Luận văn Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty TNHH Minh Nam

Tài liệu Luận văn Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty TNHH Minh Nam: LUẬN VĂN: Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty TNHH Minh Nam lời mở đầu Trong nền kinh tế thị trường, để có thể tiến hành được các hoạt động sản xuất kinh doanh thì điều kiện đầu tiên với mỗi doanh nghiệp là phải có vốn kinh doanh. Dựa trên số vốn đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh như sức lao động đối tượng lao động và tư liệu lao động để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất. Muốn vậy doanh nghiệp phải tìm cách thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của doanh nghiệp nó không chỉ đảm bảo sản xuất mà còn mở rộng sản xuất, đầu tư phát triển công nghệ nhằm cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nước ta thuộc nhiều thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và quy mô tuy nhiên do vẫn có ảnh hưởng của quy c...

pdf71 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1142 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty TNHH Minh Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty TNHH Minh Nam lời mở đầu Trong nền kinh tế thị trường, để có thể tiến hành được các hoạt động sản xuất kinh doanh thì điều kiện đầu tiên với mỗi doanh nghiệp là phải có vốn kinh doanh. Dựa trên số vốn đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh như sức lao động đối tượng lao động và tư liệu lao động để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất. Muốn vậy doanh nghiệp phải tìm cách thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của doanh nghiệp nó không chỉ đảm bảo sản xuất mà còn mở rộng sản xuất, đầu tư phát triển công nghệ nhằm cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nước ta thuộc nhiều thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và quy mô tuy nhiên do vẫn có ảnh hưởng của quy chế bao cấp trước đây, năng lực và trình độ quản lý yếu kém, hiệu quả khai thác và sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp còn thấp không đủ cạnh tranh dẫn đến nhiều doanh nghiệp thua lỗ phá sản. Trước thực trạng đó, vấn đề sự hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề được nhiều doanh nghiệp quan tâm. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí và phát huy nội lực để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Qua thời gian học tập, nghiên cứu tại trường và thực tập tại Công ty TNHH Minh Nam ,em mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty TNHH Minh Nam”. Nội dung đề tài chia làm 3 phần sau : Chương I : Lí luận chung về vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Chương II : Thực trạng về tình hình tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty TNHH Minh Nam. Chương III: Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty TNHH Minh Nam. Chương I Lý luận chung về vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường 1. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường: 1.1. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh: Theo Điều 3 luật doanh nghiệp năm 1999, doanh nghiệp là tổ kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, một chủ thể muốn trở thành DN phải hội tụ đủ các đặc trưng sau: - Có đầy đủ các đặc điểm của chủ thể kinh doanh (có VKD, có hành vi kinh doanh, được đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật và chịu sự quản lý của Nhà nước) - Phải là một tổ chức, nghĩa là một thực thể pháp lý được kết hợp bởi các yếu tố trên nhiều phương diện (có tên riêng, có tài sản, trụ ổn định, con dấu riêng...) - Doanh nghiệp không phải là một tổ chức chính trị hay xã hội mà là một tổ chức kinh tế, nghĩa là tổ chức đó phải lấy hoạt động sản xuất kinh doanh làm chủ yếu và hoạt động này phải có tính liên tục. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, nước ta đã thực hiện chính sách đa dạng hoá các thành phần kinh tế. Tương ứng với mỗi thành phần kinh tế có một loại hình doanh nghiệp nhất định. Các DN đều phải tiến hành hạch toán kinh doanh là lấy thu bù chi đảm bảo có lãi, các doanh nghiệp có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trước pháp luật. 1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường: Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay thành công hay thất bại phần lớn phụ thuộc vào tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mô hình tổ chức doanh nghiệp không nên xem xét ở trạng thái tĩnh mà nó luôn luôn ở trạng thái vận động. Tuỳ những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà có những mô hình tổ chức khác nhau. Tuy nhiên, các mô hình tổ chức doanh nghiệp đều chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ yếu sau đây: 1.2.1. Hình thức pháp lý tổ chức của các doanh nghiệp: Theo hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp hiện hành, ở nước ta hiện có các loại hình doanh nghiệp chủ yếu sau đây: - Doanh nghiệp Nhà nước - Công ty cổ phần - Công ty trách nhiệm hữu hạn - Doanh nghiệp tư nhân Những đặc điểm riêng về mặt hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp giữa các doanh nghiệp trên có ảnh hưởng rất lớn đến việc tổ chức tài chính của DN như: - Tổ chức và huy động vốn - Phân phối lợi nhuận Dưới đây xem xét việc tổ chức quản lý của một số doanh nghiệp phổ biến: 1.2.1.1. Doanh nghiệp Nhà nước: Doanh nghiệp nhà nước là một tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh, hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước mới thành lập được ngân sách nhà nước đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ ban đầu nhưng không thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Ngoài số vốn Nhà nước đầu tư, DNNN được quyền huy động vốn dưới hình thức như phát hành trái phiếu, vay vốn, nhận vốn góp liên kết liên doanh và các hình thức sở hữu của DN và phải tuân theo các quy định của pháp luật hiện hành. Việc phân phối lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp) được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn doanh nghiệp quản lý. Như vậy, có thể thấy doanh nghiệp nhà nước chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp. 1.2.1.2. Công ty cổ phần: Công ty cổ phần là một công ty trong đó: - Các thành viên cùng góp vốn dưới hình thức cổ phần để hoạt động. - Số vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần - Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. - Cổ đông có quyền tự do chuyện nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp có quy định của pháp luật. - Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ động tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa. Hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần các đặc điểm: + Công ty cổ phần là một thực thể pháp lý có tư cách pháp nhân, các thành viên góp vốn vào công ty dưới hình thức mua cổ phiếu. Trong quá trình hoạt động, công ty có thể phát hành thêm cổ phiếu mới để huy động thêm vốn (nếu có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo luật định) điều đó tạo cho công ty có thể dễ dàng tăng thêm vốn chủ sở hữu trong kinh doanh. + Các chủ sở hữu có thể chuyển quyền sở hữu về tài sản của mình cho người khác mà không làm gián đoạn các hoạt động kinh doanh của công ty và có quyền hưởng lợi tức cổ phần, quyền biểu quyết, quyền tham dự và bầu Hội đồng quản trị. + Quyền phân chia lợi tức sau thuế thuộc các thành viên của công ty quyết định. + Chủ sở hữu của công ty chỉ chịu TNHH trên phần vốn mà họ góp vào công ty. 1.2.1.3.Công ty trách nhiệm hữu hạn: Theo Luật doanh nghiệp hiện hành ở nước ta, có hai dạng công ty trách nhiệm hữu hạn: Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. - Công ty TNHH (có hai thành viên trở lên) là doanh nghiệp trong đó: + Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vốn vào doanh nghiệp. + Phần vốn góp của các thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định của pháp luật (theo quy định tại điều 32 – Luật doanh nghiệp). + Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên theo quy định của pháp luật. Thành viên phải góp vốn đầy đủ và đúng hạn như đã cam kết. Ngoài phần vốn góp vốn của thành viên, công ty có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn theo quy định của pháp luật nhưng không được quyền phát hành cổ phiếu. Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp, nhưng trước hết phải chào bán phần vốn đó cho tất cả các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty. Chỉ được chuyển nhượng có người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết. Thành viên có quyền yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp của mình, nếu thành viên đó bỏ phiếu chống hoặc phản đối bằng văn bản đối với quyết định của Hội đồng thành viên về các vấn đề:  Tổ chức lại công ty  Các trường hợp khác quy định tại điều lệ công ty. Trong quá trình hoạt động, theo quyết định của Hội đồng thành viên,công ty có thể tăng hoặc giảm vốn theo qui định của pháp luật. Hội đồng thành viên của công ty quyết định phương án sử dụng và phân chia lợi nhuận hoặc phương án xử lý lỗ của công ty. - Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: Là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ về tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn điều lệ của doanh nghiệp. Công ty có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn, tuy nhiên công ty không được quyền phát hành cổ phiếu. Chủ sở hữu công ty không trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số vốn đã góp vào công ty, chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn cho tổ chức hoặc cá nhân khác. Chủ sở hữu công ty là người quyết định sử dụng lợi nhuận sau thuế. 1.2.1.4. Doanh nghiệp tư nhân: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, chủ doanh nghiệp tư nhân là người bỏ vốn đầu tư của mình và cũng có thể huy động thêm vốn từ bên ngoài dưới hình thức đi vay. Trong khuôn khổ của luật pháp, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên loại hình doanh nghiệp này không được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn trên thị trường. Qua đó cho thấy nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân là hạn hẹp, loại hình doanh nghiệp này thường thích hợp với kinh doanh quy mô nhỏ. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền quyết định đối với tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình, có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác hoặc có quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh. Việc thực hiện cho thuê hay bán doanh nghiệp hoặc tạm ngừng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải tuân thủ các yêu cầu của của pháp luật hiện hành. Phần thu nhập sau thuế thuộc quyền sở hữu và sử dụng của chủ doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình. Điều đó cũng có nghĩa là về mặt tài chính chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp. Đây cũng là một điều bất lợi của loại hình doanh nghiệp này. 1.2.1.5. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định các hình thức đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam gồm có doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn nhằm thực hiện các mục tiêu chung là tìm kiếm lợi nhuận, có tư cách pháp nhân, tổ chức và hoạt động theo quy chế của công ty trách nhiệm hữu hạn và tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam. Doanh nghiệp liên doanh có đặc điểm: Phần vốn góp của bên ngoài vào vốn pháp định không hạn chế ở mức tối đa nhưng lại hạn chế ở mức tối thiểu, tức là không được thấp hơn 30% của vốn pháp định, trừ những trường hợp do Chính phủ quy định. Việc góp vốn của các bên tham gia có thể bằng tiền nước ngoài, tiền Việt Nam, tài sản hiện vật, giá trị quyền sở hữu công nghiệp, giá trị quyền sử dụng đất, các nguồn tài nguyên thiên nhiên...theo quy định của pháp luật tại Việt Nam (có quy định cụ thể cho mỗi bên nước ngoài và Việt Nam). Các bên trong doanh nghiệp liên doanh có quyền chuyển nhượng giá trị phần vốn của mình, nhưng phải ưu tiên chuyển nhượng cho các bên trong liên doanh. Lợi nhuận sau thuế thu nhập của doanh nghiệp liên doanh được trích lập quỹ dự phòng tài chính, quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng. Việc các nhà đầu tư nước ngoài có lợi nhuận và muốn chuyển số lợi nhuận đó về nước họ thì phải nộp một khoản thuế về việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài tuỳ thuộc vào mức vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài: là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thành lập tại Việt Nam. Tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài quy định trên cơ sở quy chế pháp lý về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. 