Tài liệu Luận văn Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Luận văn
Xây dựng và phát triển thành
phố Đà Nẵng trong thời kỳ
CNH, HĐH đất nước
Style Definition: ch11: Font: 13 pt, Centered,
Indent: First line: 0", Space Before: 0 pt,
After: 0 pt, Line spacing: Multiple 1.45 li
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những thành tựu phát triển KT-XH của thành phố Đà Nẵng trong những
năm qua, có sự đóng góp quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI). FDI thực sự trở thành một nguồn vốn quan trọng cho phát triển,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở ra nhiều ngành nghề,
sản phẩm mới, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, tạo thêm
việc làm, góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu, phát triển quan hệ kinh tế
đối ngoại của thành phố ven biển miền Trung. Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đã và đang trở thành một bộ phận kinh tế quan trọng của thành phố,
đóng góp ngày càng tăng trong tổng sản phẩm của thành phố Đà Nẵng.
Tuy nhiên, hoạt động FDI những năm qua còn bộc lộ nhiều mặt yếu
kém. Đồng ...
104 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Xây dựng và phát triển thành
phố Đà Nẵng trong thời kỳ
CNH, HĐH đất nước
Style Definition: ch11: Font: 13 pt, Centered,
Indent: First line: 0", Space Before: 0 pt,
After: 0 pt, Line spacing: Multiple 1.45 li
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những thành tựu phát triển KT-XH của thành phố Đà Nẵng trong những
năm qua, có sự đóng góp quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI). FDI thực sự trở thành một nguồn vốn quan trọng cho phát triển,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở ra nhiều ngành nghề,
sản phẩm mới, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, tạo thêm
việc làm, góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu, phát triển quan hệ kinh tế
đối ngoại của thành phố ven biển miền Trung. Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đã và đang trở thành một bộ phận kinh tế quan trọng của thành phố,
đóng góp ngày càng tăng trong tổng sản phẩm của thành phố Đà Nẵng.
Tuy nhiên, hoạt động FDI những năm qua còn bộc lộ nhiều mặt yếu
kém. Đồng thời, trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang đặt ra triển vọng và
thách thức lớn trên nhiều lĩnh vực trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XIX (nhiệm kỳ
2006-2010) đã đặt ra yêu cầu: Thực hiện đầy đủ và vận dụng linh hoạt các cơ
chế chính sách ưu đãi đầu tư và hỗ trợ sản xuất kinh doanh đi đôi với tiếp tục
nghiên cứu ban hành một số cơ chế chính sách ưu đãi nhằm tạo môi trường
thông thoáng để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) [2, tr.60].
Nâng cao sự tác động tích cực của FDI đối với phát triển KT-XH thành
phố sẽ góp phần thực hiện tốt Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 16-10-2003 của
Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ
CNH, HĐH đất nước, hoàn thành mục tiêu: đưa thành phố Đà Nẵng trở
thành “một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế- xã hội
lớn của miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại du lịch
và dịch vụ;…. phấn đấu để trở thành một trong những địa phương đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cơ bản trở thành thành phố
công nghiệp trước năm 2020”.
Nghiên cứu sự tác động FDI đối với phát triển KT-XH trong thời gian
qua ở thành phố Đà Nẵng, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao
sự tác động tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của FDI đối với KT-XH của Đà
Nẵng là rất cần thiết. Do vậy, vấn đề “Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng” được chọn làm đề tài nghiên
cứu của luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung là vấn đề được nhiều học giả
quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam đã xuất bản nhiều sách, báo, công trình
nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam như:
- Những vấn đề giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (Nguyễn Khắc Thân, Chu Văn Cấp
chủ biên – NXB Pháp lý H.1992);
- Luận văn tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Huy Thám “Kinh nghiệm thu hút
vốn đầu tư nước ngoài ở các nước ASEAN và vận dụng vào Việt Nam”
(H.1999);
- Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, cơ sở pháp lý - hiện trạng - cơ hội -
triển vọng (NXB Thế giới H.1994);
- Luận án PTS của Mai Đức Lộc “Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
việc phát triển kinh tế Việt Nam" (H.1994);
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thực trạng và giải pháp (Trần
Xuân Tùng, Nxb Chính trị quốc gia H.2005).
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam (Nguyễn
Anh Tuấn, Nxb Tư pháp, H.2005).
- Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam (CIEM SIDA, Nxb Khoa học kỹ thuật, H.2006).
Các đề tài trên đã nghiên cứu bản chất và xu hướng vận động của đầu tư
trực tiếp nước ngoài, đề ra một số giải pháp trong thu hút, quản lý FDI ở Việt Nam.
Đặc biệt, đã có một số công trình nghiên cứu vấn đề thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài trên địa bàn Đà Nẵng được công bố giúp chung ta có cái nhìn
tương đối rõ hơn tình hình, triển vọng của hoạt động đầu tư nước ngoài của
thành phố ven biển miền Trung này như:
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở thành phố Đà Nẵng (Luận án Thạc
sỹ kinh tế của Nguyễn Hữu Chiến H.1999);
Một số giải pháp cơ bản nhằm thu hút và quản lý đầu tư trực tiếp nước
ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (đề tài khoa học cấp thành phố- Trung
tâm xúc tiến đầu tư Đà Nẵng- ĐN. 2003).
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề: “Tác động đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng” dưới góc
độ khoa học kinh tế - chính trị. Do đó, đề tài luận văn này là cần thiết và
không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Tìm giải pháp nâng cao sự tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực
của FDI vào phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đầu tư trực tiếp nước ngoài;
- Thực trạng sự tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát
triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng;
- Tìm ra nguyên nhân những sự tác động tích cực cũng như tiêu cực của
đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng;
- Đề ra các giải pháp để nâng cao tác động tích cực của FDI đối với đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Sự tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đối tượng khảo sát: các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng,
tình hình KT-XH có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Phạm vi khảo sát: địa bàn thành phố Đà Nẵng, thời gian từ khi thành
phố Đà Nẵng được tách ra từ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, để trở thành đơn vị
hành chính trực thuộc trung ương (năm 1997-nay).
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và những quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
luận văn sử dụng các phương pháp khảo sát thực tế, phỏng vấn chuyên gia,
phân tích, tổng hợp, so sánh…, đồng thời kế thừa có chọn lọc kết quả của một
số công trình nghiên cứu có liên quan.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Đánh giá sự tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với KT-XH ở
thành phố Đà Nẵng kể từ khi Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc
Trung ương đến nay;
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao sự tác động tích cực của đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển KT-XH ở thành phố trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ VAI TRÒ FDI
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ –XÃ HỘI
1.1. BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1.1 Khái niệm đầu tư (Investment)
Có nhiều cách hiểu đầu tư, nhưng thông thường đầu tư được coi là “bỏ
vốn (tiền của, sức lao động, thì giờ…) vào một công cuộc” [11, tr.257]; hoặc
là việc “nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình
thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư”[11, tr.257], nhằm đạt được
những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.
Cho đến nay, có rất nhiều quan điểm, khái niệm, định nghĩa về đầu tư,
trong đó có 2 khái niệm tiêu biểu về đầu tư như sau:
Đầu tư là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội, nhằm
tạo ra năng lực vốn lớn hơn. Trên bình diện doanh nghiệp, đầu tư là việc di
chuyển vốn vào hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lại một khoản tiền lớn hơn.
Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời gian
tương đối dài (từ 2 năm trở lên) nhằm thu lợi nhuận hoặc lợi ích KT-XH.
Theo những định nghĩa trên, thì hoạt động đầu tư phải có các đặc trưng
sau: đầu tư là một hoạt động tài chính (bỏ vốn thu lợi nhuận), vốn đầu tư có
thể là tiền hoặc tài nguyên nói chung; đầu tư là hoạt động trong khoảng thời
gian tương đối dài; đầu tư hoạt động bỏ vốn hiện tại, nhằm thu lợi trong tương
lai, vì thế đầu tư có tính rủi ro cao.
Tóm lại, đầu tư là hoạt động bỏ vốn trong một thời gian tương đối dài
nhằm thu được lợi nhuận (hoặc các lợi ích KT-XH). Vốn đó từ nhiều nguồn
khác nhau như quỹ tích luỹ của tái sản xuất xã hội hoặc thu hút từ nước ngoài
dưới nhiều hình thức.
Người bỏ vốn đầu tư được gọi là nhà đầu tư hay chủ đầu tư, chủ đầu tư
có thể là cá nhân, tổ chức hay nhà nước. Nếu phân loại đầu tư theo quan hệ
quản lý của chủ đầu tư, thì có thể chia làm hai loại đầu tư:
“Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư” (điều 3, Luật Đầu tư).
“Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ
phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông
qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp
tham gia quản lý hoạt động đầu tư”(điều 3, Luật Đầu tư).
1.1.2. Đầu tư nước ngoài
1.1.2.1. Khái niệm đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài hình thức di chuyển vốn từ nước này sang nước khác
nhằm mục đích kiếm lời. Đầu tư nước ngoài có một số đặc điểm khác với đầu
tư nội địa đó là:
Chủ đầu tư có quốc tịch nước ngoài, điều này sẽ có liên quan đến các
quy định về xuất nhập cảnh, về phong tục tập quán, ngôn ngữ...;
Các yếu tố đầu tư được di chuyển ra khỏi biên giới, đặc điểm này liên
quan đến các chính sách, pháp luật về hải quan và cước phí vận chuyển;
Vốn đầu tư có thể là tiền tệ, vật tư hàng hóa, tư liệu sản xuất, tài nguyên
thiên nhiên nhưng được tính bằng ngoại tệ, đặc điểm này liên quan đến chính
sách tài chính và tỷ giá hối đoái của các nước tham gia đầu tư.
Quan niệm đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước theo Luật Đầu tư
năm 2005 của nước ta là: “Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước
bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư
tại Việt Nam”. “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động
đầu tư” (điều 3, Luật Đầu tư).
1.1.2.2. Hình thức biểu hiện của đầu tư nước ngoài
- Vốn ODA, đây là nguồn viện trợ song phương hay đa phương dưới dạng
viện trợ không hoàn lại hay lãi suất và thường đi kèm theo điều kiện về chính trị.
- Vốn tín dụng thương mại, chủ yếu là nhằm hỗ trợ cho hoạt động
thương mại, xuất nhập khẩu giữa các nước.
- Vốn đầu tư từ việc bán cổ phiếu, trái phiếu... cho người nước ngoài
(Foreign Portfolio Investment). Thực chất là người nước ngoài tham gia đầu
tư vào các công ty đã phát hành ra cổ phiếu, trái phiếu.
- Vốn FDI, là nguồn vốn đầu tư khá phổ biến hiện nay của nước ngoài
(có thể là tư nhân, tổ chức, hay nhà nước hoặc là sự phối hợp) đầu tư vào một
quốc gia nào đó nhằm mục đích kiếm lợi nhuận là chủ yếu, thông qua hoạt
động sản xuất kinh doanh ngay tại nước nhận đầu tư.
Các hình thức đầu tư trên đều được các nhà đầu tư nước ngoài vận dụng
linh hoạt nhằm đem lại hiệu quả cao. Trên thực tế, nguồn vốn ODA và FDI
phổ biến hơn, hai nguồn này đều có vị trí quan trọng theo quan điểm của từng
nước, ở từng thời điểm.
1.1.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.3.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Có nhiều khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo Quỹ Tiền tệ quốc
tế (IMF): FDI là đầu tư có lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước
khác (nước nhận đầu tư) không phải nước mà doanh nghiệp đang hoạt động
(nước đi đầu tư) với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh nghiệp.
Theo Uỷ ban Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc (UNCTAD)
thì: FDI là đầu tư có mối liên hệ lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một pháp
nhân hoặc thể nhân (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) đối
với một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác (doanh nghiệp FDI, hoặc chi
nhánh nước ngoài hoặc chi nhánh doanh nghiệp).
Tiêu thức phân biệt FDI với hoạt động đầu tư nội địa thường tập trung
vào các đặc trưng sau:
- Về vốn góp, các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng một lượng vốn tối
thiểu theo quy định của mỗi nước nhận đầu tư để có quyền trực tiếp tham gia
điều phối, quản lý quá trình sản xuất kinh doanh;
- Về quyền điều hành quản lý, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ
thuộc vào mức vốn góp, nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thì quyền hành
hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư nước ngoài, có thể trực tiếp hoặc thuê người quản lý;
- Về phần chia lợi nhuận, dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lãi lỗ,
đều được phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định sau khi đã trừ các
khoản đóng góp.
Từ những quan niệm trên có thể hiểu FDI là sự di chuyển vốn quốc tế
dưới hình thức vốn sản xuất thông qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn
vào một nước khác để đầu tư, đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành,
tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm
quản lý... nhằm mục đích thu lợi nhuận.
1.1.3.2. Các hình thức cơ bản của FDI
Có nhiều tiêu thức để xác định hình thức FDI, về cơ bản là:
Thứ nhất, xét theo mục đích đầu tư, FDI được phân làm hai hoặc đầu tư
theo chiều ngang và đầu tư theo chiều dọc.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang: là việc một công ty tiến
hành đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chính ngành sản xuất mà họ đang có lợi
thế cạnh tranh một loại sản phẩm nào đó. Với lợi thế này họ muốn tìm kiếm
lợi nhuận cao hơn ở nước ngoài nên đã mở rộng và thôn tính thị trường nước
ngoài. Hình thức này thường dẫn đến cạnh tranh độc quyền mà Mỹ, Nhật Bản
đang dẫn đầu việc đầu tư này ở các nước phát triển.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc: Với mục đích khai thác
nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào rẻ như lao động, đất đai
của các nước nhận đầu tư. Các nhà đầu tư thường khai thác các lợi thế cạnh
tranh đó để hoàn thiện qua lắp ráp ở nước chủ nhà. Sau đó các sản phẩm được
bán trên thị trường quốc tế. Đây là hình thức khá phổ biến của hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại các nước đang phát triển.
Thứ hai, xét về hình thức sở hữu, đầu tư trực tiếp nước ngoài thường có
các hình thức sau:
+ Doanh nghiệp liên doanh: đây là hình thức FDI, qua đó pháp nhân mới
được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp mới này do hai
hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên
doanh. Hình thức này có các đặc trưng: pháp nhân mới được thành lập theo
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật
của nước chủ nhà. Mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một
pháp nhân riêng. Nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập
với các bên tham gia. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn đã quy định vào liên
doanh thì dù một bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. Mỗi
bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh
trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
+ Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: đây là doanh nghiệp thuộc
quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng toàn
bộ vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý,
điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
+ Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp: đây là hình thức đầu tư
trực tiếp, hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai hay nhiều bên
(gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động
kinh doanh ở nước nhận đầu tư, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia
kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần thành lập xí nghiệp
liên doanh hoặc pháp nhân mới. Hình thức này không làm hình thành một
công ty hay một xí nghiệp mới. Mỗi bên vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân
độc lập của mình và thực hiện các nghĩa vụ của mình trước nhà nước.
