Tài liệu Luận văn Xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc Giang hiện nay: LUẬN VĂN:
Xây dựng đạo đức cách mạng cho
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều
kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc
Giang hiện nay
mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, đạo đức đã sớm xuất hiện trong lịch sử
loài người và khẳng định vai trò to lớn trong việc đảm bảo sự ổn định, phát triển của mỗi
chế độ xã hội. Chính vì vậy, việc xây dựng đạo đức của con người nói chung, cán bộ lãnh
đạo nói riêng là vấn đề mà mọi chế độ xã hội từ trước tới nay đều quan tâm.
Để lãnh đạo quản lý nhà nước, thúc đẩy đất nước phát triển theo mục tiêu của
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, người cán bộ cách mạng phải có cả đức lẫn tài, trong
đó đức là gốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài ...
98 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1327 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc Giang hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Xây dựng đạo đức cách mạng cho
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều
kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc
Giang hiện nay
mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, đạo đức đã sớm xuất hiện trong lịch sử
loài người và khẳng định vai trò to lớn trong việc đảm bảo sự ổn định, phát triển của mỗi
chế độ xã hội. Chính vì vậy, việc xây dựng đạo đức của con người nói chung, cán bộ lãnh
đạo nói riêng là vấn đề mà mọi chế độ xã hội từ trước tới nay đều quan tâm.
Để lãnh đạo quản lý nhà nước, thúc đẩy đất nước phát triển theo mục tiêu của
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, người cán bộ cách mạng phải có cả đức lẫn tài, trong
đó đức là gốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to
tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn
làm nổi việc gì?" [49, tr.253].
Thực tế cho thấy, sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đất nước đang chuyển mình và tiếp tục đạt được
những thành tựu to lớn, góp phần vào những thắng lợi ấy, phải kể đến ý nghĩa của việc
xây dựng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ cách mạng nói
chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng. Bởi lẽ, họ là những người cán
bộ trực tiếp tiếp xúc, lãnh đạo và phục vụ nhân dân trong việc vận dụng, thực hiện
những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ở cơ sở. Tuy nhiên,
bên cạnh mặt tích cực thì với mặt trái của nền KTTT, cùng với sự chống phá của các
thế lực thù địch và sự yếu kém trong công tác giáo dục tư tưởng, lý luận, rèn luyện
đạo đức cách mạng trong những năm vừa qua ở nước ta đã dẫn tới "Tình trạng tham
nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng" [20, tr.16]. Đáng chú ý là sự suy thoái về phẩm
chất này trong cán bộ vẫn đang có chiều hướng gia tăng làm xói mòn bản chất cách
mạng của đội ngũ cán bộ, cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, làm
giảm uy tín của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân, ảnh hưởng
xấu đến sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc, tạo thành nguy cơ lớn đe dọa sự sống
còn của chế độ ta. Tình hình tư tưởng đạo đức ở đội ngũ cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở của tỉnh Bắc Giang cũng không nằm ngoài cái chung đó. Vì vậy, việc
tiếp tục khẳng định vai trò và xây dựng đạo đức cách mạng ở người cán bộ nói chung
và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng lại càng nổi lên đặc biệt quan trọng
trong giai đoạn hiện nay.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu vấn đề Xây dựng đạo đức cách mạng cho
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc Giang hiện
nay là việc làm hết sức cơ bản và cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng nói chung và xây dựng đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói riêng trong điều kiện KTTT ở nước ta đã thu
hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Cho đến nay đã có nhiều công
trình được công bố với những mức độ, cách tiếp cận khác nhau, trong đó có những
công trình có liên quan trực tiếp đến đề tài như:
* Về đạo đức cách mạng có:
- "Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng", Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976.
- "Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới", Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983.
- "Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cách mạng", Nxb Thông tin lý luận,
Hà Nội, 1986.
- "Nâng cao đạo đức cách mạng theo gương Bác Hồ vĩ đại", Tạp chí Cộng sản,
số 5-1988.
- "Tư tưởng đạo đức cách mạng - truyền thống, dân tộc, nhân loại", Vũ Khiêu
(chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993.
* Về đạo đức cách mạng đối với cán bộ trong điều kiện KTTT hiện nay:
- "Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cán bộ", Đức Vượng, Nxb CTQG, Hà Nội,
1995.
- "Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh",
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, Thang Văn Phúc (chủ biên).
- "Những vấn đề đạo đức trong điều kiện KTTT", Viện Thông tin khoa học xã
hội, Hà Nội, 1996.
- "Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện KTTT ở nước ta hiện nay", Nguyễn Trọng
Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên), Nxb CTQG, Hà Nội, 2003.
- "Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền KTTT với việc xây dựng đạo
đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay", Nguyễn Chí Mỳ, Nxb Quốc gia Hà Nội,
1999.
- "Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện đạo đức cán bộ đảng viên", Phạm Quốc
Thành, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004.
* Một số luận án, luận văn có liên quan đến đề tài:
- "Sự hình thành đạo đức XHCN trong điều kiện quá độ lên CNXH bỏ qua giai
đoạn phát triển TBCN", Nguyễn Ngọc Long, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 1982.
- "Vấn đề đạo đức cách mạng của người cán bộ hậu cần quân đội nhân dân Việt
Nam trong điều kiện hiện nay", Hà Nguyên Cát - Luận án tiến sĩ triết học, 2000.
- "Quan hệ cá nhân - xã hội trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề giáo
dục đạo đức cách mạng cho cán bộ quản lý lãnh đạo hiện nay", Phạm Huy Kỳ, Luận án
tiến sĩ triết học, 2001.
- "Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên cơ sở hiện nay", Dương Xuân Lộc, luận văn thạc sĩ triết học, 2001.
- "Vấn đề xây dựng đạo đức cho cán bộ cơ sở trong điều kiện KTTT ở Việt Nam
hiện nay (qua thực tế tỉnh Thái Bình)", Đặng Thanh Giang, Luận văn thạc sĩ triết học,
2001.
- "Vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cơ sở ở tỉnh
Đăk Lăk trong điều kiện KTTT hiện nay", Nguyễn Tuyên Quang, Luận văn thạc sĩ triết
học, 2003...
Vấn đề đạo đức cách mạng và vai trò của nó trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay là vấn đề rộng lớn và phức tạp, cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Đặc biệt là
vấn đề đạo đức của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Giang cũng chưa có công trình nào
đề cập một cách có hệ thống dưới góc độ triết học, vì thế chúng tôi chọn đề tài "Xây
dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị
trường ở tỉnh Bắc Giang hiện nay" để viết luận văn thạc sĩ triết học.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn:
Từ thực tế tỉnh Bắc Giang, luận văn phân tích thực trạng đạo đức của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện KTTT hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ này.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Trình bày tầm quan trọng, nội dung và yêu cầu của đạo đức cách mạng đối với
người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng đạo đức của người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện
KTTT hiện nay ở tỉnh Bắc Giang và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang hiện nay.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Luận văn không nghiên cứu tất cả những đối tượng cán bộ lãnh đạo, cũng không
nghiên cứu tất cả các phẩm chất của người cán bộ lãnh đạo theo yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới, mà chỉ nghiên cứu về phẩm chất đạo đức cách mạng và vai trò của nó với hoạt
động của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang.
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những người làm công tác Đảng, chính quyền, mặt
trận, đoàn thể ở cơ sở (xã, phường, thị trấn) bao gồm các chức danh như: Bí thư, phó Bí
thư Đảng ủy; Chủ tịch, phó Chủ tịch ủy ban nhân dân; Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ
tịch Mặt trận và các đoàn thể chính trị khác (Theo Nghị định số 9/1998/NĐ-CP ngày 23
tháng 01 năm 1998).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và đạo đức cách mạng,
xây dựng đạo đức cho người cán bộ cách mạng nói chung và người cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp cơ sở nói riêng.
- Luận văn còn sử dụng những tài liệu của các cấp ủy Đảng và chính quyền ở
tỉnh Bắc Giang liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, điều tra,
thống kê đã được sử dụng... để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đã đề ra.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ thực trạng đạo đức của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều
kiện kinh tế thị trường ở Bắc Giang hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh Bắc Giang hiện nay.
7. ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chiến
lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để giảng dạy môn triết học Mác - Lênin
nói chung và phần đạo đức học nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
Đạo đức cách mạng, tầm quan trọng, nội dung và yêu cầu
của việc xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở việt nam hiện nay
1.1. đạo đức và sự biến đổi của đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay
1.1.1. Đạo đức và đạo đức cách mạng
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là Mos - lề thói (morolia) - nghĩa
là có liên quan với lề thói, đạo nghĩa. Còn luân lý được xem như đồng nghĩa với đạo
đức có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos - lề thói, tập tục. Khi nói đến đạo đức là nói đến
lề thói và tập tục, biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người trong sự giao
tiếp với nhau hàng ngày. Sau này người ta thường phân biệt hai khái niệm: Mozal là
đạo đức, còn ethicos là đạo đức học.
ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại xuất
hiện sớm, lần đầu tiên xuất hiện trong "Kim văn" đời nhà Chu và từ đó trở đi nó được
người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều để chỉ những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc
sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Quan điểm duy tâm tôn giáo coi đạo đức là những nguyên tắc, những chuẩn mực
được rút ra từ trong đầu óc thiếu cơ sở thực tiễn lịch sử, chẳng hạn như thượng đế, ý niệm
tuyệt đối, tự ý thức, hoặc một bản tính người trừu tượng nào đó,... rồi đem áp đặt vào đời
sống hiện thực của con người.
Với thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, dựa trên sự kế thừa có
chọn lọc những quan niệm về đạo đức trước đó, đồng thời đặt nền tảng khoa học cho một
nền đạo đức mới - đạo đức cộng sản chủ nghĩa, quan điểm mác xít cho rằng: đạo đức là
sản phẩm của điều kiện kinh tế - xã hội, trong đó nhân tố quy định đạo đức là các quan hệ
kinh tế, lợi ích là cái chi phối trực tiếp, là cơ sở khách quan của đạo đức, "... lợi ích hiểu
một cách đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức". Dưới góc độ nhận thức luận, đạo
đức là một hiện tượng tinh thần, một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, là tính thứ hai
so với tồn tại xã hội. Tính chất đặc biệt của đạo đức thể hiện trong quá trình hình thành
các quy tắc đạo đức, đó là do sự thừa nhận của số đông trong xã hội hay sự thừa nhận của
một giai cấp nhất định.
Dưới góc độ chức năng, đạo đức điều chỉnh hành vi của con người bằng những
chuẩn mực và quy tắc đạo đức theo yêu cầu của xã hội. Mục đích là nhằm đảm bảo lợi
ích chung của xã hội hay lợi ích cơ bản của giai cấp đã đề ra chuẩn mực, quy tắc đạo đức
ấy. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận thức thông qua
sự phản ánh tồn tại xã hội. Qua đó đem lại tri thức, ý thức đạo đức cho chủ thể, hình
thành đạo đức cá nhân và trở thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi, hiện thực hoá
đạo đức. Với chức năng giáo dục, đạo đức giúp cho con người hình thành những quan
điểm, nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực cơ bản để đánh giá hành động đạo đức xã hội và
những hành vi đạo đức của bản thân mỗi con người.
Cách tiếp cận thứ ba là xem xét đạo đức với tính cách là hệ giá trị. Sự hình thành,
phát triển và hoàn thiện hệ thống giá trị đạo đức không tách rời sự phát triển và hoàn
thiện của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù hợp với
sự phát triển, tiến bộ thì hệ thống ấy sẽ mang tính tích cực, mang tính nhân đạo. Ngược lại,
hệ thống ấy sẽ là tiêu cực, phản động, phản nhân đạo nếu nó đi ngược lại với sự phát triển, sự
tiến bộ.
Như vậy, "Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy
tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ
với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống
và sức mạnh của dư luận xã hội" [26, tr.8].
Là yếu tố cốt lõi của tính cách con người, đạo đức có vai trò hết sức quan trọng
trong đời sống xã hội, là một trong những phương thức cơ bản để điều chỉnh hành vi con
người, làm cho cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển. Chính vì thế mà các giai cấp,
các tập đoàn xã hội tiến bộ, cách mạng bao giờ cũng xem đạo đức như là một trong
những công cụ cơ bản, động lực nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Có thể nói, lịch sử tư tưởng nhân loại cũng là lịch sử phát triển của đạo đức. Đạo
đức xã hội nguyên thủy dựa trên nguyên tắc về sự bình đẳng, hợp tác, nhưng ở trình độ rất
thấp, đạo đức còn mang tính sơ khai, song nó có ý nghĩa là tiền đề cho sự hình thành và phát
triển đạo đức sau này. Kế tiếp đạo đức xã hội nguyên thủy là các kiểu đạo đức của xã hội
chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản và sau nó là đạo đức mới - đạo đức
cộng sản chủ nghĩa. Đây là những nấc thang phát triển về chất trong lịch sử đạo đức nhân
loại.
1.1.1.2. Đạo đức cách mạng
Về mặt lịch sử, đạo đức mới đã tồn tại và phát triển trước khi tồn tại xã hội
XHCN, nó được hình thành từ cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân chống
lại giai cấp tư sản, nhằm thiết lập địa vị thống trị của mình. Chính nội dung của cuộc đấu
tranh đó quy định sự phát triển nội dung của đạo đức mới. Trong quá trình xây dựng
CNXH, đạo đức mới của giai cấp vô sản ngày càng trở thành đạo đức chung của nhân
dân. Và trong tương lai trở thành đạo đức chung của nhân loại là đạo đức cộng sản sau
khi đã qua giai đoạn trung gian của nó là đạo đức XHCN.