1.2.2. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh: Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh có ảnh hưởng không nhỏ tới doanh nghiệp. Mỗi ngành kinh doanh có những đặc điểm về mặt kinh tế và kỹ thuật khác nhau. Những ảnh hưởng đó thể hiện: 1.2.2.1. ảnh hưởng của tính chất ngành kinh doanh: ảnh hưởng này thể hiện trong thành phần cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới quy mô của vốn sản xuất – kinh doanh, cũng như tỷ lệ thích ứng để hình thành và sử dụng chúng, do đó có ảnh hưởng tới tốc độ luân chuyển vốn (vốn cố định và vốn lưu động), ảnh hưởng tới phương pháp đầu tư, thể thức thanh toán chi trả. 1.2.2.2. ảnh hưởng của tính thời vụ và chu kỳ sản xuất - kinh doanh: Tính thời vụ và chu kỳ sản xuất có ảnh hưởng trước hết đến nhu cầu vốn sử dụng và doanh thu tiêu thu sản phẩm. Những doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ ngắn thì nhu cầu vốn lưu động giữa các thời kỳ trong năm thường không có biến động lớn, doanh nghiệp cũng thường xuyên thu được tiền bán hàng, điều đó giúp cho doanh nghiệp dễ đàng đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi bằng tiền, cũng như trong việc tổ chức và đảm bảo nguồn vốn cho nhu cầu kinh doanh. Những doanh nghiệp sản xuất ra những loại sản phẩm có chu kỳ sản xuất dài phải ứng ra một lượng vốn lưu động giữa các quý trong năm thường có sự biến động lớn, tiền thu về bán hàng cũng không được đều, tình hình thanh toán, chi trả cũng thường gặp những khó khăn. Cho nên việc tổ chức đảm bảo nguồn vốn cũng như đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi bằng tiền của doanh nghiệp cũng khó khăn hơn. 1.2.2.3. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp: Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh bao gồm tất cả những điều kiện bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh có tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt động của doanh nghiệp trong đó có hoạt động tài chính. Dưới đây chủ yếu xem xét tác động của môi trường kinh doanh đến hoạt động tài chính doanh nghiệp. - Sự ổn định của nền kinh tế: Sự ổn định hay không ổn định của nền kinh tế, của thị trường có ảnh hưởng trực tiếp tới mức doanh thu của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến nhu cầu về vốn kinh doanh. Những tác động của nền kinh tế có thể gây nên những rủi ro trong kinh doanh mà các nhà tài chính doanh nghiệp phải lường trước, những rủi ro đó ảnh hưởng tới các khoản chi phí về đầu tư, chi phí trả lãi hay tiền thuê nhà xưởng, máy móc thiết bị hay việc tìm nguồn vốn tài trợ. Nền kinh tế ổn định và tăng trưởng tới một tốc độ nào đó thì doanh nghiệp muốn duy trì và giữ vững vị trí của mình, cũng phải phấn đấu để phát triển với nhịp độ tương đương. Khi doanh thu tăng lên, sẽ đưa đến việc gia tăng tài sản, các nguồn doanh nghiệp và các loại tài sản khác. Khi đó, các nhà tài chính doanh nghiệp phải tìm nguồn tài trợ cho sự mở rộng sản xuất, sự tăng tài sản đó. - ảnh hưởng của giá cả thị trường, lãi suất và tiền thuế: Giá cả thị trường, giá cả sản phẩm mà doanh nghiệp tiêu thu có ảnh hưởng lớn tới doanh thu do đó ảnh hưởng lớn tới khả năng tìm kiếm lợi nhuận. Cơ cấu tài chính của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng nếu có sự thay đổi về giá cả. Sự tăng, giảm lãi suất và giá cổ phiếu cũng ảnh tới sự tăng giảm về chi phí tài chính và sự hấp dẫn của các hình thức tài trợ khác nhau. Mức lãi suất cũng là một yếu tố đo lường khả năng huy động vốn vay. Sự tăng hay giảm thuế cũng ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình kinh doanh, tới khả năng tiếp tục đầu tư hay rút khỏi đầu tư. Tất cả các yếu tốt trên có thể được các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp sử dụng để phân tích các hình thức tài trợ và xác định thời gian tìm kiếm các nguồn vốn trên thị trường tài chính. - Sự cạnh tranh trên thị trường và sự tiến bộ kỹ thuật, công nghệ: Sự cạnh tranh về sản phẩm đang sản xuất và các sản phẩm tương lai giữa các doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn tới kinh tế, tài chính của doanh nghiệp và có liên quanh chặt chẽ đến khả năng tài trợ để doanh nghiệp tồn taị và tăng trưởng trong một nền kinh tế luôn luôn biến đổi và người giám đốc tài chính phải chịu trách nhiệm về việc cho doanh nghiệp hoạt động khi cần thiết. Cũng tương tự như vậy, sự tiến bộ kỹ thuật và công nghệ đòi hỏi doanh nghiệp phải ra sức cải tiến kỹ thuật, quản lý, xem xét và đánh giá lại toàn bộ tình hình tài chính, khả năng thích ứng với thị trường, từ đó đề ra những chính sách thích hợp cho doanh nghiệp. - Chính sách kinh tế và tài chính của Nhà nước đối với doanh nghiệp: Như chính sách khuiyến khích đầu tư, chính sách thuế, chính sách xuất khẩu, nhập khẩu, chế độ khấu hao tài sản cố định... Đây là những yếu tố tác động lớn đến các vấn đề tài chính của doanh nghiệp. - Sự hoạt động của thị trường tài chính và hệ thống các tổ chức tài chính trung gian: Hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với thị trường tài chính, nơi mà doanh nghiệp có thể huy động vốn hay đầu tư những khoản tài chính tạm thời nhàn rỗi. Sự phát triển của thị trường tài chính làm nảy sinh các công cụ tài chính mới, doanh nghiệp có thể sư dụng để huy động vốn đầu tư. Chẳng hạn, khi xuất hiện hình thức thuê tài chính, doanh nghiệp có thể nhờ đó giảm bớt được số vốn cần đầu tư hoặc khi hình thành thị trường chứng khoán, doanh nghiệp có thêm phương tiện để huy động vốn hay đầu tư vốn...Sự phát phát triển và hoạt động có hiệu quả của các tổ chức tài chính trung gian như ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ tín dụng...cũng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp huy động vốn. Khi xem xét tác động của môi trường kinh doanh, không chỉ xem xét ở phạm vi trong nước mà cần phân tích đánh giá cả môi trường khu vực và thế giới, vì biến động về kinh tế - tài chính trong khu vực và trên thế giới tác động không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của một nước. 2. Vốn kinh doanh và nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp: 2.1. Vốn kinh doanh: 2.1.1. Khái niệm về vốn kinh doanh: Để tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, doanh nghiệp cũng cần phải có vốn. Vốn kinh doanh là điều kiện tiên quyết có ý nghĩa quyết định đến quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là số tiền ứng trước về toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình phục vụ cho sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích kiếm lời. Khi phân tích hình thái biểu hiện và sự vận động của vốn kinh doanh, cho thấy những đặc điểm nổi bật sau: - Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt. Mục tiêu của quỹ là để phục vụ cho sản xuất - kinh doanh tức là mục đích tích luỹ, không phải là mục đích tiêu dùng như một vài quỹ khác trong doanh nghiệp. - Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có trước khi diễn ra hoạt động sản xuất - kinh doanh. - Vốn kinh doanh của doanh nghiệp sau khi ứng ra, được sử dụng vào kinh doanh và sau mỗi chu kỳ hoạt động phải được thu về để ứng tiếp cho kỳ hoạt động sau. - Vốn kinh doanh không thể mất đi. Mất vốn đối với doanh nghiệp đồng nghĩa với nguy cơ phá sản. Cần thấy rằng có sự phân biệt giữa tiền và vốn. Thông thường có tiền sẽ làm nên vốn, nhưng tiền chưa hẳn là vốn. Tiền được gọi là vốn phải đồng thời thoả mãn những điều kiện sau: - Một là: Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định. Hay nói cách khác, tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực. - Hai là: Tiền phải được tích tụ và tập trung ở một lượng nhất định. Sự tích tụ và tập trung lượng tiền đến hạn độ nào đó mới làm cho nó đủ sức để đầu tư vào một dự án kinh doanh nhất định. - Ba là: Khi tiền đủ lượng phải được vận động nhằm mục đích kiếm lời. Cách thức vận động của tiền là doanh nghiệp phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Phương thức đầu tư của một doanh nghiệp, có thể bao gồm: + Đối với đầu tư cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, công thức vận động của vốn như sau: TLSX T - H ...SX...H’ - T’ SLĐ + Đối với đầu tư cho lĩnh vực thương mại, công thức đơn giản hơn: T - H - T’ + Đối với đầu tư mua trái phiếu hoặc cổ phiếu, góp vốn liên doanh thì công thức vận động là: T - T’ 2.1.2. Đặc trưng của vốn kinh doanh: - Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là số tiền ứng trước cho hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Tất nhiên muốn có được lượng vốn đó, các doanh nghiệp phải chủ động khai thác, thu hút vốn trên thị trường. - Mục đích vận động của tiền vốn là sinh lời. Nghĩa là vốn ứng trước cho hoạt động sản xuất - kinh doanh phải được thu hồi về sau mỗi chu kỳ sản xuất, tiền vốn thu hồi về phải lớn hơn số vốn đã bỏ ra. 2.2. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp: 2.2.1.Căn cứ vào mối quan hệ sở hữu về vốn: 2.2.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu: Là phần vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạn, bao gồm: vốn điều lệ, vốn tự bổ sung, vốn doanh nghiệp nhà nước tài trợ (nếu có). Trong đó: - Nguồn vốn điều lệ: Trong các doanh nghiệp tư nhân vốn đầu tư ban đầu do chủ sở hữu đầu tư. Trong các doanh nghiệp Nhà nước vốn đầu tư ban đầu do Nhà nước cấp một phần (hoặc toàn bộ) - Nguồn vốn tự bổ sung: bao gồm tất cả các nguồn vốn mà doanh nghiệp tự bổ sung từ nội bộ doanh nghiệp như từ lợi nhuận để lại, quỹ khấu hao, các quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển. Nguồn vốn chủ sở hữu là một nguồn vốn quan trọng và có tính ổn định cao, thể hiện quyền tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Tỷ trọng của nguồn vốn này trong cơ cấu nguồn vốn càng lớn, sự độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Vốn cSH tổng nợ Tại một = nguồn - phải thời điểm vốn trả 2.2.1.2. Nợ phải trả: Là tất cả các khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế, bao gồm: - Nguồn vốn chiếm dụng hợp pháp: Trong quá trình SXKD của doanh nghiệp đương nhiên phát sinh các quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp với các tác nhân kinh tế khác như với Nhà nước, với CBCNV, với khách hàng, với người bán từ đó mà phát sinh vốn chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng. Thuộc về vốn chiếm dụng hợp pháp có các khoản vốn sau: + Các khoản nợ khách hàng chưa đến hạn trả. + Các khoản phải nộp Ngân sách Nhà nước chưa đến hạn nộp. + Các khoản phải thanh toán với CBCNV chưa đến hạn thanh toán. Nguồn vốn chiếm dụng chỉ mang tính chất tạm thời, doanh nghiệp chỉ có thể sử dụng trong thời gian ngắn nhưng vì nó có ưu điểm nổi bật là doanh nghiệp không phải trả chi phí sử dụng vốn, đòn bẩy tài chính luôn dương, nên trong thực tế doanh nghiệp nên triệt để tận dụng nguồn vốn này trong giới hạn cho phép nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn mà vẫn đảm bảo kỷ luật thanh toán. - Các khoản nợ vay: bao gồm toàn bộ vốn vay ngắn - trung - dài hạn ngân hàng, nợ trái phiếu và các khoản nợ khác. Thông thường, một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả để đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động SXKD. Sự kết hợp giữa hai nguồn này phụ thuộc vào đặc điểm của ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động cũng như quyết định tài chính của người quản lý trên cơ sở điều kiện thực tế của doanh nghiệp. Làm thế nào để lựa chọn được một cơ cấu tài chính tối ưu? Đó là câu hỏi luôn làm trăn trở các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp bởi sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào sự khôn ngoan hay khờ dại của doanh nghiệp đó khi lựa chọn cơ cấu tài chính. 