Ngoài ba hình thức cơ bản trên, theo nhu cầu đầu tư về hạ tầng, các công
trình xây dựng còn có hình thức:
+ BOT: là một phương thức đầu tư trực tiếp, thực hiện trên cơ sở văn
bản được ký kết giữa nhà đầu tư nước ngoài (có thể là tổ chức, cá nhân nước
ngoài) với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, để xây dựng kinh doanh công
trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định, hết thời hạn kinh doanh,
nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao cho nước chủ nhà công trình đó mà không
nhận bồi hoàn bất kỳ khoản nào.
Hợp đồng BOT thường được thực hiện bằng 100% vốn nước ngoài,
cũng có thể được thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần góp vốn của chính
phủ hoặc các tổ chức, cá nhân của nước chủ nhà.
+ BTO: là phương thức đầu tư dựa trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng,
kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư
nước ngoài chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Nước chủ nhà có thể sẽ
dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất
định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
+ BT: là một phương thức đầu tư nước ngoài trên cơ sở văn bản ký kết
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước
ngoài, để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà
đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà. Chính phủ
nước chủ nhà tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác
để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Các hình thức BOT, BTO, BT có ưu điểm là thu hút vốn đầu tư vào
những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng với đòi hỏi lượng vốn lớn, thu hồi vốn
trong thời gian khá dài. Như vậy sẽ làm giảm áp lực cho ngân sách, đồng thời
lại có được các công trình hoàn chỉnh để phát huy các nguồn lực khác nhằm phát
triển KT-XH. Tuy nhiên, với các phương thức này, nước chủ nhà khó tiếp nhận
kinh nghiệm quản lý, công nghệ tiên tiến và khó kiểm soát công trình.
Ngày nay, cùng với sự gia tăng của dòng vốn FDI, thì ngày càng xuất
hiện nhiều hình thức đầu tư mới, đa dạng nhằm đưa lại hiệu quả cao cho nhà
đầu tư và nước nhận đầu tư.
1.1.3.3. Xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay
FDI phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế và thương mại thế
giới. Toàn cầu hóa kinh tế ngày càng thúc đẩy sự phát triển các luồng vốn
FDI, nhằm tối đa hóa lợi nhuận của vốn đầu tư thông qua di chuyển sản xuất,
kinh doanh đến địa điểm có lợi nhất về chi phí và tiêu thụ. Vai trò của các
công ty xuyên quốc gia ngày càng tăng lên trong quá trình phân bổ và di
chuyển các dòng vốn FDI trên thế giới. Ngày nay, sự vận động của FDI biểu
hiện trên một số xu hướng sau:
Cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng,
vốn đầu tư nước ngoài đã phát triển nhanh và trở thành một hình thức quan
trọng trong hoạt động đầu tư của các quốc gia trên thế giới.
Theo báo cáo của UNCTAD về đầu tư thế giới, tổng vốn lưu chuyển
quốc tế trong mấy thập kỷ vừa qua tăng mạnh với mức tăng bình quân khoảng
20 - 30%/năm. Những năm 1970, vốn FDI toàn thế giới mới ở mức khoảng 25
tỷ USD, đến thời kỳ năm 1980 - 1985 đã tăng gấp đôi, đến năm 1995 đã đạt
mức 235 tỷ USD. Năm 2000, cùng với đà phục hồi của kinh tế thế giới sau
một thời gian ngừng trệ do chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính -
tiền tệ Châu Á (1997 - 1999) vốn FDI đạt đến mức kỷ lục, vượt ngưỡng 1.000
tỷ USD, trong đó có phần tăng mạnh do xu hướng sáp nhập và mua lại các
công ty, hình thành các công ty, tập đoàn khổng lồ chưa từng có trước đây.
Năm 2001, FDI giảm xuống mức 760 tỷ USD và năm 2002 giảm tiếp, chỉ còn
543 tỷ USD do trào lưu mua lại, sáp nhập công ty đã giảm xuống và ảnh
hưởng của tình trạng trì trệ, suy thoái của kinh tế thế giới, sự phục hồi chậm
chạp của các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, Liên minh Châu Âu (EU).
Nhìn chung, luồng vốn FDI đã có khối lượng lớn, chiếm tỷ trọng đáng
kể và trở thành bộ phận quan trọng trong tổng vốn đầu tư và tài chính, sự tiến
bộ nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin và viễn
thông, đã tạo ra những khả năng mới cho các hoạt động đầu tư nước ngoài
diễn ra thuận lợi, nhanh chóng hơn, là cơ sở của sự gia tăng quy mô và tính đa
chiều, đa dạng của hoạt động FDI.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành một xu thế khách
quan, tác động đến sự phát triển của tất cả các nước, thì việc Việt Nam mở
cửa thu hút FDI đang trở thành một đòi hỏi cấp thiết để tăng cường tiềm lực
kinh tế, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và quản lý, góp phần mở rộng
thị trường, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước.
Sự phân bổ dòng vốn FDI không đều, phần lớn tập trung ở các nước
công nghiệp phát triển, dòng vốn FDI chảy vào các nước đang phát triển tuy
có chiều hướng tăng lên nhưng tỷ trọng còn rất nhỏ bé.
Cũng theo báo cáo đầu tư thế giới của UNCTAD, năm 1999 các nước
phát triển chiếm 76,5% trong tổng số 865 tỷ USD vốn FDI toàn cầu, trong khi
các nước đang phát triển chia nhau số vốn còn lại (khoảng 192 tỷ USD); năm
2000, thu hút vốn FDI của các nước đang phát triển được cải thiện, đạt trên
200 tỷ USD trong tổng số khoảng 1.200 tỷ USD FDI toàn cầu; năm 2001 và
2002, khoảng 80% lượng vốn FDI toàn cầu được đầu tư giữa các nước công
nghiệp với nhau, các nước đang phát triển chỉ tiếp nhận được khoảng 20%
lượng vốn còn lại. EU là nguồn cung cấp FDI lớn nhất và chủ yếu là trao đổi
tư bản trong nội bộ khối; vốn đầu tư ra ngoài EU lại hướng trước hết vào Mỹ.
Mỹ cũng là nhà cung cấp FDI thuộc loại lớn nhất, nhưng đồng thời cũng là
nước tiếp nhận FDI hàng đầu thế giới (cho đến trước năm 2002).
Trước xu thế trên, để thu hút được nhiều FDI phục vụ cho sự nghiệp
CNH, HĐH, chúng ta cần phát huy những lợi thế của nước ta như: chính trị
ổn định, KT-XH phát triển, môi trường đầu tư đang được cải thiện, các yếu tố
đầu vào sản xuất rẻ...
Dòng vốn FDI đang chịu sự chi phối và kiểm soát chủ yếu bởi các
TNCs của các nước phát triển.
Mặc dù ngày càng có sự đa dạng hóa trong các đối tác và chủ thể tham
gia vào quá trình luân chuyển FDI, nhưng thực chất dòng vốn FDI quốc tế
hiện nay đang bị chi phối bởi các công ty xuyên quốc gia ở các nước phát
triển. Các công ty xuyên quốc gia trở thành những chủ thể đầu tư trực tiếp với
khối lượng kiểm soát trên 90% tổng FDI toàn thế giới, đồng thời là lực lượng
chủ yếu vận hành những mảng lớn của nền kinh tế thế giới, nắm vững nguồn
vốn tài chính, kỹ thuật, nắm giữ các ngành kinh tế then chốt và mũi nhọn,
kiểm soát thương mại quốc tế theo thống kê, các công ty xuyên quốc gia nắm
giữ gần 40% sản lượng công nghiệp; 60% ngoại thương, 80% kỹ thuật mới
của thế giới tư bản. Chỉ tính riêng 100 công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới
(tất cả đều thuộc Mỹ, EU và Nhật Bản) đã chiếm 1/3 FDI toàn cầu và tổng tài sản
ở nước ngoài của các công ty này đã lên tới 1.400 tỷ USD, sử dụng 73 triệu lao
động, trong đó lao động ở nước ngoài là 12 triệu, chiếm trên 16%.
Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia tiếp tục vươn ra các khu vực khác
nhau trên thế giới với quy mô FDI ngày càng lớn, đóng vai trò ngày càng
quyết định đối với lĩnh vực này. Bên cạnh việc giữ vững các khu vực đầu tư
truyền thống như Châu Âu, Bắc Mỹ, các công ty xuyên quốc gia đang gia
tăng hoạt động đầu tư vào những địa bàn mới đầy triển vọng. Đặc biệt, tất cả
các công ty xuyên quốc gia đều đẩy mạnh đầu tư vào khu vực châu Á. Đây
cũng là địa bàn ưu tiên đầu tư hàng đầu của Nhật Bản, hàng thứ hai của Mỹ (sau
Châu Âu) và hàng thứ ba của các nước Châu Âu (sau Bắc Mỹ và Châu Âu).
Đối với nước ta, cần chú trọng đến thu hút FDI từ các TNCs sẽ tận dụng
sức mạnh về tài chính, công nghệ và khả năng tiếp cận thị trường thế giới của
các TNCs vào quá trình phát triển KT-XH, hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước. Mặt khác, Việt Nam hiện là một trong những địa bàn mới đầy triển
vọng để các TNCs nhắm tới đầu tư.
Tính cạnh tranh giữa các nước đầu tư và giữa các nước tiếp nhận đầu
tư với nhau ngày càng cao. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới và tiến trình
toàn cầu hóa làm cho nguồn vốn FDI ngày càng mở rộng và gia tăng nhưng
đồng thời nhu cầu thu hút sử dụng FDI ở tất cả các nước. Đặc biệt là các nước
đang phát triển cũng ngày càng lớn, dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt giữa các
nước và khu vực nhằm thu hút nguồn vốn này. Các nước nhận FDI - đặc biệt
là các nước vừa phục hồi sau khủng hoảng, các nền kinh tế đang chuyển đổi
và các nước đang phát triển khác có xu hướng tập trung nỗ lực đẩy mạnh việc
cải thiện môi trường đầu tư theo hướng thông thoáng, mở cửa rộng hơn, tạo
điều kiện kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi hơn, kích thích tiêu dùng nội
địa, dỡ bỏ bớt những “rào cản” trong các lĩnh vực, kể cả lĩnh vực nhạy cảm
như bảo hiểm, viễn thông, năng lượng... nhằm thu hút, “lôi kéo” FDI.
Trong tổng FDI toàn cầu, các nước đang phát triển chỉ tiếp nhận được
trên 20%, nhưng 2/3 của số đó lại tập trung vào một số nước có điều kiện
thuận lợi và sức hấp dẫn đầu tư cao như Trung Quốc, ấn Độ, Singapore, Hàn
Quốc... Hàn Quốc trước đây là nước chủ yếu sử dụng vay nợ nước ngoài để
phát triển. Từ cuối những năm 1980 và nhất là sau khủng hoảng tài chính, tiền
tệ khu vực đã thay đổi chính sách, chuyển sang mở cửa thu hút mạnh FDI để
cơ cấu lại nền kinh tế. Trong đó có việc cơ cấu lại hệ thống các tập đoàn kinh
tế, do vậy đã thoát nhanh khỏi khủng hoảng, tạo ra sức sống mới cho nền kinh
tế. Nhiều nước khác trong khu vực cũng đang tích cực cải thiện môi trường
đầu tư, cạnh tranh trong việc thu hút FDI như Thái Lan, Malaysia, Philippin...
Hiện nay đang có sự cạnh tranh khá gay gắt về thu hút FDI trong khu vực
đang xuất hiện xu hướng dịch chuyển luồng vốn FDI từ một số nước ASEAN
sang Trung Quốc...
Không chỉ có sự cạnh tranh của các nước tiếp nhận đầu tư, cuộc cạnh
tranh giữa các nhà đầu tư cũng không kém phần quyết liệt, tạo cho các nước
tiếp nhận đầu tư có khả năng lực chọn. Các nhà cung cấp FDI đang “ráo riết”
chào mời để có thể nhảy vào những lĩnh vực và thị trường kinh doanh béo bở,
những dự án lớn được chính phủ nước sở tại khuyến khích bảo lãnh, bảo hộ...
Trong bối cảnh đó, nước ta cần có chiến lược thu hút đầu tư và sử dụng
FDI, chiến lược ấy phải phù hợp với chiến lược phát triển KT-XH. Trong đó
mức độ ổn định về chính trị - xã hội, kết quả của sự nghiệp đổi mới đất nước,
hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư là những yếu tố quan trọng
quyết định để tăng luồng vốn FDI vào Việt Nam nhằm thực hiện những mục
tiêu KT-XH.
FDI giữa các đối tác tham gia quá trình luân chuyển vừa có tính quốc
tế hóa, vừa có tính cục bộ hóa.
Các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến FDI và nhận thức được tầm
quan trọng của FDI đối với tăng trưởng kinh tế và phân công lao động quốc tế
trong quá trình toàn cầu hóa. Cùng với tốc độ lưu chuyển vốn quốc tế nhanh,
thị trường tài chính của các quốc gia đang mở rộng hơn, tạo nên xu thế ngày
càng hội nhập vào thị trường tài chính thế giới.
Hiện tượng “đa biên hóa” trong xu hướng vận động của FDI ngày càng
đậm nét, rất nhiều các công trình có sự tham gia của “tập thể” nhiều chủ đầu
tư. Sự tham gia này có thể dưới dạng góp cổ phần hoặc phân nhỏ công trình
thành các hạng mục đầu tư cho nhiều chủ thể tham gia. Tuy nhiên, FDI cũng
mang tính cục bộ khu vực, chẳng hạn như các nước EU là những nhà đầu tư
hàng đầu thế giới, nhưng phần lớn khối lượng đầu tư được thực hiện ngay
trong nội bộ các nước EU. Do các yếu tố về địa lý và văn hóa mà hiện nay,
trên thế giới đã hình thành các nhà đầu tư truyền thống của từng khu vực; ví
dụ: Nam Mỹ là “lãnh địa” của các nhà đầu tư Mỹ, còn Nhật Bản đang nắm
giữ thị phần đầu tư lớn ở Đông Á.
Như vậy, đối tác đầu tư của nước ta trong thời gian tới vừa đa dạng theo
hướng đa phương, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, vừa tập trung vào các nhà
đầu tư có tiềm lực tài chính, công nghệ, có uy tín và kinh nghiệm từ Nhật
Bản, Mỹ, Trung Quốc....