Để nhấn mạnh vai trò nhân tố tinh thần của đạo đức mới góp phần vào thắng lợi
của cách mạng XHCN; để phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam; trong luận văn
này chủ yếu sử dụng khái niệm "đạo đức cách mạng" theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí
Minh.
"Đạo đức cách mạng" theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là đạo đức mới - đạo đức cộng
sản chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đạo đức cách mạng theo Hồ Chí Minh, không những khác mà còn đối lập với đạo
đức của các giai cấp bóc lột thống trị xã hội. Đạo đức cách mạng được nảy sinh, tồn tại và
phát triển trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; nó được hình thành, phát triển
cùng với quá trình vận động, phát triển sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Đồng thời nó kế
thừa và phát triển tinh hoa đạo đức truyền thống dân tộc và của nhân loại. Đặc biệt là đạo
đức Mác - Lênin.
Đạo đức cách mạng Việt Nam được hình thành, phát triển gắn liền với thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Nó là sự phản ánh quá trình đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân, nông dân và các tầng lớp tiến bộ khác nhằm giành độc lập dân tộc và đưa đất nước
đi lên xây dựng CNXH. Vì vậy, tiếp cận khái niệm "đạo đức cách mạng", cũng cần phải
xem xét dưới góc độ nhận thức luận, chức năng cơ bản và giá trị nhân cách. Cũng như
các hệ thống lý luận đạo đức khác, lý luận đạo đức cách mạng là kết quả của sự phản ánh
tồn tại xã hội. Nhưng với tính cách là trình độ phản ánh cao nhất của ý thức đạo đức -
một hình thái ý thức xã hội đặc biệt - lý luận đạo đức phản ánh bản chất của tồn tại xã hội
mà cụ thể là các quan hệ sản xuất, biểu hiện ra là các quan hệ lợi ích. Cho nên đạo đức
cách mạng kế thừa đặc điểm chung của hệ thống lý luận đạo đức trong lịch sử, phản ánh
quan hệ lợi ích các giai cấp, các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Sự khác nhau căn bản
giữa đạo đức cách mạng với các kiểu đạo đức trước đây được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, đạo đức cách mạng mang tính cách mạng và khoa học.
Đạo đức cách mạng là đạo đức phản ánh lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân,
mang bản chất giai cấp công nhân, giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đi đến thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và đi lên
CNXH. Mục tiêu lý tưởng đó phù hợp với quy luật vận động phát triển của lịch sử xã hội,
đồng thời phù hợp với quy luật tiến bộ của đạo đức nhân loại, vì nó hướng tới mục tiêu
giải phóng triệt để con người khỏi sự áp bức bất công trong xã hội. C.Mác đã từng nhấn
mạnh: "phải lật đổ tất cả những quan hệ biến con người thành một sinh vật bị làm nhục,
bị nô dịch, bị bỏ rơi, bị khinh rẻ" [44, tr.581]. Mặt khác chính sự nghiệp cách mạng của
giai cấp công nhân đòi hỏi lý luận nói chung và lý luận đạo đức nói riêng phải đạt đến
trình độ khoa học mới đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cải tạo xã hội do giai cấp công
nhân và nhân dân lao động tiến hành.
Tính cách mạng và khoa học của lý luận đạo đức cách mạng không chỉ thể hiện ở sự
phản ánh sáng tạo thực tiễn cách mạng Việt Nam với tư cách là nguồn gốc chủ yếu của nó, mà
còn thể hiện ở sự phê phán, chọn lọc, kế thừa tinh hoa truyền thống đạo đức của dân tộc và nhân
loại trong quá trình hình thành và phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khái quát: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó
là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Jêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ
nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có
ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta... Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ
của các vị ấy" [67, tr.92].
Tư tưởng đó đã thể hiện thái độ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với các di sản tư
tưởng trong lịch sử. Nắm vững phép biện chứng duy vật của Mác, dựa trên cơ sở thực
tiễn cách mạng Việt Nam, Người đã có thái độ khoa học và cách mạng đối với đạo đức
cũ trong việc kế thừa, cải biến những yếu tố hợp lý góp phần hình thành nên lý luận về
đạo đức cách mạng ở Việt Nam.
Sự khác nhau giữa các kiểu đạo đức không phải ở hình thức ngôn ngữ mà thực
chất là ở nội dung - kết quả của sự phản ánh hiện thực đạo đức chứa đựng trong ngôn ngữ
với tư cách là hình thức biểu hiện của nó. Nội dung cơ bản của đạo đức cách mạng được
thể hiện ở: chủ nghĩa tập thể, lao động tự giác sáng tạo, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với
chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa nhân đạo XHCN... Trong các nội dung đó, đạo đức cách
mạng thể hiện rõ tính chất cách mạng và khoa học, là tiêu chí quan trọng để phân biệt sự
khác nhau căn bản giữa đạo đức cách mạng với các kiểu đạo đức trước đây bao gồm: đạo
đức trong xã hội nguyên thủy, đạo đức trong xã hội chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến,
đạo đức tư sản, đạo đức tiểu tư sản, đạo đức tôn giáo... Bởi vì, khi xem xét phẩm chất đạo
đức là xem xét ở khía cạnh tốt - xấu, tích cực - tiêu cực, thiện - ác, cao thượng hay thấp
hèn... tức là thẩm định giá trị. Khác với các hệ giá trị đạo đức cũ, đạo đức cách mạng là
hệ giá trị đạo đức tiên tiến, phù hợp với sự phát triển, sự tiến bộ của con người và xã hội.
Thực tiễn cách mạng nước ta cũng đã khẳng định những giá trị đạo đức của xã hội Việt
Nam hơn nửa thế kỷ qua. Mặc dù tính cách mạng và khoa học của đạo đức cách mạng
được thể hiện trong hệ thống những nguyên tắc cơ bản trên, song nó không mang tính cố
định, giáo điều mà đòi hỏi phải được bổ sung, phát triển cho phù hợp với sự vận động của
thực tiễn cách mạng. ở mỗi thời kỳ, giai đoạn khác nhau của cách mạng, trên cơ sở những
nguyên tắc cơ bản của đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã bổ sung,
phát triển những nội dung cụ thể. Từ "tư cách người cách mệnh" đến "đạo đức cách
mạng" rồi đến "Di chúc" coi như những cột mốc đánh dấu sự phát triển về nội dung đạo
đức cách mạng, làm cho nội dung ấy ngày càng đúng đắn, sâu sắc và phong phú hơn.
Tính cách mạng và khoa học của lý luận đạo đức cách mạng còn được thể hiện ở chiến
lược và sách lược nhằm hiện thực hóa những yêu cầu của đạo đức cách mạng trong đời
sống thực tiễn, biến nó thành phẩm chất nhân cách của người cách mạng trong đời sống
thực tiễn. Đó là thông qua giáo dục và rèn luyện từ thực tiễn cách mạng, bằng đấu tranh
tự phê bình và phê bình, xây đi đôi với chống, nêu gương về đạo đức thông qua "người
tốt việc tốt"... Chính bằng phương pháp đó mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tạo
nên một thế hệ những người cách mạng với những tấm gương sáng ngời về đạo đức trong
sự nghiệp đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.
Thứ hai, đạo đức cách mạng ra đời từ thực tiễn, nhằm đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn đấu tranh giành độc lập dân tộc, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, đạo
đức cách mạng là đạo đức mang tính thực tiễn có chức năng chỉ đạo hành vi, cải tạo xã
hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã
hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc
đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ
vẻ vang" [52, tr.282-293]. Như vậy, đạo đức cách mạng chính là cơ sở đảm bảo cho hoạt
động "cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới" của người cách mạng. Chức năng chỉ đạo hành
vi trong hoạt động cải tạo xã hội của đạo đức cách mạng là một đặc trưng cơ bản để phân
biệt với đạo đức duy tâm, tôn giáo và đạo đức của các giai cấp thống trị bóc lột đã có
trong lịch sử. Trong chừng mực nhất định, đạo đức duy tâm, tôn giáo là đạo đức thể hiện
sự bất lực của con người, nó không những không chống lại sự thống trị tàn bạo của bọn
bóc lột mà còn bào chữa, che đậy cho những hành vi vô đạo đức của kẻ đi áp bức, bóc
lột. Chức năng chỉ đạo hành vi trong hoạt động cải tạo xã hội của đạo đức cách mạng
cũng khác về chất so với đạo đức của giai cấp thống trị phản động, là thứ đạo đức trói
buộc con người trong vòng cương tỏa của những khuôn phép bảo vệ cho lợi ích cơ bản
của thiểu số người thống trị, chà đạp lên lợi ích của đa số người lao động. Tính thực tiễn
của đạo đức cách mạng phải là "công cụ phá hoại xã hội cũ của kẻ bóc lột, và đoàn kết
toàn thể quần chúng lao động chung quanh giai cấp vô sản là người sáng lập ra xã hội
mới của người cộng sản" [43, tr.369-371]. Đạo đức cách mạng hướng con người, trước
hết là những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc
đấu tranh xóa bỏ trật tự xã hội cũ của bọn thực dân phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc
và xây dựng một xã hội mới - xã hội XHCN ở Việt Nam. Do đó tính tiên phong, tinh thần
xóa bỏ cái lạc hậu, xây dựng cái mới là đặc trưng nổi bật của đạo đức cách mạng.
Thứ ba, đạo đức cách mạng là sự thống nhất hữu cơ giữa phẩm chất chính trị và
phẩm chất đạo đức.
Sự thống nhất giữa phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức bắt nguồn từ nhiệm
vụ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Đây vừa là mục tiêu lý tưởng chính trị, vừa là
mục tiêu lý tưởng đạo đức của giai cấp công nhân Việt Nam. Sự thống nhất đó được thể
hiện sinh động ở nhân cách Hồ Chí Minh, cả cuộc đời của Người, toàn bộ động cơ, ý chí
và hành động đều vì quyền lợi của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân và góp phần vào
sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người mà trước hết là những người cùng khổ, bị áp
bức, bóc lột.
Ngay từ khi bước vào con đường cách mạng, Hồ Chí Minh đã ý thức rất rõ ràng
và sâu sắc vai trò của đạo đức cách mạng đối với sự nghiệp cách mạng. Người coi đạo
đức cách mạng là gốc, là nền tảng của người cách mạng: "Cũng như sông thì có nguồn
mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Người cách mạng phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [49, tr.252-253]. Người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng. Đạo đức cách mạng phải chuyển hóa thành phẩm chất nhân cách của người cách
mạng, giữ vị trí là yếu tố cơ bản của nhân cách. Chỉ như vậy, đạo đức cách mạng mới thể
hiện được vai trò cải tạo xã hội thông qua hoạt động của con người với tư cách là chủ thể
cách mạng. Thực hiện sự chuyển hóa những yêu cầu của đạo đức cách mạng thành phẩm
chất nhân cách của người cách mạng, được Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng ngay từ
những năm 20 của thế kỷ XX, khi Người tiến hành đào tạo lớp cán bộ ở Quảng châu -
Trung Quốc nhằm chuẩn bị tiền đề cho cách mạng Việt Nam. Nội dung đào tạo được mở
đầu bằng "tư cách một người cách mệnh", trong đó Hồ Chí Minh quy thành ba vấn đề cơ
bản: Đối với mình, đối với người và đối với công việc. Trước hết đối với mình, người cán
bộ cách mạng phải cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, kiên trì, ham học, không hiếu
danh, không kiêu ngạo, nói đi đôi với làm, trung thành với lý tưởng, hy sinh phấn đấu,
không tham lam, biết giữ bí mật. Đối với người, nghĩa là trong quan hệ với mọi người,
với đoàn thể, người cán bộ cách mạng phải thể hiện lòng vị tha, khoan dung, yêu thương,
ý thức kỷ luật, trách nhiệm. Đối với công việc, người cán bộ cách mạng phải có nguyên
tắc, sát thực tiễn, tinh thần kỷ luật, dũng cảm, quyết đoán. Người cán bộ cách mạng phải
có tư cách như vậy thì mới có thể tiếp nhận và vận dụng được đường lối cách mạng. "Tư
cách một người cách mệnh" là sự mở đầu cho việc xây dựng đạo đức cách mạng, biến
những yêu cầu của đạo đức cách mạng thành phẩm chất nhân cách của người cách mạng.
Theo góc độ giá trị - nhân cách, thì đạo đức cách mạng là hệ thống những phẩm
chất đạo đức tạo nên nền tảng nhân cách, cùng với năng lực là hai yếu tố cơ bản tạo lập
nên phẩm giá của người cán bộ cách mạng. Giá trị nhân cách của người cán bộ cách
mạng được thể hiện qua thái độ, hành vi đối với Đảng, đối với Tổ quốc, đối với cách
mạng, đối với nhân dân, đối với đồng chí, đối với gia đình, đối với bản thân và đối với kẻ
thù - đó là suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng... tận trung với nước, tận hiếu với
dân, ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng, hết lòng phục vụ giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Và vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình gương mẫu
trước mọi việc. Những phẩm chất đạo đức trên là cơ sở, điều kiện đảm bảo cho hoạt
động của người cách mạng đạt hiệu quả, chất lượng cao trong thực hiện nhiệm vụ,
đồng thời là cái tạo nên đặc trưng của đạo đức cách mạng, đó là sự thống nhất hữu cơ
giữa phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức.
