xung đột giai cấp, làm suy giảm sự bền vững của chế độ chính trị xã hội, làm chệch hướng XHCN. Vì vậy, để xoá đói, giảm nghèo không phải chỉ cần các chính sách, biện pháp phát triển kinh tế mà còn phải thực thi một hệ thống chính sách xã hội, đặt trong tổng thể của sự ổn định chính trị, trong đó ổn định chính trị vừa là yêu cầu hàng đầu, là nền tảng cơ bản, vừa là mục tiêu, đồng thời cũng vừa là điều kiện để phát triển kinh tế, thực hiện XĐGN. Trên cơ sở nhận thức như vậy, chúng ta phải đặc biệt chú trọng bảo vệ lợi ích, quan tâm tới đời sống của các tầng lớp cơ bản trong xã hội như công nhân, nông dân, trí thức, các lực lượng bảo vệ an ninh cho chế độ. Đây chính là cơ sở xã hội, của chính trị, không được để xảy ra hiện tượng người lao động bị bần cùng hoá, không được để tái sinh tràn lan hiện tượng người lao động bị bóc lột, ngược đãi, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường. XĐGN là điều kiện cần thiết, đảm bảo cho ổn định chính trị, nhưng thành công của XĐGN sẽ là nhân tố quan trọng để củng cố, bảo vệ chế độ chính trị và giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ quyền làm chủ chế độ, làm chủ xã hội của nhân dân lao động. 1.2.1.3. Xóa đói, giảm nghèo bằng phát huy tính tự lực, tự chủ, tự vươn lên của chính người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo, bằng huy động và khai thác có hiệu quả các nguồn lực Mặc dù XĐGN là nhiệm vụ to lớn của toàn Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, nhưng để vượt qua nghèo đói, cần sự nỗ lực, sự vươn lên vượt qua nghèo đói của chính người nghèo, hộ nghèo. Nếu mỗi người nghèo, hộ gia đình nghèo, vùng quê nghèo không tự vươn lên, thì không thể xoá được đói, giảm được nghèo. Đây là mối quan hệ qua lại giữa các hộ gia đình (đơn vị kinh tế cơ bản) với cộng đồng xã hội. Cộng đồng xã hội chỉ có thể tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cho các cá nhân người lao động, các gia đình tiếp cận các nguồn lực, vượt lên nghèo đói, mà không thể làm thay họ được. Phải làm cho hộ nghèo, người nghèo tin vào triển vọng cuộc sống, có điều kiện và môi trường xã hội thuận lợi để phát triển bằng khả năng sẵn có, bằng lao động, bằng đào tạo, bồi dưỡng để hình thành khả năng đó. Tính chất trợ giúp, hỗ trợ phát triển là nét nổi bật của XĐGN. Cần quán triệt quan điểm này và thể hiện một cách toàn diện trong nội dung và biện pháp XĐGN. Đây chính là sự thực hiện xã hội hoá vấn đề XĐGN. XĐGN là nhiệm vụ rất khó khăn và không thể thực hiện được trong vài ngày, vài tháng, nó đòi hỏi các nguồn lực vật chất và tinh thần rất to lớn, trong đó trước hết là các nguồn lực vật chất như: tài nguyên, đất đai, vốn, kỹ thuật, công nghệ, thị trường, trình độ tay nghề của người lao động và các môi trường chính trị, xã hội, kết cấu hạ tầng khác… Nguồn tài chính của Nhà nước là rất quan trọng, song không có thể chỉ trông chờ vào một nguồn đó, nhất là trong điều kiện ngân sách quốc gia còn nghèo, mà phải huy động mọi nguồn tài chính có thể huy động được cho XĐGN… Nguồn đầu tư của Nhà nước cho XĐGN chỉ có kết quả và ý nghĩa tích cực, khi nó được đặt trong tổng thể các nguồn lực vật chất huy động từ đóng góp của toàn xã hội. Nên XĐGN bằng cách phát triển sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ chứ không phải bằng bao cấp tiêu dùng cho người nghèo, hộ nghèo. Đói nghèo và XĐGN là những vấn đề có ý nghĩa toàn cầu, là mối quan tâm của Chính phủ và nhân dân ở các nước trên thế giới. XĐGN phải đặt trong quá trình mở rộng hợp tác, tranh thủ khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực từ các nước, các tổ chức quốc tế bằng nhiều hình thức đa dạng phong phú. 1.2.2. Mục tiêu của xoá đói, giảm nghèo Dựa trên Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010, có tính đến các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc, Nhà nước Việt Nam xác định các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói, giảm nghèo đến năm 2010 như sau: * Các chỉ tiêu về kinh tế Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000, trong đó giá trị tăng thêm của nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 đạt 4-4,5%; công nghiệp và xây dựng tăng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 đạt 10-10,5%; các hoạt động dịch vụ tăng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 đạt 7-8%. Bảo đảm tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP. Tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp là 16-17% vào năm 2010; công nghiệp 40- 41% vào năm 2010; dịch vụ 42-43% vào năm 2010. Tỷ trọng lao động công nghiệp trong tổng số lao động tăng lên 23-24% vào năm 2010. Giảm lao động nông, lâm, ngư nghiệp xuống 50% vào năm 2010. Tăng tỷ trọng lao động dịch vụ lên 26-27% vào năm 2010. * Các chỉ tiêu về xã hội và xóa đói giảm nghèo Giảm tỷ lệ hộ nghèo - Đến năm 2010 giảm 2/5 tỷ lệ nghèo theo chuẩn nghèo quốc tế và giảm 3/4 tỷ lệ nghèo về lương thực thực phẩm so với năm 2000. Đảm bảo công trình hạ tầng thiết yếu cho người nghèo, cộng đồng nghèo và xã nghèo. - Tiếp tục cải tạo, nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới các công trình hạ tầng thiết yếu (thuỷ lợi nhỏ, trường học, trạm y tế xã, đường giao thông, điện chiếu sáng, nước sinh hoạt, chợ, các điểm bưu điện văn hoá xã, nhà hội họp...) bảo đảm đến 2010 100% xã nghèo có các cơ sở hạ tầng thiết yếu. Đến 2010, 85% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh với số lượng 60 lít/người/ngày, 75% gia đình có hố xí hợp vệ sinh. Chú trọng đến các công trình nước sạch cho các gia đình nghèo, đặc biệt là những người ở xa trung tâm xã, xa trục đường chính được tiếp cận nước sạch. Phổ cập và cải thiện chất lượng giáo dục Củng cố, duy trì và phát huy thành quả phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ, đặc biệt ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Tăng tỷ lệ trẻ em dưới 3 tuổi đến nhà trẻ từ 12% năm 2000 lên 18% năm 2010. Đối với trẻ em từ 3-5 tuổi tăng tỷ lệ đến trường, lớp mẫu giáo từ 50% năm 2000 lên 67% năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh đi học trong độ tuổi lên lên 99% vào năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh học xong tiểu học lên 85-95% vào năm 2010. Giảm tỷ lệ sinh, tỷ lệ tử vong và suy dinh dưỡng của trẻ em Duy trì vững chắc xu thế giảm tỷ lệ sinh để đạt mức thay thế bình quân trong cả nước chậm nhất vào năm 2010. Đến năm 2010 giảm tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 1 tuổi xuống dưới 25‰; giảm tỷ suất tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 32‰ năm 2010. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 20% vào năm 2010. Giảm tỷ lệ trẻ sinh thiếu cân (dưới 2.500 gram) xuống còn 5% năm 2010. Sức khoẻ sinh sản, các bệnh dịch, HIV/AIDS và các bệnh xã hội. Đến năm 2010 giảm tỷ suất chết mẹ liên quan đến sinh sản xuống dưới 70/100.000 trẻ đẻ sống trong toàn quốc (100/100.000 trẻ đẻ sống ở miền núi). Cải thiện tình trạng sức khoẻ của bà mẹ sau khi sinh nở. Phát triển văn hoá thông tin và nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống phủ sóng phát thanh, truyền hình trên cả nước, phấn đấu đến 2010 hoàn thành cơ bản việc phổ cập các phương tiện phát thanh, truyền hình đến mỗi gia đình. Tăng thời lượng chương trình và giờ phát sóng phát thanh, truyền hình, chương trình tiếng dân tộc. Nâng cao đời sống và bảo tồn văn hoá của đồng bào dân tộc ít người Nâng cao đời sống dân trí, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc ít người. Giữ gìn và phát triển khả năng biết đọc, biết viết tiếng dân tộc ở những vùng có tỷ lệ dân tộc ít người cao. Tạo khả năng tiếp cận giáo dục mẫu giáo cho tất cả trẻ em và hoàn thành chương trình tiểu học một phần bằng tiếng Việt và một phần bằng tiếng dân tộc ít người vào năm 2010. Hỗ trợ người dân thuộc nhóm dân tộc ít người tham gia nhiều hơn vào làm việc tại các cơ quan nhà nước. Tăng tỷ lệ người thuộc nhóm dân tộc ít người là cán bộ, viên chức nhà nước được đào tạo theo điều kiện cụ thể của từng vùng dân tộc. Bảo đảm sự bền vững môi trường Tập trung giải quyết tình trạng suy thoái môi trường và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên; đến năm 2010 không còn các khu nhà ổ chuột ở đô thị và nhà tạm ở nông thôn, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long. Đến năm 2010, phấn đấu 100% các khu công nghiệp, các đô thị và các làng nghề ở nông thôn được xử lý nước thải, thu gom chất thải rắn và chất thải vệ sinh, có kế hoạch cải tạo khắc phục sự cố môi trường trên các dòng sông, hồ, ao, kênh mương... Nâng cao chất lượng công tác bảo vệ rừng, trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc; nâng tỷ lệ che phủ của rừng từ 33% hiện nay lên 38% vào năm 2005 và 43% vào năm 2010. Cải thiện đáng kể tình trạng thu nhập của người nghèo, nhất là các hộ nghèo do phụ nữ làm chủ; nâng cao chất lượng và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản và dịch vụ sản xuất cũng như các nguồn lực khác của người nghèo, đặc biệt là phụ nữ nghèo. Tăng cường bảo vệ trẻ em và vị thành niên, giải quyết triệt để tình trạng trẻ em lao động sớm, trẻ em lang thang, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác, nhất là trẻ em của những gia đình nghèo do phụ nữ làm chủ hộ. Bảo vệ những người có hoàn cảnh đặc biệt (người tàn tật, người bị nhiễm chất độc màu da cam, người già cô đơn, đối tượng chính sách và các đối tượng khác). Chăm lo và điều trị cho bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS, nghiện ma tuý... Xây dựng chiến lược phòng chống và giảm nhẹ thiên tai. Đến 2010 giảm 1/2 số người bị tái nghèo do thiên tai và các rủi ro khác. * Đẩy mạnh cải cách hành chính, cung cấp kiến thức về pháp lý cho người nghèo Tăng cường hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước, thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Tiếp tục hoàn thiện các thể chế chính sách có ảnh hưởng đến người nghèo, định hướng mục tiêu và phân bổ nguồn lực tốt hơn cho các chương trình có lợi cho người nghèo. Cải thiện khả năng tiếp cận của người nghèo đến với một Chính phủ minh bạch, có tinh thần trách nhiệm, có sự tham gia của người dân, tạo điều kiện cho người dân, phụ nữ nghèo tiếp cận rộng rãi hơn đến hệ thống tư pháp và bảo đảm cung cấp thông tin pháp lý cho tất cả mọi công dân trong xã hội, đặc biệt là phụ nữ nghèo. Mở rộng hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, củng cố và tiếp tục đa dạng hóa các mô hình trợ giúp. Nâng cao tính linh hoạt và hiệu quả của các hình thức trợ giúp và tạo điều kiện cho người nghèo dễ dàng tiếp cận với dịch vụ pháp lý miễn phí. 1.2.3. Chủ thể và nội dung xoá đói, giảm nghèo 1.2.3.1. Chủ thể tham gia xoá đói, giảm nghèo * Các cơ quan nhà nước về công tác xoá đói, giảm nghèo ở nước ta. Việc xoá đói, giảm nghèo ở nước ta đã trở thành chủ trương được Đảng, Chính phủ, các đoàn thể quần chúng rất quan tâm. Trong những năm vừa qua, chương trình xoá đói, giảm nghèo đã thu hút được nhiều nguồn lực và tác động có hiệu quả đến công tác xoá đói, giảm nghèo. Để thấy rõ hơn vai trò của Nhà nước, luận văn tập trung xem xét hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong việc hoạch định và thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo. - Để tạo cơ chế cho Chính phủ và chính quyền các cấp chỉ đạo thực hiện chương trình XĐGN, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 531TTg ngày 8/8/1996, Quyết định số 80TTg ngày 9/4/1999 thành lập Ban chủ nhiệm chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo. Ban này ở cấp trung ương do Phó Thủ tướng làm chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm thường trực là Bộ trưởng Bộ LĐ,TB và XH, một Phó chủ nhiệm chương trình khác là Bộ trưởng Bộ NN và PTNT. Các thành viên khác gồm: Phó chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc và Miền núi. Thứ trưởng Bộ LĐ,TB và XH. Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Thứ trưởng Bộ Tài chính. Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thứ trưởng Bộ Y tế. Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Phó chủ nhiệm Uỷ ban Quốc gia Dân số và kế hoạch hoá gia đình. Ngoài ra có sự tham gia của đại diện Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. 52 Hoạt động của Ban chủ nhiệm chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói, giảm nghèo theo qui chế ban hành kèm theo Quyết định số 224/TTg ngày 19/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ. Ban chủ nhiệm có văn phòng tại Bộ LĐ, TB và XH. Như vậy, cơ quan xoá đói, giảm nghèo trung ương và cơ chế hoạt động của Chương trình đã được từng bước hoàn thiện, hiệu lực của bộ máy và hiệu quả hoạt động đã được phát huy. - Ở địa phương: + Cấp tỉnh lập Ban chỉ đạo xoá đói, gảm nghèo do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND làm trưởng ban, thành viên ban có: . Giám đốc sở LĐ, TB và XH làm Phó ban thường trực và văn phòng của Ban đặt tại Sở LĐTB và XH. . Giám đốc sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm Phó Ban phụ trách chương trình. Giám đốc Sở Tài chính vật giá làm Phó ban. . Trưởng Ban Di dân miền núi làm uỷ viên. . Giám đốc Sở kế hoạch Đầu tư làm uỷ viên. . Giám đốc Ngân hàng người nghèo làm uỷ viên. . Giám đốc Kho bạc làm uỷ viên. . Đại diện Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội đồng liên minh ngoài quốc doanh tham gia Ban chỉ đạo. + Cấp huyện lập Ban chỉ đạo xoá đói, giảm nghèo do Chủ tịch UBND huyện làm trưởng ban và các thành viên là các Trưởng phòng ban tương ứng như các ngành chức năng cấp tỉnh, Văn phòng Ban ở trong văn phòng UBND huyện, nhưng có một số cán bộ chuyên theo dõi về xoá đói, giảm nghèo. + Cấp xã lập Ban xoá đói, giảm nghèo do Chủ tịch UBND xã trực tiếp điều hành và phối hợp với Uỷ ban MTTQ cùng các đoàn thể ở xã. * Các tổ chức Đoàn thể, xã hội có vai trò rất quan trọng trong công tác xoá đói, giảm nghèo: Thông qua các tổ chức để vận động làm chuyển biến nhận thức, hành động đến từng hội viên và nhân dân; huy động nguồn lực, chuyển giao khoa học công nghệ; hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo, bảo lãnh trong việc vay vốn, trao đổi kinh nghiệm làm ăn… Đây là một yếu tố quan trọng quyết định tới sự thành công của Chương trình xoá đói, giảm nghèo. * Mở rộng hợp tác quốc tế nhằm mục tiêu xoá đói, giảm nghèo: Nước ta tích cực tranh thủ và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế về kỹ thuật và tài chính, nhất là đầu tư kết cấu hạ tầng và giáo dục, đào tạo để thực hiện mục tiêu XĐGN. Một mặt, Nhà nước mở rộng quan hệ trên cơ sở tận dụng tiềm năng và lợi thế của các vùng để phát triển kinh tế- xã hội; mặt khác, Nhà nước khai thác tối đa sự tài trợ của các Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ và cá nhân để thực hiện chương trình XĐGN quốc gia. 1.2.3.2. Nội dung của xoá đói, giảm nghèo - Thứ nhất, tăng thu nhập cho người nghèo, vùng nghèo: Khi đánh giá vấn đề nghèo đói, các tổ chức quốc tế cũng như các nước khác nhau lựa chọn phương pháp và chỉ tiêu đánh giá cơ bản giống nhau. Song cách xác định và mức độ cụ thể có những khía cạnh khác nhau. Nhưng nhìn chung các quốc gia đều căn cứ vào chỉ tiêu chính là thu nhập để đánh giá. Như vậy, tăng thu nhập cho đối tượng nghèo là nội dung cần được quan tâm nhất đối với công tác XĐGN. Phần lớn người nghèo ở các nước đang phát triển phụ thuộc vào thu nhập từ sức lao động, từ công việc trên mảnh đất của họ, từ tiền lương hay từ những hình thức lao động khác. Sức lao động của người nghèo chỉ có thể được sử dụng để đem lại thu nhập khi họ kiếm được việc làm.Việc làm ổn định và việc làm tốt là cơ sở để người nghèo có thu nhập ổn định và nâng cao thu nhập đảm bảo cuộc sống của mình. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, XĐGN là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững; ngược lại chỉ có tăng trưởng kinh tế cao và bền vững mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Mặt khác, nếu lao động có sức khoẻ, được đào tạo, bồi dưỡng tốt cùng tinh thần làm việc hăng say, môi trường kinh tế của vùng nghèo được cải thiện thì năng suất lao động sẽ tăng lên, từ đó thu nhập của người nghèo sẽ khá hơn, dễ có cơ hội để vươn lên thoát nghèo.Tuy nhiên, trong thực tế, tình trạng thiếu việc làm và năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập của người lao động thấp là khá phổ biến đối với người nghèo. Vì vậy, tăng năng suất lao động, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người nghèo, đẩy mạnh phát triển kinh tế vùng nghèo phải là nội dung quan trọng trong các giải pháp XĐGN ở nước ta hiện nay. - Thứ hai, tăng khả năng tiếp cận các nguồn lực phát triển đối với người nghèo, vùng nghèo. + Phần lớn người nghèo tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, nhất là vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Những nơi này thường là xa các trung tâm kinh tế và dịch vụ xã hội. Hệ thống cơ sở hạ tầng thiếu và yếu hơn so với những vùng khác. Phổ biến là tình trạng thiếu điện, thiếu nước tưới, nước sinh hoạt, thiếu thông tin, thiếu chợ đầu mối, thiếu vốn, đất sản xuất và thị trường, giao thông đi lại khó khăn vv...Do đó, năng suất lao động thấp, giá cả của sản phẩm do người sản xuất bán lại rẻ vì vận chuyển khó khăn. Chính vì vậy cơ hội tự vươn lên của người nghèo ở những vùng này là rất khó khăn. Điều này cho thấy việc giải quyết bài toán XĐGN liên quan đến cải thiện môi trường sản xuất kinh doanh. + Nghèo thường gắn liền với dân trí thấp. Do nghèo mà không có điều kiện đầu tư cho con cái học hành để nâng cao trình độ hiểu biết. Dân trí thấp thì không có khả năng để tiếp thu tiến bộ của khoa học kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất và không có khả năng tiếp cận với những tiến bộ, văn minh của nhân loại nên dẫn đến nghèo về mọi mặt (kinh tế và tinh thần, chính trị). Vì vậy, để giảm nghèo phải nâng cao trình độ dân trí, nâng cao sự hiểu biết cho người nghèo là giải pháp có tính chiến lược lâu dài. + Một nội dung quan trọng nữa của công tác XĐGN là phải tạo điều kiện để giúp người nghèo tiếp cận có hiệu quả với các dịch vụ y tế, dịch vụ tài chính, tín dụng và tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, vv... + Hỗ trợ người nghèo về y tế để họ có điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt hơn, hạn chế được bệnh tật, từ đó có điều kiện tái sản xuất sức lao động, đây là yếu tố quan trọng để tăng trưởng và phát triển. Người nghèo là những người có thu nhập thấp nên thường thiếu vốn để kinh doanh, thiếu kinh nghiệm, đất sản xuất, thiếu thông tin thị trường và thiếu kiến thức về khoa học công nghệ. Do vậy, hoạt động XĐGN phải hỗ trợ cho người nghèo có được sự tiếp cận tốt hơn những yếu tố trên. - Thứ ba, XĐGN là một quá trình liên tục, mang tính bền vững: Trong thực tiễn XĐGN có tình trạng khá phổ biến là có rất nhiều hộ gia đình sau khi thoát nghèo một thời gian lại rơi vào tình trạng nghèo túng. Tình trạng đó do nhiều nguyên nhân khác nhau như thiên tai, tai nạn, rủi ro trong kinh doanh, ốm đau, do tác động của phân hóa giàu – nghèo trong quá trình phát triển kinh tế v.v... Ở nước ta, quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH trong những năm vừa qua đã đạt được những thành quả quan trọng, khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới của Đảng, nhưng cũng cho thấy tình trạng phân hoá giàu - nghèo gia tăng như một hệ quả tất yếu của quá trình phát triển. Điều đó đặt ra cho chúng ta những thách thức lớn. Một mặt, nếu không tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và không thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH thì không thể tồn tại, phát triển và hội nhập quốc tế. Mặt khác, nếu đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần, tất yếu sự phân hoá giàu nghèo sẽ gia tăng; trong khi có nhiều người giàu lên, đất nước giàu lên, thì cũng có một bộ phận dân cư nghèo đói, thậm chí mất tư liệu sản xuất. Vì vậy, nhiệm vụ của công tác XĐGN không chỉ hỗ trợ để người nghèo vượt qua ngưỡng cửa nghèo một cách thụ động mà phải có giải pháp tích cực để bản thân người nghèo chủ động tự vươn lên thoát nghèo vững chắc tiến tới trở thành hộ khá, hộ giàu. Đồng thời Nhà nước phải có chính sách, giải pháp giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng và XĐGN. Phải xây dựng chiến lược XĐGN dài hạn và chiến lược này phải được đặt trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế-xã hội chung của quốc gia, địa phương. - Thứ tư, XĐGN trước hết phải ưu tiên các đối tượng chính sách, vùng cách mạng, gắn giải quyết vấn đề kinh tế với chính trị-xã hội. Ở nước ta, trong những năm đổi mới nền kinh tế đã có bước phát triển vượt bậc, đời sống của đa số dân cư được cải thiện; công tác XĐGN đã thu được những thành tựu đáng kể. Tuy vậy, mức sống của người dân vẫn còn thấp, phân hóa thu nhập có xu hướng tăng lên, một bộ phận khá lớn dân cư vẫn còn sống nghèo đói. Trong đó có một số vùng cách mạng, vùng dân tộc ít người và nhiều hộ gia đình có nhiều đóng góp cho cách mạng vẫn chịu nhiều thiệt thòi trong hòa nhập cộng đồng và không đủ sức tiếp nhận những thành quả do công cuộc đổi mới mang lại. Những giải pháp XĐGN tập trung cho đối tượng này vừa là yêu cầu cấp thiết đối với mục tiêu phát triển bền vững, vừa mang tính nhân văn sâu sắc. 1.2.4. Những nhân tố tác động đến đói nghèo và xoá đói, giảm nghèo 1.2.4.1. Nhóm nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên - Vị trí địa lý không thuận lợi: Đó là những nơi xa xôi, hẻo lánh giao thông đi lại khó khăn. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nghèo đói cao ở các vùng, địa phương ở vào vị trí địa lý này. Do điều kiện địa lý như vậy, họ dễ rơi vào thế cô lập với bên ngoài, khó tiếp cận được với các nguồn lực của phát triển như: tín dụng, khoa học kỹ thuật, công nghệ, thị trường vv... nên việc phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là phát triển hệ thống giao thông có ý nghĩa to lớn đối với việc XĐGN. - Đất đai không thuận lợi cho sản xuất: Đất canh tác ít, đất cằn cỗi, khó canh tác, năng suất cây trồng, vật nuôi đều thấp. Đây là nguyên nhân dẫn đến sản xuất trong nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với những vùng thuần nông. Thiếu đất sản xuất ảnh hưởng đến khả năng bảo đảm lương thực của người nghèo và khả năng đa dạng hóa sản xuất để hướng tới những loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, dẫn đến thu nhập của người nông dân thấp, việc tích lũy và tái sản xuất mở rộng bị hạn chế hoặc không có. Bởi thế người nghèo lại tiếp tục nghèo. 