Tài liệu Luận văn Xây dựng website hỗ trợ phương pháp dạy học theo vấn đề (problem based learning) để dạy phần mặt trời và các hành tinh cho sinh viên vật lý: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Võ Văn Dễ
XÂY DỰNG WEBSITE HỖ TRỢ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
THEO VẤN ĐỀ (PROBLEM BASED LEARNING) ĐỂ DẠY
PHẦN MẶT TRỜI VÀ CÁC HÀNH TINH CHO SINH VIÊN
VẬT LÝ
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học môn Vật lý
Mã số: 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ PHƯỚC LỘC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công
bố trong bất kì một công trình nào khác.
Tác giả
Võ Văn Dễ
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự hướng
dẫn tận tình của PGS. TS Lê Phước Lộc trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn
thành luận văn này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng sau Đại học, các
thầy cô giáo trong tổ Phương pháp giảng dạy cùng các thầy cô giáo trong Kho...
151 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Xây dựng website hỗ trợ phương pháp dạy học theo vấn đề (problem based learning) để dạy phần mặt trời và các hành tinh cho sinh viên vật lý, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Võ Văn Dễ
XÂY DỰNG WEBSITE HỖ TRỢ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
THEO VẤN ĐỀ (PROBLEM BASED LEARNING) ĐỂ DẠY
PHẦN MẶT TRỜI VÀ CÁC HÀNH TINH CHO SINH VIÊN
VẬT LÝ
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học môn Vật lý
Mã số: 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ PHƯỚC LỘC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công
bố trong bất kì một công trình nào khác.
Tác giả
Võ Văn Dễ
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự hướng
dẫn tận tình của PGS. TS Lê Phước Lộc trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn
thành luận văn này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng sau Đại học, các
thầy cô giáo trong tổ Phương pháp giảng dạy cùng các thầy cô giáo trong Khoa
Vật Lý trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm Khoa Sư
phạm, Bộ môn vật lý trường Đại học An Giang nơi tác giả tiến hành thực
nghiệm sư phạm và đang công tác.
Tác giả xin cảm ơn các bạn cùng lớp đã động viên, đoàn kết, thương yêu
giúp đỡ nhau trong suốt thời gian học. Cuối cùng tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn
đối với gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tác giả hoàn thành
luận văn này.
Xin trân trọng kính chào.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
TT Viết tắt Viết đầy đủ
1 ĐC Đối chứng
2 ĐH Đại học
3 CBGD Cán bộ giảng dạy
4 CNTT Công nghệ thông tin
5 DHNVĐ Dạy học nêu vấn đề
6 DHTH Dạy học tình huống
7 GD - ĐT Giáo dục và Đào tạo
8 GV Giảng viên
9 HTML HyperText Markup Language (Ngôn ngữ Đánh dấu Siêu
văn bản)
10 ICT Công nghệ thông tin và truyền thông
11 LLDH Lí luận dạy học
12 MT Máy vi tính
13 PBL Dạy học theo vấn đề (Problem Based Learning)
14 PPDH Phương pháp dạy học
15 QTDH Quá trình dạy học
16 SV Sinh viên
17 TN Thực nghiệm
18 TNSP Thực nghiệm sư phạm
19 TVH Thiên văn học
20 WEB-PBL Website hỗ trợ dạy - học theo phương pháp dạy học theo
vấn đề
Phần 1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mục tiêu của giáo dục đại học nước ta đã được Luật Giáo dục xác
định: “Đào tạo trình độ đại học giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên
môn và có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng
tạo và giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.” [36]
Để thực hiện mục tiêu trên, việc đổi mới PPDH đại học trong giai đoạn
hiện nay đã được nêu ra trong Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-
2010, chỉ thị số 40-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng và Luật
Giáo dục 2005.
Chiến lược phát triển Giáo dục 2001-2010 đã khẳng định: “Chuyển từ
việc truyền đạt tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người
học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học
phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách hệ thống và có tư duy
phân tích, tổng hợp; phát triển được năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường
tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học tập,
hoạt động tự quản trong nhà trường và tham gia các hoạt động xã hội.” [33]
Chỉ thị 40CT/TW ngày 15-6-2004 của Ban Bí Thư Khóa IX về việc
Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ Nhà giáo và Cán bộ quản lí giáo dục
cũng đã xác định: “…đổi mới mạnh mẽ và cơ bản phương pháp giáo dục
nhằm khắc phục kiểu truyền thụ một chiều, nặng lý thuyết, ít khuyến khích tư
duy sáng tạo; bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề,
phát triển năng lực thực hành sáng tạo cho người học, đặc biệt cho sinh viên
các trường đại học và cao đẳng. Tích cực áp dụng một cách sáng tạo các
hương pháp tiên tiến, hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động
dạy và học…”
Những trích dẫn các văn bản trên đây cho thấy sự quyết tâm đổi mới
ngành giáo dục của Đảng và Nhà nước ta. Sự quyết tâm ấy thể hiện trong
những nội dung cơ bản sau:
- Đào tạo cho SV các năng lực tự học, tự nghiên cứu, phát triển tư duy
sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành để họ có thể nhanh chóng giải quyết
các tình huống thuộc chuyên ngành đào tạo của mình.
- Tạo điều kiện cho SV ứng dụng các lý thuyết đã học vào thực tế cuộc
sống và nghề nghiệp.
- Tích cực ứng dụng công nghệ mới, đặc biệt là khai thác một cách hiệu
quả công nghệ thông tin và truyền thông vào hoạt động dạy và học.
Thế kỷ XXI được nhận định là thế kỷ của nền kinh tế tri thức - Kỷ
nguyên thông tin. Công nghệ thông tin và truyền thông (Information and
Communication Technology - ICT): Web, Internet/Intranet, multimedia,... đã
và đang mang lại những “cơ hội điện tử”, cung cấp các phương tiện chưa từng
có để tiếp nhận, tích lũy và truyền thông tin. Trong xu thế đó, vai trò của giáo
dục, đặc biệt là giáo dục đại học trở nên hết sức quan trọng trong việc tạo điều
kiện tối đa cho cán bộ giáo viên (GV) khai thác sử dụng ICT cho việc dạy của
mình, hướng dẫn cho sinh viên (SV) khai thác phục vụ cho việc tự học, tự
nghiên cứu của họ. Người lao động trong xã hội ngày nay phải đáp ứng được
nhu cầu mới phải vừa vững về chuyên môn vừa có khả năng tự nghiên cứu,
sáng tạo, làm việc độc lập và học tập suốt đời.
Hiện nay, tuy nhiều GV ở các Trường Đại học (ĐH) đã bắt đầu thay đổi
phương pháp dạy học (PPDH) để SV học tập tích cực hơn, song theo nhận
định của các chuyên gia giáo dục, việc sử dụng PPDH ở đại học, cao đẳng của
ta vẫn còn lạc hậu. Phần lớn giáo viên chỉ sử dụng phương pháp giảng bài
truyền thống theo kiểu thông báo đồng loạt. Giáo viên chỉ chú trọng tới việc
thông tin đầy đủ những nội dung cần truyền đạt trong chương trình, cố gắng
làm cho sinh viên hiểu và nhớ bài giảng trên lớp, do vậy đã đặt người học vào
trong thói quen thụ động, lắng nghe, ghi chép bài giảng và học thuộc lòng, ít
có cơ hội động não.
Trong những năm qua, nhiều phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
tích cực đã được nghiên cứu và vận dụng ở các góc độ khác nhau. Ứng dụng
những thành tựu của công nghệ thông tin trong dạy học rất được chú ý và tận
dụng. Trong đó, việc sử dụng internet hỗ trợ dạy học với môi trường đa
phương tiện góp phần quan trọng trong việc đổi mới PPDH, nâng cao thật sự
hiệu quả giáo dục. Cùng với các PPDH tích cực, công nghệ thông tin được
xem là công cụ không thể thiếu của quá trình dạy học trong kỷ nguyên này.
Các trường đại học ở các nước phát triển và một số nước đang phát triển đã và
đang sử dụng một cách hiệu quả PPDH theo vấn đề (Problem Based Learning
– PBL). Đây là một phương pháp rất có ý nghĩa trong việc cải tiến các PPDH
ở Trường ĐH. PPDH theo vấn đề (PBL) kết hợp với việc khai thác internet
cho ta hình ảnh rõ nét nhất về việc đổi mới phương pháp theo tin thần lấy
người học làm trung tâm. Nếu sử dụng internet hợp lí, biết tận dụng những lợi
thế của môi trường đa phương tiện thì sử dụng PBL sẽ thiết thực và dễ dàng
hơn.
Ở nước ta, sử dụng PBL ở bậc đại học bước đầu được nhiều trường quan
tâm áp dụng. Một số hội thảo, tập huấn đã được tổ chức. Tuy nhiên, thiết kế
các vấn đề dạy học theo PBL có sử dụng internet, có hỗ trợ của các phần mềm
máy tính sẽ có nhiều lợi thế và rất lí thú. Do nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan, GV ứng dụng vấn đề này còn khá hạn chế. Các vấn đề dạy học
theo PBL có kết hợp internet có những đặc trưng gì? Có công cụ nào hỗ trợ
GV biên soạn các vấn đề dạy học theo PBL trực tuyến trên internet nhằm phát
huy tính tích cực, sáng tạo của sinh viên hay không? Đây là những câu hỏi mà
nhiều GV (trong đó có nhiều người cũng đã sử dụng máy tính thông thạo) vẫn
còn canh cánh bên lòng. Do đó, việc tìm hiểu các yếu tố đặc thù khi thiết kế
các vấn đề dạy học theo PBL qua môi trường internet, đồng thời xây dựng
website hỗ trợ GV tổ chức dạy học theo PBL sẽ góp phần nào giải quyết
những câu hỏi trên. GV sẽ tự xây dựng các vấn đề dạy học theo PBL có chất
lượng hơn, tạo điều kiện để sinh viên phát huy tính tích cực, sáng tạo cùng
với kỹ năng khai thác thông tin giải quyết vấn đề.
Với điều kiện thuận lợi của trường Đai học An Giang như thư viện của
trường đã được trang bị trên 100 máy nối mạng internet, SV của trường có thể
lên mạng miễn phí tại thư viện, khuôn viên trường có phủ mạng không dây
(wireless). SV cũng được trang bị các kiến thức cơ bản về tin học cũng như
các thủ thuật tìm kiếm thông tin trên Internet. Đặc biệt, lãnh đạo nhà trường
rất quan tâm, khuyến khích và tạo nhiều điều kiện để GV, SV ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học.
Phần Mặt trời và các hành tinh trong môn Thiên văn học (giáo trình
dành cho sinh viên sư phạm vật lí) có nội dung không quá trừu tượng và cũng
rất lôi cuốn, hấp dẫn tuổi trẻ. Nếu dạy nội dung phần này mà không khai thác
những lợi thế của ICT thì khó kích thích sự tích cực, khơi dậy tiềm năng sáng
tạo của các em.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu:
“Xây dựng website hỗ trợ phương pháp dạy học theo vấn đề (Problem
Based Learning) để dạy phần Mặt trời và các hành tinh cho sinh viên vật lí”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp dạy học theo tình huống ở bậc đại học có
kết hợp sự hỗ trợ của công nghệ thông tin (xây dựng website chuyên biệt cho
môn học để giảng viên và sinh viên sử dụng), tăng tính tích cực và sáng tạo
của sinh viên trong các hoạt động học (tự lực tìm kiếm và làm việc nhóm), góp
phần nâng cao các năng lực nghiên cứu và khả năng giải quyết vấn đề của
sinh viên.
3. Giả thuyết khoa học
Nếu sử dụng phương pháp dạy học theo vấn đề (PBL) trong dạy học ở đại
học có kết hợp với một website hỗ trợ riêng thì sẽ phát huy được tính tích cực,
sáng tạo của sinh viên trong việc giải quyết vấn đề, góp phần nâng cao chất
lượng môn học nói riêng trong đào tạo giáo viên vật lí nói chung.
Phương pháp dạy học theo vấn đề (Problem Based Learning – PBL) đã
và đang được sử dụng rộng rãi tại các trường đại học các nước tiên tiến. Vài
chục năm gần đây, trong các hội thảo, tạp chí, các nhà sư phạm có bàn nhiều
về phương pháp dạy học này. Ở Trường Đại học An Giang, một số giảng viên
cũng đã thử nghiệm dạy học theo tình huống và đã rất thành công. Đi sâu
nghiên cứu các phương pháp dạy học tích cực, chúng tôi thấy rõ một điều là,
những môn học có nội dung gần với cuộc sống, có nhiều ứng dụng thực tế sẽ
có thuận lợi nhiều trong việc triển khai. Phương pháp PBL không nằm ngoài
cảm nhận này. Chúng tôi có ý định xây dựng một website chuyên biệt cho
một môn học để thử nghiệm hỗ trợ giảng viên và sinh viên học môn học ấy
theo phương pháp dạy học PBL. Chúng tôi cũng đã chọn môn Thiên văn –
môn học thoả mãn nhiều điều kiện thuận lợi cho phương pháp dạy học PBL -
để thử nghiệm cho giả thuyết của chúng tôi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Việc sử dụng PPDH theo vấn đề (PBL) trong dạy học vật lí và thiên văn.
- Chương trình Thiên văn học cho SV ngành sư phạm vật lí.
- Các phần mềm lập trình, thiết kế và xây dựng website.
- Đối tượng thực nghiệm: Sinh viên ngành sư phạm vật lí của Trường Đại
học An Giang.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về lí thuyết: nghiên cứu các PPDH tích cực, trong đó tập trung nghiên
cứu PPDH theo vấn đề - Problem Based Learning.
- Về tin học:
Nghiên cứu một số phần mềm ứng dụng trong Vật lí và Thiên văn học.
Lí thuyết và lập trình ứng dụng xây dựng website.
- Ứng dụng trong dạy học các “vấn đề” về phần Mặt trời và các hành tinh
trong môn Thiên văn học.
- Thực nghiệm tại trường Đại học An Giang với phần Mặt trời và các hành
tinh trong môn Thiên văn học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, các nhiệm vụ mà chúng tôi đề ra để thực hiện
trong đề tài như sau:
- Nghiên cứu những định hướng cơ bản trong việc đổi mới PPDH trong
giai đoạn hiện nay (Tập trung vào việc ứng dụng công nghệ thông tin).
- Nghiên cứu lý luận dạy học đại học, các PPDH tích cực với sự hỗ trợ của
ICT. Đặc biệt, việc áp dụng phương pháp dạy học theo vấn đề với sự hỗ trợ
của internet.
- Xây dựng website hỗ trợ GV, SV theo PBL.
- Xây dựng một số vấn đề dạy học theo PBL cho phần Mặt trời và các hành
tinh trong môn Thiên văn học và đưa vào website hỗ trợ.
6. Phương pháp và phương tiện nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu trên, chúng tôi đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
* Phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Nghiên cứu các văn bản pháp quy của Nhà nước, của ngành, của Nhà
trường về những định hướng cơ bản của việc đổi mới phương pháp dạy học
đại học trong giai đoạn hiện nay.
- Nghiên cứu các vấn đề về tâm lí học nói chung, ở bậc đại học nói riêng,
các vần đề về lí luận dạy học đại học, cơ sở cho việc thay đổi phương pháp
dạy học ở đại học thông qua các tài liệu đổi mới phương pháp giảng dạy của
giảng viên các trường đại học, các bài viết, tạp chí về dạy học đại học.
- Nghiên cứu phương pháp dạy học theo vấn đề áp dụng trong các trường
đại học trên thế giới và trong nước.
- Nghiên cứu lí thuyết xây dựng website
* Phương pháp quan sát:
- Quan sát các hoạt động của SV trong quá trình giải quyết vấn đề
- Quan sát các buổi báo cáo kết quả học tập của SV
- Quan sát các giờ học Thiên văn trong các giờ giảng thực nghiệm
* Phương pháp điều tra: thăm dò ý kiến SV sau thực nghiệm
* Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tổ chức cho các nhóm SV thực hiện
các nhiệm vụ học tập theo các phương pháp khác nhau để so sánh với kết quả
các nhóm SV thực hiện nhiệm vụ học tập theo PPDH theo vấn đề (PBL)
* Phương pháp thống kê: Thống kê, mô tả và phân tích các kết quả thực
nghiệm thu được.
