Tài liệu Luận văn Xây dựng và giải pháp phát triển thương hiệu ngân hàng thương mại cổ phần Gia Định: Bộ Giáo Dục và Đào Tạo
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
LƯƠNG QUẢNG ĐỨC
XÂY DỰNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN GIA ĐỊNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HCM, tháng 10 năm 2008
Bộ Giáo Dục và Đào Tạo
Trường đại học Kinh tế Tp. HCM
LƯƠNG QUẢNG ĐỨC
XÂY DỰNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN GIA ĐỊNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân Hàng
Mã số: 60.31.12
Người Hướng Dẫn Khoa Học
PGS. TS. TRẦN HOÀNG NGÂN
TP. HCM, tháng 10 năm 2008
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn này là do bản thân tự nghiên cứu và thực hiện theo sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Trần Hoàng Ngân.
Các thông tin, số liệu để thực hiện đề tài chủ yếu lấy từ các Bản Cáo Bạch, Báo cáo tài chính của các ngân hàng có liên quan và từ nguồn Ngân Hàng Nhà Nước.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính pháp lý quá trình nghiên cứu khoa học của luận văn này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 10 năm 2008
Người Cam Đoan
Lương Quảng...
98 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1100 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Xây dựng và giải pháp phát triển thương hiệu ngân hàng thương mại cổ phần Gia Định, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ Giáo Dục và Đào Tạo
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
LƯƠNG QUẢNG ĐỨC
XÂY DỰNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN GIA ĐỊNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HCM, tháng 10 năm 2008
Bộ Giáo Dục và Đào Tạo
Trường đại học Kinh tế Tp. HCM
LƯƠNG QUẢNG ĐỨC
XÂY DỰNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN GIA ĐỊNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân Hàng
Mã số: 60.31.12
Người Hướng Dẫn Khoa Học
PGS. TS. TRẦN HOÀNG NGÂN
TP. HCM, tháng 10 năm 2008
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn này là do bản thân tự nghiên cứu và thực hiện theo sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Trần Hoàng Ngân.
Các thông tin, số liệu để thực hiện đề tài chủ yếu lấy từ các Bản Cáo Bạch, Báo cáo tài chính của các ngân hàng có liên quan và từ nguồn Ngân Hàng Nhà Nước.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính pháp lý quá trình nghiên cứu khoa học của luận văn này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 10 năm 2008
Người Cam Đoan
Lương Quảng Đức
MỤC LỤC
Chương 1: Cơ sở lý luận về ngân hàng và thương hiệu
Ngân hàng và hoạt động ngân hàng trang 01
Định nghĩa 01
Chức năng, nhiệm vụ 02
Phân loại 03
Lý luận về thương hiệu 04
Khái niệm về thương hiệu 04
Tầm quan trọng của thương hiệu 06
Sự hình thành giá trị thương hiệu 08
Định vị thương hiệu 09
Thương hiệu Ngân hàng 10
Đặc thù cần lưu ý trong thương hiệu ngân hang 12
Các thành tố của thương hiệu (Nhãn hiệu, Logo, Slogan) 13
Quy trình xây dựng một chương trình bản sắc thương hiệu tổng thể 15
Thương hiệu mạnh quyết định kinh doanh thành công 16
Kết luận chương 1 17
Chương 2: Nghiên cứu thực trạng hoạt động và thương hiệu ngân hàng TMCP Gia Định trong thời gian qua.
Tình hình hoạt động, kinh doanh và phát triển NH TMCP Gia Định: 18
Lịch sử hình thành 18
Thực trạngvề hoạt động của NH TMCP Gia Định 20
Sản phẩm, dịch vụ ngân hàng: 25
Kết quả phát triển sản phẩm, dịch vụ 25
Khó khăn trong phát triển các dịch vụ 31
Trình độ kỹ thuật công nghệ 32
Nhân lực và trình độ quản trị 34
Mạng lưới chi nhánh 36
Tổng quan về hệ thống ngân hàng Việt Nam và nhận định thương hiệu: 36
Thương hiệu của các ngân hàng Việt Nam 37
Nhóm các ngân hàng thương mại Quốc doanh 39
Nhóm các ngân hàng thương mại cổ phần 40
Nhóm thương hiệu mạnh 40
Nhóm thương hiệu trung bình 41
Thương hiệu yếu và khó nhận biết 42
Thương hiệu NH TMCP Gia Định 43
Thương hiệu NH TMCP Gia Định 43
Những khó khăn trong việc xây dựng thương hiệu NH TMCP Gia Định 45
Thương hiệu NH TMCP Gia Định trong thời gian qua 46
Kết luận chương 2 47
Chương 3: Các giải pháp xây dựng và phát triển thương hiệu Ngân hàng TMCP Gia Định
Chiến lược phát triển ngân hàng TM CP Gia Định trong thời gian tới 48
Căn cứ xây dựng Chiến lược phát triển ngân hàng TM CP Gia Định 48
Chiến lược phát triển ngân hàng TM CP Gia Định 49
Nhóm giải pháp xây dựng thương hiệu lên mức trung bình 50
Tạo dựng thương hiệu 50
Quảng bá thương hiệu 58
Nâng cao năng lực tài chính và quy mô ngân hàng 62
Xây dựng và quảng bá thương hiệu qua website và internet 64
Nhóm giải pháp phát triển thương hiệu mạnh và bền vững 70
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 70
Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ ngân hàng 73
Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng 78
Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ 81
Thực hiện tốt công tác chăm sóc khách hàng 84
Thực hiện chương trình khách hàng trung thành 86
Bảo vệ thương hiệu. 88
Kết luận chương 3 89
Kết luận
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay theo nghị định 141/2006/NĐ-CP thì lộ trình tăng vốn pháp định của các ngân hàng cần phải thực hiện. Do đó việc phát triển và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là thực sự gay cấn và là mục tiêu lớn lao nhất. Trong khi đó các nghiệp vụ, sản phẩm của các ngân hàng hiện nay rất đa dạng và có phần giống nhau, sản phẩm của ngân hàng này nếu không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì sẽ có một ngân hàng khác thay thế. Từ đó ngân hàng có thể sẽ bị mất đi thị phần nếu như không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
Để luôn giữ được và phát triển mở rông thị phần nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển ngân hàng thì cần phải tạo dựng một thương hiệu riêng biệt và phát triển thương hiệu đó lên một tầm nhất định.
Từ những suy nghĩ như trên, thông qua việc đã có thời gian gắn bó về mặt quan hệ khách hàng cũng như quan hệ là một cổ đông nhỏ của ngân hàng Gia Định và hiện nay thì NH TMCP Gia Định hầu như là chưa có thương hiệu trên thị trường. Do đó, em chọn đề tài: “Xây dựng và giải pháp phát triển thương hiệu Ngân Hàng TMCP Gia Định” để làm đề tài nghiên cứu và bảo vệ luận văn thạc sỹ của em.
Bố cục đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về ngân hàng và thương hiệu.
Chương II: Nghiên cứu thực trạng hoạt động và thương hiệu ngân hàng TMCP Gia Định trong thời gian qua.
Chương III: Các giải pháp xây dựng và phát triển thương hiệu Ngân hàng TMCP Gia Định.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: là toàn bộ hoạt động ngân hàng, các hoạt động Marketing, chiến lược phát triển của các ngân hàng TMCP Gia Định.
Phạm vi nghiên cứu: tập trung chính là hoạt động của TMCP Gia Định và mở rộng nghiên cứu một vài NHTMCP khác để học tập kinh nghiệm xây dựng chiến lược kinh doanh cũng như tạo dựng thương hiệu.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khách quan khác nhau - trong đó có hạn chế về tìm kiếm nguồn thông tin, về kinh nghiệm của bản thân trong công tác - do vậy, luận văn chắc chắn khó tránh khỏi thiếu sót, rất mong được sự góp ý của các thầy cô, các anh chị đồng nghiệp và các bạn quan tâm.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGÂN HÀNG VÀ THƯƠNG HIỆU
Ngân hàng và hoạt động ngân hàng
Định nghĩa ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng trực tiếp giao dịch với các Công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức đoàn thể và các cá nhân v.v… bằng việc nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm,… cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng trên. Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng có số lượng lớn và rất phổ biến trong nến kinh tế Quản tri ngân hàng TM; PGS. TS. Trần Huy Hoàng
.
Theo Luật Tổ chức tín dụng Chương 1, điều 20, Luật các TCTD (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004), QH Khóa XI
(Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 5 thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng ngày 15/06/2004):
Ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Theo đạo luật Ngân hàng của Cộng hòa Pháp năm 1941 “Ngân hàng thương mại là những cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác, và sử dụng nguồn lực đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính” Quản trị Ngân hàng thương mại, TS. Trần Huy Hoàng, NXB Thống Kê 2003
.
Như vậy, Ngân hàng thương mại là một loại định chế tài chính trung gian quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống này mà các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội sẽ được huy động, tập trung lại, đồng thời sử dụng số vốn đó để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế, cá nhân nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Qua các khai niện về ngân hàng thương mại trên ta có thể tóm lược về ngân hàng thương mại như sau:
Trước hết ngân hàng cũng là một loại hình doanh nghiệp, vừa hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng và theo luật doanh nghiệp. Là một đơn vị có hoạt động kinh doanh bình thường như các loại hình doanh nghiệp khác, bên cạnh đó cũng có các nghiệp vụ kinh doanh rất đặc biệt. Do đó ngân hàng là loại hình doanh nghiệp đặc biệt. Ngân hàng là một trung gian tín dụng, là cầu nối giữa nơi thừa vốn và thiếu vốn.
Hoạt động của ngân hàng TM là hoạt động kinh doanh. Để kinh doanh các ngân hàng TM phải có vốn (vốn ngân sách nhà nước cấp nếu là ngân hàng công, được cổ đông đóng góp là ngân hàng cổ phần…) phải tự chủ về tài chính, đặc biệt hoạt động kinh doanh cần phải đạt đến mục tiêu tài chính cuối cùng là lợi nhuận.
Chức năng, nhiệm vụ.
Tạo tiền ngân hàng
Một trong những chức năng chủ yếu của NHTM là khả năng tạo tiền và hủy tiền. Chức năng được thực hiện thông qua các hoạt động tín dụng và đầu tư của NHTM.
Tiền gửi thanh toán
Việc thực hiện cơ chế thanh toán hay nói cách khác sự vận động vốn là một trong những chức năng quan trọng do các NHTM thực hiện và càng trở nên quan trọng khi được tín nhiệm trong việc sử dụng séc và thẻ tín dụng.
Huy động tiết kiệm
NHTM thực hiện một dịch vụ rất quan trọng đối với tất cả các khu vực của nền kinh tế bằng cách cung ứng những điều kiện thuận lợi cho việc gửi tiền tiết kiệm của dân chúng, tạo ra những tiện ích cho khách hàng đến gửi tiền, nhằm thu hút tối đa nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, tổ chức kinh tế để cung ứng vốn lại cho nền kinh tế.
Mở rộng tín dụng
Chức năng đầu tiên của các NHTM là mở rộng tín dụng đối với khách hàng. Các NHTM luôn tìm kiếm các cơ hội để cho vay, xem đó là chức năng quan trọng nhất. Trong việc tạo ra khả năng tín dụng, các NHTM đã và đang thực hiện chức năng xã hội, làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng, đời sống người dân được cải thiện và nâng lên.
Tài trợ ngoại thương
Mặc dù ngoại thương được hình thành và bắt nguồn từ hoạt động nội thương nhưng nó có sự khác nhau đáng kể. Chính từ sự khác nhau đó, các NHTM cần thiết cung ứng các dịch vụ ngân hàng quốc tế đối với hoạt động ngoại thương.
Dịch vụ ủy thác
Những dịch vụ uỷ thác như thực hiện phân chia tài sản theo di chúc hoặc theo sự ủy thác của một cá nhân nào đó trước khi qua đời; ngân hàng thực hiện quản lý tiền hưu trí và phân chia lợi tức; thực hiện các nghiệp vụ có liên quan đến việc mua bán trái phiếu, cổ phiếu.
Bảo quản an toàn vật có giá
Đây là dịch vụ lâu đời nhất được các NHTM thực hiện. Theo đó NHTM phải có kho tàng kiên cố, két sắt để bảo quản an toàn tài sản và các giấy tờ có giá cho khách hàng.
Dịch vụ kinh kỷ
Đó là việc mua và bán các chứng khoán cho khách hàng. Mặc dù quyền hạn trong dịch vụ tài chính của các ngân hàng được nâng lên nhưng không được vượt quá giới hạn các hoạt động bảo lãnh hoặc cung ứng các dịch vụ nghiên cứu, đầu tư vốn thông thường, kết hợp với các hoạt động môi giới.
Phân loại.
Căn cứ vào hình thức sở hữu có thể phân loại gồm:
NHTM quốc doanh: là các NH kinh doanh bằng vốn cấp phát của ngân sách nhà nước.
NHTM cổ phần: là những NH hoạt động như công ty cổ phần, nguồn vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp.
NHTM liên doanh: có vốn được góp bởi một bên là NH Việt Nam và bên còn lại là NH nước ngoài, có trụ sở đạt tại Việt Nam và hoạt động theo luật pháp Việt Nam.
NHTM 100% vốn nước ngoài, Chi nhánh NHTM nước ngoài tại Việt Nam.
Căn cứ vào sản phẩm ngân hàng cung cấp cho khách hàng:
Ngân hàng bán buôn: là ngân hàng tập trung cung cấp một vài sản phẩm cho khách hàng, tuy số lượng sản phẩm không lớn nhưng giá trị của từng sản phẩm là rất lớn. Khách hàng của ngân hàng chủ yếu là các công ty, xí nghiệp có quy mô lớn, các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty.
Ngân hàng bán lẻ: ngân hàng loại này chú trọng đến việc đa dạng hóa các sản phẩm. Số lượng sản phẩm rất nhiều, rất lớn để đáp ứng được các nhu cầu của nhiều khách hàng. Tuy giá trị của từng sản phẩm không lớn nhưng bù lại là một lực lượng khách hàng rất lớn. Hoạt động của ngân hàng này chủ yếu là huy động vốn từ mọi thành phần kinh tế, và cho vay để giải quyết vấn đề tiêu dùng hoặc các dự án sản xuất với quy mô nhỏ và vừa.
Ngân hàng vừa bán buôn, vừa bán lẽ: Là dạng ngân hàng bao gồm cả hai hoạt động nêu trên. Ngân hàng nhắm vào tất cả các dạng khách hàng từ nhỏ đến lớn
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động:
Ngân hàng chuyên doanh: chỉ hoạt động kinh doanh chuyen môn hoá trong môt lĩnh vực nào đó.
Ngân hàng đa năng, kinh doanh tổng hợp: là NH hoạt động ở mọi lĩnh vực kinh tế và thực hiện bất kỳ nghiệp vụ nào được phép của NHTM.
Lý luận về thương hiệu
Khái niệm về thương hiệu
Thương hiệu đã xuất hiện cách đây hàng thế kỷ với ý nghĩa để phân biệt hàng hóa của nhà sản xuất này với hàng hóa của nhà sản xuất khác. Từ “Brand” (thương hiệu) xuất phát từ ngôn ngữ Na uy cổ “Brandr”. Nghĩa là “đóng dấu bằng sắt nung” (to burn). Trên thực tế, từ thời xa xưa cho đến ngày nay, “brand” đã và vẫn mang ý nghĩa chủ của những con vật nuôi đánh dấu lên các con vật của mình để nhận ra chúng.
