Luận văn Xây dựng lớp học vật lý trực tuyến nhằm hỗ trợ học sinh tự học chương “động lực học chất điểm” (vật lý 10 nâng cao)

Tài liệu Luận văn Xây dựng lớp học vật lý trực tuyến nhằm hỗ trợ học sinh tự học chương “động lực học chất điểm” (vật lý 10 nâng cao): BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Ngọc Phượng XÂY DỰNG LỚP HỌC VẬT LÝ TRỰC TUYẾN NHẰM HỖ TRỢ HỌC SINH TỰ HỌC CHƯƠNG “ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT ĐIỂM” (VẬT LÝ 10 NÂNG CAO) LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Ngọc Phượng XÂY DỰNG LỚP HỌC VẬT LÝ TRỰC TUYẾN NHẰM HỖ TRỢ HỌC SINH TỰ HỌC CHƯƠNG “ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT ĐIỂM” (VẬT LÝ 10 NÂNG CAO) Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật lý Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ÐỖ XUÂN HỘI Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Trong thời đại hiện nay, khi mà công nghệ thông tin (CNTT) phát triển vượt bậc, các thành tựu khoa học liên tiếp nhau ra đời đã làm cho việc học và dạy học có những đổi mới phù hợp. Mỗi cá nhân phải biết cách tự tìm kiếm nguồn thông tin phù hợp, xử lý nguồn thông tin đó để vận dụng...

pdf173 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1207 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Xây dựng lớp học vật lý trực tuyến nhằm hỗ trợ học sinh tự học chương “động lực học chất điểm” (vật lý 10 nâng cao), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Ngọc Phượng XÂY DỰNG LỚP HỌC VẬT LÝ TRỰC TUYẾN NHẰM HỖ TRỢ HỌC SINH TỰ HỌC CHƯƠNG “ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT ĐIỂM” (VẬT LÝ 10 NÂNG CAO) LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Ngọc Phượng XÂY DỰNG LỚP HỌC VẬT LÝ TRỰC TUYẾN NHẰM HỖ TRỢ HỌC SINH TỰ HỌC CHƯƠNG “ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT ĐIỂM” (VẬT LÝ 10 NÂNG CAO) Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật lý Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ÐỖ XUÂN HỘI Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Trong thời đại hiện nay, khi mà công nghệ thông tin (CNTT) phát triển vượt bậc, các thành tựu khoa học liên tiếp nhau ra đời đã làm cho việc học và dạy học có những đổi mới phù hợp. Mỗi cá nhân phải biết cách tự tìm kiếm nguồn thông tin phù hợp, xử lý nguồn thông tin đó để vận dụng vào các vấn đề cụ thể. Vì vậy học và dạy học cần có những bước chuyển mình theo xu hướng của thời đại mới. Để đáp ứng cho nhu cầu của xã hội, nền giáo dục nước ta cũng đã có những biến chuyển tích cực với những định hướng đổi mới phương pháp giáo dục. Mục tiêu hàng đầu đặt ra cho giáo dục là phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh (HS). HS sẽ là chủ, là trung tâm của quá trình nhận thức diễn ra trong mỗi tiết học. Để làm được điều này một trong những vấn đề cần phải lưu ý đến là việc tự học của HS. HS không chỉ cần nắm bắt được nội dung kiến thức mà các em còn cần phải biết đến phương pháp, đến cách thức tìm ra và sử dụng chúng sao cho hiệu quả nhất. Khả năng tự học, tự tìm tòi không những quan trọng trong quá trình học tập khi HS còn đến trường mà còn rất quan trọng trong khoảng thời gian về sau, khi các em lên các cấp học trên, và nhất là khi các em đã trưởng thành. Tuy nhiên, trong thực tế, đối với môn vật lý nói riêng, để tổ chức một giờ học trên lớp theo định hướng mới như hiện nay mà trong đó HS giữ vai trò làm chủ quá trình nhận thức trong tiết học đó quả thật là không dễ dàng. Thời lượng mỗi tiết học chỉ có bốn mươi lăm phút (kể cả thời gian ổn định lớp, tổ chức hoạt động của lớp) nhưng lượng kiến thức trong mỗi bài lại khá nhiều (nhất là ở chương trình nâng cao) đã gây ra khá nhiều điều bất cập, khó áp dụng các phương pháp dạy học mới. Bên cạnh đó, sĩ số mỗi lớp học hiện tại là quá đông nên đối với GV việc quan tâm đến từng cá nhân trong lớp học, đến các băn khoăn, suy nghĩ, những vướng mắc của các em hiện vẫn còn rất hạn chế. Chính những vướng mắc không được quan tâm, giải đáp kịp thời rất dễ làm HS cảm thấy chán nản, mất tự tin và đây sẽ là những rào cản cho các em trong việc thu nhận thêm các các kiến thức vật lý nói chung và các thông tin khoa học hiện đại về sau nói chung. Ngoài những nguyên nhân khách quan như đã nêu thì một trong những nguyên nhân chủ quan chính dẫn đến các khó khăn này là việc tự học của HS còn chưa được tốt làm ảnh hưởng khá nhiều đến quá trình học tập. Việc chuẩn bị bài ở nhà của HS thường mang tính chất đối phó tạm thời. Thông thường các em không xem bài trước hoặc nếu có cũng chỉ dừng lại ở mức độ trả lời các câu hỏi do GV yêu cầu một cách máy móc, ngoài ra không có sự đầu tư suy nghĩ thêm các vấn đề có liên quan. Sự chuẩn bị bài mới thiếu chu đáo cũng khiến cho việc học tập trên lớp của HS gặp nhiều hạn chế. Khi được yêu cầu tự đưa ra nhận xét hay trình bày lại những nội dung đã tìm hiểu được thì HS thường tỏ ra khá lúng túng. Phần đông các em HS vẫn còn tiếp nhận kiến thức được GV truyền đạt một cách thụ động. Để giúp HS có thể thực sự làm chủ của quá trình nhận thức, phát huy được các khả năng của bản thân thì cần có thêm thời gian, cần có thêm nữa các hỗ trợ từ phía GV để HS có thể tự học nhiều hơn, hiệu quả hơn nữa. Đặc biệt, đối với HS đầu cấp như HS lớp 10 học chương trình vật lý nâng cao thì sự hỗ trợ để giúp các em tự học là rất cần thiết. Với chương “Động lực học chất điểm”, đây là chương học khá quan trọng đóng vai trò cơ sở cho các chương học sau đó, hơn thế nữa nó còn là chương học có khá nhiều ứng dụng gần gũi trong đời sống. Tuy nhiên do vừa chuyển từ khối THCS sang khối THPT, lượng kiến thức cần tiếp thu, các kỹ năng cần rèn luyện lúc này đối với các em HS là khá nhiều. Nếu không có sự hỗ trợ thì từ chương học này sẽ trở nên khá nặng nề đối với các em, với các khó khăn nhất định dễ dẫn đến tình trạng HS học vẹt, học đối phó. Bên cạnh thực trạng trên, với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, các phương tiện hỗ trợ cho giáo dục cũng tăng lên mạnh mẽ. Học tập không còn nhất thiết phải đến lớp và gặp trực tiếp với GV mà một người hoàn toàn có thể tíếp nhận một, hoặc nhiều lớp học trực tuyến cùng lúc bằng hệ thống Internet với những hình ảnh, âm thanh minh họa, hỗ trợ thiết thực từ công nghệ hiện đại. Thời gian học của người học không còn bó gọn trong thời gian bốn mươi lăm phút trong mỗi tiết học mà nó sẽ kéo dài hơn, ở mọi lúc mọi nơi (có hệ thống Internet) cho đến khi nào họ cảm thấy là mình đã thực sự nắm vững kiến thức mới. Đó là hình thức học e- learning (học tập điện tử). Do đó, tôi nghĩ rằng rất cần thiết nên có một một lớp học vật lý trực tuyến (LHVLTT) nhằm hỗ trợ cho việc tự học bộ môn này cho học sinh trung học phổ thông (THPT) theo hình thức e-learning. Những thông tin được cung cấp, được trao đổi thông qua lớp học này sẽ giúp cho HS cảm thấy tự tin hơn, hứng thú và thực sự làm chủ được quá trình nhận thức trên lớp với từng tiết học vật lý theo phương pháp mới ở trường phổ thông hiện nay. HS sẽ thật sự trở thành trung tâm của tiết học. Hơn thế nữa, sau khi đã làm quen với cách học với sự hỗ trợ từ các thông tin trên mạng Internet, cảm thấy hứng thú với cách học này với các kết quả mà nó đem lại, người học, mà cụ thể là HS vẫn có thể chủ động tự học về sau. Chính vì những lý do trên, tôi đã chọn đề tài : Xây dựng lớp học vật lý trực tuyến nhằm hỗ trợ học sinh tự học chương “Động lực học chất điểm” (Vật lý 10 Nâng cao) 2. Mục đích nghiên cứu - Xây dựng nội dung LHVLTT nhằm hỗ trợ quá trình tự học của HS. - Đề xuất phối hợp giữa LHVLTT với lớp học truyền thống. - Đánh giá hiệu quả của quá trình học tập bộ môn vật lý trên lớp khi sự hỗ trợ của LHVLTT. 3. Giả thuyết khoa học Nếu lớp học vật lý trực tuyến chương “Động lực học chất điểm” được xây dựng và đưa vào sử dụng thành công trong việc hỗ trợ học sinh tự học thì việc học của học sinh trong chương này sẽ trở nên hiệu quả hơn, do đó cũng đem lại những kết quả tốt hơn. 4. Đối tượng nghiên cứu - Hoạt động học và tự học của HS THPT. - Nội dung, mục tiêu, yêu cầu cần đạt được của chương “Động lực học chất điểm” thuộc chương trình vật lý 10 nâng cao. - Hình thức học e-learning dưới dạng lớp học trực tuyến và vai trò của nó trong việc hỗ trợ quá trình tự học của HS. - Hệ thống xây dựng LHVLTT. - Nội dung cho LHVLTT nhằm hỗ trợ quá trình tự học cho HS THPT. 5. Phạm vi nghiên cứu - Chương “Động lực học chất điểm” thuộc chương trình vật lý 10 Nâng cao. - Đối tượng HS đang theo học chương trình vật lý 10 Nâng cao tại trường THPT. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu - Cơ sở lý luận của việc sử dụng CNTT trong dạy và học môn vật lý. - Hoạt động học và tự học của HS. - Nội dung, cấu trúc, mục tiêu, yêu cầu và các tài liệu hỗ trợ dạy và học của chương “Động lực học chất điểm”, thuộc chương trình vật lý 10 Nâng cao. - LHVLTT theo hình thức dạy học e-learning và vai trò của nó trong việc hỗ trợ hoạt động tự học của HS. - Xây dựng cấu trúc và nội dung cụ thể LHVLTT. - Đề xuất hướng sử dụng và phối hợp LHVLTT nhằm hỗ trợ cho quá trình tự học của HS. - Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT nhằm xác định mức độ phù hợp, tính khả thi và hiệu quả mà đề tài đem lại. 7. Phương pháp nghiên cứu  Nghiên cứu lý thuyết - Nghiên cứu các tài liệu lý luận dạy học nhằm tìm hiểu về các định hướng đổi mới trong dạy học, cơ sở lý luận của việc tự học, giúp phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của HS. - Nghiên cứu các tài liệu về hoạt động học và tự học của HS. - Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, sách GV, sách bài tập, và các sách tham khảo chuyên môn để xác định nội dung và cấu trúc logic của lớp học. - Nghiên cứu các tài liệu về hình thức học e-learning, lớp học trực tuyến và tác dụng của nó trong việc hỗ trợ quá trình tự học của HS. - Nghiên cứu, tìm hiểu, lựa chọn hệ thống xây dựng LHVLTT với các chức năng phù hợp.  Điều tra tìm hiểu - Tìm hiểu thực tế dạy học chương “Động lực học chất điểm” thuộc chương trình vật lý 10 Nâng cao bằng cách trao đổi trực tiếp với các GV trong tổ vật lý trong trường. Phân tích kết quả ban đầu, nhận định nguyên nhân và đưa ra hướng khắc phục. - Phát phiếu điều tra về khả năng sử dụng máy vi tính và truy cập Internet của HS lớp 10 ở trường THPT Nguyễn Khuyến Q.10. - Phát phiếu điều tra tìm hiểu về tác dụng mà những hỗ trợ của LHVLTT đem lại cho HS.  Nghiên cứu thực nghiệm - Nghiên cứu thiết kế các nội dung cụ thể có trong LHVLTT, cách thức sử dụng LHVLTT nhằm hỗ trợ cho việc tự học vật lý của HS có kết quả tốt nhất. - Nghiên cứu tìm ra cách thức tổ chức, hướng dẫn HS hoạt động trong các giờ học thực nghiệm sau khi có sự hỗ trợ từ LHVLTT.  Thực nghiệm sư phạm - Tiến hành các giờ dạy trên lớp dưới sự hỗ trợ từ LHVLTT. - Ghi nhận, so sánh, phân tích các diễn biến và sự khác biệt của HS trong lớp thực nghiệm (TN) và HS trong lớp đối chứng (ĐC) trong các bài học cụ thể.  Xử lí số liệu và phân tích kết quả - Đánh giá kết quả đạt được. Phân tích những ưu, nhược điểm và đề xuất hướng phát triển tiếp theo của đề tài. 8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Cung cấp nguồn tài liệu học tập, giúp HS chuẩn bị, củng cố, mở rộng kiến thức trong quá trình tự học. - Đưa công nghệ hiện đại vào trường học, tập cho HS thói quen tự sử dụng Internet hỗ trợ việc học tập. - Góp phần nâng cao dần khả năng tự học, tự đánh giá, tự tìm kiếm thông tin cần thiết cho HS. - Góp phần nâng cao chất lượng học tập môn vật lý trong trường phổ thông. Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG LỚP HỌC TRỰC TUYẾN HỖ TRỢ QUÁ TRÌNH TỰ HỌC CỦA HỌC SINH  -  1.1. Mục tiêu giáo dục trong giai đoạn hiện nay Trước sự phát triển ngày càng nhanh của đất nước, để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của xã hội, thực tiễn giáo dục của nước ta hiện nay đã và đang có những bước đổi mới về tất cả các mặt. Trong đó mục tiêu giáo dục, kim chỉ nang cho mọi hoạt động đổi mới trong dạy và học, theo điều 2 của Luật Giáo dục có nêu “Mục tiêu giáo dục hiện nay là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bào vệ Tổ quốc” [61] Đối với giáo dục phổ thông, theo Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010, trong mục 4.2.b về mục tiêu giáo dục phổ thông có nêu “Thực hiện giáo dục toàn diện về trí, đức, thể, mỹ. Cung cấp học vấn phổ thông cơ bản, hệ thống và có tính hướng nghiệp; tiếp cận trình độ phát triển các nước trong khu vực. Xây dựng thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo; lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến thức vào cuộc sống” [8] Để thực hiện được mục tiêu trên cần có những cải cách đáng kể về mục tiêu, chương trình, sách giáo khoa và phương pháp giáo dục (PPGD) mà trong đó PPGD là một trong những vấn đề được xem là trọng tâm. Theo Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010, trong mục 5.2 về đổi mới và hiện đại hoá PPGD ghi rõ “Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp, phát triển năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tích chủ động, tích tự chủ của HS trong quá trình học tập …”[8] 1.2. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học 1.2.1. Chủ đề năm học 2008 – 2009 : “Năm học đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin” Riêng đối với năm học 2008 – 2009, nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục được nhấn mạnh là "Năm học đẩy mạnh ứng dụng CNTT, đổi mới quản lý tài chính và triển khai phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" trong đó có đề cập đến việc “đẩy mạnh ứng dụng CNTT phục vụ đổi mới phương pháp dạy và học” [7] Ngay sau khi Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân quyết định chọn chủ đề năm học 2008-2009 là “Năm học đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin”, phóng viên Cổng thông tin điện tử Chính phủ đã phỏng vấn ông Quách Tuấn Ngọc - Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin (CNTT)–Bộ GDĐT, về bước đột phá của ngành Giáo dục trong lĩnh vực này thời gian qua và công tác triển khai chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đối với năm học mới 2008-2009 trên phạm vi toàn quốc. Để có cái nhìn rõ hơn về việc ứng dụng công nghệ thông tin và đặc biệt là về e-learning tôi xin trích một số phát biểu của ông Quách Tuấn Ngọc trong buổi trao đổi với phóng viên như sau. Về sự chuẩn bị của cục CNTT, ông Tuấn Ngọc cho biết “Năm học 2008- 2009 sẽ là bước ngoặt lớn trong lịch sử Internet ở Việt Nam nói chung và trong giáo dục nói riêng. Ngày 4/1/2008, Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel đã ký văn bản hợp tác với Cục CNTT về triển khai mạng giáo dục. Theo đó, Viettel cung cấp dịch vụ kết nối Internet băng thông rộng, kết nối kênh thuê riêng (leased line) qua đường cáp quang… nhằm giải quyết tình trạng học sinh, sinh viên, giáo viên là những người cần dùng Internet nhất thì lại gặp khó khăn nhất do giá thành cao, do tốc độ kết nối quá chậm”. Khi nói về việc năm học 2008 – 2009 ứng dụng công nghệ thông tin như thế nào, ông cũng nói rõ “Năm học ứng dụng CNTT sẽ tạo ra bước ngoặt mới về việc làm bài giảng điện tử theo công nghệ e-learning. Trong những năm qua, Cục CNTT đã xây dựng website e-learning để tuyên truyền phổ cập công nghệ, nghiên cứu thử nghiệm và tuyển chọn các phần mềm e-learning thích hợp, đã Việt hoá phần mềm mã nguồn mở Moodle và đến nay đã có khoảng 70 trường ĐH, CĐ sử dụng. Cục CNTT sẽ tổ chức chuyển giao các phần mềm công cụ tạo bài giảng đạt chuẩn quốc tế, phù hợp với yêu cầu Việt Nam cho các Sở. Bộ Giáo dục và đào tạo (Cục CNTT chủ trì) sẽ tổ chức cuộc thi giáo viên làm bài giảng điện tử theo công nghệ e-learning, giáo viên dạy giỏi ứng dụng CNTT, nhằm mục đích khuyến khích động viên giáo viên tiếp cận công nghệ mới cũng như chia sẻ kinh nghiệm. Khẩu hiệu của chúng ta là: Nếu mỗi giáo viên góp mỗi năm 1 bài giảng e-learning, chúng ta sẽ có 1 triệu bài giảng điện tử trong 1 năm và nếu bài giảng đó soạn thêm bằng tiếng Anh, chúng ta có thể chia sẻ với bạn bè giáo viên ở các nước khác về công nghệ làm bài giảng e-learning. Cục CNTT cũng sẽ tổ chức tuyển chọn các phần mềm dạy học khác để phổ biến trên tinh thần tiết kiệm, hợp chuẩn quốc tế, dễ sử dụng và khai thác. Tại sao lại phải là công nghệ e-learning? Đó là vì e-learning có chuẩn công nghệ SCORM, AICC được thế giới công nhận, nên có thể chia sẻ bài giảng giữa các nước với nhau, có nhiều công cụ xây dựng bài giảng hợp chuẩn, đáp ứng nhu cầu học tập mọi nơi, mọi lúc một cách mềm dẻo, có thể học trực tuyến qua Internet, cũng có thể học ngoại tuyến qua đĩa CD. Đổi lại, chúng ta cũng có thể tận dụng các nguồn bài giảng của các nước khác” [58] Như vậy, qua nội dung bài phỏng vấn trên ta có thể thấy không chỉ riêng ngành giáo dục mà cả xã hội hiện nay đang khá quan tâm đến việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy. Các chủ trương, chính sách và các điều kiện cơ sở vật chất đã và đang hình thành nhằm tạo điều kiện để đưa những ứng dụng của CNTT vào hỗ trợ cho việc giảng dạy nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của ngành giáo dục. Trong số các ứng dụng của CNTT thì hình thức dạy học e-learning đang được quan tâm khá nhiều. Vậy vì đâu mà CNTT, đặc biệt là mạng Internet với một trong những ứng dụng của nó là hình thức học e-learning, cụ thể là lớp học trực tuyến lại được quan tâm nhiều đến vậy? 1.2.2. Vai trò của máy vi tính (MVT) và Internet trong dạy học Đầu tiên ta sẽ xét đến một phương tiện quan trọng và hiệu quả giúp con người có thể tiếp cận với nguồn thông tin vô tận của nhân loại, máy vi tính (MVT). MVT là một trong những phương tiện kỹ thuật khá quan trọng, phục vụ cho nhiều hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau của con người. Hiện nay, MVT cũng đã được sử dụng khá rộng rãi trong dạy học như một phương tiện dạy học hiện đại và hiệu quả. 1.2.2.1. Máy vi tính đóng vai trò làm phương tiện dạy học Hiệu quả mà MVT đem lại cho hoạt động dạy và học, cụ thể là dạy và học môn vật lý là nhờ vào một số chức năng nổi bật sau :  Chức năng lưu trữ, xử lý và cung cấp thông tin MVT có khả năng lưu trữ và hiển thị lại một lượng thông tin khá lớn dưới nhiều hình thức khác nhau từ đơn giản như văn bản, hình ảnh, âm thanh, … cho đến những hình thức phức tạp hơn như video, hoạt hình. Khả năng xử lý thông tin nhanh chóng của MVT đã đem lại sự tiện lợi, nhanh chóng cho người dùng. MVT cùng với những phần mềm hỗ trợ tích cực có thể giúp cho GV tạo ra những bài giảng đa dạng, sinh động thu hút sự tập trung của người học. [17]  Chức năng điều khiển, điều chỉnh, kiểm tra và luyện tập Việc học tập trên MVT có tính cá biệt khá cao. Người học có khả năng tự chọn, tự điều chỉnh thời gian học, nội dung học theo trình độ và khả năng của bản thân. Người học còn có thể lặp lại quá trình học tập một nội dung cụ thể vô số lần tùy thích. Hơn thế nữa, với sự phát triển nhanh chóng của các phần mềm phục vụ cho nhu cầu của người dùng cùng với khả năng lưu trữ khá lớn, MVT có khả năng lưu trữ kết quả học tập của người học để từ đó kịp thời đưa ra những thông tin phản hồi giúp cho người học kiểm tra lại kiến thức, tự điều chỉnh quá trình học tập của bản thân.[14]  Chức năng minh hoạ, trực quan hoá bằng mô phỏng Đối với quá trình dạy học môn vật lý nói riêng và các môn học khác nói chung, muốn cho HS hiểu vấn đề một cách sâu sắc thì phải xây dựng các khái niệm, các thuyết, các định luật từ sự quan sát trực tiếp. Tuy nhiên, trong điều kiện cơ sở vật chất còn hạn chế, và hơn nữa một số hiện tượng vật lý không thể quan sát trực tiếp bằng các giác quan thông thường thì lúc này các phương tiện trực quan là rất cần thiết. Các phương tiện này chẳng những cung cấp cho HS hệ thống kiến thức bền vững, chính xác mà còn giúp HS kiểm tra tính đúng đắn của kiến thức lý thuyết, sửa chữa, bổ sung, đánh giá lại chúng nếu không phù hợp với thực tiễn. Có thể nói, trực quan hoá là cầu nối giữa thế giới tự nhiên bên ngoài và bức trang về nó trong nhận thức con người. Trong khi đa số các phương tiện dạy học khác khó có thể trực quan hoá hầu hết các hiện tượng thì MVT với các phần mềm đồ hoạ như PhotoShop,CorelDraw, 3DStudioMax, … hay các phầm mềm diễn hoạt như Macromedia Flash, các phần mềm lập trình như Visual Basic, Visual C, Turbo Pascal, … lại giúp ích khá nhiều cho GV. GV có thể dễ dàng tạo ra sản phẩm là các mô hình tĩnh hay động dùng để mô phỏng lại các hiện tượng thực tế giúp cho việc dạy và học dễ dàng hơn rất nhiều.[14]  Chức năng hỗ trợ thí nghiệm MVT còn có khả năng hỗ trợ cho các thí nghiệm khá nhiều thể hiện qua các chức năng cụ thể : [14] - MVT đóng vai trò là thiết bị đo, lưu trữ và xử lý kết quả. - MVT dùng để trình bày lại các thí nghiệm đã được chụp ảnh hoặc quay phim. - MVT dùng để mô phỏng các đối tượng thực. 1.2.2.2. Vai trò và chức năng của Internet trong dạy học Internet là hệ thống mạng thông tin của máy tính được liên kết với nhau trên phạm vi toàn thế giới, nhờ đó người sử dụng có thể liên lạc với nhau để trao đổi, dùng chung khai thác các thông tin trên mạng. Các nhà khoa học có thể sử dụng Internet để tìm kiếm tài liệu và thảo luận với nhau. GV và HS có thể tìm kiếm tài liệu, phần mềm phục vụ cho việc dạy và học, giải trí. Các nhà kinh doanh thì sử dụng Internet như một phương tiện quảng cáo, giao dịch thương mại, mua bán hàng hóa. [16] Một trong những yếu tố cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn vật lý là việc tìm kiếm nguồn thông tin, tư liệu, hình ảnh, phần mềm phù hợp để bổ sung, mở rộng những nội dung được đề cập đến trong SGK. Internet chính là nguồn tư liệu vô tận cho GV và HS. Hiện nay, mọi loại thông tin, dữ liệu âm thanh hình ảnh đều có thể chuyển về dạng kỹ thuật số để các máy tính lưu trữ, xử lý và gửi chuyển tiếp cho nhiều người. Internet chính là hệ thống mạng thông tin của MVT được liên kết với nhau trên phạm vi toàn thế giới, nhờ đó người sử dụng có thể liên lạc với nhau để trao đổi, dùng chung, khai thác các thông tin trên mạng.  Về dung lượng thông tin Hiện nay Internet đã trở thành kho thông tin khổng lồ và phong phú nhất trong lịch sử nhân loại với hàng trăm triệu các website liên quan đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống của con người. Số website cùng với lượng kiến thức mà nó cung cấp đang ngày càng tăng lên nhanh chóng bởi khả năng chia sẻ gần như tuyệt đối của Internet. [17]  Về khả năng truy cập Ngoại trừ một số ít thông tin được bảo vệ thì bất kì người dùng nào sử dụng Internet dù đang ở đâu đều có thể truy cập được các thông tin có trên Internet. Với một MVT được nối mạng Internet là người dùng đã có cơ hội tiếp xúc với một kho tàng kiến thức đồ sộ của nhân loại. [17]  Về loại hình Internet có khả năng cung cấp thông tin dưới nhiều dạng khác nhau như văn bản, âm thanh, hình ảnh, video, … Khả năng này cho phép người dùng tiếp cận những nguồn tư liệu phong phú và đa dạng hơn rất nhiều so với các loại phương tiện thông tin khác. [17]  Về nội dung Với các công cụ tìm kiếm có sẵn trên Internet như Google, Yahoo, Altavista, …, GV có thể dễ dàng tìm kiếm, chọn lọc được các trang web có nội dung cần thiết một cách dễ dàng nhất. [17] 1.2.3. Ưu điểm của dạy học sử dụng CNTT [4] Khi có sự hỗ trợ của CNTT vào dạy học, ta có thể nhận thấy một số các ưu điểm rõ rệt. - HS học không thụ động, có nhiều thời gian để đào sâu suy nghĩ. - Sử dụng các phần mềm dạy học làm phương tiện hỗ trợ hỗ trợ dạy học một cách hợp lí sẽ cho hiệu quả cao, bởi lẽ khi sử dụng phần mềm dạy học bài giảng sẽ sinh động hơn, sự tương tác hai chiều được thiết lập. Tính chính xác, khoa học của các phần mềm này giúp giải phóng HS khỏi những việc thủ công, tốn nhiều thời gian, dễ nhầm lẫn, nên có điều kiện đi sâu vào bản chất bài học. - Hai công nghệ hiện đại và ứng dụng có hiệu quả nhất trong giáo dục – đào tạo là công nghệ đa phương tiện Multimedia và công nghệ mạng Networking, đặc biệt là mạng Internet. Hai công nghệ này đã giúp cho con người thực hiện được khẩu hiệu học ở mọi nơi, học ở mọi lúc, học suốt đời và dạy cho mọi người với mọi trình độ khác nhau. - Khi ứng dụng CNTT trong dạy học, vai trò của người GV và HS cũng thay đổi. GV là người hướng dẫn HS chứ không đơn thuần là người “rót” thông tin vào đầu HS. HS sẽ tiếp xúc được nguồn thông tin khá đa dạng và phong phú, nên các em cần biết cách đánh giá, lựa chọn những thông tin phù hợp. HS có thể tận dụng được những hiệu quả mà phương pháp dạy học có sự hỗ trợ của CNTT đem lại hay không là tùy thuộc vào khả năng đánh giá, lựa chọn và xử lí các thông tin mà các em được cung cấp, mà cụ thể trong luận văn này chính là nguồn thông tin được đưa lên sẵn trên lớp học trực vật lý trực tuyến. Để làm rõ điều này, ta tiếp tục tìm hiểu về sự phát triển trí tuệ và hoạt động học tập của HS THPT, là đối tượng mà đề tài hướng đến. 1.3. Sự phát triển trí tuệ và hoạt động học tập của HS THPT [15] Bước vào năm đầu cấp THPT cũng là lúc đồng thời HS phải tiếp nhận nhiều sự thay đổi mới mẻ. Sự thay đổi bắt nguồn từ chính bản thân các em, từ lứa tuổi thiếu niên bước sang giai đoạn thanh niên, cho đến các điều kiện học tập, xã hội đều gây ảnh hưởng đối với sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân. 1.3.1. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ ở HS THPT Lứa tuổi HS THPT, tuổi thanh niên mới lớn, tính chủ định được phát triển mạnh ở tất cả các quá trình nhận thức. Tri giác có mục đích đã đạt đến mức cao. Quan sát trở nên có hệ thống và toàn diện hơn. Ở lứa tuổi này, ghi nhớ chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, đồng thời vai trò của ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt. Các em không còn học vẹt, học thuộc lòng một cách máy móc mà đã biết cách sử dụng các phương pháp ghi nhớ như tóm tắt ý chính, so sánh, đối chiếu, … Đặc biệt hơn so với lứa tuổi THCS là các em đã tạo được tâm thế phân hoá trong ghi nhớ. Các em bước đầu biết được tài liệu nào cần nhớ từng câu, từng chữ, nội dung nào chỉ cần hiểu mà không cần nhớ. Sự phát triển của cấu trúc, chức năng não, hoạt động tư duy của HS trong giai đoạn này có thay đổi quan trọng. Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo trong những đối tượng quen biết đã được học hoặc chưa được học ở trường. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn. Đồng thời tính phê phán của tư duy cũng phát triển. Những đặc điểm này tạo điều kiện cho HS thực hiện các thao tác tư duy phức tạp, phân tích nội dung cơ bản của khái niệm trừu tượng và nắm được mối quan hệ nhân quả trong tự nhiên và xã hội. Nét nổi bật trong phát triển nhân cách ở lứa tuổi THPT là sự tự ý thức phát triển mạnh mẽ. Quá trình này rất phong phú và phức tạp. Các em không chỉ có nhu cầu đánh giá người khác mà còn có nhu cầu đánh giá bản thân một cách sâu sắc hơn. Đây là những đặc điểm phù hợp cho giáo viên giúp học sinh hình thành kĩ năng tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh và kĩ năng tranh luận cho HS THPT. 1.3.2. Đặc điểm hoạt động học tập của HS THPT Sự phát triển trí tuệ của HS cấp THPT đã dẫn đến việc nội dung và tính chất của hoạt động học tập của các em rất khác so với hoạt động học tập của HS THCS. Sự khác nhau không dừng ở việc nội dung mà các em phải học ngày một sâu hơn, mà còn ở chỗ hoạt động học tập của HS THPT đòi hỏi tính năng động và tính độc lập ở mức độ cao hơn nhiều. Đồng thời chương trình học, mà cụ thể là SGK ở cấp học này không chỉ đơn giản là tài liệu thông báo các kiến thức có sẵn mà là tài liệu giúp HS tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề để chiếm lĩnh và vận dụng kiến thức một cách linh hoạt, chủ động và sáng tạo. Điều này đòi hỏi cần có khả năng tư duy độc lập khá nhiều. Các em dần dần ý thức được rằng mình cần học tập như thế nào. Ý thức và thái độ của các em đối với học tập ngày càng phát triển. Thái độ học tập của HS cấp THPT được thúc đẩy bởi động cơ học tập có cấu trúc khác với lứa tuổi trước. Lúc này, điều có ý nghĩa nhất đối với các em là động cơ thực tiễn (ý nghĩa thực tiễn của môn học đối với cá nhân, khả năng tiếp thu môn học của các em), động cơ nhận thức, sau đó là ý nghĩa xã hội của môn học. Tuy vậy, hiện nay số HS, nhất là HS đầu cấp THPT, đạt được mức tư duy đặc trưng cho lứa tuổi như trên còn chưa nhiều. Nhiều khi các em chưa chú ý phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm tính. Để phát triển năng lực nhận thức của các em cần có sự hướng dẫn khoa học của GV. Sự hướng dẫn, hỗ trợ này không chỉ giới hạn ở thời gian trên lớp, mà cần biết cách tận dụng mọi khoảng thời gian để hướng các em đến việc phát huy năng lực, nâng cao hơn nữa hiệu quả học tập. Với các đặc điểm về sự phát triển trí tuệ và hoạt động học tập của HS THPT thì đây là lứa tuổi khá phù hợp để hướng dẫn các em cách tự học dưới sự hỗ trợ của lớp học trực tuyến. Vậy hoạt động học và tự học của HS là gì? Những điều kiện nào là cần thiết cho việc tự học? Vai trò của GV trong việc hướng dẫn HS tự học là gì? 1.4. Hoạt động học và tự học của HS 1.4.1. Tìm hiểu về hoạt động học tập của học sinh 1.4.1.1. Hoạt động học tập ([27], [38]) Học là quá trình trong đó dưới sự định hướng của người dạy (người thầy, GV), người học (HS) tự giác, tích cực, độc lập, tiếp thu tri thức, kinh nghiệm từ môi trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và tay chân, nhằm hình thành cấu trúc tâm lý mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng hoàn thiện hơn. Như vậy, ta nhận thấy rằng học chính là quá trình tự biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức bên trong con người, thông qua hoạt động tái tạo của cá nhân để hình thành các kĩ năng, kĩ xảo, và sử dụng tri thức giải quyết các vấn đề học tập đặt ra. Hơn thế nữa, hoạt động học còn hướng đến việc tiếp thu phương pháp dành lấy tri thức, cách học. Hoạt động học chỉ có thể đạt kết quả cao khi người học biết phương pháp học. Kết quả của quá trình học tập không chỉ do tập thể sư phạm đánh giá mà quan trọng hơn nữa đó là sự đánh giá của xã hội, môi trường thực tiễn để người học thể hiện, vận dụng những gì mình đã học. Vì vậy, để tránh được những sai lầm đáng tiếc thì học cần có sự hướng dẫn, tổ chức và chỉ đạo của người thầy. Hoạt động học cần được diễn ra trong mối quan hệ biện chứng với hoạt động dạy của thầy. Mối quan hệ này có thể diễn ra trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào hoàn cảnh và năng lực tự học của người học. 1.4.1.2. Hoạt động tự học Học thực chất là quá trình tiếp nhận và xử lý thông tin, là công việc của người học, do người học, không ai có thể thay thế và chỉ có người học mới có thể thay đổi chính mình. Vì thế học luôn hàm chứa sự tự học. Tuy nhiên, tự học thường được hiểu là học không có người thầy bên cạnh. Cách hiểu như vậy là hơi hẹp. Ngay cả khi có người thầy bên cạnh thì thầy cũng chỉ có thể hướng dẫn, giảng giải, uốn nắn trực tiếp chứ không thể học thay người học. Lúc này, thầy đóng vai trò là ngoại lực tác động đến người học. Ngoại lực này phải tạo được sự cộng hưởng là nội lực cố gắng học tập của trò. Sự cố gắng học tập này mới đúng là tự học thực sự. Nó tồn tại với “học” như hình với bóng. [20] Hay tự học còn được hiểu như là quá trình học tập trong đó người học cùng với những người khác thực hiện các quyết định cần thiết để đáp ứng các nhu cầu của người học. Học cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị con người mình bằng cách thu nhận và xử lý thông tin lấy từ môi trường sống xung quanh mình. [65] Tự học có thể xem là một hướng cho giáo dục, tuyệt đối không phải là một tiêu chuẩn. Quá trình tự học có thể diễn ra với các hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào các HS khác nhau và nó cũng thay đổi theo chủ đề mà HS quan tâm cũng như khả năng của HS đối với môn học. [65] Hiệu quả của hoạt động tự học có thể thấy qua sơ đồ lưu giữ thông tin trong trí nhớ của HS như sau [24] Lời nói Hình ảnh Lời và hình Lời, hình và hành động Tự phát hiện 99% 90% 80% 60% Sau 3 giờ 30% 90% 80% 70% 10% 20% Sau 3 ngày Hình 1.1. Sơ đồ lưu giữ thông tin trong trí nhớ của HS Qua sơ đồ trên ta nhận thấy việc HS tiếp thu thông tin qua việc GV dùng lời nói diễn đạt (GV thuyết trình trên lớp) tuy khá dễ dàng và nhanh chóng nhưng chỉ sau 3 giờ thì lượng thông tin lưu lại chỉ còn 30%, sau 3 ngày thì giảm còn 10%. Điều này cho thấy cách dạy bằng thuyết trình đem lại hiệu quả không cao, HS sẽ nhanh chóng quên đi phần lớn kiến thức được truyền thụ. Việc kết hợp lời nói, hình ảnh và hành động nhằm tác động trực tiếp đến cảm giác, tri giác của HS đem lại kết quả cao hơn khi sau 3 giờ HS vẫn còn khả năng lưu giữ đến 90% kiến thức. Nhưng do những kiến thức này là do GV cung cung cấp nên sau 3 ngày thì khả năng lưu giữ giảm xuống còn 80%. Vậy làm cách nào để HS có thể lưu giữ thông tin lâu dài nhằm sử dụng lượng thông tin này một cách hiệu quả nhất? Đó chính là để cho HS tự phát hiện ra những kiến thức mới. Mỗi HS là một cá thể hoàn thiện, kiến thức thật ra là một dạng kinh nghiệm về một sự việc nào đó có được từ trước, vậy mỗi HS sẽ có một cách tiếp nhận kiến thức riêng của mình. Khi HS tự trải nghiệm, tự tìm kiếm con đường để đi đến kiến thức thì kiến thức lúc này sẽ trở thành một phần của các em và do đó khả năng lưu trữ nó sẽ lâu hơn. (sau 3 ngày, khả năng lưu giữ thông tin khi HS tự phát hiện lên vẫn còn đến 90%) Cách thức mà HS tự trải nghiệm để đi đến kiến thức cũng ảnh hưởng khá nhiều đến thời gian lưu trữ thông tin. Tháp học tập của Geoff Petty, trong The Learning Pyramid sẽ cho ta thấy điều này. [40] Tỉ lệ HS nhớ sau 24h Thực hành Thảo luận nhóm Thuyết minh Nghe -nhìn Nghe Dạy các hữu ích khác/ trực tiếp của việc học tập Đọc 5 % 10 % 20 % 30 % 50 % 75 % 90 % - Tăng dần hoạt động và độ khó nhiệm vụ cho HS - Kinh nghiệm được tăng thêm trong quá trình thực hành HS chấp nhận thông tin HS tự tìm kiếm thông tin cho việc học Hình 1.2 Tháp học tập của Geoff Petty Các hoạt động của HS được chia làm 7 hoạt động chính được chia theo sự tăng dần độ khó nhiệm vụ. Trong đó 3 hoạt động đầu tiên : nghe, đọc, nghe-nhìn là 3 loại hoạt động đơn giản nhất, trong đó hoạt động chính của HS là chấp nhận thông tin nên đem lại kết quả khá thấp (chỉ từ 5% đến cao nhất là 20%). Trong khi đó nhóm hoạt động mà HS tự tìm kiếm thông tin cho việc học như thuyết minh, thảo luận nhóm, thực hành, nhận biết các hữu ích của việc học đem lại kết quả cao hơn rất nhiều (từ 30% đến 90%). Như vậy ta nhận thấy, hoạt động tự học của HS tuy rất khó khăn và mất nhiều thời gian, công sức nhưng kết quả đem lại sẽ rất tốt. Kiến thức và kinh nghiệm trong quá trình tự học sẽ giúp cho kết quả học tập tăng lên rất nhiều. 1.4.2. Phân loại hoạt động tự học Như phân tích ở trên mọi hoạt động học suy cho cùng vẫn là tự học, sự phân loại hoạt động học dưới đây chỉ dựa vào cách thức tương tác giữa người học - HS và người thầy - GV. 1.4.2.1. Học trực tiếp (giáp mặt, face to face) với GV [20] Theo GS. Nguyễn Cảnh Toàn, hình thức học trực tiếp với GV là hình thức học mà HS và GV giáp mặt nhau trên lớp. GV truyền thụ kiến thức cho HS và dẫn giải cả cách tư duy để đi đến kiến thức, giáo dục cho HS những phẩm chất cần có để thắng các lực cản trong quá trình học tập. Với cách học này, ta có thể nhận thấy rằng với sự hướng dẫn trực tiếp của GV, HS có thể tiếp thu một cách nhanh và chính xác nhất một dung lượng kiến thức đáng kể. Khi nghe GV giảng, HS có gì không hiểu có thể hỏi ngay để GV giảng lại kỹ hơn. Toàn bộ nhân cách của người GV sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến HS. Chỉ cần một cái gật đầu, một nụ cười hay một cử chỉ tán đồng cũng có thể khuyến khích HS trở nên tự tin và hứng khởi thêm rất nhiều. Tuy nhiên, cách học giáp mặt với GV cũng có những khuyết điểm ảnh hưởng đến hiệu quả học tập của HS. Nếu lớp học đông, trong một tiết học, GV rất khó trả lời hết tất cả các thắc mắc của HS. Trình độ các HS chênh lệch nhau, GV việc dạy thế nào cho vừa sức học của từng HS cũng không phải dễ dàng. Lúc này ta thường thấy có tình trạng những HS khá giỏi thì trở nên rất tự tin hơn rất nhiều và đôi khi còn trở nên khá tự phụ, còn những HS yếu kém sẽ càng trở nên rụt rè, nhút nhát. Nếu HS không biết cách mạnh dạn tự tìm đến câu trả lời bằng cách nguồn tư liệu khác như sách giáo khoa, bạn bè, nguồn tài nguyên trên mạng Internet, … thì vô hình những vướng mắc này sẽ trở thành những trở ngại cho quá trình tiếp thu các kiến thức ở những bài học sau. Hơn thế nữa, thuận lợi khi gần GV có thể trở thành khó khăn khi HS dễ ỷ lại vào GV, ít chịu động não đến cùng mà sớm phản ánh lên GV để tìm lời giải đáp. Thói quen này lâu ngày sẽ làm các em mất dần đi khả năng suy nghĩ độc lập, trở nên rập khuôn máy móc và dễ dàng gặp lúng túng khi phải đối mặt với các tình huống mới mẻ chưa được hướng dẫn qua. 1.4.2.2. Học không có GV bên cạnh – Tự học ([20],[65]) Học tập vốn là quá trình tương tác giữa HS với GV và giữa các HS với nhau. Do đó, tự học không có nghĩa là quá trình học bị tách biệt với bên ngoài. Quá trình tự học của HS là quá trình trong đó HS tham gia vào các hoạt động cùng với những người khác với tư cách là một cá nhân trong lớp học nói riêng và trong một xã hội lớn nói chung. Những HS khác nhau sẽ có những mức độ tự học khác nhau, tùy thuộc vào các yếu tố như tuổi tác, kĩ năng, trình độ và khả năng của HS đối với một chủ đề cụ thể. Vì vậy có thể tạm chia ra thành hai loại là tự học có hướng dẫn của GV và tự học hoàn toàn. a. Tự học có hướng dẫn của GV Tự học có hướng dẫn của GV nghĩa là tuy HS ở xa GV, nhưng vẫn