7. Cấu trúc của luận văn
Phần I. Mở đầu
Phần II. Nghiên cứu và kết quả
Chương 1. Cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu đề tài
Chương 2. Xây dựng website hỗ trợ dạy học theo vấn đề (PBL) và ứng
dụng cho dạy học thiên văn ở đại học
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
Phần III. Kết luận
Phụ lục
Phần 2
NHỮNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CHO VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỔI MỚI PPDH ĐH TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
1.1.1. Những xu hướng đổi mới PPDH ĐH
Trước những yêu cầu mới của xã hội về con người, trước sự bùng nổ tri
thức khoa học cả về chiều sâu lẫn chiều phạm vi rộng, vấn đề đào tạo ĐH
không thể không thay đổi. Không những nội dung đào tạo mà cả PPDH ở các
trường ĐH cần phải đi theo xu hướng chung của thế giới. Thực tế cho thấy,
nhiều năm qua, hệ thống ĐH của chúng ta đã có những bước tiến vững chắc
trong vấn đề đổi mới. Nhiều PPDH tích cực đã được thử nghiệm và áp dụng
chính thức thay cho các phương pháp truyền thống “truyền thụ một chiều”.
Có thể thấy ba xu hướng rõ rệt:
Thứ nhất là, quan điểm “Người học là trung tâm trong quá trình dạy
học” đã được thông suốt ở các bậc học, đặc biệt là bậc ĐH. Quan điểm này
nhằm tạo cho người học khả năng tự lực, sáng tạo, tăng cường các hoạt động
học để họ năng động hơn trong học tập và nghiên cứu. Một hướng đi tích cực
của các giảng viên các trường ĐH là vận dụng nhóm các PPDH mang tính
chất tình huống, như: phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp
case study, PPDH khám phá, tổ chức dạy học theo nhóm v..v…PPDH theo
vấn đề (Problem Based Learning – PBL) cũng thuộc nhóm các phương pháp
này và đã được nhiều giảng viên trường ĐH Cần Thơ và trường ĐH An Giang
ứng dụng trong những năm qua.
Xu hướng thứ hai là việc tăng cường áp dụng công nghệ thông tin và
truyền thông (ICT) vào giảng dạy và học tập ở bậc ĐH. Khái niệm ICT ở đây
bao gồm các thiết bị nghe nhìn, công nghệ máy tính, các phần mềm tin học,
internet,… đều có thể được vận dụng tối đa vào quá trình dạy học. Tuy nhiên,
để đi theo xu hướng này không đơn giản chỉ là bỏ tiền ra mua sắm trang thiết
bị hiện đại là xong. Các sản phẩm của ICT ngày càng đa dạng về số lượng và
phong phú về chất lượng. Đa dạng bởi các thiết bị có rất nhiều chủng loại,
nhiều cấp bậc hiện đại. Có thể chúng ta không cần đến hệ máy hiện đại nhất
mà vẫn có thể có một nền giáo dục hiện đại. Phong phú bởi vì các tính năng
của ICT có thể đưa vào mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội và ngay trong giáo dục để
biến nó thành công cụ riêng cho mình, theo sở trường và năng lực của mỗi
người sử dụng nó.
Xu hướng thứ ba cũng là trào lưu phát triển mạnh mẽ hiện nay, nhất là ở
QTDH ở ĐH, đó là hướng kết hợp hai hướng trên. Theo hướng này, nhiều
giai đoạn hoạt động dạy của GV, hoạt động học của người học phải được hỗ
trợ bởi các phương tiện kĩ thuât, như: PPDH nêu vấn đề bằng Powerpoint,
PPDH khám phá với các nhiệm vụ khám phá được trao bằng Powerpoint, với
dạy học theo vấn đề (Problem Based learning) người học phải khai thác, sử
dụng nhiều các trang web, với phương pháp Seminar, người học đa phần phải
báo cáo bằng Powerpoint, PPDH theo đề án v..v..
1.1.2. Một số nét về sự đổi mới PPDH ở đại học của nước ta
Chúng tôi trích ra đây một số đoạn trong một bài báo cáo đánh giá về
hiện trạng giảng dạy và học tập tại các trường đại học ở Việt Nam (Dự án của
Quỹ Giáo dục Việt Nam - VEF) [37] có viết:
“Giáo dục trong khoa học nông nghiệp, và rộng hơn nữa là trong các
ngành học khác, phụ thuộc quá nhiều vào việc học thuộc lòng và không có kết
hợp với các phương pháp học tập hiện đại chú trọng đến kết quả học tập của
sinh viên.”
“Các phương pháp giảng dạy kém hiệu quả: diễn thuyết, thuyết trình,
ghi nhớ một cách máy móc, giao ít bài tập về nhà, ít có sự tương tác giữa sinh
viên và giảng viên.”
“Thiếu nhấn mạnh đến sự phát triển các kỹ năng thông thường và nghề
nghiệp, chẳng hạn như làm việc theo nhóm, khả năng giao tiếp hoặc viết bằng
tiếng Anh, quản lý dự án, các phương pháp giải quyết vấn đề, sáng kiến, học
lâu dài, …”.
Bản báo cáo cũng đã đưa ra đề nghị: “Cung cấp cho sinh viên nhiều hơn
những kinh nghiệm và thực hành ứng dụng bằng các hình thức bài tập trong
các phòng thí nghiệm, thiết kế và thực hiện dự án, học thông qua việc giải
quyết vấn đề”.
Bản báo cáo trên do các chuyên gia giáo dục Hoa Kì thực hiện sau một
thời gian làm việc và quan sát hiện trạng nền giáo dục ĐH của nước ta. Các
chuyên gia và Nhà giáo dục của ta cũng có nhận xét tương tự:
Tại Hội nghị Đổi mới PPDH ở bậc đại học và cao đẳng của Bộ GD-ĐT
tổ chức năm 2006 tại Hà Nội, PGS TS Nghiêm Đình Vỳ nhận xét trong bài
viết của mình: “Có 4 PPDH đang đươc phổ biến sử dụng hiện nay ở bậc ĐH
và CĐ, đó là phương pháp tái tạo; phương pháp trình bày - nêu vấn đề;
phương pháp tìm tòi và phương pháp nghiên cứu…. Mặc dù các phương pháp
trên khá phổ biến và người làm công tác giảng dạy đều biết, nhưng phần lớn
cán bộ giảng dạy ĐH vẫn quen dạy theo phương pháp truyền thống…. Những
gì thầy giảng thường không có sự tranh luận giữa thầy và trò. Điều thầy nói
là tuyệt đối đúng, và đó cũng là cơ sở để kiểm tra đánh giá trình độ nhận thức
của SV. Cách dạy học đó ngày nay vẫn được gọi bằng một từ quen thuộc là
“độc thoại” …vấn đề đổi mới PPDH cần phải được đặt ra một cách quyết liệt
hơn, coi đây là vấn đề cấp bách nhằm nâng cao chất lượng đào tạo”. [45]
Cũng không ít cơ sở đào tạo và cán bộ giảng dạy chú ý tìm kiếm, cải tiến
PPDH, nhưng mỗi người dạy theo một phương pháp khác nhau, theo sáng tạo
riêng của mình. Tuy nhiên, đa số cách làm của họ là tự phát, thường dựa vào
kinh nghiệm, không xuất phát từ mục tiêu đào tạo, không có cơ sở kiến thức
về các quy luật và nguyên tắc của LLDH, đã làm quá trình dạy học trở nên
nghèo nàn, giảm ý nghĩa giáo dục và hiệu quả bài giảng. Đây chính là một
trong các nguyên nhân của hạn chế chất lượng giáo dục ĐH của nước ta.
Cũng ở Hội nghị trên, PGS. TS Lê Hồng Sơn đã nói: “Một nguyên nhân
cơ bản tạo nên những yếu kém và chất lượng thấp của giáo dục nước ta là
PPDH còn quá lạc hậu. Đa số GV sử dụng phương pháp giảng bài truyền
thống theo kiểu thông báo đồng loạt, chỉ chú trọng tới việc thông tin đầy đủ
những nội dung cần truyền đạt trong chương trình, SGK, cố gắng làm cho SV
hiểu và nhớ bài giảng trên lớp, do vậy đã đặt người học vào trong thói quen
thụ động, lắng nghe, ghi chép bài giảng và học thuộc lòng, ít có cơ hội động
não” [45].
Những ý kiến trên cho thấy thực trạng nền giáo dục đại học Việt Nam,
trong đó sự lạc hậu về PPDH đang là vấn đề rất thời sự, cần nghiên cứu, thay
đổi mạnh mẽ. Đó cũng là nhiệm vụ đặt ra cho mỗi nhà nghiên cứu giáo dục,
nhà giáo trong giai đoạn hiện nay.
1.2. QUÁ TRÌNH DẠY HỌC Ở ĐẠI HỌC
Dạy học bao gồm hai hoạt động: hoạt động dạy và hoạt động học. Hai
hoạt động này luôn gắn bó mật thiết với nhau, nguyên nhân tồn tại của nhau.
Việc đổi mới giáo dục, hay cụ thể hơn, đổi mới PPDH cần phải bắt nguồn từ
những cơ sở lí luận. Vì vậy trong phần này, chúng tôi muốn trình bày những
vấn đề lí luận có liên quan tiếp đến nội dung đề tài nghiên cứu và lấy đó làm
cơ sở lí luận cho công việc của mình.
1.2.1. Các yếu tố hợp thành QTDH
Theo Lê Phước Lộc và nhiều tác giả, QTDH được tạo ra và bị chi phối
bởi nhiều yếu tố (còn gọi là thành tố) từ trong môi trường, xã hội, con người
và ngay cả từ chính quá trình ấy. Cho nên một điều hiển nhiên là, muốn thay
đổi giáo dục, nhất thiết phải nghiên cứu để thay đổi một cách hợp lí các thành
tố đó. Có bảy thành tố cơ bản: Dạy - Học - Mục đích dạy học - Nội dung dạy
học – PPDH – Đánh giá kết quả và môi trường dạy học. Mối liên hệ giữa các
thành tố được biểu diễn ở sơ đồ hình 1.1.
Hình 1.1: Mối liên hệ giữa các thành tố cơ bản của QTDH [17]
Có thể tóm lược vai trò và mối quan hệ của các thành tố trong QTDH
như sau:
- Dạy - Học: Đây là hai thành tố trung tâm, không có chúng thì không
có QTDH. Hai thành tố này luôn tác động biện chứng và thống nhất. “Chủ
nhân” của hai thành tố này là con người (Thầy – Trò). Con người nói chung, ý
thức, thái độ con người nói riêng, luôn phát triển dưới sự tác động của từng
bước tiến của xã hội. Ngược lại, xã hội phát triển do có động lực là con người.
Điều đó có nghĩa rằng hai thành tố Dạy và Học và mối quan hệ giữa chúng
phải luôn thay đổi thì mới phù hợp với những yêu cầu tất yếu của xã hội. Một
thay đổi căn bản của hai thành tố này là, thay vì trước kia, Học là đối tượng
của Dạy thì bây giờ chúng là hai chủ thể trong QTDH.
- Cụm thành tố Mục đích - Nội dung – Phương pháp có mối quan hệ biện
chứng nội tại riêng. Nếu trong toàn bộ QTDH thì cụm thành tố chứa phương
châm của mối quan hệ Dạy và Học, vừa là khách thể, vừa là cách làm của quá
trình để đạt kết quả tối ưu.
- Thành tố Đánh giá đóng vai trò xác định hiệu quả của các mối quan hệ
cùng sự vận động của năm thành tố trên. Tuy nhiên, trong QTDH hiện đại,
thành tố này còn có một vai trò nữa, đó là ảnh hưởng ngược và xác định chất
lượng của những thay đổi của các thành tố khác.
- Thành tố Môi trường được hiểu là môi trường xã hội, môi trường tự
nhiên và môi trường giáo dục. Toàn bộ QTGD xảy ra trong môi trường này.
Khi xã hội phát triển (qui luật tất yếu của lịch sử), quan hệ sản xuất phát triển,
ý thức con người thay đổi, do đó QTDH cũng phải thay đổi theo. Vì vậy, cần
nghiên cứu bản chất của QTDH để biết được: nếu muốn thay đổi QTDH thì
chúng ta phải làm những gì. Nhiều tác giả có nhiều cách biểu diễn QTDH
khác nhau. Chúng tôi nêu hai cách biểu diễn tiêu biểu hiện nay trong các giáo
trình LLDH nói chung.
1.2.2. Quan niệm QTDH theo tam giác DH và môi trường
Lưu Xuân Mới và Nguyễn Thị Bích Hạnh [9 và 19] nhìn các thành tố
dạy học theo một cách khác, tập trung nhiều hơn vào các thành tố trung tâm
của quá trình dạy học ở đại học. Theo đó, QTDH đại học là một hệ thống có
ba thành tố chủ đạo, đó là: kiến thức, dạy và học. Những thành tố này tương
tác với nhau theo một quy luật riêng, thâm nhập vào nhau, quy định lẫn nhau
trong sự tiến triển của dạy và học ở đại học để đạt chất lượng và hiệu quả dạy
học. Có thể biểu diễn sự vận động của quá trình dạy học này trong mối liên hệ
tam giác (vì thế nên có tác giả còn gọi là “Tam giác dạy học” (hình 1.2). Điều
này có nghĩa, không như sự suy nghĩ thông thường, rằng sự vận động ấy
không phải chỉ là tương tác “Thầy dạy – Trò học” như truyền thống mà còn
có một yếu tố ảnh hưởng rất quan trọng đến nó, đó là tri thức (hay nội dung
dạy học). Tương tác “thầy – Trò” ở đây được hiểu là “thông qua” nội dung
khoa học của môn học, nội dung là phương tiện để tương tác chứ không phải
là cái “đích” tuyệt đối của tương tác. Có thể dẫn ra một số tương tác cụ thể
như: GV hướng dẫn SV đọc tài liệu, SV học với nhau bằng tranh luận nội
dung học, GV có thể giảm thời gian giảng nội dung hoặc tăng cường thêm
kiến thức mới cập nhật hiện đại, tuỳ theo đối tượng SV cụ thể, SV có thể cùng
GV tranh luận hoặc cùng làm việc khoa học v.v… Cái đích cuối cùng phải đạt
được là người SV có đầy đủ bản lĩnh về tri thức, cách làm việc khoa học, ý
chí và bản lĩnh về tư duy. Vậy là trong tam giác dạy học này có ẩn chứa bên
trong các PPDH (cách làm việc giữa GV và SV, cách đánh giá quá trình dạy
học…). Tam giác dạy học còn ẩn chứa một điều thú vị nữa là, thông qua
QTDH này, không chỉ người học phát triển mà người dạy cũng phát triển.
Nếu không, người dạy sẽ không đủ bản lĩnh để “điều hành” sự vận động của
QTDH hiện đại.
GV SV
ND
Hình 1.2: Sơ đồ tam giác dạy học [8]
Tuy nhiên, sự vận động của tam giác dạy học muốn đạt hiệu quả cao, cần
kể đến môi trường chứa đựng nó. Đó là các yếu tố xã hội, gia đình, vật chất
phục vụ học tập, tập thể SV… Nếu trong một buổi dạy học thì “môi trường”
còn có nghĩa là không khí học tập. Không khí học tập có thể là điều kiện lớp
học, là tâm lí người dạy và người học, sự thoải mái về tinh thần, sự thông hiểu
giữa người học với nhau, giữa người dạy và người học, cùng quyết tâm hoàn
thành nhiệm vụ học tập. Vì thế tam giác học tập có hiệu quả phải được biểu
diễn trong một môi trường (hình 1.3).
GV SV
Hình 1.3: Sơ đồ biểu diễn tam giác dạy học 4 yếu tố
1.2.3. Quan niệm quá trình dạy học theo quá trình Xibecnetic
Hình 1.4: Sơ đồ xibecnetic cho quá trình dạy học [17]
Theo Lê Phước Lộc [17 - Lấy từ Nguyễn Ngọc Quang, có sửa đổi], quá
trình dạy học là một quá trình “mở”, quá trình điều khiển và tự điều chỉnh
(quá trình Xibecnetic)[17]. Các tác giả đã biểu diễn QTDH theo sơ đồ 1.4.