Hầu hết các nước đều tham gia vào cả hai quá trình đầu tư và tiếp
nhận đầu tư.
Hầu hết các nước đều tham gia vào cả hai quá trình đầu tư và tiếp nhận
đầu tư. Năm 1998, EU đầu tư ra nước ngoài 368 tỷ USD, nhưng cũng tiếp
nhận 230 tỷ USD vốn FDI, là khu vực đầu tư và tiếp nhận đầu tư trực tiếp lớn
nhất thế giới. Các nước công nghiệp phát triển (G7) chiếm 4/5 tổng FDI toàn
thế giới, nhưng cũng thu hút trên 2/3 tổng vốn FDI toàn cầu.
Quá trình phân công lao động và quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới
ngày càng sâu sắc, giúp các quốc gia phát huy lợi thế so sánh của mình khi
tham gia đầu tư ra nước ngoài, đồng thời bổ sung nguồn vốn đầu tư để khắc
phục những hạn chế của mình (nhất là về công nghệ và năng lực quản lý đối
với các nước đang phát triển), làm tăng hiệu quả hoạt động kinh tế trong nước
thông qua việc tiếp nhận FDI. Đây là cơ sở của sự gia tăng xu hướng đầu tư.
Hiện nay, nhiều nước và vùng lãnh thổ đang phát triển, ngoài việc thu
hút FDI từ các nước phát triển, cũng vươn lên trở thành những nhà đầu tư
quốc tế có uy tín lớn như Singapo, Đài Loan.... Tuy nhiên chủ đầu tư FDI từ
các nước này chủ yếu vào các nước có cùng khu vực địa lý và mang tính chất
chuyển giao một số ngành, cơ sở kinh tế có năng suất lao động thấp, sang các
các nền kinh tế kém phát triển hơn.
Vì thế, khi tiếp nhận FDI từ các nước này, cần phải xem xét, chọn lọc
những dự án phù hợp, để có thể đảm bảo tính hiệu quả trong thu hút và sử
dụng nguồn vốn FDI phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững và rút ngắn
khoảng cách về trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam đối với thế giới.
Mặt khác, chúng ta cũng cần mạnh dạn tham gia đầu tư ra nước ngoài để phát
huy lợi thế so sánh của mình trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2. TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.2.1. Quan niệm cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội
Phát triển là quá trình mà qua đó một xã hội người cùng nhau phấn đấu
thỏa mãn được các nhu cầu mà xã hội ấy coi là cơ bản và hiện đại. Theo nghĩa
rộng, phát triển KT-XH bao gồm cả khía cạnh chính trị và phát triển con người.
Phát triển KT-XH là sự phát triển, trong đó tăng trưởng kinh tế nhanh,
có chất lượng, xã hội ổn định và phát triển, môi trường trong sạch. Phát triển
KT-XH nhanh, bền vững đang là vấn đề vừa có tính cấp bách vừa có tính
chiến lược đối với mỗi quốc gia.
Đại hội IX của Đảng đã đưa ra mô hình tổng quát kinh tế của nước ta
trong thời kỳ quá độ là: “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa". Trong mô hình kinh tế này, một mặt, chúng ta sử dụng cơ chế thị
trường với tư cách là thành quả của nền văn minh nhân loại làm phương tiện
để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân; mặt khác, đề cao vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước đối
với nền kinh tế nhằm mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh" [12].
Các chủ trương, định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
kinh tế xã hội đều hướng đến sự phát triển bền vững, với những mục tiêu:
tăng trưởng kinh tế nhanh; xã hội ổn định phát triển; môi trường trong sạch.
Ngay từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định
sự gắn kết giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, trong đó coi: trình độ
phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng
những mục tiêu xã hội lại là mục đích của hoạt động kinh tế.... Trên cơ sở
phát triển sản xuất, tăng thêm thu nhập quốc dân, từng bước mở rộng quỹ tiêu
dùng xã hội, làm cho nó giữ vị trí ngày càng lớn trong phát triển sự nghiệp
giáo dục, y tế, văn hóa và các sự nghiệp phúc lợi khác. Trong Chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 1991-2000 được thông qua tại Đại
hội VII của Đảng nêu rõ: tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Đại hội IX của Đảng cũng đã ra
nhiệm vụ: “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo và môi trường, phát triển KT-
XH gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo giữa môi trường
nhân tạo và môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học" [12, tr.162].
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã
hội trong phạm vi cả nước, ở từng địa phương, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt chính sách
xã hội trên cơ sở phát triển, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ,
tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển KT-XH [13, tr.101].
Với nhận thức về phát triển KT-XH, chúng ta có điều kiện tìm hiểu mối
quan hệ và vai trò của FDI đối với phát triển KT-XH. Có thể nói, FDI có tác
động mạnh mẽ đến phát triển KT-XH của nước tiếp nhận đầu tư trên nhiều
mặt: tăng trưởng kinh tế, cán cân thanh toán, phúc lợi xã hội, thu nhập của
người lao động, văn hoá, đạo đức… Sự tác động ấy diễn ra cả hai chiều thuận
và nghịch đối với nước tiếp nhận đầu tư: có nhiều mặt tích cực, đồng thời
cũng có những mặt hạn chế, bất lợi riêng.
1.2.2. Những tác động tích cực của FDI đối với phát triển kinh tế -
xã hội
FDI có tác động tích cực đến kinh tế – xã hội đối với nước tiếp nhận đầu
tư trên một số mặt chủ yếu sau đây:
1.2.2.1. FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bổ sung nguồn vốn cho
phát triển kinh tế - xã hội
Tăng trưởng kinh tế thường gắn với tỷ lệ đầu tư. Vốn đầu tư cho phát
triển kinh tế được huy động từ hai nguồn chủ yếu là vốn trong nước và vốn
ngoài nước. Vốn trong nước được hình thành thông qua tiết kiệm và đầu tư.
Vốn nước ngoài được hình thành thông qua vay thương mại, đầu tư gián tiếp
và hoạt động FDI. Với các nước nghèo và đang phát triển, vốn là một yếu tố
đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế. Những quốc gia này luôn lâm
vào tình trạng thiếu vốn đầu tư, hoạt động sản xuất và đầu tư ở những nước
này như là một “vòng đói nghèo luẩn quẩn” (theo Paul A. Samuelson). Để
phá vỡ vòng luẩn quẩn ấy, các nước nghèo và đang phát triển phải tạo ra “một
cú huých lớn”, mà biện pháp hữu hiệu là tăng vốn cho đầu tư, huy động các
nguồn lực để phát triển nền kinh tế để tạo ra tăng trưởng kinh tế dẫn đến thu
nhập tăng.
So với những hình thức đầu tư nước ngoài khác, đầu tư trực tiếp nước
ngoài có những ưu điểm cơ bản sau đây:
- FDI không để lại gánh nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư như hỗ
trợ phát triển chính thức (ODA) hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác
như vay thương mại, phát hành trái phiếu ra nước ngoài... Do vậy, FDI là hình
thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít rủi ro cho nước
tiếp nhận đầu tư.
- Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn ra khỏi nước sở tại như đầu tư gián
tiếp. Kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực 1997
đã cho thấy, những nước chịu tác động nặng nề của khủng hoảng thường là
những nước nhận nhiều vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận, thúc đẩy quá trình này trên nhiều phương
diện: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu các
thành phần kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu công nghệ, cơ cấu lao động...
Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. FDI
được coi là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển KT-XH. Kể
từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành (1988) đến hết ngày 31/6/2006,
nước ta đã thu hút được trên 7.550 dự án (6.390 dự án còn hiệu lực) với mức
vốn đăng ký đạt hơn 68,9 tỷ USD và vốn thực hiện đạt trên 53,9 tỷ USD, vốn
đang hoạt động trên 36 tỷ USD. Tỷ lệ đóng góp vào GDP của khu vực FDI
ngày càng tăng. Nếu năm 1994, ở mức 6,9%, thì năm 2004 là 15,2% và “năm
2005 các doanh nghiệp FDI đóng góp 15,9% GDP… gần 10% tổng thu ngân
sách nhà nước” [13, tr153]. Khu vực FDI đã góp phần quan trọng trong việc
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trở thành một
bộ phận quan trọng trong hệ thống kinh tế quốc dân.
1.2.2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thúc đẩy phát triển
công nghệ, kỹ thuật, phương thức quản lý tiên tiến
Đây là điểm hấp dẫn quan trọng của FDI, bởi vì hầu hết các nước đang
phát triển có trình độ khoa học và công nghệ thấp, trong khi phần lớn những
kỹ thuật mới được phát minh trên thế giới vẫn xuất phát chủ yếu từ các nước
công nghiệp phát triển. Do đó để rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước
công nghiệp phát triển các nước đang phát triển cần nhanh chóng tiếp cận với
các kỹ thuật mới. Có nhiều phương thức chuyển giao công nghệ khác nhau
như nhập khẩu thiết bị, kỹ thuật, mua hoặc hợp đồng sử dụng bản quyền, sáng
chế; tự thiết kế và sản xuất theo bản thiết kế tổng thể do bên nước ngoài cung
cấp... Thực tế cho thấy, FDI là một kênh quan trọng đối với việc chuyển giao
công nghệ cho các nước vừa thiếu vốn, vừa có trình độ phát triển thấp, công
nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kém, đội ngũ cán bộ chưa được đào tạo đầy đủ.
Các doanh nghiệp FDI còn có tác dụng phổ biến những công nghệ hiện
đại, công nghệ sạch, giữ gìn môi trường theo các tiêu chuẩn tiên tiến cho các
doanh nghiệp trong nước, nhờ thế mà thúc đẩy khoa học – công nghệ phát
triển. Ngoài ra, do áp lực cạnh tranh từ doanh nghiệp FDI, buộc các doanh
nghiệp trong nước phải nhanh chóng học hỏi, vươn lên, đổi mới kỹ thuật,
công nghệ, cải tiến quản lý, tăng cường đào tạo cán bộ... làm cho tốc độ hiện
đại hóa được nâng lên rõ rệt.
Đồng thời, FDI có tác dụng rõ nét hơn các hình thức đầu tư nước ngoài
khác trong việc chấn hưng, làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt và sự sôi động
của nền kinh tế nước tiếp nhận nhờ gia tăng các nhà đầu tư nước ngoài, kéo
theo các dịch vụ cho họ vận tải, khách sạn, văn phòng, nhà hàng ăn uống, vui
chơi, giải trí...
Tuy nhiên, không chỉ có các nước đang phát triển quan tâm đến yếu tố
chuyển giao công nghệ của FDI, mà các nước công nghiệp phát triển cũng
đang tìm cách tận dụng ưu điểm này của FDI nhằm hợp lý hóa sản xuất, tận
dụng lợi thế so sánh để nâng cao sức cạnh tranh, năng suất và hiệu quả tổng
thể của nền kinh tế. Những ngành có khả năng cạnh tranh cao thì mở rộng đầu
tư ra nước ngoài, những ngành trong nước kém sức cạnh tranh thì có thể cho
doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, thậm chí thôn tính hoặc xóa bỏ những
doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả trong nước. Đây cũng là kết quả tất yếu
của quá trình phân công, hợp tác lao động quốc tế, chuyên môn hóa và hợp lý
hóa sự phân bổ các nguồn lực thông qua FDI.
Đối với nước ta, hoạt động FDI những năm qua đã góp phần quan trọng
trong nâng cao năng lực công nghệ cho các doanh nghiệp FDI và các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. “Đến năm 2002 việc chuyển giao công nghệ
trong khu vực có vốn ĐTNN chiếm 90% trong số 200 hợp đồng” [28, tr.186].
Nhiều công nghệ mới đã được chuyển giao. Ví dụ như: khai thác dầu khí
ngoài khơi, lắp ráp các tổng đài kỹ thuật số, công nghệ chế tạo máy biến thế,
cáp; hệ thống lắp ráp tự động bảng mạch điện tử; sản xuất mô tơ nhỏ; chíp
điện tử; công nghệ về viễn thông; nuôi trồng, chế biến một số nông, lâm, thủy
sản; công nghệ dịch vụ kinh doanh khách sạn.
Sự phát triển công nghệ kỹ thuật cũng tác động mạnh mẽ đến xã hội, các
tiêu chuẩn mới với những đòi hỏi khắt khe hơn trên các lĩnh vực giáo dục, y
tế, an tòan thực phẩm, vệ sinh môi trường... làm cho chất lượng cuộc sống
không ngày càng đươc nâng lên.
1.2.2.3. FDI góp phần thâm nhập thị trường thế giới và khu vực, mở
rộng thị trường xuất khẩu, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Chủ thể chủ yếu của hoạt động FDI trên thế giới hiện nay là các công
ty, tập đoàn xuyên quốc gia với mạng lưới chân rết toàn cầu; thông qua tiếp
nhận đầu tư của các công ty, tập đoàn này, nước sở tại có điều kiện thuận lợi
để tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu,
làm quen với tập quán thương mại quốc tế, thích nghi nhanh hơn với những
thay đổi trên thị trường thế giới... Đó là vai trò làm cầu nối và thúc đẩy quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế rất quan trọng của FDI, một nhân tố đẩy nhanh
quá trình toàn cầu hóa kinh tế.
Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN với uy tín của mình đã giúp hàng hóa
Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. “Đến nay, hàng hóa Việt Nam đã có
mặt trên 140 nước và ngày càng khẳng định chỗ đứng của mình trên thị
trường mới như: EU, châu Mỹ, Trung Đông… góp phần tăng nguồn thu cho
ngân sách… trong 5 năm qua (2001-2005) mỗi năm đóng góp cho ngân sách
gần 1 tỷ USD” [16, tr.111].
Hoạt động FDI góp phần quan trọng đối với đẩy mạnh xuất khẩu và cải
thiện cán cân thanh toán. Trong đó, xuất khẩu là một trong những giải pháp
tăng trưởng kinh tế, góp phần tăng thêm thu nhập cho nền kinh tế, từ đó tạo
điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Thông qua thặng dư xuất khẩu và
chuyển vốn đầu tư vào Việt Nam, hoạt động FDI góp phần vào việc hạn chế
thâm hụt của cán cân thanh toán.
Ngoài ra, FDI còn góp phần tích cực hòan thiện, nâng cao nghiệp vụ
quản lý xuất nhập khẩu theo tiến trình hội nhập quốc tế: như hải quan, thực
hiện lộ trình cát giảm thuế; nâng cao hệ thống kinh tế - kỹ thuật xuất nhập
khẩu như: thương mại điện từ, ngân hàng điện tử, vận tải (cảng công ten nơ,
hệ thống vận tải bồn dầu theo tiêu chuẩn quốc tế, cầu cảng, hàng không....).