Theo hiệp hội Marketing Hoa Kỳ, Thương hiệu là “một cái tên, từ ngữ, ký hiệu, biểu tượng hoặc hình vẽ kiểu thiết kế,..., hoặc tập hợp của các yếu tố trên nhằm xác định và phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một người bán hoặc nhóm người bán với hàng hóa và dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh”.
Một thương hiệu có thể được cấu tạo bởi hai phần:
Phát âm được: là những yếu tố có thể đọc được, tác động vào thính giác của người nghe như tên công ty (ví dụ như: Uliniver), tên sản phẩm (Dove), câu khẩu hiệu (nâng niu bàn chân Việt), đoạn nhạc hát đặc trưng và các yếu tố phát âm được khác.
Không phát âm được: là những yếu tố không đọc được mà chỉ có thể cảm nhận được bằng thị giác như hỉnh vẽ, biểu tượng (ví dụ hình lưỡi liềm của hãng Nike), màu sắc (màu đỏ của Coca-cola), kiểu dáng thiết kế bao bì (kiểu chai nước khoáng Lavie) và các yếu tố nhận biết khác
Ở Việt Nam, khái niệm thương hiệu thường được hiểu đồng nghĩa với nhãn hiệu hàng hóa. Tuy nhiên, trên thực tế khái niệm thương hiệu được hiểu rộng hơn nhiều, nó có thể là bất kỳ cái gì được gắn liền trên sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm làm cho chúng được nhận biết dễ dàng và khác biệt với các sản phẩm cùng loại. Do đó, việc đầu tiên trong quá trình tạo dựng thương hiệu là lựa chọn và thiết kế cho sản phẩm hoặc dịch vụ một tên gọi, logo, biểu tượng, màu sắc, kiểu dáng thiết kế, bao bì và các yếu tố phân biệt khác trên cơ sở phân tích thuộc tính của sản phẩm, thị hiếu và hành vi tiêu dùng của khách hàng mục tiêu và các yếu tố khác như pháp luật, văn hóa, tín ngưỡng... Chúng ta có thể gọi các thành phần khác nhau đó của một thương hiệu là các yếu tố của thương hiệu.
Liên quan đến thương hiệu, Ambler & Styles đã định nghĩa như sau: “Thương hiệu là một tập hợp các thuộc tính cung cấp cho khách hàng mục tiêu các giá trị lợi ích mà họ tìm kiếm” (() Ambler, T&C. Styles (1996), Brand Development vs. New Product Development: Toward a Process Model of Extension.
).
Như vậy, có thể thấy rằng, thương hiệu là đại diện của một tập hợp các thuộc tính hữu hình và các thuộc tính vô hình của sản phẩm và doanh nghiệp trên thị trường. Các thuộc tính hữu hình thuộc về vật chất của sản phẩm và là những gì mà khách hàng có thể cảm nhận được bằng thị giác nhằm đáp ứng cho khách hàng loại nhu cầu về chức năng đó là cung cấp giá trị lợi ích cơ bản của sản phẩm. Các thuộc tính vô hình của thương hiệu còn đáp ứng cả loại nhu cầu tâm lý nhằm tạo cảm giác an toàn, thích thú và tự hào về quyền sở hữu, sử dụng…
Mỗi thương hiệu muốn có khách hàng phải chiếm lĩnh được một vị trí nhất định trong nhận thức của khách hàng. Nơi mà các thương hiệu cạnh tranh với nhau không phải trên thị trường mà là trong nhận thức của người tiêu dùng
Tầm quan trọng của thương hiệu.
Đối với khách hàng :
Với người tiêu dùng thương hiệu xác định nguồn gốc của sản phẩm hoặc nhà sản xuất của một sản phẩm và giúp khách hàng xác định nhà sản xuất cụ thể hoặc nhà phân phối nào phải chịu trách nhiệm.
Thương hiệu là một công cụ nhanh chóng hoặc là cách đơn giản hoá đối với quyết định mua sắm. Đây chính là điều quan trọng nhất mà một thương hiệu cũng như công ty được gắn với thương hiệu cần vươn tới. Nếu khách hàng nhận ra một thương hiệu và có một vài kiến thức về thương hiệu đó, họ không phải suy nghĩ nhiều hoặc tìm kiếm, xử lý nhiều thông tin để ra quyết định về tiêu dùng sản phẩm.
Thương hiệu cho phép khách hàng giảm bớt chi phí tìm kiếm sản phẩm bên trong (họ phải suy nghĩ mất bao nhiêu) và bên ngoài (họ phải tìm kiếm mất bao lâu).
Mối quan hệ giữa thương hiệu với khách hàng có thể được xem như một kiểu cam kết hay giao kèo. Khách hàng đặt niềm tin và sự trung thành của mình vào thương hiệu và ngầm hiểu rằng bằng cách nào đó thương hiệu sẽ đáp lại và mang lại lợi ích cho họ thông qua tính năng hợp lý của sản phẩm, giá cả phù hợp, các chương trình tiếp thị.
Thương hiệu giúp khách hàng biểu đạt địa vị xã hội của mình. Việc mua các thương hiệu nhất định còn có thể là một hình thức tự khẳng định hình ảnh của người sử dụng. Mỗi thương hiệu không chỉ đặc trưng cho những tính năng, giá trị sử dụng của sản phẩm mà còn mang trên nó cả một nền tảng tượng trưng cho một dòng sản phẩm cung ứng cho những người có địa vị xã hội.
Thương hiệu còn giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc báo hiệu những đặc điểm và thuộc tính cuả sản phẩm tới người tiêu dùng.
Thương hiệu có thể làm giảm rủi ro khi quyết định mua và tiêu dùng sản phẩm như :
Thương hiệu làm cho sinh hoạt hàng ngày cũng như cuộc sống cuả người tiêu dùng trở nên thuận tiện và phong phú hơn.
Đối với doanh nghiệp:
Thương hiệu làm cho sinh hoạt hàng ngày cũng như cuộc sống cuả người tiêu dùng trở nên thuận tiện và phong phú hơn.
Các thương hiệu thành công tạo ra tài sản cho doanh nghiệp nhờ thu hút và giữ được khách hàng trung thành. Khi một doanh nghiệp tạo ra được khách hàng trung thành, họ có thể chiếm được thị phần lớn, duy trì mức giá cao, đạt doanh thu và lợi nhuận cao. Trong thế giới hàng hóa vô cùng đa dạng và phong phú như ngày nay, người tiêu dùng sẽ chỉ chú ý lựa chọn những thương hiệu sản phẩm nổi tiếng, quen thuộc và phù hợp với họ mà thôi.
Thương hiệu giúp người bán phát triển các khách hàng trung thành. Nhờ người mua trung thành với một thương hiệu cụ thể, thị phần của công ty sẽ đạt được một mức chắc chắn nhất định, cho phép sử dụng các nguồn lực có hiệu quả hơn. Một khi đã phát triển được một mức độ trung thành của khách hàng đối với thương hiệu, doanh nghiệp có thể duy trì mức giá cao thay vì liên tục giảm giá để thu hút khách hàng.
Thương hiệu tạo được sự bền vững về mặt vị thế cạnh tranh. Một thương hiệu đã có được lòng tin của khách hàng thì sẽ dễ dàng có được lòng trung thành của khách hàng với thương hiệu. Xây dựng và duy trì được những thương hiệu nổi tiếng là một phương thức phòng vệ hữu hiệu nhất của doanh nghiệp. Một thương hiệu thành công sẽ ngăn cản các đối thủ cạnh tranh cũng như các thương hiệu khác xâm nhập vào thị trường hiện tại của thương hiệu đó.
Trong nền kinh tế thị trường, sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp đều phụ thuộc vào việc xây dựng những thương hiệu mạnh, qua đó, chế ngự được các sản phẩm cạnh tranh, mở rộng được việc tiêu thụ sản phẩm sang nhiều thị trường khác, phát triển thêm nhiều loại khách hàng khác và tăng lòng trung thành của họ với sản phẩm
Thương hiệu được coi như một tài sản có giá trị rất lớn bởi nó có khả năng tác động đến thái độ và hành vi của người tiêu dùng. Nó được mua và bán bởi có thể đảm bảo thu nhập bền vững cho chủ sở hữu thương hiệu.
Khẳng định đẳng cấp chất lượng trước khách hàng.
Sự hình thành giá trị thương hiệu.
Giá trị thương hiệu là một khái niệm mới xuất hiện vào đầu thập kỷ 80 và ngày càng trở nên phổ biến. Có rất nhiều cách đánh giá khác nhau về giá trị thương hiệu, nhưng nhìn chung, giá trị thương hiệu đều được phân tích và đánh giá từ góc độ người tiêu dùng và dựa trên quan điểm cơ bản là giá trị thương hiệu được xem như một giá trị gia tăng đóng góp vào giá trị của một sản phẩm hoặc dịch vụ. Giá trị này là kết quả của những khoản đầu tư và nỗ lực không ngừng trong hoạt động marketing đối với thương hiệu.
Giá trị thương hiệu được hình thành từ 4 thành phần chính đó là: Sự nhận biết về thương hiệu; Chất lượng được cảm nhận; Lòng trung thành của khách hàng; và Các liên hệ thương hiệu.
Thứ nhất, giá trị thương hiệu được xem như một tập hợp các tài sản. Do vậy, việc quản lý giá trị thương hiệu có nghĩa là quản lý các hoạt động đầu tư để tạo ra và tăng thêm số tài sản này.
Thứ hai, mỗi thành phần của giá trị thương hiệu tạo ra giá trị bằng nhiều cách khác nhau. Để quản lý hiệu quả giá trị thương hiệu và có các quyết định đúng đắn về tạo dựng thương hiệu, cần phải hết sức nhạy cảm với các cách thức tạo ra giá trị của những thương hiệu mạnh.
Thứ ba, thương hiệu tạo ra giá trị cho khách hàng và cho cả công ty. “Khách hàng” được hiểu là bao gồm cả người sử dụng cuối cùng và các cấp đại lý phân phối. Trong sự thành công của thương hiệu, không chỉ những người tiêu dùng cuối cùng mà còn có cả sự đóng góp rất lớn vào hình ảnh thương hiệu từ các đại lý bán lẻ.
Thứ tư, các tài sản ẩn sau giá trị thương hiệu cần phải được liên kết chặt chẽ với tên và biểu tượng của thương hiệu. Nếu tên và biểu tượng của thương hiệu bị thay đổi, số tài sản này của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng hoặc có thể bị mất đi, và một số có thể được chuyển sang cho một cái tên hay một biểu tượng mới
Định vị thương hiệu.
Định vị thương hiệu là việc tạo ra vị thế riêng biệt của thương hiệu trong một môi trường cạnh tranh để bảo đảm rằng mỗi người tiêu dùng trong thị trường mục tiêu có thể phân biệt được thương hiệu ấy với các thương hiệu cạnh tranh khác. Việc định vị thương hiệu mang tính chất quan trọng là do nó có liên quan trực tiếp đến nhận thức của người tiêu dùng.
Việc lựa chọn thương hiệu rất phong phú và mức độ khác nhau giữa các thương hiệu này cũng giảm đi rõ rệt khi mà chức năng và lợi ích của các sản phẩm mang lại khá giống nhau. Đó là lý do tại sao thương hiệu cần nhanh chóng được định vị với những đặc tính nổi bật khác biệt so với các thương hiệu cạnh tranh.
Để có thể định vị thương hiệu thành công thì bạn cần phải khảo sát thật kĩ vị trí hiện tại trên thị trường của thương hiệu. Bản đồ thương hiệu cần phải được thiết lập để xác định chính xác vị trí của thương hiệu và so sánh kết quả này với đối thủ cạnh tranh
Cách thức định vị thương hiệu
Định vị thương hiệu là việc trả lời các câu hỏi sau đây :
Phân đoạn sản phẩm thị trường nào mà thương hiệu muốn hướng đến?
Sự khác biệt nổi trội của nó là gì?
Do đó việc định vị cần phải phân tích kỹ lưỡng các câu hỏi sau đây :
Vì sao khách hàng mua? Hay mua vì cái gì? Lợi ích cụ thể và thuộc tính nổi trội thể hiện trong thương hiệu là gì?
Đối tượng mục tiêu của thương hiệu là ai?
Khách hàng sử dụng sản phẩm khi nào? Khách hàng thường xuyên mua vào dịp nào và tại sao?
Đối thủ cạnh tranh là ai?
Qua việc trả lời những câu hỏi này chúng ta có thể:
Xác định được tập thương hiệu cạnh tranh.
Xác định được tập thuộc tính của thương hiệu.
Khách hàng mục tiêu mà thương hiệu hướng đến.
Khi nào khách hàng sử dụng sản phẩm của mình…
Khi dịnh vị được thương hiệu nó giúp bạn trả lời 7 câu hỏi mấu chốt sau:
Bạn là ai?
Công việc kinh doanh của bạn là gì?
Khách hàng của bạn là ai?
Bạn đang phục vụ nhu cầu nào của thị trường?
Đối thủ của bạn là ai?
Điều gì làm nên sự khác biệt cho công ty bạn?
Đâu là lợi ích độc đáo trong sản phẩm hay dịch vụ mà bạn cung cấp?
Thương hiệu Ngân hàng
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng cũng đã bắt đầu chú trọng đến việc xây dựng và phát triển thương hiệu.
Thương hiệu ngân hàng có thể được hiểu là một thuật ngữ dùng trong hoạt động marketing, thể hiện tên giao dịch của một ngân hàng, được gắn với bản sắc riêng và uy tín, hình ảnh của chủ thể mang tên này nhằm gây dấu ấn sâu đậm đối với khách hàng và phân biệt với các ngân hàng khác trong hoạt động kinh doanh tiền tệ – tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Nói cách khác, thương hiệu của một ngân hàng chính là nhận thức của khách hàng về ngân hàng. Khách hàng có thể không cần biết ý nghĩa của một tên gọi, một biểu tượng của một ngân hàng nào đó nhưng nếu khi họ có nhu cầu về tài chính và họ đến ngân hàng một cách vô thức thì ngân hàng đó đã xây dựng được cho mình một thương hiệu vững chắc trong tâm trí khách hàng.
Có thể nói rằng, thương hiệu là khối tài sản vô hình nhưng có giá trị nhất định trong hoạt động ngân hàng. Thương hiệu không thể tạo dựng được trong một hai ngày hay chuyển nhượng đơn thuần như tài sản vô hình và trong mọi trường hợp, định giá thương hiệu phải có cái nhìn vĩ mô, có tính chiến lược thì mới có thể đánh giá hết giá trị mà thương hiệu đem lại cho ngân hàng.
Xây dựng thương hiệu trong lĩnh vực ngân hàng sẽ khó hơn gấp nhiều lần so với các ngành sản xuất khác do tính đặc thù của các sản phẩm ngân hàng. Khách hàng giao dịch với ngân hàng là mua và bán các sản phẩm vô hình mà lợi ích có liên quan đến tài chính – một trong những vấn đề nhạy cảm nhất của cuộc sống. Hơn thế nữa, khác với phương châm của các doanh nghiệp sản xuất là càng bán được nhiều hàng hóa càng tốt. Phương châm của ngân hàng là “luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt”, “cung cấp dịch vụ thỏa mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng”.