Quan niệm này thể hiện rõ hơn vai trò của người dạy và người học trong việc
tổ chức quá trình dạy và quá trình học: đó là việc xuất hiện các mối liên hệ D
PP
D
H
ND KT
Mục đích dạy học
Kết quả
ND MT
(người dạy) – H (người học), H – H thông qua nội dung học (ND), phương
pháp dạy, phương pháp học và kiểm tra – đánh giá (KT).
Vai trò của Thầy (D) là chỉ đạo, thầy chủ động lựa chọn nội dung,
PPDH để tổ chức QTDH phù hợp với đối tượng là người học (H). Đây là các
mối liên hệ thuận (thể hiện bởi các đường liền nét). Xảy ra đồng thời với các
mối liên hệ thuận là, kết quả những bài kiểm tra, đánh giá (KT), những sự
theo dõi quá trình học của trò trong và ngoài lớp, những trao đổi nội dung và
phương pháp học giữa thầy với trò…tạo nên luồng thông tin phản hồi từ trò
đến thầy, thầy lại điều chỉnh phương pháp, nội dung sao cho phù hợp. Tức là
thầy tiếp nhận các thông tin ngược từ phía người học (gọi là mối liên hệ
nghịch) để tự điều chỉnh các họat động dạy của mình (thể hiện bằng đường
không liền nét trên sơ đồ hình 1.4).
Đặc biệt trong sơ đồ Xibecnetic còn chứa đựng một mối liên hệ nghịch và
do đó có sự tự điều chỉnh vô cùng quan trọng, các tác giả gọi đó là sự tự chỉ
đạo ở người học (H). Sự tự chỉ đạo này là một phát hiện mới của các nhà
LLDH hiện đại. Cũng chính vì thế mà người học không còn bị coi là “đối
tượng” của dạy mà là một chủ thể trong QTDH. Các PPDH tích cực chính là
phương thức để phát huy tính tự lực, tích cực và chủ động của người học
thông qua sự tự điều chỉnh này.
Từ những phân tích trên, Nguyễn Ngọc Quang đã định nghĩa QTDH như
sau: Quá trình dạy học là sự phối hợp thống nhất giữa các hoạt động chỉ đạo
của thầy với các hoạt động lĩnh hội tự giác, tích cực, tự lực, sáng tạo của trò
nhằm đạt mục đích dạy học.
1.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
1.3.1. Khái niệm về “tích cực”
1/ Tính tích cực học tập
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã
hội. Đó là sự hăng hái, nhiệt tình trong công việc, luôn mong muốn đẩy nhanh
tiến độ để hoàn thành công việc một cách khoa học, luôn không thoả mãn với
những kết quả đã đạt được, muốn tìm con đường đi hiệu quả hơn cho công
việc… Dấu hiệu bên trong của tính tích cực là sự xác định mục đích và động
cơ của hoạt động, sự kiên trì làm việc, sự tin tưởng ở bản thân… nó không
giống như sự bồng bột, thái quá. Tính tích cực có thể được rèn luyện thông
qua hoàn cảnh, môi trường, nhất là môi trường học tập. Tính tích cực hoạt
động cũng có thể mất dần nếu không có các yếu tố bên trong của chủ thể, sự
tự rèn luyện trong công việc. Động cơ hoạt động đúng đắn là tiền đề để rèn
luyện tính tích cực hoạt động. Có thể xem tính tích cực như là một điều kiện,
đồng thời là kết quả của sự phát triển nhân cách trong quá trình giáo dục.
Tính tích cực học tập hay tính tích cực nhận thức đặc trưng ở khát
vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri
thức. Theo G.I. Sukina (1979)[7], tính tích cực hoạt động trong học tập biểu
hiện ở những dấu hiệu bên ngoài như: hăng hái trả lời các câu hỏi của GV, bổ
sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước những vấn
đề nêu ra, nêu những thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẻ những vấn đề chưa
rõ, chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng để nhận thức vấn đề mới, tập trung
chú ý vào vấn đề đang học, kiên trì hoàn thành nhiệm vụ học tập được giao,
không nản lòng trước những tình huống khó khăn,… Nếu đưa các tiêu chí này
vào QTDH ở các trường học của chúng ta thì khó có thể nói người học đã thật
sự tích cực hoặc nếu có cũng không phải là số đông người học. Tuy nhiên,
tính tích cực mạnh hay yếu có thể được phân cấp để có thể thấy HS - SV của
chúng ta đang “ở đâu” và còn cần làm gì để có những con người tích cực cho
vị trí công tác của họ sau này.
2/ Ba cấp độ của tính tích cực học tập
Tính tích cực được phân chia thành ba cấp độ:
a) Tích cực làm theo lệnh và theo mẫu: Đây là mức độ thấp nhất của
những người làm việc tích cực. Rõ ràng con người mà chúng ta cần trước tiên
phải là những người tự biết làm tròn trách nhiệm của mình. Họ có thể hi sinh
thời gian, sức lực, thậm chí cả vật chất để hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên,
trước những nhiệm vụ mới, chưa có “con đường đi” vạch sẵn thì họ lại bế tắc.
Cũng có thể họ thấy được con đường đi cho công việc nhưng họ không dám
làm, sợ trách nhiệm. Có thể nói, người học của chúng ta hiện nay, nếu loại trừ
những người không tích cực thì đa số thuộc loại này. Họ có thể hi sinh thời
gian nhiều, thức đêm để hoàn thành các nhiệm vụ học tập được giao. Học sinh
khá giỏi có thể hoàn thành các bài tập khó song hầu hết là những bài tập
tương tự bài mẫu, áp dụng công thức thông thường.
b/ Tích cực mang tính tìm tòi: Ở mức độ này chúng ta thấy, con người
không những hoàn thành nhiệm vụ được giao mà đôi khi còn tìm cách vượt
qua khó khăn tìm kiếm các con đường đi khác với những gì đã được học hoặc
được biết trong tài liệu, họ có thể trao đổi với đồng môn, đồng nghiệp để giải
quyết công việc. Đối với người học, có thể coi đó là sự tự nghiên cứu, tham
khảo tài liệu, tìm hiểu cuộc sống thực tại, trao đổi, tranh luận cùng bạn học để
giải quyết mọi vấn đề mới trong bài học, giải được những bài tập khó,… Một
bộ phận HS, SV của chúng ta đang có mức độ tích cực này và chúng ta đang
cố gắng làm thế nào để con số này tăng lên, chiếm ưu thế tuyệt đối trong họ.
Song, muốn đưa người học của chúng ta từ sự tích cực ở mức độ một sang
mức độ hai là vấn đề không đơn giản. Nó phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó
yếu tố người dạy và người học là cơ bản. Người dạy phải thay đổi cách dạy,
cách suy nghĩ về việc tổ chức dạy học, người học phải thay đổi cách học, xác
định đúng động cơ học tập, không ỷ lại, tăng cường tính tự lực trong việc
hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.
c/ Tích cực mang tính sáng tạo: Đây là một phẩm chất đặc biệt của
những người tích cực và là sự tất yếu dẫn đến từ sự tích cực tìm tòi, khám phá
(mức độ hai). Không nên quan trọng hoá sự sáng tạo trong học tập của người
học. Một phương pháp mới để giải một bài tập (dù là không khó), sự tìm ra
cách học mới có hiệu quả cho mình, thiết kế một thí nghiệm kiểm tra một hiện
tượng, một qui luật (dù là đơn giản), thường xuyên đề xuất ý tưởng cho công
việc v.v… cũng có thể coi là những sáng tạo của người học.
1.3.2. Phương pháp dạy học tích cực:
Phương pháp tích cực là một thuật ngữ rút gọn dùng để chỉ những
phương pháp giáo dục, PPDH theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học, nghĩa là người học được tự do suy nghĩ, được hoạt
động nhiều tới mức cho phép, cả trong và ngoài lớp học, dưới sự chỉ đạo của
người dạy. Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp DH tích cực là:
1/ Các dấu hiệu bên ngoài:
Người học được hoạt động nhiều trong quá trình học (trên lớp và ở
nhà). Các hoạt động đó có thể là:
- Phát biểu, thảo luận, tham gia làm thí nghiệm biểu diễn.
- Hay hỏi, trao đổi với GV các vấn đề học tập
- Trao đổi trong nhóm nhiệt tình, có nhiều đề xuất, khám phá
- Thích trình bày báo cáo
- Dành thời gian tìm kiếm tài liệu ở thư viện, phòng máy.
- Thiết kế, làm thí nghiệm ở nhà,…
2/ Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp làm việc khoa học:
QTDH hiện đại quan niệm “tri thức” gồm có hai loại: tri thức khái niệm và
tri thức kĩ năng. Kĩ năng ở đây là cách làm việc, suy nghĩ khoa học, kĩ năng
thao tác các hoạt động tư duy, kĩ năng tìm tòi, giải quyết vấn đề… Sự thuần
thục các kĩ năng này không những là đích tới của QTDH mà còn là khơi dậy
tiềm năng, nội lực vốn có của mỗi người, là cơ sở cho lòng say mê học tập.
3/ Tăng cường học tập cá nhân, phối hợp với học tập hợp tác:
Lớp học trở thành môi trường giao tiếp giữa GV-SV, SV-SV, tạo nên mối
quan hệ hợp tác giữa các cá nhân, tự chiếm lĩnh tri thức là chính. Thông qua
thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến của mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng
định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới trên vốn
kiến thức nền hiện có.
4/ Kết hợp đánh giá của thầy với sự tự đánh giá của trò:
GV hướng dẫn SV phát triển kỹ năng tự đánh giá và tham gia đánh giá
lẫn nhau để điều chỉnh cách học (phá vỡ sự độc quyền đánh giá của GV).
1.4. KHÁI QUÁT MỘT SỐ PPDH TÍCH CỰC VÀ SỰ VẬN DỤNG
Trước khi đi vào PPDH mà chúng tôi sử dụng chủ yếu cho đề tài này,
chúng tôi giới thiệu khái quát một số PPDH tích cực đã và đang được sử dụng
trong nhà trường nói chung, ở ĐH nói riêng.
1.4.1. PPDH đàm thoại gợi mở (gọi tắt là phương pháp đàm thoại)
Phương pháp đàm thoại là phương pháp dạy học mà GV đặt ra hệ thống
câu hỏi có liên quan đến kiến thức bài học, còn SV lần lượt trả lời và trao đổi
trực tiếp với thầy. SV không tiếp thu bài một cách thụ động, mà ở mức độ
nhất định, họ phát huy được tính tích cực, sáng tạo trong việc xây dựng kiến
thức mới. Hệ thống câu hỏi có vai trò chủ đạo, quyết định sự thành công của
PPDH này. Phương pháp đàm thoại gợi mở sẽ đặt SV vào vị trí người leo núi,
họ có thể leo tới đỉnh không phải bằng những bậc thang lót sẵn mà bằng
những chỉ dẫn dọc đường, mỗi chỉ dẫn là một đòi hỏi khám phá nho nhỏ để đi
đến đích. Tuy nhiên cũng cần phân biệt PPDH đàm thoại gợi mở với cách dạy
học mà câu hỏi của GV chỉ làm cho lớp học sinh động, để nhắc nhở HS, thậm
chí để “gỡ rối” từng vấn đề riêng biệt, thiếu mục đích mang tính PP.
PP đàm thoại có nhiều tác dụng, như: kích thích cả lớp tham gia vào bài
giảng, rèn luyện kĩ năng đọc hiểu, kĩ năng nói cũng như kĩ năng hệ thống hoá
vấn đề học tập.
1.4.2. Phương pháp dạy học nêu vấn đề (DHNVD)
DHNVĐ là kiểu dạy học mà trong đó vấn đề được xuất hiện bằng việc
xây dựng tình huống có vấn đề và tổ chức cho trò đề xuất giả thuyết, kiểm tra
giả thuyết và vận dụng kết quả. Ba giai đoạn chính yếu của DHNVĐ là:
- Xây dựng tình huống có vấn đề (GV dẫn dắt làm xuất hiện tình huống
có vấn đề).
- Giải quyết tình huống (mở đầu bằng việc đề xuất giả thuyết).
- Vận dụng vấn đề
Theo Lê Phước Lộc [16], có ba đặc trưng để xác định đó là DHNVĐ:
1/ Một tình huống được dưa ra phải là tình huống có vấn đề với SV
Đây là đặc trưng quan trọng hàng đầu, nó quyết định cho bản chất của
PPDH và chỉ như vậy thì mới có một loạt các bước đi tiếp theo. Để có được
đặc trưng này, cần các điều kiện sau:
- “Vấn đề” phải liên quan chặt chẽ với nội dung bài học. Nếu là một
vấn đề có liên quan tới thực tế cuộc sống, khoa học kĩ thuật mà HS thường
được tiếp xúc thì càng tốt.
- “Vấn đề” phải hấp dẫn, làm ngạc nhiên, khó tin cho người học.
- Mâu thuẫn nhận thức chứa trong “Vấn đề” phải vừa sức với tư duy
của người học để họ có khả năng đề xuất giả thuyết và vạch kế hoạch giải
quyết mâu thẫn ấy.
- Nghệ thuật xây dựng tình huống có vấn đề của GV cũng là điều kiện
cần cho DHNVĐ.
Có thể nói rằng tình huống có vấn đề là “trái tim” của DHNVĐ.
2/ Các giả thuyết để giải quyết mâu thuẫn phải xuất phát từ người học:
Đây cũng có thể xem là hệ quả của đặc trưng thứ nhất. Nếu tình huống
hay, kích thích hứng thú mạnh mẽ nhưng người học không thể đưa ra được
giả thuyết hoặc ngược lại, tình huống xuất hiện, người học biết ngay có một
giả thuyết duy nhất đúng.
3/ Thái độ của người học:
Người học hứng thú tham gia giải quyết vấn đề, thể hiện ở sự tích cực
thảo luận, phân tích sự kiện, làm thí nghiệm, chứng minh bằng toán học…
PP DHNVĐ có tác dụng mạnh mẽ trong việc phát triển tư duy người
học. Các tình huống được đưa ra tạo khả năng đề xuất giả thuyết, đây là một
hoạt động tư duy cấp cao. Việc giải quyết vấn đề cũng rèn luyện cho người
học kĩ năng lập luận logic, kĩ năng làm thí nghiệm, kĩ năng trình bày…
1.4.3. Phương pháp dạy học hợp tác
Có nhiều quan niệm về PPDH hợp tác. Nó phụ thuộc vào việc quan
niệm về nội dung của từ “hợp tác”: hợp tác SV – SV trong và ngoàì giờ học,
hợp tác giữa GV với chuyên gia ngoài trường, hợp tác giữa các SV khác lớp,
khác năm, thậm chí khác ngành thực hiện chung một đề tài nghiên cứu nào
đó. PPDH hợp tác mà chúng tôi nói ở đây là hợp tác giữa SV – SV trong giờ
học dưới sự tổ chức của GV. Cốt lõi của PPDH này là việc trao đổi nhóm
trong và ngoài giờ học các vấn đề học tập mà GV giao. Các nhóm được thành
lập có thể duy trì suốt buổi học, có thể thành lập tạm thời để giải quyết một
nhiệm vụ xen kẽ bài giảng.
Để thực hiện PPDH hợp tác cần có các điều kiện sau:
- Hoạt động chỉ đạo học hợp tác của GV là có chuẩn bị trước, có ý đồ về
LLDH (cả về nhiệm vụ trao đổi nhóm lẫn việc chia nhóm)
- SV phải ý thức được mình là một thành phần của nhóm, bình đẳng
nhau về mọi phương diện, tất cả đều phấn đấu vì mục đích chung hoặc giải
quyết nhiệm vụ chung.
- SV phải nhận rõ sự thành công hay thất bại của nhóm là phụ thuộc vào
mỗi thành viên.