có mối quan hệ trao đổi thông tin giữa HS và GV, bằng phương tiện thô sơ hay hiện đại, dưới dạng phản ánh thắc mắc, giải đáp thắc mắc, làm bài, chấm bài. Tự học dưới sự hướng dẫn của GV đem lại nhiều ưu điểm thuận lợi cho quá trình tiếp thu tri thức, rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo và giúp HS tích lũy kinh nghiệm, biết cách sử dụng các kiến thức thu nhận được một cách hiệu quả nhất. Sự hướng dẫn của GV sẽ giúp cho HS tránh bớt tình trạng lẩn quẩn, lúng túng trong quá trình tự tìm hiểu vấn đề. Giúp HS chọn lọc những kiến thức cần thiết và phù hợp với khả năng của mỗi HS. Sự dẫn dắt, gợi ý, định hướng từ phía GV sẽ giúp cho HS khám phá và nắm bắt kiến thức một cách hợp lý và nhanh chóng. Sự hướng dẫn này chỉ dừng ở việc gợi ý, định hướng chỉ đạo chứ không đi sâu vào giảng giải, chỉ dẫn cụ thể các vấn đề, do đó tuy rút ngắn bớt thời gian các em tìm tòi nhưng vẫn có thể giúp các em rèn luyện và hình thành tác phong làm việc độc lập. HS biết cách tự tìm đến các nguồn tài liệu tham khảo trước khi tìm đến sự giải đáp của GV. Bên cạnh đó, sự xác nhận, khẳng định tính đúng đắn, chân thật của một vấn đề sẽ tạo niềm tin khoa học vững chắc cho HS. [20] b. Tự học hoàn toàn Tự học hoàn toàn là hình thức học cần đạt đến để có thể học suốt đời. Người học mà cụ thể ở đây là HS sẽ tự tiến hành hoạt động của mình bằng ý chí và năng lực trí tuệ, bằng vốn kinh nghiệm cá nhân, mà không hề có được bất kỳ sự hướng dẫn bên ngoài nào, nhằm thay đổi chính bản thân mình. Tự học hoàn toàn giúp HS rèn luyện óc sáng tạo, học được tính tự tin, tính vượt khó và tính kiên trì khi gặp phải các vấn đề phức tạp. Bên cạnh đó, tự học hoàn toàn cũng tồn tại một số nhược điểm. Hình thức học này sẽ mất khá nhiều thời gian do thiếu sự hướng dẫn từ người thầy. Do thiếu đối tượng để so sánh, người học lại dễ tự mãn với những gì mình có. Và một nhược điểm lớn nhất là do tự học hoàn toàn nên người học có thể hiểu lệch vấn đề dẫn đến sai lầm về nhận thức. [20] Với đối tượng nghiên cứu là HS THPT với các đặc điểm về hoạt động học tập và sự phát triển trí tuệ của các em, tôi chủ trương hướng đến nghiên cứu về hoạt động tự học có hướng dẫn của GV. Đây sẽ là bước đầu, là nền tảng để hướng đến việc tự học hoàn toàn sau này của các em. c. Tự học và vai trò của tự học Quá trình học tập là một quá trình lâu dài, vượt ra khỏi bối cảnh trường học. Những HS hiện nay sẽ là những công dân của xã hội mai sau, vì vậy các em rất cần có khả năng độc lập như một trong những kĩ năng sống cần thiết để hỗ trợ các em trong việc phải liên tục đương đầu với những tình huống, những kinh nghiệm mới. Tự học và những kĩ năng, những kinh nghiệm, những kiến thức mà nó đem lại sẽ là những động lực, những tiền đề giúp các em phân tích những tình huống và phát triển các phương pháp tiếp cận vấn đề một cách phù hợp và hiệu quả nhất. Tự học ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường sẽ giúp cho HS biết cách tự chịu trách nhiệm với các hành động của mình. Mỗi HS sẽ ý thức được rằng kết quả của mọi việc có thể bị ảnh hưởng bởi chính sự nỗ lực của chính các em, và ý thức này sẽ là yếu tố quan trọng giúp cho các em luôn sẵn sàng với những trở ngại trong học tập nói riêng và trong cuộc sống nói chung. Hơn thế nữa, trong xã hội ngày nay khi mà hầu hết các mặt đời sống của chúng ta hiện nay có nhiều khả năng thay đổi sâu sắc thì khả năng tự học sẽ giúp con người có thể đáp ứng được các nhu cầu thay đổi của cuộc sống. Cuối cùng, thông qua việc tự học ngay từ khi còn là HS phổ thông mà tất cả các kiến thức (từ kiến thức khoa học đến các kiến thức thông thường trong đời sống hằng ngày) sẽ được khái quát hoá thành một hệ thống thống nhất, liên hệ chặt chẽ với nhau. Tự học có thể ví như một chiếc xe tải chở đầy hàng hoá là những kiến thức, những kĩ năng, những kinh nghiệm mà HS đã thu thập được, đã được xếp gọn gàng để đi theo suốt cuộc đời sau này của các em. [65] 1.4.3. Điều kiện cho hoạt động tự học của HS [25] Hoạt động tự học là hoạt động đòi hỏi nhiều nỗ lực, sự chuyên cần, sự ham thích của chủ thể. Để đáp ứng được điều này, cần có những điều kiện thiết yếu như : giúp HS nhận thức về tầm quan trọng của tự học, tạo cho HS động lực học tập, cung cấp, hướng dẫn HS tìm đến tài liệu học tập.  Nhận thức về tầm quan trọng của việc học Hành động là kết quả của nhận thức. Nhận thức đúng dẫn đến hành động đúng. HS chỉ có thể tiến hành tự học khi nhận thức được tầm quan trọng của tự học. Để nâng cao nhận thức của HS về tầm quan trọng của tự học, GV phải là người thường xuyên giáo dục các em về mục đích của tự học thông qua các hoạt động:  Giao công việc cụ thể cho từng cá nhân và từng nhóm  Khen ngợi, biểu dương thành quả hoạt động tự học của cá thể hoặc của cá thể trong sự hợp tác nhóm. Những tư tưởng thụ động, trông chờ và ỷ lại vào người khác cần được phê phán nghiêm khắc.  Theo dõi sát sao, kiểm tra thường xuyên quá trình tự học của các em.  Động lực tự học của HS Đối với HS THPT, sự tự ý thức về vai trò của bản thân phát triển khá mạnh mẽ và phức tạp. Muốn tạo động lực cho hoạt động tự học của HS trong giai đoạn này cần có sự tác động của GV. Hình thức khuyến khích tự học ở trường phổ thông chủ yếu tập trung ở khâu đánh giá kết quả các hoạt động tự học. Khâu đánh giá này cần phải công bằng và hợp lý đối với tất cả các HS trong lớp. Trong quá trình thảo luận tại lớp, những HS phát biểu tích cực, phát biểu hay hoặc nêu những thắc mắc có giá trị cần phải có điểm thưởng. GV không chỉ căn cứ vào điểm số của các bài kiểm tra viết phải đánh giá mà còn phải căn cứ vào hoạt động cụ thể của các em trong giờ học.  Tài liệu cho tự học Tài liệu là vấn đề then chốt trong quá trình tự học của HS vì nó đóng vai trò như một người thầy khi không có mặt thầy. Tài liệu tham khảo không chỉ bao gồm SGK mà còn cần thêm các nguồn tài liệu tham khảo khác. Tài liệu tham khảo càng được chuẩn bị kỹ càng thì hiệu quả của tự học càng cao, HS sẽ không mất nhiều thời gian tìm kiếm nhưng lại có được nhiều thông tin cần thiết. Một tài liệu chuẩn cần thoả mãn những yêu cầu sau :  Xác thực với nội dung, vấn đề đang tìm hiểu.  Phù hợp với đối tượng nghiên cứu.  Có tính cập nhật. 1.4.4. Vai trò của GV trong việc hướng dẫn HS tự học ([15], [25], [65]) Mục đích cuối cùng của quá trình giáo dục là hướng dẫn để các em HS có các kĩ năng tự học, rèn luyện và hình thành khả năng tự học suốt đời. Nghĩa là các em phải biết tự quyết định trong việc lựa chọn mục tiêu học tập, hoạt động học tập và phương pháp kiểm tra đánh giá. Để làm được điều này, trước hết các em phải xác định được động cơ học tập của mình. Đó có thể là động cơ bên trong, vì lợi ích của bản thân HS, vì sự hứng thú do học tập đem lại, vì những cảm giác mà nó khơi dậy. Đó cũng có thể là vì động cơ bên ngoài, nhằm đạt được một phần thưởng nào đó hoặc để tránh các hình phạt từ bên ngoài. Trong đó, động cơ bên trong là cái cần được chú ý, động cơ bên ngoài chỉ là ngoại lực tức thời. Nhiệm vụ của GV không chỉ là giúp các em hình thành các động cơ bên ngoài mà còn là phát triển bền vững động cơ bên trong. GV sẽ là người giúp các em hình thành năng lực tự học, độc lập suy nghĩ, khơi dậy tính hiếu kỳ, sự say mê tìm tòi để các em thật sự hứng khởi đi tìm những chân lý khoa học. Nhờ đó, phát triển ở HS những kĩ năng cơ sở của sự quan sát, thu thập thông tin, đưa ra những suy luận, phán đoán và kết luận. Đối với lứa tuổi THPT, sự tự ý thức phát triển cao. Nội dung của sự tự ý thức khá phức tạp, trong đó cần lưu ý đến nhu cầu tự khẳng định mình của HS trong lớp học nói riêng, và trong xã hội nói chung. Xu hướng cường điệu trong tự đánh giá có thể xem là một mặt tích cực khi HS trở nên tự tin hơn với chính bản thân mình. Tuy nhiên, trong những lớp học có tính cạnh tranh cao, nếu thiếu đi sự hướng dẫn, tổ chức của GV, HS có thể coi bạn bè như là những đối thủ hơn là đồng minh. Điều này dẫn đến tình trạng ganh đua tiêu cực. Ngược lại trong những lớp học đề cao sự cộng tác và phụ thuộc lẫn nhau, HS sẽ dễ dàng hoàn thành nhiệm vụ và hơn thế nữa, các em sẽ biết cách học và tổ chức tự học sao cho hiệu quả nhất. Các lớp học như vậy dạy cho học sinh làm việc cùng nhau và đánh giá cao điểm mạnh và đóng góp của bạn bè. Việc học tập từ đó trở nên nhẹ nhàng và có ý nghĩa hơn rất nhiều. Để đạt được điều đó, GV đứng lớp là người đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tổ chức một lớp học biết cách hợp tác. Điều quan trọng nữa là GV cần tạo ra một bầu không khí tin tưởng, ủng hộ và hợp tác cao với các mục tiêu trong tập thể lớp học. Cần cố gắng giảm áp lực đối với học sinh bằng thái độ thân thiện cởi mở, bằng sự tôn trọng, bằng sự quan tâm khích lệ của giáo viên. Giáo viên phải tạo ra môi trường mà trong đó học sinh cảm thấy an toàn và yên tâm. Tiếp đó, GV còn cần phải hướng dẫn học sinh phương pháp học tập phối hợp, học sinh có thể làm việc cùng nhau theo nhóm hoặc thành cặp. Trách nhiệm của nhóm là khích lệ tất cả mọi người cùng tiến bộ. Mỗi HS có một khả năng và một nhu cầu nhận thức khác nhau. Cá biệt hóa mục tiêu của học sinh cũng là một trong nhiều giải pháp được nhắc đến. Giáo viên phải hiểu trình độ của học sinh trong một lớp, giữa các lớp khác nhau để không chỉ có phương pháp giảng dạy phù hợp, đề ra mục tiêu phù hợp với từng học sinh; điều này giúp các em ở mọi trình độ đều cảm thấy tự tin, đều có ý muốn vươn lên để đạt mục tiêu cao hơn. Bên cạnh đó, đánh giá là một trong những khâu không thể thiếu của hoạt động học tập. Đánh giá không chỉ phản ánh đến cho GV biết trình độ mà HS đạt được, mà nó còn cho HS biết được khả năng, mức độ mình đã đạt được so với yêu cầu của GV. Vì vậy phương pháp đánh giá cũng cần có sự thay đổi. HS và nhóm HS cần biết tự đánh giá kết quả mà mình đạt được để có sự điều chỉnh kịp thời trước khi có được sự đánh giá chính thức từ phía GV và từ phía xã hội. Như vậy, có thể tóm tắt vai trò của GV trong việc hướng dẫn, tổ chức hoạt động tự học cho HS qua các công đoạn sau :  Tạo bầu không khí thân thiện và hợp tác giữa các HS trong lớp.  Hình thành nhóm và giao nhiệm vụ cụ thể cho mỗi nhóm HS.  Theo dõi, quan tâm đến hoạt động tự học của từng HS thông qua hiệu quả các hoạt động của nhóm.  Tổ chức thảo luận các đề tài giữa các nhóm.  Đánh giá hoạt động tự học của các cá nhân (thành viên trong nhóm đánh giá, các nhóm đánh giá, GV đánh giá)  Tổng kết, kết luận. 1.5. Hoạt động tự học môn vật lý của HS Một điều tra nhỏ của trang web của Khoa Vật Lý trường Đại học Sư phạm Hà Nội về sở thích, hứng thú của người học trong giờ vật lý đối với các hoạt động học tập được tiến hành trong vòng 2 tháng với 511 lượt người tham gia bình chọn tại trang [56] Các hoạt động đưa ra để lựa chọn được lấy theo tiêu chí lấy người học làm trung tâm bao gồm các hoạt động mà học sinh thường tham dự nhất trong quá trình học tập. Bảng 1.1. Kết quả thống kê tại trang web của khoa Vật lý, đại học Sư phạm Hà Nội (số liệu được cập nhật vào ngày 27/04/2007) Ngồi nghe giáo viên giảng 11.74% (60) Làm bài tập 21.72% (111) Tự làm thí nghiệm 28.77% (147) Theo dõi giáo viên làm thí nghiệm 5.87% (30) Xem giáo viên trình bày qua máy chiếu 4.31% (22) Làm bài kiểm tra 12.72% (65) Thi đố vui giữa các tổ 10.18% (52) Lựa chọn khác 4.70% (24) Kết quả đã nêu cho thấy các hoạt động đem lại hứng thú nhất cho người học là những hành động trong đó người học được phát huy tính tự lực như: Tự làm thí nghiệm, làm bài tập, làm bài kiểm tra. Đặc biệt đáng mừng là người học trong giờ vật lý rất thích được tự tay làm thí nghiệm ( với 147 lựa chọn chiếm 28,77%). Trong khi các hoạt động tự lực có tác dụng kích thích hứng thú của học sinh thì ngược lại các hoạt động thụ động không thể làm được điều đó, chỉ có 5,8% số người tham gia bình chọn cảm thấy hứng thú khi theo dõi giáo viên làm thí nghiệm và chỉ 11,7 % số lựa chọn tìm thấy sự hứng thú khi nghe ngồi nghe giáo viên giảng. Kết quả này một lần nữa cho thấy muốn nâng cao hơn nữa kết quả học tập bộ môn học tập vật lý, giáo viên cần tăng cường thêm nữa các hoạt động tự lực của HS nhằm tăng cường sự hứng thú học tập ở các em. GV cần hướng dẫn, tổ chức và tạo thêm điều kiện để các em tự học nhiều hơn nữa. Để xem xét rõ hơn những hoạt động tự lực của HS trong môn học vật lý, ta sẽ xét về thời gian tự học vật lý của HS. Dựa vào thời gian và phương thức tiến hành ta tạm chia thành hai quá trình là quá trình tự học ở nhà và quá trình tự học ngay trên lớp 1.5.1. Quá trình tự học ở nhà [34] Quá trình học tập này là sự tổng hợp của các hoạt động :  Ôn tập lại kiến thức đã học trên lớp Như đã phân tích, thông tin được lưu trữ sau một khoảng thời gian sẽ dần giảm đi. Nghĩa là chỉ cần sau khi kết thúc một ngày học, qua ngày hôm sau những thông tin mà HS lưu giữ đã giảm đi khá nhiều. Bên cạnh đó, HS nói chung và HS THPT nói riêng hiện nay phải học cùng lúc đến hơn 10 môn học chính khoá. Mỗi ngày các em phải học từ 3 đến 5 môn học với 5 tiết học trong một buổi. Lượng kiến thức mà các em phải tiếp nhận là khá lớn và do đó cũng sẽ có một lượng kiến thức được GV cung cấp trên lớp sẽ nhanh chóng bị các em tạm quên đi để thay thế cho kiến thức các môn học mới. Vì vậy, để hoạt động học tập có kết quả thì hoạt động đầu tiên trong quá trình tự học là HS cần xem lại vở ghi trên lớp, nhằm nhớ lại những gì vừa tiếp thu được trên lớp, xác định các kiến thức chưa hiểu trên lớp để hỏi lại thầy cô, bạn bè.  