Nhấn mạnh đức, nhưng Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn gắn chặt đức với tài, đó là
hai yếu tố cơ bản cấu thành nhân cách của người cách mạng. Hồ Chí Minh đã từng khẳng
định: "Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" [49, tr.273]. Cán bộ
tốt hay kém chính là chất lượng người cán bộ, trong đó bao gồm cả đạo đức cách mạng và
tài năng so với yêu cầu, nhiệm vụ. Thiếu một trong hai yếu tố cơ bản là đức hoặc tài, người
cán bộ cách mạng không thể thực hiện tốt được vai trò, chức năng xã hội của họ, bởi vì: "có
tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho nước. Có đức không có tài
như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai" [51, tr.184]. Như vậy, nhu cầu
khách quan của nhiệm vụ cách mạng đòi hỏi người cán bộ cách mạng phải có đức, đồng
thời phải có tài, phải vừa hồng vừa chuyên. Đó là điều kiện cơ bản đảm bảo cho người
cán bộ cách mạng hoàn thành vai trò, chức năng xã hội của họ, là người tổ chức và lãnh
đạo nhân dân làm cách mạng. Trong mối quan hệ biện chứng giữa đức và tài thì đức là
gốc, là nền tảng - theo nghĩa đạo đức cách mạng là cơ sở hướng đích của tài năng, đồng
thời là động lực, là sự thôi thúc nội tâm, thúc đẩy tài năng phát triển. Đạo đức cách mạng
làm cho mỗi người cán bộ hiểu rõ ý nghĩa giá trị của mỗi việc làm, của từng nhiệm vụ mà
họ được phân công đảm nhận, từ đó hướng toàn bộ tài năng, sức lực của mình để hoàn
thành. Đạo đức cách mạng còn đóng vai trò là động lực bên trong thôi thúc người cán bộ
không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của thực tiễn cách mạng. Tài năng là điều kiện cực kỳ quan trọng để hiện thực
hóa mục tiêu và lý tưởng của đạo đức. Thiếu tài năng, người cán bộ không có đủ điều
kiện, cơ sở khoa học để thể hiện đạo đức cách mạng trong thực tiễn.
Đạo đức cách mạng ở Việt Nam do Hồ Chí Minh khởi xướng và cùng Đảng ta
xây dựng, bồi dưỡng cho các thế hệ cách mạng nước ta. Xét về tính giai cấp và mục đích,
nó thống nhất với đạo đức của giai cấp vô sản, đạo đức cộng sản mà C.Mác, Ăngghen là
những người đặt nền móng và Lênin là người kế thừa, phát triển. Đạo đức cách mạng,
đạo đức cộng sản đều mang tính giai cấp công nhân. Mục đích cuối cùng là góp phần giải
phóng triệt để con người, trước hết là giai cấp công nhân và nhân dân lao động thoát khỏi
áp bức, bất công xã hội. Do vậy, nó là đạo đức trong hành động và cải tạo xã hội, khẳng
định phẩm chất cao quý của người lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng mình...
Lênin từng nhấn mạnh, đạo đức đó giúp loài người tiến lên cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột
lao động. Đạo đức cách mạng ở Việt Nam là một đặc thù của đạo đức cộng sản. Tính đặc thù
này được quy định bởi thực tiễn cách mạng Việt Nam, truyền thống đạo đức dân tộc và dấu
ấn sắc thái Hồ Chí Minh.
Đạo đức cách mạng được tiếp cận từ góc độ nhận thức luận, chức năng cơ bản và
giá trị nhân cách nổi lên những đặc trưng như đã phân tích trên - đó là những thành phần
cơ bản cấu thành nội hàm khái niệm đạo đức cách mạng, là cơ sở để luận văn đưa ra quan
niệm về đạo đức cách mạng như sau:
Đạo đức cách mạng là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh thực tiễn cách mạng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là sự thống nhất hữu cơ giữa phẩm chất
chính trị và phẩm chất đạo đức tạo nên nền tảng nhân cách của người cách mạng, là động
lực cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới nhằm thực hiện lợi ích cơ bản của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam là giành độc lập dân tộc, đưa đất
nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nội dung của khái niệm đạo đức cách mạng được hiểu theo nghĩa rộng là tổng
hòa những phẩm chất chính trị - đạo đức, đó là lòng trung thành vô hạn với mục tiêu, lý
tưởng cách mạng, chủ nghĩa tập thể, lao động tự giác sáng tạo, chủ nghĩa yêu nước kết
hợp với chủ nghĩa quốc tế XHCN, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản chủ nghĩa và những
phẩm chất đạo đức cá nhân như tính trung thực, khiêm tốn, dũng cảm, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư... Những phẩm chất đạo đức cách mạng trên thống nhất hữu cơ
trong nhân cách của người cách mạng.
1.1.2. Sự biến đổi của đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay
Hàng ngàn năm ở nước ta tồn tại nền sản xuất tự túc, tự cấp không tạo ra thị
trường hàng hóa. Khi đi vào xây dựng CNXH, với thói quen của tư duy kinh tế truyền
thống và chịu ảnh hưởng của các nước XHCN trước đây, chúng ta không chấp nhận nền
KTTT và cho rằng chỉ có CNXH mới có kế hoạch hóa, đồng nhất kinh tế kế hoạch hóa
với CNXH. Nhà kinh tế học người anh Psamuelson đã nhận định: Nền kinh tế chỉ có thể
phát triển khi kết hợp được hai bàn tay: bàn tay "vô hình" là cơ chế thị trường và bàn tay
"hữu hình" là Chính phủ. Vì nhận thức không đúng quy luật kinh tế, chúng ta đã chủ
quan hình thành cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp. Hệ quả là đẩy nền
kinh tế vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng trầm trọng kéo dài.
Nhận thức về KTTT ở nước ta đã dần dần được xác định. KTTT không phải là
riêng có của CNTB, và CNXH cũng không gạt bỏ KTTT, vì "sản xuất hàng hóa không
đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách
quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng" [14,
tr.26].
Sự nghiệp đổi mới toàn diện, triệt để và sâu sắc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã
đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội hết sức nặng nề và kéo dài trong nhiều
năm ở hai thập kỷ 70 và 80 của thế kỷ trước. Đặc biệt những thành tựu và thắng lợi rất
quan trọng về nhiều mặt, nhất là về mặt kinh tế thu được trong công cuộc đổi mới, không
những được thế giới quan tâm, đánh giá cao mà chúng còn khẳng định tính chất đúng đắn
của đường lối KTTT định hướng XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam đề xuất và lãnh
đạo thực hiện nhằm phát triển đất nước trong điều kiện khu vực hóa và toàn cầu hóa đang
diễn ra mạnh mẽ. "Sự hoài nghi về khả năng dung hợp giữa KTTT và CNXH, có thể nói, về
cơ bản đã kết thúc với việc những kết quả to lớn do KTTT mang lại thực tế đã góp phần thúc
đẩy sự phát triển của đất nước" [9, tr.10]. Đại hội lần thứ IX của Đảng một lần nữa khẳng
định mạnh mẽ rằng: "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền KTTT định
hướng XHCN" [19, tr.86].
Tuy nhiên, trong bất cứ nền KTTT nào, tính hai mặt của nó là một đặc điểm vốn
có. Bên cạnh mặt tích cực, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, KTTT cũng đã và đang
mang lại không ít những tai họa cho con người, cho xã hội và cho cả giới tự nhiên. Đối
với tất cả các nền KTTT tư bản chủ nghĩa từ trước tới nay, thì việc kiếm được nhiều tiền
và thu lợi nhuận tối đa thông qua cạnh tranh là mục đích cao nhất của các nhà tư bản.
Trong bộ tư bản nổi tiếng của mình, C.Mác đã trích dẫn câu nói của Đô ninh
(T.J.Dunning): "Tư bản sợ tình trạng không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận quá ít, cũng như
giới tự nhiên sợ chân không. Với một lợi nhuận thích đáng thì tư bản trở nên can đảm.
Được bảo đảm 10 phần trăm lợi nhuận thì người ta có thể dùng tư bản vào đâu cũng
được; được 20 phần trăm thì nó hoạt bát hẳn lên; được 50 phần trăm thì nó trở nên thật sự
táo bạo; được 100 phần trăm thì nó chà đạp lên mọi luật lệ của loài người; được 300 phần
trăm thì không còn tội ác nào là nó không dám phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ" [47,
tr.1056].
Trong thời đại chúng ta, KTTT tuy đã có nhiều biến đổi và mặc dù đã trở nên văn
minh hơn rất nhiều so với cách đây vài ba thập kỷ, nhưng không phải vì thế mà mặt trái
của nó đã giảm sút hoặc không còn nữa. Song, việc kiếm được nhiều tiền và thu được lợi
nhuận tối đa bằng bất cứ giá nào, bất chấp pháp luật và việc tìm kiếm lợi nhuận chính
đáng được pháp luật bảo vệ là những chuyện hoàn toàn khác nhau.
Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương phát triển KTTT định hướng XHCN vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, chứ hoàn toàn
không chủ trương phát triển KTTT tư bản chủ nghĩa. ý nghĩa đạo đức của quá trình
chuyển sang KTTT định hướng XHCN ở nước ta là ở chỗ nó đã góp phần to lớn trong
việc giải phóng sức sản xuất của xã hội, tăng năng suất lao động, tạo tiền đề vật chất để
nâng cao đời sống của nhân dân. KTTT kích thích tính tích cực và tiềm năng sáng tạo của
con người, hình thành một cách phổ biến các nhân cách độc lập, phát triển tính tự chủ của
cá nhân. Thế nhưng, nền KTTT dù là thị trường định hướng XHCN, bên cạnh việc tạo ra
những điều kiện tối ưu cho sự phát triển, vẫn thể hiện sự tác động tiêu cực nhất định tới
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực đạo đức. Tuy KTTT vừa mới
bắt đầu hình thành, nhưng trong xã hội Việt Nam hiện nay đã xảy ra những biến động về
mặt đạo đức, lối sống rất nhức nhối và đáng lo ngại. Cụ thể là:
Thứ nhất, KTTT kích thích mạnh mẽ việc tìm kiếm lợi nhuận. Do đó, chủ nghĩa
cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng có môi trường phát triển. Để thực thi lợi ích, mỗi
cá nhân và tập thể phải tìm mọi cách làm ăn nhằm đạt hiệu quả cao trong hoạt động sản
xuất kinh doanh. Đây là quá trình đan xen: thành công và thất bại, thăng trầm và trả giá -
một quá trình vươn lên để trưởng thành. Nhưng cũng chính trong quá trình này khơi lên
nguồn lợi ích, một chất men kích thích làm không ít người lao vào vòng tội lỗi, bất chấp
thủ đoạn, bất chấp pháp luật, bất chấp lương tâm. Khi những lợi ích cá nhân che lấp
lương tâm và trách nhiệm đạo đức thì sự khoan dung, tính năng động, những nỗ lực ý chí
không còn là biểu hiện cho sức mạnh bản chất của con người. Vì coi trọng lợi ích cá
nhân, do đó con người ta dễ nảy sinh chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vị kỷ cực đoan. Tâm
lý cá nhân chủ nghĩa đã nâng lợi ích riêng thành lợi ích vị kỷ và đối lập với lợi ích xã hội.
Do đó, nó mâu thuẫn với chủ nghĩa tập thể, với chuẩn mực giá trị đạo đức của con người
đích thực.
Thứ hai, sự phát triển KTTT ở nước ta trong những năm vừa qua cũng đã dẫn
đến những biến đổi tương ứng trong thang giá trị đạo đức. Thực tế cho thấy rằng, trong
đời sống xã hội đã có những biểu hiện coi nhẹ những giá trị truyền thống, chạy theo thị
hiếu không lành mạnh. Đáng chú ý là "tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị
văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ đang gây hại đến thuần
phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh dự mà chà đạp lên
tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng
phát triển. Ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng" [16, tr.46].
Trong nền KTTT, không những quan hệ giữa con người với nhau trên thị trường
bị đồng tiền chi phối, mà cả những quan hệ trong gia đình cũng bị sức mạnh của đồng
tiền làm băng hoại. Vì sự cám dỗ của đồng tiền mà người ta sẵn sàng để cho người thân
của mình bán rẻ nhân phẩm, tiếp tay cho các tệ nạn xã hội. Vì đồng tiền mà con cái hành
hung cha mẹ, anh em từ bỏ nhau, vợ chồng ly tán... Các quan hệ trong gia đình bị đảo
lộn. "Chính sự rối loạn trong quan hệ gia đình là một trong những nguyên nhân làm cho
cái ác, cái bất lương có điều kiện phát triển" [9, tr.46].
Còn ở nhà trường, đặc biệt là trong giới sinh viên đã nảy sinh xu hướng quan tâm
nhiều đến lợi ích kinh tế của cá nhân, điều đó được biểu hiện trong việc chọn ngành nghề
để làm giàu hoặc có quyền lực, khi tốt nghiệp ra trường, phần lớn trong số họ không muốn
làm việc ở các cơ quan của tổ chức Đảng, đoàn thể, giáo dục... nhiều tệ nạn trong sinh viên
hiện nay như: tiêu cực trong thi cử, cờ bạc, quan hệ tình dục phóng túng, mê tín dị đoan,
uống rượu say, nghiện hút, cắm quán, trộm cướp, ham mê văn hóa phẩm đồi trụy, vô kỷ luật,
mất trật tự vệ sinh, đua đòi, chạy theo lối sống tiêu dùng... Những biểu hiện trên cho thấy
thực trạng đạo đức sinh viên đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu, giải quyết.