- SV biết tự đánh giá mình, có khả năng và có trách nhiệm trong việc
đánh giá các hoạt động chung của nhóm
PPDH hợp tác rèn luyện tính năng động trong học tập, tinh thần trách
nhiệm thông qua sự đóng góp của mỗi thành viên trong nhóm, làm quen với
các kĩ năng giao tiếp, tạo ra được mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa các
thành viên.
1.4.4. PPDH khám phá
Khám phá trong học tập tức là sự tự nghiên cứu tìm ra được một kết
quả đúng nào đó mà trước đó người học chưa biết. Muốn khám phá, người
học cần tích cực tìm tòi, phân tích, so sánh, sử dụng tốt các con đường tư duy
(qui nạp, diễn dịch, loại trừ..). Theo Lê Phước Lộc [17], PPDH khám phá
được hiểu thông qua hai đặc trưng:
- Trước hết là cần nhìn nhận từ “khám phá” được sử dụng trong PPDH
này (thông qua các nhiệm vụ học tập – hay còn gọi là nhiệm vụ khám phá).
Mục tiêu của PPDH khám phá là rèn luyện cho HS sự nhanh, nhạy của tư
duy. Sự khám phá vẫn theo nguyên tắc là “giải quyết mâu thuẫn nhận thức”
song vấn đề là ở chỗ các mâu thuẫn đưa ra bởi GV một cách nhẹ nhàng, vừa
sức (ở mức độ cao) đề người học có thể nhanh chóng tiếp nhận, giải quyết
trong một thời gian ngắn (vài ba phút). Vì vậy việc tìm kiếm “vấn đề”, cấu
trúc thành nhiệm vụ, cũng như các hình thức giao nhiệm vụ khám phá là mấu
chốt thành công của PPDH khám phá. Các hình thức giao nhiệm vụ cần được
thay đổi (phát biểu bằng lời, phát giấy, chiếu hình, xem một clip…) sao cho
nhanh chóng thu hút được người học vào vấn đề.
- Thứ hai là cách tổ chức dạy học: Nhiệm vụ khám phá được giao cho
người học xen kẽ trong bài học (phù hợp nội dung) và được qui định thời gian
rõ ràng. Người học có thể giải quyết nhiệm vụ độc lập hoặc theo nhóm. Việc
quản lí thời gian khám phá một “vấn đề” cần chặt chẽ. Dạy học khám phá có
thể là một PPDH nào đó bất kì, miễn là GV biết kết hợp các nhiệm vụ khám
phá vào bài học một cách hợp lí và hài hoà.
PPDH khám phá rèn luyện tư duy nhanh, nhạy, các kĩ năng làm việc tập
thể có hiệu quả đồng thời tăng thêm sự hứng thú học tập của SV.
1.4.5. Phương pháp Seminar
Seminar là hình thức SV trình bày, thảo luận, tranh luận về một chủ đề
nào đó dưới sự điều khiển của GV. SV hoặc nhóm SV nhận một nhiệm vụ
học tập nào đó để thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định (tổng hợp
vấn đề từ nhiều tài liệu, một đề tài nghiên cứu nhỏ, đọc hiểu một chương
trong giáo trình…) để báo cáo và thảo luận trước một tập thể dưới sự điều
khiển của GV.
Hiện nay PPDH Seminar được nhiều GV ở các trường ĐH sử dụng,
nhất là từ khi các trường bắt đầu đào tạo theo học chế tín chỉ. SV học theo
Seminar sẽ được tăng cường tính năng động, tích cực và tự lực cũng như các
hoạt động: nói, thảo luận, phân tích lỗi, tranh luận bảo vệ quan điểm cũng
như thái độ đúng đắn trong đấu tranh khoa học.
1.5. PPDH THEO VẤN ĐỀ (PBL)
Trong các PPDH tích cực ở bậc đại học theo hướng lấy người học làm
trung tâm, PBL đang được các trường ĐH ở nhiều nước quan tâm nghiên cứu
và ứng dụng. PPDH này bước đầu được ứng dụng ở một số trường ĐH nước
ta từ những năm cuối thế kỉ XX.
1.5.1. Bản chất của PPDH theo vấn đề
PPDH PBL (để ngắn gọn, sau này chúng tôi gọi là PBL) lần đầu tiên
được đưa vào sử dụng ở một trường đại học Y khoa ở Canada vào đầu những
năm 1970. PBL được Howard Barrows đề nghị và được sử dụng tại trường
Đại học Y khoa McMaster, Canada. Kể từ đó, phương pháp này đã được phổ
biến rộng rãi khắp nơi trên thế giới với tư cách là một PPDH kích thích người
học tự tìm tòi, nghiên cứu để giải quyết tình huống do học viên đặt ra. Qua
nhiều thập niên, PBL đã tỏ ra rất có tác dụng đối với dạy học ở bậc ĐH.
PBL được khởi đầu bằng một nhiệm vụ học tập bao chứa một nội dung
trọn vẹn trong giáo trình (có thể gọi là “vấn đề”). “Vấn đề” có thể là một nghi
vấn, một hiện tượng xuất phát từ thực tế hay một trò chơi ô chữ mà người học
phải giải (Boud, 1985, tr.13) [1]. Điều này có nghĩa là, người học sẽ được
định hướng bằng những “vấn đề”, truy tìm các thông tin trong nhiều tài liệu
và tổng hợp lại để có một đơn vị kiến thức trọng vẹn. Nhờ đó người học sẽ
hình thành thói quen tiếp cận công việc bằng những tình huống, phát triển
được các kỹ năng tự học, năng lực tư duy và những tính cách khác của người
làm công tác nghiên cứu. Ngoài ra, trong khi người học chưa có động cơ giải
quyết nhiệm vụ học tập, các “vấn đề” đặt ra trong quá trình học tập (khi sử
dụng PBL) trước hết cần phải hấp dẫn, thu hút người học, kích thích họ lao
vào công việc. Cũng cần nói thêm, “vấn đề” trong PBL khác với “vấn đề”
trong dạy học khám phá. Trong PBL, một “vấn đề” hàm chứa một nội dung
lớn (chúng tôi gọi là một đơn vị kiến thức trọn vẹn) mà muốn giải quyết nó
cần nhiều tài liệu tham khảo, nhiều thời gian, đôi khi cần nhiều người cùng
hợp tác làm việc. Ví dụ, một trong những “vấn đề” chúng tôi giao cho SV giải
quyết trong đợt TNSP là “Nhật thực và nguyệt thực”. Kết thúc nhiệm vụ, SV
có thể trình bày trọn vẹn kiến thức về hai sự kiện này cũng như những vấn đề
xung quanh nội dung ấy. Trong khi đó, nếu GV dạy bài về nhật thực và
nguyệt thực, xen kẽ vào bài giảng có thể có những “vấn đề” để SV khám phá
nhanh, như: tự tìm cách tính số lần nguyệt thực, hoặc ý nghĩa của số lẻ (0,3)
trong chu kì nhật nguyệt thực (18 năm và 11,3 ngày).
Một số đặc trưng để nhận biết PPDH PBL:
- Mở đầu cho PBL là một “vấn đề” mà sau khi giải quyết nó, SV sẽ thu
lượm được một đơn vị kiến thức mới hoàn chỉnh.
- Một “vấn đề” được đưa ra chính là sự định hướng nghiên cứu cho
người học. Theo đó, SV chủ động, tự lực tìm kiếm thông tin, phân tích, đối
chiếu, tổng hợp và hệ thống hoá thông tin trở thành tri thức của mình.
- Sự chỉ đạo của GV đối với người học thông qua tên của “vấn đề” (gọi
là tiêu đề) mang tính định hướng (chỉ ra những điều cần được lý giải), thông
qua những trợ giúp (chỉ ra nguồn thông tin, giải đáp thắc mắc,…), đánh giá
(kiểm tra các giả thuyết và kết luận của SV), hệ thống hóa kiến thức, khái
quát hóa thành các kết luận.
- Làm việc nhóm là hoạt động chính để giải quyết vấn đề. Song các hoạt
động riêng lẻ của mỗi SV cũng có lúc, có nơi rất cần thiết, nhất là việc có
được các thông tin về tài liệu trước khi làm việc theo nhóm. Thông qua làm
việc nhóm, SV chia sẻ nguồn thông tin và cùng nhau hình thành các giả
thuyết giúp giải quyết vấn đề, kiểm tra giả thuyết và đi đến kết luận. Nhờ hoạt
động nhóm, SV được rèn luyện thêm các kỹ năng hợp tác (tác phong làm
việc, giao tiếp hoặc sử dụng ngôn ngữ để tranh luận, phân tích,…)
- Đánh giá SV dựa trên hành động của cá nhân hoặc nhóm trong suốt
quá trình giải quyết vấn đề và kết quả đạt được thông qua báo cáo (viết hoặc
nói).
Rõ ràng, việc SV tự tìm kiếm kiến thức, giải quyết nhiệm vụ học tập,
xây dựng một hệ thống lời giải là trung tâm của hoạt động dạy và học đối với
PBL. Có thể nói rằng cách dạy và học như vậy (SV tự giải quyết một bài toán
thực tế rồi mới xây dựng hệ thống lí thuyết) sẽ đảo lộn thứ tự của dạy học
truyền thống mà ở đó thông tin được GV trình bày theo một trình tự nhất
định, từ thấp đến cao, từ lí thuyết đến thực tế. SV sẽ chỉ được tiếp cận với một
vấn đề cần được lý giải (nếu có) một khi họ đã được trang bị đầy đủ những
kiến thức cần thiết. Trong PBL, SV được tiếp cận với “vấn đề” ngay ở giai
đoạn đầu của một đơn vị bài giảng, đó có thể là một hiện tượng tự nhiên hoặc
là một sự kiện/tình huống đã, đang hoặc có thể sẽ diễn ra trong thực tế và
chứa đựng những điều cần được lý giải [42].
Từ những trình bày trên, có thể thấy được bản chất của PBL, đó là một
PPDH mà trong đó người học phải tự tìm kiếm tri thức mới cho mình dưới dự
hướng dẫn của người dạy (đưa ra “vấn đề học tập” và những hỗ trợ cần
thiết), nó khai thác tối đa tính tự giác, tích cực, từ lực của mỗi cá nhân cũng
như nhóm học tập trong các hoạt động học để hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Cũng có thể thấy rằng, chất lượng của PBL phụ thuộc vào hai yếu tố: sự
hấp dẫn của “vấn đề” học tập và sự nổ lực của người học. Yếu tố đầu có ảnh
hưởng rất lớn đề yếu tố sau. Những “vấn đề” học tập như vậy, chúng tôi gọi là
những “vấn đề” tốt.
1.5.2. Đặc điểm của một “vấn đề” tốt
Trung tâm của PBL là “vấn đề” học tập được biểu hiện dưới những tiêu
đề hấp dẫn đối với người học. Cho nên, đối với GV, điều quan trọng nhất khi
sử dụng PBL là cần có những “vấn đề” tốt. Theo B. Dutch (2000), một “vấn
đề” trong PBL được cho là tốt khi nó có những đặc điểm sau đây:
- Tính mục đích: Các tiêu đề của “vấn đề” được viết rõ ràng, người học
tiếp cận nó sẽ biết ngay kiến thức đạt được là cái gì. Đối nghịch với điều này
là một tiêu đề mơ hồ, không tạo cho SV thấy được điểm tới cuối cùng.
- Tính hiệu quả: “Vấn đề” phải gây được cho SV niềm tin giải quyết
được. Tính hiệu quả còn thể hiện ở chỗ nó chứa đựng bên trong nhiều hoạt
động để sau khi có được tri thức mới, SV có thêm những kĩ năng mới hoặc
củng cố được những kĩ năng đã có của mình.
- Tính thực tế: “Vấn đề” cần chứa đựng lợi ích của kiến thức mới đối
với bản thân người học.
- Tính hợp tác: Khối lượng và độ phức tạp của vấn đề cần đạt đến mức
sao cho SV thấy rằng sự “hợp tác” với bạn là điều kiện để hoàn thành nhiệm
vụ học tập nhanh và có chất lượng.
- Tính “tranh luận”: Các nhiệm vụ chính hay các câu hỏi định hướng
của vấn đề đặt ra nên có ít nhất một trong các đặc điểm sau đây nhằm làm cho
mọi SV trong nhóm đều có thể tham gia thảo luận:
- Câu hỏi có tính mở, không giới hạn về một đáp án nhất định nào.
- Có liên quan hoặc có thể liên tưởng tới các kiến thức và kinh nghiệm
đã học hoặc đã có sẵn trước đó.
- Các vấn đề có thể gợi ra nhiều ý kiến trái ngược nhau.
Chiến lược này giữ SV hoạt động theo nhóm, sử dụng kiến thức và ý
tưởng lẫn nhau hơn là khuyến khích họ làm việc một cách cá nhân ngay từ khi
bắt đầu tiếp cận “vấn đề”.
Nếu xem quá trình nhận thức tri thức mới của SV theo PBL là “đi theo”
chu trình nhận thức của Razumopxki (hình 1.5) thì một “vấn đề” tốt phải rèn
luyện dần tư duy trực giác cho SV ở giai đoạn từ “sự kiện” đến “mô hình” và
những suy luận logic tìm ra tri thức cần học. (Thông thường, các nhiệm vụ
học tập trong PBL chưa yêu cầu SV thiết kế thí nghiệm kiểm tra, nếu có thì
đây lại là một “vấn đề” mới rèn luyện tư duy trực giác từ “hệ quả” đến “TN
kiểm tra”). Trên con đường nhận thức này, lại một lần nữa xác định vai trò chỉ
đạo của GV là không thể thiếu, đôi khi là vô cùng quan trọng để SV vừa giải
quyết được vấn đề vừa xây dựng cho mình một tác phong làm việc khoa học.
Mô hình Hệ quả
Mô hình Hệ quả
Hình 1.5: Chu trình sáng tạo theo Razumopxki
1.5.3. Qui trình thực hiện PBL
1/ Giới thiệu qui trình
Quy trình tổ chức dạy học theo PBL có thể tóm tắt dưới dạng sơ đồ
hình 1.6. Quy trình tổ chức dạy học PBL có thể chia thành ba giai đoạn chính:
Giao nhiệm nhiệm, giải quyết nhiệm vụ và hoàn tất.
- Giai đoạn 1: Giao nhiệm vụ
Ở giai đoạn này, GV có những hỗ trợ ban đầu để SV tiếp nhận vấn đề
thuận lợi, làm cơ sở cho việc tiến hành giải quyết vấn đề. Các công việc chính
của GV trong giai đoạn này: Làm rõ vấn đề (xác định mục đích, làm rõ các
thuật ngữ); hướng dẫn công việc (chỉ ra các nguồn tài liệu, kế hoạch làm
việc); tổ chức nhóm (phân chia nhóm, cách làm việc nhóm, cách liên hệ GV).
- Giai đoạn 2: Giải quyết nhiệm vụ
Khi đã hiểu rõ các nhiệm vụ học tập, SV bắt đầu các hoạt động giải
quyết vấn đề. Trong giai đoạn này, hoạt động nhóm và làm việc cá nhân luôn
luân phiên nhau. Mỗi SV đều phải thực hiện theo sự phân công, tiến độ chung
của nhóm. Sau đó nhóm họp để chia sẻ, thống nhất các quan điểm và cứ đan
xen nhau đến khi hoàn thành nhiệm vụ, thống nhất lời giải cho vấn đề. Khi đã
có lời giải chung, nhóm phân công và thông qua báo cáo trước nhóm.