Tạo ra thương hiệu chính là tạo ra sự yêu mến và sự khác biệt trong trái tim và suy nghĩ của khách hàng.
Thương hiệu ngân hàng cũng được cấu thành từ hai phần:
Phần phát âm được (phần đọc được):
Đó là tên của ngân hàng được khách hàng nghe quen ví dụ: Vietcombank, ACB, Sacombank, Citibank, HSBC, v.v….
Đó là câu khẩu hiệu như: HDBank có “Ngân hàng của bạn – Ngôi nhà của bạn”, HSBC có “Ngân hàng toàn cầu am hiểu địa phương”, ACB có “Ngân hàng của mọi nhà”, Ngân hàng Phương Đông có “Cùng bạn thực hiện ước mơ”, VPBank có “Cuộc sống mới”, Habubank có“Giá trị tích lũy niềm tin” v.v…,
Đó cũng có thể đoạn nhạc hát đặc trưng và các yếu tố phát âm được khác.
Phần không phát âm được : Là những phần cấu thành nên điểm khác biệt của Ngân hàng, đó là:
Biểu tượng (Logo) của Ngân hàng mà những yếu tố này không đọc được, nó chỉ có thể cảm nhận được bằng thị giác.
Màu sắc
Kiểu dáng thiết kế
Và các yếu tố nhận biết khác.
Đặc thù cần lưu ý trong thương hiệu ngân hàng.
Về tổng thể thì thương hiệu doanh nghiệp và thương hiệu ngân hàng không khác nhau nhiều lắm. Tuy nhiên do sự khác nhau cơ bản về tính chất của doanh nghiệp và ngân hàng nên từ đó chúng có những khác biệt.
Ngân hàng là một thiết chế tài chính và là một doanh nghiệp đặc biệt vì sau lưng ngân hàng là một lực lượng hùng hậu nhằm giúp ngân hàng không bị phá sản hoặc nếu ngân hàng bị phá sản thì hậu quả cũng được giảm thiểu ở mức tối thiểu. Chính điều đó tạo nên khác biệt cơ bản nhất giữa thương hiệu ngân hàng và thương hiệu doanh nghiệp. Đó là:
Thương hiệu ngân hàng có thể là vật bảo chứng cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (doanh nghiệp muốn làm ăn với một đối tác nào đó, thì việc doanh nghiệp đó được một ngân hàng có uy tín cho vay hay bảo lãnh tài sản là một lợi thế trong đàm phán). Ngược lại, một thương hiệu doanh nghiệp không thể là vật bảo chứng cho ngân hàng nhưng ở một chừng mực nào đó thì một ngân hàng có nhiều khách hàng là các doanh nghiệp nổi tiếng thì ngân hàng đó chứng tỏ được uy tín của mình.
Khác biệt thứ hai giữa thương hiệu ngân hàng và thương hiệu doanh nghiệp, đó chính là độ phổ biến của thương hiệu. Đối với doanh nghiệp thì sản phẩm của họ có thể “len lỏi” đến từng ngóc ngách của thị trường, vì vậy làm cho thương hiệu của họ được biết đến nhiều hơn. Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp các thương hiệu sản phẩm của các doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi. Nhưng đối với thương hiệu ngân hàng thì mức độ quảng bá rộng khắp là thấp và hầu như khi ngân hàng đó mở chi nhánh tại vùng nào thì chỉ vùng đó mới biết đến ngân hàng đó. Vì vậy thương hiệu ngân hàng lại ít được biết đến trong công chúng so với các thương hiệu thương mại khác.
Một khác biệt nữa giữa thương hiệu ngân hàng và thương hiệu doanh nghiệp, đó là sự khác biệt về tính đa dạng thương hiệu. Một doanh nghiệp có thể có rất nhều thương hiệu khác nhau cho những sản phẩm trong cùng một ngành hàng hay cho những sản phẩm ở các ngành hàng khác nhau và có thể không có sản phẩm nào mang tên công ty mình. Ví dụ, công ty P&G có hàng loạt các thương hiệu khác nhau cho các sản phẩm của mình như: Tide, Camay, Rejoice….
Đối với ngân hàng thì hầu như chỉ sử dụng một thương hiệu cho các hoạt động của mình dù có mở rộng lĩnh vực kinh doanh sang các ngành khác như ACB có ACBS (Công ty chứng khoán ACB), ACBR (Công ty địa ốc ACB), ACBA (Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản ACB), ACBD (Công ty dịch vụ bảo vệ ACB),…
Các thành tố của thương hiệu (Nhãn hiệu, Logo, Slogan)
Để xây dựng và phát triển thương hiệu, công việc đầu tiên các nhà quản trị cần phải làm là sáng tạo và chuẩn hóa các thành tố của một thương hiệu như nhãn hiệu, logo, slogan… Không có chúng thì không thể ra đời thương hiệu.
Nhãn hiệu:
Tên nhãn hiệu là thành tố cơ bản vì nó thường là yếu tố chính hay là liên hệ chính của sản phẩm một cách cô đọng. Tên nhãn hiệu là ấn tượng đầu tiên về một loại sản phẩm – dịch vụ trong nhận thức nhãn hiệu của khách hàng. Ví dụ sữa chua Vinamilk, ngay cái tên đã tạo nên những liên tưởng đến một loại sản phẩm chất lượng và đặc trưng của Vinamilk.
Vì thế tên nhãn hiệu giúp khách hàng phân biệt đồng thời cũng là yếu tố cơ bản gợi nhớ sản phẩm dịch vụ trong các hoạt động mua sản phẩm dịch vụ.
Dưới góc độ pháp luật bảo hộ (Điều 75 Bộ luật dân sự) tên nhãn hiệu được tạo thành từ sự kết hợp của từ ngữ hoặc của các chữ cái “có khả năng phân biệt” sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp này với sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp khác đã được bảo hộ và không thuộc các dấu hiệu loại trừ. Đáp ứng các yêu cầu trên thì tên nhãn hiệu sẽ được bảo hộ với tư cách là Nhãn hiệu hàng hóa.
Interbrand cho rằng doanh nghiệp không nhất thiết lúc nào cũng tập trung vào tên nhãn hiệu. Tổ chức này đã thực hiện một cuộc khảo sát thực tế kinh nghiệm của những thương hiệu nổi tiếng toàn cầu và kết quả là có 4 tình huống mà doanh nghiệp nên quan tâm và thực sự cần chú trọng thay vì lúc nào cũng quan tâm đến tên nhãn hiệu: (1) Sản xuất sản phẩm mới, (2) Mở rộng dòng sản phẩm, (3) Cung cấp loại hình dịch vụ mới, (4) Thành lập doanh nghiệp liên doanh. Ngoài ra trong những thời điểm “đẹp” cần đưa ra một hoặc một số thành tố vào tên nhãn hiệu để cho khách hàng những cảm nhận mới về sản phẩm dịch vụ, ví dụ như sảnphẩm FutureII là dòng xe mới thay cho Future.
Interbrand cho rằng : Phát triển thương hiệu không phải bắt đầu từ sự ra đời của sản phẩm hay dịch vụ mà bắt đầu ngay từ khái niệm hướng đến sự hình thành tên nhãn hiệu bởi tên nhãn hiệu là ấn tượng đầu tiên tạo ra nhận thức nhãn hiệu trong tiềm thức khách hàng.
Logo:
Trước tiên phải khẳng định rằng logo không phải là thương hiệu, logo chỉ tượng trưng cho thương hiệu. Logo chính là ấn tượng bên ngoài, đại diện cho thương hiệu của một công ty, nó làm cho khách hàng tìm đến công ty, nhớ đến công ty và nhận rõ ra công ty trong hàng triệu công ty kinh doanh khác.
Việc sử dụng mẫu mã và hình dáng của logo sẽ ảnh hưởng đến thương hiệu của một công ty. Một logo tốt có thể mang lại cho công ty sức mạnh không tưởng và đóng góp trực tiếp vào doanh thu. Ngược lại, một logo tệ hại có thể sẽ là bức màn cho “nụ hôn bất ngờ của thần chết”.
Lợi ích của Logo:
Tính đồ họa cao: Logo dễ dàng nhận biết và gợi nhớ, vì thế Logo cũng mang chức năng phân biệt sản phẩm này hay công ty này với sản phẩm công ty khác.
Tính linh động: Logo có thể dễ dàng cải tiến đường nét, màu sắc theo thời gian và dễ được chấp nhận ở các nền văn hóa khác nhau. Tuy nhiên, không nên cải tiến hình ảnh logo quá xa rời những đặc thù truyền thống của công ty.
Thích ứng nhiều chủng loại sản phẩm: Logo ít hàm chứa ý nghĩa của một sản phẩm cụ thể, các doanh nghiệp thường xây dựng logo như một phương diện để thể hiện nguồn gốc sản phẩm hoặc cam kết về chất lượng sản phẩm.
Hình ảnh cô đọng: Logo thường là hình tượng về công ty, do vậy nó có khả năng nhắc nhớ tên công ty trong đầu óc người tiêu dùng.
Tính trừu tượng: Logo rất quan trọng đối với các doanh nghiệp chuyên cung cấp dịch vụ, bởi logo có thể tác động tích cực, bổ trợ cho bản chất vô hình, trừu tượng của dịch vụ.
Slogan:
Khẩu hiệu là đoạn văn ngắn truyền đạt thông tin, mô tả hoặc thuyết phục về nhãn hiệu. Khẩu hiệu thường xuất hiện trên quảng cáo và là thành phần mạnh mẽ của nhãn hiệu vì nó giải thích nhãn hiệu một cách cô đọng.
Quan trọng nhất là khẩu hiệu giúp củng cố, định vị nhãn hiệu và điểm khác biệt. Đối với các thương hiệu hàng đầu, khẩu hiệu còn là những tuyên bố về tính dẫn đầu, độc đáo của mình. Ví dụ như: Biti’s - Nâng niu bàn chân Việt, Trung Nguyên – Khơi nguồn sáng tạo, Nippon – Sơn đau cũng đẹp,…
Lợi ích của Slogan: Khẩu hiệu có thể làm tăng nhận thức nhãn hiệu vì nhắc lại nhãn hiệu theo một cách nào đó. Nó giúp củng cố, định vị nhãn hiệu, làm nổi bật điểm khác biệt hay tính dẫn đầu hay sự độc đáo, chẳng hạn: slogan của Call Center 8247247 của ACB là “ Dịch vụ mọi lúc mọi nơi”.
Còn một vài các thành tố khác của thương hiệu như: Tính cách nhãn hiệu, bao bì,… tuy nhiên 3 yếu tố trên là 3 yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của một thương hiệu. Chúng ta biết rằng ngày nay hầu hết các doanh nghiệp đều đang cố gắng tạo cho công ty mình một hình ảnh đặc trưng riêng không thể nhầm lẫn và các hoạt động gây dựng thương hiệu ngày càng trở nên nóng bỏng bởi bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng thật sự của thương hiệu.
Quy trình xây dựng một chương trình bản sắc thương hiệu tổng thể.
Theo Richard Moore, quy trình xây dựng một chương trình bản sắc thương hiệu gồm:
Bước 1: Đánh giá khách quan thương hiệu.
Bước 2: Xác định mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp và nhu cầu khách hàng.
Bước 3: Tạo dựng cơ cấu quan hệ thương hiệu “mẹ’ và thương hiệu chi nhánh.
Bước 4: Triển khai các yếu tố cốt lõi cho bản sắc thương hiệu.
Bước 5: Gắn kết thương hiệu với phương tiện truyền thông marketing.
Bước 6: Lưu giữ “tài sản” thương hiệu cho tương lai.
Bước 7: Tích cực duy trì thương hiệu đã xây dựng được.
Thương hiệu mạnh quyết định kinh doanh thành công.
Gia nhập AFTA, WTO mang lại một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Thực tế này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng phải nhanh nhạy hơn trước những nhu cầu của khách hàng để tạo ra những sản phẩm phù hợp nhất với giá thành cạnh tranh. Trên con đường này, theo các chuyên gia, hướng phát triển một hình ảnh thương hiệu mạnh chính là điều kiện cần để các doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường.
Thương hiệu quyết định thị phần: “Muốn chiếm thị phần phải chiếm được tâm trí khách hàng, muốn chiếm được tâm trí khách hàng phải có thương hiệu mạnh”. Đây là câu nói cửa miệng của các doanh nghiệp về kinh nghiệm xây dựng hình ảnh thương hiệu.
Việc đánh mất thương hiệu cũng có nghĩa doanh nghiệp tự đánh mất thị phần, đánh mất chính mình bởi thương hiệu chính là “linh hồn” của doanh nghiệp. Ngoài ra, mất thương hiệu cũng có nghĩa nguy cơ làm hàng nhái, hàng giả sẽ tăng cao, làm tổn hại đến cả doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Các doanh nghiệp Việt Nam phải nghiêm túc nghĩ đến việc đăng ký thương hiệu ở nước ngoài, vì hội nhập là cơ hội chiếm dụng tài sản của nhau, kể cả những đối tác làm ăn lâu năm cũng có thể trở thành đối thủ của doanh nghiệp bất cứ lúc nào. Đây là điều kiện tiên quyết để có thể xâm nhập thị trường, giành thị phần.
Việt Nam mới gia nhập nền kinh tế thị trường tự do chưa lâu, do đó các doanh nghiệp Viêt Nam chưa đạt đến trình độ chuyên nghiệp trong việc điều hành và quản lý bản sắc thương hiệu như các đối thủ cạnh tranh tại các nước khác trong khu vực và trên thế giới.
Giờ đây khi nhiều hiệp ước thương mại giúp Việt Nam mở cửa rộng hơn với thị trường thế giới sẽ còn thúc đẩy quá trình mở cửa mạnh hơn nữa thì việc tạo dựng một hình ảnh thương hiệu mạnh sẽ trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Kết luận chương 1
Hoạt động ngân hàng rất rộng lớn và ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế. Ngân hàng ở một góc độ nào đó cũng là một doanh nghiệp hoạt động theo điều lệ và pháp luật. Với mục tiêu cuối cùng là làm tăng lợi ích cho cổ đông và góp phần phát triển nền kinh tế đất nước, các nhà quản trị ngân hàng cũng phải nghiên cứu đến các hoạt động Marketing, cũng phải xây dựng và phát triển thương hiệu của ngân hàng.
Xây dựng thương hiệu ngân hàng chính là tạo dựng hình ảnh ngân hàng tốt về các sản phẩm, dịch vụ trong suy nghĩ của khách hàng. Gắn thương hiệu ngân hàng cho từng loại sản phẩm của ngân hàng (Sản phẩm tín dụng, huy động, thanh toán quốc tế, và các sản phẩm khác), gắn thương hiệu đến hình ảnh của ngân hàng để từ đó thương hiệu đi vào tâm trí của khách hàng. Những nhà quản trị ngân hàng khi hoạch định chiến lược kinh doanh của ngân hàng, hoặc chiến lược của một sản phẩm nào đó cần gắn với việc xây dựng thương hiệu ngân hàng.