Với sự đóng góp của các doanh nghiệp FDI, kim ngạch xuất khẩu Việt
Nam tăng nhanh, góp phần nâng mức tăng kim ngạch xuất khẩu lên 16% năm
2005. Nếu như giai đoạn 1990-1995 kim ngạch xuất khẩu khu vực ĐTNN đạt
trên 1,12 tỷ USD thì giai đoạn 1996-2000 đạt trên 10,6 tỷ (chiếm 25% kim
ngạch xuất khẩu cả nước). Đến giai đoạn 2001-2005, xuất khẩu của khu vực
FDI (không kể dầu thô) đạt mức 33,8 tỷ USD, chiếm trên 33% tổng giá trị
xuất khẩu của cả nước. Nếu tính cả xuất khẩu dầu thô, tỷ lệ này đạt gần 55%.
Khu vực FDI chiếm khoảng 15% tổng sản phẩm nội địa (GDP), 18% tổng
vốn đầu tư toàn xã hội. Với sự tăng trưởng của xuất khẩu, cán cân thương mại
khu vực FDI luôn thăng dư: trong năm 1995 là 5 triệu USD, năm 2002 là
1,184 triệu USD và năm 2003 là 1,3 triệu USD.
1.2.2.4. FDI góp phần giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực
FDI góp phần giải quyết việc làm:
Bằng việc tăng nguồn vốn đầu tư xã hội, FDI tác động đến cung – cầu
lao động; nó không những trực tiếp thu hút và sử dụng lao động, mà còn gián
tiếp tạo thêm việc làm cho các ngành dịch vụ và cho các ngành công nghiệp
phụ trợ trong nước.
Ở nước ta, FDI đã trực tiếp thu hút, giải quyết số lượng việc làm cho xã
hội. Số người lao động trong các doanh nghiệp FDI tăng lên hàng năm. Cuối
năm 1993 số lao động trong các dự án FDI chỉ có 49.892 lao động, thì đến
cuối năm 2004 là 739.000 người, tăng 15 lần so với năm 1993. Giai đọan
1993-2004 bình quân mỗi năm số lao động trong khu vực FDI tăng thêm
66,18 nghìn lao động”.
Cùng với việc phát triển của khu vực FDI, nhiều lĩnh vực, ngành nghề
sản xuất, cung ứng dịch vụ cho khu vực này cũng phát triển theo. Như vậy, sẽ
nâng cao khả năng tạo việc làm, giảm bớt tỉ lệ thất nghiệp. Hiện nay, với
chính sách tăng dần tỉ lệ nội địa hóa trong sản phẩm của các doanh nghiệp
FDI các ngành sản xuất ô tô, xe máy, giày da, may mặc…. đã xuất hiện thêm
nhiều doanh nghiệp vệ tinh cung cấp sản phẩm dịch vụ cho doanh nghiệp
FDI, tạo ra nhiều việc làm. Tùy theo lĩnh vực sản xuất, số việc làm do doanh
nghiệp FDI gián tiếp tạo ra tương đối lớn. Năm 2002 số lao động gián tiếp do
doanh nghiệp FDI tạo ra là 553.570, bằng với số lao động đang trực tiếp trong
khu vực FDI. Đến cuối năm 2004, các doanh nghiệp FDI thu hút 77 vạn lao
động trực tiếp và 1,5 triệu lao động gián tiếp
FDI góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
FDI tác động đến vấn đề lao động của nước tiếp nhận đầu tư liên quan
đến cả số lượng và chất lượng lao động. FDI đã góp phần quan trọng trong
việc nâng cao năng lực, kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp của lao
động Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp FDI đã tạo điều kiện cho lao động nước
ta nâng cao tay nghề, tiếp cận kỹ năng, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên
tiến, rèn luyện kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp tại doanh nghiệp hoặc
gửi đi đào tạo ở nước ngoài. “Hiện nay, trình độ, năng lực của 6000 cán bộ
quản lý, 25.000 cán bộ kỹ thuật và trình độ tay nghề của hàng vạn lao động ở
các doanh nghiệp CVĐTNN được nâng lên rõ rệt” [16, tr.113].
Việc cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI, thúc đẩy các doanh nghiệp
trong nước đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý, tăng cường cán bộ, thu hút
nhân tài, nâng cao trình độ, năng lực của lao động cũng góp phần rất lớn trong
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam.
1.2.3. Những tác động tiêu cực của FDI đối với kinh tế – xã hội
Bên cạnh những mặt tích cực, FDI có thể gây ra tác động bất lợi cho
nước tiếp nhận, cần phải lưu ý:
1.2.3.1. Mất cân đối trong đầu tư
Việc sử dụng nhiều vốn đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng
có thể dẫn đến việc thiếu chú trọng huy động và sử dụng tối đa vốn trong
nước. Từ đó, gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư (giữa vốn trong nước
và vốn nước ngoài), có thể gây nên sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn
nước ngoài, vào nhà đầu tư nước ngoài (kể cả bí quyết kỹ thuật, công nghệ, đầu
mối cung cấp vật tư, nguyên liệu, thị trường sản phẩm...). Nếu tỷ trọng FDI
chiếm quá lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển thì tính độc lập tự chủ có thể bị
ảnh hưởng, nền kinh tế phát triển có tính lệ thuộc bên ngoài, thiếu vững chắc.
1.2.3.2. Lợi dụng biện pháp chuyển giá để trốn thuế gây thiệt hại cho
ngân sách và người tiêu dùng, gây sức ép cạnh tranh đến các doanh nghiệp
trong nước
Các nhà đầu tư nước ngoài thường sử dụng lợi thế của mình đối với
doanh nghiệp ở nước tiếp nhận, nhất là trong trường hợp liên doanh, để thực
hiện biện pháp “chuyển giá” (transfer pricing) thông qua cung ứng nguyên vật
liệu, chi tiết, linh kiện, bộ phận, sản phẩm dở dang với giá cao, thu lợi ngay từ
khâu này, làm cho giá thành sản phẩm cao một cách giả tạo, giảm lợi nhuận,
thậm chí gây ra “lỗ giả, lãi thật”, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và giảm
thu ngân sách của nước sở tại. Cụ thể:
- Khai tăng giá trị tài sản góp vốn. Đây là hiện tượng khá phổ biến. Gần
đây, Công ty Giám định quốc tế SGS (Thụy sĩ) tiến hành giám định thí điểm
14 dự án FDI theo hình thức liên doanh tại Việt Nam thì đã có 8 dự án chủ
đầu tư báo thiết bị nhập khẩu cao hơn 10-20% giá thực tế.
- Mua nguyên liệu, vật liệu và các yếu tố sản xuất đầu vào khác cao hơn
giá thực tế.
- Quản lý và sử dụng chi phí không hợp lý. Ví dụ chi phí tiếp thị, quảng
cáo rất lớn so với yêu cầu thực tế. Chẳng hạn như Công ty Cocacola chi cho
quảng cáo, khuyến mại, phân phối sản phẩm, quản lý hành chính của liên
doanh chiếm tới 41,8% doanh thu so với 20% doanh thu được phê duyệt tại
luận chứng kinh tế ban đầu.
- Trốn thuế. Ở nước ta hiện nay “những vi phạm pháp luật về thuế vẫn
còn diễn ra phổ biến, dưới nhiều hình thức khác nhau.... Lợi dụng sự kém
hiểu biết về chế độ kế tóan nước ngoài và trình độ ngoại ngữ yếu của cán bộ
thuế, các công ty này áp dụng hình thức kế tóan đa dạng, phức tạp nhằm bịt
mắt, qua mặt cán bộ thuế... Nhiều công ty hạnh tóan lỗ cao, khai thấp thu
nhập so với thực tế để giảm thuế thu nhập phải nộp”[16, tr.124].
Ngoài việc lợi dụng “chuyển giá”, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước,
doanh nghiệp FDI còn gây sức ép cạnh tranh cho doanh nghiệp trong nước.
Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính, công nghệ, các doanh FDI
tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt đến các doanh nghiệp trong nước. Các doanh
nghiệp trong nước nếu không đủ mạnh dễ bị mất thị phần, làm ăn thua lỗ,
thậm chí phá sản. Đôi khi, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thực hiện
chính sách cạnh tranh bằng con đường bán phá giá, chịu lỗ trong giai đoạn
đầu và các hình thức cạnh tranh không bình đẳng khác để loại trừ đối thủ cạnh
tranh độc chiếm hoặc khống chế thị trường, lấn át các doanh nghiệp trong
nước, làm cho một ngành hoặc một số ngành sản xuất trong nước không phát
triển được.
1.2.3.3. Nguy cơ trở thành bãi thải công nghệ
Lợi dụng trình độ công nghệ thấp và quản lý yếu kém của nước chủ nhà,
một số nhà đầu tư nước ngoài thông qua con đường FDI để tiêu thụ những
máy móc, thiết bị lạc hậu, thậm chí đã thải loại sang nước tiếp nhận FDI.
Thực tế ở nhiều nước cho thấy khi thực hiện các dự án liên doanh, các đối tác
nước ngoài đã tranh thủ góp vốn bằng các thiết bị và vật tư đã lạc hậu, đã qua
sử dụng (được tân trang) hoặc nhiều khi đã đến thời hạn thanh lý. Nếu không
có những quy định và sự kiểm soát chặt chẽ, nước nhận FDI dễ trở thành “bãi
thải công nghệ” của các công ty xuyên quốc gia, gây thiệt hại to lớn cho nền
kinh tế.
Ở Việt Nam tình trạng trên đang là vấn đề cần chú ý. Theo báo cáo của
Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường năm 2002: qua thẩm định 727 máy
móc, thiết bị của 42 liên doanh với nước ngoài, thì có 72% sản xuất từ 1960,
trong đó 2/3 thiết bị đã khấu hao hết; đa số công nghệ nhập vào ngành cơ khí,
hóa chất, công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm thuộc loại thông dụng, phổ
biến ở nhiều nước; không ít dự án thiết bị, công nghệ nhập vào phần nhiều cũ
kỹ, lạc hậu.
Do vậy, công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực thu hút và quản lý
nguồn vốn FDI cần có các biện pháp hữu hiệu để có thể giảm thiểu tình trạng
tiếp nhận công nghệ lạc hậu, thiết bị, máy móc cũ, năng suất thấp gây thiệt hại
cho nền kinh tế.
1.2.3.4. Tác động tiêu cực đến vấn đề xã hội
Sự có mặt của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, các công ty xuyên
quốc gia có khả năng gây ra một số ảnh hưởng bất lợi về KT-XH như làm
tăng chênh lệch về thu nhập, làm gia tăng sự phân hóa trong các tầng lớp nhân
dân, tăng mức độ chênh lệch phát triển trong một vùng hoặc giữa các vùng...
Đặc biệt, sự gia tăng số lượng dự án FDI, bao giờ cũng kèm theo sức ép về
các chính sách an sinh xã hội, trật tự an toàn cho nước chủ nhà. Việc đầu tư
cho an sinh xã hội cũng đòi hỏi chi phí ngân sách không nhỏ, như: xây dựng
nhà ở, trường học, y tế, công trình văn hóa – xã hội, vệ sinh môi trường, các
dịch vụ công khác…..
Đặc biệt, hiện tượng các chủ doanh nghiệp FDI lợi dụng sự thiếu hiểu
biết của các cơ quan, cán bộ quản lý và người lao động, kẽ hở của chính sách,
pháp luật Việt Nam để khai thác triệt để sức lao động của công nhân; ở nhiều
nơi còn có hành động đối xử bất công, xúc phạm nhân phẩm người lao động,
gây mâu thuẫn, phản kháng của công nhân như xô xát, đình công, lãn công…
Trên đây là một số tác động tiêu cực của FDI. Tuy nhiên, những tác
động gây ảnh hưởng đến KT-XH ra sao, mức độ thế nào, còn phụ thuộc vào
yếu tố chủ quan của nước chủ nhà. Nếu chúng ta có sự chuẩn bị kỹ lưỡng,
đầy đủ và có các biện pháp phù hợp, thì có thể hạn chế, giảm thiểu được
những tác động tiêu cực, bất lợi, phát huy mặt tích cực của FDI cho tiến trình
phát triển KT-XH của đất nước.
1.3. KINH NGHIỆM VỀ THU HÚT FDI ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ -
XÃ HỘI
1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Kể từ khi bắt đầu thực hiện chính sách cải cách mở cửa năm 1978 đến
nay, nền kinh tế Trung Quốc đã có sự biến đổi mạnh mẽ với tốc độ tăng
trưởng cao liên tục trong nhiều năm, GDP tăng bình quân 9,5%. Trong các
yếu tố tác động tạo ra mức tăng trưởng cao như vậy có sự đóng góp quan
trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với 40-45 tỷ USD/năm những năm
1990-2000 và 53 tỷ USD năm 2005 (gần 60% lĩnh vực sản xuất và 24% là
lĩnh vực bất động sản), Trung Quốc đã trở thành nước tiếp nhận FDI khoảng
30% tổng các luồng FDI vào tất cả các nước đang phát triển.
Tuy có một số tác động tiêu cực, nhưng về cơ bản FDI đã có những tác
động tích cực đến kinh tế – xã hội của Trung Quốc. Tận dụng được FDI,
Trung Quốc có điều kiện để cải cách cơ cấu kinh tế, phát triển công nghiệp,
hiện đại hóa đất nước, rút ngắn khoảng cách với thế giới về khoa học – công
nghệ, thúc đẩy cải cách kinh tế và hội nhập quốc tế. Năm 2001, khu vực FDI
đóng góp 1/3 tổng sản lượng công nghiệp, 1/5 giá trị gia tăng công nghệ cao,
51,5% xuất khẩu, thu hút gần 23 triệu lao động. Các khu vực kinh tế vốn lạc
hậu ở phía Trung và Tây Trung Quốc, nhờ FDI đã dần dần phát triển trên cơ
sở phát huy các ưu thế về lao động và tài nguyên dồi dào của Trung Quốc.
Có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong việc phát huy tác dụng
tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của FDI đối với phát triển KT-XH ở Trung
Quốc như sau:
Một là, nhất quán quan điểm phát triển dựa trên nguồn lực bên trong và
bên ngoài, kiên trì theo đuổi mục tiêu cải cách và mở cửa, cân đối giữa nguồn
lực trong nước và nước ngoài, sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài một
cách chủ động, hợp lý và hiệu quả, coi hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế XHCN.
Nhờ vậy, nền kinh tế phát triển cân đối, vừa phát huy được nguồn nội lực,
vừa tranh thủ được nguồn ngoại lực (mà chủ yếu từ FDI) để phát triển KT-XH.