TN kiểm tra sự kiện
sự kiện TN kiểm tra
logic
Trực giácTrực giác
- Giai đoạn 3: Hoàn tất
Các nhóm báo cáo kết quả của mình hoặc trưng bày sản phẩm trước tập
thể lớp. Việc đánh giả kết quả thuộc về GV và SV. Cuối cùng GV hệ thống và
làm rõ các kiến thức mới trong những vấn đề học tập của SV
Làm rõ vấn đề học tập
(GV - Lớp: thảo luận)
- Xác định mục đích
- Làm rõ các khái niệm
Hướng dẫn công việc
GIAO NHIỆM VỤ (GV)
(VẤN ĐỀ ) - Tài liệu và địa chỉ
- Định kế hoạch thời gian
Tổ chức nhóm
(GV - Lớp)
- Hướng dẫn làm việc nhóm
- Cách thức liên hệ với GV
Làm việc nhóm
- Giả thuyết – Ý tưởng giải
quyết giả thuyết được chọn
- Phân công trách nhiệm,
thời hạn cho cuộc họp
nhóm tiếp theo…
Làm việc cá nhân
GIẢI QUYẾT - Tìm, đọc tài lệu
NHIỆM VỤ - Tổng hợp vấn đề cho
cuộc họp nhóm tiếp theo
Nhóm hoàn thành nhiệm vụ
- Phân công viết báo cáo
- Nhóm thông qua báo cáo
Đánh giá
- Nhóm báo cáo, GVvà SV ĐG
HOÀN TẤT - GV đọc các báo cáo, ĐG
(GV – LỚP , SV)
Hệ thống hoá kiến thức
- GV hệ thống và làm rõ kiến
thức mới
- SV tham gia bổ sung, hỏi
Hình 1.6: Quy trình dạy học PBL
2/ Sinh viên tiếp cận được “vần đề” – Chìa khoá thành công của PBL
Nhiệm vụ học tập cần được SV tiếp nhận một cách tự giác thì các hoạt
động để giải quyết vấn đề mới tiến hành được thuận lợi và hứa hẹn đạt kết
quả tốt. Nghĩa là, SV phải hiểu mục đích của nhiệm vụ dưới hình thức một
câu “tiêu đề” mà GV giao cho và hình dung một cách khái quát con đường
mình sẽ đi. Song song với điều đó, “tiêu đề” phải gây được sự chú ý và hứng
thú mạnh mẽ để SV có động lực cho việc tìm kiếm. Những sự thắc mắc, mơ
hồ về vấn đề học tập SV cần phải trao đổi ngay với GV để có những hỗ trợ
kịp thời. Tất cả những điều này sẽ quyết định cho sự thành công của PBL.
3/ Vai trò chỉ đạo của GV và sự tự chỉ đạo của người học
PBL là PPDH thể hiện cụ thể nội dung sơ đồ xibecnetic (hình 1.4 - mục
1.2.3). Sự chỉ đạo của người dạy thể hiện ở việc cân nhắc lựa chọn “vấn đề”
học tập sao cho SV nhanh chóng tiếp cận nội dung học tập. Sự chỉ đạo ấy còn
thể hiện trong suốt quá trình SV làm việc (hướng dẫn, giải đáp, cập nhật
thông tin mới..) và cả khi đánh giá kết quả. Những chỉ đạo này không những
giúp SV hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập mà còn là cơ sở để GV tự điều chỉnh
cho lần dạy sau (sửa đổi “tiêu đề”, cập nhật tài liệu,…).
PBL cũng là PPDH mà trong đó tạo nhiều cơ hội để SV chủ động, tự chỉ
đạo mình (tự lĩnh hội “vấn đề”, tự bố trí kế hoạch cá nhân…) bởi vì trong quá
trình học này, ngoài sự hướng dẫn ban đầu, hầu hết thời gian SV phải làm
việc cá nhân, làm việc nhóm. Cũng tương tự, SV có cơ hội để tự điều chỉnh
mình sau mỗi lần trao đổi nhóm. Những sự trao đổi, đóng góp ý kiến của bạn
trong nhóm sẽ giúp SV nhìn thấy cái hay, cái chưa hay của bản thân để tiếp
tục làm việc trong sự tự điều chỉnh của mỗi các nhân.
1.5.4. Những thuân lợi và khó khăn khi thực hiện PBL
Như đã trình bày, ngày càng nhiều GV các trường ĐH vận dụng PBL
trong dạy học của mình bởi vì nó có những tính ưu việt nổi trội. Tuy nhiên,
thuận lợi và khó khăn của mỗi PPDH bao giờ cũng đi kèm nhau. Càng khắc
phục được nhiều khó khăn thì GV có dịp phát huy mạnh mẽ tính ưu việt của
PPDH. Ngược lại, những khó khăn không khắc phục được sẽ làm GV nản
lòng và nhanh chóng từ bỏ ý đồ thay đổi PPDH cho mình.
Những thuận lợi khi sử dụng PBL là:
- Phát huy cao độ tính tích cực, chủ động trong học tập của SV
Trong phương pháp PBL, SV chỉ có sự chỉ đạo ban đầu của GV là
chính, ngoài ra họ phải tự vận động để giải quyết vấn đề. Đề hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao đồng thời có được kiến thức mới phong phú, họ phải cố
gắng hết mình. Hơn nữa, ở tuổi trẻ luôn có tính ham hiểu biết, tò mò, thích tự
mình làm được một cái gì đó trong học tập, tâm lí đó (cộng với tiêu đề khá
hấp dẫn, một tình huống thật sự) đã kích thích các hoạt động nhận thức của
họ. Năng lực tư duy của SV một khi được khơi dậy, đặc biệt là tư duy trực
giác, sẽ giúp họ một phương pháp học tập mới.
- SV được rèn luyện các kỹ năng làm việc khoa học:
Áp lực hoàn thành bài học đúng thời hạn (do GV và nhóm yêu cầu), sự
tranh luận đúng sai, sự tiếp thu ý kiến đóng góp... sẽ tạo cho SV một thói
quen làm việc theo kế hoạch, tính kiên trì, không cố chấp, bảo thủ, biết trình
bày logic... Điều này rất cần cho người cán bộ khoa học trong tương lai.
- SV được rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm:
Khối lượng công việc nhiều, không đơn giản, SV buộc phải hoàn thành
theo thời hạn, cho nên họ không thể một mình giải quyết công việc. Hơn nữa,
ngay từ đầu, GV đã phân nhóm và yêu cầu nhóm tự làm việc (từ việc phân
công cho đến kế hoạch hoàn thành cá nhân). Thực ra, đây cũng là một tác
phong làm việc khoa học trong thời đại mới - sự hợp tác trong công việc.
- SV hiểu và ghi nhớ nội dung cơ bản của bài học tốt hơn: Do được
chủ động và tự lực tìm kiếm kiến thức để giải quyết vấn đề, SV không những
nắm bắt bài học một cách sâu sắc mà còn khắc sâu những gì những thành quả
mình tự làm ra. Đây cũng là một hiện tương tâm lí tất yếu của con người.
- Đối với GV: Nếu GV thực hiện nhiều bài dạy PBL, có được nhiều
“vấn đề tốt”, công việc sẽ đòi hỏi họ phải không ngừng vươn lên trong việc
nghiên cứu tài liệu chuyên môn, cập nhật kiến thức, nghiên cứu nhiều trong
thực tiễn. GV phải luôn đổi mới cách ra “vấn đề”, không ngừng điều chỉnh để
bài học sau không lặp lại cách thức của bài học trước. Đồng thời theo phương
pháp PBL, GV ngày càng có những vấn đề vừa lý thú vừa phù hợp với môn
học và thời gian cho phép, biết cách xử lý khéo léo những tình huống diễn ra
trong thảo luận, hệ thống hoá kiến thức tốt, có nghĩa năng lực sư phạm của họ
cũng ngày một tăng thêm.
Bên cạnh những thuận lợi ấy là những khó khăn không nhỏ, đó là:
- Tính trì trệ của thói quen:
PBL là một PPDH rất tích cực, nó đòi hỏi một sự thay đổi hoàn toàn
trong quan niệm dạy và học. So với diễn giảng, PBL cần nhiều sự chuẩn bị
của GV, từ việc chọn đề tài, đọc nhiều tài liệu (để giới thiệu cho SV) cho đến
việc đầu tư thời gian để theo dõi SV làm việc, đánh giá thường xuyên v..v..
Đối với SV, trước hết, sự tự lực và chủ động học và phương pháp làm việc là
vấn đề vô cùng khó khăn đối với họ bởi sự giáo dục phổ thông của chúng ta
chưa làm được điều này. Hay nói khác đi, nền giáo dục của chúng ta chưa tạo
cơ hội cho HS, SV vượt qua được cách học truyền thống. Có thể nói đây là
khó khăn lớn nhất khi sử dụng PBL.
- Thực trạng giáo dục đại học chưa được cải thiện nhiều:
Chúng tôi muốn nói đến vấn đề số lượng SV trong một lớp, không gian
học, máy móc thiết bị, thư viện và đặc biệt là thời gian. Những khó khăn này
cần có thời gian để khắc phục. Tuy nhiên nếu quá cầu toàn với những yếu tố
khách quan này thì có lẽ không bao giờ chúng ta cải tiến được PPDH trong
nhà trường.
Như tên của đề tài, chúng tôi sẽ thử nghiệm PPDH PBL bằng việc kết
hợp với một website riêng bởi vì như vậy sẽ rất có lợi cho cả GV lẫn SV.
Chúng tôi sẽ trình bày riêng về việc sử dụng internet và thiết lập một website
cho đề tài này ở phần tiếp theo.
1.6. INTERNET VÀ VIỆC SỬ DỤNG NÓ TRONG DH PBL
Internet là danh từ đã rất phổ biến, chỉ mạng kết nối toàn cầu (như
chính tên của nó) đang bùng phát trong vài ba thập niên trở lại đây. Đôi khi,
trong tiếng Việt, người ta chỉ cần nói ngắn gọn là “mạng”.
Nói đến “mạng” thì không thể không có chiếc máy tính (MT). Điều
tuyệt diệu của chiếc MT, các phần mềm và hệ thống mạng là ở chỗ, mọi
người, mọi ngành đều cần chúng song mỗi ngành khai thác hệ thống này theo
những hướng khác nhau (về tính năng, phần mềm, kĩ thuật, nghệ thuật khai
thác...) với mục đích không giống nhau. Đến nỗi hệ thống này đã trở thành
một công nghệ khai thác và sử dụng riêng cho từng ngành. Vì thế, hiện nay
người ta thường sử dụng thuật ngữ ICT (Công nghệ truyền thông đa phương
tiện - Information Communication Technology) để chỉ công việc của những
người khai thác và sử dụng hệ thống MT - phần mềm - mạng.
1.6.1. Tác dụng của ICT trong dạy học
Cũng như các lĩnh vực khác trong xã hội, giáo dục luôn luôn “cập nhật”
những tiến bộ của khoa học và kĩ thuật để đưa vào sử dụng trong nhà trường.
Từ những năm 80 của thế kỉ XX, cả thế giới nở rộ trào lưu đưa MT vào nhà
trường. Không lâu sau đó, hệ thống mạng cũng được khai thác triệt để cho
giáo dục (ICT trong dạy học). Hiện nay, việc sử dụng ICT trong nhà trường
đã được định hướng cơ bản như sau:
- ICT để Quản lí giáo dục (hành chánh, nhân sự, thời khoá biểu,..)
- ICT dùng cho việc trao đổi, khai thác thông tin qua mạng để phục vụ
dạy và học (Khai thác tài liệu, trao đổi khoa học, khai thác các phần mềm giáo
dục …)
- Phục vụ trực tiếp việc dạy học và nghiên cứu khoa học giáo dục:
. Máy tính – các phần mềm chuyên biệt- mạng là công cụ cho GV
đứng lớp
. Kết nối với các thí nghiệm để xử lí số liệu
. MT và mạng là công cụ dạy trực tiếp trên lớp của GV hoặc dạy học
trong một không gian rộng lớn cho nhiều người (dạy học từ xa chẳng hạn)
. MT là công cụ trực tiếp cho nghiên cứu khoa học giáo dục: Thống
kê mô phỏng, kiểm tra, xử lí điểm, báo cáo khoa học…)
1.6.2. Những hướng sử dụng website hỗ trợ dạy học
Phong trào lập website cho một tổ chức hoặc cá nhân để làm việc hiện nay
đang rất phổ biến. Nhiều luận văn, luận án khoa học giáo dục cũng đã làm theo
hướng này. Các hướng khai thác website cho dạy học bao gồm:
- Sử dụng website dưới hình thức online
Đây chính là hình thức sử dụng đúng nghĩa, phát huy thế mạnh thật sự
của một website. Ta có thể cài đặt website lên hệ thống mạng cục bộ của từng
trường (LAN/Intranet) hay đưa lên mạng toàn cầu www(Word Wire Web/
Internet). Nếu cài đặt trên mạng intranet thì phạm vi khai thác, sử dụng trong
phạm vi cục bộ của trường đó, cơ quan đó, còn nếu đưa lên mạng internet thì
sử dụng ở tất cả các máy có kết nối internet phạm vi toàn cầu. Ngày nay, với
sự phát triển không ngừng của các ngôn ngữ lập trình web và các công nghệ
về mạng, việc đưa website lên internet ngày càng phổ biến, cho thấy một sức
mạnh và tiềm năng to lớn của ICT nói chung, cho giáo dục nói riêng.
- Sử dụng website dưới hình thức offline
Ở hình thức này, website có vai trò như một “sách điện tử”, chứa đựng
những nội dung kiến thức, các chỉ dẫn có tích hợp các multimedia, hỗ trợ cho
bài dạy của thầy. Nhiều trường còn cho phép cài đặt các website đến từng SV
như là một tài liệu học tập thay cho phần lớn tài liệu in. Đây là hình thức đơn
giản nhất, ít chi phí nhất và tương đối thuận lợi cho việc học của SV, bởi vì
SV chỉ cần có máy tính cá nhân là có thể tiếp cận được nguồn tài liệu phong
phú. Tuy nhiên, hình thức này chỉ khai thác chức năng rất hạn chế của mạng
và được gọi là website “tĩnh”.
Về kỹ thuật, người ta còn chia các website thành hai loại: website tĩnh
(web tĩnh) và website động (web động).
- Web tĩnh là một cách gọi khác của website phiên bản đầu tiên. Khi
những website đầu tiên hiện diện trên mạng Internet, nó chỉ là một văn bản
HTML (HyperText Markup Language) đơn thuần, có nhiệm vụ đăng tải các
thông tin giống như một tờ báo. Khách vào website giống như những người
đọc báo, không thể giao tiếp với nó. Nội dung của web tĩnh được xác định
ngay từ khi "lên khuôn". Nếu muốn thay đổi, thêm bớt nội dung, người quản
lý phải biết làm lại khuôn để có thể in ra những tờ báo mới.
- Web động là những website được hỗ trợ bởi một phần mềm cơ sở
web, sử dụng các ngôn ngữ lập trình web tiên tiến. Web động chạy trên nền
tảng cơ sở web có giao diện là một web tĩnh (nền tảng là HTML). Người dùng
có thể được phân quyền sử dụng, có thể có quyền điều hành nó, chỉnh sửa và
cập nhật thông tin trên website của mình mà không cần phải nhờ đến những
người chuyên nghiệp. Khách vào web động, chừng mực nào đó có thể giao
tiếp với web.
Do đó, các web tĩnh có vai trò trong việc sử dụng offline, còn web động
chỉ sử dụng offline trong lúc đang thiết kế hoặc để thử nghiệm tính năng. Web
động phải gắn với hình thức sử dụng online mới phát huy tác dụng và các tính
năng. Trong đề tài, website chúng tôi xây dựng thuộc loại web động và chỉ có
tác dụng dưới hình thức online.
1.6.3. Xây dựng website hỗ trợ thực hiện PBL ở môn Thiên văn học
Thiên văn học là môn học không được dạy phổ biến ở các trường ĐH
nói chung mà chỉ ở các trường ĐH sư phạm. Các khoa sư phạm Vật lí đã đưa
môn học này vào dạy từ rất lâu với mục đích là để các GV Vật lí trung học
phổ thông có kiến thức để đủ sử dụng dạy những bài học có liên quan đến
Thiên văn và vũ trụ, báo cáo ngoại khoá cho học sinh phổ thông cũng như
quần chúng (nếu cần). Chúng ta đã biết, tri thức Thiên văn rất gần gũi với con
người trong cuộc sống đời thường nhưng có vẻ rất xa vời với mọi người, nếu
muốn tìm hiểu nó một cách khoa học.