Vận dụng lý thuyết và rèn luyện các kĩ năng Đây là hoạt động quan trọng nhất trong quá trình tự học của HS. Kĩ năng là hành động có ý thức, dựa vào sự hiểu biết về cách thức tiến hành công việc nào đó. Đây là giai đoạn trung gian giữa tri thức và kỹ xảo trong quá trình nắm vững một phương thức hành động. Kĩ năng vật lý là những hành động tự thực hành mà HS có thể làm được trên cơ sở những kiến thức vật lý đã thu nhận được và những hoạt động này lại giúp HS thu nhận những kiến thức vật lý mới và những kiến thức khác nói chung. Trong các phương pháp rèn luyện kĩ năng thì phương pháp chủ yếu là luyện tập vận dụng kiến thức vật lý đã học. Có một số hình thức luyện tập : + Luyện tập để quan sát và giải thích các hiện tượng, quá trình vật lý. + Luyện tập giải các bài tập vật lý và sử dụng các kĩ năng toán học.  Tự kiểm tra, đánh giá quá trình học bài ở nhà Sau khi đã xem lại kiến thức đã học, rèn luyện vận dụng lý thuyết thì HS cần biết tự kiểm tra, đánh giá những gì mình đã ôn luyện được. Hoạt động này góp phần giúp HS tự nhận định xem phần nội dung nào kiến thức nào mình đã nắm vững, phần nào cần xem lại. Đồng thời, qua đó, hoạt động này cũng giúp hình thành ở HS năng lực tự kiểm tra, đánh giá, phán xét một kiến thức nào đó.  Hệ thống hoá kiến thức Để chuẩn bị cơ sở cho việc tiếp thu các kiến thức mới thì việc hệ thống hoá lại kiến thức là bước rất cần thiết trong hoạt động học tập nói chung và hoạt động tự học ở nhà nói riêng. Việc hệ thống hoá kiến thức thường xuyên sẽ giúp cho việc ôn tập của HS nhẹ nhàng và khoa học hơn rất nhiều.  Mở rộng kiến thức từ những gì đã học trên lớp Kiến thức HS thu nhận được từ sự truyền đạt của GV trên lớp chỉ là phần cơ bản nhất. Để hiểu rõ và khắc sâu vấn đề, HS cần tự mình tìm tòi mở rộng thêm kiến thức cụ thể như những hiện tượng, các khái niệm được đề cập trong SGK thì trong đời sống nó được vận dụng như thế nào, dưới dạng nào, … Việc mở rộng kiến thức học được trên lớp không những khắc sâu những gì đã học một cách tự nhiên và bền vững nhất, nó còn là khâu giúp khơi dậy niềm đam mê khám phá, học hỏi, nghiên cứu ở HS. Trong quá trình học tập thì quá trình tự học ở nhà của HS đóng vai trò hết sức quan trọng. Thời lượng trên lớp quá ít để các em vừa có thể củng cố lại kiến thức cũ, tiếp thu và vận dụng kiến thức mới. Quá trình tự học ở nhà cần được tiến hành một cách chủ động và tích cực thì mới đem lại cho các em những giờ học trên lớp thực sự bổ ích và hiệu quả. 1.5.2.Quá trình tự học trên lớp dưới sự hướng dẫn trực tiếp của GV [25] Để hoạt động tự học trên lớp của HS đạt hiệu quả, cần có sự tổ chức hoạt động trên lớp của GV. Sự tổ chức của GV rất đa dạng, nhưng nhìn chung có bốn hoạt động chính : giao nhiệm vụ cho HS, theo dõi hoạt động tự học của HS, tổ chức thảo luận đề tài, tổng kết, kết luận.  Giao nhiệm vụ cho HS Nhiệm vụ chính mà HS phải thực hiện là tự tìm hiểu, nghiên cứu bài học mới. Có hai hình thức giao nhiệm vụ : nhiệm vụ cá nhân và nhiệm vụ tập thể. Nhiệm vụ cá nhân là nhiệm vụ mà tất cả các thành viên trong lớp đều phải thực hiện như nhau, cụ thể là hoàn tất phần bài tập của bài cũ, tìm hiểu nội dung bài mới theo sự hướng dẫn của GV trước khi đến lớp. Nhiệm vụ tập thể là nhiệm vụ của một nhóm HS, như tìm hiểu thật sâu một số vấn đề có trong SGK, thuyết trình trước lớp nội dung bài học mà nhóm tìm hiểu được. Để tạo cơ sở cho việc đọc và nghiên cứu bài mới, tôi đã cung cấp cho các em hệ thống câu hỏi, bài tập và các câu trắc nghiệm cho từng bài qua Phiếu học tập. Hệ thống câu hỏi, bài tập và câu trắc nghiệm trong phiếu này sẽ đảm bảo cho HS nắm được các kiến thức cơ bản, thấy được mối quan hệ giữa các phần, các đơn vị kiến thức của bài học, vừa thấy được ý nghĩa của bài học đối với cuộc sống.  Theo dõi hoạt động tự học của HS Khi không có GV bên cạnh, một số HS rất dễ xao nhãng việc học do các tác động từ môi trường bên ngoài như các hình thức vui chơi, bạn bè xung quanh, … Hơn nữa, ở lứa tuổi của HS THPT, các em chưa có được sự chín chắn về ý thức học tập nên luôn cần có sự quan tâm, chỉ bảo từ phía gia đình và thầy cô. Do đó, GV phải thường xuyên theo dõi những kết quả mà hoạt động tự học của các em đem lại bằng cách yêu cầu HS trình cho GV xem những phiếu học tập chuẩn bị bài trước ở nhà, những bài tập các em đã làm được, yêu cầu HS trả lời các câu hỏi do GV đưa ra, … Công đoạn này vừa có tác dụng ràng buộc các em vào nếp học, vừa sẵn sàng chia sẻ, hỗ trợ các em, động viên khuyến khích các em hoàn thành công việc, vừa để thu thập các thông tin phản hồi nhằm chuẩn bị trước các bước thực hiện điều chỉnh kịp thời để uốn nắn những suy nghĩ của các em. Bên cạnh đó, GV cần tổ chức cho HS và các nhóm HS tự đánh giá hoạt động của các thành viên trong nhóm. Sự tự đánh giá này không chỉ là sự đánh giá khá liên tục và sâu sát, nó còn giúp cho mỗi HS có ý thức trách nhiệm hơn đối với hoạt động tự học của bản thân.  Tổ chức thảo luận đề tài Mỗi bài học có thể được xem như một đề tài nghiên cứu nhỏ với những người nghiên cứu là HS. Do đó, hoạt động chính của HS sau khi đã có được sự chuẩn bị ở nhà là :  Thuyết trình. HS trình bày lại những gì mình và nhóm mình tìm hiểu được một cách khoa học, cụ thể và logic. Việc trình bày lại này không đơn thuần là những nội dung có sẵn trong SGK mà là kết quả của sự phối hợp các kĩ năng, giữa kiến thức mới và kiến thức cũ, giữa các kiến thức có sẵn trong SGK với các kiến thức mà bản thân HS hay nhóm HS tìm hiểu được.  Chất vấn. HS nêu thắc mắc với nhóm thuyết trình hoặc nhóm thuyết trình nêu thắc mắc với các HS khác và GV trong lớp nhằm làm rõ những vấn đề chưa thông suốt. Hoạt động chất vấn của HS được GV định hướng theo chiều nhằm giúp HS tự xác nhận tính đúng đắn và chân thật của vấn đề.  Thảo luận. Các thành viên trong nhóm trao đổi thông tin thu thập được với nhau để giải đáp câu hỏi, chất vấn được nêu ra. Để tất cả HS đều tham gia thảo luận, GV sẽ tác động bằng cách yêu cầu cả nhóm cùng thảo luận và sẽ yêu cầu cá nhân bất kỳ trong nhóm đưa ra câu trả lời, kết quả sẽ đánh giá chung cho cả nhóm.  Phát biểu. HS tự nêu ra nhận xét hoặc suy nghĩ cá nhân đối với vần đề đang được phân tích.  Tổng kết, kết luận Ở cuối mỗi tiết học, GV tổng kết lại toàn bài bằng việc giải đáp toàn bộ những thắc mắc chưa được giải đáp thoả đáng, hiệu chỉnh những sai lệch, lầm lẫn trong suy nghĩ của HS, khẳng định lại những quan điểm đúng đắn, đưa ra câu hỏi kiểm tra lại mức độ tiếp thu kiến thức của HS, củng cố lại nội dung bài học. Ngoài ra, GV cần đưa ra nhận xét về tiết học, về mức độ tích cực, hoàn thành công việc của các cá nhân, của các nhóm HS trong lớp. Như vậy, kết hợp giữa hoạt động tự học ở nhà của HS và hoạt động hướng dẫn của GV trên lớp, ta có chu trình sau : GV giao nhiệm vụ cho HS. HS tự học ở nhà, tìm hiểu kiến thức mới. GV kiểm tra việc tự học ở nhà của HS HS thảo luận dưới sự hướng dẫn của GV GV tổng kết tiết học Hình 1.3. Chu trình cho thấy sự kết hợp giữa hoạt động tự học ở nhà của HS và hoạt động hướng dẫn của GV trên lớp 1.6. Tìm hiểu về hình thức học e-learning Quá trình học tập thực chất chính là quá trình tự học. Trong thời đại hiện nay, khi mà HS cần “học để biết, học để làm, học để sống với nhau và học để tồn tại” (UNESCO 1996), hoàn toàn khác với quan điểm tồn tại trước đó là “học để làm” (“Job-ready graduate”) thì hoạt động tự học của HS lại cần được quan tâm nhiều hơn nữa. Sự hỗ trợ cho hoạt động tự học này từ GV với các thiết bị và các ứng dụng công nghệ sẽ giúp nâng cao hơn nữa hiệu quả của các hoạt động học tập của các em. Bên cạnh đó, sự phát triển của công nghệ thông tin đã tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo. E-learning được xem là một hình thức học tập mới của thế kỉ 21 mà các phương pháp trước đó chưa có. E-leaning được hình thành từ những năm 1980 và đến thời điểm hiện tại, hình thức học này đã trở nên rất rộng rãi bởi những lợi ích mà nó đem đến cho người học. Với HS THPT ở nước ta hiện nay thì e-learning sẽ là một hình thức học khá phù hợp cho việc phát triển các khả năng học tập độc lập, tự chủ và sáng tạo của các em. 1.6.1. Tìm hiểu về hình thức dạy học e-learning 1.6.1.1. E-learning là gì? Có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về e-learning, dưới đây sẽ trích ra một số định nghĩa về e-learning đặc trưng nhất [47] - E-learning là sử dụng các công nghệ Web và Internet trong học tập (William Horton). - E-learning là một thuật ngữ dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông ( Compare Infobase Inc). - E-learning nghĩa là việc học tập hay đào tạo được chuẩn bị, truyền tải hoặc quản lý sử dụng nhiều công cụ của công nghệ thông tin, truyền thông khác nhau và được thực hiện ở mức cục bộ hay toàn cục ( MASIE Center). - Việc học tập được truyền tải hoặc hỗ trợ qua công nghệ điện tử. Việc truyền tải qua nhiều kĩ thuật khác nhau như Internet, TV, video tape, các hệ thống giảng dạy thông minh, và việc đào tạo dựa trên máy tính (CBT ) ( Sun Microsystems, Inc ). - Việc truyền tải các hoạt động, quá trình, và sự kiện đào tạo và học tập thông qua các phương tiện điện tử như Internet, intranet, extranet, CD-ROM, video tape, DVD, TV, các thiết bị cá nhân... ( e-learningsite). - "Việc sử dụng công nghệ để tạo ra, đưa các dữ liệu có giá trị, thông tin, học tập và kiến thức với mục đích nâng cao hoạt động của tổ chức và phát triển khả năng cá nhân." (Định nghĩa của Lance Dublin, hướng tới e-learning trong doanh nghiệp). Ngoài ra, e-learning còn được định nghĩa là “việc thực hiện chương trình giáo dục, học tập, đào tạo, bồi dưỡng, thông qua các phương tiện điện tử. E-learning liên quan đến việc sử dụng máy tính hoặc các thiết bị điện tử trên một phương diện nào đó nhằm cung cấp tài liệu cho việc giáo dục, học tập, đào tạo, bồi dưỡng” [4] Như vậy, có thể thấy, mọi cách hiểu đều mang dấu hiệu thống nhất : E- learning là một hình thức học tập không diễn ra tại các lớp học truyền thống, mà học tập được tiến hành thông qua các thiết bị, phương tiện, thông tin truyền thông. 