2.2.2. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn: 2.2.2.1. Nguồn vốn thường xuyên: Đây là nguồn vốn có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có thể sử dụng trong thời gian dài, bao gồm: Nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn. Nguồn vốn này thường được sử dụng để đầu tư TSCĐ và một bộ phận TSLĐ thường xuyên, cần thiết. 2.2.2.2. Nguồn vốn tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu về vốn có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Cách phân loại này giúp cho người quản lý doanh nghiệp xem xét huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, lập kế hoạch tài chính và hình thành những dự định về tổ chức vốn một trong tương lai. 2.2.3. Căn cứ vào phạm vi huy động vốn: 2.2.3.1. Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động được từ bản thân doanh nghiệp bao gồm: tiền khấu hao TSCĐ, lợi nhuận để lại, các khoản dự phòng, thu từ thanh lý, nhượng bán TSCĐ. 2.2.3.2. Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động từ bên ngoài gồm: vốn vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, vốn liên doanh liên kết, vốn huy động từ phát hành trái phiếu, nợ người cung cấp và các khoản nợ khác. 2.3. Quản lý và sử dụng vốn kinh doanh: 2.3.1. Vốn cố định: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư bên trong ứng trước về tài sản cố định của doanh nghiệp. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất - kinh doanh được cũng phải có đủ 3 yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Tư liệu lao động: là điều kiện vật chất không thể thiếu được trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh, nó góp phần quyết định đến năng suất lao động. Tư liệu lao động trong các doanh nghiệp bao gồm những công cụ lao động mà thông qua chúng người lao động sử dụng lao động của mình tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm (máy móc thiết bị, công cụ làm việc...) và những phương tiện làm việc cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất – kinh doanh bình thường (như nhà xưởng, công trình kiến trúc...) Để thuận tiện cho việc quản lý tài sản người ta chia tư liệu lao động thành 2 bộ phận: tài sản cố định và công cụ lao động nhỏ. Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị đơn vị lớn và thời hạn sử dụng lâu. Về mặt thời gian sử dụng thì hầu hết các quốc gia đều áp dụng là trên một năm, về mặt giá trị đơn vị thì tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia vận dụng cho phù hợp trong từng giai đoạn nhất định. Ví dụ: ở nước ta giai đoạn 1990 đến 1996 giá trị đơn vị được quy định là 500.000 VNĐ trở lên, từ năm 1997 đến nay được điều chỉnh thành 5.000.000 VNĐ trở lên. Ngoài ra những tư liệu lao động nào mà không hội đủ 2 điều kiện nói trên được gọi là công cụ lao động nhỏ và do doanh nghiệp nguồn vốn lưu động tài trợ. Tài sản cố định là một bộ phận của tư liệu lao động cho nên đặc điểm vật chất của tài sản cố định cũng chính là đặc điểm của tư liệu lao động. Tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất - kinh doanh, bị hao mòn dần nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu và giá trị của nó cũng giảm dần tương ứng với mức độ hao mòn của tài sản cố định. Từ những phân tích trên đây có thể thấy: tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu, có thời gian sử dụng lâu và có giá trị đơn vị lớn. Đặc điểm chung nhất của chúng là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và không thay đổi hình thái vật chất ban đầu. Trong quá trình đó tài sản cố định bị hao mòn dần và giá trị của nó giảm dần tương ứng, phần giá trị này được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm mới mà nó tham gia sản xuất ra. Mặc dù tài sản cố định không bị thay đổi hình thái hiện vật trong suốt thời gian sử dụng, song năng lực sản xuất cũng giảm sút dần do chúng bị hao mòn trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất. Hao mòn tài sản cố định được phân thành 2 loại: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. + Hao mòn hữu hình của tài sản cố định: là sự hao mòn về mặt vật chất làm giảm dần giá trị và giá trị sử dụng của tài sản cố định, doanh nghiệp tác động của các yếu tố tự nhiên gây ra hoặc khi tài sản cố định tham gia vào hoạt động sản xuất thì bị cọ xát, mài mòn dần. Trong trường hợp do quá trình sử dụng, mức độ hao mòn của tài sản cố định tỷ lệ thuận với thời gian và cường độ sử dụng chúng vào sản xuất - kinh doanh. Mặt khác cho dù tài sản cố định không sử dụng chúng cũng bị hao mòn do tác động của các yếu tố tự nhiên: độ ẩm, khí hậu, thời tiết...làm cho tài sản cố định bị han rỉ, mục nát dần. Trong trường hợp này, mức độ hao mòn của tài sản cố định nhiều hay ít phụ thuộc vào công tác bảo dưỡng, bảo quản tài sản cố định của doanh nghiệp. + Hao mòn vô hình: là loại hao mòn về mặt giá trị, làm giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định (còn gọi là sự mất giá của tài sản cố định). Nguyên nhân dẫn đến hao mòn vô hình của tài sản cố định không phải do chúng sử dụng ít hay nhiều trong sản xuất, mà là do những tài sản cố định cùng loại mới được sản xuất ra có giá rẻ hơn hay hiện đại hơn hoặc doanh nghiệp chấm dứt chu kỳ sống của sản phẩm làm cho tài sản cố định trở nên không cần dùng hoặc giảm giá. Để có nguồn vốn đầu tư cho tài sản cố định mới, yêu cầu phải có phương thức thu hồi vốn khi tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sản xuất. Phương thức này goi là khấu hao tài sản cố định. Khấu hao tài sản cố định là một phương thức thu hồi vốn cố định bằng cách bù đắp phần giá trị tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sản xuất - kinh doanh nhằm tái tạo lại vốn cố định đảm bảo quá trình sản xuất - kinh doanh được tiến hành liên tục và có hiệu quả. Như vậy vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ. Đặc điểm của vốn cố định là luân chuyển dần dần từng bộ phận tương ứng với giá trị hao mòn của TSCĐ, khi TSCĐ hết thời hạn sử dụng vốn cố định mới được thu hồi đầy đủ và kết thúc một lần tuần hoàn vốn. Quản lý vốn cố định là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Từ những nghiên cứu về tài sản cố định trên đây, cho thấy việc bảo toàn và phát triển vốn cố định là nội dung cần quan tâm của người làm công tác tài chính. Bảo toàn vốn cố định là việc duy trì lượng vốn cố định thực chất ở các thời điểm sau ngang bằng với thời điểm ban đầu. Phát triển vốn cố định là làm cho vốn cố định thực chất ở các thời kỳ càng về sau càng lớn hơn thời kỳ trước. Để bảo toàn và phát triển vốn cố định của doanh nghiệp cần thiết phải sử dụng các biện pháp chủ yếu sau đây: - Phải đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định một cách thường xuyên và chính xác. - Phải lựa chọn các phương pháp khấu hao mức khấu hao thích hợp. - Phải áp dụng biện pháp nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định như: tận dụng hết công suất máy móc thiết bị, giảm thời gian ngừng hoạt động, có chế độ sửa chữa thường xuyên, định kỳ. - Dự phòng giảm giá TSCĐ: để dự phòng giảm giá TSCĐ, doanh nghiệp được trích khoản dự phòng này vào giá thành. Nếu cuối năm không sử dụng đến thì khoản dự phòng này được hoàn nhập trở lại. 2.3.2. Vốn lưu động: Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận vốn đầu tư được ứng trước về tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp thực hiện được thường xuyên và liên tục. Như đã phân tích phần trên, vốn kinh doanh của doanh nghiệp là số tiền ứng trước cho các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp. Song mỗi yếu tố sản xuất có những đặc điểm hoạt động khác nhau, có công dụng kinh tế khác nhau đối với quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn lưu động là bộ phận của vốn nhằm tài trợ cho các yếu tố sản xuất ngoại trừ tài sản cố định. Nếu cắt quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp ra từng chu kỳ sản xuất chúng ta có thể mô tả theo mô hình sau: ____ Khâu dự trữ Khâu sản xuất Khâu lưu thông - Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất: vốn lưu động được dùng để mua sắm các đối tượng lao động như: nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế... ở giai đoạn này vốn đã thay đổi từ hình thái tiền tệ sang vật tư. - Vốn lưu động nằm trong quá trình sản xuất: là quá trình sử dụng các yếu tố sản xuất để chế tạo ra sản phẩm. Khi quá trình sản xuất chưa hoàn thành, vốn lưu động biểu hiện ở các loại sản phẩm dở dang hoặc bán thành phẩm và khi kết thúc quá trình sản xuất vốn biểu hiện ở số thành phẩm của doanh nghiệp. - Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông: lúc này hình thái hàng hoá được chuyển thành hình thái tiền tệ. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu của tài sản lưu động cũng khác nhau. Tuy nhiên, đối với những doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh thì tài sản lưu động thường được cấu tạo bởi hai phần là tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông. - Tài sản lưu động sản xuất bao gồm những tài sản ở khâu dự trữ sản xuất như nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu... và tài sản ở khâu sản xuất như sản phẩm dở dang đang chế tạo, bán thành phẩm tự chế, chi phí đợi phân bổ. - Tài sản lưu thông của doanh nghiệp bao gồm sản phẩm hàng hoá chờ tiêu thụ (hàng tồn kho), vốn bằng tiền và các khoản phải thu. Dù là ở khâu nào, tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông đều thể hiện các yếu tố: đối tượng lao động, công cụ lao động nhỏ và sức lao động. Đặc điểm vận động của chúng do đặc điểm của đối tượng lao động quyết định, vì đây là bộ phận chính chiếm tỷ trọng ưu thế. Khác với tài sản cố định, tài sản lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm, theo đó giá trị của nó cũng được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm tiêu thụ và hoàn thành một vòng tuần hoàn vốn khi kết thúc một chu kỳ tái sản xuất. Cũng cần thấy rằng, các chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp là nối tiếp và xen kẽ nhau chứ không phải là độc lập và rời rạc. Trong khi một bộ phận của vốn lưu động được chuyển hoá thành vật tư dự trữ, sản phẩm dở dang thì một bộ phận khác của vốn lại chuyển từ sản phẩm hàng hoá sang vốn tiền tệ do quá trình sản xuất của doanh nghiệp là thường xuyên, liên tục. Điều này nhắc nhở những nhà quản lý tài chính cần xây dựng những biện pháp thích hợp cho quản lý sử dụng và bảo toàn vốn lưu động. Sau đây là những nội dung cần chú ý trong quản lý sử dụng vốn lưu động. Một là: Xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Việc ước lượng chính xác số vốn lưu động cần dùng cho doanh nghiệp sẽ có tác dụng đảm bảo đủ vốn lưu động cần thiết, tối thiểu cho quá trình sản xuất - kinh doanh được tiến hành liên tục, đồng thời tránh ứ đọng vốn không cần thiết, thúc đẩy tốc độ luân cguyển vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hai là: Tổ chức khai thác nguồn tài trợ vốn lưu động. Trước hết doanh nghiệp cần khai thác triệt để các nguồn vốn nội bộ và các khoản vốn có thể chiếm dụng một cách thường xuyên trong hoạt động kinh doanh. Nếu số vốn lưu động còn thiếu, doanh nghiệp phải tiếp tục khai thác các nguồn vốn bên ngoài như: vốn liên doanh, vốn vay của các ngân hàng hoặc các công ty tài chính, vốn do phát hành cổ phiếu, trái phiếu... Khi khai thác các nguồn vốn bên ngoài, điều đáng chú ý nhất là cân nhắc các yếu tố lãi suất tiền vay. Về nguyên tắc, lãi do đầu tư vốn phải lớn hơn lãi suất vay vốn thì người kinh doanh mới đi vay vốn. Ba là: Phải luôn luôn có những biện pháp bảo toàn và phát triển vốn lưu động. Cũng như vốn cố định, bảo toàn vốn lưu động có nghĩa là bảo toàn giá trị thực của vốn, nói cách khác bảo toàn vốn là đảm bảo được sức mua của vốn không được giảm sút so với ban đầu. Điều này được thể hiện qua khả năng mua sắm tài sản lưu động và khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong kinh doanh. Để thực hiện được mục tiêu trên, trong công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp thường áp dụng các biện pháp tổng hợp như: đẩy mạnh khâu tiêu thụ hàng hoá, xử lý kịp thời các vật tư, hàng hoá chậm luân chuyển để giải phóng vốn, phải thường xuyên xác định phần chênh lệch giá về những tài sản lưu động tồn kho để có biện pháp xử lý kịp thời, linh hoạt trong việc sử dụng vốn. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, bảo toàn vốn, doanh nghiệp cần hết sức tránh và xử lý kịp thời những khoản nợ khó đòi, tiến hành áp dụng các biện pháp hoạt động của tín dụng thương mại để ngăn chặn các hiện tượng chiếm dụng vốn. Bốn là: Phải thường xuyên tiến hành phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động. Để phân tích người ta sử dụng các chỉ tiêu như: vòng quay vốn lưu động, hiệu suất sử dụng vốn lưu động, hệ số nợ... Nhờ các chỉ tiêu trên đây, người quản lý có thể điều chỉnh kịp thời các biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhằm tăng mức doanh lợi. 2.3.3. Vốn đầu tư tài chính: Vốn đầu tư tài chính còn gọi là vốn đầu tư ra bên ngoài của doanh nghiệp nhằm tìm kiếm lợi nhuận và khả năng đảm bảo an toàn về vốn. Xuất phát từ quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, làm cho các doanh nghiệp luôn đứng trước nguy cơ phá sản nếu như họ chỉ có một lĩnh vực đầu tư bên trong lại đang gặp bất lợi. Để đối phó với tình hình trên, việc sử dụng vốn linh hoạt cho nhiều mục tiêu đầu tư sẽ cho phép doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận từ nhiều phía cũng như nhằm phân tán rủi ro trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Có nhiều hình thức đầu tư tài chính ra bên ngoài như: doanh nghiệp bỏ vốn để mua cổ phiếu, trái phiếu của các công ty khác, hùn vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác. Trong nhiều trường hợp nhờ đầu tư tài chính ra bên ngoài mà các doanh nghiệp có thể tự tháo gỡ những khó khăn bên trong, tránh nguy cơ phá sản, thay vì một hướng đầu tư đang gặp bất lợi chuyển sang một lĩnh vực kinh doanh mới khả quan hơn. Đó cũng là một giải pháp để kéo dài chu kỳ sống của một doanh nghiệp. Trong khi phân tích những ưu thế của việc đầu tư ra bên ngoài cũng không nên quên những hạn chế của hình thức đầu tư này. Điều quan trọng nhất khi đi tới quyết định đầu tư tài chính ra bên ngoài là cần hết sức cân nhắc độ an toàn và tin cậy của dự án. Vì thế, nhà kinh doanh phải am hiểu tường tận những thông tin cần thiết, phân tích, đánh giá những mặt lợi, hại của dự án để chọn đúng đối tượng và loại hình đầu tư phù hợp. Thông thường các dự án có lợi nhuận càng cao thì mức độ rủi ro càng lớn, ở đây không chỉ vì lợi nhuận trước mắt mà còn tính đến độ an toàn của vốn. 3. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh: 3.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ: Điểm xuất phát để tiến hành kinh doanh là phải có một lượng vốn nhất định với nguồn tài trợ tương ứng song việc sử dụng vốn như thế nào để có hiệu quả mới là nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng của mỗi doanh nghiệp. 3.1.1. Hiệu suất sử dụng TSCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng nguyên giá tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu bán hàng. Công thức tính: Doanh thu bán hàng _Hiệu suất sử dụng TSCĐ = NG bình quân TSCĐ cần tính KH 3.1.2. Mức sinh lợi VCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng vốn cố định bình quân tham gia vào hoạt động kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Công thức tính: Lợi nhuận hoạt động kinh doanh _Mức sinh lợi của VCĐ = Vốn cố định bình quân 3.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ: Trong quá trình sản xuất - kinh doanh vốn lưu động vận động không ngừng, thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình sản xuất (Dự trữ - sản xuất - tiêu thụ). Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 3.2.1. Mức sinh lợi của VLĐ: Các nhà quản lý tài chính quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động trên mức sinh lợi của vốn lưu động xem một đồng vốn lưu động làm ra bao nhiêu đồng lợi nhuận hoạt động kinh doanh trong kỳ. Công thức tính: Lợi nhuận hoạt động kinh doanh _Mức sinh lợi của VLĐ = Vốn lưu động bình quân Từ đó đánh giá mức sinh lời của vốn lưu động cao thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tốt và ngược lại. 3.2.2. Số vòng quay và kỳ luân chuyển bình quân của VLĐ: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn được xem xét trên góc độ vòng quay của vốn lưu động hay hệ số luân chuyển. Công thức tính: Doanh thu thuần _Số vòng quay của vốn lưu động = Vốn lưu động hay: _ Số ngày trong năm (360ngày) Kỳ luân chuyển bình quân của vốn lưu động = Số vòng quay của vốn lưu động Vốn lưu động x 360 = Doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động của doanh nghiệp đã chu chuyển được bao nhiêu vòng trong kỳ. Số vòng quay càng nhiều thì vốn lưu động luân chuyển càng nhanh, hoạt động tài chính càng tốt, doanh nghiệp càng cần ít vốn và tỷ suất lợi nhuận càng cao. Có nhiều chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, tuy nhiên để đánh giá đúng, chính xác thì các nhà quản lý phải có trình độ chuyên môn vững vàng, dựa trên cơ sở phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và thực trạng nền tài chính của doanh nghiệp để có thể ra những quyết định cần thiết đối với việc sử dụng vốn của doanh nghiệp. 3.3. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VKD: Trên đây ta đã xem xét các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng từng loại vốn. Để có cái nhìn tổng quát về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung của doanh nghiệp, cần đi vào phân tích các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. 3.3.1. Vòng quay tổng vốn: Doanh thu thuần _Vòng quay tổng vốn = VKD bình quân Vòng quay tổng vốn cho biết toàn bộ vốn SXKD của doanh nghiệp trong kỳ luân chuyển được bao nhiêu vòng, qua đó có thể đánh giá được trình độ sử dụng tài sản của doanh nghiệp. 3.3.2. Tỷ suất LN VKD: Lợi nhuận hoạt động kinh doanh Tỷ suất LN VKD = VKD bình quân Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận VKD phản ánh một đồng VKD sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này cho phép đánh giá tương đối chính xác khả năng sinh lời của tổng vốn. 3.3.3. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu: Lợi nhuận hoạt động kinh doanh _- Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu bình quân Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu cho thấy mỗi đồng vốn chủ sở hữu sử dụng trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. 3.3.4. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu: Lợi nhuận hoạt động kinh doanh _- Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = Doanh thu thuần Đây là chỉ tiêu phản ánh mỗi đồng doanh thu thuần mà doanh nghiệp thu được trong kỳ có bao nhiêu đồng lợi nhuận. 3.3.5. Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành toàn bộ: Lợi nhuận hoạt động kinh doanh _- Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành toàn bộ = Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên giá thành toàn bộ cho thấy mỗi đồng giá thành toàn bộ bỏ ra trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Trên đây là một số chỉ tiêu thường được sử dụng để làm căn cứ cho việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Đánh giá tình hình sử dụng VKD của doanh nghiệp tốt hay chưa tốt, ngoài việc so sánh các chỉ tiêu này với các chỉ tiêu kỳ trước, các chỉ tiêu thực hiện so với kế hoạch nhằm thấy rõ chất lượng và xu hướng biến động của nó, nhà quản lý doanh nghiệp cần gắn với tình hình thực tế, tính chất của ngành kinh doanh mà doanh nghiệp hoạt động để đưa ra nhận xét sát thực tế về hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của doanh nghiệp. 3.4. Chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán: Tình hình tài chính của doanh nghiệp được đánh giá là lành mạnh trước hết phải được thể hiện ở khả năng chi trả, vì vậy nhà quản lý doanh nghiệp cần phải đánh giá, phân tích khả năng thanh toán. Đây là chỉ tiêu rất được nhiều người quan tâm như các nhà đầu tư, nhà cho vay, nhà cung cáp nguyên liệu... Họ luôn đặt câu hỏi: hiện doanh nghiệp có đủ khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn thanh toán hay không? 3.4.1. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát: Hệ số khả năng thanh toán tổng quát là mối quan hệ giữa tổng tài sản mà hiện nay doanh nghiệp đang quản lý sử dụng với tổng số nợ phải trả (nợ ngắn hạn và nợ dài hạn), công thức: Tổng tài sản Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Tổng nợ phải trả Nếu hệ số này <1 báo hiệu sự phá sản của doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu bị mất toàn bộ, tổng tài sản hiện có (TSLĐ và TSCĐ) không đủ trả số nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán. 3.4.2. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời: Hệ số khả năng thanh toán hiện thời là mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn (TSLĐ) với các khoản nợ ngắn hạn, công thức: Tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán hiện thời = Tổng nợ ngắn hạn Trong đó: + Tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn là những tài sản mà doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng và sở hữu. + Tổng nợ ngắn hạn là những khoản nợ phải trả trong khoản thời gian dưới 1 năm, bao gồm các khoản vay ngắn hạn, phải trả cho người bán, thuế và các khoản phải nộp cho nhà nước, phải trả cho công nhân viên, nợ dài hạn đến hạn trả, các khoản phải trả khác. Hệ số này phản ánh khả năng chuyển đổi một bộ phận tài sản thành tiền để trang trải các khoản nợ ngắn hạn, vì thế hệ số này cũng thể hiện mức độ đảm bảo thanh toán của TSLĐ với các khoản nợ ngắn hạn. Nếu hệ số này thấp thể hiện khả năng trả nợ của doanh nghiệp ở mức độ thấp và cũng là dấu hiệu báo trước khó khăn về tài chính mà doanh nghiệp có thể gặp phải trong việc trả nợ. Khi hệ số này cao cho thấy doanh nghiệp có khả năng cao trong việc sẵn sàng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp hệ số này quá cao chưa chắc đã phản ánh năng lực thanh toán của doanh nghiệp là tốt, nghĩa là khi đó có một lượng TSLĐ tồn trữ lớn, phản ánh việc sử dụng tài sản không hiệu quả vì bộ phận này không vận động, không sinh lời (có quá nhiều tiền mặt nhàn rỗi, nợ phải đòi, hàng tồn kho ứ đọng...) Tính hợp lý của hệ số này phụ thuộc ngành nghề kinh doanh. Ngành nghề nào chiếm tỷ trọng TSLĐ lớn trong tổng tài sản thì hệ số này lớn càng tốt và ngược lại. 3.4.3. Hệ số khả năng thanh toán nhanh: TSLĐ trước khi mang đi thanh toán cho chủ nợ phải được chuyển đổi thành tiền. Trong TSLĐ hiện có thì vật tư, hàng hoá chưa có thể chuyển đổi ngay thành tiền được và do đó khả năng thanh toán kém nhất. Vì thế hệ số khả năng thanh toán nhanh là một chỉ tiêu đánh giá chặt chẽ hơn khả năng thanh toán của đơn vị. Đó là thước đo khả năng trả nợ ngay, không dựa vào bán các loại vật tư, hàng hoá tồn kho. Hệ số khả năng thanh toán nhanh đước xác định bằng mối quan hệ giữa TSLĐ - Hàng tồn kho với tổng số nợ ngắn hạn, công thức: Tổng TSLĐ - Hàng tồn kho Hệ số khả năng thanh toán nhanh = Tổng nợ ngắn hạn ở đây hàng tồn kho bị loại trừ ra vì được coi là tài sản không dễ dàng chuyển đổi nhanh thành tiền và cũng thấy rằng tài sản dùng để thanh toán nhanh còn được xác định là: tiền cộng với tiền tương đương. Tiền tương đương là các khoản có thể chuyển đổi thành một lượng tiền biết trước (thương phiếu, các loại chứng khoán ngắn hạn...) 4. Một số phương hướng, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp: 4.1. Các nhân tố ảnh hưỏng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp: Việc tổ chức và sử dụng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp chịu sự tác động bởi nhiều nhân tố khác nhau bao gồm các nhân tố khách quan và chủ quan. 4.1.1. Về khách quan: Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp chịu sự ảnh hưởng bởi một số nhân tố sau: - Cơ chế quản lý và chính sách vĩ mô của Nhà nước - Tác động của nền kinh tế có lạm phát - Sự phát triển của khoa học công nghệ - Sự biến động của thị trường đầu ra - đầu vào của doanh nghiệp. Ngoài ra, hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp còn chịu tác động của yếu tố rủi ro bao gồm các rủi ro từ phía thị trường và những rủi ro bất khả kháng như: thiên tai, lũ lụt, hoả hoạn... 4.1.2. Về chủ quan: Có nhiều nhân tố chủ quan thuộc về bản thân doanh nghiệp ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp như: - Việc bố trí cơ cấu vốn đầu tư: nếu sự bố trí giữa VCĐ và VLĐ và tỷ trọng của từng khoản mục trong từng loại vốn chưa hợp lý, chưa phù hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp thì hiệu quả sử dụng vốn kém là không thể tránh khỏi. - Việc xác định nhu cầu vốn: nếu xác định nhu cầu vốn thiếu chính xác dẫn đến tình trạng thừa vốn hoặc thiếu vốn, cả hai trường hợp đều ảnh hưởng không tốt đến qúa trình SXKD của doanh nghiệp và làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. - Việc tổ chức sử dụng vốn kinh doanh trong từng khâu: hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao nếu như VKD trong từng khâu được tổ chức hợp lý và sử dụng có hiệu quả. Ngược lại, nếu doanh nghiệp sử dụng vốn lãng phí chẳng hạn như mua các loại vật tư không đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, kém phẩm chất hay không huy động cao độ TSCĐ vào SXKD sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. - Trình độ quản lý của doanh nghiệp: Nếu trình độ quản lý yếu kém có thể dẫn đến tình trạng vốn bị ứ đọng, vật tư, hàng hoá chậm luân chuyển, hoạt động kinh doanh thua lỗ kéo dài, vốn bị thâm hụt sau mỗi chu kỳ sản xuất. Trên đây là một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hiệu quả sử dụng VKD của doanh nghiệp. Ngoài các nhân tố đó, còn có thể có rất nhiều nhân tố khác tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần xem xét thận trọng từng nhân tố để từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm phát huy những nhân tố ảnh hưởng tích cực, hạn chế đến mức thấp nhất những nhân tố ảnh hưởng tiêu cực nhằm từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng VKD. 4.2. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VKD: 4.2.1. Biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định: - Sử dụng đòn bẩy kinh tế nhằm kích thích gắn liền với trách nhiệm về tài chính. Thưởng phạt về bảo quản, sử dụng TSCĐ, nghiên cứu phát minh sáng chế ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh. - Đảm bảo khả năng tài chính nhằm thực hiện quyết định đầu tư dài hạn để tăng quy mô và điều chỉnh cơ cấu TSCĐ. - Nâng cao hiệu suất sử dụng TSCĐ từ đó giảm bớt TSCĐ và nắm vững TSCĐ hiện có đang sử dụng, chưa dùng, không cần dùng để giải phóng (thanh lý, nhượng bán) những TSCĐ ứ đọng. Mặt khác, tài chính doanh nghiệp phải tham gia xây dựng chế độ quản lý sử dụng TSCĐ tránh tình trạng mất mát hư hỏng và có biện pháp xử lý kịp thời những thiệt hại về TSCĐ. 4.2.2. Biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động: - Xác định chính xác nhu cầu VLĐ thường xuyên, cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất - kinh doanh. - Tăng tốc độ luân chuyển VLĐ ở cả 3 khâu: ở khâu dự trữ, trong khâu SX, trong khâu lưu thông. - Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. - Đối với bộ phận vốn nhàn rỗi cần được sử dụng một cách linh hoạt thông qua các hình thức đầu tư ra bên ngoài như đầu tư góp vốn liên doanh, đầu tư vào tài sản tài chính, hoặc cho vay nhằm thu lợi tức tiền vay. Trên đây là một số phương hướng, biện pháp nhằm đẩy mạnh việc tổ chức và sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp mà nhà quản lý doanh nghiệp đưa ra những giải pháp phù hợp mang tính khả thi để không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp mình. Chương II thực trạng về tình hình tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở công ty tnhh Minh nam 1. Một vài nét chính về tình hình sản xuất kinh doanh 1.1. Quá trình hình thành và phát triển Công ty Minh Nam là một Công ty TNHH được thành lập theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0102000552 do sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội cấp ngày 29 - 9 - 2000. Trụ sở chính đặt tại 51 - đường Minh Khai - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Tiền thân của Công ty Minh Nam là một tổ hợp tác được thành lập từ năm 1990. Trong quá trình phát triển do yêu cầu đổi mới để phù hợp với tình hình mới đã được chuyển đổi lên thành Công ty có tên gọi và nhiệm vụ như sau: - Tên gọi: Công ty TNHH Minh Nam - Tên giao dịch: Minh Nam company L.T.D - Trụ sở chính: 51 - đường Minh Khai - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Ta có thể khái quát quá trình tình hình thành và phát triển của Công ty qua 2 giai đoạn sau: - Từ năm thành lập (năm 1990) đến năm 2003 giai đoạn này tồn tại dưới hình thức tổ chức hợp tác, chủ yếu sản xuất và buôn bán các sản phẩm nhựa, bao bì còn các mặt hàng đồ điện lúc này chưa sản xuất mà chỉ làm đại lý tiêu thụ cho các doanh nghiệp sản xuất đồ điện khác. Năm nào cũng đạt cơ sở vững mạnh. - Từ năm 2000 đến nay, sau khi được chuyển đổi lên thành Công ty, Minh Nam đã từng bước hoà nhập để đứng vững và phát triển, tháo gỡ khó khăn bằng cách dựa trên cơ sở vật chất, kỹ thuật; máy móc đã có từ trước để sản xuất thử các mặt hàng mới phù hợp với nhu cầu thị trường mà chủ yếu là các thiết bị điện. Công ty đã tận dụng tối đa thiết bị và không ngừng đầu tư thiết bị công nghệ mới. Bên cạnh việc duy trì các mặt hàng mới, Công ty còn đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng truyền thống như sản phẩm nhựa, bao bì.. cho đến nay tổng công ty có trên 60 loại sản phẩm khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp không nên sản xuất những sản phẩm mà mình sản xuất được mà phải sản xuất những sản phẩm thị trường cần. Do có nhận thức và bước đi đúng như vậy nên Công ty đã không ngừng phát triển, đảm bảo c ho cán bộ công nhân viên có mức thu nhập cao, ổn định so với công nhân xí nghiệp bạn trên cùng địa bàn. Hiện nay, sản phẩm của Công ty mới chỉ tiêu ở thị trường nội địa nhưng trong một tương lai không xa sẽ có một mạng lưới phân phối ra thị trường nước ngoài. 1.2. Tình hình tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh 1.2.1. Nhiệm vụ và đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh a. Đặc điểm tổ chức: Công ty Minh Nam có một vị trí khá thuận lợi tiện trong việc bố trí sản xuất cũng như vận chuyển vật liệ và tiêu thụ sản phẩm. Mặt hàng do Công ty sản xuất chủ yếu là đồ điện phục vụ tiêu dùng, sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, đồng thời chịu tác động chi phối từ nhiều phía đòi hỏi cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty phải luôn tìm tòi, sáng tạo, đúc rút kinh nghiệm để từng bước đổi mới công nghệ sản xuất, đưa ra mẫu mã mới phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng để đạt được lợi thế cạnh tranh tốt nhất và mang về lợi nhuận cao nhất. b. Nhiệm vụ chính của Công ty. Sản xuất và kinh doanh các sản phẩm nhựa, bao bì các vật tư thiết điện vận tải hàng hoá, vận chuyển hành khác. - Sản xuất, chế tạo, gia công các mặt hàng cơ khí, thiết bị và khuôn mẫu, buôn bán hàng tiêu dùng. 1.2.2. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Minh Nam Công ty có bộ máy quản lý như sau: * Ban giám đốc: - Giám đốc: Là người chủ sở hữu Công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của doanh nghiệp. - Phó giám đốc: Là người trợ giúp cho giám đốc và được giám đốc giao phó một số công việc và chịu trách nhiệm trước giám đốc về những công việc mà giám đốc giao phó. Có 2 phó giám đốc: + Phó giám đốc kỹ thuật + Phó giám đốc kinh doanh * Các phòng ban chức năng: Phòng tổ chức hành chính bảo vệ Phòng kế hoạch vật tư Phòng kỹ thuật KCS Phòng tiêu thụ tiếp thị Phòng kế toán thống kê Nhiệm vụ và chức năng của từng phòng ban như sau: Phòng tổ chức hành chính bảo vệ Tổ chức nhân sự, quản lý định mức và trả lương sản phẩm, thực hiện các chế độ chính sách, khen thưởng, kỷ luật, bảo vệ. Phòng kế hoạch vật tư Xây dựng và thực hiện kế hoạch, cung ứng vật tư, quản lý theo dõi việc thực hiện các định mức vật tư của các phân xưởng, quyết toán vật tư hàng tháng đối với các phân xưởng. - Phòng tiêu thụ tiếp thị: Có nhiệm vụ tiếp cận, mở rộng thị trường, bán các loại sản phẩm của Công ty. Phòng kỹ thuật KCS: Quản lý kỹ thuật ban hành các chế độ công nghệ, quản lý thiết bị, chế độ bảo dưỡng, quản lý năng lực, quản lý chất lượng sản phẩm. Phòng kế toán - thống kê: Chịu trách nhiệm trước giám đốc trong công tác thực hiện hạch toán kinh doanh và thông tin kinh tế trong Công ty, có nhiệm vụ phản ánh, ghi chép số liệu quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty một cách đầy đủ kịp thời theo đúng phương pháp quy định. Nói chung, các phòng ban chức năng trong Công ty có mối quan hệ với nhau rất chặt chẽ và thực hiện phối hợp hành động khá nhịp nhàng, ăn ý đảm bảo tốt nhất nhiệm vụ chung của toàn Công ty. Sơ đồ 1: Bộ máy quản lý của Công ty Minh Nam 1.2.3. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý tài chính kế toán 1.2.3.1. Tổ chức bộ máy tài chính kế toán: ở Công ty Minh Nam, căn cứe vào quy mô sản xuất khối lượng công việc cụ thể của Công ty. Phòng kế toán biên chế là 4 người. Đứng đầu là kế toán trưởng các kế toán viên đều làm việc dưới sự chỉ đạo và phân công của kế toán trửơng. Giám đốc Phó giám đốc kỹ thuật Phó giám đốc kinh doanh Phòn g kỹ thuật KCS Phòn g kế toán tài vụ Phòng tổ chức hành chính bảo vệ Phòn g kế hoạch vật tư Phòn g tiêu thụ tiếp thị Chức năng và nhiệm vụ cụ thể của từng người như sau: Kế toán trưởng: Phụ trách toàn bộ công tác kế toán của Công ty. Chịu trách nhiệm hướng dẫn chỉ đạo và kiểm tra công việc của kế toán viên. Kế toán vật tư đồng thời kiêm kế toán tập hợp chi phí, tính giá thành sản phẩm và theo dõi tài sản cố định. Phụ trách kế toán vật liệu chính, vật liệu phụ và CCDC, tập hợp chi phí sản xuất của các phân xưởng và tính giá thành sản phẩm, theo dõi tài sản cố định và sửa chữa lớn. Kế toán tiền lương BHXH và các khoản trích theo lương đồng thời kiêm kế toán thanh toán: Có nhiệm vụ tính lương, thanh toán tiền lương và các khoản khác cho cán bộ công viên; theo dõi tiền mặt, TGNH, tiền vay, tiền tạm ứng và thanh toán khác; theo dõi tiền mặt, TGNH, tiền vay, tiền tạm ứng và thanh toán khác; theo dõi công nợ, mua bán, phải thu phải trả. Thủ quỹ: Làm công tác thu chi tiền . Hiện nay, Công ty Minh Nam áp dụng hình thức tổ chức công tác kế toán tập trung. Tại các phân xưởng không có kế toán mà chỉ có nhân viên kinh tế phân xưởng kiêm thủ kho có nhiệm vụ cùng với quản đốc phân xưởng hàng tháng tập hợp và quyết toán về sản phẩm sản xuất, lao động, vật tư sử dụng với các phòng ban liên quan chẳng hạn về vật tư liên quan đến phòng kế hoạch vật tư và phòng kế toán; thành phẩm liên quan đến phòng tiêu thụ, tiếp thị. Sơ đồ 2: Bộ máy kế toán của Công ty Minh Nam Kế toán trưởng Kế toán vật tư, tập hợp CPSX và tính giá Kế toán thành phẩm và Kế toán thanh toán, tiền Thủ quỹ 1.2.3.2. Hình thức tổ chức tài chính kế toán: Công ty Minh Nam hiện đang thực hiện chế độ kế toán theo quyết định số 1141 - TC/QD - CĐKT ngày 1/11/1995 của bộ tài chính và các thông tư sửa đổi số 10 TC/QĐ - CĐKT ngày 20/3/1994, số 120 - 1999/TT - BTC ngày 7/10/1999 của Bộ tài chính. Hiện nay, Công ty áp dụng hình thức tổ chức công tác kế toán tập trung. Công ty sử dụng hình thức nhật ký chứng từ hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên. Niên độ kế toán là 1 năm, bắt đầu từ 01/01 và kết thúc vào 31/12. Công tác khai thác và tạo lập nguồn vốn: Công ty có nguồn vốn kinh doanh phong phú bao gồm: Vốn ngân sách cấp Vốn chủ sở hữu trong đó cố định và vốn lưu động. Vốn vay tín dụng từ các ngân hàng trong nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường, ngoài nguồn vốn chủ, Công ty cần huy động từ nhiều nguồn khác nhau như lơị nhuận để tái đầu tư, nguồn vốn vay dài hạn từ các ngân hàng, huy động vốn từ thị trường tài chinýh.. Mỗi nguồn vốn trên đều có những đặc điểm khác nhau về chi phí, điều kiện huy động. Do vậy, Công ty cần nắm vững đặc điểm và thời cơ. Bên cạnh đó Công ty cũng cần đa dạng hoá các nguồn vốn huy động nhằm hạn chế rủi ro, cân nhắc các ưu nhược