Nhiều thập niên qua, với tri thức về ICT cao, có sự hiểu biết về vai trò
của môn Thiên văn trong cuộc sống và trong khoa học hiện đại, nhiều tác giả
đã viết các phần mềm phổ biến khoa học đa dạng sử dụng cho cá nhân những
ai yêu thích môn học này hoặc phục vụ cho giảng dạy cho thiên văn. Đây là
một bước tiến lớn trong thiên văn học, nếu nói về việc giảng dạy môn học
này. Có thể nói, sử dụng các phần mềm này, người ta có thể làm quen với bầu
trời từ những kiến thức đơn giản như chuyển động của các hành tinh, làm
quen với các chòm sao… cho đến những vấn đề rất thời sự hiện nay về vũ trụ
như cấu trúc vũ trụ, lỗ đen v..v.. bằng những mô phỏng từ công nghệ thông
tin. Trong dạy học Thiên văn, các phần mềm này được sử dụng rất hiệu quả
tuỳ theo năng lực về PPDH của mỗi giáo viên. Có thể nói, môn Thiên văn học
từ chỗ rất trừu tượng khi nghiên cứu nó, đến nay, phần lớn đã được trực quan
hoá, phần nào làm đơn giản hoá trong việc học của SV.
Tuy nhiên, các chương trình mô phỏng Thiên văn, như trên đã nói, cũng
chỉ để học Thiên văn “nghiệp dư” hoặc trực quan hoá cho dạy học. Nó bị giới
hạn bởi nội dung, ý tưởng mô phỏng của từng tác giả cho nên việc nghiên
cứu, mở rộng kiến thức của SV sẽ bị hạn chế. Từ ý nghĩ đó chúng tôi đã nảy
ra ý tưởng lập một website để dạy và học Thiên văn và đặc biệt là dùng nó
cho PPDH PBL thì thật là tiện lợi (như đã trình bày ở mục 1.6.2).
Như đã trình bày, PBL kết hợp với việc khai thác internet sẽ cho nhiều
thuận lợi trong việc đổi mới PPDH. Sử dụng ICT hợp lí, biết tận dụng những
lợi thế của môi trường đa phương tiện không những SV có dược kiến thức
phong phú mà họ còn có thêm nhiều kĩ năng trong học tập, nghĩa là tác dụng
của PBL sẽ được tăng cường. Với suy nghĩ này, chúng tôi xây dựng website
hỗ trợ cho PBL và bước đầu chúng tôi ứng dụng hỗ trợ trong dạy học một
phần của môn Thiên văn học. Website hỗ trợ này chúng tôi gọi là tắt là WEB-
PBL (với ý nghĩa website riêng của phương pháp PBL). WEB-PBL dùng để
GV và SV sử dụng cho PBL, trong đó, GV là người thiết kế các nhiệm vụ học
tập với những hướng dẫn, tài tiệu và các địa chỉ tham khảo cần thiết cho mỗi
“vấn đề”, SV sử dụng chủ yếu là phần web tĩnh và các địa chỉ liên kết để tìm
tài liệu, tuy nhiên cũng có những trang cho phép họ từ kiểm tra hoặc trao đổi
với thầy, với các thành viên khác. Chi tiết về WEB-PBL sẽ được trình bày ở
chương 2.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Trong chương đầu tiên, chúng tôi đã nghiên cứu cơ sở lí luận và thực
tiễn phục vụ cho đề tài nói chung và để mở đầu cho chương 2, chương chuẩn
bị cơ sở cho TNSP nói riêng.
Việc trình bày tóm tắt những vấn đề thực tiễn chỉ được giới hạn ở một
số nhận xét xung quanh việc đổi mới PPDH ở ĐH của một số nhà giáo dục
trong và ngoài nước có uy tín. Chủ yếu trong chương này là những cơ sở lí
luận cho vấn đề thay đổi PPDH ở ĐH, tóm lược một số PPDH tích cực, trong
đó chúng tôi tập trung trình bày PPDH theo vấn đề (PBL), phương pháp sẽ
được sử dụng trong đề tài. Nhằm tăng cường tác dụng của PBL, chúng tôi
phân tích để có cơ sở cho việc thiết lập một website chuyên biệt hỗ trợ việc
học theo PBL môn Thiên văn học. Những kĩ thuật và nội dung cụ thể của
trang web này sẽ được trình bày ở chương 2.
Chương 2
XÂY DỰNG WEBSITE HỖ TRỢ DẠY HỌC THEO VẤN ĐỀ
VÀ ỨNG DỤNG CHO DẠY HỌC THIÊN VĂN Ở ĐẠI HỌC
(Theo Giáo trình Thiên văn học của Phạm Viết Trinh)
2.1. KỊCH BẢN THIẾT KẾ WEB-PBL
2.1.1. Kịch bản dạy học và những yêu cầu chung
Kịch bản dạy học thể hiện trình tự, tương quan và yêu cầu cần
đạt được giữa hoạt động dạy và học khi tiến hành bài học. Có hai loại kịch
bản cho dạy học: kịch bản sư phạm và kịch bản kĩ thuật. Theo các chuyên gia
giáo dục, kịch bản sư phạm sẽ quyết định chủ yếu chất lượng bài dạy.
Một điều đáng nói là, hầu hết các kịch bản dạy học hiện nay đều có sử
dụng máy tính hỗ trợ. Theo tương tác giữa người sử dụng và máy tính, các
chuyên gia UNESCO phân thành bốn kịch bản: kịch bản tuyến tính (linear
scenaria), kịch bản phi tuyến (non-sequential scenaria), kịch bản khám phá
(Guided discovery scenaria) và kịch bản sản xuất (Production of Multimedia
scenaria) [5]. Nhìn chung, các mô hình này chủ yếu dành cho dạy học trong
môi trường dạy học truyền thống (thầy – Trò), còn chiếc máy tính chỉ thuần
túy hỗ trợ thêm (bằng hình ảnh, các phần mềm hỗ trợ…). Trong môi trường
có sự trợ giúp của internet, hiện chưa có mô hình thiết kế chính thức nào được
phổ biến rộng rãi. Các luận văn nghiên cứu về dạy học ở nước ta và trên thế
giới đã bắt đầu xuất hiện kiểu dạy học trong môi trường internet (thậm chí
internet là phương tiện chính để người học giao tiếp), tuy nhiên, vấn đề vẫn
đang ở thử nghiệm, chưa được tổng kết và đưa vào giáo khoa. Góp mặt với
những công trình đó, tác giả xây dựng kịch bản dạy học cho PBL trong môi
trường có sự trợ giúp của internet bằng một website riêng (WEB-PBL).
Website này sẽ giúp phát huy thế mạnh của PPDH tích cực như chương 1 đã
trình bày (xem 1.6.3). Ở chương 1 (mục 1.3.3), tác giả đã trình bày các giai
đoạn tổ chức dạy học theo PBL, kịch bản này sẽ hỗ trợ quá trình thực hiện
WEB-PBL của thầy và trò một cách thuận lợi và dễ dàng (hình 2.1).
Muốn đạt được kịch bản dạy học như trình bày ở trên, cần trước tiên là
tìm hiểu những đặc trưng của cách dạy – học này. Vì thế chúng tôi đặt ra yêu
cầu về nội dung cho kịch bản sư phạm khi thiết kế WEB-PBL như sau:
- WEB-PBL phải chứa những yêu cầu cụ thể đối với người học: yêu cầu
tìm kiếm, yêu cầu lên diễn đàn, yêu cầu bài báo cáo…
- WEB-PBL phải chứa đủ các trang, các hộp thoại thuận tiện để thoả
mãn việc tìm tòi, giải đáp khi cần. Tài liệu dưới dạng web tĩnh (xem 1.6.2)
cần có nhiều hình ảnh đẹp, ý nghĩa và các địa chỉ liên kết phải đủ cho SV
nghiên cứu và tổng hợp nội dung bài học.
- Các “vấn đề” dạy học thể hiện bằng các “tiêu đề” phải là những tình
huống có vấn đề với các đối tượng học Thiên văn. Những vấn đề tốt (xem
1.5.2) thường gắn với các tình huống có thực trong đời sống, những tình
huống lịch sử mang tính điển hình, những tình huống khoa học mang tính thời
sự… Đó là những sự việc, hiện tượng hoặc sự kiện mà sinh viên đã thấy, đã
nghe, đã đọc được và bây giờ được xem xét một cách cơ sở khoa học. Ví dụ:
Bản chất của nhật động, Nhật-Nguyệt thực, tại sao Diêm vương tinh lại bị loại
khỏi danh sách các hành tinh của Mặt trời,…
- WEB-PBL tạo điều kiện cho người học trao đổi với nhau, trao đổi với
GV trong quá trình tìm
kiếm (các trang diễn đàn) .
- WEB-PBL tạo diều
kiện cho người học tự kiểm
tra kiến thức (các trang trắc
nghiệm)
2.1.2. Kịch bản sư phạm
cho WEB-PBL trong môi
trường internet
Trong WEB-PBL,
chúng tôi cấu trúc các
modul để chỉ những chuyên mục riêng. Mỗi modul gồm nhiều trang có chức
Hình 2.1. Sơ đồ kịch bản sư phạm WEB-PBL
TỪ ĐiỂN
TRẮC NGHIỆM
TÀI NGUYÊN GÓP Ý
TRỢ GIÚP
DiỄN ĐÀN
PBL
G
iớ
i
th
iệu
N
h
iệ
m
v
ụ
T
iến
t
rì
n
h
Đá
n
h
g
iá
T
ổn
g
k
ết
năng giống nhau (dùng hiển thị một loại hay lớp thông tin nào đó). Theo đó,
WEB-PBL có 7 modul (sơ đồ hình 2.1) được đặt tên là: PBL (modul chính),
Từ điển, Trắc nghiệm, Tài nguyên, Diễn đàn, Trợ giúp và Góp ý (các modul
hỗ trợ). Chức năng cơ bản của các modul như sau (hình 2.2.):
- Modul PBL: Chứa toàn bộ nội dung và PPDH và các hộp thoại liên với
các modul khác.
- Modul Từ điển: Giải thích những thuật ngữ mới và cơ bản.
- Modul Trắc nghiệm: SV tự kiểm tra, đánh giá nhận thức của mình sau
khi đã hoàn thành nhiệm cụ.
- Modul Tài liệu: Chứa các tài liệu viết và các địa chỉ web, tên các sách
tạp chí để SV tìm và đọc cho đề tài mình.
- Modul Diễn đàn: Nơi trao đổi cho cộng đồng học tập (không chỉ có các
thành viên trong nhóm).
Hình 2.2. Các Modul chính được giới thiệu trong WEB-PBL
- Modul Trợ giúp: Giúp người dùng giải quyết những khó khăn khi truy
cập WEB-PBL
Ngoài ra, chúng tôi còn bước đầu xây dựng modul Góp ý. Mục đích phát
triển modul này để người quản trị và GV có được những phản hồi từ phía
người sử dụng và sẽ hoàn thiện website trong các chu kì dạy học sau. Do quĩ
thời gian eo hẹp, vấn đề này sẽ được phát triển về sau.
2.1.3. Kịch bản kỹ thuật cho WEB-PBL
Kịch bản kỹ thuật thể hiện trình tự và cách thức biến đổi của các đối
tượng cung cấp thông tin trong dạy học cũng như quy định tác động cần thiết
để người học và người dạy thực hiện biến đổi đó [5]. Kịch bản kỹ thuật được
xây dựng dựa trên sự đòi hỏi của kịch bản sư phạm. Nó là cơ sở để người thiết
kế lựa chọn giải pháp kỹ thuật thực hiện các biến đổi phù hợp với PPDH.
Trong giới hạn đề tài và do thời gian có hạn, tác giả không tham vọng tối ưu
hóa kịch bản kĩ thuật cho một giải pháp nào đó trong website. Tuy nhiên,
WEB-PBL cũng đạt được một kịch bản kĩ thuật ở mức độ “sử dụng được”.
Giải pháp tác giả lựa chọn là sử dụng ngôn ngữ lập trình web theo PHP
(Hypertext Preprocessor). PHP là một ngôn ngữ lập trình kịch bản hay một
loại mã lệnh chủ yếu được dùng để phát triển các ứng dụng viết cho máy chủ,
mã nguồn mở với mục đích tổng quát. Nó rất thích hợp với web và có thể dễ
dàng nhúng vào trang HTML (HyperText Markup Language – Ngôn ngữ
Đánh dấu Siêu văn bản). Do được tối ưu hóa cho các ứng dụng web, chương
trình nhỏ gọn, tốc độ truy xuất nhanh, cú pháp dễ học (giống C và Java) và
thời gian xây dựng sản phẩm tương đối ngắn nên PHP đã nhanh chóng trở
thành một ngôn ngữ lập trình web phổ biến trên thế giới. Website xây dựng
với PHP thường kết hợp với cơ sở dữ liệu MySQL, java script và các đồ họa.
Chức năng các đối tượng được sử dụng trong WEB-PBL thể hiện ở sơ đồ
hình 2.3 và giải thích ở bảng 2.1. Trong WEB-PBL hiện tại có đến 295.000
dòng mã (có thể tham khảo thêm về mã của WEB-PBL tại
Về cơ sở dữ liệu, có tổng cộng 13 bảng.
Toàn bộ mã nguồn WEB-PBL chiếm dung lượng khoảng 7MB, chia
thành 7 modul (như đã giới thiệu ở mục 2.1.1), phần lớn các mã viết trong
website do tác giả tự xây dựng (trừ modul Diễn đàn là sử dụng lại toàn bộ mã
nguồn mở phpBB - phiên bản 2007). Giao diện, chức năng cụ thể và cách truy
xuất các modul này được giới thiệu ở phần tiếp theo.
WEB-PBL
Người quản trị
GV SV
Hình 2.3. Mô hình tổ chức
Kí hiệu đối tượng Chức năng
Người quản trị
Có chức năng trên toàn bộ hệ thống:
- Kiểm tra, giám sát việc nhập dữ liệu của GV
- Ra thông báo đến GV và SV
- Quản lí lý lịch, cấp hoặc hủy quyền sử dụng cho GV
- Nhập dữ liệu hệ thống, dữ liệu nội dung học
- Liên kết đến mọi trang khác trong website.
Giảng viên
Có chức năng cập nhật, thay đổi dữ liệu của GV
- Cập nhật, thay đổi, bổ sung các “vấn đề” PBL
- Cập nhật từ điển, tài nguyên, câu hỏi trắc nghiệm, góp ý.
- Thay đổi hồ sơ cá nhân
- Liên kết đến mọi nội dung trên web.
Sinh viên
- Liên kết các nội dung trên hệ thống web mà không cần
đăng nhập (trừ trang điều khiển của quản trị viên và GV).
- Góp ý, thảo luận trên diễn đàn,…
- Tự kiểm tra kiến thức qua các bài trắc nghiệm,…
Bảng 2.1. Chức năng của các đối tượng sử dụng trên WEB-PBL
2.2. GIỚI THIỆU CÁC TRANG CƠ BẢN TRONG WEB-PBL
2.2.1. Trang chủ
WEB-PBL có trang chủ chung, mỗi modul cũng có trang chủ riêng cho
mình. Tuy nhiên, bố cục các trang chủ đều giống nhau, chỉ có nội dung chính
của từng trang chủ là thay đổi. Để phân biệt, các trang chủ của các modul sẽ
được gọi là trang giao diện.
Hình 2.4: Giao diện trang chủ của WEB-PBL
Trang chủ của WEB-PBL có ba phần: phần đầu trang (header), phần
nội dung chính (main) và phần cuối trang (footer) như hình 2.4.
- Phần đầu trang để giao tiếp, chủ yếu có thanh menu liên kết đến
những trang giới thiệu WEB-PBL.
-Phần nội dung chính để làm việc. Cột bên trái giới thiệu chung về
WEB-PBL cho khách truy cập (chỉ có người quản trị được phép thay đổi nội
dung này). Các biểu tượng dùng để liên kết đến các modul của web. Cột bên
phải thể hiện các liên kết đến thông báo mới từ ban quản trị web, các “vấn đề“
học tập, phần đăng nhập đến tài khoản của GV và người quản trị.
- Phần cuối trang: thông tin về bản quyền và các liên kết đến trang bên
ngoài.
