Tài liệu Luận văn Xác định phương hướng, giải pháp đẩy mạnh hoạt động cải cách tư pháp đảm bảo quyền con người ở nước ta hiện nay: Luận văn
Xác định phương hướng, giải pháp
đẩy mạnh hoạt động CCTP đảm bảo
quyền con người ở nước ta hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Cải cách tư pháp nhằm đảm bảo quyền con người là vấn đề ưu
tiên hàng đầu của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam.
Tư pháp là nhánh quyền lực quan trong trong hệ thống tổ chức quyền
lực nhà nước. Tư pháp là lĩnh vực hoạt động nhằm đảm bảo nền an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo quyền tự do của con người, do đó vấn đề
CCTP luôn là ưu tiên hàng đầu trong quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước
theo hướng dân chủ, minh bạch và hiệu lực.
CCTP là một yêu cầu hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện bộ máy nhà nước hiện nay. Không phải đến bây giờ chúng ta mới
có chủ trương CCTP, tư pháp luôn được xem như là một bộ phận trọng tâm
cần phải cải cách để hoạt động có hiệu lực, hiệu quả nhằm đảm bảo các quyền
tự do của công dân. Nhận thức được vấn đề này, trong quá trình xây dựng và
hoàn...
140 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Xác định phương hướng, giải pháp đẩy mạnh hoạt động cải cách tư pháp đảm bảo quyền con người ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Xác định phương hướng, giải pháp
đẩy mạnh hoạt động CCTP đảm bảo
quyền con người ở nước ta hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Cải cách tư pháp nhằm đảm bảo quyền con người là vấn đề ưu
tiên hàng đầu của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam.
Tư pháp là nhánh quyền lực quan trong trong hệ thống tổ chức quyền
lực nhà nước. Tư pháp là lĩnh vực hoạt động nhằm đảm bảo nền an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo quyền tự do của con người, do đó vấn đề
CCTP luôn là ưu tiên hàng đầu trong quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước
theo hướng dân chủ, minh bạch và hiệu lực.
CCTP là một yêu cầu hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện bộ máy nhà nước hiện nay. Không phải đến bây giờ chúng ta mới
có chủ trương CCTP, tư pháp luôn được xem như là một bộ phận trọng tâm
cần phải cải cách để hoạt động có hiệu lực, hiệu quả nhằm đảm bảo các quyền
tự do của công dân. Nhận thức được vấn đề này, trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện bộ máy nhà nước, Đảng và Nhà nước luôn giành sự quan tâm đặc
biệt đến công tác CCTP. Ngay từ khi giành được độc lập, chúng ta đã bắt tay vào
xây dựng bộ máy tư pháp với tiêu biến bộ máy đó thành “một cơ quan trọng yếu
của chính quyền” (Hồ Chí Minh), và chỉ sau một thời gian ngắn, bộ máy tư pháp
đã được thiết lập trên phạm vi cả nước. Tư pháp đã giữ một vị trí quan trọng đối
với thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là công cụ đảm bảo trật tự, công bằng xã
hội, bảo vệ quyền con người.
Bước vào thời kỳ đổi mới, trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị
trường, đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của công dân, đòi hỏi bộ máy tư
pháp phải cải cách một cách triệt để và đồng bộ. Nhận thực được yêu cầu này,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng vấn đề CCTP, trong các văn kiện đại
hội Đảng, vấn đề xây dựng bộ máy nhà nước, trong đó có CCTP được xem là
một nhiệm vụ quan trọng. Hơn thế nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cụ thể
hoá các chủ trương này thành các nghị quyết chuyên đề về hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cải cách tư pháp; đó là, Nghị quyết số 48-NQ/TW; ngày
24/5/2005 Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW; ngày 02/6/2005 Về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020.
Nghị quyết số 49-NQ/TW Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 đã đặt ra nhiệm vụ CCTP, theo đó làm cho “các cơ quan tư pháp phải
thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người”1.
Đây là một yêu cầu nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện bộ
máy nhà nước theo hướng NNPQ của Đảng; chính vì vậy việc nghiên cứu cơ sở
lý luận, đánh giá thực trạng CCTP để đề ra phương hướng, giải pháp đẩy mạnh
CCTP nhằm đảm bảo các quyền con người ở nước ta trong giai đoạn từ nay đến
năm 2020 là hết sức cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu này,
một mặt là sự tổng kết, đánh giá một cách khách quan quá trình thực hiện Nghị
quyết 08-NQ/TW, Nghị quyết 49-NQ/TW, mặt khác nó cung cấp luận cứ khoa
học cho việc tiếp tục đẩy mạnh CCTP, bổ sung cương lĩnh của Đảng về xây
dựng bộ máy tư pháp trong sạch, vững mạnh, nghiêm minh, dân chủ, bảo vệ các
quyền con người.
1.2. Cải cách tư pháp nhằm đảm bảo các quyền con người là yêu cầu
quan trọng trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta
Nhà nước pháp quyền (NNPQ) là một mô hình tổ chức nhà nước chống
lại sự lạm quyền, đề cao, bảo vệ và tôn trọng các quyền con người. Quá trình
1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết của Bộ Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020", (Nghị quyết số 49-NQ/TW), xem tại: www.cpv.org.vn/tulieu/vankien/adj/%123.
xây dựng NNPQ đòi hỏi chính quyền phải chịu sự kiểm soát của pháp luật.
NNPQ yêu cầu chính quyền phải chịu sự ràng buộc bởi pháp luật để bảo vệ
con người, tư pháp là lĩnh vực có chức năng đảm bảo cho pháp luật được thực
hiện và bảo vệ con người. Do đó, việc xây dựng NNPQ không thể tách rời với
quá trình xây dựng, cải cách nền tư pháp, hướng tới một nền tư pháp công minh,
độc lập, hiệu quả, bảo vệ các quyền con người. Chính vì vậy, để xây dựng thành
công NNPQ ở Việt Nam, chúng ta cần phải đẩy mạnh CCTP nhằm đảm bảo tốt
hơn các quyền con người- một giá trị không thể thiếu của NNPQ.
Công cuộc CCTP trong bối cảnh xây dựng NNPQ đang đặt ra nhiều
vấn đề cần phải giải quyết trên phương diện chính trị - pháp lý. Quá trình này
đòi hỏi phải tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của con người với tính chất
là các giá trị xã hội cao quí, được thừa nhận chung của nền văn minh nhân
loại, nếu như không được bảo vệ bằng hệ thống toà án công minh, độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật, thì khó có thể xây dựng thành công NNPQ. Chính
hoạt động CCTP sẽ góp phần làm cho: (1) cơ sở của quyền lực nhà nước thực
sự là ý chí của nhân dân; (2) đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp và pháp
luật trong tổ chức và hoạt động của bộ máy công quyền; (3) các quyền tự do
của con người được đảm bảo thông qua những cơ chế pháp lý và hệ thống
pháp luật.
Xuất phát từ những bình diện đã phân tích trên cho thấy rằng việc
CCTP nhằm đảm bảo các quyền con người ở Việt Nam là vấn đề cần được
nghiên cứu một cách kỹ càng cả về lý luận và thực tiễn.
1.3. Xuất phát từ hoạt động của các cơ quan tư pháp, vấn đề cải cách
tư pháp nhằm đảm bảo các quyền con người là yêu cầu bức thiết hiện nay.
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 02/6/2005 Về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ ra những hạn chế của công tác
CCTP: “Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng
tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy,
chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý…
Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử”1. Những
bất cập, hạn chế đó thể hiện cụ thể trong tổ chức và hoạt động tư pháp trên các
mặt sau:
- Sự tổ chức bất hợp lý của Toà án đã dẫn tới tình trạng quá tải trong
việc xét xử các vụ án dân sự, hình sự, kinh tế, lao động ở các thành phố lớn.
Qua các số liệu thống kê về thực tiễn xét xử của TAND các cấp cho thấy ở
một số quận thuộc các thành phố lớn hàng năm số lượng các vụ án cần xét xử
bao gồm: hình sự, kinh tế, dân sự, lao động, hành chính nhiều hơn số lượng
các vụ án tương ứng ở một số tỉnh. Ở các quận này, trung bình một Thẩm
phán một năm phải xét xử tới cả trăm vụ án, trong khi ở một số Tòa án thuộc
các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, mỗi năm mỗi Thẩm phán chỉ xét xử
dăm bảy vụ án.
Cũng với cách tổ chức tòa án như hiện nay, các Tòa chuyên trách được
tổ chức ở TAND tối cao và tất cả các TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương nhằm mục đích là chuyên môn hóa công việc của các Thẩm phán.
Tuy nhiên, điều này lại đang làm nảy sinh một số bất hợp lý: Thứ nhất, vì ở
nước ta, các vụ án hình sự (VAHS) vẫn chiếm một tỷ lệ cao so với các loại án
khác nên các Thẩm phán của Tòa hình sự luôn luôn phải làm việc với cường
độ cao hơn nhiều so với các Thẩm phán khác và để khắc phục tình trạng này,
các TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lẫn Toàn phúc thẩm,
TAND tối cao trên thực tế đều phải tăng cường Thẩm phán ở các Tòa khác
sang xét xử các vụ án hình sự, vì vậy, mục đích chuyên môn hóa công tác xét
xử của các Thẩm phán đã không thực hiện được; Thứ hai, việc tổ chức ra các
tòa chuyên trách không được tiến hành đồng bộ với việc phân định thẩm quyền
1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết của Bộ Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020", (Nghị quyết số 49-NQ/TW), xem tại: www.cpv.org.vn/tulieu/vankien/adj/%123
thụ lý hồ sơ vụ việc giữa các tòa, nên có tình trạng khi người dân đến nộp hồ sơ
khởi kiện thì họ không biết nộp ở tòa nào vì có những trường hợp các tòa đều
cho rằng vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Điều này có
nghĩa là việc tồn tại các tòa chuyên trách như cách hiện nay đang gây những
khó khăn cho người dân khi tham gia vào các quan hệ tố tụng, đây là một hiện
tượng không mang tính pháp quyền đang diễn ra trong thực tiễn xét xử.
Với cách tổ chức toà án như hiện nay thì nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” còn đang có
nhiều vướng mắc. Mặc dù được coi là một ngành dọc nhưng sự tồn tại và hoạt
động của các tòa phải diễn ra và bị quản lý về mặt lãnh thổ của một cấp chính
quyền nên luôn bị ảnh hưởng ít nhiều bởi cấp chính quyền tương đương.
- Việc đổi mới hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) đối
với nhiệm vụ kiểm sát tư pháp vẫn còn khá nhiều vấn đề chưa rõ. Nếu tính từ
thời điểm tiến hành cải cách tổ chức và hoạt động của hệ thống VKSND theo
các quy định của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi và luật Tổ chức VKSND năm
2002 thì vẫn nhận thấy sự chưa rõ ràng về vị trí, thẩm quyền của VKSND trong
các hoạt động kiểm sát, đặc biệt là về hình thức thực hiện và giới hạn của hoạt
động kiểm sát trong lĩnh vực tư pháp về kinh tế, dân sự, lao động.
- Những bất cập của hệ thống cơ quan tư pháp cũng bộc lộ rất rõ ở tình
trạng chưa rõ ràng trong quan hệ trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các cơ
quan điều tra; ở tính phức tạp, chồng chéo, nhiều đầu mối và không hiệu quả của
hệ thống cơ quan thi hành án; ở cơ chế không mấy thuận lợi cho việc thực hiện
chế độ tranh tụng và phát huy vai trò của Luật sư; ở những hạn chế trong tổ chức
và hoạt động của các cơ quan quản lý tư pháp và các cơ quan bổ trợ tư pháp…
- Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ và
năng lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh,
sa sút về phẩm chất. Đó cũng là tình trạng cơ sở vật chất, điều kiện làm việc
của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu công tác, nhất là ở cấp
huyện nhiều nơi trụ sở còn rất chật chội, phương tiện làm việc vừa thiếu vừa
lạc hậu, chính sách đối với cán bộ tư pháp chưa tương xứng với nhiệm vụ và
chức trách được giao.
Thực trạng trên cho thấy, mặc dù đã có những nỗ lực rất lớn nhưng mô
hình tổ chức và hoạt động hiện nay vẫn đang hạn chế đáng kể hiệu quả của
hoạt động tư pháp. Trong bối cảnh xây dựng NNPQ XHCN đòi hỏi chúng ta
phải tiếp tục đẩy mạnh CCTP nhằm mục tiêu đảm bảo một cách tốt nhất các
quyền con người.