Hai là, mở cửa từng bước, hợp lý và vững chắc. Với việc mở cửa từng
bước, hợp lý và vững chắc, Trung Quốc đã đảm bảo mục tiêu đẩy nhanh quá
trình hội nhập, nhưng hạn chế những thiệt hại cho doanh nghiệp các các ngành
kinh tế trong nước, giữ vững được an ninh kinh tế, giữ vững môi trường.
Ba là, thống nhất môi trường pháp lý giữa đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài. Sự thống nhất môi trường pháp lý đầu tư, vừa là cơ sở để nhà nước
quản lý kinh tế, xã hội bằng pháp luật, hạn chế những mặt tiêu cực của FDI,
đồng thời là cơ sở để các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài
hoạt động, ứng xử trên thương trường một cách bình đẳng và minh bạch.
Bốn là, thu hút FDI từ cộng đồng người Hoa trên thế giới. Nhân tố này
là đặc trưng riêng tạo nên sự thành công của Trung quốc trong thu hút và phát
huy tính tích cực của FDI. Trên thực tế có hơn một nửa tổng các luồng vốn
FDI đi vào Trung quốc có nguồn gốc từ Hong Kong, Singapore và Đài Loan,
phần lớn các dự án từ luồng vốn này đều có thiện chí trong đầu tư xây dựng
phát triển quê hương.
1.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Bình Dương
Theo đánh giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI): Bình Dương hiện là tỉnh đứng đầu trong bảng xếp hạng năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2006. Tính đến tháng 6-2006, toàn tỉnh Bình
Dương đã có 1.203 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn đầu
tư gần 5,6 tỷ USD, trong đó có 559 dự án FDI đầu tư trong các khu công
nghiệp (KCN) tập trung với tổng vốn 2,83 tỷ USD.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm gần 70% tổng nguồn vốn đầu tư
phát triển thời kỳ 1998 – nay. FDI là một trong những nguồn lực quan trọng tác
động tích cực vào tăng trưởng GDP, với tốc độ từ 14,57% năm 1999 lên 15,2%
năm 2004. Mặt khác nó còn góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH. Các dự án FDI hoạt động ở hầu hết các ngành kinh tế:
97,5% số dự án trong ngành công nghiệp (tập trung ngành công nghiệp chế biến,
ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, gas, khí đốt), 1,2 tổng số dự án ở
ngành dịch vụ và 0,83% số dự án ngành nông, lâm nghiệp.
Khu vực FDI đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ. Nhiều công nghệ
mới đã được nhập vào tỉnh như: lắp ráp sản xuất ô tô, sản xuất tổng đài điện
thoại kỹ thuật số, sản xuất cáp quang, dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện tử,
với trình độ công nghệ bằng hoặc cao hơn các thiết bị tiên tiến đã có trong
nước. Nhờ tiếp cận với các công nghệ mới, thiết bị hiện đại, phương pháp quản
lý tiên tiến đã dần dần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh.
FDI đã làm tăng nhanh sản phẩm xuất khẩu, tiếp cận với thị trường quốc
tế, góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập. Tổng giá trị hàng xuất khẩu của
các doanh nghiệp FDI hiện nay đã đạt 1.348 triệu USD. Giá trị xuất khẩu của
các doanh nghiệp FDI trên địa bàn chiếm 60% doanh thu doanh nghiệp. Cơ
cấu sản phẩm xuất khẩu chuyển từ nông sản và bán thành phẩm sang các sản
phẩm công nghiệp và tinh chế, nhiều ngành sản xuất nguyên nhiên liệu tại địa
phương và hệ thống sản xuất, dịch vụ và công nghiệp phụ trợ ra đời vừa đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, vừa phát huy được những nguồn lực sẵn có
của tỉnh, giải quyết việc làm cho người lao động trọng và ngoài tỉnh…
Nhiều dự án FDI đã đầu tư vào lĩnh vực bưu chính viễn thông, giao
thông vận tải, năng lượng, làm đường cao tốc, đã góp phần cải thiện rõ rét hệ
thống giao thông, bộ mặt đô thị, nâng cấp nhanh chóng cơ sở hạ tầng - kỹ
thuật của tỉnh. Ngược lại, hạ tầng – kỹ thuật ngày càng tốt thúc đẩy phát triển
KT-XH của tỉnh, tăng hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp FDI, đồng
thời cũng là điều kiện thuận lợi tiếp tục thu hút FDI, góp phần đưa Bình
Dương là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút ĐTNN.
Nhìn chung, hoạt động FDI trong thời gian qua, đã có nhiều tác động
tích cực tới quá trình tăng trưởng KT-XH của tỉnh Bình Dương. Sự hiện diện
của các nhà đầu tư nước ngoài là nhân tố tích cực để tạo ra môi trường kinh
doanh năng động cho Bình Dương. FDI đang thực sự trở thành một bộ phận
quan trọng, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, góp phần vào việc giải quyết
những mục tiêu KT-XH của tỉnh. Tuy vậy, hoạt động FDI còn có một số tác
động tiêu cực chính đối với KT-XH tỉnh Bình Dương như sau:
Một là, FDI gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế. FDI chỉ tập
trung vào công nghiệp ở lĩnh vực sản xuất nước giải khát, hoá mỹ phẩm, giày
da, may mặc và các vùng thuận lợi có cơ sở hạ tầng tốt và gần TP. Hồ Chí
Minh như Thị xã Thủ Dầu Một, huyện Thuận An, huyện Dĩ An...
Hai là, tác động không tích cực đối với các doanh nghiệp trong nước.
Với trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý và khả năng về vốn còn thấp
nên các doanh nghiệp trong nước thường thua thua thiệt, phá sản trong cuộc
cạnh tranh này với các doanh nghiệp nước ngoài (trong đó có FDI). Bên cạnh
đó, trong các doanh nghiệp liên doanh, chúng ta cũng thường thua thiệt nếu
các liên doanh này làm ăn kém hiệu quả, khi đó phải dùng vốn góp để khấu
trừ vào phần thua lỗ.
Ba là, tác động xấu đến môi trường. Vấn đề ô nhiễm môi trường đô thị,
đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước, rác thải rắn, nhất là rác thải công nghiệp có
xu thế gia tăng, do có tốc độ đô thị hoá và mật độ công nghiệp cao, đang trở
thành vấn đề cấp bách cần giải quyết.
Bốn là, FDI làm sự gia tăng dân số cơ học gây sức ép đến yêu cầu phát
triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội, như nhu cầu nhà ở, điện, nước sinh
hoạt và một loạt vấn đề xã hội cần giải quyết như đảm bảo trật tự, an toàn xã
hội, hệ thống dịch vụ công….
Năm là, các tranh chấp lao động giữa giới chủ và người lao động trong
các FDI ngày càng tăng, và chậm được giải quyết. Vì thế thường dẫn đến
đình công, bãi công trái pháp luật, gây mất trật tự, trị an, và làm ảnh hưởng
đến sản xuất, thiệt hại cho người lao động và uy tín của doanh nghiệp.
1.3.3. Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Nam
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Quảng Nam chỉ thực sự
bùng phát vào giai đoạn 2001 - 2005. Đây là giai đoạn có tính chất quyết định
trong bối cảnh vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được định hình: Khu công
nghiệp Dung Quất khởi động, thành lập Khu kinh tế mở Chu Lai, Quảng Nam
mở rộng quy mô đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang thành phố và Mỹ
Sơn, Hội An trở thành Di sản văn hóa thế giới…
Chỉ riêng giai đoạn 2001 - 2005, Quảng Nam đã thu hút đến 45 dự án
với tổng vốn đầu tư 310 triệu USD, tạo việc làm cho 8.300 lao động, đóng
góp vào ngân sách tỉnh bình quân 170 tỷ đồng/năm. Nhiều dự án lớn đã đi vào
hoạt động, kinh doanh có lãi như Khu du lịch Victoria Việt Nam, khách sạn
Riverpark, sản xuất các khuôn đúc và bột thạch anh Hoằng Tiệp, khai thác và
chế biến đá xây dựng (Wei Xern Sin Industrial), may xuất khẩu (Triệu Vỹ),
sản xuất giày (Rieker), sản xuất nước giải khát (Pepsico), Khu du lịch văn hóa
làng quê (BNC)...
FDI đã tác động tích cực đến tình hình phát triển KT-XH Quảng Nam.
Trước hết, việc thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào địa bàn
tỉnh Quảng Nam đã giải quyết được nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển KT-
XH, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong
nước, tạo thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế.
Vốn đầu tư của nước ngoài có mặt ở hầu hết tất cả các ngành, đặc biệt là
những ngành mà Quảng Nam có lợi thế. FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế theo hướng CNH, HĐH, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ
và giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu ngành. Chất lượng dự án vì vậy
cũng được nâng lên về mặt công nghệ, môi trường và qui mô.
FDI đã thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập, là một trong những kênh
đưa các sản phẩm sản xuất từ Quảng Nam xâm nhập thị trường các nước một
cách có lợi nhất. Thông qua thực hiện các dự án đầu tư các nhà đầu tư nước
ngoài trở thành cầu nối, là điều kiện tốt để Quảng Nam nhanh chóng tiếp cận
và tiến hành hợp tác được với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế, cũng như
trung tâm kinh tế, kỹ thuật công nghệ mạnh của thế giới. Kim ngạch xuất
khẩu ngày càng tăng, từ 6 triệu USD/năm 2000 lên 74 triệu USD/năm 2005.
Bên cạnh đó, nhiều dự án lớn đã đi vào hoạt động kinh doanh có lãi, tạo
ra sự đa dạng về sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm, tăng xuất
khẩu, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động, đáng nói
là thu nhập bình quân của người lao động trong khu vực có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài cao nhất trong các khu vực, bình quân khoảng 1,736 triệu
đồng/người/tháng
Có thể rút ra ba kinh nghiệm chủ yếu trong việc sử dụng có hiệu quả
FDI tại Quảng Nam:
Một là, tập trung thu hút FDI vào lĩnh vực có thế mạnh như du lịch và
phát triển theo định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng
CNH, HĐH, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng
nông nghiệp.
Hai là, FDI chưa có tác động mạnh đến vùng nông thôn, vùng sâu vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Ba là, tiếp nhận dự án FDI thiếu chọn lọc, nên giảm tính tích cực của
FDI; thực hiện chính sách “rải thảm đỏ'' cho FDI, ưu đãi quá thẩm quyền làm
giảm nguồn thu ngân sách.
Chương 2
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở ĐÀ NẴNG
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, XÃ HỘI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Thành phố Đà Nẵng được tách ra từ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng để trở
thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương từ ngày 1-1-1997, với dân số
gần 800 ngàn người, diện tích tự nhiên 1.247 km2, 8 quận huyện (có 2 huyện,
trong đó 1 huyện đảo: Hoàng Sa).
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Đà Nẵng nằm ở miền Nam Trung bộ, trên
trục giao thông Bắc - Nam về đường bộ, đường
sắt, đường biển và đường hàng không. Thành
phố là trung điểm của 3 di sản văn hoá thế giới
nổi tiếng là cố đô Huế, Phố cổ Hội An và Thánh
địa Mỹ Sơn. Trong phạm vi khu vực và quốc tế,
Đà Nẵng là một trong những cửa ngõ quan trọng
ra biển của Tây Nguyên và các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma đến các
nước vùng Đông Bắc Á thông qua Hành lang kinh tế Đông - Tây.
Địa hình hình thành phố Đà Nẵng khá đa dạng, gồm đồi núi, trung du và
đồng bằng ven biển; có bờ biển dài 30 km, vịnh nước sâu, vùng lãnh hải thềm lục
địa độ sâu 200 m trải ra 125 km tạo thành vành đai nước nông rộng lớn thích hợp
cho kinh tế biển. Bờ biển Đà Nẵng được tạp chí Forbes của Mỹ xếp vào 1 trong 6
bãi biển quyến rũ nhất hành tinh, với nhiều bãi tắm đẹp như Non Nước, Mỹ Khê,
Nam Ô... . Núi Bà Nà ở tây bắc thành phố cao gần 1500m so với mặt biển, quanh
năm không khí mát mẻ, có nhiệt độ trung bình 200C, được coi như một “tiểu Đà
Lạt”, là địa điểm lý tưởng cho du lịch và nghỉ dưỡng. Khí hậu Đà Nẵng là nơi
chuyển tiếp, đan xen giữa khí hậu miền Bắc và miền Nam, với hai mùa rõ rệt:
mùa khô từ tháng 1 đến tháng 7; mùa mưa từ tháng 8 đến tháng 12. Do địa hình
dốc, sông suối ngắn, nên mùa mưa thành phố thường bị lũ lụt. Thành phố cũng
thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão (trung bình 8 cơn bão/năm).
2.1.2. Đặc điểm xã hội
Đà Nẵng có cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh so với các tỉnh miền
Trung – Tây nguyên, với đủ 4 loại đường giao thông thông dụng (đường bộ,
đường sắt, đường biển và đường hàng không). Từ đây, có các tuyến đường
biển đi đến hầu hết các cảng lớn của Việt Nam và trên thế giới. Sân bay hàng
không quốc tế Đà Nẵng có khả năng đón các loại máy bay hiện đại trên thế
giới. Ngoài ra, hệ thống cấp nước, cấp điện và thông tin liên lạc của Đà Nẵng
phát triển mạnh và ngày càng được hiện đại hóa, được đánh giá xếp thứ ba
trong cả nước chỉ sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố có 5 khu
công nghiệp (KCN) tương đối hoàn chỉnh.
Là trung tâm giáo dục – đào tạo của miền Trung với 7 trường đại học, 13
trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp và một hệ thống trường dạy
nghề, cơ sở đào tạo ngoại ngữ, tin học; Đà Nẵng đào tạo hàng chục nghìn lao
động trẻ mỗi năm. Lực lượng lao động của thành phố được đánh giá có chất
lượng hàng đầu của khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
So với các tỉnh lân cận, Đà Nẵng có hệ thống tài chính, tín dụng phát
triển hơn hẳn, với 24 chi nhánh, văn phòng của các ngân hàng và công ty cho
thuê tài chính đang hoạt động.
2.2. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH FDI Ở ĐÀ NẴNG
2.2.1. Số lượng dự án và dòng vốn FDI vào thành phố Đà Nẵng từ
1997-2006 có xu hướng ngày càng tăng
Đến đầu tháng 11-2006, có 89 dự án FDI còn hiệu lực tại Đà Nẵng (vốn
đầu tư hơn 1,07 tỷ USD), trong đó 52 dự án đi vào hoạt động, 37 dự án đang
triển khai xây dựng nhà xưởng.