2.2.2. Modul chính PBL
Trang giao diện của modul PBL (hình 2.5) cũng tương tự như trang chủ
của WEB-PBL. Có ba nội dung: Phần giới thiệu tóm tắt về modul PBL và liên
kết để tìm “vấn đề” học tập theo lĩnh vực, theo bậc học và theo GV. Phần
này chúng tôi thiết kế sẵn cho tương lai với rất nhiều GV tham gia WEB-PBL
với nhiều bậc học và nhiều lĩnh vực. Do đó, việc truy xuất để tìm “vấn đề”
học tập theo nhu cầu cá nhân. Ví dụ: khi click vào lĩnh vực Thiên văn, sẽ hiện
ra trang như hình 2.6. Trang này liệt kê các “tiêu đề” của vấn đề học tập thuộc
lĩnh vực thiên văn. Nếu người dùng muốn chọn vấn đề học tập nào thì click
Hình 2.5: Trang chủ của modul PBL
chọn vào “tiêu đề” tương ứng, web sẽ hiện ra trang giới thiệu kĩ “vấn đề” ấy.
Hình 2.6: Trang “vấn đề” học tập chọn theo lĩnh vực (Thiên văn)
Tại trang “vấn đề” cụ thể này sẽ có nội dung mặc định là giới thiệu “vấn đề”
học tập. Từ đây, nếu cần, có thể sử dụng thanh menu phía trên liên kết với
Nhiệm vụ, Tiến trình, Đánh giá, Tổng kết. Các chức năng hỗ trợ khác nằm
trong các modul của WEB-PBL, sẽ được trình bày tiếp theo.
2.2.3. Modul Từ điển
Trang giao diện của modul Từ điển (hình 2.7) cũng có bố cục tương tự
như trang chủ của WEB-PBL. Nội dung chính trên trang chủ này (bên trái) là
giới thiệu modul từ điển và tra thuật ngữ với ba cách: nhập thuật ngữ trực
tiếp, tìm thuật ngữ theo chữ cái đầu của nó và tìm thuật ngữ theo tên GV
(người đưa ra “vấn đề” học tập). Cột bên trái cho phép người quản trị và GV
thay đổi, bổ sung các “vấn đề” mới (bài học PBL mới) và những thuật ngữ
cần thiết mới.
Hình 2.7 Trang chủ của modul từ điển
2.2.4. Modul Trắc nghiệm
Ngoài việc giới thiệu khái quát nội dung modul trắc nghiệm, trang giao
diện modul này (hình 2.8) sẽ cho phép sử dụng các chức năng hiện có trong
modul thông qua các biểu tượng và đường dẫn đến các trang chức năng như
làm bài trắc nghiệm, xem kết quả, tự soạn đề và làm bài,…; người học có thể
tìm các đề hiện có theo một lĩnh vực hoặc theo GV để ôn tập.
Hình 2.8: Trang giao diện của modul Trắc nghiệm
Bên trái có nội dung dành cho người quản lí và GV (đã đăng nhập) bổ
sung câu hỏi trắc nghiệm, câu hỏi cho “vấn đề” PBL mới và soạn đề kiểm tra.
Ví dụ: khi click chọn Soạn đề, trang soạn đề hiện ra như hình 2.9, người soạn
sẽ thao tác theo các chỉ dẫn trên đó. Khi đã điền đầy đủ thông tin, click vào
nút Tạo đề.
Hình 2.9: Trang tạo đề kiểm tra
Sau khi tạo đề, trang thông báo chi tiết đề vừa tạo hiện ra như hình
2.10, trong đó mã đề tạo ra là ngẫu nhiên và số câu rút trích ra cũng ngẫu
Hình 2.10: Trang thông tin đề mới tạo
nhiên theo lĩnh vực và mức độ khó đã ấn định. Trang này cho phép làm thử,
xem kết quả… (xem phụ lục 4).
2.2.5. Modul Diễn đàn
Trang giao diện được thể hiện ở hình 2.11. Modul này tác giả sử dụng
mã nguồn mở phpBB (phiên bản 2007, tiếng việt). Để tham gia diễn đàn,
người dùng (SV, GV) phải đăng ký thành viên. Khi trở thành thành viên,
người dùng có thể tạo chủ đề thảo luận, gửi bài lên diễn đàn cũng như phản
biện ý kiến.
2.2.6. Modul Tài liệu
Hình 2.11:Trang giao diện của modul Diễn đàn
Trang giao diện của modul này (hình 2.12) chứa phần giới thiệu tóm tắt
chức năng của modul, cho phép tìm các tài liệu theo một lĩnh vực, theo tên
GV. Cột bên trái hiển thị nội dung tài liệu mới cập nhật.
Hình 2.12: Trang giao diện của modul Tài liệu
2.3.7. Modul Trợ giúp
Trang giao diện của Modul này sẽ hỗ trợ về PPDH nhằm khắc phục
những khó khăn mà người dùng gặp phải. Nội dung chính của trang giao diện
này giải đáp những Thắc mắc về dạy học PBL và về cách sử dụng WEB-PBL
Tuy nhiên trong giới hạn của một trang web tĩnh, tác giả chỉ thiết kế những
nội dung trả lời theo một số giới hạn những câu hỏi nhất định. Tác giả cũng
đã cân nhắc kĩ và phán đoán trước những khó khăn trong hai vấn đề trên của
người dùng. Có thể đây là yếu điểm của WEB-PBL. Để khắc phục vấn đề
này, trong quá trình giao tiếp với người học, tác giả sẽ thu lượm thêm nhiều
thắc mắc của người học và sẽ bổ sung vào modul trợ giúp (hình 2.13).
Hình 2.13 : Trang giao diện của modul Trợ giứp
2.3. QUY TRÌNH SỬ DỤNG WEB-PBL TRONG DẠY HỌC
2.3.1. Sơ đồ khối cho quy trình soạn thảo các vấn đề dạy học của GV
GV sử dụng PBL là người trước tiên cần phải nắm vững nguyên tắc sử
dụng WEB-PBL mà cụ thể là phải thông thạo các bước xây dựng “vấn đề” học
tập trên đó. Qui trình soạn thảo trên WEB-PBL là sự kế thừa qui trình thực hiện
PPDH PBL mà tác giả đã trình bày trong chương 1. Sơ đồ hình 2.14 biểu diễn
qui trình này. Có thể giải thích các công đoạn như sau:
1/ Xác định mục đích bài học PBL:
Mỗi bài học đều có thể có ba mục đích cơ bản, đó là: kiến thức thông
báo, kiến thức kĩ năng và tính hoạt động của người học. Tuy nhiên tỉ lệ về mức
độ của ba mục đích ấy đối với từng bài học là không giống nhau. Đối với một
bài học mà chỉ cần đạt mục đích kiến thức thông báo thôi thì có lẽ PBL sẽ là
phương pháp không đắc dụng lắm. Hơn nữa, trong một giáo trình, không phải
chỉ có một PPDH tối ưu và cũng không nên sử dụng chỉ một phương pháp cho
một giáo trình. Thế mạnh của PBL là ở chỗ người học tự thân vận động đi tìm
tri thức cho mình cho nên cần tìm những nội dung có thể phát huy được thế
mạnh của PBL để thiết kế dạy học. Vì vậy trong một giáo trình nên lựa chọn
nội dung học sao cho các mục đích thoả mãn ở mức độ cao để tổ chức dạy theo
PBL. Những bài chúng tôi chọn để thực nghiệm trong đề tài này, ngoài nội
dung rất thiết thực chúng còn đáp ứng được các kĩ năng tìm kiếm, kĩ năng hợp
tác và các hoạt động học tích cực khác.
2/ Chọn vấn đề DH
Khi có mục
đích của bài học
rồi tức là đã chọn
được nội dung học,
GV có thể tìm
kiếm. lựa chọn
“Vấn đề” qua thực
tế, qua báo chí (để
có “tiêu đề” kích
thích trí tò mò của
SV. Cần chú ý,
“vấn đề” được
chọn phải là một
“vấn đề tốt” tức là
toả mãn năm yêu
cầu như đã trình
bày ở mục 1.5.2
(chương 1). Đây là
khâu quan trọng
nhất, mở đầu cho sự thành công của PPDH.
CHỌN VẤN ĐỀ HỌC
XÁC ĐỊNH NHIỆM VỤ
CHO NGƯỜI HỌC
THIẾT KẾ TIẾN TRÌNH
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
NHẬP LIỆU VÀO CÁC
MODUL TƯƠNG ỨNG
ĐÁNH GIÁ,
ĐIỀU CHỈNH
Quy trình soạn thảo “vấn đề” trên WEB-PBL
TÌM NGUỒN
TÀI LIỆU
XÂY DỰNG CHUẨN
ĐÁNH GIÁ
THIẾT KẾ
TRỢ GIÚP
THIẾT KẾ
TỪ ĐIỂN
XÁC ĐỊNH MỤC ĐÍCH BÀI HỌC PBL
(Về nội dung và phương pháp)
“CHẠY” THỬ
Hình 2.14. Quy trình soạn thảo “vấn đề”
Trong khi chọn “tiêu đề” thì đồng thời cũng tìm tài liệu và ghi lại các từ
chuyên môn mới, khó để làm từ điển. Hai hoạt động này sẽ hỗ trợ cho nhau.
Các tài liệu bao gồm: sách, tạp chí, đĩa CD hoặc DVD, các địa chỉ thư viện,
website và những file có nội dung liên quan dưới dạng Word hoặc PowerPoint.
Mọi thông tin đều được ghi lại chính xác để nhập vào WEB-PBL
3/ Xác định nhiệm vụ cho người học
Các nhiệm vụ cơ bản cần xác định cho mỗi bài học:
- Nhóm tự lập kế hoạch, phân công công việc và thời hạn hoàn thành
từng công đoạn trong nhóm
- Đánh giá cá nhân và đánh giá trong nhóm
- Nội dung, hình thức và thời hạn trình bày báo cáo.
4/ Thiết kế tiến trình
Thực ra ở giai đoạn này, GV thiết kế các đường dẫn riêng, ngoài những
đường dẫn có sẵn trong WEB-PBL: tìm tài liệu, trợ giúp..
5/ Xây dựng chuẩn đánh giá
Tuỳ theo mục đích đã được xác định của bài học, GV xây dựng thang
đánh giá quá trình học tập của SV cho mỗi “vấn đề”. Các tiêu chuẩn này sẽ
được thảo luận trước khi giao “vấn đề” cho SV. Đây sẽ là chuẩn chung để GV
đánh giá SV và SV căn cứ vào đó tự đánh giá quá trình học tập của mình.
6/ Nhập dữ liệu vào WEB-PBL
Muốn làm điều này, trước hết GV phải đăng nhập để được đưa dữ liệu
vào và sửa chữa trong đó. Khi hoàn thành từng khâu ở trên, GV ghi lại và nhập
vào các trang tương ứng với chức năng như đã giới thiệu ở mục 2.2.
Đối với những GV đã thực hiện nhiều lần và thuần thục với WEB-PBL
có thể soạn thảo trực tiếp theo mẫu của website hoặc chuẩn bị sẳn trên MS
Words, sau đó copy và dán vào các trang tương ứng. Các bước thêm (hoặc cập
nhật) nội dung trên WEB-PBL diễn ra theo 4 bước (xem phụ lục 6 – Phần
Hướng dẫn sử dụng dành cho GV).
7/ “Chạy” thử
Dù là GV đã quen dùng WEB-PBL song hoàn tất nhập liệu đều phải qua
bước này. Các công việc cần làm khi chạy thử:
- Kiểm tra các liên kết
- Kiểm tra từng câu chữ của “tiêu đề” xem “vấn đề” đưa ra có đáp ứng
các yêu cầu về nội dung, tính kích thích...
- Kiểm tra các yêu cầu trong tiến trình và tính giới hạn của “vấn đề”
- Kiểm tra thật kĩ các câu hỏi trắc nghiệm
- Kiểm tra văn phạm, lỗi chính tả...
8/ Đánh giá, điều chỉnh
So sánh với mục đích đã đặt ra ban đầu để đánh giá toàn bộ bài học đã
chuẩn bị. Việc điều chỉnh chủ yếu ở khâu chuẩn đánh giá và trang trợ giúp (có
thể bổ sung hoặc bỏ bớt trợ giúp).
2.3.2. Các hướng sử dụng WEB-PBL trong dạy học
- Hướng 1: Xen kẽ giảng dạy trực tiếp trên lớp và những bài theo PBL.
Trong một học phần, GV chủ động lựa chọn những kiến thức nào cần
phải giảng dạy trực tiếp trên lớp và những khối kiến thức nào có thể biên soạn
thành những “vấn đề” học tập theo PBL để các nhóm thực hiện. Thông
thường những kiến thức nền tản, có tính nguyên lý, những suy luận và công
cụ toán học,… là những kiến thức khó, GV cần tổ chức trao đổi trên lớp (giờ
lý thuyết) nhằm trang bị cho SV những tri thức ban đầu, công cụ cần thiết để
họ có thể hoàn thành các vấn đề học tập phía sau. Những kiến thức liên quan
nhiều đến tìm hiểu hiện tượng trong tự nhiên, trong thức tế, những kiến thức
nghiên cứu định tính nhiều hơn định lượng, kiến thức thực hành v..v..đòi hỏi
SV phải tìm kiếm, thảo luận nhiều đồng thời dễ gây cảm hứng cho họ, rất phù
hợp với kiểu bài học PBL thiết kế trên WEB-PBL.
Môn thiên văn có nhiều đặc điểm phù hợp cho việc sử dụng PBL bởi vì
nội dung hấp dẫn, có nhiều tài liệu để thạm khảo (sách, dĩa, internet), gắn
nhiều với đời sống con người. Điều thú vị là môn học này rất trừu tượng
nhưng lại rất thực tế, dễ làm người học say mê.
- Hướng II. Sử dụng độc lập hoặc kết hợp với các chương trình quản lí học
tập (elearning) như Moodle, Claroline,…. Hướng sử dụng này là hình thức
người học học thông qua trên mạng internet là chính và thường áp dụng cho
hình thức đào tạo từ xa, hệ vừa học và vừa làm. GV phát triển những vấn đề
học tập rồi đưa vào WEB-PBL và tổ chức quản lí học tập trên các chương
trình quản lí học tập,…. Nhờ có các chỉ dẫn, sắp xếp các vấn đề của WEB-
PBL học viên sẽ thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình hoàn
toàn độc lập. Tuy nhiên, hình thức này đòi hỏi GV phải có kỹ năng ứng dụng
công nghệ trong dạy học và học viên cũng phải có tính tự giác và tự lực cao
trong học tập.
Chúng tôi thực hiện đề tài của mình theo hướng thứ nhất.
2.3.3. Tiến trình dạy học với WEB-PBL theo hướng I
Tiến trình chung cho thực hiện PBL đã được trình bày ở chương 1 (xem
mục 1.5.3 và sơ đồ 1.6). Vì đến đây chúng tôi đã có phương tiện hỗ trợ là
WEB-PBL nên chúng tôi lặp lại qui trình ấy để nhấn mạnh công cụ hỗ trợ.
Trước khi vào tiến trình, GV sẽ trình chiếu và giới thiệu WEB-PBL
(chủ yếu là trang chủ). Phần nghiên cứu kĩ WEB-PBL sẽ dành cho SV tự
nghiên cứu thêm sau đó.
- Giai đoạn 1: Tổ chức nhóm và giao nhiệm vụ dưới hình thức trình
chiếu modul PBL - Giới thiệu “Tiêu đề”, nhiệm vụ của các nhóm và những
qui ước trao đổi giữa SV và GV. Cần dành một thời gian trao đổi với SV về
những vấn đề về thủ tục làm việc.
- Giai đoạn 2: Các nhóm hoạt động. Việc quản lí công việc được nhóm
trưởng. Các thành viên tham gia vạch kế hoạch cụ thể, phân chia nhiệm vụ cá
nhân, thời gian hoàn thành, họp nhóm giữa kì và cuối kì để hoàn thành báo
cáo. Trong thời gian tìm kiếm cá nhân, các thành viên có thể trao đổi thông
tin với nhau, trao đổi với giáo viên thông qua modul Diễn đàn hoặc e-mail.
Sự theo dõi của GV là thường xuyên để đánh giá tính tích cực của các nhóm
hoặc cá nhân.