điểm của từng nguồn vốn để lựa chọn cơ cấu các nguồn tài trợ vốn kinh doanh hợp lý và lợi nhất. Trong khi khai thác và tạo lập nguồn vốn kinh doanh, việc đảm bảo khả năng tự chủ của Công ty trong sản xuất kinh doanh, hạn chế và phân tán rủi ro phát huy tối đa ưu điểm của các nguồn vốn được huy động là vấn đề quan trọng của Công ty. Công ty cần năng động nhạy bén trong công tác tìm kiếm để huy động các nguồn lực khác nhau. 1.2.4. Quy trình công nghệ sản xuất của Công ty Minh Nam. Xuất phát từ yêu cầu sản xuất kinh doanh, mô hình sản xuất kinh doanh của Công ty Minh Nam mang tính chất chuyên môn hoá cao ở từng công đoạn (phân xưởng) các công đoạn (phân xưởng) đó tạo thành một dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh. Hiện nay, Công ty tổ chức thành 6 phân xưởng sản xuất, ngoài phân xưởng nhựa thổi sản xuất độc lập thì 5 phân xưởng còn lại có mối liên quan chặt chẽ và mang tính liên hoàn cao. Phân xưởng khuôn mẫu Phân xưởng cơ khí độc lập Phân xưởng nhựa ép BAKLIX Phân xưởng ép thuỷ lực Phân xưởng thành phẩm Phân xưởng nhựa thổi. Nhiệm vụ của từng phân xưởng như sau: Phân xưởng khuôn mẫu: Là phân xưởng mở đầu cho một dây truyên sản xuất, đồng thời mang tính chất phục vụ cho quá trình sản xuất. Phân xưởng này chuyên chế tạo các loại khuôn mẫu để phục vụ cho sản xuất các loại vỏ, đế nhựa, các chi tiết đồ điện và bán ra ngoài. Đồng thời chế tạo dụng cụ phụ tùng thay thế đơn giản để cung cấp cho các phân xưởng, sửa chữa thiết bị của toàn Công ty. Phân xưởng cơ khí đột dập chuyên sản xuất các chi tiết đồ điện để lắp thành các sản phẩm đồ điện hoàn chỉnh. Phân xưởng nhựa ép BAKLIX chuyên sản xuất các loại vỏ nhựa đế nhựa thuộc chủng loại ép PHENOL để lắp ráp thành các sản phẩm hoàn chỉnh. Phân xưởng ép thuỷ lực: Chuyên sản xuất các loại sản phẩm ép phun Phân xưởng thành phẩm: Hoàn thiện sản phẩm. Phân xưởng thổi: Sản xuất các sản phẩm chai lo nhựa đế bán ra thị trường. ở Công ty Minh Nam sản phẩm của Công ty phải trải qua nhiều phân xưởng mới hoàn thành và nhà nhập kho. Hiện nay Công ty chủ yếu sản xuất đồ điện (khoảng 80%) và chai lọ nhựa (khoảng 20%). Sơ đồ 3: Sơ đồ kết cấu sản xuất của Công ty PX khuôn mẫu Kho tổng hợp PX nhựa ép PX đột dập PX Thuỷ lực PX nhựa thổi 2. Thực trạng về quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. 2.1. Đánh giá chung về hoạt động sản xuất kinh doanh. 2.1.1. Những thuận lợi và khó khăn 2.1.1.1. Thuận lợi Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" đây là một quá trình chuyển biến mạnh mẽ với sự phát triển nhiều thành phần kinh tế. Nền kinh tế thị trường của nước ta là một môi trường năng động sáng tạo rất khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao tổng thu nhập quốc dân. Công ty Minh Nam với những mặt hàng sản xuất là nhựa, bao bì và các vật tư thiết bị điện, gia công các mặt hàng cơ khí… luôn được cung cấp thường xuyên với chất lượng đảm bảo. Tập thể cán bộ công nhân viên của Công ty Minh Nam đều rất có trách nhiệm, tận tình với công việc yêu nghề lành nghề luôn chủ động trong công việc sản xuất kinh doanh và có kỷ luật cao. Đây là một thuận lợi lớn của Công ty vì con người luôn là yếu tố quan trọng quyết định mọi thành công và thất bại trong kinh doanh. Đặc biệt ban lãnh đạo Công ty gồm những người dám nghĩ, dám làm, linh hoạt và nhạy bén. Nhờ tầm nhìn của các quyết định đúng đắn của các bộ phận quản lý mà Công ty ngày càng thu được nhiều lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh. Công ty Minh Nam có một vị trí khá thuận tiện trong việc bố trí sản xuất cũng như vận chuyển nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Công ty đầu tư khá nhiều ch o các dây chuyền máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác sản xuất. Với dây chuyền công nghệ mới sẽ đem lại nhiều cơe hội kinh doanh cho Công ty khi uy tín về chất lượng của Công ty đang ngày càng được khẳng định. Công ty Minh Nam là một dạng Công ty TNHH 2 thành viên trở lên Đảng và Nhà nước ta chủ trương khuyến khích hình thức doanh nghiệp này bỏ vốn đều đầu tư phát triển sản xuất. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, xoá bỏ định kiến và tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng, khoa học công nghệ, đào tạo cán bộ…với loại hình doanh nghiệp này. Đây là một thuận lợi rất lớn đối với Công ty. Bên cạnh đó điều kiện về thị trường cũng hứa hẹn mang lại cho Công ty nhiều cơ hội làm ăn trong tương lai. 2.1.1.2. Khó khăn Khó khăn lớn nhất mà Công ty cũng như nhiều Công ty khác đang phải đối mặt hiện nay là khó khăn về vốn kinh doanh, gây cản trở cho Công ty trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh. Công ty dù đã đầu tư rất lớn vào dây truyền máy móc thiết bị nhưng do lượng vốn có hạn nên sự đầu tư chưa được đồng bộ còn một phần nhỏ Công ty chưa có điều kiện để thay thế. Phần nhỏ này hầu hết là các trang thiết bị cũ kỹ lạc hậu cho năng xuất thấp. Xuất phát từ việc chuyển sang lĩnh vực kinh doanh mới, một bộ phận không nhỏ lao động của Công ty không còn thích hợp với công việc mới nên kết quả lao động thấp, năng suất đảm bảo không tốt ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng công việc. Nếu Công ty tiếp tục duy trì đội ngũ lao động này sẽ đẩy lùi tiến độ sản xuất. Công ty TNHH Minh Nam không được quyền phát hành các loaị chứng khoán có giá: trái phiếu, cổ phiếu. Đây cũng là một khó khăn không nhỏ đối với Công ty cũng như các Công ty TNHH khác. Đất nước đang trong nền kinh tế thị trường nên sức cạnh tranh là rất khốc liệt, điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một bản lĩnh vững vàng để cạnh tranh với các Công ty sản xuất nhựa bao bì cơ khí khác trong nước cũng như nhập ngoại. Thị trường Việt Nam là một thị trường năng động và nhạy cảm nên ngày càng nhiều Công ty sản xuất nhựa bao bì cơ khí xâm nhập để giành thị phần. Đây là một thách thức lớn đặt ra đối với Công ty Minh Nam. 2.1.2. Tình hình chung về hoạt động và kết quả kinh doanh. Muốn biết rõ về tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh của Công ty, chúng ta hãy phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong 2 năm 2002 - 2003. Bảng 1 Bảng xác định kết quả kinh doanh năm 2002 - 2003 (Đơn vị tính: đồng) Chỉ tiêu Mã số Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch Tuyệt đối Tươn g đối 1. Doanh thu 11 2.142.482.8 67 3.969.197.82 5 1.826.714.95 8 85,3 2. Giá vốn hàng bán 12 2.127.111.8 3.944.440.44 1.817.328.62 85,44 26 7 1 3. CP quản lý kinh doanh 13 - - - - 4. CP tài chính 12 - - - - 5. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh (20- 11-12-13-14) 20 15.371.041 24.757.378 9.386.337 61,1 6. Lãi khác 21 - - - - 7. Lỗ khác 22 - - - - 8. Tổng lợi nhuận kế toán (30 = 20 +21 -22) 30 15.371.041 24.757.378 9.386.337 61,1 9. Các khoản điều chỉnh tăng hoặc giảm lợi nhuận chịu thuế TNDN 40 - - - - 10. Tổng lợi nhuận chịu thuế TNDN (50 =30 + (- )40) 50 15.371.041 24.757.378 9.386.337 61,1 11. Thuế TNDN phải nộp 60 4.918.736 7.922.360 3.003.624 61,1 12. Lợi nhuận sau thuế (70 =30 - 60) 70 10.452.305 16.835.018 6.382.713 61,1 * Nhận xét 1. Doanh thu thuần của Công ty qua 2 năm 2002- 2003 tăng cao từ 2.142.482.867 đồng năm 2002 lên 3.969.197.825 đồng năm 2003 tức là tăng 1.836.714.958 đồng với tỷ lệ tăng là 85,3%. Doanh thu thuần tăng là do Công ty nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức khâu tiếp thị, quảng cáo giới thiệu, bảo hành sản phẩm tạo điều kiện cho việc tiêu thụ và bán sản phẩm với giá cao tăng doanh thu sản phẩm. Tốc độ doanh thu nhanh hơn so với tốc độ tăng tổng vốn kinh doanh làm tăng hiệu suất sử dụng vốn. Tốc độ tăng doanh thu của công ty nhanh điều đó chứng tỏ công ty đang nâng cao khả năng mở rộng sản xuất, cải tiến năng lực sản xuất. 2. Giá vốn hàng bán của sản phẩm năm 2003 đạt 3.944.440.447 đồng tăng 1.817.328.621 đồng so với năm 2002. Tuy giá vốn hàng bán tăng nhưng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh của công ty vẫn đạt 24.757.378 đồng năm 2003 tăng 9.386.337 đồng so với năm 2002 với tỷ lệ tăng 61,1% 3. Công ty với lợi nhuận kinh doanh tăng nên công ty cũng phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp với xã hội nhiều hơn. Khoản thuế TNDN phải nộp năm 2002 của công ty là 4.918.736 đồng đến năm 2003 tăng 7.922.360 đồng với tỷ lệ tăng 61,1% 4. Trong 2 năm 2002 - 2003 công ty không có doanh thu từ hoạt động BT 5. Sau khi thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước đơn vị kinh doanh còn có một khoản lãi gọi là lợi nhuận sau thuế. ở công ty lợi nhuận sau thuế từ 10.452.305 đồng năm 2002 lên 16.835.018 năm 2003 tức là tăng 6.382.713 đồng với tỷ lệ tăng 61,1%.. Đây là một kết quả khá tốt mà công ty trong quá trình sản xuất kinh doanh qua hai năm 2002 - 2003 đã đạt được. Tất cả những biến động của các chỉ tiêu nói trên đã chỉ ra cho chúng ta những nguyên nhân dẫn đến việc biến động các chỉ tiêu trên nhằm chủ động trong việc phát huy những mặt tốt và khắc phục những hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng vốn của công ty. 2.2. Thực trạng về tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. 2.2.1. Thực trạng về tổ chức nguồn vốn kinh doanh. Để làm rõ được thực trạng về tổ chức nguồn vốn của công ty, ta phải biết rõ đâu là nhân tố ảnh hưởng chủ yếu, đâu là ảnh hưởng thứ yếu, tích cực và tiêu cực. Để làm được điều này ta không thể nhìn ngay vào bảng cân đối về nguồn vốn mà có thể nhận xét chính xác được. Nguồn vốn qua các năm đều có sự biến đổi nhiều hay ít phụ thuộc vào sự quản lý và quá trình sản xuất kinh doanh của công ty. Để nhận xét được sự biến động của nguồn vốn ta có thể lấy số liệu 2 năm gần đây nhất là năm 2002 - 2003. Từ bảng cân đối kế toán của năm 2002 - 2003 ta lập bảng nghiên cứu, đánh giá biến động về nguồn vốn kinh doanh. Bảng 2 bảng nghiên cứu đánh giá biến động về nguồn vốn kinh doanh năm 2002- 2003. (Đơn vị tính: đồng) Nguồn vốn Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch Tuyệt đối Tươn g đối 1 2 3 4 5 A. Nợ phải trả 20.688.354,5 60.481.709,5 39.793.355 192,3 I. Nợ ngắn hạn 20.688.354,5 60.481.709,5 39.793.355 192,3 1. Vay ngắn hạn 8.683.280 8.683.280 0 0 2. Phải trả cho Kh 2.005.074,5 9.306.220 7.301.145, 5 364,1 3. Thuế và các khoản phải nộp NN 10.000.000 13.992.209,5 3.992.209, 5 39,9 4. Phải trả người Lđ - 28.500.000 28.500.000 100% 5. Các khoản phải trả khác - - - - II. Nợ dài hạn - - - - 1. Vay dài hạn - - - - 2. Nợ dài hạn khác - - - - B. Nguồn vốn chủ sở hữu 1.341.831.93 1.682.857.86 341.025.93 25,4 8 8 0 1. Nguồn vốn kinh doanh 1.334.623.67 9 1.666.828.00 0 332.204.32 1 24,8 2. Chênh lệch tỷ giá và đánh giá lại TS - - - - 3. Các quỹ 7.208.259 16.029.867,5 8.821.608, 5 122,3 4. Lợi nhuận chưa phân phối - - - - Tổng cộng 1.362.520.29 3 1.743.339.57 7 380.819.28 4 27,9 Để có được số liệu liệt kê trong bảng ta cần phải tính như sau: Cột 2 =Error! Cột 3 = Error! (trong đó: số đầu năm, Số cuối năm lấy trong bảng cân đối kế toán của 2 năm 2002 và 2003) Cột 4: số tuyệt đối = cột 3 - cột 2 Cột 5: Số tương đối =(Error! Từ bảng nghiên cứu đánh giá biến động về nguồn vốn ta có thể thấy ngay sự biến động về nguồn vốn qua 2 năm 2002 và 2003 như sau: Nhìn vào dòng tổng công ty ta thấy nguồn vốn năm 2003 có sự biến động tăng 380.819.284 đồng so với năm 2002 với tỷ lệ tăng 27.9%. Tuy nhiên, kết cấu nguồn vốn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố cấu thành và sự thay đổi của các yếu tố đó, từ đó ta mới có thể tìm ra nhân tố ảnh hưởng chủ yếu hay thứ yếu đến nguồn vốn. Nhìn vào bảng ta thấy A. Nợ phải trả năm 2002 so với năm 2003 tăng lên 39.793.355 đồng với tỷ lệ tăng 192,3% có thể nói việc đi chiếm dụng vốn của Công ty năm 2003 so với năm 2002 tăng lên nguyên nhân là do nợ ngắn hạn tăng lên. Cụ thể: Nợ ngắn hạn năm 2003 so với năm 2002 tăng lên39.793.355 đồng với tỷ lệ tăng 192,3% chủ yếu là do các khoản phải trả phải nộp khác tăng lên. Điều này không có nghĩa là xấu bởi vì đối với một Công ty sản xuất mặt hàng bao bì nhựa cơ khí các khoản phải trả, phải nộp như: Tài sản thừa chờ xử lý, kinh phí công đoàn, công cụ dụng cụ.. tăng lên là điều tất yếu vì đây là khoản mà Công