Từ những luận giải trên cho thấy, CCTP nhằm đảm bảo các quyền con
người cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận lẫn
hoạt động thực tiễn. Đây là một việc làm hết sức cấp bách và cần thiết, đòi hỏi
chúng ta phải có sự nghiên cứu đầy đủ về vấn đề này, qua đó cung cấp luận cứ
khoa học cho việc đẩy mạnh cải cách tư pháp, đưa ra những phương hướng và
giải pháp đẩy mạnh hoạt động CCTP nhằm đảm bảo quyền con người trong giai
đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Kể từ khi xuất hiện xã hội giai cấp, ý tưởng và mong muốn về một xã
hội tự do, bình đẳng, được bảo vệ và tôn trọng các quyền con người luôn là
ước mơ cháy bỏng của nhân loại. Những ý tưởng này, thoạt nhiên ban đầu
chưa được thể chế hoá thành luật pháp, nó chỉ tồn tại trong văn học thành văn
và truyền miệng, hay trong các triết lý tôn giáo. Khởi đầu của sự phân chia
giai cấp là sự ra đời của xã hội chiếm hữu nô lệ và Nhà nước chiếm hữu nô lệ,
với bản chất giai cấp là công cụ duy trì sự thống trị, đàn áp của giai cấp chủ
nô đối với nô lệ. Nô lệ, khi ấy hoàn toàn không được coi là con người, chỉ là
“công cụ lao động biết nói”, vì vậy cũng không thể nói có quyền con người.
Và nói như V.I. Lenin: “Nhà nước chủ nô bao giờ cũng là một bộ máy đem lại
cho chủ nô quyền lực và khả năng cai trị tất cả những người nô lệ… là một bộ
máy để duy trì những người nô lệ trong địa vị phụ thuộc và cho phép một bộ
phận này của xã hội (giai cấp chủ nô) cưỡng bức và đàn áp bộ phận kia (giai
cấp nô lệ)”1, còn nói theo Jean Jacques Rousseau thì: “quyền nô lệ là con số
không, chẳng những nó không chính đáng, mà còn mơ hồ, vô nghĩa lý. Chữ
nô lệ và chữ quyền là hai chữ mâu thuẫn nhau, bài trừ lẫn nhau. Nói quyền nô
lệ của một người đối với một người hay của một người đối với một dân tộc đều
là nói điều vớ vẩn”2.
So với xã hội nô lệ, địa vị của người nông dân trong xã hội phong kiến có
khác hơn, nhưng “trên thực tế địa vị của người nông dân chỉ khác rất ít địa vị của
nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ”, bởi lẽ “ở đâu người nông dân đều bị đối xử
như là một đồ vật, như là một súc vật thô hoặc còn tồi tệ hơn nữa”, và cũng như
nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến với các thiết chế tổ chức và
pháp luật phải bảo vệ chế độ sở hữu của địa chủ phong kiến, duy trì các hình
thức bóc lột phong kiến, trấn áp nông dân và các tầng lớp lao động khác.
Cùng với nhà nước là nhà thờ với các thiết chế tôn giáo hà khắc đã vi
phạm các quyền con người một cách nghiêm trọng, điều này đã dẫn tới sự
phản kháng của các tầng lớp bị áp bức, song những sự phản kháng này cũng
nhanh chóng bị dẹp tan. Ý tưởng đề cao các giá trị nhân văn, nhân bản, các
quyền tự do chỉ phát triển một cách mạnh mẽ ở thời kỳ Khai sáng. Đây là thời
kỳ xuất hiện các trào lưu tư tưởng đề cao tính pháp quyền, quyền tự do của
công dân phát triển một cách hết sức mạnh mẽ, nó trở thành ngọn cờ của giai
cấp tư sản kêu gọi đông đảo những người bị áp bức chống lại các giai cấp
tầng lớp đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản.
1 V.I. Lenin (1905), Toàn tập, tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, Mat-cơ-va, 1978, tr. 85.
2 Jean Jacques Rousseau (1762), Bàn về khế ước xã hội, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr. 39.
Trong thời kỳ này, đã xuất hiện nhiều tác phẩm cổ vũ quyền tư do cá
nhân, đòi nhà nước phải pháp lý hoá các quyền con người và đảm bảo thực
hiện trên thực tế. Ở giai đoạn này có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu
biểu như: Những thành tố của pháp luật tự nhiên và chính trị (The Elements
of Law Natural and Politic, 1649), Công dân (The Citizent, 1651), của T.
Hobber; Chuyên luận thứ hai về chính quyền dân sự (The Second Treatise of
Civil Government, 1690), Lá thư về sự khoan dung (The Letter on Toleration,
1692)… của J. Locke; Những lá thư Ba Tư (Lettres Persanes, 1721), Tinh
thần pháp luật (The Spirit of the Laws, 1748),.. của C.L. Mongtesquier; Khế
ước xã hội (The Social Contract, 1762), của J.J. Rousseau…
Theo các nhà tư tưởng thời kỳ Khai sáng, con người đã trải nghiệm để
tìm các phương thức và các thiết chế để đảm bảo, quyền lợi của mình. Trong
xã hội phong kiến, khi mọi quyền hành nằm trọn vẹn trong tay một người -
nhà vua, vua nắm quyền lực tối cao trong việc ban hành pháp luật, thi hành
luật pháp và thực hiện việc xét xử, thì mọi biểu hiện của tự do, công lý và
bình đẳng đều trở nên xa lạ. Quyền con người là những quyền tự nhiên, không
thể bị tước đoạt bởi giai cấp thống trị, Locke đã chỉ ra rằng: “trong “trạng thái
tự nhiên” con người có các quyền tự do, bình đẳng và tư hữu. Các quyền này
bắt nguồn từ bản chất muôn đời và bất biến của con người và bởi vậy không
ai có thể làm thay đổi được chúng”1. Montesquieu trong Tinh thần của pháp
luật đã phát triển thêm tư tưởng của Locke về quyền tự nhiên và cho rằng
“trong trạng thái tự nhiên, mọi người sinh ra bình đẳng”2 và sau này trong Bàn
về khế ước xã hội, Jean-Jacques Rousseau nhà tư tưởng vĩ đại trong thời Khai
sáng cũng đã viết: Người ta sinh ra tự do, nhưng rồi đâu đâu con người cũng
1 Locke (1690), Chuyên luận thứ hai về chính quyền dân sự (The Second Treatise of Civil
Government), bản dịch của Trần Tiễn Cao Đăng, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2003, tr.80.
2 C.L. Mongtesquier (1748), Tinh thần pháp luật (The Spirit of the Laws), bản dịch của Hoàng
Thanh Đạm, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr.87.
sống trong xiềng xích1, vậy tự do và quyền con người là cơ sở tự nhiên, nhưng
sự mất tự do, quyền con người chính là do chế độ nhà nước, chế độ xã hội.
Sự xuất hiện khái niệm quyền con người trong thời kỳ cách mạng tư sản
với nội dung ban đầu là quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền tư
hữu; tiếp đến chế định quốc tịch, quyền bầu cử của công dân được thiết lập và
khẳng định, đó là các quyền tự nhiên, gắn với mỗi cá nhân. Các quyền tự nhiên
đó của con người từ chỗ chỉ là yêu sách đến sự ghi nhận, bảo đảm bằng pháp
luật của nhà nước do Nghị viện ban hành, và lúc đó sẽ nảy sinh việc phán xét
các vi phạm quyền con người cũng như các thiết chế quyền lực để bảo vệ
quyền con người, đó là các thiết chế tư pháp. Và chỉ đến lúc này mới xuất hiện
yêu cầu cải cách, cải tổ các thiết chế quyền lực nhà nước để đảm bảo thực hiện
tốt các quyền con người, trong đó có cải cách trên lĩnh vực tư pháp.
Cải cách bộ máy nhà nước để quản lý xã hội một cách hiệu quả, đảm
bảo việc thực hiện các quyền con người là yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển
dân chủ ở mỗi quốc gia. Cùng với đó, vào giữa thế kỷ XX, vấn đề quyền con
người trở thành vấn đề mang tính toàn cầu, thu hút được sự quan tâm của
nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế. Các công trình nghiên cứu về quyền con
người ở giai đoạn này tập trung vào nhiều vấn đề như quyền dân sự, chính trị,
văn hoá; quyền của các nhóm dễ bị tổn thương… Chúng ta thấy, có sự kết
hợp chặt chẽ, sự giao thoa của hai vấn đề nghiên cứu, đó là cải cải tư pháp và
quyền con người. Trong hoạt động thực tiễn, quyền con người chỉ được đảm
bảo thực hiện nghiêm túc khi có sự đảm bảo bởi một nền tư pháp nghiêm
minh, hiệu lực.
Trong khuôn khổ nghiên cứu này, chúng tôi chỉ liệt kê, mô tả các công
trình nghiên cứu cải cách tư pháp có liên quan đến việc đảm bảo quyền con
1 J.J. Rousseau (1762), Khế ước xã hội (The Social Contract), bản dịch của Hoàng Thanh Đạm,
Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr.34.
người. Hoạt động tư pháp là hoạt động có tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện
quyền tự do, quyền dân chủ, quyền sống của con người, nó biểu hiện qua các
hoạt động tư pháp như: khởi tố, điều tra, tạm giam, tạm giữ, xét xử, thi hành
án… Các công trình nghiên cứu này thường được chia làm hai loại: (1) các công
trình nghiên cứu của cá nhân; (2) các báo cáo, văn kiện của các tổ chức quốc tế.
- Danh mục các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài có
liên quan đến đề tài:
1. Locke (1690), Chuyên luận thứ hai về chính quyền dân sự (The
Second Treatise of Civil Government), bản dịch của Trần Tiễn Cao Đăng,
Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2003, tr.80.
2. Mongtesquier (1748), Tinh thần pháp luật (The Spirit of the Laws),
bản dịch của Hoàng Thanh Đạm, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005;
3. J.J. Rousseau (1762), Khế ước xã hội (The Social Contract), bản dịch
của Hoàng Thanh Đạm, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005;
4. Locke (1690), Chuyên luận thứ hai về chính quyền dân sự (The
Second Treatise of Civil Government), bản dịch của Trần Tiễn Cao Đăng,
Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2003;
5. S. Ogourtsov (1985), Sự tham gia của RSS ở Biélorussie vào cuộc
đấu tranh cho quyền con người Minsk : Ed. Belarus;
6. F.A. Hayek and Raymond plant / Joãn Carlos Espada (1996), Quyền
dân sự xã hội MacMillan press Ltd St. Martin''s press, Inc;
7. Liên hiệp quốc (1992), Những quyết định được lựa chọn bởi Uỷ ban
nhân quyền dưới dạng nghị định thư mang tính lựa chọn: Hội nghị quốc tế
về quyền công dân và quyền chính New York Geneva : Vol.5 IV, 194p.;
8. Liên hiệp quốc (2004), Nghị định thư Istanbul: Ghi nhận về những
điều tra và những bằng chứng dùng nhục hình và những sự hành hạ khác
trong việc đối xử và trừng phạt con người Geneva New York: X, 75p:fing;
28cm (Professional traning series; No.8 / rev.1);
9. Liên hiệp quốc (2005) Quyền con người và tù nhân: Những ghi
nhận về thực thi quyền con người của các giám thị nhà tù New York Geneva :
United Nations, 2005-IX, 221p;
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Nghiên cứu về CCTP, đảm bảo quyền con người là vấn đề được Đảng,
Nhà nước cùng các nhà khoa học hết sức quan tâm, đặc biệt kể từ khi chúng
ta thực hiện công cuộc đổi mới. Đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề
này, các công trình tiếp cận vấn đề dưới nhiều góc độ, mục tiêu, phương pháp
nghiên cứu khác nhau; thể hiện công trình dưới nhiều dạng khác nhau như:
luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ; đề tài nghiên cứu khoa học; sách chuyên
khảo, các bài đăng tạp chí chuyên ngành… Để khảo sát tình hình nghiên cứu
của vấn đề, chúng tôi đã phân loại các cách tiếp cận như sau:
- Tiếp cận trên góc độ nghiên cứu lý luận chung về quyền con người,
gồm có các công trình nghiên cứu: (1) Chương trình KX-07 (do GS.TS Phạm
Minh Hạc làm chủ nhiệm) : Con người, mục tiêu và động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội; mã số 07-16; chủ nhiệm GS, TS Hoàng Văn Hảo; công
trình nghiên cứu đã được Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người biên tập
hai tập chuyên khảo Quyền con người, quyền công dân, xuất bản năm 1995;
(2) Quyền con người trong thế giới hiện đại do PGS. Phạm Khiêm Ích và
GS.TS Hoàng Văn Hảo đồng chủ biên, Viện Thông tin khoa học xã hội xuất
bản năm 1995…
- Tiếp cận trên góc độ xây dựng, hoàn thiện pháp luật, gồm có: Luận án
tiến sỹ luật học của tác giả Nguyễn Văn Mạnh; luận văn thạc sỹ của tác giả
Hoàng Hùng Hải; Mai Thị Chung,Vũ thị Thu Quyên…
- Tiếp cận trên góc độ tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước (trong
đó có cơ quan tư pháp) trong việc bảo đảm quyền con người có các công trình:
Luận án tiến sỹ của tác giả: Đinh Xuân Nam, Nguyễn Văn Tuân,
Tường Duy Kiên, Nguyễn Huy Hoàn,…luận văn thạc sỹ của Nguyễn Tiến
Long, Lê Minh Thắng;
Đề tài KX-05-07 (thuộc chương trình KX.05) về Nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp nước ta với nhiệm vụ xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; chủ nhiệm Nguyễn Văn Thảo,
nghiệm thu 2005;
Đề tài KX-07-16: Về các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền
công dân trong sự nghiêp đổi mới đất nước năm 1995”do GS.TS Hoàng Văn
Hảo làm chủ nhiệm;
Sách chuyên khảo của các tác giả: Vũ Ngọc Bình (2000); Đào Trí Úc,
Trần Thị Tuyết, Nguyễn Việt Hương (2003); Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Chí
(2004); Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý (Tổng hợp các kiến nghị khoa học
góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp);
Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác đã được
đăng tải trên tạp chí chuyên ngành như tạp chí Nhà nước và pháp luật, tạp chí
Dân chủ và pháp luật, tạp chí Tòa án nhân dân, tạp chí Nghiên cứu Lập pháp…
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng công tác CCTP, qua đó
xác định phương hướng, giải pháp đẩy mạnh hoạt động CCTP đảm bảo quyền
con người ở nước ta hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, đề tài sử dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; ngoài ra, đề tài còn
sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:
- Phương pháp phân tích, so sánh;
- Phương pháp tổng hợp;
- Phương pháp lô-gic và lịch sử;
- Phương pháp khảo cứu tài liệu;
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Đề tài là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có
hệ thống và tương đối toàn diện về vấn đề CCTP với việc đảm bảo quyền con
người ở nước ta;
- Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần làm phong phú hơn lý luận về
quyền con người, về CCTP nói chung và cải cách tư pháp nhằm đảm bảo
quyền con người nói riêng;
- Đề tài đề xuất phương hướng và những giải pháp cải cách tư pháp
nhằm đảm bảo các quyền con người trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN
của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay.