- Giai đoạn 3: Tổ chức báo cáo để đánh giá tổng kết, bổ sung, chính xác
hoá kiến thức cho SV. Đánh giá vấn đề học tập thuộc về cả GV và SV. SV
tham gia tự đánh giá quá trình học tập của mình và của bạn trong nhóm.
2.4. CHUẨN BỊ MỘT SỐ BÀI HỌC THIÊN VĂN TRÊN WEB-PBL
SV ngành sư phạm Vật lí Trường ĐH An Giang học môn Thiên văn dựa
trên giáo trình của Phạm Viết Trinh. Vì vậy các bài học PBL của chúng tôi
soạn cho đợt TNSP này cũng dựa trên nội dung giáo trình ấy. Nội dung cơ
bản của giáo trình này được viết thành đề cương ở phụ lục 12.
Dựa vào các một số đặc điểm nội dung để chọn “vấn đề” học tập (như ở
Hướng 1 có nói), chúng tôi cho SV học theo PBL phần nội dung “Mặt trời và
các hành tinh”. Bảng dưới đây là cụ thể hoá 5 “vấn đề” học tập trong môn
Thiên văn.
Vấn đề: Ngắm bình minh trên quê hương An giang, mô tả và
giải thích chuyển động của bầu trời
Số lượng: 05 SV Thời gian: 03 tuần (Từ…….đến……)
Ghi chú
của GV
Mục
đích
Nghiên cứu luận điểm của Copernicus để giải
thích bản chất một số hiện tượng bầu trời nhật động
quan sát được bằng mắt thường.
Giới
thiệu
“vấn đề”
* Nội dung: Từ ngàn đời, mỗi
ngày khi mọi người thức dậy,
chuẩn bị cho ngày mới bắt đầu
và ta chào buổi sáng với ánh
bình minh thật đẹp. Chắc hẳn,
ai cũng biết mặt trời mọc ở
phía Đông và lặn ở phía Tây.
Vào ban đêm, hầu như toàn bộ
bầu trời sao cũng “quay” cùng
chiều với mặt trời. Phải chăng
hằng ngày Mặt trời và các sao chuyển động xung
quanh trái đất chúng ta một vòng từ Đông sang Tây?
Hãy tưởng tượng các bạn là những nhà Thiên văn
đang nghiên cứu hiện tượng mọc lặn của Mặt trời và
các sao tại An Giang để hoàn thành công trình
Trình chiếu
trang chủ
của WEB-
PBL.
nghiên cứu về chuyển động của bầu trời.
*Tổ chức: Nhóm, nhóm trưởng,…
3. Nhiệm
vụ
* Nội dung:
- Quan sát vị trí mọc, lặn của Mặt trời và một số
ngôi sao sáng trên bầu trời ban đêm trong 3 tuần
(mỗi tuần một ngày, 2 lần: chiều tối và sáng sớm) rồi
tìm cách lí giải bản chất của những sự mọc lặn này
(nghiên cứu tài liệu).
- Tìm hiểu khái niệm chiều “từ Đông sang Tây” và
ngược lại.
- Các đặc điểm chuyển động nhìn thấy của các thiên
thể khác ngoài 2 đối tượng đã đề cập.
- Nghiên cứu và vận dụng thuyết nhật tâm
Copernicus để giải thích hiện tượng liên quan, chứng
tỏ Trái đất quay xung quanh Mặt trời.
- So sánh mô hình địa tâm và mô hình Copernicus về
sự phù hợp với các đặc điểm nhìn thấy
- Tìm minh chứng cho sự tự quay của Trái đất.
*Tổ chức: Hướng dẫn lập kế hoạch, thời hạn, hình
hình thức báo cáo (trước toàn lớp)
(Ghi chú
GV)
…………
…………
…………
…………
4. Tiến
trình
- Họp nhóm: Phân công nhiệm vụ cho thành viên theo
các nhiệm vụ cụ thể trên (nhóm trưởng thống nhất với
thành viên)về lí thuyết (thuyết Copernicus)
- Nhóm thống nhất thời gian quan sát quan sát Mặt
trời (khoảng 30 phút mỗi lần – lúc mọc và trước lúc
lặn), trao đổi về sự “đi” của Mặt trời trong một
khoảng thời gian. Thực chất là gì?
- Cá nhân tìm và nghiên cứu tài liệu theo phân công
- Họp nhóm giữa kì trình bày nghiên cứu cá nhân,
thống nhất, phân công người trình bày (viết, vẽ, sẵm
vai…).
- Làm việc cá nhân (tự chỉnh sửa, nghiên cứu thêm
theo góp ý
- Họp nhóm chuẩn bị báo cáo.
* Tài liệu:
- Giáo trình (Phạm Viết Trinh): chương 1 (§1 - 6);
chương 2 (§15-18) và chương V (§33-35)
*Từ điển:
-Chiều
chuyển
động của
Trái đất
quanh Mặt
trời
- Chiều nhật
động (từ
Đông sang
Tây)
- Chiều tự
quay của
Trái đất
- Chuyển
động giật
lùi (nhuyển
- SGKVL 10 (nâng cao), bài “Các ĐL Kepler”
* Các website:
mie/hethongcopernic.htm
động nút)
- Mặt trời
- Nhật động
- Thuyết
nhật tâm
(của
Copernicus)
- Trái đất
*Kế hoạch:
Hẹn thời
gian hoàn
thành “vấn
để”:…
5. Đánh giá
- Trình bày bài báo cáo theo qui định
- Thang và phiếu đánh giá có trong WEB-PBL
Trình bày
và giới
thiệu tham
khảo trên
WEB-PBL
6. Tổng kết Báo cáo trước lớp và đánh gíá
GV chính
xác hoá một
số khái
niệm, giải
thích lại cho
rõ
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Chương 2 tập trung vào việc xây dựng và giới thiệu website hỗ trợ cho
PBL (WEB-PBL) nói chung và vận dụng nó vào dạy một số nội dung Thiên
văn. Sau khi giải thích các modul của WEB-PBL, chúng tôi trình bày qui trình
chuẩn bị và nhập dữ liệu để GV có thể vận dụng cho công việc của mình (dạy
Thiên văn theo PBL trên WEB-PBL).
Phần cuối chương, chúng tôi chuẩn bị nội dung cho thực nghiệm sư
phạm, cụ thể là soạn 5 bài dạy (chúng tôi để ở đây 1 bài còn 4 bài khác để ở
phụ lục 12) theo PBL trên WEB-PBL.
Chương 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. CÔNG TÁC CHUẨN BỊ CHO TNSP
3.1.1. Mục đích của cuộc TNSP
Thực nghiệm sư phạm (TNSP) được tiến hành với mục đích kiểm tra,
đánh giá giả thuyết khoa học “Nếu xây dựng một website chuyên biệt hỗ trợ
việc dạy học môn thiên văn học theo phương pháp PBL thì sẽ phát huy tính
tích cực, năng động và sáng tạo của sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng
trong đào tạo giáo viên vật lí ở trường sư phạm”, đồng thời có thể khẳng định
tính khả thi để triển khai đề tài trong điều kiện hiện tại của các trường đại học
sư phạm.
Cụ thể là trả lời các câu hỏi sau:
1. WEB-PBL được xây dựng có thích hợp cho GV và SV trong việc
dạy và học theo vấn đề hay không?
2. Mức độ SV tự xây dựng một kiến thức dưới hình thức một “vấn đề”
học tập (đủ, chính xác) khi họ sử dụng WEB-PBL trong hoạt động tìm kiếm,
giải quyết vấn đề như thế nào?
3. PPDH theo vấn đề có thật sự phát huy được tính tích cực và sáng
tạo của sinh viên hay không?
4. Kĩ năng sử dụng các phương tiện kĩ thuật của SV tiến bộ như thế
nào trong việc trình bày kết quả học tập?
3.1.2. Giới thiệu khái quát các công việc TNSP
TNSP được tiến hành đối với SV lớp DH6L của trường Đại học An
Giang. Chúng tôi chọn lớp DH6L vì đây là lớp duy nhất tại trường đang học
môn Thiên văn học. Theo phân phối giảng dạy, môn Thiên văn học được bố
trí vào học kỳ I năm thứ IV. Do là năm cuối nên việc sử dụng máy tính, khai
thác internet cũng như kĩ năng làm việc nhóm của SV có thể đáp ứng được
những yêu cầu cơ bản của TNSP.
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm sau khi học xong các giờ lý thuyết
chương VIII (Giáo trình Thiên văn học của Phạm Viết Trinh).
Do TNSP được tổ chức ở một lớp trong trường ĐH theo chương trình
Thiên văn (như đã trình bày ở 2 chương trước) và tính đặc thù của PPDH
PBL, chúng tôi tổ chức TNSP cho đề tài như sau:
- GV bộ môn sẽ dạy Thiên văn theo lịch trình bình thường của trường.
Chúng tôi thống nhất sẽ thực nghiệm và so sánh mức độ nhận thức, các kỹ
năng học tập của SV ở giữa giáo trình (thay bài kiểm tra giữ kỳ) bởi hai loại
bài tập: Tiểu luận (nhóm ĐC), bài tập tình huống PBL (nhóm TN).
- Thời gian SV làm tiểu luận hoặc bài tập tình huống là 3 tuần.
- Kết quả TNSP sẽ được đánh giá thông qua kết quả bài làm, phân tích
các bảng trả lời, kết hợp với các kết quả quan sát SV trong quá trình làm việc
của họ (cả hai đối tượng).
3.1.3. Công tác chuẩn bị cho TNSP
- Chia nhóm: Lớp học có 56 sinh viên, chúng tôi chia tất cả ra thành 11
nhóm. Chúng tôi chọn ngẫu nhiên 5 nhóm làm “các nhóm thực nghiệm”, 6
nhóm còn lại là những nhóm đối chứng. Các nhóm đối chứng sẽ có bài tập
nhóm cho bởi giáo viên dạy môn Thiên văn. Các nhóm thực nghiệm sẽ làm
các đề tài theo PBL. Các nhóm tự chọn ra nhóm trưởng và thư ký.
- Trao đổi với GV giảng dạy học phần Thiên văn:
. Tìm hiểu các đề tài tiểu luận sẽ giao cho lớp ĐC
. Giới thiệu mục đích, nhiệm vụ, nội dung các “vấn đề” sẽ dạy theo
PBL và kế hoạch TNSP.
. Cách đánh giá bài làm của cả hai nhóm
3.2. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VÀ KẾT QUẢ
3.2.1. Các công việc chính đã làm trong TNSP
- Các nhóm TN nhận đề tài theo phương pháp PBL đồng thời với các
nhóm ĐC nhận đề tài tiểu luận. (Tên các đề tài của các nhóm để ở phụ lục
11). Sau đó, các nhóm tự chỉ đạo các hoạt động của nhóm mình cho đến khi
hoàn thành báo cáo.
- Tác giả và GV bộ môn dự một số buổi làm việc nhóm của cả hai loại
nhóm học tập, ghi chép và đánh giá sự làm việc của các nhóm.
- Tác giả giải đáp trực tiếp hoặc phản hồi các thông tin trên WEB-PBL.
- Tác giả và GV bộ môn dự các buổi báo cáo kết quả của các nhóm TN
và nhóm ĐC để đánh giá chất lượng về nội dung cũng như các kĩ năng của
SV theo tiêu chí đã định.
Để tiện cho việc đánh giá, từ các tiêu chí này chúng tôi cụ thể hóa thành
thang đánh giá và phiếu cho điểm. Tuy nhiên, không phải tiêu chí nào SV
cũng có thể tham gia đánh giá, chính vì vậy, chúng tôi thiết kế hai thang đánh
giá cho GV và SV riêng. SV chủ yếu tham gia đánh giá thông qua buổi báo
cáo của các nhóm trên lớp (xem các tiêu chí ở phụ lục 2).
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào bản báo cáo của SV thì sẽ không đánh giá
được toàn diện chất lượng bên trong của phương pháp PBL. Một số kiểu đánh
giá khác hỗ trợ cho đánh giá tổng hợp là:
- SV (ĐC và TN) đánh giá lẫn nhau (Theo thang đánh giá và phiếu cho
điểm ở phụ lục 2)
- Đánh giá quá trình học tập SV, GV có nhật ký theo dõi các hoạt động
của nhóm SV cả trên thực tế và trên mạng.
- Đánh giá thông qua các bảng trả lời của SV.
Những đánh giá này chúng tôi sẽ phân tích phần sau.
3.2.2. Đánh giá kết quả học tập thông qua các báo cáo của các nhóm
Chúng tôi tổ chức bốn buổi báo cáo cho cả nhóm TN và ĐC. Nhìn
chung, các nhóm đều đáp ứng yêu cầu của bài tập giữa kỳ. Tuy nhiên, nhóm
TN hoàn thành công việc có chất lượng hơn so với nhóm ĐC. Nội dung khoa
học của các nhóm TN được trình bày tập trung, các mục sắp xếp logic, hình
ảnh minh họa sinh động và đảm bảo các yêu cầu về thời gian hơn nhóm ĐC.
Trong quá trình báo cáo, các nhóm TN cũng thể hiện các kĩ năng nhóm khoa
học hơn các nhóm ĐC, các công việc như: người báo cáo, người điều khiển
máy tính, các thành viên tham gia giải đáp… phối hợp khá nhịp nhàng. Trong
khi đó, những vấn đề này ở nhóm ĐC thể hiện chậm chạp, có nhóm báo cáo
theo kiểu độc thoại không thể hiện có sự hỗ trợ của các thành viên.
Những điều này được xác nhận thông qua việc đánh giá của SV, GV
dựa trên bảng tiêu chí và phiếu khảo sát SV.Chúng tôi thống nhất tiêu chí, tỉ
lệ điểm giữa việc tự đánh giá của SV và kết quả đánh giá độc lập của GV.
Tổng hợp các kết quả đánh giá của SV và của GV sau khi quy đổi thành điểm
thông thường (thang điểm 10 như quy định hiện hành). Đầu tiên, chúng tôi
xin chọn xử lí kết quả của các nhóm theo đánh giá từ phía SV.
Qua phân tích thống kê với các tiêu chí, chúng tôi có các thông số
thống kê của nhóm TN và ĐC ở bảng 3.1.
1/ Về nội dung khoa học của bản báo cáo:
Sản phẩm cuối cùng của các nhóm là các báo cáo nội dung mà họ đạt
được trên lớp trước sự phản biện của GV và các nhóm khác. Kết quả thu được
thể hiện ở bảng 3.2 về phân bố tần suất điểm và biểu đồ phân phối điểm hình
3.1. Chúng tôi nhận thấy cả nhóm TN và nhóm ĐC đều phân bố điểm trong
phạm vi từ 8 đến 9 điểm, nhưng từ bảng 3.1 ta thấy độ lệch chuẩn (Std.
Deviation) của nhóm TN (0.1986) nhỏ hơn nhóm ĐC (0.2929) và điểm trung
bình (Mean) của nhóm TN là 8.712 và ĐC là 8.280. Điều này chứng tỏ, ở tiêu
chí này, điểm của nhóm ĐC không tập trung bằng nhóm TN và nhóm TN có
xu hướng lệch về phía điểm cao hơn nhóm ĐC.
PHAN NHOM N Mean
Std.
Deviation
Std.
Error
Mean
SU DUNG CN Thuc nghiem 26 8.792 .1937 .0380
Doi chung 30 8.440 .5475 .1000
HOAT DONG Thuc nghiem 26 8.735 .1522 .0298
Doi chung 30 8.363 .4165 .0760
SAN PHAM Thuc nghiem 26 8.712 .1986 .0390
Doi chung 30 8.280 .2929 .0535
DIEM CONG Thuc nghiem 26 .896 .4103 .0805
Doi chung 30 .787 .2569 .0469
TONG CONG Thuc nghiem 26 9.045 .2259 .0443
Doi chung 30 8.623 .3645 .0666
Bảng 3.1. Số liệu các thông số thống kê của nhóm TN và nhóm ĐC do SV đánh giá
Lại nhóm Frequency Percent Valid
Percent
Cumulative
Percent
Thuc
nghiem
V
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVLPPDH030.pdf