Ngoài xã hội, đã xuất hiện những cách sống và lối sống xa lạ, trái với thuần
phong mỹ tục của dân tộc. Một bộ phận trong các tầng lớp nhân dân, các thành phần xã
hội khi mưu cầu lợi ích cá nhân đã chà đạp lên những khuôn mẫu, những giá trị đạo đức
truyền thống. Nạn tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính và các tệ nạn xã hội khác
đang phát triển. Thực tế cho thấy, những năm gần đây, số vụ buôn lậu, buôn bán ma túy,
làm hàng giả được phát hiện ngày càng tăng. Một bộ phận trong lớp trẻ hiện nay có xu
hướng chạy theo lối sống thực dụng, buông thả, sùng bái đồng tiền, quay lưng lại với các
giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống. Trái với truyền thống coi trọng tình nhân ái của dân
tộc, một bộ phận trong nhân dân, chủ yếu là lớp trẻ, vị thành niên đã và đang sa vào cuộc
sống bạo lực, phi nhân tính. Tình hình tội phạm ở Việt Nam trong quá trình chuyển sang
nền KTTT đang ở mức khá nghiêm trọng so với trước. Hàng loạt tội danh mới xuất hiện
như khủng bố cá nhân, tống tiền, bắt cóc trẻ em, buôn bán phụ nữ, buôn bán chất nổ, ma
túy với số lượng lớn, tổ chức đâm thuê chém mướn, môi giới mại dâm, xì ke ma túy.
Tình hình phụ nữ phạm tội và các vụ phạm tội do người chưa thành niên thực hiện có
chiều hướng ngày càng gia tăng...
Thực trạng và những vấn đề đặt ra trên đây phần nào đã cảnh báo cho chúng ta
biết được sự biến đổi của đạo đức trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay đang diễn
ra hết sức phức tạp. Các bậc thang giá trị có phần bị đảo lộn. Các cuộc đấu tranh giữa các
tiến bộ và cái lạc hậu; giữa lối sống lành mạnh, trung thực, có lý tưởng, có tinh thần bảo
vệ và xây dựng đất nước với lối sống sa đọa, ích kỷ, thực dụng, bạo lực; giữa cái thiện và
cái ác vốn đang không ngừng diễn ra với tốc độ ngày càng gia tăng. Song bên cạnh
những điều tốt, những cái hay được du nhập vào đời sống xã hội Việt Nam thì đồng thời,
những cái tiêu cực, cái xấu, cái đáng lên án cũng đang xâm nhập vào mọi lĩnh vực, mọi
tầng lớp nhân dân.
Đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên do sống và làm việc tương đối lâu trong môi
trường của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, nay chuyển sang sống và làm việc trong
một môi trường mới của KTTT, là một sự thay đổi về chất. Điều đó đòi hỏi cán bộ, đảng
viên chẳng những phải có những kiến thức mới, nhất là kiến thức kinh tế, mà còn phải có
đạo đức cách mạng vững vàng để làm chủ được KTTT, biết phát huy mặt tích cực và hạn
chế mặt tiêu cực của nó. Hồ Chí Minh từng nói, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách
mạng vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, là chí công vô tư, mình vì mọi người và phải
mãi mãi giữ gìn, phát huy đạo đức trong sáng ấy. Thấm nhuần lời dạy của Người, đến
nay, phần lớn cán bộ, đảng viên của Đảng được rèn luyện, thử thách trong quá trình cách
mạng lâu dài, gian khổ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng động, sáng tạo, hăng hái
thực hiện đường lối, chủ trương chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; kiến thức và
năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội ngày càng được nâng cao. Số đông cán bộ, đảng
viên giữ được đạo đức, phẩm chất cách mạng, có lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó với
nhân dân. Phần lớn cán bộ, đảng viên nhất trí, tin tưởng, quyết tâm thực hiện công cuộc
đổi mới của Đảng, tham gia đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy
nhiên, điều đáng lo ngại hiện nay là đã có "sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ có chức, quyền. Nạn tham nhũng, dùng
tiền của Nhà nước tiêu sài phung phí, ăn chơi sa đọa, không được ngăn chặn có hiệu quả.
Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ, địa phương,
bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến"[16, tr.46-47], "trong công tác xây dựng Đảng, bên
cạnh những ưu điểm, đang nổi lên một số mặt yếu kém và khuyết điểm, nhất là khuyết
điểm về công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ đảng viên, chưa ngăn chặn và đẩy
lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống" [19, tr.38]. Đã có không
ít trường hợp cán bộ, đảng viên vì sự cám dỗ của đồng tiền, địa vị mà làm băng hoại đạo
đức cách mạng, ảnh hưởng đến thanh danh của Đảng. Hàng loạt vụ án đã được đưa ra xét
xử công khai như vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn, vụ án Lã Thị Kim Oanh và đồng
phạm... Mỗi vụ đó đều có không ít cán bộ, đảng viên thuộc các cơ quan bảo vệ pháp luật,
thậm chí là cán bộ lãnh đạo vi phạm pháp luật, tiếp tay cho những kẻ xấu làm hại đất
nước. Trong nền KTTT, nhiều phẩm chất tốt đẹp của cán bộ, đảng viên được hình thành,
rèn luyện trong kháng chiến, trong cách mạng giải phóng dân tộc như lòng yêu nước
thương dân, lòng căm thù giặc, lòng nhân ái, vị tha, dũng cảm... nay bị cám dỗ của quyền
lực, tiền tài, danh vọng làm cho mai một. Từ đó, dẫn đến tư tưởng bi quan, dao động
trước những khó khăn của cách mạng, đi đến mất lòng tin, từ bỏ lý tưởng cách mạng,
chạy theo lối sống thực dụng, thấp hèn... Một bộ phận nhận thức chưa đầy đủ, có biểu
hiện thờ ơ, phai nhạt lý tưởng, làm việc cầm chừng, đóng góp hạn chế cho công việc
chung. Số ít thể hiện sự bất mãn, không tin, suy thoái, thậm chí có hành động chống đối
và làm trái với đường lối, quan điểm của Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban
Chấp hành Trung ương khóa IX nhấn mạnh: "Điều làm cho nhân dân còn nhiều bất bình,
lo lắng, bức xúc nhất hiện nay là tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư
tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn rất
nghiêm trọng; kỷ cương phép nước trong nhiều việc, nhiều lúc chưa nghiêm" [22, tr.188]. Tình
hình đó ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với
Đảng. Bởi vậy, xây dựng đạo đức cách mạng và lối sống trong sạch cho cán bộ, đảng
viên trong điều kiện KTTT và mở rộng giao lưu quốc tế, chống chủ nghĩa cá nhân, chủ
nghĩa thực dụng, lối sống sa hoa, trụy lạc là một nhiệm vụ cấp bách trong công tác xây
dựng Đảng hiện nay.
Tóm lại, những diễn biến trong đạo đức ở nước ta hiện nay phản ánh sự biến đổi
trong nền kinh tế - xã hội thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang
nền KTTT định hướng XHCN vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Những biến động đó tuy là khó tránh khỏi nhưng chúng sẽ giảm tác hại rất nhiều
nếu xã hội sớm nhận ra những yếu kém và nếu Đảng và Nhà nước, kịp thời có những đối
sách thích hợp. Sự cần thiết và tính khả thi của việc sử dụng KTTT để phát triển đất nước là
điều không cần phải bàn luận tiếp. Nhiệm vụ đặt ra đối với Đảng và Nhà nước cũng như đối
với toàn thể nhân dân là làm sao vừa phát triển được KTTT định hướng XHCN, vừa giữ gìn
được các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, vừa xây dựng được các quan hệ và phẩm
chất đạo đức mới phù hợp với thời đại mới của sự phát triển kinh tế - xã hội. Làm được như
vậy, cũng có nghĩa là thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
1.2. Tầm quan trọng, nội dung và yêu cầu của việc xây dựng đạo đức cách
mạng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở việt nam
hiện nay
1.2.1. Tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định "cán bộ là gốc của mọi công việc", "công
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Đảng ta đã chỉ rõ, phát triển
kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng đảng là nhiệm vụ then chốt. Trong xây dựng
đảng, công tác cán bộ là một lĩnh vực quan trọng nhất, khâu then chốt của vấn đề then
chốt. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người gần gũi, trực tiếp nắm bắt tâm tư nguyện vọng,
tình cảm của quần chúng nhân dân. Họ là cầu nối giữa chính quyền và nhân dân, là người
trực tiếp giải quyết những vấn đề bức xúc nảy sinh từ đời sống của nhân dân, tổ chức
hướng dẫn nhân dân thực hành đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Do đó, việc
xây dựng và nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ này là vấn đề hết sức quan
trọng, bởi vì:
Thứ nhất, đạo đức người cán bộ chủ chốt ở cơ sở có tác dụng giáo dục, nêu gương, góp
phần xây dựng nếp sống mới và các quan hệ xã hội mới tại địa phương.
Vai trò tấm gương đạo đức là hình thức sản xuất và tái sản xuất ra các giá trị đạo
đức, các giá trị đó truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Người cán bộ chủ chốt ở cơ sở
khi có đủ tư cách và hành vi đạo đức tốt, không những là tấm gương cho nhân dân địa
phương noi theo mà còn có vai trò hết sức quan trọng là tạo nên uy tín của người cán bộ
đảng viên. Nhưng phẩm chất đạo đức cũng không phải là từ trên trời rơi xuống, không
phải là bẩm sinh, song cũng không phải là không vươn tới được. Mà nó là kết quả của
quá trình tu dưỡng, rèn luyện bền bỉ, lâu dài của mỗi người. Hồ Chí Minh thường dạy
cán bộ: "Trước mắt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta
được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn
hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước" [49, tr.552].
Do đó, người cán bộ phải phấn đấu là con người có đạo đức mới, phải tiêu biểu, mẫu
mực trước quần chúng, trước nhân dân. Hướng dẫn nhân dân khắc phục những khó khăn
trong đời sống, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục đưa đất nước đi lên theo con
đường XHCN.
Thứ hai, đạo đức người cán bộ chủ chốt ở cơ sở là nhân tố tác động tích cực
trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác hiện nay.
Tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác là những vấn đề xã hội đã và đang gây
nhiều nhức nhối trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, Đảng ta đã chỉ rõ trong công
cuộc xây dựng CNXH có bốn nguy cơ, trong đó tham nhũng là một trong những nguy cơ
trở thành quốc nạn. Trong cơ chế thị trường hiện nay, bên cạnh những mặt tốt, mặt tích
cực, khẳng định con đường phát triển đúng đắn của đất nước ta, thì mặt trái của cơ chế thị
trường cũng đồng thời là mảnh đất tốt cho tệ tham nhũng ở một số cán bộ thoái hóa biến
chất tăng nhanh. Tham nhũng phổ biến hầu như trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, đặc biệt tập trung ở các lĩnh vực: xây dựng cơ bản, tài chính, nhà đất, thương mại và
thực hiện các chính sách xã hội.
Tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác là những hiện tượng xã hội nguy hiểm gây
nên những hậu quả nghiêm trọng trong đời sống xã hội, làm hủy hoại nhân tính, hủy hoại
những giá trị truyền thống của dân tộc, làm tha hóa một số cán bộ, đảng viên và trực tiếp
đe dọa đến sự sống còn của hệ thống chính trị và sự tồn vong của giống nòi. Đảng ta chỉ
rõ: "Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng, kéo dài gây bất bình trong nhân dân và là một
nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta" [19, tr.50]. Bài học của những cuộc khủng
hoảng ở các nước Đông Âu, sự tan rã của Đảng Cộng sản và Nhà nước Liên Xô thời gian
qua cho thấy, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã lợi dụng sự tha hóa của cán bộ,
đảng viên, sự quan liêu của bộ máy nhà nước để tách dân với Đảng. Đây là một trong
những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến đổ vỡ CNXH. Vì thế, việc nâng cao phẩm chất đạo
đức của người cán bộ đảng viên, trong đó có cán bộ chủ chốt ở cơ sở, đẩy mạnh đấu tranh
chống tham nhũng là vấn đề cần thiết và cấp bách. Và, nếu như đạo đức là gốc của người
cách mạng, là phương thức điều chỉnh hành vi cá nhân thì việc giáo dục đạo đức cách
mạng, thực thi pháp luật một cách nghiêm minh đối với cán bộ, đảng viên nói chung và
cán bộ chủ chốt ở cơ sở nói riêng là vấn đề cơ bản nhất trong việc đấu tranh chống tham
nhũng và các tệ nạn xã hội khác.
Thứ ba, đạo đức người cán bộ chủ chốt ở cơ sở có vai trò quan trọng trong việc
nâng cao năng lực công tác và gìn giữ phẩm chất chính trị của người cộng sản.
Trong cấu trúc nhân cách của con người nói chung và ở người cán bộ, đảng viên
nói riêng, năng lực công tác và phẩm chất đạo đức có quan hệ hữu cơ với nhau. Đối với
người cán bộ, đảng viên thì phẩm chất đạo đức cách mạng được đặt lên hàng đầu. Bởi vì,
đối với người cán bộ có tài mà không có đức thì chỉ trở thành người vô dụng, có hại cho
nhân dân, cho đất nước. Có đạo đức cách mạng, người cán bộ khi gặp khó khăn gian khổ
thậm chí thất bại sẽ không rụt rè, sợ sệt, và mỗi khi thành công không say sưa kiêu ngạo,
xa rời quần chúng. Trong điều kiện KTTT hôm nay, tâm lý ích kỷ có thể trỗi dậy vượt ra
ngoài sự kiểm soát của lương tâm, danh dự, lòng tự trọng đạo đức. Khi người cán bộ,
đảng viên được giao quyền lực trong tay và thêm nữa khi những văn bản quy phạm pháp
luật của nhà nước chưa hoàn thiện, hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính Nhà nước còn
yếu kém, những quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế mới phát sinh chưa được điều chỉnh kịp
thời bằng pháp luật đã tạo nên những khe hở thì đối với người cán bộ, đảng viên đạo đức
cách mạng là yếu tố quan trọng để định hướng nhận thức và điều chỉnh hành vi.