6. Kết cấu Báo cáo tổng hợp nghiên cứu
Báo cáo kết quả tổng hợp nghiên cứu gồm 3 chương, 9 tiết với các nội
dung sau:
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH TƯ PHÁP
1.1. CƠ QUAN TƯ PHÁP- MỘT TRONG NHỮNG THIẾT CHẾ
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI HIỆN NAY
1.1.1. Quan niệm về quyền con người và đảm bảo quyền con người
trong quá trình cải cách tư pháp
1.1.1.1. Quan niệm chung về quyền con người.
Quyền con người là phạm trù chính trị - pháp lý, sự ra đời của khái
niệm quyền con người gắn liền với các cuộc cách mạng dân chủ tư sản lật đổ
chế độ phong kiến, xã hội thần dân thế kỷ XVII, XVIII. Ở Anh, khái niệm đó
nằm trong Luật về các quyền (1689); ở Mỹ, nằm trong Tuyên ngôn độc lập
(1776) và Hiến pháp (bổ sung, 1789); ở Pháp, nằm trong Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền (1789); và về sau khái niệm này được ghi nhận trong các
văn kiện quốc tế do Liên hiệp quốc khởi xướng.
Theo quan điểm của các nhà triết học, chính trị học thời kỳ Khai sáng
(thế kỷ XVII-XVII) thì quyền con người là các quyền không thể tước bỏ
được; đây là các quyền tự nhiên (natural right) do tạo hóa ban cho họ. Tiêu
biểu cho quan điểm này là Thomas Hobbes (1588-1679), Jonh Locke (1632-
1704) và Thomas Paine (1731-1809) Đây là những quyền mang tính bẩm
sinh, vốn có của các cá nhân, khi sinh ra đã được thừa hưởng, bởi vì họ là
thành viên của nhân loại. Các quyền này không không một xã hội hay một
chính phủ nào có thể ban phát, xóa bỏ hoặc “chuyển nhượng” và nó không
phụ thuộc vào các phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa,… đây là các
quyền vốn có của các cá nhân. Các quyền đó bao gồm: quyền tự do ngôn
luận, quyền tự do tín ngưỡng và nhận thức, quyền tự do lập hội và quyền
được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, đây chưa phải là bản liệt
kê đầy đủ các quyền của công dân trong một nền chính trị dân chủ. Theo quan
niệm phương Tây thì các xã hội dân chủ phải thừa nhận các quyền con người
mà bất kỳ chính phủ dân chủ nào cũng phải duy trì, vì các quyền này tồn tại
không phụ thuộc vào chính phủ, do đó chúng không thể bị luật pháp bãi bỏ
cũng như không phụ thuộc vào ý muốn nhất thời của đa số cử tri nào đó.
Trong các tác phẩm như: An Easy Concerning Human Understanding
(1690), Second Tract Government (1662), Questions Concerning the Law of
Nature (1664)… J. Locke cho rằng chính phủ được lập ra nhằm để bảo vệ các
“quyền tự nhiên” của cá nhân con người trước sự xâm phạm của cộng đồng;
nhà nước không phải thế lực ban phát các quyền con người và J. Locke đi đến
kết luận: nhà nước chỉ tồn tại hợp pháp (và cũng là lý do mà nhân dân cần đến
nhà nước) khi nó thừa nhận, tôn trọng, thúc đẩy các quyền con người - những
quyền vốn có do “tự nhiên” ban tặng. Trong tác phẩm Right of Man (1791) T.
Pain cho rằng, các quyền không phải do chính phủ ban phát, bởi lẽ điều đó
đồng thời cho phép các chính phủ được rút lại các quyền ấy theo ấy theo ý chí
của họ1.
Ngược lại với các quan điểm cho rằng quyền con người là quyền tự
nhiên là học thuyết cho rằng quyền con người là quyền pháp lý (legal right).
Các học giả tiêu biểu cho quan điểm này là: Edmund Burke (1727-1797) và
Jeremy Bentham (1748-1832). Theo đó, các quyền con người không phải tự
nhiên mà có mà nó phải được thừa nhận và luật hoá. Các quyền này phụ thuộc
vào ý chí của nhà nước (tức giai cấp thống trị) và truyền thống văn hóa, các
phong tục tập quán.
1 Xem: Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng - đồng chủ biên (2009), Giáo trình lý
luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 45.
Những quan điểm gắn các quyền con người với luật pháp đã được thừa
nhận từ lâu. Trong lịch sử phát triển của quyền con người, nhân loại đã chứng
kiến sự tồn tại của các hình thức pháp lý nay. Khởi đầu là Bộ luật cải cách,
của Urukagina, đây là bộ luật được biết đến sớm nhất (khoảng năm 2350
TCN), trong bộ luật này đã nói đến những khái niệm về quyền con người, tuy
nhiên văn bản chính thức bộ luật đó hiện vẫn chưa được tìm thấy.
Một trong những bộ luật cổ hiện còn ngày nay là Luật Ur-Nammu
(khoảng năm 2050 TCN) và Bộ luật Hammurabi (khoảng 1780 TCN) đây là
những bộ luật xa xưa nhất ghi nhận về các quyền con người, kể cả nữ quyền,
quyền trẻ em, và quyền của nô lệ. Mặt khác, quyền con người vẫn còn được
ghi nhận trong các tài liệu tôn giáo, dĩ nhiên không nhiều lắm. Kinh Vệ đà,
Kinh Thánh, Kinh Koran và sách văn tuyển Luận Ngữ của Khổng Tử cũng
nằm trong số những tài liệu ra đời sớm đã nêu ra những vấn đề về nghĩa vụ,
quyền, và bổn phận của con người.
Hiện nay trụ Cyrus (hay Cyrus Cylinder) được cho là hiến chương đầu
tiên của nhân quyền thế giới, “ra đời trước hiến chương Magna Carta hơn một
ngàn năm”. Trụ này có từ thời hoàng đế Cyrus Đại đế (559-530 TCN), người
sáng lập ra nước Iran, đã có một bản mẫu của trụ được Iran tặng cho Liên
hiệp Quốc vào năm 1971.
Hiến chương Magna Carta của người Anh lần đầu tiên được công bố
năm 1215. Hiến chương này có ảnh hưởng đến sự phát triển của thông luật
(common law) và nhiều văn kiện, tài liệu liên quan đến quyền con người như
Hiến pháp Hoa Kỳ, đặc biệt là Đạo luật Nhân quyền (Bill of Rights)… Hiến
chương Magna Carta còn là một trong những tài liệu pháp lý đầu tiên tiết chế
quyền lực của nhà nước để bảo vệ các quyền của công dân nước đó. Hiện nay,
giá trị còn tồn tại lớn nhất của nó là luật bảo thân (habeas corpus - thân xác
thuộc về người). Quyền này phát sinh từ các điều 36, 38, 39 và 40 của Hiến
chương Magna Carta năm 1215; nó cũng bao gồm due process of law (luật
tôn trọng tất cả các quyền hợp pháp của công dân)1.
Hai luồng tư tưởng bàn về nguồn gốc của quyền con người hiện vẫn
còn gây nên nhiều tranh cãi, và nhận thức của nhân loại hiện vẫn đang bị chia
rẽ bởi vấn đề này. Việc phân định tính đúng sai của hai quan điểm này là vấn
đề hết sức khó khăn, bỏi vì quyền con người là phạm trù phức tạp, nó liên
quan đến nhiều ngành khoa học như luật học, triết học, xã hội học, chính trị
học, đạo đức học… Mặc dù thừa nhận quyền con người có nguồn gốc tự
nhiên hay nguồn gốc pháp lý thì có một thực tế rằng các quyền này vẫn phải
được ghi nhận và đảm bảo thực hiện dưới những hình thức pháp lý cụ thể. Và
chỉ thông qua sự thể chế này các quyền con người mới có cơ chế đảm bảo
thực hiện. Theo nghĩa đó, pháp luật là công cụ quan trọng để pháp lý hóa,
pháp điển hóa các quyền tự nhiên của con người, đồng thời nó cũng là
phương tiện quan trọng để đảm bảo thực hiện các quyền đó.
Khái niệm về quyền con người hiện đại chủ yếu bắt nguồn từ châu Âu,
tuy nhiên cần khẳng định rằng, khái niệm tự do và công bằng xã hội - những
khái niệm cơ bản của quyền con người, nằm trong tất cả mọi nền văn hóa.
Các nội dung đầu tiên của quyền con người quốc tế thực sự có thể được tìm
thấy trong các Hiệp định về Quyền tự do tôn giáo, Công ước Westphalia năm
1648 và việc cấm chế độ chiếm hữu nô lệ như tuyên ngôn về việc buôn bán
nô lệ của Quốc hội Vienna vào năm 1815, việc sáng lập Xã hội chống chế độ
chiếm hữu nô lệ Mỹ vào năm 1833 và Công ước quốc tế về chống chế độ
chiếm hữu nô lệ năm 1926.
Khái niệm quyền con người phổ biến cho tất cả loài người mới được
các nước chấp nhận sau chiến tranh thế giới lần II. Vào những năm 1940-
1950, dưới sự lãnh đạo của Roosevelt, René Cassin và Joseph Malik, Liên
1 Xem: wikipedia
hiệp quốc đã soạn thảo nên bản Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, kể
từ đó, quyền con người đã trở thành một khái niệm rộng khắp thế giới có ảnh
hưởng lớn đến nhiều quốc gia, đó là khái niệm về các quyền văn hóa, kinh tế
và xã hội, quyền tự quyết và quyền phát triển, quyền tự do không bị phân biệt
chủng tộc, quyền bình đẳng về tư pháp...
Theo một thống kê của Liên hiệp quốc thì hiện nay đã có khoảng hơn
50 định nghĩa khác nhau về quyền con người đã được công bố. Theo cách tiếp
cận của Liên hiệp quốc thì quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn
cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động (action) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn
hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người.
Bên cạnh đó, người ta vẫn tiếp cận quyền con người dưới khía cạnh là
những sự được phép (entitlement) mà tất cả các thành viên của cộng đồng
nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội…; đều
có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người (cách tiếp cận này
mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên)1.
Khi được thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người trở thành
một phần không thể thiếu của hệ thống Liên hiệp quốc. Mặc dù, Liên hiệp
quốc đã lên tới 191 thành viên nhưng không một quốc gia nào thực sự nghi
ngờ tuyên ngôn này, nhờ đó đến nay phần lớn nội dung của tuyên ngôn đã trở
thành tập quán luật quốc tế về quyền con người, dựa trên sự chia sẻ các giá trị
chung đã được nhất trí theo khuôn khổ của Liên hiệp quốc, trong đó bao gồm
các yếu tố hình thành nên đạo đức toàn cầu.
Theo quan điểm được đông đảo cộng đồng quốc tế thừa nhận thì quyền
con người mang các thuộc tính cơ bản là: tính phổ biến, tính không thể
1 Xem: Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng - đồng chủ biên (2009), Giáo trình lý
luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 41-42.
chuyển nhượng, tính không thể phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.
Ở Việt Nam, đã có nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu đưa ra những định
nghĩa, cách tiếp cận khác nhau về vấn đề quyền con người. Mặc dù còn có
những điểm khác nhau, song phần lớn họ đều thống nhất quyền con người là
những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi
nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế1.