Thương hiệu là công cụ bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp nói chung và của ngân hàng nói riêng. Khi thương hiệu đã được đăng ký sở hữu với nhà nước thì chính nó đã trở thành một thứ tài sản vô giá. Ngân hàng có quyền sử dụng, quảng bá và khai thác mọi lợi ích gia tăng từ thương hiệu của mình như: mua bán, chuyển nhượng...Việc sở hữu hợp pháp một thương hiệu cho phép ngân hàng được độc quyền kinh doanh hoặc khai thác những lợi ích do thương hiệu mang lại. Thương hiệu chỉ có hiệu lực bảo hộ ở những quốc gia mà thương hiệu được chấp nhận đăng ký nên để được bảo hộ ở các quốc gia khác nhau, chủ thương hiệu phải nộp đơn xin đăng ký nhãn hiệu ở các nước hay vùng lãnh thổ đó hoặc trên toàn thế giới.
Song song với việc xây dựng, hiểu rõ vai trò của thương hiệu đối với ngân hàng nhưng làm thế nào thương hiệu đó thu hút nhiều nhất sự quan tâm của khách hàng, của thị trường thì các nhà quản trị ngân hàng cần phải sử dụng các công cụ của Marketing (hoặc các hoạt động Marketing) để xây dựng, phát triển và khai thác lợi ích từ thương hiệu mang lại
CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VÀ THƯƠNG HIỆU NGÂN HÀNG TMCP GIA ĐỊNH TRONG THỜI GIAN QUA
Tình hình hoạt động, kinh doanh và phát triển NH TMCP Gia Định
Lịch sử hình thành
Ngân hàng TMCP Gia Định (“GDB”) được thành lập và hoạt động từ năm 1992 theo giấy phép số 0025/NH-GP của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp ngày 22/08/1992, giấy phép thành lập ngân hàng số 576/GP-UB của Ủy Ban Nhân Dân (UBND) TP HCM cấp ngày 08/10/1992 và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 059036 ngày 16/10/1992 (đăng ký lần đầu) với vốn điều lệ ban đầu là 5 tỷ đồng trên cơ sở hợp nhất 2 hợp tác xã tín dụng: HTXTD Bạch Đằng và HTXTD Kỹ thương.
Từ năm 1994 đến năm 2004 là giai đoạn kiện toàn và củng cố của GĐNH sau vụ án ”Thái Kim Liêng và Đồng bọn”. Trong giai đoạn này, với sự chỉ đạo của UBND TPHCM, cùng những hỗ trợ của 16 Ngân hàng trên địa bàn TP HCM và sự đoàn kết nhất trí cao của cả tập thể CBCNV và Ban lãnh đạo của Ngân hàng, GĐNH đã từng bước khắc phục những tổn thất và khó khăn do Vụ án để lại bằng nhiều biện pháp nghiệp vụ khác nhau, những nỗ lực vượt khó để cùng nhau đưa Ngân hàng đi lên. Một số biện pháp nghiệp vụ được vận dụng trong giai đoạn này bao gồm: đẩy mạnh huy động vốn và cho vay; kinh doanh vàng và ngoại hối; tăng cường tìm kiếm khách hàng, củng cố uy tín và thương hiệu của mình đối với các thành phần khách hàng khác nhau bao gồm cá nhân và các tổ chức kinh tế vừa và nhỏ quanh địa bàn trụ sở và chi nhánh của Ngân hàng, phát triển hoạt động thanh toán đối ngoại; đầu tư trái phiếu kho bạc... Những giải pháp trên đã mang lại kết quả khả quan, đưa GĐNH thoát khỏi nguy cơ đổ vỡ và phá sản; tình hình tài chính được cải thiện; tạo lòng tin trong CBCNV; uy tín của GĐNH được củng cố và phát triển.
Năm 2005, GĐNH đã cho ra đời dịch vụ Phone – Banking. Đây là một dịch vụ rất tiện ích cung cấp cho các khách hàng mà chỉ có ở số ít Ngân hàng cung cấp tại thời điểm bấy giờ. Khách hàng có thể truy cập các thông tin như tỷ giá ngoại tệ, giá vàng, lãi suất tiền gửi, lãi suất tiết kiệm, lãi suất tiền vay, số dư tài khoản thanh toán…đơn giản bằng cách gọi vào số máy dịch vụ của Ngân hàng để có thể truy cập.
Tháng 8 năm 2005, GĐNH được Ngân hàng Nhà nước duyệt tăng Vốn điều lệ từ 25,96 tỷ đồng lên 80 tỷ đồng theo Quyết định số 1738/NHNN-HCM02 ngày 11/08/2005 của Ngân hàng Nhà nước - chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, đảm bảo đủ mức vốn điều lệ tối thiểu đối với Ngân hàng TMCP đô thị theo quy định của Chính phủ. Sự kiện này đánh dấu kết thúc quá trình kiện toàn củng cố hơn 10 năm và mở ra thời kỳ phát triển của GĐNH.
Tháng 12 năm 2006, GĐNH tiếp tục được chấp thuận và điều chỉnh vốn điều lệ từ 80 tỷ đồng lên 166,040 tỷ theo công văn số 885/NHNN-HCM02 ngày 6 tháng 7 năm 2006 của Ngân hàng Nhà nước - chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh và tăng từ 166,04 tỷ lên 210 tỷ theo công văn chấp thuận số 1803/NHNN-HCM02 ngày 26 tháng 12 năm 2006. Trong năm này, GĐNH cũng đã triển khai thành công dịch vụ Mobile – Banking. Với dịch vụ này, các khách hàng có thể thực hiện được các loại giao dịch thanh toán hóa đơn tiền điện, tiền nước, cước phí điện thọai cố định, điện thọai di động, cước phí internet, phí bảo hiểm…
Đến ngày 31 tháng 12 năm 2007, Vốn điều lệ GĐNH là 444,623 tỷ đồng, theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần thứ 10 ngày 25 tháng 12 năm 2007 của Sở Kế Hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh, đánh dấu thêm một bước tiến nữa của GĐNH.
Sau cả một quá trình phấn đấu không ngừng, từ năm 1994 đến nay, về cơ bản GĐNH đã hoàn toàn khắc phục được những hậu quả từ vụ án ‘Thái Kim Liêng và Đồng bọn’, từ một hệ thống giao dịch gồm một Hội sở, hai chi nhánh, hai phòng giao dịch vào năm 2004 đến nay GĐNH đã xây dựng được một mạng lưới hoạt động bao gồm Hội sở, 7 chi Nhánh và 14 Phòng giao dịch; đạt tốc độ tăng trưởng huy động vốn bình quân hàng năm là 30%/năm; tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân hàng năm là 40%/năm; lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước ; các sản phẩm và dịch vụ ngày càng đa dạng và phong phú.
Trong quá trình hình thành và phát triển, GĐNH đã đạt được những thành tích, danh hiệu như:
Được xếp hạng 19 trên 29 Ngân hàng Thương mại trên cả nước trong Hội thảo hợp tác phát triển công nghệ thông tin truyền thông Việt Nam lần thứ X về việc ‘Xếp hạng đánh giá mức độ sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng CNTT-TT ViệtNam ICT Index 2005’.
Được Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Liên minh các HTX Việt Nam, Hội khoa học Đông Nam Á phối hợp với mặt trận tổ quốc Việt Nam trao tặng "Cúp vàng thương hiệu và nhãn hiệu" lần 2 năm 2007.
Được Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam tăng Giấy khen năm 2007.
Được Viện quản lý tri thức và công nghệ, Trung tâm nghiên cứu Châu Á Thái Bình Dương, Tòa soạn thông tin QCA Thương mại chứng nhận danh hiệu doanh nghiệp Việt Nam uy tín, chất lượng 2007.
Thực trạng về hoạt động của NH TMCP Gia Định:
Các thông tin cơ bản về Ngân hàng
Tên tổ chức: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN GIA ĐỊNH
Tên giao dịch: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN GIA ĐỊNH
Tên viết tắt tiếng Anh: GIA DINH BANK
Tên viết tắt: GIA ĐỊNH NGÂN HÀNG
Logo:
Vốn điều lệ: 444.623.000.000 đồng (thời điểm đến cuối ngày 31/12/2007)
Trụ sở chính: 135 Phan Đăng Lưu, Phường 2, Quận Phú Nhuận, Tp. Hồ Chí Minh
Điện thoại: (08) 9956001 – 9956002 Fax: (09) 9956003
Website: www.giadinhbank.com.vn
Email: giadinhbank@hcm.fpt.vn
Giấy phép thành lập: Số 576/GP-UB ngày 08/10/1992 của Ủy ban Nhân dân Tp. Hồ Chí Minh
Giấy phép hoạt động: Số 0025/NH-GP ngày 22/08/1992 của NHNN
Giấy CNĐKKD: Số 059036 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Tp. Hồ Chí Minh cấp (đăng ký lần đầu ngày 16/10/1992, đăng ký thay đổi lần thứ 9 ngày 24/07/2007)
Mã số thuế: 0301378892
Tài khoản tiền gửi: số 4531.00.814 tại NHNN Chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh
Ngành nghề kinh doanh:
Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn dưới các hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn, chứng chỉ tiền gửi ;
Tiếp nhận vốn đầu tư và phát triển, vay vốn các tổ chức tín dụng khác ;
Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn ;
Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và chứng từ có giá ;
Hùn vốn và liên doanh theo pháp luật hiện hành, làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng;
Kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, thanh toán quốc tế, huy động các loại vốn từ nước ngoài và các dịch vụ ngân hàng khác trong quan hệ với nước ngoài khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép ;
Dịch vụ cầm đồ.
Quá trình tăng vốn điều lệ
Bảng 1: Quá trình tăng vốn điều lệ của GĐNH
ĐVT: Triệu đồng
Năm
Vốn điều lệ
Tăng trưởng so với thời điểm năm 1992
Chênh lệch
% tăng
Năm 1992 (*)
460
-
-
Năm 1995
25.960
25.500
5543%
Năm 2005
80.000
79.540
17291%
Năm 2006
210.000
209.540
45552%
Năm 2007
444.623
444.163
96557%
(*): vốn điều lệ thực góp sau khi xảy ra vụ án “Thái Kim Liêng và đồng bọn”
Cơ cấu vốn cổ phần
Cơ cấu vốn cổ phần của GĐNH tính đến cuối ngày 31/12/2007 như sau:
Tổng số cổ đông: 585 cổ đông đại diện cho 44.462.300 cổ phần, trong đó:
- Cá nhân: 571 cổ đông đại diện cho 24.183.500 cổ phần, bao gồm:
+ Việt Nam: 571 cổ đông đại diện cho 24.183.500 cổ phần.
+ Nước ngoài: không có.
- Pháp nhân: 14 cổ đông đại diện cho 24.183.500 cổ phần, bao gồm:
+ Việt Nam: 14 cổ đông đại diện cho 24.183.500 cổ phần.
+ Nước ngoài: không có.
Về cổ đông pháp nhân của GĐNH chủ yếu là các NHTM lớn như: Saigonbank, ICB, ACB,... và cổ đông chiến lược là VCB.
Huy động vốn
Tình hình huy động vốn của GĐNH đang đạt mức tăng trưởng tăng dần trong các năm gần đây. Năm 2005 nguồn vốn huy động là 389,4 tỷ đồng, năm 2006 là 533,49 tỷ đồng, tăng 36,9% so với năm 2005, năm 2007 là 1.257,161 tỷ đồng, tương đương mức tăng 135,6% so với năm 2006.
Bảng 2: Nguồn vốn huy động Đơn vị tính: Triệu đồng
Khoản mục
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
Phân theo kỳ hạn
389.470
100%
533.490
100%
1.257.161
100%
- Ngắn hạn
279.006
71,64%
428.331
80,29%
1.154.244
91,81%
- Trung, dài hạn
110.464
28,36%
105.159
19,71%
102.917
8,19%
Phân theo cơ cấu
389.470
100%
533.490
100%
1.257.161
100%
- Ngoài nước
1
0,00%
1
0,00%
1
0,00%
- Trong nước
389.469
100,00%
532.489
100,00%
1.257.160
100%
+ Tổ chức tín dụng
56.000
14,38%
201.302
37,73%
840.000
66,82%
+ Khách hàng
333.469
85,62%
331.187
62,27%
417.160
33,18%
Nguồn : GĐNH
Theo kỳ hạn huy động
Nguồn vốn huy động của GĐNH phân theo kỳ hạn bao gồm ngắn hạn và trung, dài hạn. Trong đó, các khoản huy động ngắn hạn chiếm trung bình khoảng 81,3% trên tổng nguồn vốn huy động và các khoản huy động trung và dài hạn chiếm trung bình khoảng 18,7% của tổng nguồn vốn huy động.
Vốn huy động ngắn hạn của GĐNH bao gồm các khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn. Nguồn huy động này đang có xu hướng tăng trong 3 năm gần đây: từ 279 tỷ đồng trong năm 2005 lên 428,3 tỷ đồng năm 2006, tương đương với mức tăng là 53,51%, và trong năm 2007 là 1.154,244 tỷ đồng, tăng 169,5% so với năm 2006. Trong khi đó, nguồn huy động dài hạn lại có xu hướng giảm: từ 110,4 tỷ đồng năm 2005 xuống còn 105,7 tỷ đồng năm 2006, tương đương với mức giảm 4,25% và năm 2007 còn là 102,917 tỷ, tương đương mức giảm là 2,65% so với năm 2006.
Tình hình tăng trưởng nguồn vốn huy động của GĐNH và thay đổi về cơ cấu vốn huy động được thể hiện ở biểu đồ sau :
Biểu đồ 1: Nguồn vốn huy động phân theo kỳ hạn
Nguồn: GĐNH
Nguồn vốn huy động của GĐNH chủ yếu là nguồn ngắn hạn, được huy động từ nguồn của các cá nhân là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và ngắn hạn và tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế.
Theo đối tượng huy động
GĐNH chủ yếu huy động vốn của các cá nhân và tổ chức ở trong nước, trong đó đối tượng huy động đang có xu hướng tăng dần về cơ cấu huy động từ các tổ chức tín dụng trong nước nhiều hơn các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước. Điều này là do nhu cầu vay vốn của khách hàng tăng đáng kể trong giai đoạn 2 năm gần đây và GĐNH đã phải huy động thêm nguồn từ các tổ chức tín dụng trong nước.
Biểu đồ 2: Nguồn vốn huy động phân theo đối tượng (Nguồn: GĐNH)
Một số chỉ tiêu về kết quả hoạt động kinh doanh
Bảng 3: Kết quả hoạt động kinh doanh Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
% tăng giảm 2007 so với 2006
Lợi nhuận trước thuế
9.107
19.322
101.032
423%
Lợi nhuận sau thuế
6.533
11.920
36.654
395%
Nguồn: trích Báo cáo tài chính đã được kiểm toán của GĐNH 2005 – 2006 và báo cáo năm 2007
Sản phẩm, dịch vụ ngân hàng.
Kết quả phát triển sản phẩm, dịch vụ.