1.2.4.2. Nhóm nhân tố thuộc về kinh tế Ảnh hưởng không thuận lợi của những nhân tố thuộc về kinh tế đối với XĐGN bao gồm: Quy mô của nền kinh tế nhỏ bé, cơ cấu kinh tế lạc hậu, tốc độ tăng trưởng chậm, thu nhập của dân cư thấp, khả năng huy động nguồn lực vật chất cho XĐGN khó khăn, thị trường bị bó hẹp...; ưu tiên đầu tư nhiều vào vùng động lực phát triển kinh tế sẽ làm giảm nguồn lực cho đầu tư các vùng nghèo, hỗ trợ người nghèo. Một số phương diện tác động của nhóm nhân tố kinh tế là: - Quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố quan trọng tạo điều kiện tiền đề để người nghèo có cơ hội vươn lên nhờ hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế mang lại. Mặt khác, nhờ quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, Nhà nước tăng các nguồn thu và tích lũy tạo sức mạnh vật chất để thực hiện tốt hơn công tác XĐGN. Vì vậy quy mô nền kinh tế lớn và tăng trưởng kinh tế cao, bền vững là điều kiện quan trọng nhất để thực hiện XĐGN. Ngược lại nếu quy mô nền kinh tế nhỏ, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm thì khả năng tăng tích lũy cho phát triển sẽ gặp trở ngại, nguồn lực dành cho XĐGN sẽ khó khăn. Bên cạnh đó, với lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, cơ cấu kinh tế chậm tiến bộ, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu với trình độ canh tác lạc hậu; cơ cấu sản xuất trong nội bộ các ngành kinh tế chậm đổi mới, hàm lượng khoa học - kỹ thuật trong sản phẩm thấp thì giá trị gia tăng trong giá trị sản phẩm sẽ nhỏ, khó cạnh tranh thị trường thì khả năng XĐGN là rất thấp. Thu nhập dân cư thấp và sự phân hóa thu nhập lớn là một bất lợi đối với người nghèo và công tác XĐGN. Rất nhiều cuộc điều tra mức sống dân cư cho thấy chênh lệch giàu - nghèo, thu nhập giữa các nhóm dân cư ở nước ta hiện nay có xu hướng gia tăng. - Khả năng huy động nguồn lực vật chất, tài chính là yếu tố rất quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại khi thực hiện các mục tiêu XĐGN. Để thực hiện các mục tiêu XĐGN trên quy mô diện rộng và đạt được kết quả nhanh thì Nhà nước và bản thân các hộ nghèo đều phải có nguồn lực. Nhà nước có nguồn lực đủ mạnh để hình thành và thực hiện các chương trình hỗ trợ như xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu cho xã nghèo, vùng nghèo; hỗ trợ cho các doanh nghiệp để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH tạo nhiều việc làm cho người lao động; hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo về đời sống khi gặp rủi ro, thiên tai và hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chương trình khuyến nông, đào tạo... Nguồn lực của Nhà nước phụ thuộc vào quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, tỷ lệ tích lũy và chính sách chi tiêu của Chính phủ, khả năng vay nợ của nước ngoài... Về phía hộ gia đình nghèo, để phấn đấu thoát nghèo, họ cũng cần có nguồn lực để tự mình phấn đấu vươn lên. Nguồn lực họ có thể có được là từ các nguồn hỗ trợ của Nhà nước, của cộng đồng dân cư, vốn vay tín dụng và khả năng tích lũy của bản thân. - Vấn đề thị trường cũng là một trong những nhân tố tác động đến XĐGN theo hai hướng thuận lợi và khó khăn. Thứ nhất, thị trường phát triển không đầy đủ, đặc biệt thị trường yếu ớt hoặc không có thị trường. Những vùng, hộ gia đình rơi vào trường hợp này, thì đồng nghĩa với việc vùng, hộ gia đình đó gần như bị gạt ra khỏi vòng quay tiến trình phát triển. Điều này cũng đồng nghĩa với việc vùng và hộ gia đình đó khó thoát khỏi nghèo đói. Đây là vấn đề nan giải đối với vùng nghèo ở các khu vực miền núi, xa xôi hẻo lánh. Thứ hai, thị trường tương đối phát triển: Thị trường phát triển không chỉ tạo cơ hội cho các vùng và cá nhân có điều kiện phát triển mà còn có ý nghĩa đặc biệt đối với vùng nghèo và hộ nghèo vươn lên. Đó là khi thị trường phát triển cá nhân, hộ gia đình, vùng tiếp cận đầy đủ hơn đến các nguồn lực phát triển trong xã hội. Bởi trong kinh tế thị trường, người ta buộc phải tính toán bằng giá trị và tính đủ giá trị cho mọi kết quả lao động, do đó lợi ích được chú trọng, trước hết là lợi ích cá nhân. Cạnh tranh cũng thường xuyên đặt con người vào thử thách năng lực nghề nghiệp, buộc con người phải tự khẳng định, phải thường xuyên tự đổi mới, phát triển. Mặt khác, mặt trái của kinh tế thị trường là do chạy theo lợi nhuận vì lợi ích cá nhân, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá đã làm cho tình trạng nghèo đói của một bộ phận dân cư không được chú ý giải quyết triệt để, dẫn đến phân hóa giàu - nghèo càng thêm sâu sắc, dễ xảy ra xung đột giai cấp và xã hội. Trong thực tế thì người nghèo, vùng nghèo là những người luôn bị thua thiệt trong cạnh tranh về sản xuất, kinh doanh. Họ không có điều kiện sản xuất kinh doanh thuận lợi do thiếu cơ sở hạ tầng, thiếu vốn, xa trung tâm kinh tế nên giá thành sản phẩm cao. Mặt khác họ là những người thiếu kinh nghiệm làm ăn, ít hiểu biết, tay nghề thấp, không có sức khỏe, năng suất lao động thấp, sản phẩm khó cạnh tranh trên thị trường vv.... Do vậy, nguy cơ tụt hậu của họ so với xã hội càng trầm trọng hơn. 1.2.4.3. Nhóm nhân tố thuộc về xã hội Những nhân tố xã hội tác động đến nghèo đói và hoạt động XĐGN bao gồm: dân số và lao động, trình độ dân trí, đầu tư cho giáo dục, chăm sóc sức khỏe, phong tục, tập quán, vấn đề cán bộ và tổ chức bộ máy quản lý, điều hành. - Tình trạng nghèo đói liên quan chặt chẽ với sự gia tăng dân số và cơ cấu dân cư. Theo điều tra, bình quân nhân khẩu phải nuôi trên một lao động chính của các hộ nghèo thường cao hơn các hộ giàu. Như vậy, người nghèo dễ rơi vào vòng luẩn quẩn: nghèo đói, dân trí thấp dẫn đến sinh đẻ nhiều và đến lượt nó, sinh đẻ nhiều lại càng làm cho đời sống khó khăn hơn. Do sinh đẻ nhiều, thời gian lao động và thu nhập của hộ gia đình sẽ giảm. Ngược lại nhân khẩu trong gia đình tăng nên mức thu nhập bình quân đầu người của hộ giảm. Sức khỏe của người mẹ đẻ nhiều cũng suy giảm và tác động đến sức khỏe của những đứa con sau khi sinh làm cho sức lao động giảm dần, nguy cơ nghèo đói sẽ tăng cao. Trên góc độ quốc gia, dân số tăng nhanh thì mức gia tăng thu nhập bình quân đầu người sẽ giảm. Với một nguồn lực hạn chế, lại phải cân đối cho một lượng dân cư lớn hơn thì sẽ khó khăn cho việc huy động nguồn lực để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu XĐGN. Nếu cơ cấu dân số trẻ cao thì áp lực đầu tư cho giáo dục sẽ lớn, đầu tư cho phát triển sản xuất sẽ giảm dẫn đến tăng trưởng chậm. Một vấn đề khác nữa là, nếu tỷ lệ dân cư phân bổ ở những vùng nghèo tiềm lực và không theo quy hoạch của Nhà nước mà cao thì nguy cơ xuống cấp môi trường và tình trạng nghèo đói sẽ lớn (do tình trạng phát nương làm rẫy, khai phá tài nguyên bừa bãi, làm xói mòn đất...). - Về lao động, nếu cơ cấu dân cư có tỷ lệ lao động thấp, một lao động chính phải nuôi nhiều người ăn theo thì khả năng tăng trưởng kinh tế thấp, XĐGN sẽ khó khăn. Hoặc nếu cơ cấu lao động phân bổ chủ yếu trong nông nghiệp, tỷ lệ lao động trong công nghiệp và dịch vụ thấp, thì đó là một bất lợi lớn cho việc tăng nhanh mức thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ tích lũy sẽ thấp cũng như tăng trưởng kinh tế và XĐGN sẽ khó khăn. Chất lượng lao động (trình độ tay nghề, sức khỏe, thái độ lao động của người lao động) là một nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế nói chung và XĐGN nói riêng. Chất lượng lao động sẽ tác động trực tiếp tăng năng suất và tăng thu nhập cho người lao động. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, khi Việt Nam đã gia nhập WTO, đã và đang tạo ra nhiều cơ hội việc làm và thu nhập cao cho một bộ phận đáng kể người lao động trong các khu vực có lợi thế so sánh (như dịch vụ, dệt may, xây dựng và xuất khẩu); nhưng cũng đòi hỏi cao hơn về chất lượng lao động. Nếu chất lượng lao động thấp, không đáp ứng được yêu cầu thực tế thì nguy cơ thất nghiệp, giảm thu nhập là điều khó tránh khỏi. - Về giáo dục: Chất lượng lao động gắn với việc nâng cao trình độ dân trí và chiến lược phát triển giáo dục. Hầu hết những người nghèo, vùng nghèo ở Việt Nam là những nơi có trình độ dân trí thấp. Cùng với tác động của thu nhập thấp nên việc đầu tư chăm lo cho con cái học hành của các hộ gia đình nghèo và vùng nghèo ít được quan tâm hơn. Do học vấn thấp, ít được đào tạo nghề nên con cái người nghèo ít có cơ hội tìm kiếm việc làm có thu nhập cao. Kết quả là tỷ lệ đi học trong độ tuổi ở các vùng này sẽ thấp và như vậy, nguy cơ nghèo về tri thức dẫn đến nghèo đói về mọi mặt sẽ gia tăng. 1.3. KINH NGHIỆM XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO CỦA CÁC NƯỚC, ĐỊA PHƯƠNG VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO KIÊN GIANG 1.3.1. Kinh nghiệm xoá đói, giảm nghèo của một số nước trên thế giới Trong mấy thập niên gần đây, nhiều nước đang phát triển rất chú trọng XĐGN. Các diễn đàn quốc tế và khu vực về đói nghèo ở Malaisia, Copenhagen, Bắc Kinh đều đưa vấn đề đói nghèo vào nội dung chính của chương trình nghị sự. Ở các nước Đông Nam Á, đói nghèo đã được bàn bạc, tranh luận thường xuyên trong hai thập kỷ nay. Trên thế giới xuất hiện nhiều mô hình XĐGN khác nhau. Ở đây không có điều kiện trình bày thực tiễn và kinh nghiệm XĐGN của tất cả các quốc gia và tổ chức quốc tế mà chỉ nêu cách làm, kinh nghiệm của một số quốc gia có những nét tiêu biểu, những kinh nghiệm quí có thể nghiên cứu để áp dụng cho việc thực hiện XĐGN ở Việt Nam nói chung và Kiên Giang nói riêng. * Kinh nghiệm XĐGN ở Trung Quốc: từ năm 1977 đến nay, thực hiện cải cách kinh tế theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, ở Trung Quốc chênh lệch giàu nghèo không lớn nhưng số dân đói nghèo rất cao. Nhờ đổi mới nền kinh tế có hiệu quả và thực hiện một số chính sách trực tiếp để XĐGN nên số người nghèo ở Trung Quốc giảm nhanh chóng. Theo mức chuẩn nghèo của Cục Thống kê Trung ương Trung Quốc (có thu nhập 100 Nhân dân tệ/người/năm) số người nghèo ở nông thôn năm 1978 là 250 triệu người (chiếm 30% dân số), đến 1985 chì còn 125 triệu người và năm 1998 chỉ còn 42 triệu người. Trong quá trình cải cách kinh tế, Trung quốc đã thực hiện nhiều biện pháp để hạn chế sự phân hoá giàu nghèo và XĐGN. Các giải pháp, chính sách XĐGN ở Trung Quốc khá đa dạng, thay đổi linh hoạt theo từng thời kỳ, cụ thể như sau: + Duy trì ổn định chính trị: Trung Quốc quan niệm giữa ổn định chính trị và đói nghèo có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu không ổn định chính trị, người dân không yên ổn làm ăn, sinh sống, các mục tiêu kinh tế - xã hội cũng không thể thực hiện được. + Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhằm tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho mọi người. Trong hai thập kỷ qua, Trung Quốc là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới. Bên cạnh việc hình thành những khu công nghiệp, khu chế xuất hiện đại ở vùng ven biển, vùng hấp dẫn đầu tư nước ngoài, Trung Quốc rất chú ý đến việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nông thôn. + Tạo việc làm thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là cơ cấu kinh tế nông thôn. Việc hình thành các thị trấn, thị tứ, hoàn thiện dần hệ thống giao thông nông thôn đã thúc đẩy dịch vụ nông thôn phát triển. + Xây dựng các mô hình, chỉ đạo điểm cho từng vùng, từng địa phương để làm hình mẫu, đầu tầu "lan toả"cho cả vùng. + Huy động nhiều nguồn lực để thực hiện XĐGN. Trước hết, Trung Quốc khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những vùng đất hoang, đồi núi… Để giữ đất nông nghiệp trước yêu cầu cao của công nghiệp hoá, đô thị hoá. Chính phủ Trung Quốc quy định: việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp phải thực hiện theo nguyên tắc: "lấy bao nhiêu, khai hoang bù bấy nhiêu"và hình thành quỹ riêng để khai hoang bù đắp cho việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Ngoài vốn của Nhà nước, của cộng đồng, Trung Quốc tranh thủ tối đa vốn cho mục tiêu XĐGN từ WB, và các tổ chức phi Chính phủ…Cùng với sự trợ giúp để tạo việc làm, tăng thu nhập, Trung Quốc còn có sự hỗ trợ tích cực về truyền thống, giáo dục, y tế cho các hộ nghèo và vùng khó khăn. Đặc biệt là yêu cầu và khuyến khích các vùng giàu, địa phương giàu giúp đỡ các vùng, địa phương nghèo. * Kinh nghiệm XĐGN ở cộng hoà Indonexia: Indonexia, do là quốc gia đông dân nhất khu vực Đông Nam Á, sinh sống ở hơn 7 ngàn hòn đảo lớn nhỏ với những tính đa dạng về điều kiện sinh thái, dân tộc, chia cắt về địa hình, nên phát triển kinh tế và thực hiện XĐGN là công việc rất phức tạp. Ở thời kỳ đầu sau khi giành được độc lập, nền kinh tế Indonexia còn lạc hậu, tăng trưởng thấp, dân số tăng nhanh nên bình quân thu nhập đầu người có xu hướng giảm sút (năm 1957, thu nhập bình quân 1 người dân đạt 131 USD, đến năm 1961 chỉ còn 83 USD). Sau đó Nhà nước Indonexia đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm khôi phục và phát triển kinh tế. Indonexia thực hiện chiến lược mở cửa, tăng xuất khẩu, nhất là xuất khẩu khoáng sản, sản phẩm nông, lâm, thuỷ, hải sản… Nhờ kinh tế tăng trưởng và bước đầu nhận thức được tác hại của phân hoá giàu nghèo, trong suốt thập kỷ 80 và nửa đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Indonexia đã thực hiện nhiều biện pháp XĐGN, đưa mục tiêu XĐGN trở thành mục tiêu quốc gia. Chính phủ đã trợ cấp ngân sách hỗ trợ tín dụng cho người nghèo, khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn… Nhờ các biện pháp tích cực đó, nên số người nghèo của Indonexia từ những năm 70 đến đầu những năm 90 liên tục giảm. Năm 1976, số người sống dưới mức nghèo khổ là 54 triệu người nhưng đến năm 1987 chỉ còn 30 triệu người. Năm 1996, Indonexia được giải thưởng của Liên Hợp quốc về thực hiện chương trình XĐGN. Nhưng từ cuối năm 1996, kinh tế - xã hội và chính trị Indonexia lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Các nhà lãnh đạo tham nhũng, bạo động, xung đột về lãnh thổ, khủng hoảng kinh tế, đời sống nhân dân, nhất là tầng lớp nghèo, bị giảm sút nghiêm trọng. Có nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng, khủng hoảng kinh tế - xã hội và bất ổn chính trị đã làm tiêu tan thành quả XĐGN trong gần 20 năm trước đó của nước này. * Kinh nghiệm XĐGN ở Thái Lan: Từ những năm 80 và hiện nay, Thái Lan áp dụng mô hình gắn liền chính sách phát triển quốc gia với chính sách phát triển nông thôn thông qua chương trình hình thành và phát triển xí nghiệp ở làng quê nghèo, phát triển doanh nghiệp nhỏ, mở rộng các trung tâm dạy nghề ở nông thôn để giúp nông dân giảm bớt nghèo khổ. Nhờ hoạt động của Ban phát triển nông thôn và Tổ chức Hiệp hội Dân số và Phát triển cộng đồng theo mô hình trên, ở Thái Lan tỷ lệ người nghèo giảm từ 30% dân số trong thập kỷ 80 xuống còn 23% dân số năm 1990. 