Nhờ có đạo đức cách mạng, mỗi cán bộ, đảng viên nói chung và người cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở nói riêng luôn giữ được phẩm giá, danh dự của người cách mạng, biết sống vì
lý tưởng cộng sản, tránh được những tư tưởng bè phái, cục bộ, vị kỷ, ngăn cản sự trỗi dậy
của chủ nghĩa cá nhân. Đây cũng là lý do vì sao người cán bộ chủ chốt ở cơ sở phải luôn có
sự thống nhất cao giữa hai con người: con người đạo đức và con người chính trị. Không có
phẩm chất đạo đức cách mạng thì phẩm chất chính trị của người cán bộ chủ chốt ở cơ sở
cũng không thể giữ vững được. Không giữ được đạo đức trong sáng nghĩa là người cán bộ
chủ chốt ở cơ sở đang tích lũy dần những nhân tố tự phủ định mình.
Thứ tư, việc xây dựng và nâng cao đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt
ở cơ sở còn xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của bản thân đội ngũ này trong điều kiện
KTTT hiện nay.
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, cần có một đội ngũ cán bộ tương ứng. Họ phải
có đủ phẩm chất đạo đức và năng lực để đáp ứng được những đòi hỏi của nhiệm vụ cách
mạng. Nước ta quá độ lên CNXH từ một nền kinh tế lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém
so với trình độ phát triển của thế giới thì nhiệm vụ tổ chức, quản lý xã hội cũng như việc
quản lý, xây dựng và phát triển kinh tế ở cơ sở là rất khó khăn và phức tạp.
Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của công tác cán bộ, Đảng và Nhà nước ta
đã quan tâm và làm tốt công tác cán bộ nhất là cán bộ chủ chốt ở cơ sở một cách đồng bộ,
từ việc khảo sát, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đến chính sách cán bộ, nhờ đó mà những
năm qua đội ngũ cán bộ, đảng viên đã trưởng thành cả về mặt số lượng và chất lượng,
từng bước đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt
được, cũng còn bộc lộ không ít yếu kém về năng lực công tác cũng như phẩm chất đạo
đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong đó có không ít những cán bộ chủ chốt ở cơ
sở. Năng lực tư duy lý luận, tư duy lôgíc còn yếu, còn giáo điều, dập khuôn trong chỉ đạo
thực tiễn để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh. Một số cán bộ tha hóa về lối sống,
đạo đức, tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân dẫn đến
giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Thực tế cũng cho thấy, nơi nào
cán bộ chủ chốt ở cơ sở mạnh, gương mẫu, năng động, nơi đó tạo ra được môi trường xã
hội lành mạnh và thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.
1.2.2. Nội dung và yêu cầu của việc xây dựng đạo đức cách mạng cho người
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay
1.2.2.1. Nội dung đạo đức cách mạng của người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
Việt Nam hiện nay
Xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, trước hết
phải làm rõ nội dung và yêu cầu của đạo đức cách mạng đối với người cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở hiện nay. Nằm trong dòng chảy chung của sự phát triển tư tưởng của nhân loại
về đạo đức, đạo đức cách mạng được ra đời trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp
vô sản, là sản phẩm của quá trình xây dựng xã hội mới, đồng thời đạo đức cách mạng còn
là kết quả của quá trình nỗ lực giáo dục và tự giáo dục của những người cộng sản. Sự hơn
hẳn về chất của đạo đức cách mạng với các nền đạo đức trước đây không có nghĩa là sự
đoạn tuyệt siêu hình mà là kết quả của quá trình phủ định biện chứng các giá trị đạo đức
qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong nội dung của đạo đức cách mạng, các phạm
trù đạo đức cơ bản, các nguyên tắc đạo đức được nâng lên một tầm cao mới. Các phạm
trù và nguyên tắc đạo đức cách mạng không phải là kết quả của sự sáng tạo chủ quan của
các nhà tư tưởng để áp đặt vào thực tiễn mà là một yêu cầu nội tại, một sản phẩm nội sinh
từ tất cả các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội trong đời sống XHCN. ở đây, các
phạm trù của đạo đức cách mạng đã được đổi mới và nâng cao về nội dung cho phù hợp
với thực tiễn lịch sử mới, đó là:
Lẽ sống: lẽ sống hay ý nghĩa cuộc sống của con người là vấn đề vừa có ý nghĩa triết
học, vừa có ý nghĩa đạo đức học. Nó chi phối những lý tưởng, niềm tin, thái độ sống, các
quan niệm về hạnh phúc, thiện và ác. ý nghĩa cuộc sống của người cán bộ cách mạng là thực
hiện sự thống nhất giữa nghĩa vụ và hạnh phúc trong mọi hoạt động của mình, góp phần xây
dựng thành công CNXH.
Lẽ sống của người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là nền tảng tinh thần của đời sống
người cán bộ, đảng viên cộng sản, tích cực tham gia hoạt động góp phần vào những thành
quả chung của xã hội vì sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng XHCN. Nhờ có lẽ sống
đúng đắn, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở giữ được sự thống nhất hữu cơ giữa cống hiến
và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và hạnh phúc, tránh được tâm lý bi quan, duy vật tầm
thường..., với lẽ sống đúng, người cán bộ chủ chốt ở cơ sở sẽ sống, chiến đấu, lao động
và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại với tinh thần lạc quan, tin tưởng vào sự nghiệp phát
triển của địa phương và đất nước; từ đó có được những quan niệm đúng đắn về hạnh
phúc, lương tâm và nghĩa vụ... Lẽ sống của người cán bộ cơ sở là phải gần gũi nhân dân,
lắng nghe nguyện vọng chính đáng của nhân dân, phục vụ nhân dân, hoạt động vì lợi ích
của nhân dân. Lẽ sống đạo đức cách mạng là cơ sở của những hoạt động tích cực để hoàn
thành nhiệm vụ chính trị tại địa phương của mỗi người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
Hạnh phúc: Hạnh phúc là lý tưởng sống, là ước mơ chân chính của con người,
đồng thời là động lực thúc đẩy con người vươn lên trong cuộc sống. Trong xã hội XHCN,
hạnh phúc của mỗi con người góp phần vào hạnh phúc chung của xã hội. Điều kiện để
mỗi người có được hạnh phúc là trách nhiệm chung của toàn xã hội, trong đó người cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở phải có trách nhiệm cao hơn trong việc đưa đến hạnh phúc cho
nhân dân và cho xã hội. Hạnh phúc của mỗi người cán bộ, đảng viên là được cống hiến
hy sinh cho sự nghiệp cách mạng XHCN.
Với quan niệm cách mạng về hạnh phúc, thông qua hoạt động thực tiễn, người
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nâng cao được năng lực công tác, cũng như tư chất; phát triển
tài năng, làm phong phú tri thức, tinh thần, tư tưởng, tình cảm cách mạng, giữ vững và
phát triển các mối quan hệ xã hội. Kết quả là người cán bộ có được niềm vui, niềm tự
hào, nâng cao được ý thức phẩm giá của mình, tin tưởng vào xã hội, vào sự nghiệp xây
dựng CNXH, tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân, gắn bó với cộng đồng, tập thể
trong tình yêu thương, đùm bọc, quý trọng giữa mọi người.
Hạnh phúc phủ định tuyệt đối thói lười biếng, ỷ lại, hưởng thụ một chiều. Nó
vượt qua thứ hạnh phúc nhỏ nhoi, ích kỷ, hẹp hòi, cá nhân tư sản, tiểu tư sản. ở đây, quan
niệm mới về hạnh phúc là sự thống nhất giữa nhu cầu khách quan của xã hội và hoạt
động chủ quan của con người, là thực hiện một nhu cầu đạo đức nhằm đem lại hạnh phúc
chung rộng lớn cho mọi người. Điều đó giúp người cán bộ cách mạng hoạt động linh
hoạt, sáng tạo, vượt qua mọi trở ngại, dám xả thân vì nghĩa lớn.
Do đó, hạnh phúc của người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chỉ có thể có được khi nó
được đặt trong sự giàu có và bình an của nhân dân, trong sự công bằng dân chủ và văn
minh của xã hội ở địa bàn mình phụ trách. Phải lấy việc thực hiện tốt các chính sách kinh
tế - xã hội, nỗ lực phấn đấu không ngừng để từng bước cùng cả nước thực hiện thành
công quá trình CNH, HĐH; tích cực xóa đói giảm nghèo, khai thác có hiệu quả các quá
trình, dự án đầu tư của Nhà nước và các tổ chức quốc tế; tạo thêm nhiều việc làm cho
nhân dân, đẩy nhanh dân chủ hóa, xây dựng tốt khối đoàn kết các dân tộc, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân làm hạnh phúc của chính mình.
Nghĩa vụ đạo đức: Nghĩa vụ được gắn liền và đi đôi với hạnh phúc như là mục
đích và kết quả. Khác với quan niệm sai lầm trước đây cho rằng nghĩa vụ là sự bắt buộc
trước "mệnh lệnh tuyệt đối", nó thúc đẩy sai khiến con người hành động. Hay nghĩa vụ là
thực hiện cho lợi ích cá nhân vì cá nhân. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định nghĩa vụ là
thực hiện trách nhiệm của mình vì lợi ích của người khác và vì lợi ích chung của xã hội.
Trong cuộc sống con người phải ý thức được sự cần thiết phải hợp tác, liên kết, hỗ trợ
bình đẳng, công bằng, coi đó là xu hướng nội tại của mọi quan hệ xã hội. Điều này phản
ánh xu hướng tiến bộ của xã hội XHCN và nhân cách con người mới. Mỗi thành viên
trong xã hội sẽ được sống trong bầu không khí ấm áp tình người, được hưởng thụ sự quan
tâm sâu sắc của xã hội và của những người khác. Đối với người cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở, nghĩa vụ đạo đức của họ là lòng quyết tâm sắt đá phục vụ những yêu cầu của xã hội,
những lợi ích của nhân dân một cách tự nguyện như là sự thực hiện những lẽ phải thông
thường, những công lý của xã hội, hồn nhiên vô tư không quản gian khó, hy sinh những
quyền lợi riêng vì lợi ích chung của địa phương và dân tộc. ý thức về nghĩa vụ đạo đức
cách mạng trở thành những thôi thúc bên trong, tạo nên những lý tưởng cao đẹp, mãnh
liệt giúp người cán bộ giữ vững lập trường cách mạng, vượt qua những thử thách của
cuộc sống, không ngừng vươn tới những mục tiêu, hoài bão phục sự Tổ quốc, phục sự
nhân dân mà trực tiếp nhất là nhân dân địa phương nơi người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
công tác.
Lương tâm: Lương tâm là ý thức trách nhiệm đạo đức của cá nhân con người đối
với hành vi của mình, là sự tự đánh giá, tự phán xử những hành vi và cách ứng xử của
mình trong quan hệ với mọi người, với dân tộc và với xã hội. Lương tâm được hình thành
do sự phản ánh của đời sống xã hội vào ý thức con người. Nó có liên hệ chặt chẽ với ý
thức nghĩa vụ, do đó có thể nói, lương tâm là nghĩa vụ đạo đức trước bản thân. Những
quan điểm mác xít đúng đắn về lương tâm là cơ sở giúp con người tránh được sai lầm, tự
điều chỉnh những suy nghĩ, những hành vi của mình sao cho phù hợp với những chuẩn
mực đạo đức cách mạng vì sự tiến bộ chung của cá nhân và xã hội.
Trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt để tồn tại và phát triển, trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân ta đã chịu nhiều hy sinh
mất mát, mặc dù đời sống còn vô vàn những khó khăn nhưng vẫn một lòng tin theo
Đảng, theo Bác Hồ, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Với
truyền thống cần cù, trung thực, thật thà và dũng cảm, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
phải luôn luôn vì dân, là công bộc của nhân dân. Vì thế, nếu dân đói, nếu dân rét, dân ốm
là Đảng và chính quyền địa phương có lỗi. Nếu nhân dân không được biết, không được
bàn, không được làm và không được kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế, chính trị,
xã hội ở địa phương thì Đảng và chính quyền có lỗi. Đó chính là lương tâm đạo đức cách
mạng ở người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiện nay.
Cái thiện: Sự phát triển của đạo đức mang tính lịch sử nên quan niệm về cái thiện
cũng mang tính lịch sử. Cái thiện là cái tốt đẹp, là lợi ích của con người phù hợp với
những tiêu chuẩn của sự tiến bộ xã hội. Cái thiện trong đạo đức cách mạng là tất cả
những tư tưởng và hành động thực hiện sự thống nhất lợi ích vật chất cũng như lợi ích
tinh thần giữa các thành viên trong xã hội, giữa cá nhân với tập thể, giữa các cộng đồng
người, tạo ra động lực cách mạng, sáng tạo ra một xã hội mới giàu mạnh, công bằng, dân
chủ và văn minh. ở đây, cái thiện có nội dung sâu sắc và tích cực nhất. Nó thể hiện sự
thống nhất chặt chẽ giữa tính cách mạng và tính khoa học, giữa lý tưởng đạo đức và hiện
thực cuộc sống, giữa cái thiện với cái chân và cái mỹ. Điều đó là nền tảng giúp người cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở mỗi địa
phương, tránh được cái ác, góp phần loại trừ cái ác, đấu tranh bảo vệ cái đúng, cái tiến
bộ; đồng thời có cử chỉ, hành động và cách ứng xử đẹp đẽ trong gia đình, với đồng sự,
với nhân dân.