Sản phẩm và dịch vụ
Sản phẩm tiền gởi:
Tiền gởi tiết kiệm không kỳ hạn: là loại tài khoản được sử dụng với mục đích cung cấp cho khách hàng gửi hoặc rút tiền bất kỳ điểm giao dịch nào thuộc hệ thống và GĐNH không tính phí đối với sản phẩm này. Các loại tiền gửi đối sản phẩm này bao gồm VNĐ, USD, EUR.
Tiền gởi tiết kiệm có kỳ hạn: là loại tài khoản tiền gởi được sử dụng với mục đích chủ yếu là hưởng lãi căn cứ vào kỳ hạn gửi, bao gồm các loại hình tiết kiệm bằng VND, USD. Đối với tiền gửi có kỳ hạn bằng VNĐ, kỳ hạn gửi bao gồm 2 tuần, 1, 2, 3, 6, 9, 13 và 18 tháng ; đối với tiền gửi có kỳ hạn bằng USD, kỳ hạn gửi bao gồm 3,6, 9 và 12 tháng.
Tiền gởi thanh toán: là loại tài khoản tiền gởi được sử dụng để thực hiện các giao dịch thanh toán qua ngân hàng, bao gồm các loại hình tiền gởi bằng VND, USD.
Dịch vụ chuyển tiền : Dịch vụ này giúp khách hàng đưa tiền đến người nhận trên toàn lãnh thổ Việt Nam thông qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. GĐNH cũng cung cấp dịch vụ chuyển tiền kiều hối. Dịch vụ này được cung cấp cho cả những khách hàng chưa có tài khoản tại GĐNH.
Sản phẩm tín dụng: GĐNH cung cấp tín dụng cho các khách hàng là cá nhân hoặc doanh nghiệp nhằm phục vụ cho các nhu cầu về sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
Cho vay sản xuất, thương mại và dịch vụ.
Cho vay mua nền nhà, mua nhà.
Cho vay sửa chữa, xây dựng, trang trí nội thất.
Cho vay trả góp, sinh hoạt, tiêu dùng.
Cho vay sổ tiết kiệm.
Thanh toán quốc tế: GĐNH cung cấp các dịch vụ thanh toán quốc tế bao gồm :
Chuyển tiền thanh toán điện (T/T)
Phát hành tín dụng thư (L/C).
Thông báo, chuyển bộ chứng từ, chiết khấu bộ chứng từ L/C xuất khẩu, tài trợ xuất khẩu có tín dụng thư.
Nhờ thu kèm chứng từ.
Nhờ thu trơn.
Dịch vụ Ngân hàng điện tử:
Phone Banking : cung cấp các tiện ích cho khách hàng nhằm truy cập các thông tin tài chính như tỷ giá ngoại tệ, giá vàng, lãi suất tiền gửi...
Mobile Banking : cung cấp các tiện ích cho khách hàng bao gồm truy vấn thông tin ngân hàng về giá vàng, tỷ giá ngoại tệ, lãi suất ; tự động báo số dư khi có thay đổi trên tài khoản ; thanh toán hóa đơn tiền điện, tiền nước, tiền điện thọai, internet...
Các dịch vụ khác:
Kinh doanh ngoại tệ phục vụ nhu cầu thanh toán quốc tế, cung cấp các công cụ giao dịch ngoại hối giúp khách hàng phòng ngừa rủi ro biến động tỷ giá như kỳ hạn, hóan đổi...
Mua bán nhà qua Ngân hàng.
Thanh toán các loại thẻ tín dụng quốc tế như visa, master.
Các loại dịch vụ Ngân hàng khác.
Hoạt động tín dụng
Trong thời gian qua, GĐNH đã mở rộng thị phần cho vay thông qua các mạng lưới hoạt động hiện có gồm Hội sở, 4 chi nhánh và 4 phòng giao dịch ở các địa bàn trọng yếu ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, tận dụng các thế mạnh về lãi suất và thời gian hoàn tất hồ sơ vay cho khách hàng để tăng doanh thu và mở rộng thị phần. Bên cạnh đó, GĐNH cũng thường xuyên rà soát, quan tâm và chăm sóc các khách hàng có uy tín để duy trì mối quan hệ tốt với các khách hàng và qua đó đạt được mức tăng trưởng về dư nợ tín dụng trên cơ sở đảm bảo an toàn chất lượng của khoản vay. Công tác kiểm tra nội bộ được tiến hành theo định kỳ hàng năm nên đã kịp thời bổ sung, chấn chỉnh các thiếu sót về hoạt động tín dụng trong toàn hệ thống.
Biểu đồ 3: Tăng trưởng dư nợ cho vay của GĐNH
Nguồn: GĐNH
Theo đối tượng cho vay :
Hoạt động tín dụng của GĐNH hoàn toàn tập trung vào các đối tượng khách hàng là các tổ chức kinh tế và cá nhân, GĐNH không có khách hàng vay là các tổ chức tín dụng. Phần lớn các khoản cho khách hàng vay có tài sản thế chấp và được xác định giá trị tài sản thế chấp theo chuẩn mực của GĐNH, do vậy cũng đã hạn chế được tối đa rủi ro tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng.
Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng Đơn vị tính: triệu đồng
Khoản mục
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số dư
% tăng
Số dư
% tăng
Số dư
% tăng
Tổng dư nợ tín dụng
390.211
18,59%
521.006
33,52%
1.051.172
102%
- Tổ chức tín dụng
-
-
-
-
-
-
- Tổ chức kinh tế, cá nhân
390.211
18,59%
521.006
33,52%
1.051.172
102%
Nguồn: GĐNH
Dư nợ tín dụng của GĐNH đạt mức tăng trưởng đều đặn qua các thời điểm 31 tháng 12 các năm 2005, 2006 và năm 2007. Cụ thể, như năm 2005 tăng 18,59% so với năm trước, năm 2006 tăng 33,5% so với năm 2005 và năm 2007 tăng 102% so với năm 2006.
Tính đến thời điểm 31 tháng 12 năm 2007, dư nợ cho vay của GĐNH là 1.051.172 tỷ đồng, tăng 102% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
Nợ nhóm 1: 1.041.782 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 99,10% trên tổng dư nợ.
Nợ nhóm 2: 4.790 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 0,46% trên tổng dư nợ.
Nợ nhóm 3: 2.900 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 0,28% trên tổng dư nợ
Nợ nhóm 4: 1.700 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 0,16% trên tổng dư nợ.
Nợ nhóm 5: 0 triệu đồng.
Theo loại hình cho vay
Trong các loại hình cho vay của GĐNH thì các khoản cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng là cao nhất so với các khoản cho vay trung và dài hạn, cho vay hợp vốn. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn chiếm trung bình khoảng 68% trên tổng dư nợ cho vay trong 3 năm 2005 – 2007, dư nợ cho vay trung và dài hạn chỉ chiếm trung bình khoảng 30% so với tổng dư nợ. Tuy nhiên, các khoản cho vay trung và dài hạn đang có xu hướng tăng dần trong những năm gần đây. Các khoản cho vay hợp vốn của GĐNH chỉ chiếm trung bình vào khoảng 0,9% trên tổng dư nợ cho vay hàng năm của GĐNH.
Cho vay theo tiền tệ
Bảng 5: Cho vay theo tiền tệ Đơn vị tính: triệu đồng
Khoản mục
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Cho vay bằng Đồng Việt Nam
387.710
519.396
1.019.445
Cho vay bằng ngoại tệ quy đồng VN
2.501
1.610
31.727
Tổng cộng
390.211
521.006
1.051.172
Nguồn: GĐNH
Tình hình hoạt động tín dụng
Trong giai đoạn vừa qua, GĐNH đã tập trung triển khai công tác tiếp thị và quảng bá thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, chú trọng đến chất lượng phục vụ, thời gian xử lý hồ sơ cho vay đảm bảo trong vòng 3 ngày nên đã góp phần đẩy nhanh dư nợ cho vay của ngân hàng. Từ 329 tỷ dư nợ cho vay vào cuối năm 2004 lên 390,211 tỷ năm 2005, tương đương tỷ lệ tăng là 18,6% và năm 2006 tổng dư nợ tín dụng của GĐNH tăng 33,5% so với năm 2005 đạt mức 521,006 tỷ đồng. Đến thời điểm cuối năm 2007 thì dư nợ cho vay của GĐNH được ghi nhận là 1.051,172 tỷ đồng, tăng 102% so với năm 2006.
Bảng 6: Tình hình hoạt động tín dụng
Khoản mục
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng dư nợ (Triệu đồng)
390.211
521.006
1.051.172
Tỷ lệ nợ quá hạn
1,35%
0,53%
0,8%
Tỷ lệ an toàn vốn (CAR)
35,55%
60,37%
77,9%
Nguồn: GĐNH
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán
Tình hình kinh doanh ngoại tệ và thanh toán, các dịch vụ thanh toán trong nước và thanh toán quốc tế trong 2 đến 3 năm gần nhất : Gia định NH đã triển khai thực hiện nhưng do ảnh hưởng của các nguyên nhân khách quan dẫn đến hoạt động thanh toán tín dụng thư xuất nhập khẩu và công tác chuyển tiền T/T còn chiếm tỷ trọng khiêm tốn trong cơ cấu hoạt động của GĐNH.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán năm 2005 – 2007 :
Đơn vị : USD
Kinh doanh ngoại tệ
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Mua
662.000
4.162.000
10.687.000
Bán
834.000
3.513.000
6.582.000
GĐNH đã duy trì được mối quan hệ với khách hàng truyền thống bên cạnh việc tìm kiếm khách hàng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: quảng cáo, băng rôn, tờ rơi, internet… và liên hệ giới thiệu dịch vụ cho khách hàng. Các chi nhánh cũng không ngừng tăng cường khai thác tiềm năng, mở rộng thị phần thanh toán của ngân hàng. GĐNH đã tổ chức bán các loại ngoại tệ cho hoạt động thanh toán của Ngân hàng. Ngoài ra, GĐNH cũng đã tổ chức khai thác nguồn vốn trên thị trường liên ngân hàng để hỗ trợ, bổ sung nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng.
Hoạt động ngân hàng đại lý
Hiện tại, GĐNH đang là đại lý nhận thanh toán qua thẻ Visa, MasterCard của Ngân hàng công thương. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phát triển quan hệ quốc tế nói chung và đẩy mạnh hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng, GĐNH thường xuyên phấn đấu đổi mới, quan hệ với các ngân hàng ở trong và ngoài nước đáp ứng nhu cầu hội nhập của Ngân hàng.
Hoạt động ngân quỹ và thanh toán trong nước
Tổng doanh số thanh toán năm 2005 là 788 tỷ đồng, năm 2006 là 2.289 tỷ đồng, năm 2007 là 2.967 tỷ đồng. Toàn hệ thống đã bảo đảm an toàn hoạt động ngân quỹ, kiểm đếm chính xác, thanh toán và đáp ứng kịp thời các nhu cầu tiền mặt của khách hàng. Ngoài ra, do là thành viên của hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHNN nên thông qua GĐNH, khách hàng có thể chuyển tiền, thanh toán đến các địa phương cả nước trong thời gian ngắn nhất.
Hoạt động đầu tư tài chính
GĐNH đã đầu tư mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu tổng công ty điện lực, Trái phiếu chính phủ.... Hoạt động này ngoài mục đích mang lại nguồn lợi nhuận còn làm tăng tính thanh khoản cho GĐNH.
Đơn vị tính : Triệu đồng
Đầu tư tài chính
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Công trái xây dựng Tổ quốc
100
100
100
Trái phiếu chính phủ
250
250
250
Trái phiếu đô thị Tp HCM
1.000
1.000
1.000
Trái phiếu Ngân hàng Ngoại thương
1.948
0
0
Trái phiếu Tổng công ty Điện lực VN
0
10.000
10.000
Trái phiếu chính phủ
0
8.000
8.000
Các chứng khóan khác
0
0
92.158
Tổng cộng
3.298
19.350
111.508
Nguồn : GĐNH
Khó khăn trong phát triển các dịch vụ.
Việc mở cửa thị trường tài chính sẽ làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý, áp lực cạnh tranh cũng tăng dần theo lộ trình nới lỏng các qui định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là về mở chi nhánh và các điểm giao dịch, phạm vi hoạt động, hạn chế về đối tượng khách hàng và tiền gửi được phép huy động, khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng, trong khi các tổ chức tài chính Việt Nam còn nhiều bất cập và thiếu kém.
Hoạt động ngành ngân hàng vẫn chưa thực sự khai thác hết những tiềm năng từ trong dân chúng. Qua khảo sát cho thấy tỷ lệ tiết kiệm qua ngân hàng trong tổng tiết kiệm của nền kinh tế đạt khoảng 30%, phần còn lại nằm trong dân cư dưới dạng vàng, ngoại tệ, nhà đất, tiền mặt. Những nguyên nhân như lòng tin, lạm phát, lãi suất, công cụ huy động vốn, thời gian làm việc, mức độ cạnh tranh…cũng khiến cho nhiều tầng lớp dân cư không muốn gửi tiền vào ngân hàng.
Việc sử dụng các dịch vụ về ngân hàng ở Việt Nam còn nhiều hạn chế do thói quen của người dân Việt nam thích sử dụng tiền mặt trong thanh toán. Đại đa số người dân chưa sử dụng nên chưa biết được các tiện ích của dịch vụ ngân hàng; các dịch vụ ngân hàng, nhất là dịch vụ thẻ thanh toán, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn với các loại hình kinh doanh chủ yếu là nhà hàng, khách sạn, các hãng sản xuất lớn…nên còn xa lạ với số đông người Việt Nam.
Giữa các ngân hàng, còn thiếu sự liên kết, hợp tác với nhau, do vậy đã làm giảm đáng kể hiệu quả kinh doanh của cả hệ thống ngân hàng. Hiện tại vẫn chưa có sự tương thích, liên kết trên diện rộng giữa các hệ thống phát hành các loại thẻ của các ngân hàng khác nhau. Dịch vụ thẻ ATM chưa kết nối chung toàn ngành Ngân hàng vì thế đã hạn chế việc đáp ứng các nhu cầu về sử dụng thẻ trong dân cư. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng của các ngân hàng phát triển vẫn không đồng đều, hệ thống chuyển mạch của các ngân hàng cũng không đồng bộ nên khó kết nối. Do vậy, các yếu tố này thực sự là thách thức đối với các Ngân hàng trong giai đoạn hội nhập.
Mặc dù đã có những nỗ lực đáng ghi nhận trong việc hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến dịch vụ ngân hàng, tuy nhiên hệ thống pháp luật ngân hàng hiện nay chưa thực sự hoàn chỉnh và đồng bộ, chưa đủ khả năng bao quát hết các vấn đề và phù hợp với thông lệ quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, ngân hàng điện tử …Luật NHNN, Luật các TCTD, Luật Lao động, Luật Phá sản,… còn nhiều điểm bất cập, chưa tạo môi trường pháp lý đồng bộ cho hoạt động của NHNN và các TCTD trong cơ chế thị trường. Một số dịch vụ ngân hàng phổ biến trên thị trường quốc tế dự kiến sẽ được phát triển ở Việt Nam theo Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và sau khi gia nhập WTO như các công cụ phái sinh; công cụ về tỷ giá, lãi suất; thanh toán quốc tế; bao tiêu; môi giới tiền tệ,… vẫn chưa được thể chế hoá phù hợp, đồng bộ.