1.6.1.2. Những đặc điểm cơ bản của e-leaning so với các hình thức tổ chức dạy học khác [4] Hình thức học này có những điểm khác biệt so với các hình thức tổ chức dạy học khác - Công nghệ là thứ yếu sang đa phương tiện là trọng tâm - Giáo dục chỉ một lần sang giáo dục suốt đời. - Chương trình cố định sang chương trình mở (mềm dẻo hơn) - Tập trung từ tổ chức vào người dạy sang tập trung vào người học - Tự thân vận động hoặc giáo dục đồng loạt sang hợp tác - Giới hạn sang phạm vi khu vực (địa phương) sang mạng lưới toàn cầu 1.6.1.3. Một số ưu và khuyết điểm của e-learning ([31], [47]) a. Ưu điểm E-learning có nhiều ưu điểm so với học tập tại các lớp học truyền thống ở nhiều góc độ khác nhau :  Về chương trình và nội dung. E-learning có cấu trúc mềm dẻo, linh hoạt (phá bỏ cấu trúc cổ điển theo một trình tự cứng nhắc) Ở cấu trúc này, các trang thông tin được coi trọng như nhau, có thể tiếp cận bất kì kiến thức nào mà không cần thông thạo các kiến thức khác. Nội dung của các đối tượng nhận thức đựơc trình bày một cách toàn diện, tổng thể và đầy đủ hơn và hiển thị một cách nhanh chóng nhờ các thiết bị đa phương tiện và các phần mềm. Do khả năng liên kết nhanh chóng giữa các máy tính trên mạng nên nội dụng học tập rất phong phú và đầy đủ để lựa chọn. [31]  Về cá nhân hoá hoạt động học tập. E-learning mang tính thích ứng cá nhân cao Người học có thể tự xác định địa điểm học, thời gian học, chiều sâu nội dung kiến thức học, số lần xem lại nội dung bài học, sao cho phù hợp với thời gian biểu, trình độ và khả năng của mình nhất. [31]  Về đánh giá, tự đánh giá kết quả học tập Với khả năng lưu trữ, xử lý thông tin một cách đồng bộ khá nhanh chóng của MVT cộng với các tính năng được hỗ trợ từ các phần mềm ứng dụng, hình thức học e-learning sẽ cho người học có những kết quả kịp thời và nhanh chóng, tạo điều kiện cho việc điều chỉnh, đánh giá thường xuyên, khách quan. [31]  Về cách tiếp cận của người học với các đối tượng nhận thức Người học theo hình thức e-learning tiếp cận với các đối tượng nhận thức thông qua các thiết bị, phương tiện thông tin – truyền thông nên thích hợp với mọi đối tượng người học có hoàn cảnh, lứa tuổi khác nhau, đặc biệt là những người ở xa các trung tâm, cơ sở giáo dục hay người tàn tật. [31]  Về chi phí đào tạo Chỉ với chi phí ban đầu để thiết kế nội dung học tập, e-learning được đánh giá là có chi phí thấp hơn rất nhiều so với lớp học truyền thống. [21]  Về tài liệu học tập. Tài liệu học tập phong phú, luôn được cập nhật. E-learning có thể gíup người học tiếp cận với kho tàng kiến thức của nhân loại với sự hỗ trợ trên mạng của Google, Yahoo, ... Mặt khác, người học có thể chia sẻ tài nguyên của mình cho mọi người. Và đặc biệt các thông tin này luôn thường xuyên được bổ sung, cập nhật, giúp người học có thể bổ sung kiến thức một cách nhanh chóng, chính xác. [21]  Góp phần rèn luyện kỹ năng, thái độ học tập. Để học tập trong môi trường e-learning, người học phải có thói quen học tập tốt, kỹ năng tự học và quản lý thời gian riêng của mình. Học bằng hình thức e- learning, người học có thể trao đổi ý kiến một cách thẳng thắn, cởi mở. Đồng thời, nó cũng loại bỏ sự băng khoăng của người học khi cùng một nội dung nhưng mỗi giáo viên lại có cách tiếp cận vấn đề khác nhau. Điều này giúp cho người học rèn luyện thái độ học tập nghiêm túc và phát triển tư duy phê phán ở người học. [21]  Tăng khả năng ghi nhớ ở người học. Với các ưu điểm nổi bật của kỹ thuật Multimedia, e-learning tác động lên người học qua nhiều kênh thông tin như : văn bản, hình ảnh, biểu đồ, audio, video, họat hình, mô phỏng, …Nhiều nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra rằng môi trường học tập có tích hợp công nghệ thông tin đa phương tiện làm tăng khả năng ghi nhớ của người học. Không những vậy, các nội dung học tập được thiết kế, truyền tải và liên kết đến các kho dữ liệu giúp người học có thể xem lại một cách dễ dàng các kiến thức mà lần đầu tiên chưa nắm rõ. [21] Thể hiện các ưu điểm của hình thức học e-learning, ngoài ý nghĩa electronic – điện tử, ‘e’ trong e-learning còn được dịch ra là:  Exploration – khám phá. Người học sử dụng web như một phương tiện để tiếp cận nguồn kiến thức và thông tin to lớn.  Experience – kinh nghiệm. Web cung cấp cho người học tất cả những kinh nghiệm học tập, từ tìm hiểu tổng quát đến thảo luận chuyên đề.  Engagement – tham gia. Người học bị thu hút nhờ phương pháp học tập sáng tạo khuyến khích sự cộng tác và ý thức cộng đồng.  Easy to use – dễ sử dụng. Web không chỉ dễ sử dụng đối với những ai đã quen thuộc với khả năng dẫn người dùng đến chữ nghĩa, hình ảnh, âm thanh, phim, … , mà còn thuận tiện cho cả những người cung cấp kiến thức, họ có thể dễ dàng tạo ra nội dung cho học viên trên tất cả các nền hệ điều hành (Windows, Unix, ...)  Empowerment – quyền hợp pháp. Web cho phép người học biến nguồn kiến thức chung thành của riêng mình cũng như có quyền lựa chọn cách học riêng cho mình. b. Khuyết điểm Bên cạnh những ưu điểm, cũng như các hình thức học tập khác, e-learning còn có những hạn chế như sau :  Kết quả học tập phụ thuộc nhiều vào chất lượng của chương trình, nội dung học tập Kết quả học tập trong e-learning phụ thuộc vào trình độ chuyên môn, sư phạm, tâm lí học, lí luận dạy học của các tập thể tác giả xây dựng chương trình cũng như phụ thuộc vào sự hỗ trợ của các thành tựu công nghệ thông tin và chuyên gia lập trình trong việc thực hiện các ý ưởng của các tác giả chương trình.[31]  Quá trình học tập e-learning nói chung là cô lập với xã hội thực Các cá nhân tiến hành học tập thông qua các phương tiên truyền thông nên những sự khích lệ ở bên ngoài như áp lực cạnh tranh, năng suất, … hầu như không có.[31]  Phá bỏ sự chú ý cổ điển Người học thay vì tập trung giải quyết các tài liệu học tập được chuẩn bị một cách hệ thống, e-learning dễ làm người học phân tán do khả năng truy cập không tuyến tính vào các thông tin được trình bày trên mạng một cách đa dạng và hấp dẫn.[31]  Những câu hỏi tức thời phát sinh trong khi học không được trả lời ngay Giao tiếp giữa GV và người học không trực tiếp mà phải thông qua mạng. Vì vậy, việc trả lời các câu hỏi phát sinh, việc làm mẫu, bắt chước cũng như trao đổi, thảo luận không thể thực hiện một cách dễ dàng như trong lớp học truyền thống. Việc giao tiếp này đòi hỏi phải có kế hoạch chặt chẽ về nội dung cũng như thời gian.[31]  Người học phải có kiến thức cơ bản về sử dụng máy vi tính và giao tiếp với mạng Internet [31] Máy vi tính và mạng Internet đã tạo ra một kỷ nguyên mới giúp đem kiến thức của nhân loại đến cho tất cả mọi người và nó cũng là điều kiện kiên quyết cần có để tiến hành hình thức học e-learning. Có nghĩa khi một người học không biết về cách sử dụng máy vi tính, cách thức giao tiếp với mạng Internet hoặc người học đang ở nơi chưa có máy vi tính hoặc hệ thống Internet thì cơ hội tiếp xúc với các kiến thức có trong lớp học trực tuyến là bằng không. Chính vì lý do này hình thức học e-learning tuy có khá nhiều ưu điểm nhưng mức độ áp dụng còn khá khiêm tốn, nhất là ở các nước đang phát triển, điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng nhiều nơi vẫn còn khá nghèo nàn, lạc hậu như ở Việt Nam chúng ta.  Để xây dựng một lớp học theo hình thức e-learning cần tốn rất nhiều thời gian và công sức. [47] Xây dựng lớp học theo hình thức e-learning không chỉ cần có sự hỗ trợ tích cực từ khoa học công nghệ hiện đại mà còn cần rất nhiều thời gian và công sức của GV. Kiến thức của loài người đang từng ngày thay đổi, để các thông tin trên lớp học phù hợp với sự phát triển của nhân loại thì các nội dung trên lớp học này cũng luôn cần được bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện liên tục. Thêm vào đó, do lớp học lúc này lại còn đóng vai trò là công cụ để GV theo dõi, kiểm soát việc học tập của từng học viên nên GV luôn phải cập nhật những thông tin có trên lớp học nhằm có những biện pháp động viên phù hợp cho các đối tượng học viên khác nhau.  Không thể đưa vào các môn học đòi hỏi dạy kĩ năng như hát, múa, nhạc, họa… (dù dùng video cũng có hạn chế)[47] Dù có được tích hợp nhiều ứng dụng hiện đại đến đâu chăng nữa thì lớp học tổ chức theo hình thức e-learning cũng khó có thể thay thế GV thật. Cũng chính vì lý do này mà không thể dạy các môn học đòi hỏi những kĩ năng, sự sáng tạo, óc thẩm mỹ như hát, múa, nhạc, hoạ, …  Vấn đề kiểm soát lớp học sẽ đặt nặng trên vai giáo viên.[47] Nếu tổ chức một lớp học hoàn toàn trên mạng internet thì vấn đề quản lý học viên, việc truy cập, sử dụng các thông tin của các học viên sẽ đặt nặng lên vai GV. Với lớp học 100% ảo thì GV khó mà có được những thông tin chính xác về học viên của mình, những biện pháp tác động trở lại nhằm thúc đẩy việc học của họ cũng hoàn toàn kém hiệu quả nếu người học không có ý thức học tập tốt. Bên cạnh đó vẫn còn khá nhiều vấn đề xung quanh hình thức học e-learning chưa được nghiên cứu đầy đủ nên việc vận dụng hình thức học này cũng cần có sự lựa chọn, cân nhắc. 1.6.2 Kết hợp e-learning và lớp học truyền thống Tuy vẫn tồn tại các khuyết điểm như bất kỳ hình thức học nào khác, nhưng với những ưu điểm nổi bật khá phù hợp với nhu cầu đào tạo những công dân mới cho một xã hội hiện đại như hiện nay, liệu e-learning có thể thay thế cho lớp học truyền thống mà trong đó GV trực tiếp giảng dạy cho các HS như hiện nay? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta xét đến một số điều kiện ở Việt Nam hiện nay:  Về cơ sở vật chất (thiết bị dạy học, đường truyền, công cụ hổ trợ…). Thời gian gần đây tuy đã được sự quan tâm đầu tư cơ sở vật chất cho các trường nhưng nhìn chung đa phần các trường học nước ta vẫn chưa có đủ các điều kiện cơ sở hạ tần phù hợp cho việc áp dụng một cách toàn diện cho hình thức học e- learning.  Về học sinh HS chúng ta mới bắt đầu được làm quen với hình thức học tập tích cực, chủ động nên thói quen tự học chưa cao, chưa có tính độc lập, còn phụ thuộc nhiều vào giáo viên, chưa tự giác trong học tập.  Về giáo viên Mặc dù đã có sự hỗ trợ nhiều hơn từ các nguồn lực, như các chương trình học dành cho GV của hãng Intel, tập đoàn Microsoft, phối hợp với các Sở Giáo dục, các giải thưởng, các dự án của Bộ giáo dục, nhằm khuyến khích việc GV ứng dụng Công nghệ thông tin vào giảng dạy, nhưng khả năng áp dụng các thành tựu công nghệ vào giảng dạy của đa số các giáo viên ở các bậc học (nhất là bậc trung học và tiểu học) còn hạn chế.  Về tổ chức lớp Hiện nay vẫn chưa có một nghiên cứu thật sự đầy đủ nào về hình thức học tập e-learning và việc ứng dụng nó vào trong trường học [43]. Vẫn còn khá nhiều vấn đề chưa được nghiên cứu một cách thật tỉ mỉ để chúng ta có thể mạnh dạn đưa hình thức học này vào các trường trung học ở Việt Nam. Do đó, theo tôi đối với HS THPT ở nước ta, hình thức e-learning chỉ có thể dừng lại ở mức hỗ trợ, giúp cho việc tự học của các em có hiệu quả hơn chứ chưa thể thay thế lớp học truyền thống. Bên cạnh đó, việc làm quen với hình thức e-learning cũng sẽ là cơ sở để giúp hình thành thói quen tự học, tự rèn luyện, làm nền móng cho quá trình tự lực học tập của các em sau này. Theo đề xuất từ website [47] của Bộ giáo dục – Đào tạo, giải pháp kết hợp giữa e-learning và lớp học truyền thống được gọi là BLENDED SOLUTION. Mô hình kết hợp được đề nghị bởi website trên như sau : Sự theo dõi của người học Trao đổi thông tin trong nhóm Kiểm tra Thảo luận nhóm Đánh giá Thuyết trình Thuyết trình Hội thảo Trao đổi qua Internet Chia sẻ tài liệu Hội nghị từ xa. Kế hoạch học tập Điều khiển các hoạt động Hình 1.4 Mô hình về giài pháp kết hợp giữ e-learning và lớp học truyền thống - Blended Solution 1.6.3. Các mức độ ứng dụng e-learning trong trường học [21] Với nhận xét về tình hình học tập và giảng dạy ở Việt Nam chúng ta, có thể đã phân chia các mức độ ứng dụng e-learning vào lớp học truyền thống như sau : (Học tập phối hợp) E-learning Lớp học truyền thống Mức độ 1 : E-learning đóng vai trò bổ sung cho lớp học Mức độ 2 : E-learning giúp đào tạo một module hoàn toàn trên mạng Mức độ 3: E-learning giúp đào tạo các khoá học hoàn toàn trên mạng Blended learning Hình 1.5. Sơ đồ cho thấy các mức độ ứng dụng e-learning vào lớp học truyền thống Mức độ thứ nhất, GV thiết kế, đóng gói và truyền tải nội dung học tập, tạo diễn đàn, hướng dẫn tự học trên mạng song song với việc học trên lớp truyền thống (tức là bổ sung cho lớp học truyền thống) Mức độ thứ hai, GV yêu cầu HS phải tham gia lớp học trên mạng một đơn vị, một phần nào đó trong chương trình giảng mà không được đào tạo trên lớp học truyền thống. Mức độ thứ ba, GV tiến hành giảng dạy một môn học nào đó hoàn toàn trên mạng, HS tham gia và được đánh giá kết quả trực tiếp trên mạng. Đối với đề tài luận văn này, đối tượng hướng đến là HS đầu cấp THPT, để phù hợp hơn với trình độ và khả năng của các em, tôi đã áp dụng sự kết hợp giữa e- learning và lớp học truyền thống ở mức độ đơn giản nhất, tức là mức độ dùng e- learning để bổ sung cho việc học trên lớp của HS, thông qua việc hỗ trợ cho quá trình tự học bộ môn của các em hiệu quả hơn. 1.7. Lớp học trực tuyến và vai trò của nó trong việc hỗ trợ hoạt động tự học của học sinh 1.7.1. Khái niệm lớp học trực tuyến Lớp học trực tuyến là môi trường lớp học trên mạng Internet, nơi bạn có thể theo dõi theo các chương trình hàng tuần và giao tiếp với giáo viên của bạn và bạn học.