Quyền con người là những chuẩn mực mang tính toàn cầu, đây là vấn
đề chính trị - pháp lý vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù. Tính
phổ biến thể hiện ở chỗ quyền con người bao hàm những nguyên tắc, những
quyền được thừa nhận và áp dụng ở mọi nơi, nó là sự kết tinh những giá trị
nhân văn của nhân loại mà loài người phải bảo vệ. Tính đặc thù thể hiện ở
chỗ, tùy theo điều kiện kinh tế - chính trị, xã hội mà sẽ có những mức độ
riêng để qui định đảm bảo thực hiện phù hợp với những đặc điểm riêng của
quốc gia. Trong quá trình nghiên cứu, giải quyết vấn đề quyền con người cần
phải chú ý những điểm chung và những nét đặc thù, đảm bảo sự cân bằng,
hòa hợp giữa những giá trị phổ biên và đặc thù.
1.1.1.2. Quan niệm về tư pháp và cải cách tư pháp
Trong các tác phẩm kinh điển về chính trị - pháp lý, đã có nhiều nhà
nghiên cứu, luật gia đã tiếp cận ý nghĩa đích thực của cơ quan tư pháp theo
nghĩa hẹp. C.L. Montesquieu người được coi là “cha đẻ” của học thuyết “tam
quyền phân lập”, trong tác phẩm Tinh thần pháp luật (1748) ông đã chỉ ra:
“với quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân xử
tranh chấp giữa các cá nhân. Người ta gọi đây là quyền tư pháp”2. Theo ông,
“Quyền phán xét không nên giao cho một Viện Nguyên lão thường trực mà
1 Xem: Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng - đồng chủ biên (2009), Giáo trình lý
luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 41-42.
2 Montesquieu (1748), Tinh thần pháp luật, Nxb. Giáo dục, Trường đại học Khoa học xã hội và
nhân văn-Khoa Luật, Hà Nội, 1996, tr. 100.
phải do những người trong đoàn thể dân chúng được cử ra từng thời gian
trong một năm, do luật quy định thành toà án, làm việc kéo dài bao lâu tuỳ
theo sự cần thiết”1. Như vậy, theo Montesquieu, cơ quan tư pháp là toà án, là
cơ quan xét xử, cơ quan thực hiện nhánh quyền lực tư pháp.
Nối tiếp những tư tưởng của Mongtesquie, mười bốn năm sau, trong tác
phẩm Bàn về khế ước xã hội (1762), J.J. Rousseau đã viết: “Khi người ta
không thể định rõ một tỷ lệ chính xác giữa các bộ phận cấu thành của nhà
nước, hoặc khi mà những nguyên nhân khách quan làm suy yếu không ngừng
mối quan hệ giữa các bộ phận ấy, thì người ta phải đặt một cơ quan đặc biệt,
không tham dự vào bất cứ một bộ phận nào. Cơ quan này đặt mỗi bộ phận vào
đúng vị trí của nó, làm mối dây liên lạc và yếu tố trung gian giữa Chính phủ
với nhân dân, hoặc giữa Chính phủ với cơ quan quyền lực tối cao, hoặc giữa
cả ba vế ấy khi cần. Cơ quan này tôi gọi là cơ quan tư pháp (tribunal)”2. Với
quan niệm như thế này của Rousseau về cơ quan tư pháp thì không có gì khác
biệt với Montesquieu, theo đó nói đến cơ quan tư pháp phải hiểu đó là toà án,
là hoạt động xét xử.
Chịu ảnh hưởng tư tưởng của các luật gia thời Khai sáng, khi làm bản
Hiến pháp năm 1787, các nhà lập hiến Hoa Kỳ đã quy định ở Điều III, khoản
1 như sau: “Quyền lực tư pháp Hoa Kỳ sẽ được trao cho Toà án tối cao và
những toà án cấp dưới mà Quốc hội có thể thiết lập trong một số trường hợp”.
Và hầu hết các hiến pháp của các nước tư bản như Nhật, Pháp, Đức, Thuỵ
Điển… sau này khi quy định về cơ quan tư pháp đều coi đó là các toà án. Như
vậy, quan niệm có tính chung nhất theo nghĩa hẹp về về cơ quan tư pháp từ
học thuyết đến xây dựng hiến pháp thành văn của các nước có lịch sử lập hiến
lâu năm được hiểu là các toà án.
1 Montesquieu (1748), Tinh thần pháp luật, Nxb. Giáo dục, Trường đại học Khoa học xã hội và
nhân văn-Khoa Luật, Hà Nội, 1996, tr. 100
2 Jean-Jacques Rousseau (1762), Bàn về khế ước xã hội, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004, tr 218
Như vậy có thể nói rằng, trên phương diện lý thuyết cũng như trong
thực tiễn tổ chức hệ thống bộ máy ở nhiều quốc gia người ta thường xem tư
pháp là một trong những nhánh quan trọng của hệ thống quyền lực nhà nước,
thường đồng nhất tư pháp với hoạt động xét xử của tòa án.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “tư pháp” có nghĩa là “việc xét xử các hành
vi phạm pháp và các vụ kiện tụng trong nhân dân ”1. Còn theo Từ điển Luật
học của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) thì:
“Với nghĩa chung nhất, tư pháp được quan niệm như là một ý
tưởng về một nền công lý, đòi hỏi việc giải quyết những tranh chấp xảy
ra trong xã hội phải đúng pháp luật, phù hợp với lẽ công bằng, bảo đảm
lòng tin của nhân dân và xã hội vào pháp luật, góp phần duy trì trật tự
pháp luật, bảo đảm sự an toàn pháp lý cho cá nhân, sự ổn định và phát
triển của xã hội”2.
Tư pháp với nghĩa là phán xử, trông coi, bảo vệ pháp luật đã xuất hiện
từ rất sớm, và nó trở thành một nhu cầu hết sức quan trọng trong đời sống của
xã hội. Trong xã hội tồn tại nhiều quan hệ đa dạng giữa con người với nhau,
quá trình giao tiếp sẽ không tránh khỏi những tranh chấp cần có sự giải quyết
công bằng giữa các bên, từ đó xuất hiện nhu cầu cần phải hình thành những
định chế bảo vệ lợi ích, tính mạng của các cá nhân trong xã hội, giữ cho xã
hội phát triển một cách hài hòa. Khi xảy ra các xung đột, trong trường hợp
không tự hoà giải được, không tự bảo vệ được quyền lợi, tính mạng của mình,
họ cần phải nhờ đến những định chế khác, mà họ cho là vô tư, công tâm để
giải quyết. Định chế đóng vai trò có thể phán xử tính đúng đắn trong hành vi
xử sự của một cá nhân, tổ chức nào đó là toà án. Vì vậy, thông thường khi nói
1 Hoàng Phê- chủ biên (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học, tr. 1034.
2 Viện Khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách khoa và Nxb.
Tư pháp; Hà Nội, tr. 828.
đến tư pháp là nói tới công tác xét xử và những hoạt động phục vụ hoặc liên
quan trực tiếp tới hoạt động xét xử được thực hiện trên cơ sở các qui định của
Hiến pháp và pháp luật.
Một trong những nguyên tắc quan trọng không thể thiếu của hoạt động
tư pháp đó là tính khách quan, vô tư giữa các chủ thể tham gia tố tụng; vi
phạm nguyên tắc này thì phán quyết của cơ quan tư pháp sẽ không đảm bảo
được tính công bằng, khi đó các bên tranh chấp sẽ không cần đến các cơ quan
tư pháp nữa. Chính vì vậy, những người tham gia vào các hoạt động tư pháp
phải được coi là những người đại diện cho nhà nước, nhân danh và bảo vệ
công lý, ở họ nguyên tắc công bằng, bình đẳng, khách quan là những phẩm
chất quan trọng cần phải có.
Trong nhà NNPQ, tư pháp giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc
đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật và thực hiện quyền làm chủ, quyền
giám sát tối cao của nhân dân đối với bộ máy nhà nước. Quá trình xây dựng
NNPQ đòi hỏi tư pháp phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Quyền tư pháp phải là một quyền độc lập. Một trong những nguyên tắc
quan trọng của tư pháp là tính độc lập trong hoạt động, chỉ khi nào tư pháp độc
lập thì tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật mới được đảm bảo, mới có khả
năng kiểm soát được quyền lực của các cơ quan nhà nước khác và cũng là điều
kiện quan trọng để đảm bảo thực hiện các quyền con người. Có thể nói rằng,
phần lớn các cuộc CCTP của các quốc gia đều tập trung vào việc đảm bảo và
nâng cao tính độc lập của tư pháp trong cơ cấu bộ máy nhà nước.
- Tính tối cao của pháp luật được tôn trọng, tư pháp phải trở thành biểu
tượng của công lý để giải quyết các tranh chấp trong xã hội. Trong NNPQ,
tính tối cao của pháp luật đóng vai trò quan trọng; vì vậy, các tranh chấp xảy
ra trong xã hội cần thiết được xem xét tại Toà án, và Toà án được coi là nơi có
kết luận cuối cùng đối với các tranh chấp phát sinh và phán quyết này có tính
chất bắt buộc thi hành đối với các chủ thể. Ở góc độ là một thiết chế quan
trọng cấu thành bộ máy nhà nước, quyền tư pháp phải được xem như một biểu
tượng của công lý, là nơi gửi gắm niềm tin của nhân dân qua việc xét xử các
tranh chấp trong đời sống hàng ngày. Mặt khác, thông qua cơ chế và hoạt
động xét xử, quyền con người mới được bảo đảm về mặt pháp lý.
Có thể hiểu tư pháp theo nghĩa chung, đó là ý tưởng về một nền công
lý, những nguyên tắc trong việc giải quyết những tranh chấp xảy ra theo đúng
pháp luật, phù hợp với lẽ công bằng, bảo đảm lòng tin của nhân dân và xã hội
vào pháp luật, vào các cơ quan nhà nước; tạo ra và duy trì tính tối cao của
pháp luật, bảo đảm sự an toàn pháp lý cho cá nhân, sự ổn định và phát triển
của xã hội. Trọng tâm của các cơ quan tư pháp là Tòa án, hoạt động xét xử là
hoạt động tư pháp chủ yếu nhất.
Thuật ngữ cải cách được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau. Theo
quan niệm của Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu thì (OECD):
“Cải cách tư pháp được sử dụng trong công trình của OECD đề
cập tới những sự thay đổi nhằm cải thiện chất lượng của các qui định,
đó là, thúc đẩy sự thực hiện, giảm chi phí, hoặc chất lượng pháp lý của
các qui định và các thủ tục liên quan của chính quyền. Cải cách có thể
có nghĩa sửa đổi một qui định đơn lẻ, loại bỏ và xây dựng lại toàn bộ
một chế độ pháp luật và các chế định của nó, hoặc cải thiện qui trình
làm luật và quản lý cải cách”1.
Quan niệm CCTP theo cách hiểu này có nghĩa rất rộng, nó không chỉ
bao hàm việc “sửa đổi các qui định đơn lẻ, loại bỏ và xây dựng lại toàn bộ
một chế độ pháp luật” mà nó còn bao hàm nhiều vấn đề như “giảm chi phí” và
1 Ngô Huy Cương (2006), Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội, trang 6.
“các thủ tục liên quan đến chính quyền”. Vì vậy, CCTP xét đến cùng được hiểu
là sự sửa đổi, xây dựng pháp luật theo một chế độ mới, đối tượng của CCTP có
thể là các qui định pháp luật, mà chưa nói tới các định chế thực hiện.
Trong nghiên cứu này nhóm tác giả tiếp cận CCTP với ý nghĩa là quá
trình đổi mới toàn diện hệ thống tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử với
mục tiêu làm cho tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp đảm bảo tính công
bằng, dân chủ, minh bạch đáp ứng yêu cầu bảo vệ công lý, bảo đảm các quyền
của con người trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN.