Đô thị 2.1: Số lượng dự án FDI từ năm 1997-2006
6
4
2 3
6
8
12
9
18
16
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
19
97
19
98
19
99
20
00
20
01
20
02
20
03
20
04
20
05
20
06
Năm
S
ố
dự
á
n
(Nguồn Sở Kế hoạch - Đầu tư thành phố Đà Nẵng, xem phụ lục 1, trang v)
Đồ thị 2.1 cho thấy tình hình thu hút FDI vào thành phố Đà Nẵng phân
làm hai giai đoạn: giai đoạn giảm sút (từ năm 1997-2000 ) và giai đoạn tăng
trưởng (2001 đến nay). Năm 1997, khi thành phố Đà nẵng trở thành đơn vị
hành chính độc lập trực thuộc Trung ương cũng là thời điểm mà thu hút FDI
vào Việt Nam nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng đang có xu hướng
giảm. Nếu năm 1997 thành phố thu hút 06 dự án mới thì đến năm 2000 còn
03 dự án và tương ứng với tổng vốn đầu tư cũng giảm từ 477,50 triệu USD
xuống 371,15 triệu USD (một số dự án bị rút giấy phép trước thời hạn).
Nguyên nhân, một phần ảnh hưởng khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu
vực Châu Á. Mặt khác, kinh tế các nước ASEAN có nhiều vấn đề sau thời
gian tăng tốc và phát triển “nóng”. Giai đoạn này, các nhà đầu tư phải điều
chỉnh kế hoạch hoạt động: sợ rủi ro; nguồn vay vốn từ ngân hàng và các tổ
chức tín dụng gặp khó khăn; e ngại thị trường bị thu hẹp, sức mua giảm…
Ngoài ra, chính sách pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài trong giai
đoạn này còn thiếu sự ổn định, đôi khi còn chồng chéo, nhất là quy định của
các bộ ngành và địa phương. Hơn nữa, trong giai đoạn này xét về cơ sở vật
chất và hạ tầng phục vụ cho các dự án đầu tư nước ngoài vào thành phố là còn
hạn chế so với các thành phố khác như: Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh…ít
nhiều đã ảnh hưởng đến thu hút và hoạt động của FDI.
Đến năm 2001, FDI có dấu hiệu khôi phục dần và ngày càng phát triển
mạnh mẽ. Giai đoạn năm 2001-2006 (tính đến 30-9-2006) trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng có thêm 72 dự án FDI được cấp giấy phép mới với tổng vốn đầu
tư là 443,5 triệu USD. Nếu như giai đoạn năm 1997-2000, thành phố thu hút FDI
trung bình 3,5 dự án mới/năm, thì trong thời kỳ 2001-2006 bình quân mỗi năm
thu hút gần 11 dự án, gấp hơn ba lần so với giai đoạn trước. Tốc độ tăng trung
bình là 39,59%/ năm, cao hơn tốc độ tăng chung của cả nước (33,7%/ năm).
Kết quả này đã khẳng định tính tích cực trong chỉ đạo, đổi mới cơ chế
và vận dụng một cách linh hoạt để đẩy mạnh thu hút FDI. Thành phố đã lập
dự án gọi vốn, lên danh mục dự án gửi đến các doanh nghiệp, các tập đoàn
lớn của nước ngoài, tiến hành kết nghĩa với các thành phố lớn của Liên Bang
Nga, Nhật, Mỹ, Australia (xem phụ lục 12, trang XVI)… và mở văn phòng
đại diện tại Nhật tạo thuận lợi cho công tác thu hút FDI.
2.2.2. Cơ cấu FDI ở thành phố Đà Nẵng
Xét theo cơ cấu vốn FDI ở thành phố Đà Nẵng theo thứ tự tỷ trọng vốn
góp từ cao đến thấp là: 100 % vốn – liên doanh - hợp đồng hợp tác kinh
doanh. Thời kỳ đầu đa số doanh nghiệp FDI là doanh nghiệp liên doanh với
doanh nghiệp nhà nước. Song, số lượng doanh nghiệp liên doanh theo loại
hình này giảm theo thời gian. Ngược lại doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài thì có xu hướng tăng lên. Các chủ đầu tư nước ngoài chủ yếu chọn đầu
tư bằng hình thức 100% vốn. Năm 1997 có: 34% doanh nghiệp 100%, 43%
doanh nghiệp liên doanh, 2% là doanh nghiệp hợp đồng hợp tác kinh doanh;
đến năm 2001 tỷ lệ là 55%-43%-2%, năm 2006 là: 61%-33%-6%.
Đồ thị 2.2: Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư
(Nguồn Sở Kế hoạch đầu tư thành phố Đà Nẵng, xem phụ lục 4, trang viii).
Xét theo cơ cấu ngành nghề đầu tư, thì FDI có cơ cấu từ cao đến thấp ở
3 nhóm ngành nghề như sau: công nghiệp – xây dựng, dịch vụ - du lịch và thuỷ
sản - nông lâm. Cơ cấu này ngày càng phù hợp với quy hoạch phát triển KT-
XH thành phố Đà Nẵng. Nếu năm 1997, 51% dự án thuộc ngành công nghiệp –
xây dựng, 22% dự án ngành dịch vụ - du lịch, 27% dự án ngành thuỷ sản -
nông lâm; thì năm 2002 có tỷ lệ tương ứng là: 64% - 18% - 18% và năm 2006:
57% - 32 - 11%. Như vậy, tỷ trọng ngành ngành công nghiệp - xây dựng, ngành
dịch vụ - du lịch ngày càng tăng, ngành thuỷ sản - nông lâm giảm dần1. Sự
chuyển dịch này phù hợp với định hướng cơ cấu kinh tế ngành của thành phố.
Xét về cơ cấu không gian đầu tư ( trong và ngoài khu công nghiệp): Các
dự án đầu tư vào KCN không ngừng tăng lên qua các năm, tốc độ tăng bình
quân số dự án đầu tư vào KCN là 9,78%/năm. Nếu các năm trước đây, thành
phố mới có 2 KCN: Hòa Khánh, Liên Chiểu nhưng cũng rất ít các doanh
nghiệp đầu tư trong KCN. Từ năm 2001 tới nay, thành phố đã dùng vốn ngân
sách và các nguồn vốn vay ưu đãi khác đầu tư cho xây dựng 3 KCN: Đà
Nẵng, Hòa Cầm và Thủy sản Thọ Quang), nâng cấp cơ sở hạ tầng các KCN.
Vì vậy, thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước xây dựng nhà máy trong
KCN. Đến nay trừ KCN Thuỷ sản Thọ Quang, KCN Hoà Cầm, thì các KCN
không đáp ứng đủ nhu cầu thuê đất cả các nhà đầu tư, hiện nay thành phố
đang phải mở rộng thêm KCN Hòa Khánh.
Đồ thị 2.3: Tỷ lệ doanh nghiệp FDI trong và ngoài khu công nghiệp
(Nguồn Sở Kế hoạch - Đầu tư thành phố Đà Nẵng, xem phụ lục 4, trang viii)
(1) Xem đồ thị 2.9 trang 51
Xét theo cơ cấu đầu tư theo quốc tịch chủ đầu tư: FDI tại thành phố đa
số thuộc các nước Châu Á như Trung Quốc, Đài Loan; gần đây đã có dự án đầu tư
lớn từ các các doanh nghiệp Hàn Quốc (Deawon: 200 triệu USD), một số nhà đầu
tư khu vực Châu Âu (Metro-Đức 15 triệu USD, Vinacapital - Liên hiệp Anh: 200
triệu USD). Đặc biệt trong năm 2006, thành phố Đà Nẵng đã thu hút được
nhiều dự án FDI từ Nhật Bản.
Bảng 2.1: FDI theo quốc gia và vùng lãnh thổ
STT Quốc gia, vùng lãnh thổ Số dự án Tổng vốn đầu tư (USD)
01 Trung Quốc (kể cả Hong Kong) 10 87.490.000
02 Nhật Bản 11 83.131.713
03 Taiwan 15 59.899.400
04 Hoa Kỳ 05 59.293.000
05 Hàn Quốc 08 56.808.450
06 Sigapore 03 56.000.000
07 Australia 03 52.025.000
08 Malaysia 07 44.842.010
09 Đức 01 15.000.000
10 Bahamas 02 13.500.000
11 Pháp 03 4.061.583
(Nguồn: Sở Kế hoạch - Đầu tư Đà Nẵng. Số liệu đến cuối năm 2005 và chỉ
tính quốc gia có 3 dự án hoặc có số vốn trên 10 triệu USD trở lên).
Nhìn chung, các đối tác đầu tư vào Đà Nẵng đa dạng theo hướng đa
phương hóa các quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn tập trung vào các đối tác
có tiềm lực tài chính, kỹ thuật, công nghệ cao, có uy tín và kinh nghiệm trong
việc đầu tư vào Việt Nam (Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản…). Đa số
dự án của những quốc gia này là thuộc các tập đoàn lớn, thương hiệu mạnh
không chỉ ở Việt Nam mà trên cả thế giới.…
2.2.3. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Theo số liệu tại bảng 2.2 kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp FDI giai đoạn từ năm 2001-2005 cho thấy: các doanh nghiệp
FDI trên địa bàn thành phố đều hoạt động có hiệu quả trên ba phương diện:
đóng góp thuế, kim ngạch xuất khẩu và giải quyết việc làm.
Bảng 2.2: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI
2001 2002 2003 2004 2005
KNXK 54.760.451 66.351.274 82.156.544
85.250.00
0
105.000.00
0
Thuế 10.361.866 10.715.080 10.866.465
11.000.00
0 11.500.000
Lao động 12.735 15.588 19.467 20.500 23.500
(Nguồn: Sở Kế hoạch - đầu tư Đà Nẵng, xem phụ lục 3, trang vii)
Kim ngạch xuất khẩu hàng năm đều tăng, trong 5 năm kim ngạch xuất
khẩu của các doanh nghiệp FDI đạt 393.518.269 USD, chiếm 30% tổng kim
ngạch xuất khẩu toàn thành phố. Kim ngạch xuất khẩu trung bình mỗi năm
của một dự án là 1.297.216 USD (giai đoạn 1997-2000 là 1,479 triệu USD).
Các doanh nghiệp FDI đã thu hút 24.000 lao động (lũy kế) và hàng
ngàn lao động gián tiếp ở các ngành sản xuất phụ trợ, phục vụ cho các doanh
nghiệp FDI, lao động thời vụ trong quá trình triển khai xây dựng cơ sở hạ
tầng phục vụ cho các dự án đi vào hoạt động.
Hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong 5 năm gần đây đã góp phần
đáng kể vào sự tăng trưởng chung của thành phố, giá trị sản xuất công nghiệp
trong các doanh nghiệp FDI đạt trung bình mỗi năm 1.100 tỷ đồng, góp phần
duy trì tốc độ tăng trưởng cao ngành công nghiệp thành phố. Dự án FDI góp
phần đổi mới công nghệ, phát triển các ngành công nghệ chế biến, nhất là công
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng, có hàm lượng công nghệ cao,
tạo ra những sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Nguồn đóng góp vào
ngân sách từ các doanh nghiệp FDI ngày càng tăng, giai đoạn 2001- 2005 thu
ngân sách đạt 54.443.411 triệu USD (kể cả xuất nhập khẩu), trung bình mỗi năm
thu 18.886.682 USD (tăng gần 30% so với giai đoạn 1997-2000).
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI trong những
năm qua đã không ngừng phát triển, giá trị sản xuất công nghiệp của các
doanh nghiệp chiếm từ 20-25% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của toàn
thành phố. So với toàn thành phố thì khu vực FDI có kim ngạch xuất khẩu
hàng năm chiếm bình quân 25%, nộp ngân sách chiếm tỷ lệ từ 10 – 12%, giải
quyết lao động trên 19%.
2.3. TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.3.1. Những tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội ở
thành phố Đà Nẵng
FDI có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của thành phố, huy
động nguồn lực sản xuất, đóng góp vào GDP, tăng thu nhập của người lao động...
2.3.1.1. FDI bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Vốn là một yếu tố đặc biệt quan trọng để phát triển KT-XH trong thời
kỳ CNH, HĐH. Để đạt tốc độ tăng trưởng bình quân GDP là 13%/năm giai đoạn
2000-2005 và phấn đấu hoàn thành mục tiêu “tăng trưởng GDP 14%-15%/năm
giai đoạn 2006-2010” [2, tr.55] đòi hỏi có nguồn vốn rất lớn. Theo quy hoạch
phát triển KT-XH thành phố Đà nẵng (đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt)
ước phải huy động vốn đầu tư thời kỳ 2001-2010 khoảng 95.762 tỷ đồng.
Từ sau khi chia tách tỉnh, trở thành đơn vị trực thuộc Trung ương, dòng
vốn FDI vào Đà Nẵng đã góp một phần không nhỏ để đẩy nhanh sự phát triển
tăng tốc của thành phố. Từ sau năm 2001, vốn FDI được thu hút vào thành phố
tăng đều đặn, năm 2001: 231 triệu USD, 2002: 264,4 triệu USD, 2003: 339 triệu
USD, 2005 506,5 USD; cho đến nay, vốn đầu tư luỹ kế lên tới 1,07 tỷ USD.
Đồ thị 2.4: Dòng vốn FDI vào thành phố Đà Nẵng (từ 1997-2006)
Đơn vị tính: triệu USD
478 464
392 371
231 264
339
397
506
1070
0.0
200.0
400.0
600.0
800.0
1000.0
1200.0
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
năm
tri
ệu
U
S
D
Vốn đầu tư mới Tổng vốn đầu tư lũy kế
Vốn pháp định lũy kế Vốn thực hiện lũy kế
(Nguồn Sở Kế hoạch đầu tư thành phố Đà Nẵng, xem phụ lục 1, trang v).
Tuy tỷ lệ FDI trong cơ cấu vốn phát triển trên địa bàn thành phố chưa
cao (tỷ lệ FDI so với tổng vốn phát triển từ năm 2001-2005, qua từng năm như
sau: 9,72% - 8,07%- 9% - 8,89% -11,65%) [6, tr.91], song nó đã trở thành một
phần quan trọng không thể thiếu trong cơ cấu vốn đầu tư của thành phố.
Đối với vốn nước ngoài đầu tư phát triển thành phố, thì vốn FDI là chủ
yếu, chiếm tỷ lệ lớn, số còn lại là vốn ODA, NGO và vốn vay từ các nhân
hàng ADB, WB.