Xã hội loài người vận động và phát triển từ thấp đến cao như một quá trình lịch
sử tự nhiên. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau trên cơ sở của các tất yếu kinh tế.
Phản ánh cái lôgíc kinh tế - xã hội đó, đạo đức cũng có lôgíc tương ứng, đạo đức xã hội
cũng vận động phát triển, đỉnh cao là đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Đạo đức cách mạng
phản ánh những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, nó là vũ khí tinh thần mạnh mẽ
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng để xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới xã hội XHCN. Đạo đức cách mạng có những nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa tập thể là cơ sở của đạo đức cách mạng.
Tính tập thể, tính cộng đồng của con người xuất hiện rất sớm, do nhu cầu lao
động sản xuất tạo ra vật phẩm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người. Xét cho
cùng, mọi giá trị vật chất, tinh thần đạo đức được bắt nguồn từ những hoạt động lao động
của con người. Tính tập thể một khi được nhận thức và thừa nhận là một giá trị cao đẹp,
một nguyên tắc sống thì phát triển thành chủ nghĩa tư tưởng. Đến cách mạng XHCN, tư
tưởng tập thể được nâng lên một trình độ mới - chủ nghĩa tập thể. Chủ nghĩa tập thể được
hiểu là sự thống nhất tự giác giữa các cá nhân, các thành viên trong xã hội vì lý tưởng cao
đẹp của con người. Nó được biểu hiện bằng sự thống nhất của tình đồng đội, đồng chí,
tinh thần trách nhiệm, thái độ tôn trọng và chăm sóc gắn bó với nhau, nhằm đảm bảo cho
mỗi cá nhân trong môi trường nhất định, có thể phát triển tốt nhất và phục vụ, cống hiến
cho xã hội có hiệu quả nhất.
Chủ nghĩa tập thể đối lập với chủ nghĩa cá nhân, nhưng không hề thủ tiêu, phủ
nhận lợi ích cá nhân. Ngược lại, chủ nghĩa tập thể đòi hỏi tập thể phải có nghĩa vụ đối với
mỗi cá nhân, quan tâm về mọi mặt của đời sống cá nhân như sức khỏe, tài năng và lợi
ích, tức là không vi phạm, không thủ tiêu nhân cách cá nhân, đồng thời yêu cầu cá nhân
phải biết kết hợp hài hòa giữa nhu cầu lợi ích của mình với lợi ích của tập thể và của xã
hội. Nếu tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân, thì sẽ rơi vào chủ nghĩa cá nhân, ngược lại, xem
nhẹ lợi ích cá nhân, chà đạp lên lợi ích cá nhân thì sẽ triệt tiêu động lực và trái với
nguyên tắc đạo đức của chủ nghĩa tập thể chân chính, là vật cản trên con đường giải
phóng cá nhân, giải phóng nhân loại.
Chủ nghĩa tập thể vừa là nguyên tắc cơ bản, vừa là cơ sở khoa học của đạo đức
cách mạng. Xây dựng chủ nghĩa tập thể trong hệ thống chính trị và cho nhân dân là trách
nhiệm của toàn thể nhân dân, của các tổ chức mà trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở nhằm khắc phục chủ nghĩa cá nhân. Chính vì vậy, phải luôn luôn coi trọng việc
tuyên truyền, giác ngộ và xây dựng chủ nghĩa tập thể. Kỷ luật thích đáng đối với mỗi cán
bộ đảng viên, nhất là những cán bộ chủ chốt có tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, cục bộ, bè
phái nhằm từng bước tạo lập một tình cảm đạo đức mới, trong đó thể hiện xu hướng cao
đẹp về sự kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể. Đối với mọi suy nghĩ và hành
động của mình, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đều phải đặt lợi ích của nhân dân lên
trên hết, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân
dân hiểu rõ, có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, và hoan nghênh nhân
dân phê bình mình, sẵn sàng học hỏi nhân dân, tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm
liêm chính để nhân dân noi theo [50, tr.293]. Đây cũng chính là bản chất tốt đẹp của chế
độ xã hội mới mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang xây dựng.
Thứ hai, lao động tự giác, sáng tạo là cội nguồn của đạo đức cách mạng.
Lao động là hoạt động sáng tạo của con người, nhờ có lao động con người cải
biến được tự nhiên, xã hội và hoàn thiện chính bản thân mình, phù hợp với nhu cầu, lợi
ích của con người vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Để đánh giá phẩm giá mỗi con người có rất nhiều chuẩn mực khác nhau như
lương tâm trong sáng, nhu cầu tinh thần cao đẹp, hành vi hợp đạo đức... Song, thái độ đối
với lao động được xem là một trong những chuẩn mực quan trọng bởi vì, căn cứ vào đó
người ta có thể đánh giá con người có hoạt động nghiêm túc, trung thực, trách nhiệm, có ý
chí vươn lên hay dối trá, qua quýt. Người có thái độ lao động tự giác, lao động có kỷ luật, có
kỹ thuật, lao động cần cù, sáng tạo, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao cũng chính là
người biết chăm lo, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, yêu quý lao động của mình,
trân trọng yêu quý sức lao động của người khác, coi trọng cả lao động trí óc và lao động chân
tay. Người đó sẽ được xã hội kính trọng và tôn vinh.
Xã hội XHCN đòi hỏi phải sản xuất ngày càng nhiều của cải vật chất, do đó
người lao động phải lao động một cách nhiệt tình, sáng tạo với năng suất, chất lượng cao.
Theo Lênin, CNXH bắt đầu từ chỗ nào mà những công nhân bình thường biết quan tâm
với một tinh thần hy sinh và không quản nặng nhọc đến việc nâng cao năng suất lao
động. Đó là vấn đề quan trọng nhất, căn bản nhất đảm bảo cho sự thắng lợi của chế độ xã
hội mới. Như vậy, tinh thần lao động tự giác, cần cù, sáng tạo là nhân tố không thể thiếu
để xây dựng CNXH ở nước ta.
Thái độ lao động tự giác, tích cực, có kỷ luật và sáng tạo thể hiện bản chất con
người lao động, lao động cho mình, cho gia đình và cho xã hội. Đạo đức của người cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở do vậy, trước hết được thẩm định không phải bằng đánh giá chung
chung, trừu tượng mà phải được thẩm định bằng thái độ lao động và đóng góp của họ đối
với xã hội, lời nói phải đi đôi với việc làm, động cơ phải gắn liền với hiệu quả. Nó hoàn
toàn xa lạ với kiểu lao động hình thức, tắc trách, kém hiệu quả và vụ lợi.
Thứ ba, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế.
Lòng yêu nước là tình cảm xã hội tự nhiên của con người với đất nước (Tổ quốc)
mình. Lòng yêu nước không phải là một đặc trưng riêng của dân tộc nào. Bởi mỗi con
người sinh ra đều có cội nguồn, quê hương, đất nước, dân tộc với những nét văn hóa, bản
sắc ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tâm lý riêng. Tình cảm ấy được củng cố, phát triển
qua hàng ngàn năm tồn tại của mỗi quốc gia, dân tộc.
Khi lòng yêu nước phát triển thành một triết lý nhân sinh, một trình độ nhận thức
sâu sắc và có hệ thống, chi phối một cách ý thức mọi hành vi ứng xử của con người thì nó
trở thành chủ nghĩa yêu nước. "Chủ nghĩa yêu nước là tình yêu đối với đất nước, lòng
trung thành với Tổ quốc và khát vọng phục vụ những lợi ích của Tổ quốc và nhân dân"
[26, tr.159].
Ngày nay, chủ nghĩa yêu nước trong đạo đức cách mạng đã được mở rộng và
nâng lên về chất: yêu nước chính là yêu nhân dân, yêu lao động, yêu chế độ XHCN và
quyết tâm đem hết khả năng và sức lực xây dựng thành công CNXH, yêu nước trên lập
trường chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Trong điều kiện KTTT, hội nhập quốc
tế, chống nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế..., đạo đức cách mạng cần bổ sung thêm
phương diện kinh tế, đó là lòng tự trọng dân tộc. Từ đó mọi công dân, nhất là đội ngũ cán
bộ chủ chốt ở cơ sở phải thường xuyên trăn trở và lao động hết mình để đưa quê hương,
đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu. Vì thế, chủ nghĩa yêu nước của giai cấp công nhân
trong thời đại ngày nay có giá trị và ý nghĩa to lớn. Đó là một trong những động lực chủ
yếu tạo nên sức mạnh đóng góp vào quá trình phát triển của quê hương đất nước.
Chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế. Cơ sở của sự thống nhất hữu
cơ này là sự thống nhất về lợi ích cơ bản của giai cấp vô sản với lợi ích cơ bản của nhân
dân lao động, lợi ích chân chính của các dân tộc. Yêu cầu của chủ nghĩa quốc tế vô sản
là: khi bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền, kinh tế, chính trị, văn hóa... của dân tộc mình thì cũng
phải tôn trọng dân tộc khác. Đồng thời hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng, tạo điều kiện
giúp đỡ lẫn nhau để các quốc gia cùng phát triển. Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sô vanh
nước lớn, sự thành kiến, kỳ thị, phân biệt chủng tộc, vi phạm nguyên tắc và luật pháp
quốc tế vì lợi ích dân tộc mình đều xa lạ với chủ nghĩa quốc tế vô sản, chủ nghĩa yêu
nước trong sáng. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế trở thành một
nguyên tắc của việc xây dựng đạo đức cách mạng.
Đối với người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc
tế được cụ thể hóa thiết thực là tình yêu sâu đậm con người, quê hương (xã, phường, thị
trấn) nơi mình phụ trách, tự hào với truyền thống, đoàn kết, vượt khó, nền văn hóa đậm
đà bản sắc của các dân tộc anh em. Có những đóng góp tích cực cho quá trình dân chủ
hóa ở cơ sở, chỉ đạo thực hiện sáng tạo mọi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
vào sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại các địa phương.
Sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế đòi hỏi người cán bộ, đảng
viên, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong khi bảo vệ độc lập về lãnh thổ, kinh tế, chính trị và
văn hoá của dân tộc mình, thì cũng phải trân trọng dân tộc khác, trân trọng nền độc lập
của họ tạo nên sự bình đẳng dân tộc mà thực chất là bình đẳng giữa những người lao
động sống ở những quốc gia khác nhau. Yêu Tổ quốc, nhân dân mình đồng thời cũng
phải yêu nhân dân lao động các dân tộc khác, trân trọng những tinh hoa trong văn hoá
của họ và tiếp thu những tinh hoa ấy để làm phong phú nền văn hoá của địa phương, dân
tộc mình, chống lại mọi thành kiến dân tộc, kỳ thị và phân biệt chủng tộc. Lao động,
chiến đấu, hoạt động với tinh thần đạo đức cộng sản để bảo vệ, xây dựng đất nước, quê
hương mình, tích cực đoàn kết ủng hộ và giúp đỡ đối với phong trào công nhân, phong
trào cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc cũng như các phong trào tiến bộ khác trên
toàn thế giới.
Thứ tư, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa nhân đạo là một trào lưu xã hội tiến bộ, là tổng hợp
những quan điểm nhằm bảo vệ phẩm giá, bảo vệ sự tự do và sự phát triển toàn diện, bảo
vệ tính người của các quan hệ xã hội.
Từ thời cổ đại tư tưởng nhân đạo đã được hình thành một cách tự phát trong cuộc
đấu tranh của nhân dân lao động chống lại sự áp bức, bóc lột và các hành vi vi phạm đạo
đức. Thời kỳ Phục hưng các nhà tư tưởng tiến bộ phê phán gay gắt thế giới quan tôn giáo.
Họ đề cao sự tự do của con người, mong muốn con người thoát khỏi sự nô lệ, ngu tối
trong đêm trường trung cổ; khỏi sự trói buộc, hà khắc của giáo lý phong kiến và nhà thờ.
Như vậy, chủ nghĩa nhân đạo được hình thành từ thời Phục hưng, đòi tự do, bình đẳng,
bác ái và sự phát triển toàn diện của con người. So với tư tưởng phong kiến, chủ nghĩa
nhân đạo tư sản là bước tiến lớn lao của loài người trên con đường tiến bộ, nhưng tự nó
vẫn mang những hạn chế, những mâu thuẫn do bản chất xã hội tư bản không thể giải
quyết được. Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản đối lập với chủ nghĩa nhân đạo tư sản và cũng
khác về bản chất so với tư tưởng nhân đạo của tôn giáo. Song chủ nghĩa nhân đạo cộng
sản cũng không phải là một trào lưu biệt phái, nằm ngoài dòng chảy của nền văn minh
nhân loại mà nó là kết quả của sự kế thừa. phát triển những tinh hoa tư tưởng nhân đạo
trong lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực,
nhằm giải phóng con người khỏi áp bức bất công, xóa bỏ tận gốc mọi hình thức thống trị,
nô dịch con người.
Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là chủ nghĩa nhân đạo triệt để và sâu sắc. Nó là một
nguyên tắc đạo đức thể hiện tình thương yêu con người vô hạn mà trước hết là đối với
người lao động. Đó chính là lòng yêu thương, kính trọng đối với phẩm giá con người, và
tận tuỵ phục vụ lợi ích con người làm cho lý tưởng cao đẹp nhất của con người trở thành
hiện thực phổ biến trong đời sống xã hội, tạo lập điều kiện xóa bỏ tận gốc mọi hình thức
áp bức, bóc lột và nô dịch con người, mọi người đều được tự do, được thực hiện đầy đủ
quyền làm người. Vì thế, chủ nghĩa nhân đạo vô sản trở thành chủ nghĩa nhân đạo hoàn
bị nhất trong lịch sử, là nguyên tắc cơ bản của đạo đức cách mạng.