Ở nước ta, CCTP nằm trong tổng thể việc thực hiện quyền lực nhà
nước và đảm bảo các quyền con người của công dân. Chúng ta xây dựng
NNPQ, vì vậy, việc tôn trọng pháp luật được chú trọng và đề cao. Do đó, tư
pháp với tư cách là người bảo vệ pháp luật cũng phải được đề cao, có vị trí
xứng đáng trong cơ cấu quyền lực nhà nước. Xét trong một quan hệ nhất định,
tư pháp sẽ thực hiện chức năng kiểm soát cần thiết đối với lập pháp và hành
pháp trong trường hợp hoạt động của lập pháp và hành pháp làm tổn hại tới
các quyền tự do, dân chủ của công dân, hoặc Hiến pháp và pháp luật; do đó,
CCTP sẽ đụng chạm đến quyền hành pháp và lập pháp. Việc CCTP cần
hướng tới việc đề cao vai trò của tư pháp, tính độc lập trong xét xử của Tòa
án; tạo ra khả năng, cơ chế để thực hiện những quyền năng vốn có của tư
pháp, làm cho quyền lực nhà nước có hiệu lực và hiệu quả. Vì vậy, CCTP cần
hướng tới đối tượng và mục tiêu sau:
Về đối tượng của CCTP. Theo nghĩa hẹp, đối tượng của CCTP ở Việt
Nam hiện nay đó là toàn bộ hệ thống và hoạt động thực tiễn của Toà án, của
đội ngũ thẩm phán và các qui định của pháp luật có liên quan mà CCTP tác
động đến để đạt được kết quả cuối cùng với tính chất là các chế định pháp lý
và các giá trị tinh thần. Theo nghĩa rộng thì đối tựơng của CCTP là toàn bộ hệ
thống toà án, hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan bổ trợ tư pháp
cùng những hoạt động thực tiễn và đội ngũ cán bộ của các cơ quan này, cũng
như các qui định mà CCTP tác động đến để đạt hiệu quả cuối cùng. Trong
phạm vi nghiên cứu này chúng tôi tiếp cận nghiên cứu vấn đề theo nghĩa rộng,
bởi vì việc đảm bảo thực hiện quyền con người trong quá trình CCTP không
chỉ nằm trong giới hạn hoạt động xét xử của tòa án, mà nó còn liên quan đến
các hoạt động khác như điều tra, truy tố… cũng như việc đảm bảo các nguyên
tắc dân chủ, minh bạch trong quá trình xét xử. Việc CCTP hiện nay có rất
nhiều nội dung, song nghiên cứu này chỉ tiếp cận dưới góc độ cải cách bộ máy
và các nguyên tắc hoạt động tư pháp có liên quan trực tiếp đến các vấn đề đảm
bảo các quyền tự do của con người.
Về mục tiêu của CCTP hiện nay, tức là kết quả cuối cùng với tính chất
là các giá trị cuối cùng mà chúng ta hướng tới trong cải cách tư pháp là: (1)
Góp phần nâng cao ý thức pháp luật về vai trò, chức năng của các cơ quan tư
pháp trong xây dựng NNPQ; (2) Làm cho nhánh quyền lực tư pháp được tổ
chức một cách khoa học, độc lập, hoạt động có hiệu quả và hiệu lực; (3) Làm
cho cơ sở của quyền lực Nhà nước thực sự là ý chí của nhân dân; (4) Góp
phần đổi mới và làm cho hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện,
phát huy hiệu quả trong cuộc sống.
1.1.2. Vị trí, vai trò của các cơ quan tư pháp trong việc đảm bảo
quyền con người
1.1.2.1. Toà án nhân dân
Xét xử là hoạt động nòng cốt của tư pháp, đây là bộ phận không thể
thiếu trong tổ chức và vận hành của bộ máy nhà nước. Việc xét xử đã hình
thành từ lâu trong tiến trình phát triển của lịch sử; nó xuất hiện và phát triển
cùng với sự phát triển của Nhà nước. Ngay từ thời chiếm hữu nô lệ, hoạt động
xét xử cũng đã diễn ra, song nó chỉ chủ yếu phục vụ lợi ích của giai cấp chủ
nô và những người tự do. Dưới chế độ phong kiến, nhà vua là người ban hành
pháp luật, và cũng là người có quyền xét xử cao nhất, hệ thống cơ quan tư
pháp tập trung trong tay giai cấp quí tộc phong kiến. Chỉ đến thế kỷ XVII-
XVIII, khi giai cấp tư sản phát triển mạnh mẽ cùng với sự ra đời của Nhà
nước tư sản thì mô hình tư pháp độc lập mới thực sự hình thành. Dưới ảnh
hưởng của trào lưu tự do với các đại biểu như T. Hobber, J. Locke, C.L.
Mongtesquier, J.J. Rousseau… đã xuất hiện yêu cầu hoạt động tư pháp phải
có tính độc lập, nó là một trong ba nhánh quyền lực căn bản cấu thành quyền
lực nhà nước.
Theo qui định tại Điều 103 và Điều 106 của Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị
quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội Khóa X,
Kỳ họp thứ 10) và Luật Tổ chức TAND đã được Quốc hội nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 02 tháng 4 năm
2002 thì hệ thống TAND của nước ta gồm có:
(1). Tòa án nhân dân tối cao. Theo qui định từ các Điều 18 đến Điều
26 của Luật Tổ chức TAND thì TAND tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cơ cấu tổ chức của TAND tối cao gồm:
- Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao;
- Tòa án quân sự Trung ương, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế,
Tòa lao động, Tòa hành chính và các Tòa phúc thẩm TAND; trong trường
hợp cần thiết, ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Tòa
chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án TAND tối cao;
- Bộ máy giúp việc.
Theo qui định tại Điều 19, Luật Tổ chức TAND thì TAND tối cao có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Hướng dẫn các tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh
nghiệm xét xử;
- Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đó có
hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng;
- Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật của tòa án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của pháp luật tố tụng.
(2). TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo qui định của
Đ iều 27, Luật Tổ chức TAND thì cơ cấu tổ chức của TAND tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương gồm có:
- Ủy ban Thẩm phán;
- Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính;
trong trường hợp cần thiết Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập
các Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án TAND tối cao.
- Bộ máy giúp việc.
TAND, thành phố trực thuộc Trung ương có Chánh án, các Phó Chánh
án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án.
Cũng theo qui định tại Điều 28 của luật trên thì TAND tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương có thẩm quyền:
- Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng;
- Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của
pháp luật tố tụng;
- Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng nghị theo quy định của pháp
luật tố tụng;
- Giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.
- Tổng kết kinh nghiệm xét xử.
(3). TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Theo qui định, cơ
cấu của TAND cấp này gồm có Chánh án, một hoặc hai Phó Chánh án, Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án. TAND huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp
luật tố tụng.
(4). Tòa án quân sự. Theo qui định tại Điều 34, Luật Tổ chức TAND thì
các tòa án quân sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để xét xử
những vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ và những vụ án khác theo quy
định của pháp luật. Các tòa án quân sự gồm có:
- Tòa án quân sự Trung ương;
- Các tòa án quân sự quân khu và tương đương;
- Các tòa án quân sự khu vực.
Tòa án quân sự Trung ương có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm
phán, Thư ký tòa án. Chánh án tòa án quân sự Trung ương là Phó Chánh án
TAND tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương là Thẩm phán TAND
tối cao. Tòa án quân sự quân khu và tương đương có Chánh án, các Phó
Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm quân nhân, Thư ký tòa án. Tòa án quân sự
khu vực có Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm quân nhân, Thư
ký tòa án.
Tòa án xét xử những VAHS, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động,
kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp
luật. Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế
XHCN; bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản
của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân
phẩm của công dân. Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định
thành lập Tòa án đặc biệt.
Thẩm phán là những người chuyên thực hiện chức năng xét xử, họ
được cử ra hoặc được nhân dân bầu lên. Trong quá trình thực hiện chức năng
xét xử, Thẩm phán là những người giữ vai trò trọng yếu, họ là những người
nhân danh công lý và tự do để đưa ra các phán quyết, mà những phán quyết
này có ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản, danh dự và thậm chí là tính mạng của
người khác, đây là những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền con người. Với
tư cách là người giữ vị trí trung tâm trong xét xử, Thẩm phán phải chịu trách
nhiệm về những phán quyết của mình và chịu trách nhiệm pháp lý (và cả dưới
khía cạnh đạo đức nghề nghiệp) về những sai sót mắc phải trong quá trình xét
xử. Với vị trí, tầm quan trọng của mình, Thẩm phán có quyền hạn rất lớn
trong việc ra các quyết định, bản án. Do vậy, khi xét xử Thẩm phán phải độc
lập và tuân theo pháp luật và pháp luật cũng qui định một cách hết sức chặt
chẽ trách nhiệm của thẩm phán trong quá trình xét xử. Thẩm phán có thể bị
kỷ luật, thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu như có những vi phạm
nghiêm trọng trong quá trình xét xử.
Khi xét xử, đội ngũ Thẩm phán phải đảm bảo tính công bằng, sự
nghiêm minh, đây là một trong những nguyên tắc căn bản của một nền tư
pháp dân chủ. Theo đó, bất kể ai, không phân biệt địa vị xã hội, tài sản, xuất
thân… khi có phạm tội thì đều bị xét xử như nhau, thực hiện nguyên tắc “mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Xuất phát từ yêu cầu này, người
thẩm phán trong quá trình xét xử phải nghiên cứu vụ án một cách kỹ lưỡng,
đảm bảo tính khách quan, sự chính xác và công bằng trong quá trình luận tội.
Đảm bảo các hành vi vi phạm phải được trừng trị thích đáng, không xử oan
người vô tội, bảo vệ được người bị hại, pháp chế trong quá trình xét xử.
Cùng với đội ngũ Thẩm phán, tại Việt Nam, nguyên tắc Hội thẩm nhân
dân (HTND) tham gia xét xử đã đi vào thực tiễn cuộc sống hơn 50 năm qua.
Ngay sau khi giành được chính quyền, bộ máy tư pháp của chế độ mới được
thiết lập. Chế định HTND đã được ghi nhận và trở thành một chế định quan
trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án. Chế định này đã được ghi nhận trong
các Sắc lệnh của Chính phủ lúc bấy giờ như: Sắc lệnh 33/SL ngày 13/9/1945;
Sắc lệnh 13/SL ngày 24/1/1946… Nguyên tắc tham gia xét xử của HTND tiếp
tục được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức TAND, Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm. Theo qui định của pháp luật, Tòa án xét
xử tập thể và quyết định theo đa số; khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với
Thẩm phán; khi xét xử, Thẩm phán và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật. HTND làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án, Chánh án có
nhiệm vụ giữ mối quan hệ với Hội thẩm, bồi dưỡng chuyên môn và đề nghị
HĐND miễn nhiệm, bãi nhiệm.
1.1.2.2. Viện kiểm sát nhân dân
Theo qui định tại Điều 103 và Điều 106 của Hiến pháp nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số
51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội Khóa X, Kỳ họp thứ
10) thì Viện kiểm sát được coi là một trong những cơ quan quan trọng nhất
cấu tạo nên bộ máy tư pháp. Cụ thể hơn, theo qui định của Luật Tổ chức
VKSND (được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa X, kỳ họp
thứ 11 thông qua ngày 02 tháng 4 năm 2002) thì VKSND có chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật. Cụ thể, VKSND tối cao thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất; các VKSND địa phương thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở địa phương mình; các Viện kiểm sát
quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy
định của pháp luật.
Trong phạm vi chức năng của mình, VKSND có nhiệm vụ góp phần
bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài
sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân đều phải được xử lý theo pháp luật. VKSND thực hiện chức năng, nhiệm
vụ bằng những công tác sau đây:
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc điều tra các VAHS của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
- Điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm
tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp;
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc xét xử các VAHS;
- Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành
chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết
định của TAND;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản
lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù.
Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, VKSND có quyền ra
quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu và chịu trách nhiệm trước pháp
luật về các văn bản đó. Trong trường hợp các văn bản nói trên trái pháp luật thì
tùy theo tính chất và mức độ sai phạm mà người ra văn bản bị xử lý kỷ luật hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình,
VKSND có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan Tòa án, Công an, Thanh tra,
Tư pháp, các cơ quan khác của Nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức thành viên của Mặt trận, các đơn vị vũ trang nhân dân để phòng ngừa và
chống tội phạm có hiệu quả, xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm và
vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; tuyên truyền, giáo dục pháp luật;
xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nghiên cứu tội phạm và vi
phạm pháp luật.
VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc điều tra các VAHS của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, nhằm bảo đảm: Mọi
hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để
lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; không để người
nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một
cách trái pháp luật.
Khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra, VKSND có những nhiệm vụ
và quyền hạn sau đây:
- Kiểm sát việc khởi tố; kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ
sơ vụ án của cơ quan điều tra;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
- Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra theo quy định của pháp luật;
- Yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt
động điều tra; yêu cầu thủ trưởng cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh điều tra
viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra;
- Kiến nghị với cơ quan, tổ chức và đơn vị hữu quan áp dụng các biện
pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
Trong giai đoạn xét xử các VAHS, VKSND có trách nhiệm thực hành
quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử các VAHS,
nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Khi thực
hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các VAHS, VKSND có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Đọc cáo trạng, quyết định của VKSND liên quan đến việc giải quyết
vụ án tại phiên tòa;
- Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu
quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm; tranh luận với
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm,
phúc thẩm;
- Phát biểu quan điểm của VKSND về việc giải quyết vụ án tại phiên
tòa giám đốc thẩm, tái thẩm.
Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử các VAHS, VKSND có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
- Kiểm sát các bản án và quyết định của TAND theo quy định của pháp luật;
- Yêu cầu TAND cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những VAHS để
xem xét, quyết định việc kháng nghị.
Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các VAHS, VKSND có
quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án,
quyết định của TAND theo quy định của pháp luật; kiến nghị với TAND cùng
cấp và cấp dưới khắc phục vi phạm trong việc xét xử; kiến nghị với cơ quan,
tổ chức, đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi
phạm pháp luật; nếu có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự.
VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật của TAND, cơ quan thi hành
án, chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan trong
việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và những bản án,
quyết định được thi hành ngay theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm các
bản án, quyết định đó được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời.
VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, đơn vị và
người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người
chấp hành án phạt tù.
Hệ thống tổ chức của VKSND gồm có:
(1). VKSND tối cao. Cơ cấu tổ chức của VKSND tối cao gồm có: Ủy ban
kiểm sát, các Cục, Vụ, Viện, Văn phòng và Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ kiểm sát. VKSND dân tối cao gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng,
các Kiểm sát viên và các Điều tra viên; bộ máy giúp việc của VKSND tối cao.
(2). Các VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Cơ cấu tổ chức
của VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm có Ủy ban kiểm sát, các
phòng và Văn phòng. VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm có
Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và các kiểm sát viên.
(3). Các VKSND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. VKSND
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh gồm có các bộ phận công tác và bộ
máy giúp việc do Viện trưởng, các Phó Viện trưởng phụ trách. VKSND
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh gồm có Viện trưởng, các Phó Viện
trưởng và các kiểm sát viên.
(4). Các Viện kiểm sát quân sự. Các Viện kiểm sát quân sự được tổ chức
trong quân đội nhân dân Việt Nam để thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật. Các Viện kiểm sát quân sự gồm
có Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự quân khu và
tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực.
1.1.2.3. Cơ quan điều tra
Theo qui định của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự (được Ủy ban
Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 20/8/2004) thì cơ quan điều tra gồm có
cơ quan cảnh sát điều tra, cơ quan điều tra của quân đội nhân dân, VKSND và
một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như:
Bộ đội ciên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển khi thực
hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình mà phát hiện những hành vi
phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì tiến hành các hoạt
động điều tra theo quy định tại các điều 19, 20, 21 và 22 của Pháp lệnh điều
tra hình sự. Ngoài ra, các cơ quan khác của công an nhân dân, quân đội nhân
dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong khi làm
nhiệm vụ của mình, nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thì có quyền
khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ
cho cơ quan điều tra có thẩm quyền theo quy định tại các điều 23, 24 và 25
của Pháp lệnh điều tra hình sự.
- Trong lực lượng công an nhân dân có các cơ quan điều tra sau đây:
(1). Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an; cơ quan Cảnh sát điều tra
công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cơ quan
cảnh sát điều tra công an cấp tỉnh); cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cơ quan cảnh sát điều
tra công an cấp huyện);
(2). Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an; cơ quan an ninh điều tra công
an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cơ quan an
ninh điều tra công an cấp tỉnh).
- Trong quân đội nhân dân có các cơ quan điều tra sau đây:
(1). Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; cơ quan điều tra hình sự
quân khu và tương đương; cơ quan điều tra hình sự khu vực;
(2). Cơ quan an ninh điều tra Bộ Quốc phòng; cơ quan an ninh điều tra
quân khu và tương đương.
- Ở VKSND tối cao có các cơ quan điều tra sau đây:
(1). Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
(2). Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát quân sự Trung ương.
1.1.2.4. Các cơ quan bổ trợ tư pháp
Bổ trợ tư pháp là hoạt động trợ giúp, tạo điều kiện cho hoạt động tư
pháp được tiến hành thuận lợi, nhanh chóng, chính xác bằng cách cung cấp hồ
sơ, chứng cứ, phản biện cho các khâu, đoạn trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử, đồng thời giúp cho cá nhân công dân, tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Các hoạt động bổ trợ tư pháp bao gồm hoạt động luật sư,
tư vấn pháp luật, giám định, công chứng, lịch tư pháp. Trong đó, luật sư và
giám định là hai hoạt động điển hình nhất của bổ trợ tư pháp, có liên quan
trực tiếp đến việc xét xử của tòa án và bảo đảm các quyền con người trong
quá trình TTHS.
1.2. NHỮNG QUYỀN CON NGƯỜI CẦN ĐƯỢC ĐẢM BẢO
TRONG CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Để tồn tại và phát triển với tư cách là con người thì các cá nhân phải
được đảm bảo đầy đủ các quyền cơ bản trong tất cả các lĩnh vực vốn là môi
trường sống và hoạt động của mình. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị do Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16/12/1966 theo
Nghị quyết 2200 A (XXI), đã viết: “… theo Tuyên ngôn thế giới về quyền
con người thì chỉ có thể đạt lí tưởng về con người tự do được hưởng tự do về
dân sự và chính trị, không bị sợ hãi và thiếu thốn nếu tạo được những điều
kiện để mỗi người có thể hưởng các quyền dân sự và chính trị cũng như các
quyền kinh tế, xã hội và văn hoá của mình”. Có thể nói rằng quyền dân sự và
chính trị và quyền kinh tế, xã hội và văn hoá là những quyền căn bản nhất
trong hệ thống quyền con người.
- Các quyền dân sự và chính trị: Theo Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị bao gồm: quyền sống, quyền tự do và bất khả xâm phạm
về thân thể, quyền được đối xử nhân đạo của người bị giam giữ, quyền tự do
đi lại và cư trú của công dân, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở và bí mật thư
tín, quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo, quyền tự do ngôn luận, quyền tham
gia quản lý công việc nhà nước và xã hội.
- Các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá: Có những quyền cụ thể sau:
quyền sở hữu, quyền làm việc, quyền được hưởng những điều kiện làm việc
công bằng và thuận lợi, quyền thành lập và gia nhập công đoàn, quyền được
hưởng an toàn xã hội.
Trong lĩnh vực tư pháp, quyền con người gắn liền với sự tự do thân thể,
nó liên quan trực tiếp với hệ thống pháp luật TTHS và những người tham gia
tố tụng. Việt Nam đã phê chuẩn hoặc gia nhập hầu hết các điều ước quốc tế
quan trọng về nhân quyền hoặc liên quan đến nhân quyền như: Công ước
Giơ-ne-vơ 1949 về việc bảo hộ thường dân trong chiến tranh (do Hội nghị
Ngoại giao họp tại Giơ-ne-vơ, Thuỵ sỹ thông qua ngày 12.8.1949 (Việt Nam
gia nhập ngày 5.6.1957); Công ước Giơ-ne-vơ 1949 về đối xử với tù binh (do
Hội nghị Ngoại giao họp tại Giơ-ne-vơ, Thuỵ sỹ thông qua ngày 12.8.1949
(Việt Nam gia nhập ngày 5.6.1957); Công ước Giơ-ne-vơ 1949 về cải thiện
tình cảnh của những người bị thương, bị bệnh hoặc bị đắm tàu thuộc các lực
lượng vũ trang trên biển (do Hội nghị Ngoại giao họp tại Giơ-ne-vơ, Thuỵ sỹ
thông qua ngày 12.8.1949 (Việt Nam gia nhập ngày 5.6.1957); Công ước
Giơ-ne-vơ 1949 về cải thiện tình cảnh của những người bị thương, bị bệnh
hoặc bị đắm tàu thuộc các lực lượng vũ trang chiến đấu trên bộ (do Hội nghị
Ngoại giao họp tại Giơ-ne-vơ, Thuỵ sỹ thông qua ngày 12.8.1949 (Việt Nam
gia nhập ngày 5.6.1957); Nghị định thư của Công ước quốc tế Giơ-ne-vơ về
bảo hộ nạn nhân trong các cuộc xung đột quốc tế (Việt Nam gia nhập ngày
28.8.1981); Công ước Quốc tế về Ngăn ngừa và Trừng trị tội ác diệt chủng
(do Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 9-12-1948 (Việt Nam gia
nhập ngày 9.6.1981); Công ước Quốc tế về Loại trừ tất cả các hình thức phân
biệt chủng tộc (Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 21-12-1965, Việt
Nam gia nhập ngày 9.6.1981); Công ước Quốc tế về Ngăn chặn và trừng trị
tội ác A-pác-thai (Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 30-11-1973.
Việt Nam gia nhập ngày 9.6.1981); Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự
và Chính trị (Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 16-12-1966 (Việt
Nam gia nhập ngày 24-9-1982); Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã
hội và Văn hoá (do Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 16-12-1966.
Việt Nam gia nhập ngày 24-9-1982); Công ước Quốc tế về Xoá bỏ mọi hình
thức phân biệt đối xử với phụ nữ (do Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn
ngày 18-12-1979, Việt Nam phê chuẩn ngày 19-3-1982); Công ước Quốc tế
về không áp dụng những hạn chế luật định đối với các tội phạm chiến tranh
và tội phạm chống nhân loại (do Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn ngày
26-11-1968, Việt Nam phê chuẩn ngày 4-6-1983); Công ước Quốc tế về
Quyền trẻ em (do Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 20-11-1989,
Việt Nam phê chuẩn ngày 20-2-1990).
Vấn đề đảm bảo quyền con người là vấn đề nhạy cảm, Việt Nam đã gia
nhập và “nội luật” hóa các cam kết quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực
tư pháp. Những cam kết này được thể hiện đầy đủ trong Hiến pháp 1992 (sẳ
đổi), nhất là Bộ luật TTHS năm 2003, tất cả các tư tưởng tiến bộ về quyền
con người tuyên bố tại Hiến chương Liên Hợp Quốc, Tuyên ngôn Thế giới về
Nhân quyền, Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị cũng như
các văn kiện quốc tế khác liên quan mà Việt Nam đã cam kết thực hiện, đều
đã được thể chế hoá một cách đầy đủ, sâu sắc.
Trong các văn bản pháp lí quan trọng nêu trên, các quyền con người cơ
bản của bị can, bị cáo được quy định cụ thể và có thể khái quát thành các
nhóm sau:
1.2.1. Đảm bảo quyền được sống, quyền tự do, không bị giam giữ, xét
xử oan sai, bị tra tấn, mớm cung, ép cung, quyền tôn trọng danh dự, nhân
phẩm, bí mật đời tư
Quyền được sống, quyền tự do là những quyền thiêng liêng, bất khả xâm
phạm của con người. Những quyền này đã được ghi nhận từ trong bản Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và được các bản Hiến pháp
về sau tiếp tục kế thừa.
Bắt người, tạm giữ, tạm giam người là những biện pháp cưỡng chế cần
thiết do các cơ quan điều tra, VKSND, Toà án áp dụng đối với bị can, bị cáo.
Một số trường hợp, có thể áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố (như
người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và trong trường hợp khẩn
cấp) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa
họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động cản trở cho việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án.
Bắt người, tạm giữ, tạm giam người là các biện pháp ngăn chặn nhằm
hạn chế một số quyền của công dân, quyền con người của người bị bắt. Mục
đích của các biện pháp này là để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh chống
và phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế.
Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn nhằm bảo vệ các quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng rất dễ tạo nên những ảnh
hưởng tiêu cực, có tác động đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Bởi vì, một số hoạt động tố tụng có ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền tự do, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được thông tin... của
người bị bắt. Nắm vững nội dung, thẩm quyền, thủ tục bắt, tạm giữ, tạm giam
sẽ bảo đảm cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng áp
dụng đúng pháp luật, tránh vi phạm các quy định pháp luật về bảo đảm quyền
con người, quyền công dân trong quá trình thực hiện các quyền tư pháp là yêu
cầu hết sức quan trọng trong quá trình CCTP ở nước ta hiện nay.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người, quyền
công dân Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và
nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án, quyết định
hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và
giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi truy bức, nhục
hình xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”1. Điều 72 Hiến pháp 1992
cũng nhấn mạnh: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật
có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người
làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho
người khác phải bị xử lý nghiêm minh”2.
Để cụ thể hơn vấn đề này, Bộ luật TTHS năm 2003 đã thêm Chương
XXXV. Khiếu nại, tố cáo trong TTHS và Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá
11 ngày 17/03/2003 đã ban hành Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11
“Về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự gây ra”; VKSND tối cao, Bộ công an, TAND tối cao, Bộ
tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số
01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP-BTC, ngày 25/03/2004
hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết này.
Những quy định này nhằm ngăn ngừa sự vi phạm quyền con người,
1 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Hiến pháp 1992 (sửa đổi), Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr. 22
2 Đã dẫn, tr. 22.
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự
của công dân từ phía các cơ quan, cán bộ nhà nước. Đây cũng là các qui định
làm cơ sở để xây dựng các đạo luật để bảo vệ quyền con người, quyền công
dân trong thực tiễn hoạt động tư pháp.
Việc bắt người để tạm giữ, tạm giam có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền
con người, quyền tự do dân chủ của công dân vì vậy chỉ những người có thẩm
quyền mới có quyền ra lệnh bắt.