Đồ thị 2.5: Dòng vốn FDI so với vốn ODA vào thành phố Đà Nẵng
Đơn vị tính: tỷ đồng
422 454
207
126
285 303
471
573
858
364
399
146 111
172 153
208
307
589
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
1000
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005Năm
(tỷ
V
N
Đ
)
Ngoài nước Vốn FDI
(Nguồn: Cục Thống kê Đà Nẵng, xem phụ lục 5, trang ix)
Cùng với nguồn vốn khác cho đầu tư phát triển FDI đã góp phần tích
cực trong tăng trưởng kinh tế của thành phố với “nhịp độ tăng trưởng tổng sản
phẩm nội địa (GDP) 1997-2000 bình quân hàng năm tăng 10,19% (bằng 1,47
lần so với mức bình quân chung cả nước)”[1, tr.12], “trong 5 năm (2001-
2005) bình quân tăng 13%/năm”[2, tr.17].
Bảng 2.3: Tỷ trọng của FDI trong GDP trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Năm 1997 1999 2001 2003 2005
GDP trên địa bàn 100% 100% 100% 100% 100%
KTCVĐTNNNN 5,71% 8,05% 8,20 % 7,43% 7,03 %
(Nguồn: Chi cục Thống kê thành phố Đà Nẵng, xem phụ lục 8, trang xii)
Khu vực KTCVĐTNN (chủ yếu là FDI) có mức đóng góp khá quan trọng
cho tổng giá trị GDP toàn thành phố. Tỉ trọng KTCVĐTNN đóng góp GDP từ
năm 1997 đến nay luôn từ 6%-8% (bảng 2.3 và phụ lục 7, 8 trang xi, xii).
Các doanh nghiệp FDI đã có những đóng góp vào ngân sách thành phố
ngày càng tăng; nếu năm 1997, các doanh nghiệp FDI nộp ngân sách 4 triệu
USD thì từ năm 2000 đến nay luôn ở mức trên 10 triệu USD mỗi năm, đến
năm 2005 đã lên 15 triệu USD gần 4 lần so với 1997.
Đồ thị 2.6: Nộp ngân sách của doanh nghiệp FDI
Đơn vị tính: Dự án
4
10
9
10 10
11 11 11
15
11
0
2
4
6
8
10
12
14
16
19
97
19
98
19
99
20
00
20
01
20
02
20
03
20
04
20
05
20
06
Năm
Tr
iệ
u
U
S
D
(Nguồn: Sở KH - ĐT, năm 2006 tính đến ngày 30-9, xem phụ lục 3 trang vii).
Mức FDI đóng góp cho GDP trên địa bàn thành phố đều tăng, năm sau
đều tăng so với năm trước (năm 1999 cao nhất: 40.5%, năm 2002: thấp nhất:
3.9%) và trung bình 21,43%/năm (bảng 2.4).
Bảng 2.4: Đóng góp của FDI vào GDP trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Năm GDP (triệu đồng) ĐTNN (triệu đồng) Tăng so năm trước (%)
1998 3.725.443 244.789 33.67
1999 4.273.542 344.030 40.54
2000 4.946.936 393.850 14.48
2001 5.701.553 467.534 18.71
2002 6.652.260 485.698 3.89
2003 7.774.633 577.910 18.99
2004 9.565.055 646.624 11.89
2005 11.889.019 835.914 29.27
(Nguồn: Cục Thống kê Đà Nẵng, xem phụ lục 7,trang xi)
Khu vực KTCVĐTNN có tác động tích cực vào tốc độ tăng trưởng
GDP của thành phố. Tuy nhiên, số liệu trên cũng cho thấy mức đóng góp của
khu vực FDI vào tốc độ tăng trưởng chung của kinh tế thành phố chưa cao và
thiếu ổn định.
2.3.1.2. FDI góp phần vào quá trình phát triển công nghệ, và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
a. FDI góp phần vào quá trình phát triển công nghệ
Công nghệ có một vai trò hết sức quan trọng đối với tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Hoạt động FDI có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát
triển khoa học - công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và năng suất lao động.
Thực tế cho thấy, FDI là kênh chuyển giao công nghệ có hiệu quả nhất,
nhanh nhất và tiết kiệm chi phí nhất. Nhiều dự án FDI sau khi được triển khai,
công nghệ đã được các công ty nước ngoài chuyển giao trực tiếp phần cứng
(máy móc, thiết bị) và phần mềm (quy trình hoạt động của công nghệ) từ
nước ngoài vào cơ sở sản xuất tại thành phố.
Nhờ việc chuyển giao công nghệ, đầu tư hệ thống thiết bị và tiến hành
tổ chức sản xuất mà trình độ công nghệ ở các doanh nghiệp FDI có trình độ
tương đối vượt trội hơn so với các doanh nghiệp ở các khu vực khác. Trong 2
năm 2005-2006, Trung tâm kỹ thuật 3 - Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất
lượng đã tiến hành điều tra, đánh giá thực trạng công nghệ của 15 ngành kinh
tế - kỹ thuật trên địa bàn Đà Nẵng theo phương pháp Atlas công nghệ*. Kết
quả khảo sát, đánh giá cho thấy hầu hết trong các ngành kinh tế - kỹ thuật, thì
các chỉ tiêu được đánh giá ở các doanh nghiệp FDI đều cao hơn chỉ số chung
trên địa bàn thành phố. Xin đơn cử 3 ngành kinh tế - kỹ thuật:
Ngành cơ khí chế tạo, các chỉ số trong thành phần cấu thành trình độ
công nghệ (T: phương tiện, thiết bị; H: nhân lực; I: thông tin, O: tổ chức) của
các doanh nghiệp FDI là: T=0,77; H=0,7; I=0,69; O=6,9. Thì toàn ngành cơ
khí chế tạo thành phố là: T=0,68; H=0,59; I=0,66; O=6,4.
Đồ thị 2.7: Trình độ các thành phần công nghệ ngành cơ khí chế tạo
0.68
0.59
0.66 0.64
0.77
0.7 0.69 0.69
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
0.9
T H I O
Ngành cơ khí chế tạo Doanh nghiệp FDI trong ngành
(Nguồn: Trung tâm kỹ thuật 3, Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng,
xem phụ lục 10 trang xiv)
Ở ngành bia rượu, nước giải khát trong doanh nghiệp FDI có các
chỉ số sau: T=0,65; H=0,66; I=0,98; O=0,86, trong khi đó đánh giá của cả
ngành: T=0,68; H=0,60; I=0,68; O=0,76.
* Đặc trưng của phương pháp: lấy toán học làm công cụ trong quá trình đánh giá, trên cơ sở các nhóm chỉ tiêu, theo phương
pháp định lượng bởi chuyên gia, qua đó xác định giá trị các thành phần đóng góp công nghệ. Trình tự đánh giá từ thấp đến
cao (từ từng doanh nghiệp, ngành, giai đoạn đến quốc gia/vùng lãnh thổ). Mức đánh giá từ 0 (thấp nhất) đến 1 (cao nhất).
4 thành phần đánh giá chính để tổng hợp đánh giá thành phần công nghệ: Phương tiện, thiết bị (technoware, ký hiệu là
T); Nhân lực (humanware, ký hiệu là H); Thông tin (inforware, ký hiệu là I); Tổ chức (orgaoware, ký hiệu là O).
Đồ thị 2.8: Trình độ các thành phần công nghệ ngành bia rượu, nước giải khát
0.68
0.6
0.68
0.76
0.65 0.66
0.98
0.85
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
0.9
1
T H I O
Ngành bia rượu, giải khát Doanh nghiệp FDI trong ngành
(Nguồn: Trung tâm kỹ thuật 3, Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng,
xem phụ lục 10 tr. xiv)
Ở ngành chế biến lâm sản, trong doanh nghiệp FDI có các chỉ số
sau: T=0,68; H=0,78; I=0,60; O=0,60, trong khi đó đánh giá của cả ngành:
T=0,64; H=0,50; I=0,58; O=0,60.
Đồ thị 2.9: Trình độ các thành phần công nghệ ngành chế biến lâm sản
0.64
0.5
0.58 0.6
0.68
0.78
0.6 0.6
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
0.9
T H I O
Ngành Chế biến lâm sản Doanh nghiệp FDI trong ngành
(Nguồn: Trung tâm kỹ thuật 3, Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng,
xem phụ lục 10, trang xiv)
Trong 4 chỉ tiêu chính để đánh giá thì phương tiện, thiết bị (T) là quan
trọng nhất, nó là hình thức biểu hiện về mặt vật thể của công nghệ như thiết
bị, phương tiện, dụng cụ, xưởng máy... Nhìn chung, các doanh nghiệp FDI có
chỉ số T tương đối cao hơn so với doanh nghiệp trong nước và chỉ số chung
của mỗi ngành kinh tế-kỹ thuật. Cũng chính vì yếu tố này mà năng suất lao
động ở các doanh nghiệp FDI Đà Nẵng có năng xuất cao hơn so với các khu
vực kinh tế khác. Điều này tương đồng với tình hình chung của cả nước: “cho
dù áp dụng kỹ thuật đánh giá thế nào, mức tăng năng suất trong khu vực FDI
cũng cao hơn đáng kể” [21, tr.24].
Ngoài ra, hoạt động FDI tại thành phố đã tạo ra hiệu ứng tích cực đối
với các doanh nghiệp khác thông qua cạnh tranh, thúc đẩy việc cải thiện và
nâng cao công nghệ của doanh nghiệp trong nước, góp phần vào việc sản xuất
có hiệu quả. Trước sức ép cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI, các doanh
nghiệp trong nước buộc phải đặt mua công nghệ hoặc yêu cầu chuyển giao
công nghệ. Nhờ vậy, ở một số ngành, các doanh nghiệp trong nước dần dần
được trang bị các phương tiện, thiết bị tương đối hiện đại, thậm chí có trình
độ công nghệ cao hơn hẳn doanh nghiệp FDI.
Chẳng hạn, trong ngành giấy bao bì, các doanh nghiệp trong nước có chỉ số
trình độ về phương tiện, thiết bị (T) cao hơn nhiều so với doanh nghiệp FDI:
0,65/0.54; ngành bia, giải khát cũng có tình hình tương tự, với chỉ số T của toàn
ngành/doanh nghiệp FDI là: 0,68/0,65; còn ngành dệt, may mặc là 0,74/0,73.
Tuy nhiên, do tiềm lực về tài chính có hạn, nên số doanh nghiệp trong
nước có trình độ vượt trội về công nghệ so với doanh nghiệp FDI chưa nhiều.
Hơn nữa, việc phối hợp các yếu tố cấu thành làm nên trình độ công nghệ của
các doanh nghiệp trong nước không tốt; vì thế, dù trang bị các thiết bị,
phương tiện hiện đại hơn, nhưng năng suất, hiệu quả kinh tế kém hơn so với
doanh nghiệp FDI.
b) FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH
Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là cấu trúc của nền kinh tế, là tổng thể
các mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố cấu thành nền kinh tế, mà cơ bản là:
cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần, cơ cấu vùng; trong đó cơ cấu ngành kinh tế
đóng vai trò quan trọng nhất, quyết định hình thức của cơ cấu kinh tế khác.
Đối với các nước đang phát triển thay đổi cơ cấu ngành theo hướng CNH,
HĐH thường theo chiều hướng chuyển từ ngành sản xuất nông nghiệp sang
sản xuất công nghiệp và sau cùng là sang ngành sản xuất dịch vụ.
Quy hoạch phát triển KT-XH của thành phố Đà Nẵng từ 2001-2010 có cơ
cấu kinh tế: Công nghiệp-xây dựng Dịch vụ-du lịch Thuỷ sản-nông lâm.
Ngay từ khi mới được tách ra khỏi tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, thành
phố đã định hướng thu hút đầu tư FDI theo hướng cơ cấu kinh tế trên, trong
đó khuyến khích đầu từ vào ngành công nghiệp - xây dựng. Tỷ lệ dự án FDI
ngành này luôn cao hơn hẳn so với ngành dịch vụ - du lịch và thuỷ sản -nông
lâm. Gần 10 năm qua, sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư FDI cũng phù hợp với
định hướng phát triển KT-XH của thành phố. Tỷ lệ dự án và số vốn đầu tư
(%) các nhóm ngành các năm 1997, 2002, 2006 như sau:
1997: công nghiệp - xây dựng 51%, thuỷ sản – nông lâm 27%, du lịch -
dịch vụ 22%.
2002: công nghiệp-xây dựng 64%, du lịch-dịch vụ 18%; thuỷ sản- nông
lâm 18%.
2006: công nghiệp-xây dựng 57%; du lịch-dịch vụ 32 %; thuỷ sản-
nông lâm 11%.
Sự thay đổi cơ cấu FDI như trên, FDI đã tác động mạnh đến cơ cấu kinh
tế của thành phố Đà Nẵng. Nhờ đó cơ cấu kinh tế đã có chuyển dịch theo
hướng CNH, HĐH và đạt được mục tiêu của thành phố đặt ra: đến năm 2005
tỷ trọng các ngành trong GDP là: “công nghiệp 48,2%, dịch vụ 46,1% và
nông nghiệp 5,7%” [2, tr.18]. Đặc biệt, trong giai đọan 2001-2005, “giá trị
sản xuất công nghiệp tăng 20,1%/năm, dịch vụ tăng 7,9% và ngành thủy sản –
nông lâm tăng 5,9%/năm” [2, tr.18].
Đồ thị 2.10: Cơ cấu ngành của FDI (theo số lượng dự án)
(Nguồn: Sở Kế hoạch - Đầu tư thành phố Đà Nẵng, xem phụ lục 4, trang viii)
2.3.1.3 FDI góp phần nâng cao chất lượng lao động, phát triển nguồn
nhân lực, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động
FDI góp phần nâng cao chất lượng lao động, phát triển nguồn nhân lực
FDI tác động trực tiếp đến số lượng và chất lượng lao động, góp phần
nâng cao năng lực, kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp thông qua các
hình thức trực tiếp đào tạo lao động và gián tiếp nâng cao trình độ lao động.