Hạ tầng công nghệ nói chung và công nghệ thông tin nói riêng còn phân tán, nhỏ lẻ và thiếu đồng bộ, do đó đã không thể hỗ trợ cho quá trình phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng. Mặc dù đã có những cải tiến đáng kể song tốc độ phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngân hàng còn chậm, cơ sở hạ tầng kỹ thuật thông tin- truyền thông còn yếu, dung lượng đường truyền thấp, giá thành đắt, chất lượng dịch vụ không ổn định nên chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện hoạt động ngân hàng cũng như yêu cầu về hội nhập với khu vực và quốc tế.
Trong giai đoạn sắp tới, các NHTM Việt Nam sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh về qui mô, khách hàng và hệ thống kênh phân phối, nhất là sau năm 2010. Sau thời gian đó, qui mô hoạt động và khả năng tiếp cận thị trường, các nhóm khách hàng, chủng loại dịch vụ do các ngân hàng nước ngoài cung cấp sẽ tăng lên. Rủi ro đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể tăng lên do các ngân hàng nước ngoài nắm quyền kiểm soát một số tổ chức tài chính trong nước thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, liên kết kinh doanh; một số tổ chức tài chính trong nước sẽ gặp rủi ro và có nguy cơ thua lỗ, phá sản do sức cạnh tranh kém và không có khả năng kiểm soát rủi ro khi tham gia các hoạt động ngân hàng quốc tế.
Trình độ kỹ thuật công nghệ
Tình hình triển khai và ứng dụng công nghệ của tại NH TM CP Gia Định:
Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật:
Đến nay NH TM CP Gia Định đều đã được trang bị hệ thống máy tính, liên kết nội bộ, mạng cục bộ (mạng LAN), phục vụ cho hoạt động kinh doanh và hoạt động quản lý và phát triển mạng diện rộng (mạng WAN) phục vụ cho hoạt động quản lý và kinh doanh, đồng thời kết nối các mạng cục bộ tại các chi nhánh.
Hệ thống máy tính của ngân hàng trên địa bàn cũng đã kết nối với hệ thống mạng của Ngân hàng nhà nước Chi nhánh Tp.HCM và các ngân hàng cũng như các công ty tài chính …khác
Về phát triển các phần mềm ứng dụng:
Đây là công cụ rất quan trọng trong hoạt động ngân hàng hiện nay. Ngoài những ứng dụng để xử lý từng loại hình dịch vụ, nghiệp vụ cụ thể như: quản lý tiền gửi, công tác kế toán thanh toán, kho quỹ… thì những phần mềm tổng thể sẽ giúp nhà quản trị, điều hành, hoạch định, phân tích được hoạt động kinh doanh của ngân hàng mình, cũng như đưa ra được những dự đoán, dự báo thích hợp.
Đặc biệt, ngân hàng đã và đang phát triển và ứng dụng hệ thống phần mềm ngân hàng bán lẻ, với mức độ tiện ích rất cao, được thiết kế chạy trên mạng diện rộng, hỗ trợ nhân viên trong giao dịch với khách hàng. Hệ thống thanh toán điện tử của EIB (vay WB)… là hệ thống chương trình phần mềm hiện đại, với cơ sở dữ liệu mạnh, theo đó tất cả các giao dịch đều được xử lý tập trung và theo thời gian thực. Khách hàng có thể giao dịch tại bất cứ chi nhánh, phòng giao dịch trong hệ thống ngân hàng.
NH TM CP Gia Định đã xây dựng Website để cung cấp thông tin về sản phẩm, dịch vụ, lãi suất và các thông tin khác về ngân hàng mình cho khách hàng.
Đánh giá chung về tình hình phát triển và ứng dụng công nghệ:
Trước mắt, NH TM CP Gia Định triển khai những phần mềm công nghệ cho các nghiệp vụ cốt lõi liên quan đến hoạt động kinh doanh như kế toán, tín dụng, thanh toán liên ngân hàng, thanh toán quốc tế… các nghiệp vụ nội bộ như thông tin báo cáo, quản lý nhân sự, quản lý tài sản còn chờ triển khai riêng.
Đối tác thực hiện là các công ty nước ngoài, là những công ty nhiều kinh nghiệm triển khai ứng dụng công nghệ mới, đã có sẵn các quy trình nghiệp vụ theo tiêu chuẩn quốc tế. Vấn đề là lựa chọn công nghệ mới sao cho khả năng tích hợp để có thể kết nối giữa các NHTMCP với nhau.
Nhân lực và trình độ quản trị
Thực trạng về nguồn nhân lực và trình độ quản trị:
Nhìn chung, nhân sự của NH TM CP Gia Định trẻ, có năng lực, được đào tạo trong cơ chế thị trường, rất năng động, nhanh nhạy. Trong những năm gần đây NH TM CP Gia Định đã có những cố gắng trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của mình để nâng trình độ cán bộ nhân viên của NH TM CP Gia Định ngày càng cao.
Đây là điều kiện thuân lợi để ngân hàng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ tốt cho hoạt động kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh trong kinh tế thị trường hội nhập.
NH TM CP Gia Định, cùng với quá trình phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kinh doanh đã và đang tiến hành xây dựng, tổ chức và cơ cấu lại bộ máy hoạt động tinh gọn, khoa học, phù hợp với phương thức giao dịch một cửa đang rất được khách hàng quan tâm.
Đội ngũ cán bộ công nhân viên lạm việc tại NH TM CP Gia Định ngày càng chuyên nghiệp hơn, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ, tin học và kỹ năng giao tiếp tốt. Thực tế, tại ngân hàng, có phương pháp quản trị khoa học, đội ngũ chuyên viên giỏi đã hoạt động kinh doanh rất hiệu quả, nhất là trong các lĩnh vực khai thác vốn, nghiệp vụ mua bán kỳ hạn, hoán đổi, kinh doanh ngoại hối và thanh toán quốc tế. Kết quả đó là nhờ vào việc phân tích và đánh giá thị trường trong nước và qua mạng đánh giá trường quốc tế một cách khá xác thực.
Trình độ quản trị điều hành, quản trị kinh doanh tại NH TM CP Gia Định đã được nâng cao đáng kể, từng bước tiếp cận được với phương pháp quản lý kinh doanh hiện đại của nước ngoài, ý thức pháp luật trong kinh doanh được tuân thủ. Điều này đã hạn chế được rủi ro hoạt động kinh doanh ngân hàng, mà kết quả của quá trình củng cố, chấn chỉnh hoạt động của ngân hàng trên địa bàn là thực tế chứng minh.
Một số tồn tại về nguồn nhân lực tại NH TM CP Gia Định:
Chất lượng nguồn nhân lượng còn hạn chế:
Đánh giá chất lượng nguồn nhân lực trên cơ sở hiệu quả hoạt động của NH TM CP Gia Định theo các tiêu chí cụ thể như: năng lực trình độ, khả năng làm việc, hiệu quả làm việc và phẩm chất đạo đức của nguời lao động thì nguồn nhân lực của NH TM CP Gia Định hiện nay vẫn còn những tồn tại cần khắc phục, đào tạo và phát triển. Trong đó năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ, khả năng thẩm định dự án, đánh giá dự án, thẩm định khách hàng để quyết định cho vay còn thấp, đã tác động ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng đấn quá trình mở rộng và tăng cường tín dụng hiệu quả tại NH TM CP Gia Định. Mặt khác phẩm chất nghề nghiệp yếu của một số cán bộ nhân viên trong ngân hang, cũng là một trong những tồn tại ảnh hưởng lớn đến hoạt động ngân hàng. Một số vụ án liên quan đến hoạt động ngân hàng trong thời gian vừa qua, nguyên nhân không ngoài yếu tố đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng bị suy đồi, tha hóa biến chất.
Trong một số lĩnh vực hoạt động dịch vụ khác, tuy không xảy ra nhiều, song vẫn còn phát sinh rủi ro liên quan đến yếu tố nguồn nhân lực.
Hiệu quả hoạt động tổ chức, quản trị và điều hành chưa cao:
Trình độ quản trị, quản lý, trình độ công nghệ và nguồn nhân lực của NH TM CP Gia Định còn thấp so với các ngân hàng trong và nước ngoài, ngân hàng liên doanh. Tại ngân hàng bộ máy tổ chức, quản trị, và điều hành vẫn còn cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả, ảnh hưởng tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh.
Những thách thức đối với công tác quản trị ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt, những khó khăn và thử thách lớn nhất đối với ngân hàng hiện nay là ngoài việc vốn nhỏ, quy mô chưa lớn, trang thiết bị kỹ thuật thiếu và chưa hiện đại thì nguồn nhân lực trong NH TM CP Gia Định cũng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, nhất là trong quá trình cạnh tranh, khi đã gia nhập WTO trong những năm tới.
Trong thực tế, công tác quản trị nhân sự ngân hàng chưa được nhìn nhận như một nguồn lực quan trọng để qua đó đầu tư và phát triển, điều đó cũng là một yếu tố cản trở sự phát triển của ngân hàng. Thực tế đã chứng minh, nếu chú trọng đúng mức các khâu tuyển chọn, thu hút, đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực ở mọi cấp, thể hiện một chiến lược quản trị nguồn nhân lực hữu hiệu thì hiệu quả hoạt động tăng trưởng cao. Những ngân hàng chưa coi trọng công tác này, yếu tố con người bị xem nhẹ thì hiệu quả thấp, tăng trưởng thiếu bền vững.
Mạng lưới chi nhánh
Mạng lưới hoạt động của NH TM CP Gia Định hiện nay bao gồm: 01 Hội sở, 7 chi nhánh, 14 phòng giao dịch.. NH TM CP Gia Định đang từng bước củng cố mạng lưới hoạt động hiện có, phát triển thêm chi nhánh để mở rộng mạng lưới phục vụ.
Nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa, đáp ứng nhu cầu hội nhập trên thị trường quốc tế, NH TM CP Gia Định luôn đề ra mục tiêu và chiến lược phấn đấu nhằm duy trì và phát triển thị phần khách hàng. Việc mở rộng chi nhánh và các văn phòng giao dịch của ngân hàng nhằm tăng khả năng tiếp cận các sản phẩm của ngân hàng đến đủ các đối tượng khách hàng trên địa bàn khắp nơi trên cả nước. Theo kế hoạch trong năm 2008, NH TM CP Gia Định sẽ mở thêm 4 chi nhánh và 10 phòng giao dịch.
Mạng lưới khách hàng và các loại dịch vụ cho khách hàng
Địa bàn hoạt động chính của NH TM CP Gia Định hiện tại vẫn tập trung ở các Quận huyện đông dân cư, có nhu cầu về các dịch vụ của Ngân hàng ở thành phố Hồ Chí Minh bao gồm Quận 1, Quận Phú Nhuận, Quận Bình Thạnh, Quận Tân Phú và Quận Thủ Đức. Các khách hàng chính của NH TM CP Gia Định là các khách hàng cá nhân, tiểu thương, các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chuẩn bị cho giai đoạn sắp tới, đặc biệt theo xu thế phát triển và hội nhập của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới, NH TM CP Gia Định kế hoạch triển khai thêm nhiều loại hình sản phẩm và dịch vụ, chỉnh đốn và chuyên nghiệp hóa tác phong phục vụ khách hàng, ưu đãi các khách hàng giao dịch thường xuyên, mở rộng mạng lưới hoạt động trên khắp cả nước….nhằm định hướng phát triển NH TM CP Gia Định trở thành một trong những Ngân hàng mạnh tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tổng quan về hệ thống ngân hàng trên địa bàn TP.HCM và nhận định thương hiệu
Các Ngân hàng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, các ngân hàng trong những năm gần đây cũng đã đạt nhiều kết quả ấn tượng về tốc độ tăng trưởng của vốn huy động, cho vay, dịch vụ thanh toán, kinh doanh ngoại hối và các dịch vụ ngân hàng khác có liên quan. Có thể tóm lược tình hình hoạt động của các Ngân hàng ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh theo một số chỉ tiêu chính như sau:
Tổng huy động vốn của các TCTD trên địa bàn đến cuối năm 2007 là 442.530 tỷ đồng, tăng 55% so với cuối năm 2006, trong đó Ngân hàng TMCP là 204.411 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 46,16%.
Tổng dư nợ tín dụng của các TCTD trên địa bàn đến cuối năm 2007 là 346.918 tỷ đồng, tăng 51% so với cuối năm 2006, trong đó Ngân hàng TMCP là 159.354 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 45,93%. Chỉ số an toàn vốn tối thiểu đảm bảo theo tỷ lệ quy định trên 8%. Chất lượng tài sản có từng bước cải thiện và ngày càng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Các dịch vụ ngân hàng phát triển đa dạng: Trong 6 năm qua, các hoạt động dịch vụ ngân hàng trên địa bàn TP.HCM phát triển mạnh hàng loạt các sản phẩm mới ra đời, đa dạng và phong phú hơn. Với sự xuất hiện của các dịch vụ ngân hàng điện tử, Ngân hàng bán lẻ, Ngân hàng đầu tư, dịch vụ thanh toán, Ngân hàng nhà, quản lý tài sản,...trong đó dịch vụ thẻ ATM. Dịch vụ này có tốc độ phát triển mạnh nhờ tính tiện lợi, dễ sử dụng và được nhiều khách hàng người dân quan tâm sử dụng trong các giao dịch như rút, gửi tiền mặt, thanh toán dịch vụ, chuyển tiền; tư vấn tin… nhờ vậy thị phần về các hoạt động này chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thị phần do tốc độ tăng trưởng tín dụng, huy động vốn đã được cải thiện.
Thương hiệu của các ngân hàng Việt Nam
Các NHTM Việt Nam đều ý thức được rằng tên gọi là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của thương hiệu nên thường đưa ra những tên gọi có khả năng phân biệt, thể hiện được ý tưởng, ý nghĩa của thương hiệu. Các NHTM Việt Nam phần lớn đều lấy lĩnh vực hoạt động trọng tâm mà ngân hàng mình hướng đến để đặt tên. Ví dụ: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long…
Nhằm phù hợp với thông lệ và thuận tiện trong công tác quảng bá tên tuổi của ngân hàng, các NHTM đều đưa ra những tên viết tắt tiếng Anh để sử dụng rộng rãi như Agribank, Vietcombank, Incombank, Sacombank… Đồng thời, các NHTM cũng đưa ra tên viết tắt ngắn gọn nhằm giúp khách hàng dễ nhớ, dễ đọc như VBARD, VCB, ACB, BIDV, EAB…
Với mục tiêu là không những quảng bá và tạo thương hiệu ở thị trường trong nước mà còn hướng ra thị trường quốc tế, các NHTM Việt Nam đều có tên chuyển đổi sang tiếng Anh. Ví dụ: Vietnam Bank for Agriculture and Rural Development (VBARD)…
Các NHTM cũng nhận thức được tầm quan của sự phù hợp và hợp thời của tên gọi thương hiệu nên đã có những điều chỉnh kịp thời. Cụ thể, khi thành lập, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam có tên là Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, và đến năm 1996 thì Ngân hàng này mới đổi tên như hiện nay.