Trong quá trình tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn,
các quyền con người cần phải được bảo đảm. Các cơ quan tư pháp không
được sử dụng các biện pháp đối xử vi phạm quy định pháp luật, làm tổn hại
đến danh dự, nhân phẩm, tính khách quan của vụ việc. Đó là các hành vi như
bức cung, mớm cung, dùng nhục hình trong quá trình điều tra vụ án. Cụ thể
hơn, Bộ luật TTHS năm 2003 đã qui định: “Nghiêm cấm mọi hình thức truy
bức, nhục hình”, và trong Chương XXII BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
2009) cũng đã có qui định khung hình phạt đối với các tội “xâm phạm hoạt
động tư pháp”, trong đó có đề cập đến các tội dùng nhục hình (Điều 298) và
tội bức cung (Điều 299). Mặt khác, trong trường hợp nếu phát hiện các hành
vi xâm phạm thì cơ quan có thẩm quyền cần phải áp dụng những biện pháp
cần thiết để bảo vệ theo qui định của pháp luật.
1.2.2. Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Nguyên tắc này đã được qui định tại các Điều 16, 26 ICCPR, và đã
được Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi nhận tại Điều 52:
“Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”.
Nguyên tắc này không chỉ được quy định trong Bộ luật TTHS mà trong
BLHS và các đạo luật khác cũng quy định nguyên tắc này. Trong hoạt động tố
tụng, Điều 8 Luật tổ chức TAND qui định: “Tòa án xét xử theo nguyên tắc
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân
tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội”. Còn theo qui định tại
Điều 4, Bộ luật TTHS năm 2003 thì: “Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên
tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ,
dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Bất cứ người nào
phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật. Tóm lại, nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng của công dân trước pháp luật, đặc biệt trong tố tụng hình sự nói chung
và tố tụng tại tòa nói riêng được thể hiện như sau:
- Mọi người, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo,
thành phần xã hội, địa vị xã hội nếu phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.
- Mọi người, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo,
thành phần xã hội, địa vị xã hội nếu là người tiến hành tố tụng hoặc người
tham gia tố tụng thì đều có quyền và nghĩa vụ như nhau.
1.2.3. Đảm bảo nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản
án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật
Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền kết tội một người nào đó và
quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Bản án, quyết định của Tòa án
có hiệu lực của pháp luật phải được thi hành và có tính chất bắt buộc đối với
cơ quan nhà nước và công dân. Theo qui định của Bộ luật TTHS thì: “Không
ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của
tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Một người thực hiện hành vi phạm tội nếu họ chưa bị tòa án kết án thì
họ chưa bị coi là có tội. Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng và những người khác phải có thái độ tôn trọng họ khi
tiến hành các hoạt động tố tụng.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, nguyên tắc này được thể hiện: người bị
Viện kiểm sát truy tố và Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa bị coi là
người có tội, họ tham gia tố tụng với tư cách là bị cáo; họ còn đầy đủ các
quyền của một công dân, vì vậy những người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng không được đối xử với họ như một người có tội. Ngay cả khi Tòa
án cấp sơ thẩm tuyên án và kết án bị cáo phạm vào một tội nào đó quy định
tại BLHS và áp dụng hình phạt đối với họ thì cũng không vì thế mà cho rằng
họ đã là người bị coi có tội, mà chỉ khi nào bản án có hiệu lực pháp luật thì họ
mới bị coi là có tội.
Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng phải tạo điều kiện để bị cáo và người bào chữa cho bị cáo được
sử dụng các biện pháp do luật định để gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự, giảm bớt trách nhiệm bồi thường thiệt hại và những gì có lợi cho bị cáo.
Để đánh giá một người có tội hay không thì chỉ có Tòa án mới có
quyền, ngoài Tòa án không một cơ quan hay cá nhân nào có quyền này. Hiện
nay còn không ít người quan niệm rằng, một người đã bị khởi tố, đã bị bắt
tạm giam là có tội nên mọi người đối xử với họ với thái độ kinh miệt, xa lánh,
thậm chí những người thân của họ cũng bị khinh rẻ, hắt hủi, kể cả những
người sau một thời gian tiến hành điều tra, Cơ quan điều tra không chứng
minh là họ có hành vi phạm tội, họ được đình chỉ điều tra, nhưng khi trở lại
với gia đình và xã hội vẫn bị mặc cảm.
Phạm tội là hành vi của người đã thực hiện một tội phạm do Bộ luật
hình sự quy định. Vì vậy, khi nói hành vi phạm tội, tức là mới nói đến một
thực trạng khách quan đã và đang xảy ra và việc ngăn chặn hành vi này là rất
cần thiết như bắt giữ, ra lệnh tạm giam, tiến hành các biện pháp điều tra xác
minh theo quy định của Bộ luật TTHS để chứng minh hành vi phạm tội của
một người. Việc cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng những biện pháp ngăn
chặn đối với người có hành vi phạm tội là nhằm ngăn chặn những thiệt hại
cho xã hội, đồng thời giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử không bị cản trở.
Dù bị tạm giam hay được tại ngoại thì họ cũng chỉ bị coi là người có hành vi
phạm tội (người bị tình nghi) chứ chưa bị coi là có tội.
Tội phạm là khái niệm pháp lý chỉ một hiện tượng xã hội tồn tại khách
quan. Theo Điều 8 BLHS thì tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa1.
Trong điều kiện xây dựng NNPQ và đẩy mạnh CCTP, việc đảm bảo
nguyên tắc này là hết sức quan trọng, nó là điều kiện cần thiết, tiên quyết nhất
để đảm bảo việc tôn trọng quyền con người trong quá trình TTHS. Để thực
hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi việc xem xét vụ án phải dựa trên cơ sở khoa
học, tôn trọng tính khách quan, sự thật của vụ án. Những người tiến hành tố
tụng phải công tâm, không định kiến với bị can, bị cáo, không được bỏ qua
những tình tiết, chứng cứ gỡ tội có lợi cho bị can, bị cáo.
1.2.4. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trong tố tụng hình sự
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS
là việc quy định và thi hành những biện pháp, phương tiện do pháp luật TTHS
quy định, buộc cơ quan và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, những
người tham gia tố tụng phải thực hiện đúng nghĩa vụ nhằm tôn trọng và tạo điều
kiện để quyền bào chữa (bao gồm tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa) của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thực thi trên thực tế.
1 Xem: Đinh Văn Quế (2007), Bình luận khoa học Bộ luật TTHS (xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám
đốc thẩm và tái thẩm), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 24-25.
Việc qui định quyền bào chữa cho bị can, bị cáo nhằm đảm bảo cho họ có
quyền bày tỏ thái độ của mình đối với người buộc tội, đưa ra các chứng cứ
chứng minh sự vô tội, hoặc các tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo qui định của
pháp luật. Đảm bảo việc thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo là điều kiện cần thiết để các cơ quan tiến hành tố tụng xử lý đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Đồng thời, đây cũng là yêu cầu quan trọng để đảm bảo
các quyền con người trong quá trình tố tụng.
Trong một xã hội dân chủ, các quyền con người cần được tôn trọng và
bảo đảm bằng pháp luật của Nhà nước. Ngay từ khi giành được chính quyền,
vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân luôn được ghi nhận một cách
nhất quán tại tất cả các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992 của nước
ta. Cùng với sự phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội và công cuộc xây dựng
NNPQ ở Việt Nam hiện nay, thì quyền con người trong đó có được bào chữa
ngày càng được tôn trọng. Điều 132 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001) quy định: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình . Tổ chức luật sư được thành lập để
giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và
góp phần bảo vệ pháp chế XHCN”.
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã được ghi nhận và cụ thể hóa trong
các đạo luật và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo qui định của pháp luật Việt
Nam, bị can, bị cáo có thể sử dụng các hình thức, biện pháp để chứng minh mình
vô tội, đưa ra các tình tiết để giảm nhẹ hình phạt. Ngoài ra, pháp luật còn có
những qui định đảm bảo cho bị cáo có quyền nhờ người bào chữa (người bào
chữa có thể là luật sư, bào chữa viên nhân dân, hoặc người đại diện hợp pháp của
bị can, bị cáo), trong một số trường hợp nhất định, tòa án phải chỉ định người bào
chữa cho bị cáo (ví dụ: bị cáo, bị can là người chưa thành niên, người có nhược
điểm về thể chất, tinh thần; hoặc phạm tội theo khung hình phạt có mức cao nhất
là tử hình theo qui định trong BLHS…). Những người được bị cáo nhờ bào chữa,
được chỉ định bào chữa có quyền sử dụng các biện pháp theo qui định của pháp
luật để bảo vệ người bị kết án.
Việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
TTHS được thực hiện bằng các phương pháp và phương tiện sau:
- Ghi nhận và quy định cụ thể quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác. Pháp luật không chỉ ghi
nhận bị can, bị cáo có quyền bào chữa mà còn thiết lập cơ chế giám sát việc thực
hiện các quyền trên.
- Quy định nghĩa vụ của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải bảo
đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ. Trong
đó có việc cơ quan tiến hành tố tụng phải tạo mọi điều kiện cần thiết cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo chọn người bào chữa và trong các trường hợp do pháp luật
quy định, các cơ quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm có người bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Cụ thể, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có
nhiệm vụ bảo đảm cho họ được thực hiện quyền bào chữa bằng cách phải tạo điều
kiện thuận lợi cho họ được giao nhận quyết định khởi tố, kết luận điều tra, bản cáo
trạng, quyết định đưa bị cáo ra xét xử… tạo thuận lợi cho bị can, bị cáo tiếp xúc
với người bào chữa.
- Xử lý nghiêm khắc mọi hành vi vi phạm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo của người tiến hành tố tụng hoặc những người khác,
đều phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật .
- Tăng cường vai trò của Luật sư trong các giai đoạn tố tụng. Vai trò của
Luật sư luôn được gắn liền với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa mà pháp
luật ghi nhận. Tại Điều 132 Hiến pháp 1992 quy định: Quyền bào chữa của bị
cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho
mình. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế XHCN.
Theo qui định tại Khoản 1, Điều 56 Bộ luật TTHS năm 2003, thì khái
niệm “người bào chữa” được sử dụng để chỉ: a) Luật sư; b) Người đại diện hợp
pháp của bị can, bị cáo, đương sự; và c) Bào chữa viên nhân dân. Luật sư là
người hoạt động bào chữa chuyên nghiệp, hoạt động trong Đoàn Luật sư; người
đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo là cha, mẹ, anh, chị, em ruột, người đỡ đầu;
còn người bào chữa viên nhân dân là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra
để bào chữa cho bị cáo. Việc ghi nhận này là một trong những cơ sở làm phát
sinh các quyền và trách nhiệm của luật sư, theo đó luật sư có quyền tham gia tố
tụng từ khi người đó bị tạm giữ.
Kết luận Chương 1:
Một trong những yêu cầu quan trọng nhất để đảm bảo quyền con người
trong quá trình xây dựng NNPQ đó là đẩy nhanh tiến trình CCTP ở nước ta
theo hướng dân chủ mà trọng tâm là nâng cao chất lượng xét xử của TAND.
Đây là vấn đề lý luận và thực tiễn bức xúc, đang có nhiều tranh cãi trong quá
trình đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp hiện nay. Trong
Chương 1, đề tài đã trình bày những vấn đề lý luận căn bản nhất, với tư cách
cung cấp khung lý thuyết cho việc CCTP để đảm bảo tốt nhất các quyền con
người ở nước ta hiện nay. Cụ thể, đề tài đã trình bày và làm rõ về: (1). Quan
niệm về quyền con người, tư pháp và CCTP; (2). Những quyền con người cần
được bảo đảm trong quá trình CCTP ở Việt Nam hiện nay.
Đây là những vấn đề lý luận chung, nó sẽ làm căn cứ, tiêu chí cho việc
đánh giá thực trạng chất lượng tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp (sẽ
trình bày ở Chương 2), và cũng là căn cứ lý luận để đề ra các giải pháp đổi
mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp ở Chương 3.
Chương 2:
ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI TRONG CẢI CÁCH TƯ PHÁP
Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. TỔNG QUAN QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ở Việt Nam,
CCTP được đặt ra như một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu với
mục tiêu đảm bảo sự nghiêm minh của công lý, giữ vững và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Ngay từ khi giành được chính quyền, trong bản Hiến
pháp năm 1946 đã có chương VI quy định riêng về cơ quan tư pháp bao gồm
Toà án tối cao, các Toà án phúc thẩm, các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp. Hiến
pháp 1946 đã vận dụng một cách sáng tạo học thuyết phân quyền mà thể hiện
rõ nhất là đã có chương quy định riêng về cơ quan tư pháp và mối quan hệ
của cơ quan này với Nghị viện và hệ thống cơ quan hành chính.
Theo Hiến pháp năm 1946, cơ cấu của Toà án nước ta thời kỳ này có
những điểm khá đặc thù, không hoàn toàn giống như quan niệm về cơ quan tư
pháp theo nghĩa hẹp ở trên. Theo Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức
các Toà án và các ngạch thẩm phán, Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 ấn định
thẩm quyền các Toà án và sự phân công giữa các nhân viên trong Toà án, Sắc
lệnh số 31 ngày 19/3/1947 sửa đổi Sắc lệnh số 131 ngày 20/7/1946 về tổ chức
Tư pháp công an, Sắc lệnh số 258-SL quy định cách tổ chức Công an quân
pháp trong thời kỳ kháng chiến, thì trong cơ cấu tổ chức của Toà án không chỉ
có thẩm phán xét xử (thẩm phán ngồi) mà còn có thẩm phán buộc tội (thẩm
phán đứng) được gọi là Chưởng lý, Biện lý, Phó Biện lý giữ vai trò công tố
viên. Trong quân đội, công an quân pháp được giao thẩm quyền thi hành bản
án của Toà án binh. Như vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên xây dựng
nền tư pháp non trẻ thì nội hàm khái niệm cơ quan tư pháp theo Hiến pháp
năm 1946 đã được thu nhận thêm những thành tố khác như cơ quan công tố,
điều tra, thi hành án1.