Để triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp FDI
phải tuyển dụng lao động địa phương. Để người lao động đáp ứng được các yêu
cầu của môi trường làm việc hiện đại, các doanh nghiệp FDI đã tiến hành tuyển
chọn kỹ, đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ khá chặt chẽ, nhất là các ngành nghề
như điện tử, sản xuất ô tô - xe máy, sản xuất polime, du lịch quốc tế…
Quá trình đầu tư, kinh doanh tại thành phố, nhằm giúp lao động địa
phương có thể sử dụng thành thạo những công nghệ tiên tiến đã được chuyển
giao thì hầu hết các doanh nghiệp FDI đều có kế hoạch đào tạo lao động dưới
những phương thức và cấp độ khác nhau và rất đa dạng: đào tạo trực tiếp
người lao động thông qua các khóa học do các chuyên gia của công ty tiến
hành hoặc kết hợp với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước (đào tạo cơ bản,
đào tạo nghề) để tiến hành đào tạo; ở nhiều doanh nghiệp còn cử lao động cấp
trưởng phòng trở lên ra nước ngoài để đào tạo, bồi dưỡng. Chẳng hạn các
doanh nghiệp FDI lĩnh vực cơ khí chính xác, điện tử, bảo hiểm 100% nhân
viên qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng từ 1-3 tháng; 15 - 35, 2% lao động quản
lý được bồi dưỡng tại nước ngoài.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp FDI luôn đặt người lao động trong sự
nỗ lực không ngừng để hoàn thiện mình bằng những yêu cầu khắt khe đối với
công việc, cùng với những hứa hẹn về khả năng thăng tiến nhanh trong nghề
nghiệp. Do vậy, trong các doanh nghiệp FDI trình độ học vấn và trình độ
nghiệp vụ của người lao động là tương đối cao.
Không chỉ tác động tích cực đến chất lượng đội ngũ những người lao
động đang làm việc trong công ty mình, các doanh nghiệp FDI còn tác động
tích cực đến những người lao động đang chờ việc cũng như công tác đào tạo
lao động. Những mời gọi hấp dẫn của các doanh nghiệp FDI đã kích thích
những người lao động đang tìm việc tự nâng cao tri thức và trình độ chuyên
môn để đáp ứng những đòi hỏi của yêu cầu tuyển dụng. Trước những yêu cầu
đó của thực tiễn, các cơ sở đào tạo hiện nay cũng đã nhanh chóng cải tiến để
nâng cao chất lượng đào tạo. Điều này đã tác động tích cực đến thị trường lao
động chung của cả thành phố.
FDI còn có tác động lan tỏa đến việc nâng cao nguồn nhân lực của
thành phố. Trình độ lao động là một trong những yếu tố quyết định sức mạnh
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp khu vực FDI và các khu vực khác. Trước
sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp trong nước
cũng phải tăng cường nâng cao chất lượng lao động của mình. Theo kết quả
điều tra đã nêu, thì trình độ nguồn nhân lực của 15 ngành kinh tế - kỹ thuật
thành phố đều được đánh giá ở mức 0,58 – 0,72, tương đương trình độ trung
bình khá theo trình độ công nghệ hiện nay.
Tuy nhiên, cũng có thể thấy chính sách sử dụng nhân lực của các doanh
nghiệp FDI nói riêng và ĐTNN nói chung còn mang tính khá thực dụng. Với
những vị trí quan trọng, doanh nghiệp thường sử dụng và đào tạo trình độ, kỹ
năng lao động, quản lý cao; ít quan tâm đào tạo, bồi dưỡng lao động ở những
ngành, những công việc giản đơn. Vì vậy, mà ở một số ngành sử dụng nhiều
lao động thì trình độ H của doanh nghiệp FDI thấp hơn với mức chung trong
ngành của thành phố. Chẳng han như: dệt-may 0,57/0,6; vật liệu xây dựng
0,36/0,57; lắp ráp điện, điện tử: 0,51/0,60.
FDI góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động
Việc làm là một trong những vấn đề cấp thiết đối với các đô thị trong
quá trình CNH, HĐH. Đà Nẵng với dân số là 764.549 người*(năm 2004).
Trong đó: nguồn lao động là 452 ngàn người, chiếm khoảng 59% dân số; lực
lượng lao động là 371 ngàn người, chiếm gần 49% dân số. Do vậy, vấn đề
giải quyết việc làm có ý nghĩa rất quan trọng. “FDI đã tạo ra một lượng cầu
lao động đáng kể, góp phần giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp của
thành phố ở mức 5,0%. Tỷ lệ này được đánh giá là ổn định và hợp lý với một
đô thị đang phát triển và có tốc độ đô thị hoá cao” [30, tr.2].
Bảng 2.5: Tỷ lệ thất nghiệp giai đoạn 2001-2004
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004
Tỷ lệ thất nghiệp 5,64% 5,26% 5,17% 5,16%
Tỷ lệ sử dụng thời gian LĐ nông thôn 79,61% 81,13% 81,24% 82%
Nguồn: Sở Lao động – Thương binh và Xã hội thành phố Đà Nẵng.
Hoạt động FDI đã góp phần tạo việc làm cho người lao động, làm giảm
tỷ lệ thất nghiệp được thể hiện ở cả hai mặt:
+ Trực tiếp tạo việc làm bằng cách tuyển dụng lao động địa phương
trong các doanh nghiệp có vốn FDI. Luồng lao động được tuyển dụng vào
làm việc tại các doanh nghiệp FDI ngày càng tăng; từ 8.700 người năm 1997,
tăng lên 15.600 người năm 2002 và 24.700 người năm 2006.
+ FDI gián tiếp tạo việc làm thông qua việc hình thành các doanh
nghiệp vệ tinh cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các doanh nghiệp FDI và khi
các doanh nghiệp vệ tinh này được hình thành và phát triển sẽ tạo việc làm
trong phạm vi toàn xã hội. Chưa có thống kê chính xác số lượng lao động đối
với khu vực này, tuy nhiên có thể dự đoán số lao động này không dưới 1/10
số lao động trực tiếp trong doanh nghiệp FDI.
* Số dân này mới tính người đăng ký nhân khẩu thường trú. Trong khi đó cư dân ở thành phố thực tế ước trên 1,3
triệu người (số chênh lệnh này là người lao động các tỉnh lân cận làm việc tại Đà Nẵng, học sinh sinh viên 6
trường Đại học và 13 trường cao đăng, trung học; lực lượng vũ trang Quân khu 5 và Vùng 3 Hải Quân).
Đồ thị 2.11: Số lượng lao động trong các doanh nghiệp FDI
(Đơn vị tính: nghìn người)
8.7
10.3 9.9
12.5 12.7
15.6
19.5 20.5
23.5 24.7
0.0
5.0
10.0
15.0
20.0
25.0
30.0
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Năm
(Nguồn: Sở Kế hoạch - Đầu tư thành phố Đà Nẵng, xem phụ lục 3 trang vii)
Tạo việc làm, đồng nghĩa với nâng cao thu nhập cho người lao động. ở
nước ta nói chung và ở Đà Nẵng nói riêng, hầu hết người lao động làm việc
cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (mà chủ yếu là doanh nghiệp
FDI) được trả lương cao hơn so với doanh nghiệp trong nước. Hiện nay, trên
cả nước, “nếu so với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh
thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thu nhập bình quân một tháng của
một lao động là cao nhất: 1,774 triệu VNĐ, doanh nghiệp nhà nước 1,495 triệu
VNĐ, doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1,046 triệu VNĐ” [16, tr.186].
Theo Cục Thuế thành phố Đà Nẵng, thông qua báo cáo quyết toán thuế
hàng năm ở các doanh nghiệp FDI thì: mức thu nhập bình quân của một lao
động một tháng đang làm việc trong doanh nghiệp FDI ở thành phố Đà Nẵng
là 3 triệu đồng/tháng*. Mức thu nhập đó thường có sự chênh lệnh rất lớn giữa
các vị trí làm việc và trình độ đào tạo: vị trí lao động cấp cao có mức lương
20-40 triệu đồng; sinh viên đại học, cao đẳng mới ra trường: 2-2,6 triệu
đồng/tháng, công nhân (bậc 3/7) 1,9 triệu đồng/tháng; lao động giản đơn 960
nghìn đồng/tháng. Mức tăng lương của các doanh nghiệp FDI trong những
năm qua luôn ở mức 12%, trong đó lương của lao động người Việt Nam tăng
* *Không tính các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động.
khoảng 14%, người nước ngoài 10%.
Nguyên nhân lao động trong các doanh nghiệp FDI thường được trả
lương cao hơn các doanh nghiệp trong nước là do: năng xuất lao động của các
doanh nghiệp FDI thường cao hơn so với các doanh nghiệp trong nước; lao
động được tuyển dụng là lao động có trình độ cao và có tính kỷ luật cao;
những công ty FDI thường là những doanh nghiệp có uy tín và quy mô lớn.
Ngoài ra, các doanh nghiệp FDI mà chủ đầu tư là các nước EU, Nhật, Mỹ thì
điều kiện lao động và chăm sóc về mặt sức khỏe, y tế đối với người lao động
tốt hơn so với các doanh nghiệp địa phương.
2.3.1.4. FDI góp phần thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh
toán, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế và góp phần bảo vệ môi trường
FDI góp phần thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, mở
rộng hợp tác kinh tế quốc tế.
Hoạt động FDI góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của thành phố
thông qua xây dựng năng lực xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu theo
hai hướng chính sau:
- Tham gia vào sản xuất sản phẩm xuất khẩu với trình độ công nghệ
thấp. Đây là quá trình sản xuất sản phẩm xuất khẩu ở những ngành sử dụng
nhiều lao động như: giày da, may mặc…. Ngoài ra, doanh nghiệp FDI liên kết
với nhiều doanh nghiệp trong nước để nâng cao chất lượng sản phẩm và mở
rộng thị trường xuất khẩu. Mỗi năm các doanh nghiệp FDI xuất khẩu: 80 triệu
sản phẩm đồ chơi trẻ em; 20 triệu bộ áo quần, hàng dệt kim; 1 triệu tấn dăm
gỗ; 12 triệu lít bia; 11.000 bộ chi tiết gắn máy cơ khí và điện tử; 110.000 tấn
sản phẩm nhựa; 16.000 tấn đèn cầy; 2 triệu sản phẩm đồ lót phụ nữ; 21 triệu
đôi sản phẩm bảo hộ lao động …
- Tham gia vào sản xuất sản phẩm xuất khẩu với trình độ công nghệ
trung bình và cao. Hiện nay các doanh ngiệp FDI của thành phố đã xuất khẩu
nhiều mặt hàng công nghệ cao ra các thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản: chi tiết
gắn máy, linh kiện điện tử, phần mềm tin học, các sản phẩm polyme kỹ thuật
cao, dụng cụ y tế…
Bảng 2.6: Kim ngạch xuất nhập khẩu thành phố Đà Nẵng
(Đơn vị tính: 1000 USD)
Năm
Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu – Nhập khẩu
Tổng số FDI Tổng số FDI Thành phố FDI
1998 169.140 61.267 199.943 23.174 -30.803 +38.093
1999 186.466 55.600 244.621 23.615 -58.155 +31.985
2001 266.520 76.335 375.142 27.413 -108.622 +48.922
2002 249.030 78.401 384.009 25.178 -134.979 +53.223
2004 310.431 80.539 330.872 42.364 -20.441 +38.175
2005 346.009 93.300 330.948 55.164 +15061 +38136
(Nguồn: Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng, xem phụ lục 6, trang x)
Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN (chủ yếu là
FDI) có chiều hướng ngày càng tăng: từ 61 triệu USD năm 1998, lên 76 triệu
USD năm 2001, đến năm 2005 đã ở mức 93 triệu USD. Nếu như kim ngạch
xuất khẩu thành phố đều thấp kim ngạch nhập khẩu, thì đối với doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài có tình trạng ngược lại. Cán cân kim ngạch xuất
khẩu và nhập khẩu (xuất khẩu - nhập khẩu) luôn dương, với mức cao nhất là
53, 2 triệu USD năm 2002, thấp nhất là 31,9 triệu USD năm 1999. Chính nhờ sự
đóng góp của doanh nghiệp FDI mà năm 2005, lần đầu tiên thành phố không thâm
hụt cán cân thanh toán (xuất nhập khẩu), với mức (+)15 triệu USD.
FDI góp phần bảo vệ môi trường.
Nhà đầu tư nước ngoài thường sở hữu công nghệ sạch, tiên tiến và có hệ
thống quản lý môi trường tốt hơn so với các doanh nghiệp trong nước. Gần
đây, khi cho phép các doanh nghiệp FDI đầu tư vào thành phố, Đà Nẵng yêu
cầu rất chặt chẽ vấn đề xử lý môi trường, tiêu chuẩn môi trường trong sản
xuất. Điều này đã góp phần bảo vệ môi trường và khai thác có hiệu quả nguồn
tài nguyên thiên nhiên.
Như kết quả điều tra đánh giá trình độ công nghệ ở 15 ngành kinh tế -
kỹ thuật của thành phố cho thấy trình độ cả 4 yếu tố chính công nghệ (phương
tiện, thiết bị, nhân lực, thông tin, tổ chức) ở các doanh nghiệp FDI đều cao
hơn doanh nghiệp trong nước; tương ứng với chỉ số đó thì mức độ bảo vệ môi
trường trong doanh nghiệp FDI cũng tốt hơn. Đến nay, chưa có doanh nghiệp
FDI vi phạm quy định về bảo vệ môi trường. Tình trạng gây ô nhiễm nặng
môi trường ở thành phố hiện nay chủ yếu là các ngành sản xuất thép, xi măng,
đá mỹ nghệ; và tất cả đều là các doanh nghiệp trong nước.
Thành phố Đà Nẵng có 5 KCN, KCX; ở các khu công nghiệp, chế xuất
có hệ thống xử lý chất thải, xử lý nước thải tương đối tốt. Trong 10 năm qua,
thành phố đã tăng cường thu hút và ưu đãi các doanh nghiệp đầu tư vào các
khu công nghiệp và chế xuất. Tỷ lệ các doanh nghiệp đầu tư trong các khu
công nghiệp ngày càng tăng, năm 1997, tỷ lệ này là 29%, năm 2001 tăng lên
30 % và năm 2006 là 56%. Tỷ lệ này tăng, đồng nghĩa với việc quản lý môi
trường thuận lợi và tốt hơn.
Đồ thị 2.12: Số lượng doanh nghiệp FDI trong và ngoài khu công nghiệp
26
38
35
303129
26
29 31 30
49
45
27
13131214131312
0
10
20
30
40
50
60
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Năm
S
o
du
a
n
Ngoài KCN Trong KCN
(Nguồn: Sở Kế hoạch - Đầu tư, xem phụ lục 4, trang viii)
Việc áp dụng những công nghệ sạch, tiên tiến có lợi cho môi trường của
doanh nghiệp FDI đã tạo nên những tác động ngoại vi tích cực đối với các
doanh nghiệp trong nước và gây sức ép đối với các doanh nghiệp trong nước
phải có biện pháp xử lý môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
2.3.1.5. Một số tác động tích cực đến lĩnh vực văn hóa – xã hội
Hiện nay, đã có một số dự án FDI trên lĩnh vực giáo dục – đào tạo, y tế
không chỉ tăng thêm cơ sở kỹ thuật mà đã có tác động tích cực đến chất lượng
đào tạo, dịch vụ tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.pdf