1.3.2. Kinh nghiệm xoá đói, giảm nghèo của một địa phương trong nước 1.3.2.1. Kinh nghiệm xoá đói, giảm nghèo ở Hà Tĩnh Hà Tĩnh là một trong những tỉnh nghèo ở nước ta. Để thực hiện công tác XĐGN, tỉnh cho xây dựng các mô hình, chỉ đạo điểm ở cấp xã để rút kinh nghiệm triển khai cho các huyện và toàn tỉnh. Trước hết Hà Tĩnh đã phân chia và đi sâu nghiên cứu đặc điểm của từng vùng sinh thái khác nhau, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp XĐGN phù hợp. Ví dụ huyện Thạch Hà với 44 ngàn ha đất tự nhiên nhưng được chia làm 5 vùng kinh tế, sinh thái: + Các xã vùng 1 (vùng biển bãi ngang): Có 10 xã thì 5 xã nghèo, đông dân nhưng ít đất, hầu như không có công trình thủy lợi. + Các xã vùng Bắc Hà: Thủy lợi khó khăn, đất đai khô cằn, ngành nghề, dịch vụ chưa phát triển. Đây là vùng rất khó khăn cho hộ nghèo vươn lên. + Các xã vùng cửa biển: Tuy không có công trình thủy lợi, dân đông, đất cát, đất bạc màu nhưng làm nghề biển và phát triển được các ngành nghề dịch vụ nên kinh tế và mức sống khá hơn hai vùng đã nêu trên. + Các xã vùng núi phía Tây huyện: Đất nông nghiệp nhiều nhưng là những xã mới hình thành nên thiếu thốn về kết cấu hạ tầng KT-XH. Tỷ lệ nghèo cao, có 02 xã tỷ lệ hộ nghèo đói chiếm trên 40% số hộ. + Các xã vùng trung tâm huyện: Có truyền thống thâm canh lúa nước, thuận tiện về giao thông, thủy lợi nhưng bình quân đất nông nghiệp cho một nhân khẩu thấp lại độc canh nên cũng gặp không ít khó khăn trong XĐGN. Như vậy, với mỗi một vùng sinh thái khác nhau, thì nghèo đói vừa có điểm chung, vừa có tính đặc thù riêng của từng địa bàn cụ thể. Do vậy, các giải pháp XĐGN áp dụng cho từng vùng vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác biệt. Mô hình XĐGN có hiệu quả ở xã Kỳ Thọ (Kỳ Anh) là một ví dụ minh chứng. Xã Kỳ Thọ, huyện Kỳ Anh là xã nghèo của tỉnh Hà Tĩnh. Đây là xã thuần nông nhưng đất đai bị nhiễm mặn nên đời sống nhân dân rất khó khăn. Năm 1997 vẫn còn 43% số hộ trong xã thuộc diện hộ nghèo. Để XĐGN, xã tập trung đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng như: Xây dựng đê ngăn mặn, xây dựng trạm biến thế điện 200 KVA, nâng cấp hệ thống kênh mương thủy lợi, làm đường trục chính... Đồng thời các cấp chính quyền, đoàn thể và cộng đồng dân cư cùng nhau chung sức giúp các hộ nghèo vươn lên. Nhờ đó, chỉ trong 2 năm (1997- 1999) lương thực bình quân đầu người từ 408 kg lên 477 kg, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 43 % xuống còn 22,2%, số hộ khá, hộ giàu từ 129 hộ tăng lên 242 hộ v.v.. Mô hình XĐGN ở xã Kỳ Thọ thành công là bài học quý báu cho các xã, huyện và tỉnh, thành khác. 1.3.2.2. Kinh nghiệm xoá đói, giảm nghèo ở Thanh Hoá Nhiều địa phương bằng cách chủ động chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy thế mạnh của mình nên thực hiện có hiệu quả công tác xoá đói, giảm nghèo. Điển hình như thành phố Thanh Hoá, Yên Định, Đông Sơn, Nga Sơn, Quảng Xương. Nhiều xã đã có tỷ lệ thoát nghèo cao và tạo được nhiều việc làm, thu hút nhiều lao động như Nga Thuỷ- Nga Sơn, Cẩm Giang- Cẩm Thuỷ, Hải Thượng-Tĩnh Gia, Hoằng Thịnh- Hoằng Hoá… Thanh Hoá đã hình thành một số mô hình XĐGN hiệu quả tạo chuyển biến rất lớn tới công tác XĐGN như: mô hình liên kết giữa doanh nghiệp với hộ nghèo thông qua hỗ trợ vốn, giống, kỹ thuật, mua và chế biến sản phẩm (mô hình trồng cây mía công nghiệp của công ty đường Lam Sơn); mô hình phát triển nuôi trồng thuỷ sản gắn với XĐGN ở xã bãi ngang ven biển. Nhờ áp dụng hiệu quả các biện pháp XĐGN, Thanh Hoá đã giảm tỷ lệ đói nghèo từ 21,94% năm 2001 xuống còn 10,56% năm 2005. Bình quân mỗi năm giảm 2,3%. Giảm số xã nghèo từ 139 xã năm 2001 còn 55 xã năm 2005. 1.3.2.3. Kinh nghiệm xoá đói, giảm nghèo ở Quảng Trị Quảng Trị là tỉnh ở xa các trung tâm lớn của đất nước nên điều kiện phát triển, giao lưu kinh tế bị hạn chế. Vùng miền núi do địa hình phức tạp, dân cư thưa thớt, vùng bãi ngang ven biển do địa hình cồn cát, bãi cát khó xây dựng đường sá nên giao thông đi lại của dân cư 2 vùng này khó khăn, cước phí vận chuyển cao; người nghèo khó tiếp cận tốt với các dịch vụ công của Nhà nước. Chính vì vậy, phát triển cơ sở hạ tầng, mà trước hết là giao thông có một ý nghĩa to lớn trong việc XĐGN hiện nay ở Quảng Trị. Điều kiện thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, hạn hán nặng và kéo dài, thiếu nước tưới và sinh hoạt, năng suất cây trồng giảm, bão lụt thường xuyên xảy ra đã phá huỷ mùa màng, nhà cửa và cơ sở hạ tầng như đê đập, hệ thống thuỷ lợi và đường sá. Nhiều vùng đang trù phú thì chỉ sau một cơn bão, lũ thì hàng trăm hộ không nghèo trở thành hộ nghèo. Vùng ven biển là những bãi cát, cồn cát chạy sâu vào trong nội địa. Gió mạnh và bão luôn tạo ra những đụn cát di động, bồi lấp làm ảnh hưởng đến đất nông nghiệp và cơ sở hạ tầng Với điều kiện khắc nghiệt như vậy, Quảng Trị đã đưa ra kinh nghiệm sống chung với cát bằng cách tổ chức các mô hình sản xuất nông, lâm nghiệp trên cát để vừa phát triển sản xuất vừa cải tạo môi trường vùng cát; kết hợp các chương trình, dự án trồng rừng với việc di dãn dân lập làng sinh thái ra vùng cát, hình thành các tụ điểm dân cư mới phù hợp với quá trình phát triển cả trước mắt và lâu dài. 1.3.3. Bài học kinh nghiệm xoá đói, giảm nghèo cho Kiên Giang Qua phân tích một số kinh nghiệm, mô hình XĐGN của một số nước trong khu vực và ở Hà Tĩnh, Thanh Hoá, Quảng Trị có thể rút ra cho Kiên Giang những bài học sau: - Thứ nhất, phải tiến hành điều tra chu đáo, cặn kẽ xây dựng được cơ sở dữ liệu đầy đủ, chính xác, với những phân tích có căn cứ khoa học, thực tiễn các vùng nghèo đói khác nhau. Trên cơ sở đó xác định được quy mô, tính chất, mức độ nghèo đói, nguyên nhân nghèo đói của từng vùng khác nhau. Đây là cơ sở để có những chính sách, biện pháp giải quyết cụ thể, vừa là cơ sở để "đo đếm" đánh giá kết quả đạt được, định ra phương hướng, giải pháp phù hợp có hiệu quả trong tiến trình thực hiện XĐGN. - Thứ hai, XĐGN phải luôn được coi là mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược phát triển, là một bộ phận quan trọng trong kế hoạch KT-XH hàng năm, 5 năm của tỉnh. Tỉnh phải có chính sách, giải pháp XĐGN rõ ràng, cụ thể và có tính khả thi đối với từng vùng, phù hợp với các nhóm đối tượng (chẳng hạn, nhóm hộ nghèo do thiếu vốn sản xuất thì phải có chính sách hỗ trợ tín dụng thích hợp, nhóm thiếu kinh nghiệm và tay nghề lao động thì phải hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ trợ giáo dục v.v..) theo nguyên tắc "cho cần câu hơn cho xâu cá" và phân cấp mạnh cho cơ sở. - Thứ ba, phải tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và người dân về XĐGN, sao cho công cuộc XĐGN huy động được tất cả các cấp, các ngành, toàn xã hội tham gia, không ai là người ngoài cuộc, trong đó ý chí và quyết tâm của chính các hộ nghèo là nhân tố quyết định. Những hộ nghèo đói thường hay gặp nhiều khó khăn, ít hiểu biết, không nắm được thông tin, ít được tham gia vào quá trình phát triển, ít có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ công vv... Bản thân họ dễ bị mặc cảm, tự ti. Do vậy, để phát huy đầy đủ nội lực trong công cuộc XĐGN, trước hết phải làm cho các hộ nghèo vượt qua được những mặc cảm, tự ti vốn có của họ; bảo đảm cho họ được tham gia vào mọi hoạt động của chương trình XĐGN từ việc xác định đối tượng thụ hưởng đến lập kế hoạch, triển khai thực hiện ở thôn, bản, xã, quản lý nguồn lực, giám sát, đánh giá v.v.. - Thứ tư, phải thấy rõ vấn đề XĐGN là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nó liên quan đến nhiều mục tiêu cả kinh tế lẫn xã hội, liên quan đến hoạt động của nhiều ngành và các cấp chính quyền khác nhau. Vì vậy, để đạt được hiệu quả XĐGN phải có sự phối hợp tích cực và đồng bộ của các cấp, các ngành chức năng, các tổ chức hội, đoàn thể quần chúng; đồng thời phải có sự lồng ghép tất cả các hoạt động, các chương trình, dự án đầu tư XĐGN. - Thứ năm, phải làm tốt công tác tổ chức, cán bộ, củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo các cấp, nhất là cấp xã là một trong những yếu tố thành công trong quá trình thực hiện. Kinh nghiệm thực tế đã cho thấy, ở đâu có Ban XĐGN xã mạnh thì ở đó hoạt động XĐGN đạt kết quả tốt. Chương 2 THỰC TRẠNG XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG 2.1. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI CỦA TỈNH KIÊN GIANG ĐẾN ĐÓI NGHÈO VÀ XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên tỉnh Kiên Giang Kiên Giang là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, giữ vị trí tiền tiêu phía Tây Nam của Tổ quốc, có nguồn lực đa dạng, chứa đựng nhiều tiềm năng, lợi thế trong phát triển kinh tế và thuận lợi trong giao thương quốc tế, đồng thời có vị trí rất quan trọng về quốc phòng - an ninh. Tổng diện tích đất tự nhiên của Kiên Giang là 6.269 km2, trong đó đất liền là 5.638 km2 và hải đảo 631 km2 (đảo lớn nhất là Phú Quốc 567 km2); có đường biên giới trên bộ 56,8 km tiếp giáp với hai tỉnh Kampốt và Tàkeo của Vương quốc Campuchia, có vùng nước lịch sử rộng khoảng 8.500 km2 với Campuchia. Với bờ biển dài 200 km và 63.290 km2 ngư trường, Kiên Giang tập trung khoảng 105 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có 45 đảo có dân cư sinh sống. Địa hình rất phức tạp, sông rạch chằng chịt, có 7/14 huyện thị thường xuyên bị ngập lụt hàng năm, chế độ thuỷ triều biển Tây chi phối rất lớn khả năng tiêu úng về mùa mưa và bị ảnh hưởng lớn của nước mặn vào các tháng mùa khô. Những đặc điểm nêu trên đã gây trở ngại tới sản xuất và đời sống của nhân dân trong tỉnh. Mặt khác, điều kiện khí hậu thời tiết ở Kiên Giang có nhũng thuận lợi cơ bản: ít thiên tai, không có bão đổ bộ trực tiếp, không rét (nhiệt độ trung bình hàng năm từ 27- 27,5oC) ánh sáng và nhiệt lượng dồi dào rất thuận lợi cho cây trồng vật nuôi sinh trưởng. Vị trí địa lý của tỉnh cũng rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế mở cửa, hướng ngoại do có cảng biển, sân bay và có khoảng cách tới các nước ASEAN tương đối ngắn. Về tài nguyên thuỷ sản, Kiên Giang là tỉnh có nguồn lợi thuỷ sản đa dạng, phong phú bao gồm: tôm, cá các loại và có nhiều đặc sản quí như: Đồi mồi, hải sâm, sò huyết, nghêu lụa, rau câu, ngọc trai, mực, bào ngư… Về tài nguyên khoáng sản, Kiên Giang là tỉnh có nguồn khoáng sản dồi dào. Qua thăm dò điều tra địa chất tuy chưa đầy đủ nhưng đã xác định được 152 điểm quặng và mỏ của 23 loại khoáng sản thuộc các nhóm như: nhóm nhiên liệu (than bùn), nhóm không kim loại (đá vôi, đá xây dựng, đất sét…), nhóm kim loại (Sắt, Laterit sắt…), trong đó chiếm chủ yếu là khoáng sản không kim loại dùng để sản xuất vật liệu xây dựng như: xi măng, gạch ngói, gốm sứ, đá xây dựng, đá ốp lát, cát làm thuỷ tinh, than bùm làm chất đốt… 2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang Về đơn vị hành chính, Kiên Giang là kết quả sát nhập hai tỉnh Hà Tiên và Rạch Giá. Hiện trên địa bàn tỉnh có 1 thành phố trực thuộc tỉnh (Rạch Giá), 1 thị xã (Hà Tiên) và 12 huyện (Kiên Lương, Hòn Đất, Tân Hiệp, Châu Thành, Gò Quao, Giồng Riềng, Vĩnh Thuận, An Minh, An Biên, Phú Quốc, Kiên Hải và huyện UMinh Thượng). Cơ cấu kinh tế của Kiên Giang là: nông, lâm, thủy sản; công nghiệp, xây dựng; dịch vụ. Trong đó: nông, lâm, thủy sản chiếm 47,13%; công nghiệp, xây dựng chiếm 25,64%; các ngành dịch vụ chiếm 27,23%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm 2005 đạt 12,83% [14, tr.28]. Thu nhập bình quân đầu người 9,7 triệu đồng/năm, tương đương 592 USD [46, tr.19]. * Về nông- lâm nghiệp: Diện tích đất nông nghiệp trên toàn tỉnh là: 350.393 ha, trong đó đất trồng lúa là 267.995 ha, đất trồng cây công nghiệp hàng năm là 12.715 ha, đất trồng cây lâu năm là 37.938 ha, đất lâm nghiệp là 108.996 ha, hàng năm phải cần đến 500 ngàn lao động để sản xuất nông nghiệp, lực lượng lao động trong nông nghiệp chiếm 76,60% tổng số lao động đang làm việc trong các ngành. Khả năng khai hoang phục hoá, thâm canh tăng vụ, đa canh trồng cây ăn trái, cây hoa màu, cải tạo vườn tạp, phát triển chăn nuôi còn rất lớn, được đánh giá là ngành thu hút nhiều lao động của tỉnh hiện nay và trong tương lai. Đặc điểm của ngành này là không đòi hỏi lao động có kỹ thuật cao, sản xuất mang tính thời vụ, sử dụng được lao động trong gia đình, nhưng hệ số sử dụng ngày công lao động còn thấp, thời gian nông nhàn chưa sử dụng còn nhiều. * Về công nghiệp: Kiên Giang là tỉnh có ưu thế tương đối khá về tài nguyên khoáng sản. Nếu so với các tỉnh trong khu vực thì Kiên Giang có nhiều chủng loại khoáng sản và trữ lượng khá cao. Hiện nay khu công nghiệp Kiên Lương - Ba Hòn - Hòn Chông đã được đầu tư phát triển, hàng năm khai thác hàng trăm ngàn tấn đá các loại, chủ yếu là đá xây dựng, đá vôi làm nguyên liệu cho các nhà máy xi măng và sản xuất vôi bột nhẹ. Ngoài ra, Kiên Giang còn phát triển ngành công nghiệp chế biến như: chế biến lương thực, chế biến thủy hải sản phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, công nghiệp sản xuất nước đá và công nghiệp đóng tầu phục vụ khai thác hải sản đang phát triển mạnh, nhưng công nghiệp cơ khí, chế tạo lại chậm phát triển so với các tỉnh trong vùng. Đánh giá chung là, ngành công nghiệp Kiên Giang đang trên đà phát triển và thu hút một lực lượng lao động hàng năm gần 40 ngàn người. * Về hải sản: Kiên Giang được thiên nhiên ưu đãi thuận lợi cho việc phát triển ngành thủy sản trên cả ba phương diện: nuôi trồng, khai thác và chế biến. Với 200 km bờ biển và 105 hòn đảo nổi chủ yếu thuộc hai huyện Phú Quốc và Kiên Hải, một số hòn đảo thuộc Kiên Lương và thị xã Hà Tiên, Kiên Giang có ngư trường với nhiều chủng loại hải sản quí, có trữ lượng cao ước tính gần 500 ngàn tấn mỗi năm, khả năng khai thác hơn 200 ngàn tấn một năm. Ngành thuỷ sản thu hút lực lượng lao động khá lớn từ 33 ngàn đến 36 ngàn người mỗi năm, chưa kể đến lực lượng lao động chế biến và các dịch vụ phục vụ ngành hải sản. Tiềm năng phát triển của các nghề nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy hải sản Kiên Giang còn rất lớn và khả năng mở rộng, thu hút lao động trong lĩnh vực này cũng có nhiều triển vọng. Một đặc điểm đáng chú ý đối với lao động trong lĩnh vực này là, số lao động đòi hỏi kỹ thuật cao như thuyền trưởng, máy trưởng còn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số lao động trong ngành; số còn lại thời gian đào tạo nghề ngắn, chủ yếu là đào tạo theo hình thức kèm cặp. * Về các ngành dịch vụ- du lịch- thương mại: Kiên Giang có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Mũi Nai, Hòn Chông, Hòn Trẹm, Hòn Phụ Tử và các đảo ngoài khơi, các di tích lịch sử như Thạch Động, Lăng Mạc Cửu, Hòn Đất, U Minh, Phú Quốc, có nhiều bãi tắm hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Đặc biệt, Kiên Giang nằm trong vùng có nền văn hoá Óc Eo một thời đã từng phát triển mạnh mẽ và là trung tâm giao lưu với bên ngoài. Ngoài ra du lịch lễ hội cũng là một thế mạnh như lễ hội dân tộc Khmer, lễ hội giỗ vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực vào cuối tháng tám âm lịch hàng năm đã thu hút hàng trăm lượt người đến tham dự. Ngành dịch vụ- du lịch- thương mại phát triển đã thu hút một lực lượng khá lớn lao động khoảng 60 ngàn người. * Về nhân lực: - Năm 2002 dân số toàn tỉnh có 1.601.550 người gồm 3 dân tộc chính: Dân tộc Kinh chiếm 85,6%, dân tộc Khmer chiếm 12,19%, dân tộc Hoa chiếm 2,16%. Dân số thành thị chiếm 21,88% và dân số nông thôn chiếm 78,12%. Qui mô dân số của tỉnh đứng thứ 16 trong 64 tỉnh thành của cả nước và thứ 5 so với 12 tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long. Mật độ dân số của tỉnh năm 2002 là 248 người/km2 thuộc loại trung bình, thấp so với trong vùng (412 người/km2) và cao hơn bình quân cả nước (236 người/km2). Dân số của tỉnh phân bố không đều, thường tập trung ở ven trục lộ giao thông, kênh rạch, sông ngòi và một số đảo. Nếu phấn đấu hạ tỷ lệ sinh hàng năm 0,4‰ giai đoạn 2006-2010 thì qui mô dân số toàn tỉnh đến năm 2010 đạt hơn 1.834.000 người. Lao động trong độ tuổi có hơn 934.000 người chiếm 58,31% dân số, trong đó có khoảng 80% đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân (có 4,7% lực lượng lao động là công nhân viên chức). Tỷ lệ lao động kỹ thuật còn rất thấp, theo số liệu Tổng điều tra dân số năm 1999 thì mới đạt 4,3% trong