Lần CCTP đầu tiên là năm 1950, vào thời kỳ đó, Bộ Tư pháp đã trình
lên Chủ tịch Hồ Chí Minh dự án Sắc lệnh Cải cách bộ máy tư pháp và Luật
Tố tụng với những mục đích rất rõ ràng là bộ máy tư pháp cần được “dân chủ
hoá”, “để công việc xét xử được nhanh chóng và gần dân hơn”, “thủ tục tố
tụng cần được hợp lý và giản dị hơn”. Để thực hiện mục tiêu này, ngày
22/5/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 85 về cải cách bộ máy tư
pháp, đây là lần CCTP đầu tiên.
Tiếp đó, vấn đề CCTP tiếp tục được thực hiện ở các mức độ khác nhau.
các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 không có quy định cụ thể
về cơ quan tư pháp. Theo mô hình tổ chức cơ quan tư pháp của các nước
XHCN, các bản hiến pháp về sau này đã có sự thay đổi về cấu trúc, theo đó
không còn chương quy định riêng về cơ quan tư pháp mà thay vào đó là
chương quy định về TAND và VKSND.
Trước yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân và vì dân, vấn
đề CCTP được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, đặc biệt từ năm
1997 đến nay. Thực hiện chủ trương CCTP, Đảng và Nhà nước đã có nhiều
chủ trương hết sức quan trọng về cải CCTP. Thực hiện chủ trương CCTP,
Nhà nước đã tiến hành sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản pháp
luật trên cơ sở thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, trong đó phải kể
đến Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức TAND, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội
thẩm TAND, Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 1993. Đây là những cơ
sở pháp lý đánh dấu một bước tiến quan trọng của công cuộc CCTP, trong đó
1 Xem: Phạm Văn Hùng, Tòa án và vấn đề cải cách tư pháp, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 135,
tháng 11/2008.
trọng tâm là hoạt động của Toà án.
Điều 127 Hiến pháp năm 1992 qui định: TAND là cơ quan xét xử của
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam; theo qui định, hệ thống TAND bao gồm:
TAND tối cao, các TAND địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án
khác do luật định. So với các bản hiến pháp trước, hệ thống cơ quan Toà án
vẫn được giữ nguyên như cũ, nhưng có điểm khác biệt đó là Hiến pháp năm
1992 quy định khả năng thành lập thêm các Toà án mới. Điều này bảo đảm
khả năng thành lập các Toà án trong những trường hợp cần thiết để đáp ứng
yêu cầu của sự phát triển xã hội. Trong thực tế, quy định này đã được vận
dụng bằng việc lập thêm Toà kinh tế, Toà hành chính và Toà lao động trong
cơ cấu của TAND cấp tỉnh và TAND tối cao.
Theo Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức TAND năm 2002, thì chế
độ bầu Thẩm phán trước đây được thay bằng chế độ bổ nhiệm; bỏ thẩm quyền
xét xử sơ thẩm và chung thẩm; chú ý đến chất lượng tranh tụng tại phiên toà.
Luật Tổ chức TAND năm 2002 đã có sự đổi mới về cơ cấu tổ chức và thẩm
quyền của Toà án: Trong cơ cấu của TAND tối cao không có Ủy ban thẩm
phán; Hội đồng thẩm phán TAND tối cao có sự thay đổi về thành phần với
tổng số không quá 17 người; bỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm và chung thẩm
của TAND tối cao; bỏ quy định về sự tham gia của HTND trong xét xử ở
TAND tối cao; mở rộng thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện, bảo đảm
thực hiện hai cấp xét xử.
Theo qui định, TAND cấp huyện xét xử sơ thẩm, còn việc xét xử phúc
thẩm được trao cho TAND cấp tỉnh. TAND tối cao chỉ làm nhiệm vụ xét xử
giám đốc thẩm, tái thẩm, phúc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, chuẩn bị
các dự án luật, hướng dẫn các Toà án địa phương thực hiện xét xử thống nhất
theo pháp luật. TAND tối cao trực tiếp quản lý toà án địa phương và toà án
quân sự về các mặt nghiệp vụ, chuyên môn và tổ chức cán bộ. Những đổi mới
về tổ chức và nhiệm vụ của Toà án bảo đảm cho TAND phát huy vị trí pháp
lý và vai trò của mình trong NNPQ XHCN Việt Nam1.
Cải cách tổ chức và hoạt động của TAND là trong tâm của CCTP, song
để đạt được hiệu quả thì những cải cách TAND phải được tiến hành đồng bộ
với việc cải cách cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và các cơ quan, tổ chức bổ
trợ tư pháp khác. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và đẩy mạnh CCTP
theo hướng phân định rõ chức năng, thẩm quyền của các cơ quan trong bộ
máy tư pháp, ngày 02-01-2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-
NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”.
Nghị quyết số 08 - NQ/TW đã đề cập một cách toàn diện vấn đề CCTP, Nghị
quyết đã nêu những quan điểm chung và chủ trương, giải pháp cụ thể đối với
từng cơ quan tư pháp. Đối với Toà án, Nghị quyết 08-NQ/TW nhấn mạnh:
Cần phân định thẩm quyền của các Toà án các cấp theo hướng TAND tối cao
làm nhiệm vụ tổng kết xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật và giám đốc xét
xử các quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật. TAND cấp tỉnh, thành phố
chủ yếu thực hiện công tác xét xử phúc thẩm. TAND cấp huyện, quận, thị xã
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động.
Tiếp đó để đẩy mạnh hơn nữa công cuộc CCTP theo hướng xây dựng
NNPQ, ngày 2-6-2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW “Về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Nghị quyết đề ra phương hướng:
“Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa
học, hiện đại về cơ cầu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó
xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội
hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp”. Đối với hệ thống tổ chức và thẩm
quyền xét xử của Tòa án, Nghị quyết xác định nhiệm vụ của Tòa án các cấp
như sau: “Tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc
1 Xem: Hoàng Mạnh Hùng, Tiếp tục đổi mới hoạt động của hệ thống tòa án nhân dân ở nước ta
hiện nay, tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử
vào đơn vị hành chính, gồm: Toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một
hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Toà án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ
yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Toà thượng thẩm
được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Toà án nhân dân
tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Nghị
quyết nhấn mạnh: “Đổi mới tổ chức Toà án nhân dân tối cao theo hướng tinh
gọn, với đội ngũ Thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có
kinh nghiệm trong ngành”.
Có thể nói rằng, CCTP là một yêu cầu, nhiệm vụ hết sức quan trọng,
với mục tiêu đảm bảo công lý, đảm bảo quyền con người thì việc cải cách tổ
chức và hoạt động của Toà án có ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định hiệu
quả hoạt động CCTP trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN của dân, do
dân, vì dân ở nước ta hiện nay.
2.2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CẢI CÁCH TƯ PHÁP NHẰM ĐẢM
BẢO QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.1. Thực trạng cải cách hoạt động điều tra hình sự nhằm đảm
bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp
Thực hiện chủ trương CCTP của Đảng và Nhà nước, trong những năm
vừa qua ngành tư pháp đã có nhiều chuyển biến hết sức quan trọng, góp phần
vào việc bảo đảm công lý, các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xây
dựng NNPQ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Dưới sự lãnh đạo của
cấp uỷ đảng các cấp, các đề án CCTP đã được xây dựng và triển khai đối với
từng cơ quan cụ thể; trong đó, các đề án đều chú trọng tập trung vào việc đổi
mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp mà trọng tâm là hoạt động
xét xử của Tòa án. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ
Chính trị, Nghị quyết 49-NQ/TW, Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg của Thủ tướng
Chính phủ, các chủ trương của Ban chỉ đạo CCTP Trung ương, các cơ quan
tư pháp đã thực hiện có hiệu quả việc đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ
quan điều tra theo hướng hiệu quả, hiệu lực.
- Tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra
Công an là lực lượng quan trọng, đi đầu trong việc giữ gìn trật tự, trị an
trên địa bàn địa phương, thực hiện chủ trương CCTP, lực lượng công an đã đề
ra nhiều biện pháp quan trọng nhằm nâng cao năng lực hoạt động của mình.
Thực hiện CCTP theo tinh thần Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49, các cơ
quan điều tra đã được từng bước sắp xếp, tổ chức lại theo hướng khoa học
hơn. Hiện nay, Bộ Công an thống nhất chỉ huy các cơ quan điều tra thuộc Bộ,
đã và đang tiến hành việc sáp nhập các cơ quan điều tra thuộc công an địa
phương. Cơ quan điều tra trong quân đội đã được đổi mới; chỉ tổ chức cơ
quan điều tra ở VKSND tối cao để điều tra một số loại tội phạm xâm phạm
hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ các cơ quan tư pháp.
Cụ thể, cơ quan ANĐT: Ở Bộ là Cục ANĐT (A24), gồm 4 phòng, 2
trại tạm giam với 238 cán bộ, chiến sỹ. Ở cấp tỉnh là Phòng ANĐT (PA24),
gồm có 955 cán bộ, chiến sỹ. Tổng số cán bộ lực lượng ANĐT là 1.193, trong
đó có 698 điều tra viên (cao cấp: 160, trong cấp 338, sơ cấp 200). Cơ quan
CSĐT: Ở cấp Bộ gồm 5 đơn vị điều tra, ở cấp tỉnh có 3 phong CSĐT và 01
Văn phòng cơ quan CSĐT. So sánh với mô hình cơ quan điều tra theo Pháp
lệnh tổ chức điều tra hình sự 1989 thi mô hình của lực lượng ANĐT về cơ
bản không có gì thay đổi. Lực lượng CSĐT có sự thay đổi cơ bản là: đầu mối
cơ quan CSĐT các cấp tăng lên, đến nay có 1.629 đầu mối là các đội CSĐT.
Lực lượng CSĐT toàn quốc có 28.197 cán bộ; trong đó điều tra viên là 11.826
(chiếm 41,94%), tăng 3.546 điều tra viên (42,82%) so với trước khi triển khai
pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 20041.
Bên cạnh việc sắp xếp lại tổ chức, thẩm quyền điều tra cũng đã được
phân công, phân cấp theo hướng khoa học hơn. Theo đó, cơ quan ANĐT
thuộc công an và quân đội chịu trách nhiệm điều tra các loại tội xâm phạm an
ninh quốc gia (Chương XI, BLHS) và các tội phá hoại hòa bình, chống loài
người và tội phạm chiến tranh (Chương XXIV). Cơ quan cảnh sát điều tra
(thuộc công an nhân dân) và cơ quan điều tra hình sự (thuộc quân đội nhân
dân) có thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự theo qui định của BLHS, trừ
các loại tội thuộc thẩm quyền của ANĐT và VKSND như đã nêu trên.
Các nguyên tắc về hoạt động điều tra cũng đã được xác lập. Theo qui
định của Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự thì quá trình điều tra phải tuân
thủ các nguyên tắc như: tôn trọng sự thật khách quan, toàn diện, đầy đủ; phát
hiện kịp thời, chính xác mọi hành vi phạm tội, làm rõ cả chứng cứ buộc tội và
gỡ tội, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ hình phạt, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội.
Về công tác tổ chức. Dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng các cấp, thực
hiện chủ trương CCTP, ngành công an đã thường xuyên thực hiện việc rà soát
đội ngũ cán bộ trong ngành, lựa chọn, bố trí những cán bộ, chiến sỹ giỏi về
nghiệp vụ, có tư cách đạo đức tốt đảm nhận các chức vụ lãnh đạo các cơ quan
điều tra và các đội điều tra.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ, nhằm đáp ứng yêu cầu
xây dựng lực lượng, ngành công an đã không ngừng tổ chức cho cán bộ đi
học nhằm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn; cụ thể, đã tổ chức tập
huấn về Bộ luật TTHS năm 2003 cho các điều tra viên trong toàn quốc, cử
1 Nguyễn Ngọc Anh (2007), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều tra trong công an
nhân dân theo tiến trình cải cách tư pháp, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 96-100.
cán bộ, chiến sỹ tham dự các lớp đại học do Học viện An ninh nhân dân, Học
viện Cảnh sát nhân dân và các trường trung học an ninh khác tổ chức... Thực
hiện kế hoạch số 48/KH-BCA ngày 10/11/2004 của Bộ Công an về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ làm công tác điều tra đáp ứ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Xác định phương hướng, giải pháp đẩy mạnh hoạt động CCTP đảm bảo quyền con người ở nước ta hiện nay.pdf