Tuy nhiên, tên gọi của các NHTM vẫn còn một số hạn chế nhất định. Một số ngân hàng có tên gọi còn dài dòng, thiếu tính cô đọng. Với cách gọi tên gắn với lĩnh vực hoạt động sẽ làm cho các ngân hàng bị hạn chế trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh, đa dạng hóa sản phẩm. Một số tên gọi ngân hàng dễ gây nhầm lẫn như Nam Á, Đông Á với Đông Nam Á, TMCP Sài Gòn với TMCP Sài Gòn Thương Tín…
Logo và biểu tượng
Nhìn chung, hầu hết các logo hay biểu tượng của các NHTM Việt Nam đều mang tính hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế, có tính năng kỹ thuật cao. Ví dụ: logo 9 hạt lúa làm thành hình chữ S của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam…
Hiện nay, một số NHTM đã thiết kế lại logo, biểu tượng của mình như Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam. Những NHTM không thiết kế lại logo thì đưa thêm biểu tượng mới như Agribank của Ngân hàng No & PTNT Việt Nam, hoặc nhấn mạnh đến màu sắc như màu xanh rất ấn tượng của Vietcombank…
Phần lớn các logo, biểu tượng của các ngân hàng đều được đăng ký bản quyền tại Cục Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và công nghệ.
Một số ngân hàng đã bước đầu quan tâm đến quảng bá thương hiệu ra thị trường quốc tế bằng cách đăng ký bảo hộ thương hiệu ở nước ngoài. Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam là ngân hàng đầu tiên đăng ký bảo hộ thương hiệu tại thị trường Mỹ.
Logo, biểu tượng của các NHTM ngày càng xuất hiện thường xuyên hơn trên các phương tiện thông tin đại chúng, từ truyền hình, báo, tạp chí, mạng internet… đến panô quảng cáo trên các tuyến đường giao thông, ở các hoạt động văn hóa, thể thao.
Có một số quan niệm cho rằng thương hiệu chỉ là logo nên cố gắng tìm kiếm một mẫu hình logo độc đáo nhưng sau đó không chịu đầu tư và các hoạt động cần thiết khác nhằm tiếp tục quảng bá cho thương hiệu. Do đó, logo nhiều ngân hàng chưa giúp cho thương hiệu của ngân hàng tạo được hình ảnh rõ nét, chưa làm nổi bật đặc thù của ngân hàng gắn liền với thương hiệu.
Khẩu hiệu (Slogan)
Câu khẩu hiệu của các NHTM Việt Nam đa số đều thể hiện triết lý kinh doanh ngân hàng muốn gửi gắm đến khách hàng. Ví dụ: slogan của ACB là “Hướng đến sự hoàn hảo để phục vụ khách hàng”.
Nhiều câu khẩu hiệu của ngân hàng không những thể hiện được ý tưởng, định hướng của ngân hàng mà còn ngắn gọn, dễ nhớ, dễ chuyển đổi sang ngôn ngữ khác. Ví dụ: “Agribank mang phồn thịnh đến với khách hàng” của Ngân hàng No & PTNT Việt Nam, “Ươm mầm cho những ước mơ” của Sacombank.
Tuy nhiên, so với các loại hình doanh nghiệp khác thì slogan của các NHTM Việt Nam chưa thật sự ấn tượng và làm cho khách hàng nhớ đến. Vai trò của các slogan NHTM Việt Nam còn mờ nhạt trong công tác quảng bá thương hiệu của các ngân hàng.
Nhóm các ngân hàng thương mại Quốc doanh
Gồm có các ngân hàng: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam; Ngân hàng Công Thương Việt Nam; Ngân hàng Ngọai Thương Việt Nam; Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam; Ngân hàng Phát Triển Nhà Đồng Bằng Sông Cữu Long. Đa số các ngân hàng này đều có quy mô lớn, được thành lập từ rất lâu và gắn liền với sự phát triển của đất nước, qua đó thương hiệu của các ngân hàng này đều rất cao. Các ngân hàng này là đại biểu cho khoảng 70% thị phần của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Các ngân hàng này đều được chính phủ và Ngân hàng nhà nước ưu đãi trong hoạt động. Được các tập đoàn kinh tế trong nước và ngoài nước sử dụng các dịch vụ. Cho nên các ngân hàng này đã có thương hiệu lớn cả trong nước và quốc tế. Có thể nói Vietcombank là thương hiệu “số một” ở Việt nam trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng.
Nhóm các ngân hàng thương mại cổ phần
Nhóm thương hiệu mạnh
Dựa vào các chỉ tiêu đưa ra, bên cạnh việc nghiên cứu và phân tích về hoạt động của các ngân hàng, nhóm thương hiệu mạnh là các ngân hàng: Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), Ngân hàng TMCP Sài Sòn Thương Tín (Sacombank), Ngân hàng TMCP Đông Á (EAB), Ngân hàng TMCP Kỹ Thương (Techcombank), Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Eximbank).
Nhóm ngân hàng này đã có quá trình đầu tư, xây dựng thương hiệu của mình. Với sự nổ lực và vươn lên không ngừng, các ngân hàng trong nhóm đã đạt được:
Về tài chính: trong các năm từ 2003 đến nay, Nhóm này luôn có số vốn điều lệ cao nhất trong các ngân hàng thương mại cổ phần. Tổng tài sản; Tổng vốn huy động; Tổng dư nợ cho vay; Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận luôn ở top cao. Nhóm này tuy chỉ có 5 đơn vị nhưng đã chiếm gần 50% về Vốn điểu lệ, tổng tài sản, vốn huy động, dư nợ cho vay và lợi nhuận của toàn bộ các ngân hàng thương mại cổ phần.
Mạng lưới chi nhánh: Nhóm này đã phát triển mạng lưới chi nhánh rất nhanh và rộng khắp. Mạng lưới chi nhánh đã phủ khắp các vùng kinh tế trọng yếu của cả nước.
Sản phẩm của ngân hàng: nhóm này có nhiều sản phẩm vừa truyền thống và hiện đại. Các sản phẩm đó đã đáp được nhu cầu của khách hàng về huy động, cho vay và các dịch vụ thanh toán quốc tế;
Về công nghệ, các ngân hàng này đã mạnh dạn đi đầu trong việc áp dụng công nghệ thông tin hiện đại vào hoạt động. Sự đầu tư công nghệ cũng nhằm tạo ra hiệu quả hoạt động lớn, tạo ra các dịch vụ giá trị gia tăng cho khách hàng.
Tiếng tăm ngân hàng trong công chúng, trong khách hàng: Khi không tính sự ảnh hưởng của các NHTM quốc doanh, nhóm này đã tạo được tiếng vang lớn trong lòng khách hàng.
Mức độ dễ dàng nhớ và nhận biết đến nhóm này cao;
Biểu tượng (Logo) và khẩu hiệu (slogan): Các ngân hàng này đã có quá trình xây dựng hệ thống nhận diện thương hiệu tốt. Các biểu tượng và khẩu hiệu đã dần được khách hàng nhớ đến.
Hình ảnh về ngân hàng, nhóm này có các văn phòng, trụ sở rất khang trang, nằm tại những vị trí thuận tiện cho giao dịch khách hàng. Hệ thống bảng hiệu, biển hiệu và hướng dẫn, tiếp đón khách hàng từ lúc ở ngoài ngân hàng cũng như trong ngân hàng rất dễ dàng nhận biết.
Về tác phong nhân viên và sự phục vụ khách hàng, các ngân hàng nhóm này đã có các quy định, quy chế nhân viên trong việc phục vụ khách hàng. Đào tạo nhân viên qua các lớp học, qua các khóa đào tạo ngắn hạn về phong cách ứng xử và phục vụ khách hàng, làm cho khách hàng luôn cảm nhận được sự chuyên nghiệp và thân thiện của nhân viên. Khách hàng gắn bó với ngân hàng.
Nhóm thương hiệu trung bình
Các Ngân hàng thuộc nhóm này cũng đã bắt đầu tạo dựng thương hiệu và phát triển sản phẩm. Đa số các ngân hàng này đều đặt mục tiêu là Top 10 ngân hàng mạnh nhất Việt Nam. Các ngân hàng có thể liệt kê vào nhóm này là: Ngân hàng TMCP Quốc Tế (VIB), Ngân hàng TMCP Ngoài Quốc Doanh (VPBank), Ngân hàng TMCP Phương Nam (Southernbank), Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (Habubank), Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB), Ngân hàng TMCP Quân Đội (MB), Ngân hàng TMCP Sài gòn Công thương (Saigonbank) và Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB).
Các ngân hàng nhóm này đã có một số tiêu chí ngang bằng với một số ngân hàng nhóm trên, nhưng cũng có những tiêu chí còn hạn chế.
Về phát triển mạng lưới chi nhánh, nhóm này có tốc độ mở rộng mạng lưới nhanh nhất trong hệ thống ngân hàng. Bình quân trong nhóm, mỗi ngân hàng có khoảng 60 địa điểm giao dịch.
Về sản phẩm của ngân hàng: nhóm này có các sản phẩm ngân hàng truyền thống, phục vụ được nhu cầu tiền gửi, tiền vay và dịch vụ cho khách hàng;
Về công nghệ ngân hàng, đa số các ngân hàng này đã có sự đầu tư cao cho công nghệ. Hệ thống ngân hàng lõi (Core-banking) đã được các ngân hàng này mua ở nước ngoài và đang trong thời gian triển khai thực hiện;
Tiếng tăm ngân hàng trong công chúng, trong khách hàng: Các ngân hàng này đang dần khuếch trương quảng bá thương hiệu ngân hàng. Khách hàng và công chúng có sự nhận biết tương đối rõ ràng về các ngân hàng này;
Mức độ dễ dàng nhớ và nhận biết đến ngân hàng: tuy mức độ dễ dàng nhận biết đến nhóm ngân hàng này chưa cao nhưng với tốc độ tăng cường quảng bá hình ảnh của ngân hàng, trong thời gian tới các ngân hàng này sẽ rất dễ nhận biết;
Biểu tượng (Logo), khẩu hiệu (slogan): Nhóm này có biểu tượng và khẩu hiệu riêng biệt của từng đơn vị, nhưng biểu tượng và khẩu hiệu vẫn chưa đi vào khách hàng, vào công chúng;
Hình ảnh văn phòng của nhóm này đẹp và khang trang;
Sự phục vụ khách hàng của nhân viên nhóm này rất tốt. Nhân viên của nhóm hiểu rõ vai trò của cá nhân trong việc xây dựng thương hiệu ngân hàng.
Cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, nhóm ngân hàng này đã hiểu rõ vai trò của thương hiệu và nguy cơ bị thôn tín từ các tổ chức tài chính bên ngoài. Cho nên các ngân hàng này đã nhanh chóng mở rộng mạng lưới, đầu tư cho công nghệ và đẩy mạnh việc phát triển thương hiệu. Trong nhóm có những ngân hàng trước năm 2004 đang bị ngân hàng nhà nước đưa vào diện kiểm soát đặc biệt nhưng hiện nay đã trở thành những ngân hàng hàng đầu Việt Nam.
Thương hiệu yếu và khó nhận biết
Nhóm này bao gồm tất cả các ngân hàng còn lại. Nhóm này tuy chiếm số lượng lớn nhất, nhưng các chỉ tiêu tài chính chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp trong các NHTMCP. Cụ thể về Tổng tài sản nhóm này chỉ chiếm dưới 15%, Vốn huy động chỉ chiếm 14%, Dư nợ cho vay khoảng 14%, Lợi nhuận trước thuế 12% so với toàn bộ các Ngân hàng TMCP. Bên cạnh đó, các chỉ tiêu khác cũng thấp và hạn chế, cụ thể:
Về năng lực tài chính so với các nhóm khác là rất thấp.
Tuy là nhóm có nhiều ngân hàng nhất, nhưng mạng lưới chi nhánh lại thấp nhất so với các nhóm khác. Chưa được 20% trên tổng số các địa điểm giao dịch của toàn bộ ngân hàng TMCP.
Về sản phẩm ngân hàng: sản phẩm của nhóm này rất ít, chủ yếu là các sản phẩm truyền thống về tín dụng và huy động.
Công nghệ ngân hàng: một số ngân hàng trong nhóm cũng đã đầu tư cho công nghệ, nhưng nhìn chung, các ngân hàng này vẫn chưa có sự đầu tư cho công nghệ;
Tiếng tăm ngân hàng trong công chúng, trong khách hàng còn ít;
Mức độ dễ dàng nhớ và nhận biết đến ngân hàng kém, có sự nhầm lẫn trong tên gọi của các ngân hàng;
Biểu tượng (Logo), khẩu hiệu (slogan): Các biểu tượng của các ngân hàng nhóm này rất đơn điệu, chưa có tính chuyên nghiệp và làm cho khách hàng khó nhận biết;
Về hình ảnh ngân hàng của nhóm: hình ảnh của Trụ sở chính, các chi nhánh, phòng giao dịch v.v… cũng giống như các nhóm khác. Hình ảnh thể hiện sự an tâm cho khách đến giao dịch.
Tác phong nhân viên và sự phục vụ khách hàng: Một số ngân hàng có đội ngũ nhân viên làm việc chuyên nghiệp và tận tình giúp đỡ khách hàng.
Thương hiệu NH TMCP Gia Định
Thương hiệu NH TMCP Gia Định
Như phân tích ở trên, thương hiệu NH TMCP Gia Định đang ở nhóm thương hiệu yếu và khó nhận biết. Qua các tiêu chí xếp lọai thương hiệu như trên có thể xếp NH TMCP Gia Định đang đứng ở hạng vị trí khoảng gần cuối trên tổng số các ngân hàng TMCP đưa vào phân tích bởi những lý do sau:
Năng lực tài chính: Vốn điều lệ, tổng tài sản, vốn huy động, dư nợ cho vay, lợi nhuận , tổng tài sản và các chỉ số tài chính NH TMCP Gia Định đứng ở những vị trí cuối.
Mạng lưới chi nhánh của NH TMCP Gia Định còn hạn chế, chỉ mới có 20 chi nhánh, phòng giao dịch..
Sản phẩm của NH TMCP Gia Định tương đối đơn giản;
Công nghệ ngân hàng: Đến cuối năm 2007, NH TMCP Gia Định vẫn chưa triển khai hệ thống ngân hàng lõi (core – banking).
Khách hàng rất khó nhớ và nhận biết đến ngân hàng;
Biểu tượng (Logo) của NH TMCP Gia Định rất bình thường, không tạo ra sự ảnh hưởng lớn đến khách hang vì chưa thể hiện rõ tính chất ngành, màu sắc đơn giản….. Bên cạnh đó, GĐNH chưa có Slogan để nhận biết thương hiệu của GĐNH.
Có thể liệt kê một số logo các ngân hàng sau để có thể nhìn nhận một cách cụ thể hơn:
Hình ảnh ngân hàng về trụ sở chính, các chi nhánh còn chưa thể hiện được tác phong công nghiệp.
Tác phong nhân viên và sự phục vụ khách hàng: Nhân viên chưa thể hiện hết vai trò là cầu nối giữa khách hàng và ngân hàng. Sự tiếp đón khách thiếu nhiệt tình và phong cách chưa chuyên nghiệp.
Tại sao NH TMCP Gia Định đã qua hơn 15 năm hình thành và phát triển mà thương hiệu lại thuộc nhóm yếu kém? Nghiên cứu những hạn chế để từ đó đưa ra biện pháp khắc phục cho việc xây dựng thương hiệu NH TMCP Gia Định.