Đối với người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vận dụng nguyên tắc chủ nghĩa nhân
đạo cộng sản là phải sử dụng vị thế và quyền lực chính trị của mình nhằm bảo vệ phẩm
giá, danh dự, nhân phẩm của mọi người, nâng con người lên, phát triển toàn diện con
người, đặc biệt là khắc phục và chấm dứt tình trạng lao động bị tha hóa - sản phẩm chính
của chủ nghĩa phi nhân đạo trong các xã hội cũ để lại ở các cơ sở hiện nay.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đòi hỏi người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải
trở thành những tấm gương cảm hoá, có tính gương mẫu trong mọi hoạt động, công tác.
Phải luôn chú ý đến lòng yêu thương con người, nhất là yêu thương nhân dân, đồng chí,
đồng nghiệp của mình. Luôn bao dung độ lượng, kể cả đối với những người trót lầm
đường lạc lối nhằm đánh thức lương tri, đánh thức phần thiện trong con người họ. Phải
luôn khắc sâu lời dạy của Bác Hồ: "Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng
vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế
khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan
hồng đại lộ… có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ
vang" [48, tr.246].
Hơn ai hết, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải quan tâm sâu sắc đến đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân nhất là nhân dân trên những địa bàn mình phụ trách,
phải xem bà con ăn uống, sinh hoật như thế nào, phải hiểu nguyện vọng và thắc mắc của
họ. Người cán bộ không được kêu mình khó khăn khi trên địa bàn mình phụ trách vẫn
còn có người dân phải đói, phải rét, phải chạy ăn từng bữa, trẻ em chưa được đến trường,
chưa được chăm sóc sức khoẻ khi đau ốm. Có thể nói rằng, tình yêu thương con người,
nhất là tình yêu thương đối với nhân dân, đồng nghiệp là một phẩm chất không thể thiếu
ở mỗi người cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong kháng chiến cũng như
trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
Các nguyên tắc đạo đức cách mạng trên đây là một chỉnh thể thống nhất. Tuy vị
trí, vai trò của từng nguyên tắc trong hệ thống đạo đức cách mạng có thể khác nhau
nhưng giữa chúng có mối quan hệ biện chứng, cần phải nhận thức sâu sắc và quán triệt
thực hiện một cách đồng bộ, hiệu quả.
1.2.2.2. Yêu cầu của việc xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi thời kỳ cách mạng nhất định cần phải có một
đội ngũ cán bộ có đạo đức tương ứng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị đặt ra. Dĩ nhiên
những tiêu chuẩn về yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể đối với người cán bộ ở mỗi cấp, mỗi ngành
có khác nhau, đặc trưng riêng. Đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cũng không nằm ngoài
cái chung đó.
ở nước ta hiện nay, người cán bộ, đảng viên phải vừa hồng vừa chuyên, vừa có
đức, vừa có tài. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đức là đạo đức cách mạng, đạo đức ấy là
kết quả của quá trình tiếp thu, kế thừa có chọn lọc truyền thống đạo đức tốt đẹp của cha
ông, của quê hương, của dân tộc và tinh hoa đạo đức nhân loại trên lập trường của giai
cấp công nhân. Đối với người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người có vai trò quyết định
trong việc hiện thực hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội ở các xã, phường; là người trực tiếp lãnh đạo và tổ chức quần chúng
thực hiện sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, thông qua phong trào
cách mạng của quần chúng, họ là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, giữa chính quyền
Trung ương với cơ sở, họ là gốc của mọi công việc ở cơ sở. Vận dụng sáng tạo nội dung
các nguyên tắc đạo đức cách mạng trong điều kiện KTTT hiện nay, có thể khái quát một
số yêu cầu cơ bản về đạo đức cách mạng đối với người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Việt
Nam như sau:
Thứ nhất, phải có lòng trung thành với Tổ quốc, với lý tưởng của Đảng Cộng sản
và con đường đi lên CNXH; góp phần tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, kiên quyết đấu
tranh chống những biểu hiện dao động, xa rời mục tiêu lý tưởng của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: Dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn, đó là
một truyền thống quý báu của ta. Lòng yêu nước, truyền thống quý báu đó của dân tộc đã
trở thành một yêu cầu đạo đức cao nhất của dân tộc Việt Nam. Bất cứ một người dân nào
cũng phải trau dồi phẩm chất đạo đức đó. Đối với người cán bộ, yêu nước trước hết là
phải trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng trong mọi thời kỳ. Đất nước
ta đã chuyển sang thời kỳ mới, thế và lực đã khác trước nhiều, đồng thời phải đương đầu
với những khó khăn, thách thức mới, rất quyết liệt.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo đất nước vượt qua biết bao khó
khăn, thử thách, có những lúc hiểm nghèo, cách mạng ở thế "ngàn cân treo sợi tóc" nhất
là khi mô hình XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ và tan vỡ. Nhưng đất
nước vẫn đứng vững, đổi mới đạt nhiều thành tựu, vượt ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội và tiếp tục đi lên. Đối với người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trung thành với Tổ quốc,
yêu nước, yêu CNXH là phải bảo vệ Đảng như "bảo vệ con ngươi của mắt mình", bảo vệ
thành quả cách mạng, chống mọi thế lực làm tổn hại đến đời sống của nhân dân. Phải tự
rèn luyện làm sao cho trái tim, tình cảm của mỗi cán bộ rung động trước mỗi niềm vui,
nỗi buồn của nhân dân và coi đó chính là niềm vui, nỗi buồn của chính bản thân, gia đình
mình. Phải có tình cảm cách mạng đó mới thôi thúc người cán bộ hăng say làm việc, hòa
mình, chịu khó tìm tòi, sáng tạo, gương mẫu trong mọi phong trào ở từng thôn, bản. Hiểu
được lịch sử, lối sống, tâm tư, nguyện vọng của bà con các dân tộc đang cùng chung sống
trên địa bàn từ đó xây dựng những giải pháp tối ưu cho công việc. Không chỉ đấu tranh
với bản thân trước những ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường, của đất lề quê thói,
người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn phải dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, kiên quyết
bảo vệ cái đúng, chống lại cái sai, chống lại những tàn tích lạc hậu của chế độ phong kiến
và nhiều hủ tục lạc hậu còn tồn tại trong đời sống đồng bào các dân tộc. Gương mẫu
trong việc phát ngôn, mỗi hành vi cử chỉ, thực hiện đường lối chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước. Trong điều kiện hiện nay, đòi hỏi người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
còn phải có năng lực tư duy chính trị nhạy bén. Bởi, chính sự nhạy cảm chính trị sẽ góp
phần tạo nên năng lực định hướng chính trị trong hoạt động nhận thức và tổ chức thực
tiễn của người cán bộ ở địa phương. Có như vậy người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở mới
góp phần vào việc làm thất bại mọi âm mưu kích động, quấy rối của các thế lực thù địch
trên quê hương mình, địa bàn mình phụ trách.
Thứ hai, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải luôn luôn trau dồi chủ nghĩa tập
thể chống chủ nghĩa cá nhân và bệnh quan liêu.
Khi đặt vấn đề chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng nền tảng đạo đức cách mạng,
Hồ Chí Minh đã đề cập đến chủ nghĩa tập thể và Người xem nó như mặt đối lập của chủ
nghĩa cá nhân, Người nói: "Tư tưởng XHCN nói tóm tắt là phải đặt lợi ích chung của cả
nước lên trên hết, lên trên lợi ích của cá nhân mình. Tư tưởng XHCN và tư tưởng cá nhân
chủ nghĩa chống đối nhau, nếu cứ lo cho mình, không lo cho làng nước thì không thể có
tư tưởng XHCN được". Người còn khẳng định: "Đạo đức cách mạng là đạo đức tập thể
nó phải thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân" [68, tr.21].
Chủ nghĩa tập thể đòi hỏi mọi người phải gắn bó, đoàn kết để tạo sức mạnh to
lớn cho cách mạng, sự gắn bó chặt chẽ đó phải dựa trên cơ sở tôn trọng ý kiến đa số,
đồng thời tôn trọng ý kiến của cá nhân, không lấy danh tập thể mà coi thường cá nhân,
coi thường thiểu số. Chủ nghĩa tập thể phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, sự
tiến bộ của cá nhân, đảm bảo cho sự tự do sáng tạo cũng như hoàn thiện nhân cách của
mỗi cá nhân.
Trong sự nghiệp xây dựng CNXH, mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể phải
được giải quyết một cách hài hòa giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích cộng đồng. Phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân vì nó là thứ bệnh nguy hiểm đẻ
ra hàng loạt các căn bệnh khác như: tham ô, hối lộ, lãng phí của công, cơ hội, bè phái,
cục bộ, vô tổ chức, vô kỷ luật và nhiều biểu hiện xấu xa như xu nịnh, mệnh lệnh, độc
đoán, chuyên quyền, ức hiếp quần chúng, triệt tiêu tính năng động, sáng tạo của quần
chúng nhân dân, dẫn tới mất ổn định, tác động tiêu cực đến sự vận động và phát triển mọi
mặt của đời sống xã hội. Vì thế, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: "chủ nghĩa cá nhân trái với
đạo đức cách mạng, nếu nó còn lại trong mình, dù là ít thôi thì nó sẽ chờ dịp để phát
triển, để che lấp đạo đức cách mạng" [52, tr.438]. "Do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian
khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, họ tự cao, tự đại, coi thường tập
thể xem nhẹ quần chúng, độc đoán chuyên quyền" [52, tr.439]. Nói đến tác hại của chủ
nghĩa cá nhân, Người còn khẳng định: "Một dân tộc, một Đảng và một con người, ngày
hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định ngày hôm nay và ngày mai vẫn
được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ
nghĩa cá nhân" [53, tr.557-558]. Trong điều kiện KTTT hiện nay, chủ nghĩa cá nhân đã
và đang có nguy cơ trỗi dậy ở một số cán bộ đảng viên, làm suy yếu hệ thống chính trị,
làm giảm lòng tin của nhân dân với chính quyền cách mạng. Như vậy, "chủ nghĩa cá
nhân là những kẻ biến chất, thoái hóa, có chức có quyền trong Đảng và Nhà nước đang
lợi dụng, ngụy trang và ngụy biện cho hành vi vô đạo đức của mình, gặm nhấm cơ thể xã
hội" [31, tr.20-23].
Chủ nghĩa cá nhân và bệnh quan liêu là "một thứ giặc trong lòng chúng ta", là kẻ
thù trong mỗi con người, mỗi cán bộ đảng viên. Nó thường ẩn náu kín đáo, khi có điều
kiện môi trường là trỗi dậy. Do đó, việc quét sạch chủ nghĩa cá nhân là trách nhiệm của
toàn xã hội. Mọi người, mọi tổ chức phải bằng mọi biện pháp để phòng ngừa, ngăn chặn
những điều kiện, môi trường làm phát sinh chủ nghĩa cá nhân. Trong đó, vai trò của mỗi
cá nhân người cán bộ, đảng viên có ý nghĩa vô cùng quan trọng, phải bằng lương tâm và
trách nhiệm để điều chỉnh những suy nghĩ và hành vi vô đạo đức đi ngược với những
chuẩn mực xã hội tiến bộ. Kinh nghiệm cho thấy, chiến thắng tiêu cực ở người khác, ở
ngoài xã hội đã khó, nhưng chiến thắng tiêu cực ở chính bản thân mình còn khó khăn hơn
nhiều.
Đối với người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trau dồi chủ nghĩa tập thể và chống chủ
nghĩa cá nhân là phải chấp hành nghiêm chỉnh Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy
chế, điều lệ của cơ quan, đơn vị mình. Nói phải đi đôi với làm. Có ý thức tự giác, luôn biết
đặt mình trong mối quan hệ mật thiết với tập thể, với nhân dân. Khắc phục chủ nghĩa cá nhân
ngay chính trong bản thân mình.
Thứ ba, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải luôn gương mẫu, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn mỗi cán bộ, đảng viên cần phải: cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư. Kế thừa tư tưởng đó của Người, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
"Cán bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện đạo đức, lối sống cần, kiệm, liêm, chính, chí
công, vô tư " [17, tr.28]. Do đó người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cũng phải ra sức thực
hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong sự nghiệp cách mạng của mình:
+ Cần: là cần cù trong lao động, tích cực chủ động, sáng tạo và đạt hiệu qủa cao
trong công việc mà mình đảm nhận. Đồng thời cần cù trong lao động còn đòi hỏi người
cán bộ phải biết khuyến khích và giúp đỡ người khác làm tốt công việc.