[59] Lớp học trực tuyến (online class hay virtual class) còn được định nghĩa là một môi trường dựa trên web mà cho phép người học tham gia trực tiếp các khoá đào tạo mà không cần phải đi xa. Người học nghe bài giảng, tham gia các bài tập trong phòng thí nghiệm, đặt câu hỏi, và nhận được thông tin phản hồi giống như sẽ làm trong một lớp học, sự khác biệt là người học sẽ làm điều đó từ sự tiện lợi của việc máy vi tính, hoặc bất cứ nơi nào có một kết nối Internet và điện thoại Điều này giảm bớt các rắc rối, chi phí, thời gian để đi xa và thời gian để đào tạo. [63] 1.7.2. Các lớp học trực tuyến tại Việt Nam Các lớp học trực tuyến ở Việt Nam thực sự bắt đầu được quan tâm đến nhiều hơn khi hạ tầng viễn thông phát triển, các dịch vụ nghe nhìn trực tuyến dễ dàng được nhiều người tiếp cận. Trong các bộ môn học, bộ môn ngoại ngữ, cụ thể là bộ môn tiếng Anh là bộ môn thu hút nhiều người quan tâm. Vì vậy, có rất nhiều trang web đánh mạnh vào ngoại ngữ này với nội dung rất phong phú, từ tiếng Anh căn bản đến nâng cao cho giao tiếp, chuyên ngành và cả TOEFL, IELTS, TOEIC. Các trang thu hút hiện nay trong bộ môn này có thể kể đến là luyenthianhvan.org, khongcogikho.com, hocngoaingu.com.vn... Bên cạnh đó, các bộ môn trong trường phổ thông cũng là một nhu cầu lớn, được nhiều trang web đầu tư cho việc học trực tuyến, nhất là từ khi các chương trình thí điểm về kiểm tra và thi bằng hình thức trắc nghiệm cho cấp phổ thông được thực hiện. Tại những trang như hocmai.vn, truongtructuyen.vn, eschool.hoahoctro.vn... có thể dễ dàng tìm thấy những bài giảng theo từng chuyên đề ở đầy đủ bộ môn cho cấp học từ lớp 6 đến 12 và cả những khóa về tin học văn phòng. [60] Tuy nhiên theo nhận xét của riêng tôi đa số những trang này đều cung cấp lý thuyết thuần túy, là phần tóm gọn của nội dung sách giáo khoa, phần tham khảo mở rộng không được quan tâm đến. Các bài kiểm tra dưới hình thức trắc nghiệm của những trang này còn khá đơn giản, câu hỏi chưa được phân cấp độ, chỉ có đáp án A, B, C hoặc D, chưa có hướng dẫn rõ ràng. Ngoài ra, có một số khoá học để được xem trực tiếp bài giảng của GV qua đoạn video clip, cần phải trả một số phí nhất định. Học phí cho các môn học phổ thông từ 5.000-10.000 đồng cho một bài giảng. Nếu học theo chuyên đề, môn học phí có thể từ 15.000-100.000 đồng một môn [60]. Chi phí này tuy thấp nhưng đôi khi cũng trở thành hạn chế của chương trình khi người học có ý định tham gia vào các khoá học, nhất là đối tượng HS đang phụ thuộc khá nhiều vào gia đình. Đối với môn vật lý, hiện nay có khá nhiều trang web có chức năng hỗ trợ cho hoạt động tự học của HS. Tuy nhiên, theo nhận xét của riêng tôi thì những trang này vẫn chưa hoàn toàn đầy đủ để giúp các em có thể tự học môn vật lý một cách tốt nhất. Một số trang web nổi bật có thể nêu ra đây là : … 1.7.3. Vai trò của lớp học vật lý trực tuyến (LHVLTT) trong việc hỗ trợ hoạt động tự học của HS Vai trò của LHVLTT trong việc hỗ trợ hoạt động tự học của HS được thể hiện như sau :  Cung cấp nguồn tài liệu sinh động, phong phú, gần gũi và thiết thực cho hoạt động học tập môn vật lý của HS Tài liệu là một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình tự học của HS vì nó đóng vai trò như một người thầy khi không có thầy bên cạnh. Khác với các tài liệu tham khảo được trình bày trên giấy, LHVLTT là kho tư liệu được xây dựng và thiết kế nhờ vào sự hỗ trợ của công nghệ số hiện đại nên các em không chỉ có thể đọc nội dung mà còn có thể xem cách mà các thí nghiệm, các hiện tượng thực tế diễn ra như thế nào. LHVLTT không chỉ là một tài liệu tham khảo điện tử dùng để đọc thông tin mà nó còn cho phép các em tương tác với GV và các học viên khác. Các em có thể phản ánh, trao đổi, xây dựng hoặc đưa lên lớp học những thông tin, những kiến thức mà các em có được. Hơn thế nữa, với mục đích hỗ trợ cho hoạt động học tập của HS nên lớp học cung cấp khá nhiều kiến thức phù hợp với trình độ của các em. HS có thể dễ dàng sử dụng các kiến thức có trong lớp học trực tuyến bởi chúng được GV xây dựng bám sát với chương trình mà các em đang theo học. HS không cần phải tìm kiếm thêm nhiều nguồn tài liệu khác nhau nên sẽ tiết kiệm được khá nhiều thời gian. Ngoài ra, khi tham gia vào lớp học trực tuyến, với những hình ảnh sinh động, khả năng ghi nhớ cũng như chất lượng của việc ghi nhớ của HS cũng sẽ bền vững hơn (do thị giác tác động đến hơn 50% khả năng tiếp thu và ghi nhớ)  Hỗ trợ kĩ năng nghe giảng và tự ghi chép trên lớp học Ở khối lớp THCS, HS thường ghi bài dưới hình thức ghi chép lại những lời GV đọc, hoặc các nội dung được ghi trên bảng. Điều này làm cho các em phụ thuộc khá nhiều vào GV. Dẫn đến tình trạng HS thụ động tiếp nhận thông tin một chiều từ phía GV. Do phải viết nhanh cho kịp với bài giảng của GV nên việc viết bài đôi khi diễn ra như một phản xạ chứ bản thân các em cũng không hiểu những gì mình đang viết do đó khi về nhà xem bài hay học bài thì chỉ là học vẹt. Với sự hỗ trợ của LHVLTT, các thông tin về nội dung bài giảng, về các tư liệu liên quan trong bài giảng đã được cung cấp sẵn, HS có thời gian để xem trước và ghi chú lại những điều còn băn khoăn, hoặc đưa các thắc mắc của mình lên diễn đàn để mọi người đóng góp ý kiến. Với việc đọc, xem trước nội dung bài giảng ở nhà, và những các vấn đề gợi mở được đặt ra ở mỗi bài học sẽ giúp các em định hướng được nội dung bài dạy của GV trên lớp. Lúc này, khi đến lớp, ngoài các hoạt động thảo luận, HS không còn phải ghi chép lại nguyên văn nội dung bài dạy của GV mà lúc này các em sẽ biết cách tự ghi bằng việc phân tích, tổng hợp và triển khai lại kiến thức mà GV cung cấp, được thể hiện bằng lời văn và cách hiểu của bản thân mỗi em. Bài ghi trên lớp vì vậy mà có thể sẽ không mạch lạc như khi được GV đọc cho chép nhưng lại rất có ý nghĩa, dễ nhớ đối với các em. Như vậy, LHVLTT sẽ giúp giảm bớt thời gian ghi chép những nội dung có sẵn để HS có thêm thời gian nghe giảng, ghi chép và tham gia các hoạt động trong lớp một cách phù hợp hơn.  Giúp bước đầu phát triển năng lực nhận biết, tìm tòi, phát hiện và giải quyết vấn đề LHVLTT không chỉ cung cấp cho các em kiến thức dưới dạng thông tin mà còn giúp các em phát triển năng lực nhận biết, tìm tòi và phát hiện vấn đề. Như đã phân tích ở trên, LHVLTT không phải chỉ là nguồn thông tin tĩnh mà ở đó HS còn có thể phản ánh, nêu các thắc mắc của bản thân lên các diễn đàn. Việc HS đăng nhập và giải đáp các thắc mắc của các bạn và cả những “thắc mắc” do GV và các bạn cùng lớp đưa ra chính là bước đầu trong việc tìm tòi, nhận biết và giải quyết vấn đề. Những thắc mắc và các câu trả lời có trên các diễn đàn dù hay hay dở, dù đúng hay sai cũng luôn được khuyến khích bởi chỉ khi nêu ra được thắc mắc và tìm cách trả lời các thắc mắc thì mới là lúc các em đào sâu suy nghĩ về nội dung được cung cấp sẵn. Thao tác này nếu được thường xuyên lặp lại sẽ tạo được thói quen để sau đó được nâng lên thành năng lực tìm tòi, nhận biết và giải quyết vấn đề.  Rèn luyện kĩ năng giải bài toán vật lý, khả năng vận dụng kiến thức Bài toán vật lý thực chất là những vấn đề đặt ra đòi hỏi phải giải quyết bằng những suy luận logic, những phép toán và thí nghiệm dựa trên cơ sở các định luật và các phương pháp vật lý. Bài toán vật lý là phương tiện giúp HS lĩnh hội kiến thức mới một cách sâu sắc và vững chắc. Bài toán vật lý còn được dùng như là phương tiện rèn luyện cho HS khả năng vận dụng kiến thức, liên hệ lý thuyết với thực tế, học tập với đời sống [29]. Tuy nhiên, thực tế theo phân phối chương trình thì trong suốt cả một chương học thì số tiết bài tập là khá ít so với lượng lý thuyết có trong chương. Điều này không chỉ gây khó khăn cho HS khi các em không biết cách vận dụng những kiến thức đã học như thế nào, dẫn đến việc HS chỉ học thuộc lòng các định nghĩa, các định luật, công thức một cách máy móc mà không biết ý nghĩa thực sự của những kiến thức nào là gì, dùng để làm gì. HS có nhu cầu cần được vận dụng lý thuyết nhưng GV lại không có nhiều thời gian cho việc hướng dẫn các em giải bài tập. Khó khăn này có thể được giải quyết với sự hỗ trợ từ LHVLTT. GV sẽ cung cấp bài tập và các hướng dẫn, phân loại bài tập ngay trên lớp học trực tuyến. Ở nhà, HS sẽ tự làm bài tập theo sự hướng dẫn và gợi ý có sẵn trên LHVLTT. Với LHVLTT, GV còn có thể chấm bài trực tiếp trên mạng, không chỉ HS làm bài biết được những lỗi sai của mình mà các HS khác tham gia vào hệ thống cũng có thể xem, đánh giá và rút kinh nghiệm cho bản thân.  Các bài kiểm tra trực tuyến giúp HS tự kiểm tra, tự đánh giá về khả năng của bản thân Các bài kiểm tra được GV đưa ra dưới nhiều cấp độ nhằm giúp HS liên tục kiểm tra trình độ, khả năng của bản thân qua mỗi bài học để từ đó có những biện pháp điều chỉnh kịp thời. Khả năng tự đánh giá năng lực thực của bản thân các em qua đó cũng được nâng cao hơn. Các em sẽ nhận biết được trình độ mình đạt được so với yêu cầu của GV như thế nào. Điều này giúp tránh được việc các em xao nhãng, chủ quan trong việc học. Bên cạnh đó, việc HS tham gia thường xuyên các bài kiểm tra cũng sẽ phản ánh đến GV một cách liên tục các khó khăn mà các em gặp phải để từ đó tìm cách giúp đỡ, tháo gỡ những vướng mắc cho các em.  LHVLTT giúp rèn luyện cho HS tính tự chủ, độc lập trong công việc Mặt khác ta có thể thấy HS tham gia vào LHVLTT với tư cách cá nhân nên hoạt động học tập của các em được cá thể hoá ở mức độ cao. Các em hoàn toàn có thể học tập với nhịp độ riêng của mình, phù hợp với khả năng, đặc điểm sinh lý và điều kiện học tập của cá nhân. Nhờ đó HS có điều kiện được rèn luyện tính độc lập, tự chủ và sáng tạo. Khi có nhu cầu tìm kiếm nội dung cần thiết, HS phải tự mình tìm tòi, lựa chọn ở các mục trong LHVLTT. Việc các em tự phát hiện và tìm đến câu trả lời cho riêng mình trước khi tìm đến câu trả lời ở GV giúp cho các em phát triển tư duy một cách độc lập, lâu dài và hiệu quả. Đây là một trong những thao tác mà nếu HS có thể thực hiện được nhiều lần sẽ tạo ra một thói quen tốt, giúp hình thành khả năng tự học lâu dài ở các em. Chương 2. XÂY DỰNG LỚP HỌC VẬT LÝ TRỰC TUYẾN  -  2.1. Mục đích của lớp học 2.1.1. Hỗ trợ cho quá trình tự học môn vật lý cho HS và qua đó tăng cường tính tích cực nhận thức trong các hoạt động trong giờ học vật lý trên lớp. Quá trình học tập của HS như phân tích ở chương trước chính là quá trình tự học. Vai trò của hoạt động tự học đối với hiệu quả học tập của HS là quá rõ, vấn đề là làm cách nào để tăng cường khả năng tự học của HS. Tự học là hoạt động của chính bản thân các em; các yếu tố khác như gia đình, nhà trường hay xã hội chỉ đóng vai trò của các tác nhân bên ngoài. Về phía GV, chúng ta có thể gặp các em trên lớp, cuốn hút các em vào bài mới bằng việc tổ chức các hoạt động nhận thức và yêu cầu các em tham gia ở những mức độ khác nhau. Nhưng trong điều kiện hiện nay, lượng kiến thức cần cung cấp cho HS là khá nhiều trong khi thời gian lại hạn chế thì hiệu quả của các hoạt động này còn tuỳ thuộc khá nhiều vào sự chuẩn bị bài trước và tính tích cực của các em. Để một tiết học hiệu quả mà trong đó GV là người tổ chức, hướng dẫn, HS là người hoạt động để tiếp thu bài mới trong vừa vặn thời gian của một tiết học, theo tôi rất cần có một sự hỗ trợ ngoài giờ từ phía GV cho quá trình học tập của HS. Sự hỗ trợ này không đơn thuần là cung cấp nội dung bài học mà còn hơn thế nữa, nó sẽ giúp hỗ trợ cho các em có thể tự học môn vật lý một cách thuận lợi hơn. Qua đó, khi đến giờ học trên lớp với GV, các em sẽ tích cực và hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập hơn. Đây chính là mục đích chính của LHVLTT mà tôi hướng đến trong luận văn này. 2.1.2 Lớp học vật lý trực tuyến là công cụ hỗ trợ cho hoạt động dạy của GV theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học Bên cạnh mục đích chính là hỗ trợ cho hoạt động tự học của HS, LHVLTT còn hướng đến việc trở thành công cụ hỗ trợ cho hoạt động giảng dạy trên lớp của GV. GV có thể sử dụng các nguồn tài nguyên cung cấp sẵn trên LHVLTT để làm phong phú hơn nội dung bài giảng của mình. Hơn thế nữa, những câu hỏi, những câu trả lời, những số liệu ở các lần kiểm tra của học sinh được lưu lại trên LHVLTT sẽ giúp GV thu được những thông tin phản hồi quý giá về khả năng tiếp thu bài học và sớm có biện pháp tháo gỡ những vướng mắc của các em. 2.2. Đối tượng sử dụng lớp học Bước vào lớp 10, cũng là lúc HS phải đối mặt với khá nhiều sự thay đổi, mà một trong những thay đổi rõ rệt nhất chính là yêu cầu khá cao ở các môn học, mà môn vật lý là một trong những những môn học khó đối với các em. Điều này lại càng khó khăn hơn đối với HS học chương trình vật lý nâng cao. Vì vây, đối tượng mà tôi hướng đến cho lớp học trực tuyến này chính là các em HS lớp 10 đang theo học chương trình vật lý nâng cao. 2.3. Các tiêu chí của lớp học Để đáp ứng mục đích của lớp học cũng như để phù hợp với đối tượng sử dụng mà lớp học hướng đến. Lớp học được xây dựng nhằm thoả mãn một số tiêu chí sau  Nội dung chính xác, đa dạng, phong phú được trình bày phù hợp với HS Tiêu chí đầu tiên của LHVLTT là tính chính xác, cơ bản của nội dung mà nó chứa đựng. Khi HS tham gia vào LHVLTT cũng có nghĩa là các em đang tiếp xúc với một “gia sư điện tử”, do đó cần đảm bảo tính chính xác và khoa học của từng bài học, bài tập, đáp án của từng câu trắc nghiệm. Một vài sai sót nhỏ có trong LHVLTT cũng rất dễ dẫn đến các sai lầm không đáng có cho HS. Bên cạnh đó, dù đã có được những ứng dụng khá hiện đại của khoa học kỹ thuật, nhưng hiện nay LHVLTT vẫn chỉ có thể tương tác với HS qua màn hình MVT. Các em phải đọc, và xem nhiều những hình ảnh minh hoạ hơn là nghe và nhìn trực tiếp nên chắc chắn sẽ cần có thời gian nhiều hơn. Tuy nhiên với đặc điểm sinh lý của lứa tuổi, các em rất hiếu động và thiếu kiên nhẫn. Vì vậy, bên cạnh sự chính xác thì nội dung của LHVLTT cũng phải có tính đa dạng, phong phú và phù hợp với trình độ hiện có của HS mới có thể “giữ” các em “ở lại” lâu hơn với lớp học trực tuyến. Ở lứa tuổi HS THPT ý thức tự tôn của các em khá cao, các em mong muốn được mọi người công nhận vai trò của mình. Do đó, văn phong trong LHVLTT cũng được sử dụng theo lối gần gũi và thân thiện với các em hơn. Trong LHVLTT, các em sẽ nhận thấy sự hướng dẫn, đề xuất một cách nhẹ nhàng, dí dỏm chứ không phải yêu cầu, ra lệnh như thường thấy trong lớp học truyền thống.  