Những khó khăn trong việc xây dựng thương hiệu NH TMCP Gia Định
Về mặt nhận thức
Một trong những hạn chế lớn nhất trong hoạt động xây dựng thương hiệu của NH TMCP Gia Định đó là hạn chế về kiến thức thương hiệu của đội ngũ cán bộ nhân viên. Phần lớn tập thể cán bộ nhân viên ngân hàng chưa nhận thức hết ý nghĩa và tầm quan trọng cũng như cách thức tiến hành xây dựng, quảng bá và phát triển thương hiệu một cách có hiệu quả trong điều cạnh tranh và hội nhập.
Việc thiếu kiến thức thương hiệu dẫn đến những kiến thức không đủ về hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu. Nhiều nhân viên còn cho rằng hoạt động xây dựng thương hiệu chỉ đơn giản là quảng cáo hình ảnh ngân hàng, sản phẩm dịch vụ mà chưa nhận thức được phải là toàn bộ các mặt hoạt động kinh doanh từ việc không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, hoàn thiện phong cách giao dịch, xây dựng và thực hiện phương châm hoạt động, văn hóa doanh nghiệp… cho đến xây dựng chiến lược thương hiệu, đồng thời phải gắn kết chặt chẽ với các chiến lược kinh doanh khác của ngân hàng.
Ngoài ra, với nhận thức không đầy đủ về thương hiệu, nên NH TMCP Gia Định chưa bố trí kinh phí và các nguồn lực một cách thỏa đáng để thực hiện việc phát triển thương hiệu một cách thường xuyên và hiệu quả.
Về đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng thương hiệu
Đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng và phát triển thương hiệu của ngân hàng còn thiếu về số lượng, công việc còn mang tính chất kiêm nhiệm.
Hiện nay, ngân hàng chưa thành lập bộ phận chuyên trách thương hiệu mà chủ yếu góp nhặt nhân viên từ các phòng kinh doanh, thanh toán quốc tế, nguồn vốn để kiêm nhiêm và chủ yếu làm công tác tiếp thị các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng như tín dụng, huy động vốn.
Ngoài ra, ngân hàng chưa có chức danh giám đốc nhãn hiệu, một chức danh cần thiết phải có trong hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu ngân hàng.
Hoạt động xây dựng thương hiệu còn thiếu tính chuyên nghiệp
Ngân hàng TMCP Gia Định chưa xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chiến lược marketing nói chung và phát triển thương hiệu nói riêng. Hoạt động xây dựng thương hiệu chưa thực sự mang tính chuyên nghiệp, nội dung xây dựng thương hiệu còn kém hiệu quả, mang nặng tính hình thức.
Việc sử dụng tên thương hiệu, logo, slogan, biểu tượng chưa nhiều, trang phục nhân viên thiếu tính thống nhất giữa các chi nhánh ngân hàng trong cùng hệ thống. Điều này làm hạn chế rất lớn trong việc tạo dựng hình ngân hàng trong tâm trí khách hàng.
Việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp tuy đã được hình thành ở ngân hàng song vẫn rất hình thức và chưa xây dựng được nét văn hóa đặc trưng cho ngân hàng.
Thương hiệu còn mờ nhạt trên trường quốc tế, chủ yếu ngân hàng TMCP Gia Địng chỉ tính đến chuyện cạnh tranh ngay trên sân nhà (trong nước) mà chưa có chiến lược cụ thể để thâm nhập vào các trung tâm tài chính của khu vực và thế giới. Điều này xuất phát từ thực tế là những hạn chế về vốn và nguồn lực của ngân hàng.
Thương hiệu NH TMCP Gia Định trong thời gian qua
Thương hiệu là vấn đề không phải là mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam, các công ty đa quốc gia, các công ty tài chính và các NHTMCP cũng như các NHTM quốc doanh. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có một tổ chức nào làm công việc thống kê tình hình phát triển thương hiệu Việt, mà đặc biệt là thương hiệu các NHTMCP
Hoạt động của Ngân hàng TMCP Gia Định thực sự sôi động trong những năm gần đây khi hoạt động của hệ thống ngân hàng nước ta phát triển hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng ngày càng đa dạng, phong phú hơn, hướng đến khách hàng, song vẫn thiếu một tầm nhìn xa và chiến lược trong việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, chuyên nghiệp và đáp ứng được nhu cầu khách hàng ở mức tối đa. Đây là cơ sở vững chắc cho việc xây dựng, quảng bá và phát triển bền vững thương hiệu NH TMCP Gia Định.
Bản thân đội ngũ lãnh đạo ngân hàng còn thiếu kiến thức xây dựng và phát triển thương hiệu. Hoạt động đầu tư và đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về thương hiệu cho đội ngũ cán bộ nhân viên chưa được quan tâm đúng mức.
Hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu chưa trở thành nhu cầu thiết yếu mà chủ yếu do ý chí chủ quan, thiếu sự tham khảo ý kiến từ những chuyên gia, những công ty chuyên về hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu.
Công tác xây dựng và quảng bá thương hiệu ở các ngân hàng chưa tập trung tạo ra sự khác biệt, nét đặc sắc và dấu ấn riêng cho ngân hàng mình.
Kết luận chương 2
Chương này giới thiệu tổng quát về hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần Gia Định sau 15 năm thực hiện đổi mới, đồng thời đưa ra những cơ hội cũng như thách thức cho ngân hàng trước thềm hội nhập.
Nội dung chính của chương này sẽ tập trung giới thiệu những hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu của Ngân hàng thương mại CP Gia Định trong thời gian vừa qua như: thiết kế thương hiệu, quảng bá thương hiệu, phát triển thương hiệu với các chiến lược khách hàng, sản phẩm, giá, và phân phối. Đồng thời, trong chương này cũng đã nêu bật một số khó khăn, tồn tại và nguyên nhân tồn tại trong xây dựng và phát triển thương hiệu tại các Ngân hàng thương mại CP Gia Định.
Ngân hàng thương mại CP Gia Định có những lợi thế nhất định nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức của tiến trình hội nhập quốc tế ngành ngân hàng và những thách thức của yêu cầu phải vươn ra thị trường thế giới. Để có thể đương đầu với những thách thức, duy trì vị thế hiện tại và không ngừng phát triển, Ngân hàng thương mại CP Gia Định cần phải thực hiện hàng loạt giải pháp nhằm xây dựng, quảng bá và phát triển bền vững thương hiệu của mình.
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU NGÂN HÀNG TMCP GIA ĐỊNH
Chiến lược phát triển ngân hàng TM CP Gia Định trong thời gian tới.
Căn cứ xây dựng Chiến lược phát triển ngân hàng TM CP Gia Định.
Với mục tiêu xây dựng, quảng bá nhãn hiệu sản phẩm (hàng hoá và dịch vụ), tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ hàng hoá, được mang biểu trưng của Thương hiệu Quốc gia trên thị trường trong và ngoài nước, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển Thương hiệu Quốc gia đến năm 2010 (Chương trình) tại Quyết định số 253/2003/QĐ-TTg ngày 25/11/2003. Nội dung đề án có thể trích dẫn tóm gọn như sau:
Biểu trưng của Thương hiệu Quốc gia có tựa đề tiếng Anh là: “Vietnam value inside” (Giá trị Việt Nam) được gắn vào mọi sản phẩm đã có nhãn hiệu riêng đạt được các tiêu chí do Chương trình quy định.
Phạm vi áp dụng: Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền tham gia Chương trình và được Bộ Thương mại cấp quyền sử dụng biểu trưng Thương hiệu Quốc gia đối với những sản phẩm của doanh nghiệp đạt được các tiêu chí do Chương trình quy định.
Tiêu chuẩn lựa chọn doanh nghiệp tham gia Chương trinh: Để được tham gia Chương trình, doanh nghiệp cần thỏa mãn các điều kiện sau:
- Có sản phẩm hoàn chỉnh, chất lượng cao, thiết kế mẫu mã đẹp.
- Có thị trường trong nước và xuất khẩu ổn định.
- Có thương hiệu đăng ký bảo hộ tại Việt Nam.
- Đã được cấp chứng nhận quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Sản phẩm đạt chất lượng tiêu chuẩn Việt Nam và các tiêu chuẩn do các cơ quan quản lý chuyên ngành quy định được phân loại và bình chọn. Có chương trình kiểm tra, duy trì và cải tiến chất lượng đối với mọi mặt hàng.
- Có bộ máy chuyên trách xây dựng và phát triển thương hiệu.
- Có ý thức bảo vệ môi trường, có trách nhiệm đối với xã hội.
Chiến lược phát triển ngân hàng TM CP Gia Định.
NH CP Gia Định cần thiêt phải mở rộng hoạt động một cách vững chắc, an toàn, có quy mô vốn tự có đủ lớn, áp dụng công nghệ tin học, cung cấp các dịch vụ và tiện ích thuận lợi, thông thoáng đến mọi loại hình doanh nghiệp và dân cư ở thành phố, thị xã và các khu vực kinh tế tập trung tại nông thôn, nâng cao và duy trì khả năng sinh lời, phát triển và bồi dưỡng nguồn nhân lực để có sức cạnh tranh và thích ứng nhanh chóng trong quá trình hội nhập.
Nội dung cụ thể:
- Phát triển các sản phẩm dịch vụ trên nền tảng công nghệ thông tin phù hợp để đáp ứng nhu cầu khách hàng và yêu cầu hội nhập;
- Đẩy nhanh tốc độ thực hiện, áp dụng các biện pháp bổ sung lành mạnh hoá tài chính, cải thiện chất lượng tài sản, nâng cao hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí đầu vào, nâng cao hiệu quả nguồn vốn dần tiến tới tự bền vững về tài chính, đáp ứng các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế về an toàn hoạt động;
- Tăng vốn vốn điều lệ để đáp ứng được nhu cầu phái triển và theo qui định của nhà nước, thực hiện đầy đủ các cam kết về xử lý nợ xấu, cải thiện chất lượng tài sản và có cơ chế uyển chuyển tăng vốn điều lệ;
Phát triển và mở rộn mạng lươi hoạt động tại các tỉnh trên toàn lãnh thổ Việt Nam cũng như trên địa bàn Tp. HCM
- Đầu tư xây dựng hệ thống quản trị rủi ro tập trung, độc lập và toàn diện theo tiêu chuẩn quốc tế để phát triển bền vững;
- Đẩy nhanh tiến độ triển khai áp dụng công nghệ thông tin, tiếp tục đầu tư để nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ ngân hàng; xây dựng và triển khai hệ thống thông tin quản trị trên nền tảng của hệ thống kế toán theo tiêu chuẩn quốc tế, tăng hiệu quả điều hành ngân hàng. Cụ thể là cần xây dựng thiết lập hệ thống Core-banking để ứng dụng và triển khai phục vụ việc đa dạng hoa các sản phẩm mới mang tính chất hiện đại.
- Nâng cao năng suất lao động. Đầu tư vào con người và phát triển năng lực nhân viên;
- Đào tạo chuyên sâu theo yêu cầu công việc; tăng cường huấn luyện và đào tạo tại chỗ, khuyến khích tự học để nâng cao trình độ nghiệp vụ của nhân viên; tích cực áp dụng CNTT đào tạo từ xa;
- Cải cách cơ cấu tổ chức và điều hành nhằm đưa NH CP Gia Định trở thành một tổ chức tài chính ngân hàng hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế, tăng cường khả năng cạnh tranh lấy phục vụ khách hàng làm mục tiêu hoạt động;
- Nâng cao năng lực điều hành và phát triển các kỹ năng quản trị ngân hàng hiện đại; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra - kiểm toán nội bộ;
Nhằm đạt được:
- Bảo hộ bản quyền sở hữu thương hiệu NH CP Gia Định trong nước và quốc tế.
- Quảng bá hình ảnh, củng cố uy tín, nâng cao vị thế, chiếm lĩnh thị phần, mở rộng thị trường của NH CP Gia Định trong nước và quốc tế.
- Tạo niềm tin vững chắc về chất lượng sản phẩm dịch vụ đối với cả ngân hàng và khách hàng, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ của NH CP Gia Định.
- Hỗ trợ cho sự phát triển toàn diện về mọi mặt của NH CP Gia Định.
- Việc xây dựng và phát triển thương hiệu NH CP Gia Định đảm bảo: đúng pháp luật Việt Nam, pháp luật các nước có liên quan và công ước quốc tế; đúng định hướng chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước; có tính thống nhất toàn hệ thống; thường xuyên tổ chức kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết đánh giá, bình xét thi đua khen thưởng.
Nhóm giải pháp xây dựng thương hiệu lên mức trung bình.
Tạo dựng thương hiệu
Logo
Xây dựng thương hiệu là một quá trình bao gồm nhiều hoạt động nhằm hướng đến mục tiêu chung là tạo ra một vị trí xác định cho doanh nghiệp trên thị trường. Một hệ thống nhận diện thương hiệu bao gồm nhiều yếu tố như phong cách, màu sắc, bố cục, thông điệp chính..., trong đó, gây được sự chú ý nhiều nhất và tạo ra ấn tượng sâu nhất cho khách hàng là logo (biểu trưng). Trong hệ thống nhận diện thương hiệu của một doanh nghiệp, logo là một dấu hiệu làm nổi bật thương hiệu, là yếu tố tạo dấu ấn riêng của doanh nghiệp, Mang tính khái quát cao, logo cũng trở thành dấu hiệu dễ nhớ nhất đối với khách hàng về thương hiệu doanh nghiệp.
Có thể nói rằng một logo tốt đưa ngân hàng vượt ra khỏi sự im lặng, nó phô trương sức mạnh và giá trị của ngân hàng. Một ngân hàng muốn phát triển và hiệu quả phải luôn quan tâm tới tiếp thị và khi quan tâm đến tiếp thị, ngân hàng không bao giờ chấp nhận một logo mờ nhạt.
Logo là một đòn bẩy hữu hiệu trong việc giới thiệu sản phẩm, dịch vụ đến với khách hàng qua các phương tiện thông tin đại chúng. Thông qua logo, khách hàng có thể nhận biết được ngân hàng cũng như các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng đó.
Việc thiết kế logo phải đảm bảo được tính đơn giản và độc đáo. Logo phải diễn tả một số đặc trưng của ngân hàng như hình ảnh đại bản doanh, sản phẩm, màu sắc, ấn tượng và những chữ cái xuất phát từ tên ngân hàng. Màu sắc đơn giản, ấn tượng, hình dáng và đường nét nên lấy cảm hứng từ những hình ảnh quen thuộc trong đời sống sẽ đạt hiệu quả cao nhất.
Ngân hàng cần phải sử dụng logo như là hình ảnh biểu trưng cho ngân hàng mình trong mọi bối cảnh xuất hiện: quảng cáo, báo đài, quà khuyến mại, website… Bên cạnh đó, trên các phong bì văn thư, túi đựng quà, quà tặng, tài liệu chuyên môn, panô tại các trường đại học, trung tâm thương mại, sân bay, siêu thị… giúp cho hình ảnh của ngân hàng được quảng bá rộng rãi và dần đi vào tâm trí mọi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luong quang duc CH15 ngan hang dem1.doc