tổng số lao động. Đến 2010 số lao động trong độ tuổi tăng lên 1.100.000 người, như vậy Kiên Giang cần phải giải quyết việc làm cho trên 18 vạn lao động trong vòng 10 năm tới. Kiên Giang là vùng cư trú của nhiều dân tộc trong lịch sử và hiện tại. Ngày nay là nơi cư trú của các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa. Thời cổ đại đây là đất cư trú của cư dân Mã Lai Nam Đảo. Thời trung cổ từ thế kỷ XVII, đồng bào Khmer và văn hóa của họ đóng vai trò chủ đạo. Từ thế kỷ XVIII trở đi, đồng bào người Kinh, Hoa và văn hóa của hai tộc người này đóng vai trò chủ đạo ở các đô thị và vùng đông dân cư, trong đó văn hóa người Kinh đã trở thành nền tảng của văn hóa Nam bộ nói chung, tỉnh Kiên Giang nói riêng. Sự giao tiếp giữa các tộc người, sự giao lưu của các sắc thái văn hóa đã tạo cho Kiên Giang sự lai chủng về tộc người, sự giao thoa về văn hóa. Hiện tượng song ngữ, đa ngữ, đa văn hóa và song văn hóa trong một tộc người, trong một địa phương đã tồn tại từ lâu. Tỷ lệ phát triển dân số của đồng bào Khmer Nam bộ khoảng 2,5%. Đồng bào Khmer Kiên Giang qua các giai đoạn tăng như sau: Năm 1936 có 53/144 xã, thôn có đồng bào Khmer (chiếm 37% xã, thôn của đồng bào Kinh, Hoa). Năm 1910, Hà Tiên (tỉnh) có 1.900 người, Rạch Giá (tỉnh) có 31.974 người. Sau ngày giải phóng thống nhất đất nước, theo số liệu thống kê điều tra dân số năm 2000, đồng bào Khmer có 181.344 người (chiếm 12,19%). Năm 2006 có 46.744 hộ với 236.292 khẩu là đồng bào dân tộc Khmer, chiếm 14,2% so với dân số - là tỉnh có đông đồng bào Khmer sinh sống, đứng thứ ba ở vùng Tây Nam bộ sau Sóc Trăng và Trà Vinh [49]. Đồng bào Khmer sinh sống tập trung tại 61 xã ở 9/14 huyện, thị, thành phố (trong tổng số 68 xã, phường, thị trấn có đông đồng bào Khmer/139 xã, phường, thị trấn của toàn tỉnh) [51], trong đó có 27 xã trọng điểm có đông đồng bào Khmer thuộc diện đặc biệt khó khăn được Chính phủ đưa vào giai đoạn II Chương trình 135 vào tháng 7- 2006 [45]. Huyện có đông đồng bào Khmer nhất là Gò Quao (39.720 người, chiếm 29,8%) với xã đông nhất là Định An (11.141/15.698 người, chiếm 70,8%, mật độ bình quân 700 người/km2); ít nhất là huyện Kiên Hải với khoảng 240 người [49]. * Trình độ học vấn của dân cư: Trong nhiều năm qua cùng với sự đổi mới và phát triển không ngừng về kinh tế- xã hội của cả tỉnh, tình hình giáo dục và đào tạo của tỉnh cũng đã có những bước tiến bộ mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Giáo dục và đào tạo luôn được sự quan tâm và ưu tiên hàng đầu trong chính sách phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Kết quả là tỷ lệ người biết chữ ở địa phương đã tăng dần qua các năm. Qua kết quả khảo sát năm 2006 tỷ lệ biết chữ của dân số từ 10 tuổi trở lên của Kiên Giang là 90,50% tăng 2,91% so với năm 2002 (năm 2002 là 87,58%). Trong đó, khu vực thành thị là 95,17%, khu vực nông thôn là 89,00%; tỷ lệ biết chữ của những hộ không nghèo là 92,09%; tỷ lệ biết chữ của những hộ nghèo là 75,73%; tỷ lệ biết chữ của chủ hộ là dân tộc Kinh và Hoa là 92,82%; tỷ lệ biết chữ của những hộ có chủ hộ là dân tộ thiểu số là 76,81%. * Trình độ văn hoá chuyên môn kỹ thuật của chủ hộ: Kiên Giang là một tỉnh vùng sâu, vùng xa, dân số chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động tuy có những bước phát triển khá trong thời gian qua, song vẫn còn thấp so với cả nước và các tỉnh trong vùng do nhiều nguyên nhân như: trình độ dân trí có xuất phát điểm thấp, điều kiện và nguồn lực dành cho phát triển còn hạn chế… Một nguyên nhân nữa là trong quá trình phát triển có một lực lượng lao động trưởng thành và có trình độ văn hoá chuyên môn kỹ thuật cao không chịu về làm việc cho tỉnh mà chuyển sang địa phương khác làm việc. Theo kết quả khảo sát thì cơ cấu trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật của các chủ hộ như sau: Bảng 2.1: Trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật của chủ hộ ở Kiên Giang Đơn vị tính: % Trình độ văn hoá, chuyên môn Cơ cấu (%) kỹ thuật 2002 2004 2006 Chung toàn tỉnh 1. Chưa bao giờ đến trường 2. Tốt nghiệp tiểu học 3. Tốt nghiệp trung học cơ sở 4. Tốt nghiệp phổ thông trung học 5. Công nhân kỹ thuật, dậy nghề 6. Trung học chuyên nghiệp 7. Cao đẳng, đại học trở lên 100 55,90 27,8 10,80 2,7 0,61 0,98 1,21 100 39,29 33,48 15,91 6,34 0,41 2,37 2,2 100 35,55 34,27 16,9 7,37 1,28 2,22 2,41 Nguồn số liệu của Cục Thống kê Kiên Giang (tr19;báo cáo khảo sát năm 2006) 2.2. THỰC TRẠNG XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO Ở TỈNH KIÊN GIANG 2.2.1. Thực trạng đói nghèo ở tỉnh Kiên Giang 2.2.1.1.Khái quát chung tình hình hộ nghèo ở Kiên Giang Kiên Giang đã xoá hộ đói từ năm 1997. Theo kết quả khảo sát hộ nghèo, đến tháng 10 năm 2007 toàn tỉnh Kiên Giang có 31.241 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 8,98% trong tổng hộ nhân dân, giảm 1,8% (tương đương 5.569 hộ) so với năm 2006; giảm 5,13% so với năm 2005 trong đó: số huyện có tỷ lệ nghèo giảm nhanh là: Huyện An Biên giảm 3,21% so với năm 2006 Huyện Châu Thành giảm 2,37% so với năm 2006 Huyện An Minh giảm 2,53% so với năm 2006 Huyện Giồng Riềng giảm 2,14% so với năm 2006 Huyện Vĩnh Thuận giảm 2,73% so với năm 2006 Huyện U Minh Thượng giảm 2,18% so với năm 2006 Số hộ nghèo hiện nay chủ yếu tập trung ở hai vùng bán đảo Cà Mau và Tây sông Hậu. - Vùng Tây sông Hậu có 14.594 hộ chiếm 12,03% trong tổng số hộ dân của vùng, chiếm tỷ trọng 40,09% trong tổng số hộ nghèo của tỉnh. - Vùng bán đảo Cà Mau có 10.364 hộ chiếm tỷ lệ 12,85% trong tổng số hộ dân của vùng, chiếm tỷ trọng 33,17% trong tổng số hộ nghèo của tỉnh. - Chung cả hai vùng có 22.891 hộ chiếm 12,14% trong tổng số hộ dân của hai vùng và chiếm tỷ trọng 73,27% trong tổng số hộ nghèo của tỉnh. Số hộ nghèo của tỉnh Kiên Giang hằng năm đều giảm nhưng hộ cận nghèo hàng năm lại có xu hướng tăng lên. Theo kết quả khảo sát đến tháng 9 năm 2007 toàn tỉnh có 17.005 hộ cận nghèo chiếm tỷ lệ 4,89% trong tổng số hộ nhân dân tăng 1.773 hộ (tăng 0,43%) so với năm 2006. Trong tổng số 17.005 hộ cận nghèo hiện tại thì số hộ thoát nghèo trong năm còn ở lại trong khu vực này tương đối lớn bởi vì họ mới thoát ra khỏi ranh giới nghèo, nhưng chưa thoát ra khỏi khu vực nguy cơ tái nghèo, do đó còn nằm trong khu vực cận nghèo. Nếu so sánh hộ cận nghèo với hộ nghèo, thì số hộ cận nghèo bằng 54,43% hộ nghèo, nghĩa là cứ 100 hộ nghèo thì có tới 55 hộ cận nghèo. Đây chính là nguy cơ tiềm ẩn phát sinh tăng hộ nghèo nếu không giải quyết tốt khâu tuyên truyền, giáo dục, động viên cũng như có chính sách hỗ trợ vốn, tạo việc làm ổn định. Nếu cộng hộ nghèo và hộ cận nghèo lại thì toàn tỉnh có 48.246 hộ chiếm tỷ lệ 13,86% trong tổng số hộ nhân dân. Bảng 2.2: Tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo chia theo huyện, thị ở Kiên Giang TÊN HUYỆN, THỊ HỘ NGHÈO CẬN NGHÈO SỐ HỘ (hộ) TỶ LỆ (%) SỐ HỘ (hộ) TỶ LỆ (%) TOÀN TỈNH Thành phố Rạch Giá Thị xã Hà Tiên Huyện Kiên Lương Huyện Hòn Đất Huyện Tân Hiệp Huyện Châu Thành Huyện Giồng Riềng Huyện Gò Quao Huyện An Biên Huyện An Minh Huyện Vĩnh Thuận Huyện Phú Quốc 31.241 1.290 334 1.394 2.778 1.929 2.144 6.359 4.024 3.583 2.070 2.547 578 8,98 3,25 3,77 6,32 7,79 6,74 7,19 14,38 13,37 13,82 8,60 12,96 2,94 17.005 1.387 490 944 1.555 917 1.740 2.454 2.254 1.610 1.045 1.232 495 4,8 9 3,4 9 5,5 4 4,2 8 4,3 6 3,2 0 5,8 Huyện Kiên Hải Huyện U Minh Thượng 47 2.164 0,96 14,71 64 818 4 5,5 5 7,4 9 6,2 1 4,3 4 6,2 7 2,5 2 1,3 1 5,5 6 Nguồn: Sở Lao động- Thương binh và Xã hội tỉnh Kiên Giang điề

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN-Xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.pdf
Tài liệu liên quan