Cấu trúc lớp học rõ ràng, hợp lý Học tập theo hình thức e-learning hiện nay khá mới mẻ so với các em HS THPT. Khi HS có khả năng truy cập cùng lúc khá nhiều thông tin trong lớp học cũng là lúc các em dễ bối rối, lạc hướng vì không biết cách sử dụng chúng theo tuần tự nào cho tốt nhất. Nhằm giúp các em HS tiếp xúc với lớp học một cách dễ dàng và khoa học nhất, lớp học được cấu trúc theo từng bài. Trong mỗi bài, các mục được xếp tuần tự theo từng mục đích hỗ trợ từ thấp là những nội dung, những kĩ năng đơn giản, đến cao, là những nội dung lý thuyết, bài tập, bài kiểm tra phức tạp hơn, giúp cho hoạt động tự học của các em được thuận lợi hơn. Bên cạnh việc sắp xếp tuần tự các nội dung một cách hợp lý, ngay từ đầu khi truy cập vào LHVLTT, HS sẽ được hướng dẫn về cách sử dụng các phần, các mục nhỏ có trong lớp học sao cho hiệu quả nhất.  Tổ chức, phân cấp, phân công công việc rõ ràng nhằm đảm bảo đúng chức năng hỗ trợ của lớp học LHVLTT được tổ chức một cách hợp lý với các quyền và khả năng phân cấp, phân công công việc rõ ràng. Ngoài admin của trang, GV là người duy nhất có thể chỉnh sửa hay chuyển đổi các nội dung của khoá học. GV cũng là người duy nhất có thể chặn hoặc gán các quyền cho những thành viên tham gia vào lớp học, … Các hoạt động trên lớp học trực tuyến đều bị ảnh hưởng bởi chính các tác động của GV. Tuy nhiên do không phải lúc nào GV cũng có khả năn trực tuyến để hướng dẫn, trả lời câu hỏi của các em nên sẽ có thêm những “trợ giảng” cho lớp học. Những “trợ giảng” này thực tế là các cán sự môn trong lớp học truyền thống. Những HS này có khả năng tương đối tốt trong học tập, yêu thích môn vật lý và có khả năng khai thác, sử dụng các ứng dụng trên Internet, được phân công hỗ trợ cho việc học của các bạn khác trên LHVLTT. Trợ giảng có quyền trả lời, quản lý học viên, xem tất cả thông tin có trên nhưng không có quyền thêm hay xoá các nội dung. Các em này sẽ trực tuyến trên lớp học trong một khoảng thời gian nhất định nhằm đưa những câu trả lời nhanh nhất có thể được đến thành viên khác trong lớp.  Khai thác triệt để khả năng hỗ trợ truyền tải thông tin đa dạng, trực quan hóa các hiện tượng Khả năng truyền tải thông tin đa dạng, trực quan là một trong những điểm mạnh của lớp học. Với các tài liệu được trình bày trên giấy như SGK, loại sách và tài liệu tham khảo khác thì những hiện tượng, thí nghiệm vật lý được mô tả bằng lời hoặc bằng các hình ảnh tĩnh. HS phải đọc kỹ mô tả, quan sát hình vẽ và hình dung đến quá trình thí nghiệm cùng với kết quả mà nó đem lại. Điều này phần nào làm giảm bớt sự hứng thú của HS đối với nội dung đang được đề cập. Tận dụng ưu thế của công nghệ truyền thông cùng với sự phát triển mạnh của công nghệ đồ hoạ. Ở LHVLTT, các thí nghiệm được trình bày dưới dạng file video clip, flash nhằm giúp các em HS nhanh chóng nắm bắt được các bước tiến hành thí nghiệm, làm cho bài giảng thêm sinh động và hiệu quả. Các kiến thức, các hiện tượng được xây dựng trực quan tối đa nhằm thông qua thị giác giúp các em khắc sâu hơn những kiến thức mà bài học đem đến. 2.4. Cấu trúc của lớp học Hiện nay trên thế giới có khá nhiều trường học đã nghiên cứu các hướng học tập khác nhau, trong đó có hình thức học tập trực tuyến e-learning nhưng không có trường nào được độc quyền thiết kế các tài liệu học tập trực tuyến. Cũng giống vậy, hiện tại không có một lý thuyết duy nhất nào về học tập trực tuyến để chúng ta làm theo [43]. Do đó tôi đã sử dụng một sự kết hợp các lý thuyết này để phát triển các tài liệu học tập Nhằm đảm bảo hỗ trợ toàn diện nhất cho hoạt động tự học của HS, nội dung của LHVLTT được cấu trúc theo bài, mỗi bài lại được phân chia thành các mục lớn có thể kể đến là : Lý thuyết, Bài tập, Kiểm tra, Vật lý và đời sống, Diễn đàn học tập. Mục “Lý thuyết” được bắt đầu bằng sơ đồ nhằm hệ thống hoá bài học. Sơ đồ này không những chỉ ra cấu trúc và nội dung các mục có trong bài học mà còn giúp cho HS nhận thấy vị trí, vai trò của bài học trong chương. Đây là một trong những bước giúp em các hệ thống hoá lại nội dung các bài học một cách cụ thể nhất. Sau khi đã có được cái nhìn tổng thể về cấu trúc bài lý thuyết sẽ học, HS được tiếp cận với nội dung cụ thể của bài cùng với các hiện tượng, các thí nghiệm, … được mô tả trực quan, ngắn gọn giúp các em nắm sơ qua những nội dung bài học. Ở phần nội dung cụ thể của bài, ngoài nội dung bằng tiếng Việt được trình bày ngắn gọn theo từng mục nhỏ, một số ý nghĩa các kí hiệu (ví dụ, vận tốc v, gia tốc a, gia tốc trọng trường g, …), các lực phổ biến (ví dụ như lực ma sát, lực đàn hồi, lực hấp dẫn,…) và các định luật (ví dụ như các định luật Newton, định luật Hooke) còn được nêu ra bằng tiếng Anh với mục đích giúp HS làm quen dần với việc tiếp xúc với ngoại ngữ trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, giúp cung cấp cho các em một số vốn từ tiếng Anh cơ bản trong bộ môn vật lý. Qua đó tạo điều kiện cho các em có thể tự tìm kiếm các nguồn thông tin liên quan đến nội dung đang học ở những trang web nước ngoài bằng việc dùng các từ khoá thích hợp. Đây cũng là cách giúp các em mở rộng và củng cố hơn nữa những kiến thức mình đang có. Mục “Vật lý và đời sống – Thí nghiệm vật lý” được đưa ra ngay sau đó như một góc thư giãn, vừa học, vừa chơi. Đang học mà như đang thư giãn. Đang thư giãn mà lại là đang học. Các em sẽ tìm được những hiện tượng, những ứng dụng của đời sống, những câu chuyện vui có liên quan đến nội dung bài học. Các em sẽ được học lại những kiến thức lý thuyết của bài một cách đơn giản, nhẹ nhàng. Mục này vừa cho HS thấy sự hiện diện phong phú của vật lý trong đời sống hằng ngày để từ đó các em sẽ tìm thấy được động lực cho môn học, vừa là một cách giúp các em nhớ bài học sâu sắc hơn. Đồng thời mục này cũng đóng vai trò như một cú hích nhẹ nhàng, tạo sự hứng thú cho các em tìm hiểu các phần khó khăn và “khô khan” hơn ở các mục bên dưới. Bên cạnh đó, với đặc điểm là môn khoa học thực nghiệm nên trên LHVLTT các thí nghiệm cũng được quan tâm đúng mức. Các thí nghiệm nhỏ, dễ thực hiện với các vật dụng thông thường có sẵn trong tầm tay được giới thiệu đến HS nhằm kích thích đến hứng thú tìm tòi khám phá ở HS, nhờ đó mà HS hiểu sâu hơn các khái niệm, các nguyên lí vật lý (ví dụ như thí nghiệm dựa vào quán tính để phân biệt trứng còn sống và trứng đã luộc chín, thí nghiệm về lực quán tính li tâm, …). Trong trường hợp thí nghiệm phức tạp hơn, cần đến nhiều thiết bị được trang bị riêng cho phòng thí nghiệm, LHVLTT sử dụng các ứng dụng của multimedia đưa các thí nghiệm này đến các em HS bằng những đoạn video minh họa hoặc những đoạn flash sinh động. Mục “Bài tập” được đưa ra nhằm giúp HS vận dụng ngay các nội dung lý thuyết vừa học và rèn luyện các kĩ năng phù hợp. Mục này chia làm 2 phần. Phần Bài tập mẫu, bài tập tương tự và phần Bài tập nâng cao. Phần bài tập mẫu là phần hướng dẫn cụ thể của GV về hướng suy nghĩ, cách làm và từng bước làm cụ thể cho từng dạng bài. Để phần hướng dẫn giải không quá đơn điệu, dài dòng, và cũng giúp cho HS nắm được tuần tự các bước, toàn bộ phần này được làm bằng Power Point. Với những chú thích rõ ràng và hiệu ứng phù hợp, HS có thể load các file này về để xem lại các bước phân tích và thực hiện để từ đó tự mình vận dụng các hướng dẫn này vào các bài toán tương tự đã được nêu ra. Phần Bài tập nâng cao với những bài toán tương đối phức tạp được dành cho đối tựơng HS khá giỏi, giúp các em nâng cao hơn nữa khả năng hiện có của mình. Đồng thời đây cũng có thể xem như một thách thức giúp các em khám phá ra năng lực của bản thân khi giải quyết các vấn đề mà những bài toán nêu ra. Mục “Kiểm tra” được nêu ra dựa trên các mức độ nhận thức từ thấp lên cao dần. Kiểm tra lần 1, chỉ bao gồm những câu hỏi Đúng-Sai giúp HS nhớ lại phần lý thuyết vừa học qua. Kết quả của lần kiểm tra này vừa giúp các em nhanh chóng nhớ lại những kiến thức vừa tự học học được trên LHVLTT, vừa giúp các em nhận ra những điểm sai lầm mà các em vướng phải trong quá trình tiếp thu kiến thức của bài. Kiểm tra lần 2, bao gồm hệ thống các câu hỏi trắc nghiệm 4 lựa chọn từ cấp độ Biết đến cấp độ Vận dụng. Lần kiểm tra này nhằm giúp các em ôn lại bài cũ trước khi tiếp cận với nội dung bài mới nên nội dung kiểm tra chỉ giới hạn trong một bài. Phần kiểm tra này thường được các em tự tiến hành sau giờ học trên lớp, nhưng các em hoàn toàn có thể tự làm trứơc ở nhà để có thể tự phát hiện thêm một số vấn đề hơi phức tạp mà phần Kiểm tra lần 1 không đề cập đến. Phần Kiểm tra lần 3 có thể xem như bài kiểm tra 15’ online. Kiến thức mà lần kiểm tra này hướng đến là kiến thức tổng hợp của một nhóm bài xác định. Như vậy, hệ thống các bài kiểm tra được đưa ra khá phong phú với nhiều cấp độ khó dễ khác nhau nhằm giúp HS liên tục kiểm tra, vận dụng kiến thức của mình vào các vấn đề cụ thể một cách thường xuyên, liên tục. Mục này không chỉ giúp cho HS biết về khả năng hiện có của bản thân so với yêu cầu mà hơn thế nữa đa số các câu trả lời sai đều có lời nhận xét, hướng dẫn tự hệ thống giúp cho các em nhận biết sai lầm của mình trong mỗi câu. Bên cạnh đó, số liệu từ các bài kiểm tra của các em đều đều hệ thống ghi nhận và báo lại với GV. Các thông tin phản hối quý giá này giúp GV biết được những sai lầm, những khó khăn mà các em gặp phải để sớm đưa ra các giải pháp giúp đỡ thích hợp. Tất cả các thắc mắc của HS trong quá trình tự học với những nội dung được cung cấp trên LHVLTT sẽ được đưa lên ở mục “Diễn đàn”. GV là người trực tiếp điều hành các diễn đàn này, cán sự môn đóng vai trò hỗ trợ GV trong việc trả lời các câu hỏi của những thành viên khác. Việc thường xuyên có các cán sự môn online sẽ giúp cho các thành viên trong lớp học nhanh chóng có được câu trả lời. Những câu trả lời này sẽ được GV xác nhận hoặc làm rõ thêm ngay khi online. Ngoài cán sự môn, các thành viên khác của lớp học hoàn toàn có thể tham gia trả lời theo ý kiến của bản thân. Việc bàn luận xung quanh một vấn đề cụ thể sẽ giúp cho các thành viên hiểu rõ hơn những kiến thức có trong bài học. Trong mục này, GV đưa sẵn một số vấn đề cơ bản như là những gợi ý đầu tiên giúp các em thảo luận các vấn đề khác có trong bài. Để các HS có dịp rèn luyện khả năng tìm và giải quyết các vần đề, ngoài các diễn đàn nêu những thắc mắc liên quan đến nội dung bài học, GV còn lập ra những diễn đàn với những vấn đề nêu ra mang tính chất ngụy biện. Các kết quả sai được lập luận như đúng, các kết quả đúng lại được diễn giải sai. Những diễn đàn này được GV lưu ý trước khi truy cập vào đây HS cần đảm bảo đã hiểu khá kỹ và vững các kiến thức cơ bản, nếu không các em sẽ rất dễ bối rối trước những lập luận tưởng chừng như đúng mà diễn đàn nêu ra. Toàn bộ cấu trúc nội dung có trong LHVLTT được thể hiện qua sơ đồ sau : HỆ THỐNG HÓA BÀI HỌC Hình 2.1. Sơ đồ mô tả cấu trúc của LHVLTT LỚP HỌC VẬT LÝ TRỰC TUYẾN VẬT LÝ và ĐỜI SỐNG – TN VẬT LÝ - Các ứng dụng, hiện tượng thường gặp trong đời sống - Các kiến thức, số liệu thực tế bên ngoài. - Những thí nghiệm vui, đơn giản có thể làm ngay tại nhà. DIỂN ĐÀN HỌC TẬP - Trao đổi các vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập : từ lý thuyết, bài tập, kiểm tra đến

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf89977LVVLPPDH041.pdf
Tài liệu liên quan