Tính hiệu quả trong lao động là một trong những yêu cầu khách quan, là chuẩn
mực quan trọng để đánh giá cán bộ tốt hay xấu, hoàn thành hay không hoàn thành nhiệm
vụ. Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải chuyên cần, phải yêu, say mê công việc mà
Đảng và nhân dân giao phó. Không nề hà gian khổ, không chủ quan, ỷ lại vào điều kiện
thuận lợi, tuyệt đối hóa hoàn cảnh khách quan. Phải thực hành lời dạy của Bác: "làm việc
phải đến đúng giờ, chớ đến trễ, về sớm. Làm cho chóng, cho chu đáo. Việc ngày nào nên
làm xong ngày ấy, chớ để chờ ngày mai. Phải nhớ rằng: dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để
trả lương cho ta trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân" [49, tr.104]. Trong
công tác lãnh đạo, quản lý cần phải đi sâu, bám sát quần chúng nhân dân, bám sát thực tế ở
cơ sở. Đặc biệt, trong điều kiện KTTT hiện nay, yêu cầu, nhiệm vụ của người cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ngày càng nặng nề. Đòi hỏi sự chuyên cần không chỉ trong công việc, trong
hoạt động thực tiễn mà còn phải chuyên cần trong học tập, trong suy nghĩ, biết tìm tòi sáng
tạo, đổi mới tư duy, biết phát hiện và nhân các sáng kiến kinh nghiệm hay từ đó vận dụng
vào cơ sở một cách thiết thực, hiệu quả. Khắc phục những bất cập hiện nay về trình độ,
chuyên môn, nghiệp vụ trong đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Đảng ta đã khẳng định: "Học
tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên... lười học, lười suy nghĩ, không
thường xuyên tiếp nhận những thông tin mới, những hiểu biết mới cũng là điều kiện của suy
thoái" [14, tr.14].
+ Kiệm: là tiết kiệm, không xa xỉ hoang phí, phải tiết kiệm thời gian, tiết kiệm
nhân lực, tiết kiệm trong sản xuất, trong đời sống sinh hoạt, tránh lãng phí của cải của cá
nhân, gia đình và xã hội. Mục đích của tiết kiệm là nâng cao hiệu quả của lao động sản
xuất. Để thực hành tiết kiệm người cán bộ không chỉ biết tự mình tiết kiệm mà phải biết
làm cho toàn dân tiết kiệm, đấu tranh với những hiện tượng tham ô, lãng phí, ăn cắp của
công. Ra sức thực hành tiết kiệm nhưng không đồng nghĩa với bủn xỉn, hà tiện. Đối với
người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiện nay thực hành tiết kiệm phải được xem là phương
châm trong cuộc sống, không những biết tiết kiệm tiền của, thời gian và sức lực của nhân
dân mà còn phải biết tạo ra những công ăn việc làm mới có hiệu quả thiết thực cho nhân
dân, mạnh dạn áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phục hồi và phát triển
các làng nghề truyền thống, tìm đầu ra cho các mặt hàng sản xuất tại địa phương... tạo
nền tảng cho sự phát triển bền vững ở cơ sở.
+ Liêm: là thanh liêm, là không tham ô, luôn tôn trọng giữ gìn của công, của
công dân.
Liêm thuộc bản chất của người cộng sản, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải
nhận thức sâu sắc và thường xuyên rèn luyện phẩm chất thanh liêm, phải tự nhận thấy
rằng tham lam là điều xấu hổ, kẻ tham tiền tài, địa vị thì sẽ có tội với nhân dân, với Đảng.
Một dân tộc biết cần, biết kiệm, biết liêm là một dân tộc tiến bộ. Do vậy, phải tích cực
ngăn chặn, hạn chế và đẩy lùi căn bệnh "quan không liêm", như tham ô, móc ngoặc, hối
lộ và nhận hối lộ, tư lợi, chạy chức, chạy quyền hiện nay, đồng thời tuyên truyền vận
động nhân dân thấy được trách nhiệm và quyền hạn của mình trong việc giám sát cán bộ
thực hiện chữ liêm.
+ Chính: là thẳng thắn, thấy phải dù nhỏ cũng phải làm, thấy trái dù nhỏ cũng
phải tránh. Khi nói tới chính, trước hết phải lấy mình làm đối tượng. Chính trực, ngay
thẳng là những đức tính không thể thiếu ở mỗi con người, mỗi gia đình và mỗi người cán
bộ. Là người làm việc công, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải công tâm, công đức,
chớ đem của công dùng vào việc tư, chớ đem người tư làm việc công, việc gì cũng phải
công minh, chính trực, không nên tư ân, tư huệ hoặc tư thù, tư oán. Không chỉ rèn luyện
mình theo chính nghĩa cách mạng mà còn phải đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực,
không chân chính ở người khác. Thực hành hiệu quả nguyên tắc phê và tự phê. Chớ lên
mặt làm quan cách mạng, chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những người tài năng hơn mình.
Chớ vì bà con, bạn bè mà kéo vào chức nọ, chức kia. Phải luôn trung thành với Đảng, với
nhân dân. Đó cũng chính là điều kiện để người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hoàn thành
nhiệm vụ công tác, được nhân dân tín nhiệm, cảm phục và noi theo.
+ Chí công vô tư. Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ phải giữ được cần, kiệm,
liêm, chính, là người chí công vô tư tức là chính tâm, thân dân. Mà một người chính tâm,
thân dân là người có ý thức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, của
Đảng lên trên hết.
Như vậy, chí công vô tư là đem lòng chí công, vô tư đối với người, với việc, ham
làm những việc ích nước, lợi dân, không ham địa vị quyền chức, công danh phú quý. Chí
công vô tư là chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà, chăm lo việc tập thể như chăm lo
việc gia đình. Cơ sở khách quan của chí công vô tư là quan hệ lợi ích, giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích cộng đồng, xã hội. Trong đó lợi ích riêng, lợi ích cá nhân chỉ có thể có
tính chân chính khi nó không đối lập với lợi ích chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
nhắc: làm cán bộ không phải để vinh thân phì gia, không phải là để làm quan phát tài mà
để phụng sự đất nước, phụng sự nhân dân.
Có thể khẳng định cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là cái cần để "làm việc,
làm người, làm cán bộ... phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân; Tổ quốc và nhân loại"
[49, tr.684]. Bằng chính hành động, việc làm cụ thể, bằng tấm gương về cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư sẽ là cơ sở để người cán bộ thuyết phục, quy tụ nhân dân, tổ chức
lực lượng quần chúng xung quanh mình thực hiện tốt mọi đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Thứ tư, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói phải đi đôi với làm, luôn khiêm tốn
và ham học hỏi.
Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người trực tiếp tiếp xúc với nhân dân hàng
ngày, là người tổ chức chỉ đạo, triển khai thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước đến với nhân dân. Đồng thời là người tập hợp ý chí nguyện vọng của
quần chúng nhân dân, dẫn dắt quần chúng nhân dân tham gia sản xuất tạo ra của cải vật
chất, không ngừng phát triển đời sống văn hóa tinh thần, giữ vững an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội ở cơ sở. Do đó, người cán bộ chủ chốt ở cơ sở, lời nói phải đi đôi
với việc làm, gắn đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước với thực tiễn của địa
phương.
Từ đường lối, chủ trương người cán bộ chủ chốt xây dựng chương trình kế hoạch
triển khai sao cho thật sát với thực tế của cơ sở với văn phong sáng rõ sao cho nhân dân
dễ tiếp thu và thực hiện. Cùng với việc hướng dẫn vận dụng đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước ở cơ sở sao cho phù hợp và đạt hiệu quả, người cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở còn phải là những người đi trước thực hành là tấm gương để bà con noi theo.
Tính khiêm tốn trong quan hệ xã hội, quan hệ công tác là mọi người phải luôn tự
xem xét, tự đánh giá về những ưu điểm, nhược điểm, việc gì đã thành công, việc gì thất
bại. Việc đánh giá này không chỉ vì bản thân mà còn có liên quan đến nhiều mặt, đến lợi
ích của người khác và của xã hội. Khi đánh giá phải có thái độ khách quan trung thực,
thực sự vô tư, phải dựa trên cơ sở phẩm chất đạo đức, ý thức chính trị, trình độ năng lực,
hoàn cảnh khách quan, chủ quan và hiệu quả công việc. Người có đức tính khiêm tốn là
người biết tôn trọng mọi người, biết trân trọng thành tích và công lao của người khác và
của tập thể. Người có đức tính khiêm tốn còn là người có lòng nhân ái, không tự cao tự
đại, lễ độ và khiêm nhường với mọi người. Tính khiêm tốn giúp người ta dễ gần gũi, tiếp
xúc với mọi người một cách tự nhiên, tạo cho người được tiếp xúc tình cảm dễ mến, ấm
áp và giản dị. Đồng thời còn giúp con người có điều kiện bộc lộ tình cảm cùng những
tâm tư trong cuộc sống một cách chân tình, cởi mở... Thông qua đó mà góp phần khắc
phục những thói hư như tính tự cao, tự đại, cửa quyền, hách dịch, coi thường người
khác... Nhờ có tính khiêm tốn mà mỗi người cán bộ sẽ tự khẳng định được mình để tiến
lên, biết sửa chữa những sai lầm khuyết điểm, có cách nhìn nhận công việc và con người
một cách cẩn trọng và đúng đắn. Đức tính khiêm tốn là một trong những đức tính cao
quý, có ý nghĩa lớn đối với người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
Hơn ai hết, đội ngũ cán bộ này phải luôn tự ý thức, tự rèn luyện, tự giáo dục và phấn đấu
để trở thành tấm gương cho đồng nghiệp và nhân dân địa phương.
Bên cạnh đức tính khiêm tốn, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải có tinh thần
ham học hỏi. Ham học hỏi là sự chăm chỉ, sự thích thú vươn tới những đỉnh cao tri thức
của con người và nhân loại. Học tập ở đây không chỉ là học trong nhà trường do Nhà
nước cấp bằng, cấp chứng chỉ mà còn bao hàm cả việc học ngoài xã hội, học bất cứ lúc
nào và ở đâu. Việc học phải được diễn ra thường xuyên, suốt đời với mục đích là để làm
người, làm việc và cùng chung sống. Vì thế, học tập là một hành vi đạo đức cao đẹp, chi
phối nhận thức và hành động của mỗi con người, góp phần hoàn thiện nhân cách của mỗi
người. Theo Lênin, chúng ta chỉ có thể xây dựng một xã hội mới trên cơ sở một nền học
vấn hiện đại, mà nếu không có nền học vấn đó thì CNXH, CNCS cũng chỉ là ước vọng
mà thôi.
Đẩy mạnh CNH, HĐH là nhiệm vụ then chốt của đất nước trong giai đoạn hiện
nay. Thực hiện nhiệm vụ này ở mỗi địa phương là vấn đề còn nhiều khó khăn, phức tạp,
nền kinh tế còn lạc hậu, thiếu thốn trăm bề, trong khi đó trình độ học vấn của nhân dân ta
còn thấp, số dân mù chữ vẫn còn. Do đó, đòi hỏi người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải
không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, khắc phục cho được chủ nghĩa
kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Phải chăm chỉ học tập để từng bước nắm vững khoa học
và công nghệ hiện đại, trước hết là những kiến thức trong lĩnh vực mình hoạt động để
hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. Nâng cao hơn nữa trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ quản lý, trình độ lý luận chính trị, khả năng chỉ đạo và tổng kết
thực tiễn đó là yêu cầu học tập đối với người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiện nay.
Tóm lại, tu dưỡng đạo đức cách mạng phải là việc làm thường xuyên, liên tục đối
với mọi cán bộ đảng viên mà nhất là đối với người cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Việc rèn
luyện đạo đức đối với người cán bộ trong mỗi môi trường và mỗi giai đoạn lịch sử khác
nhau có những khó khăn, phức tạp khác nhau. Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta
đang xây dựng nền KTTT định hướng XHCN thì việc tu dưỡng, rèn luyện và nâng cao
đạo đức cách mạng ở mỗi người cán bộ đảng viên trong đó có cán bộ chủ chốt ở cơ sở lại
càng khó khăn và phức tạp. Vì vậy, không ai trong mỗi chúng ta được chủ quan cho rằng
đạo đức của mình như thế là đủ, cũng như kiêu căng tự mãn về trình độ hiểu biết của
mình. Mỗi người cán bộ nói chung và người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng phải
không ngừng học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, bởi lẽ như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dạy: "Ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong" [52, tr.293].
Chương 2
Đạo đức người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc Giang hiện nay - Thực trạng và giải
pháp
2.1. Đạo đức người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang hiện nay -
Thực trạng và nguyên nhân
2.1.1. Thực trạng đạo đức người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang
hiện nay
2.1.1.1. Đôi nét về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến
đạo đức người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Giang hiện nay
Bắc Giang là tỉnh miền núi hoàn toàn nằm trong phần nội địa thuộc vùng Đông
Bắc nước ta. Tổng diện tích đất tự nhiên của Bắc Giang là 3.828,5km2. Địa hình phức
tạp, chủ yếu là đồi trung bình và núi cao, các huyện phía nam có đồng bằng xen kẽ với
đồi thấp. Bắc Giang có 09 huyện và 01 thành phố trực thuộc tỉnh (trong đó có 01 huyện
vùng cao, 06 huyện miền núi và 02 huyện có xã miền núi), gồm 227 xã, phường, thị trấn
(bao gồm 206 xã, 07 phường và 14 thị trấn), trong đó có 167 xã miền núi, 44 xã vùng cao
đặc biệt khó khăn. Dân số toàn tỉnh tính đến hết tháng 10 năm 2004 là 1.564.000 người.
Bắc Giang gồm 26 dân tộc trong đó có 08 dân tộc chính là: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Cao
lan, Sán chí, Sán dìu và Hoa. Mật độ dân số trung bình là 408 người/km2. Dân cư phân bố
không đều, nơi cao nhất là 3024 người / km2, nơi thấp nhất là 72 người / km2. Dân cư chủ
yếu sống ở địa bàn nông thôn, chiếm 91 % dân số cả tỉnh.
Bắc Giang là một miền quê có truyền thống văn hiến lâu đời. Chính những
truyền thống dân tộc tốt đẹp đã có ý nghĩa tích cực là cơ sở cho việc hình thành nhân
cách, phẩm chất đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc Giang hiện nay.pdf