ty có thể chiếm dụng vốn không phải trả ngay. Đây là khoản vốn chiếm dụng tạm thời không lâu dài, chính vì vậy lượng vốn này phải sử dụng cho phù hợp và có hiệu quả. Nếu không sử dụng hiệu quả làm thất thoát vốn thì không những trả không được nợ mà còn khi tăng khoản này thêm thì cũng có thể là điều bất lợi cho Công ty Năm 2003 khoản vay ngắn hạn là 8.683.280 đồng không tăng so với năm 2002. Đối với phải trả cho người lao động năm 2003 tăng lên 28.500.000 đồng với tỷ lệ tăng 100% điều đó cho thấy năm 2003 so với năm 2002 việc Công ty nợ lương của công nhân viên là có. Thuế và các khoản nộp nhà nước năm 2003 so với năm 2002 tăng 3.992.209, với tỷ lệ tăng 5%. Số phải trả cho người bán năm 2002 là 2.0005.074,5 đồng, năm 2003 đạt 9.306.220 đồng tăng 7.301.145,5 đồng với tỷ lệ tăng 364,1% so với năm 2002 * Có thể nói rằng, nợ phải trả tăng lên không có nghĩa là Công ty rơi vào tình trạng nợ trồng lên nợ mà ở đây do điều kiện sản xuất kinh doanh, lượng sản phẩm sản xuất nhiều nên cần phải huy động thêm lượng vốn lớn. B. Trong bảng nghiên cứu đánh giá sự biến động về nguồn vốn 2 năm 2002 - 2003, nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên 341.025.930 đồng với tỷ lệ tăng 25,4% so với năm 2002. Nguyên nhân của sự tăng thấp này là do khách hàng nợ tiền hàng nhiều, Công ty chưa thu được lợi nhuận về nên các quỹ trong Công ty không thể tăng lên được. Mặt khác do Công ty đã đầu tư mua sắm thêm trang thiết bị máy mó phục vụ cho quá trính sản xuất kinh doanh, điều này rất có lợi cho Công ty vì nguồn vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ số vốn thuộc sở hữu của Công ty. Công ty có thể sử dụng nguồn vốn của mình mà không phụ thuộc vào đơn vị khác, sản xuất kinh doanh sẽ thuận lợi hơn. Sự thay đổi nguồn vốn có ảnh hưởng rất lớn đến quản lý và sử dụng vốn. Đồng thời, sự thay đổi đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Để biết được sự thay đổi đó ta cần đi sâu vào sự biến động của vốn kinh doanh. 2.2.2. Thực trạng về tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. 2.2.2.1. Đối với vốn cố định. 2.2.2.1.1. Tổ chức và quản lý sử dụng vốn cố định Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, về mua sắm xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định hữu hình và vô hình được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Trong cơ cấu vốn kinh doanh của Công ty thì vốn cố định chiếm một tỷ trọng lớn, là nhân tố quyết định tới khả năng tăng trưởng và cạnh tranh của doanh nghiệp. Cho nên sự biến động về quy mô của vốn cố định có ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ năng lự sản xuất. Trong 2 năm 2002 -2003 Công ty TNHH Minh Nam đang thực hiện nhiều quá trình sản xuất sản phẩm, sự biến động về vốn tất yếu sẽ xảy ra, nhất là vốn cố định vì vốn cố định là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng vốn cố định trong Công ty bao gồm: Giá trị tài sản cố định, số tiền đầu tư tài chính dài hạn chi phí xây dựng cơ bản dở dang. Số vốn này nếu được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ của mình. Nhưng nếu doanh nghiệp sử dụng số vốn này không đúng sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất của Công ty. Trong bảng cân đối kế toán thì chỉ có tài sản cố định biến động còn các khoản khác không có. Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu, tham gia vào nhiều chu jỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các tài sản cố định của doanh nghiệp cũng được coi như là một loại hàng hoá như mọi hàng hoá thông thường khác. Nó không chỉ có giá trị mà còn có giá trị sử dụng. Đặc điểm kinh tế của tài sản cố định trong quá trình sử dụng có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và luân chuyển của vốn cố định. Vì chỉ có tài sản cố định trong bảng cân đối kế toán biến động nên nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến vốn cố định. Để có thể có nhận xét sự biến động của vốn cố định tốt hay xấu, ảnh hưởng như thế nào đến quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty thì cần phải tính toán nhằm đánh giá sự biến động về vốn. Những chỉ tiêu đánh giá về vốn cố định là số tuyệt đối vốn cố định và số tương đối vốn cố định 2 năm 2002 - 2003. Công thức áp dụng: * Số tuyệt đối nguyên giá TSCĐ = Nguyên giá TSCĐ 2003 - Nguyên giá TSCĐ 2002 * Số tương đối nguyên giá TSCĐ = (Error!) Nguyên giá TSCĐ của 2 năm 2002 - 2003 được tính bằng số bình quân. Nguyên giá TSCĐ bq = Error! Nguyên giá TSCĐ bq 2002 = Error! Nguyên giá TSCĐbq năm 2003 = Error! = 1.294.581.000đ Số tuyệt đối NGTSCĐ = 1.294.581.000 - 914.395.699 = 380.185.301đ Số tương đối NGTSCĐ (Error! * Tương tự giá trị hao mòn luỹ kế của tài sản cố định cũng tính như trên. Giá trị hao mòn luỹ kế bq 2002 = Error! = 55.717.250đ Giá trị hao mòn lỹ kế bq 2003 = Error! = 154.109.050đ Số tuyệt đối = 154.109.050- 55.717.250 = 98.391.800đ Số tương đối = Error! * Số tuyệt đối VCĐ = VCĐ 2003 - VCĐ 2002 Số tương đối VCĐ = (Error! VCĐ củahai năm 2002 - 2003 được tính bằng số bình quân. VCĐ bq năm 2002 = NG 2002 - GHTMLK 2002 VCĐ bq năm 2002 =914.394.699 - 55.717.250 VCĐ bq năm 2003 = NG 2003 - GTHMLK 2003 VCĐ bq năm 2003 = 1.294.581.000 - 154.109.050 VCĐ bình quân 2003 = 1.140.471.950 Số tuyệt đối VCĐ = 1.140.471.950-858.678.449 = 281.793.501 Số tương đối với VCĐ = (Error! = +32,82%/ Bảng 3 Bảng nghiên cứu đánh giá biến động về vốn cố định năm 2002 - 2003 (Đơn vị: đồng) Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch Số tuyệt đối Số tương đối 1. NGTSCĐ 914.395.69 9 1.294.581.000 380.185.301 41,5% 2. Giá trị HMLK 55.717.250 154.190.050 98.391.800 177% 3. VCĐbq = (1) - (2) 858.678.44 9 1.140.471.950 281.793.501 32,82% Như vậy ta có thể thấy rằng năm 2003 so với năm 2002 - Nguyên giá TSCĐ tăng 380.185.301 đồng với tỷ lệ tăng 41,5% - VCĐ tăng 281.793.501 đồng với tỷ lệ tăng là 32, 82%. - Giá trị hao mòn luỹ kế của TSCĐ tăng 98.391.800 đồng với tỷ lệ tăng là177%. Từ đó cho thấy vốn cố điọnh tăng lên 281.793.501 đồng với tỷ lệ tăng là 32,82% là do Công ty mua sắm mới thêm trang thiết bị máy móc phục hồi cho sản xuất kinh doanh. Nhưng điều đáng nói là tài sản cố định mới này đã được phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả cho Công ty. Điều đó chứng tỏ Công ty đã đầu tư đúng đắn sử dụng vốn cố định hợp lý đáp ứng kịp thời tình hình sản xuất kinh doanh thực tế tại Công ty. Còn về giá trị hao mòn luỹ kế có tăng, điều này là đường nhiên là vì tài sản mua về tất nhiên phải tính khấu hao dần dần cho các năm tiếp theo. Nhưng vốn cố định thực sự có được sử dụng hiệu quả hay không ta cần đi sâu vào hiệu quả sử dụng vốn định. 2.2.2.1.2. Hiệu quả sử dụng vốn cố định. Từ bảng cân đối kế toán và bảng xác định kết quả xác định kết quả hoạt động kinh doanh ta có bảng số liệu sau: Bảng 4 Sức sản xuất kinh doanh và sinh lời của vốn cố định. (Đơn vị tính: đồng) Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch Số tuyệt đối Số tương đối (%) 1. Mức doanh thu thuần 2.142.482.867 3.969.197.825 1.826.714.95 8 85,3 2. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh 15.371.041 24.757.378 9.386.337 61,1 3. Vốn cố định bình quân 858.678.449 1.140.471.950 281.793.501 32,82 4. Sức sản xuất kinh doanh của VCĐ 2,5 3,5 1 40 5. Hệ số sinh lời của vốn cố định 0,018 0,02 0,002 11,1 6. Hệ số hàm lượng vốn cố định 0,4 0,29 -0,11 -27,5 Công thức áp dụng: - Sức sản xuất kinh doanh của VCĐ = Error! - Hệ số sinh lời của VCĐ = Error! Hệ số hàm lượng vốn cố định = Error! Bảng số liệu thể hiện mức vốn cố định năm 2003 tăng 281.793.501 đồng với tỷ lệ tăng 32,82%. Đây là kết quả của chiến lược đầu tư vào tài sản cố định, trang thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất kinh doanh đáp ứng những yêu cầu của nền kinh tế hiện nay. Do đó, sau một năm sản xuất kinh doanh năm 2002 ta thấy rõ sức sản xuất kinh doanh và sức sinh lời của vốn cố định tăng lên so với năm 2002 nhưng hàm lượng của vốn cố định trong một đồng doanh thu thuần giảm 27,5%, cụ thể 1 đồng doanh thu thuần năm 2002 thì có 0,4 đồng vốn cố định nhưng năm 2003 thì lại giảm 0,11 đồng trên một đồng doanh thu thuần. Ngoài các chỉ tiêu đánh giá sức sản xuất kinh doanh và sinh lời của vốn cố định thì còn một chỉ tiêu nữa cũng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định, đó là hiệu suất sử dụng tài sản cố định. Hiệu suất sử dụng TSCĐ = Error! Hiệu suất sử dụng TSCĐ 2002 = Error! Hiệu suất sử dụng TSCĐ 2003 = Error! = 3,07 lần Vậy cứ một đồng nguyên giá tài sản cố định trong năm 2002 thì tạo ra 2,34 đồng doanh thu thuần, còn năm 2003 cứ một đồng nguyên giá tài sản cố định thì tạo ra 3,074 đồng doanh thu thuần. Vậy hiệu suất sử dụng tài sản cố định năm 2003 so với năm 2002 tăng 0,73 lần điều này có lợi cho Công ty, doanh nghiệp đã sử dụng hết khả năng phục vụ của tài sản cố định cả về kỹ thuật và phương thức sử dụng tài sản cố định đúng quy định, đúng mục đích, chức năng công dụng. Tuy nhiên để có thể đạt được hiệu quả Công ty không chỉ cần quan tâm đến vốn cố định mà còn tiến hành quản lý và sử dụng vốn lưu động một bộ phận thứ hai trong vốn kinh doanh. 2.2.2.2. Đối với vốn lưu động. 2.2.2.2.1. Tổ chức và quản lý sử dụng vốn lưu động Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của TSLĐ. TSLĐ có 2 loại. TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, để hình thành các TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông các doanh nghiệp phải bỏ ra một số vốn đầu tư ban đầu nhất định. Vì vậy, có thể nói VLĐ của doanh nghiệp là vốn tiền tệ ứng trước để đầu tư, mua sắm tài sản lưu động sản xuất vaTSLDD lưu thông trong doanh nghiệp. Vốn lưu động trong cùng một lúc được phân bổ trên khắp các giai đoạn luân chuyển và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Muốn cho quá trình sản xuất đựơc tiến hành liên tục, doanh nghiệp phải có đủ lượng vốn lưu động đầu tư vào các hình thái khác nhau đó, khiến cho việc chuyển hoá hình của vốn trong quá trình luân chuyển được thuận lợi. Nếu doanh nghiệp nào bị thiếu vốn thì việc chuyển hình thái sẽ gặp khó khăn, vốn lưu động không luân chuyển được và quá trình sản xuất cũng bị gián đoạn. Trong các doanh nghiệp, sự vận động của vốn lưu động phản ánh sự vận động của vật tư hàng hoá. Số vốn lưu động nhiều hay ít là phản ánh số lượng vật tư, hàng hoá dự trữ trong các khâu nhiều hay ít. Quản lý vốn lưu động là một bộ phận trọng yếu của công tác quản lý hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy, việc quản lý VLĐ không chỉ đảm bảo sử dụng vốn lưu động hợp lý, tiết kiệm hợp lý mà còn có ý nghĩa hạ thấp chi phí sản xuất kinh doanh thúc đẩy thanh toán các khoản nợ một cách kịp thời. Để đánh giá đúng đắn sự biến động của vốn lưu động ta lập bảng nghiên cứu đánh giá biến động về vốn lưu động của công ty trog 2 năm 2002 - 2003. Bảng 5 Bảng nghiên cứu đánh giá sự biến động của vốn lưu động (Đơn vị tính: đồng) Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch Số tuyệt đối Số tương đối (%) 1. Vốn bằng tiền 156.164.498, 5 185.492.374, 5 29.327.876 18,8 2. Các khoản phải thu 173.626.616, 5 305.236.250 131.609.633, 5 75,8 3. Hàng tồn kho (NVL, CCDC) 118.333.478, 5 57.431.418,5 -60.902.060 -51,5 4. Vốn lưu động khác - 5.648.459 5.648.459 100% 5. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn - - - - Tổng số 448,124.593, 5 553.808.502 105.683,908, 5 23,6 Tuy vốn lưu động chiếm tỷ trọng nhỏ hơn vốn cố định trong tổng số vốn kinh doanh nhưng vốn lưu động cần được quản lý chặt chẽ vì kết cấu của nó khá phức tạp so với vốn cố định. Năm 2003 quy mô vốn lưu động tăng 105.683.908,5 đồng với tỷ lệ tăng 23,6% so với năm 2002. Nguyên nhân dẫn đến sự tăng nhanh là do các khoản phải thu vốn bằng tiền, vốn lưu động khác tăng lên. Các khoản vốn bằng tiền, nguyên vật liệu và công cụ dụng cụ tồn kho biến động theo chiều hướng tốt. Lượng tiền năm 2003 so với năm 2002 tăng lên 29.327.876 đồng với tỷ lệ tăng 18,8%. Nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ tồn kho năm 2003 so với năm 2002 giảm 60.902.060 đồng với tỷ lệ giảm 51,5% điều đó cho ta thấy Công ty đã tận dụng hết khả năng lượng vốn ứ đọng này vào sản xuất kinh doanh. Vốn lưu động khác tăng lên với tỷ lệ 100%, Công ty Minh Nam trong 2 năm 2002 - 2003 không có các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn. Nguyên nhân chủ yếu làm cho vốn lưu động tăng lên là do các khoản phải thu tăng lên đây là một chỉ tiêu chiếm tỷ trọng lớn trong vốn lưu động. Năm 2002 các khoản phải thu là: 173.626.616,5 đồng nhưng sang năm 2003 tăng lên 236.250 đồng chênh lệch giữa 2 năm là131.609.633,5 đồng với tỷ lệ tăng 75,8%. Để hiểu rõ hơn nội dung của các khoản phải thu ta theo dõi bảng số liệu sau: Bảng 6 Bảng nghiên cứu đánh giá biến động của các khoản phải thu (Đơn vị tính: đồng) Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch Số tuyệt đối Số tương đối (%) 1. Phải thu của KH 27.463.783 173.837.351 146.373.568 532,97 2. Các khoản phải thu khác 146.162.833, 5 131.398.899 - 14.763.934,5 10,10 Tổng cộng 173.626.616, 5 305.236.250 131.609.633, 5 75,86 Ta thấy các khoản mục trong các khoản phải thu tăng giảm không đồng đều. Phải thu cuả khách hàng năm 2003 so với năm 2002 tăng 146.373.568 đồng với tỷ lệ tăng 532,97% điều này cho ta thấy lượng vốn của Công ty bị chiếm dụng quá nhiều gây ảnh hưởng lớn đến việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy các khoản này phải thu hồi nhanh để Công ty tiếp tục đầu tư vào nhiều lĩnh vực để đóng vốn có thể tiếp tục vận động và sinh lời. Như vậy, ta thấy Công ty đã quản lý và tổ chức vốn lưu động chưa đượ triệt để, Công ty đã để một lượng vốn bị các đơn vị khác chiếm dụng. Vì vậy, Công ty cần có biện pháp đôn đốc, giải quyết tích cực để thu tiền về nhanh chóng và sử dụng ngay vào sản xuất kinh doanh nhằm tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động. 2.2.2.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động là một trong những chỉ tiêu tổng hợp dùng để đánh giá chất lượng công tác sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm nói lên tình hình tổ chức các mặt: mua sắm, dự trữ sản xuất tiêu thụ của doanh nghiệp hợp lý hay không hợp lý, các khoản vật tư dự trữ sử dụng tốt hay xấu và khoản phí tồn trong quá trình sản xuất kinh doanh cao hay thấp, tiết kiệm hay không tiết kiệm. Thông qua phân tích chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn lưu động ta có thể biết được doanh nghiệp quản lý kinh doanh, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả vốn lưu động hay không. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn lưu động bao gồm 2 chỉ tiêu: Hiệu suất chung về suất bộ phận. Hiệu suất chung nói lên tốc độ luân chuyển toàn bộ vốn lưu động trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp đã đạt được trolng một năm hay độ dài của một vòng tuần hoàn vốn lưu động tính theo ngày. Dưới đây là bảng số liệu phản ánh tốc độ chu chuyển của vốn lưu động tại Công ty Minh Nam trong 2 năm 2002 - 2003. Bảng 7 tốc độ chu chuyển của vốn lưu động Chỉ tiêu Đơn vị tính năm 2002 năm 2003 Chênh lệch Số tuyệt đối Số tương đối (%) Mức doanh thu thuần đồng 2.142.482.86 7 3.969.197.82 5 1.826.714.95 8 85,3 Vốn lưu động bình quân đồng 448.124.593, 5 553.808.502 105.683.908, 5 23,6 Số vòng quay của VLĐ vòng 4,8 7,2 2,4 50 Kỳ luân chuyển vốn lưu động ngày 75 50 -25 -33,3 Công thức áp dụng Số lần luân chuyển =Error! (vòng quay trong năm) Kỳ luân chuyển bình quân = Error! = Error! * Nhận xét: Trong năm 2003 số vòng quay của vốn lưu động tăng 2,4 vòng một năm hay tỷ lệ tăng 50%. Kỳ luân chuyển vốn lưu động năm 2003 giảm 25 ngày với tỷ lệ giảm 33,3% so năm 2002. Như vậy, tốc độ chu chuyển VLĐ là rất cao, chứng tỏ Công ty đã sử dụng hiệu quả ngùôn vốn lưu động. Đạt được kết quả này là do Công ty đã áp dụng các công nghệ hiện đại để rút ngắn chu kỳ sản xuất tiết kiệm chi phí sản xuất, tổ chức sản xuất hợp lý, nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài chỉ tiêu hiệu suất chung, hiệu suất sử dụng vốn lưu động còn được đo lường bằng các chỉ tiêu khác như: sức sản xuất kinh doanh của vốn lưu động, hệ số sinh lời vốn lưu động, mức đảm nhiệm vốn lưu động. Bảng 8 Sức sản xuất kinh doanh và sức sinh lời vốn lưu động Chỉ tiêu Đơn vị tính năm 2002 năm 2003 Chênh lệch Số tuyệt đối Số tương đối (%) Doanh thu thuần đồng 2.142.482.86 7 3.969.197.82 5 1.826.714.95 8 85,3 LN từ hoạt động kinh doanh đồng 15.371.041 24.757.378 9.386.337 61,1 VLĐ bình quân đồng 448.124.593, 5 553.808.502 105.683.908, 5 23,6 sức sxkd của VLĐ lần 4,80 7,20 2,40 50,0 Hệ số sinh lời của VLĐ lần 0,03 0,04 0,01 33,3 Mức đảm nhiệm VLĐ lần 0,21 0,14 -0,07 -33,3 Công thức áp dụng Sức sản xuất kinh doanh = Error! Hệ số sinh lời của VLĐ = Error! Mức đảm nhiệm VLĐ = Error! (Hàm lượng vốn lưu động) Lượng vốn VLĐ đầu tư năm 2003 so với năm 2002 tăng 105.683.908,5 đồng với tỷ lệ tăng 23,6%. Mức doanh thu thuần và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2003 tăng cao so với năm 2002 cho nên sức sản xuất kinh doanh và hệ số sinh lời của vốn cố định đều tăng lên. Đối với sức sản xuất kinh doanh của vốn cố định thì cứ 1 đồng vốn lưu động tạo ra 4,8 đồng doanh thu thuần đến năm 2003 thì cứ 1 đồng lưu động lại tạo ra 7,2 đồng doanh thu thuần tăng so với năm 2002 là 2,4 đồng với tỷ lệ tăng 50% còn đối với hệ số sinh lời của vốn lưu động, năm 2002 cứ 1 đồng vốn lưu động tạo ra 0,03 đồng lợi nhuận còn năm 2003 thì 1 đồng vốn lưu động tạo ra 0,04 đồng lợi nhuận cao hơn so với năm 2002 là 0,01 đồng với tỷ lệ tăng 33,3%. Như vậy, Công ty đã phát huy khả năng tham gia sản xuất kinh doanh của vốn lưu động, đem về cho Công ty doanh thu và lợi nhuận cao. Mức đảm nhiệm vốn lưu động năm 2003 giảm so với năm 2002 là 0,07 lần vơi tỷ lệ giảm 33,3% vì Công ty đã thu hồi được một lượng vốn chết hay vốn bị chiếm dụng để chúng tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. 2.2.2.3. Đối với vốn kinh doanh Trong các phần trước chúng ta đã phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động của Công ty Minh Nam nhưng đó mới chỉ là việc đánh giá chung từng loại vốn. Để có thể đưa ra những kết luận chính xác hơn về công tác sử dụng vốn của Công ty, chúng ta cần đi vào phân tích đánh giá tổng hợp hiệu quả sử dụng toàn bộ nguồn vốn kinh doanh. Bảng 9 bảng đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh Chỉ tiêu Đơn vị tính năm 2002 năm 2003 Chênh lệch Số tuyệt đối Số tương đối (%) 1. Doanh thu thuần đồng 2.142.482.86 7 3.969.197.82 5 1.826.714.95 8 85,3 2. LN hoạt động kinh doanh đồng 15.371.041 24.757.378 9.386.337 61,1 3. Vốn kinh doanh bình quân đồng 1.362.520.29 3 1.743.339.57 7 380.819.284 27,95 4. Vốn chủ sở hữu bìn quân đồng 1.341.831.93 8 1.682.857.86 8 341.025.930 25,4 5. Giá thành toàn bộ đồng 2.127.111.82 6 3.944.440.44 7 1.817.328.62 1 85,44 6. Vòng quay tổng vốn vòng 1,6 2,3 0,7 43,75 7.Tỷ suất LN vốn kinh doanh % 0,011 0,014 0,003 27,3 8. Tỷ suất LN vốn chủ sở hữu % 0,011 0,014 0,003 27,3 9. Tỷ suất LN trên doanh thu % 0,007 0,006 -0,001 -14,3 10. Lợi suất LN trên giá thành toàn bộ % 0,007 0,006 -0,001 -14,3 Công thức tính: - Vốn kinh doanh bình quân = Error! - Vốn chủ sở hữu = Error! - Vòng quay tổng vốn = Error! - Tỷ suất LNvốn KD = Error! - Tỷ suất LN vốn chủ sở hữu = Error! - Tỷ suất LN trên doanh thu = Error! - Tỷ suất LN = Error! Qua bảng đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty ta thấy: - Vòng quay tổng vốn: Năm 2002 vốn kinh doanh của Công ty luân chuyển được 1,6 vòng, sáng năm 2003 vòng quay toàn bộ vốn của Công ty đạt 2,3 vòng tăng lên 0,7 vòng với tỷ lệ tăng 43,75% so với năm 2002. Nguyên nhân tăng là do vốn kinh doanh của Công ty tăng từ 1.362.520.293 đồng lên 1.743.339.577 đồng tức là tăng 380.819.284 đồng với tỷ lệ tăng 25,4%. Trong khi đó, tốc độ tăng doanh thu thuần của Công ty lại nhanh hơn so với tốc độ tăng tổng vốn, doanh thu thuần của Công ty năm 2003 tăng lên 85,3% so với năm 2002. Do đó, đã làm cho tốc độ luân chuyển vốn của Công ty tăng lên. - Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh năm 2002 là 0,011 tức là 1 đồng vốn kinh doanh tạo ra 0,011 đồng lợi nhuận còn 1 đồng vốn năm 2003 lại tạo ra được 0,014 đồng lợi nhuận tức tăng 0,003 đồng lợi nhuận với tỷ lệ tăng 27,3% so với năm 2002. Nguyên nhân tăng là do vốn lưu động và vốn cố định tăng làm cho tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh tăng theo. Như vậy, khả năng sinh lời của vốn kinh doanh năm 2003 tốt hơn năm 2002. - Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu: năm 2002 là 0,011 tức là đồng vốn chủ sở hữu tạo ra 0,011 đồng lợi nhuận còn 1 đồng vốn chủ sở hữu năm 2003 lại tạo ra được 0,014 đồng lợi nhuận tăng 0,003 đồng với tỷ lệ tăng 27,3% so với năm 2002. Nguyên nhân tăng là do tổng nguồn vốn kinh doanh tăng lên khiến tỷ suất lợi nhuận vốn sở hữu tăng. - Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu: Năm 2002 là 0,007 tức là 1 đồng doanh thu thuần mà doanh nghiệp thu được trong thời kỳ có 0,007 đồng lợi nhuận còn 1 đồng doanh thu thuần mà doanh nghiệp thu được năm 2003 chỉ có 0,006 đồng lợi nhuận, giảm 0,001 đồng với tỷ lệ giảm 14,3% so với năm 2002. - Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành toàn bộ năm 2002 là 0,007 đồng, năm 2003 là 0,006 đồng tức là 1 đồng giá thành toàn bộ bỏ ra thu được 0,007 đồng lợi nhuận năm 2002, còn năm 2003 thu được 0,006 đồng lợi nhuận giảm đi 0,001 đồng với tỷ lệ giảm 14,3% so với năm 2002. Nguyên nhân giảm là do giá vốn hàng bán tăng khiến cho lợi nhuận giảm. Điều này không tốt đối với hoạt động kinh doanh của Công ty. Tóm lại, qua những phân tích sơ bộ trên ta thấy năm 2003 bên cạnh những biến động theo chiều hướng giảm sút của chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, Công ty đã đạt được mục tiêu cơ bản đặt ra trong việc quản lý và sử dụng vốn đó là vòng quay tổng vốn, tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh, tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu tăng. Nguyên nhân làm các chỉ tiêu này tăng lên là do tình hình quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của Công ty khá tốt. Cả vốn cố định và vốn lưu động có thể chưa đem lại những kết quả mong muốn song cũng bước đầu đạt được những kết quả cụ thể. Có được kết quả đó là do trong thời gian qua Công ty đã chủ động trong hoạt động tăng vốn, tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đổi mới trang thiết bị sản xuất, tăn cường quản lý chất lượng sản phẩm. 2.2.2.4. Đối với khả năng thanh toán: Khả năng thanh toán của doanh nghiệp là khả năng dùng vốn tài sản của mình để chi trả các khoản nợ đối với các đơn vị khác. Trong kinh doanh thời kinh tế thị trường, việc chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp là đặc trưng nổi bật thậm chí còn được coi là 1 sách lược kinh doanh hữu hiệu, nhưng nó sẽ trở thành con dao hai lưỡi nếu doanh nghiệp không biết vận dụng vào nó một cách linh hoạt và đúng đắn. Việc đánh giá khả năng thanh toán giúp cho các nhà quản lý có thể nắm vững được tình hình tài chính của doanh nghiệp từ đó sẽ chủ động trong việc sử dụng vốn kinh doanh. Tình hình tài chính được đánh giá lành mạnh trước hết phải thể hiện được khả năng chi trả. Vì vậy, chúng ta bắt đầu từ việc khả năng thanh toán, đây là chỉ tiêu được rất nhiều người quan tâm như các nhà đầu tư, nhà doanh nghiệp có đủ khả năng đến hạn thanh toán hay không? Để đánh giá giả khả năng thanh toán của Công ty ta có thể sử dụng các chỉ tiêu sau: Hệ số khả năng thanh toán tổng quát Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Error! Tổng TS bình quân = Error! Tổng TS bình quân 2002 = Error! = 1.362.520.293đồng Tổng TSBQ 2003 = Error! = 1.743.339.577đồng Hệ số khả năng thanh toán tổng quát 2002 = 1.362.520.293;20.688.354 5 = 65,9 >1 lần Hệ số khả năng thanh toán tổng quát 2003 = 1.743.339.577; 60.481.709 5 = 28,82> 1 lần Hệ số khả năng thanh toán hiện thời Hệ số khả năng thanh toán hiện thời = Error! Tổng TSLĐ và ĐTTCNH bq 2002 = Error! = 448.124.593,5 đồng Tổng TSLĐ và ĐTTCNHbq 2003 = Error! = 553.808.502 đồng Hệ số thanh toán hiện thời 2002 = Error! = 21.7 (lần) > 1 Hệ số thanh toán hiện thời 2003 = 553.808.502;60.481.709 5 = 9,2 (lần )>1 Hệ số khả năng thanh toán nhanh (HN) Hn = Error! Hàng tồn kho bq 2002 = Error! Hàng tồn kho bq 2003 = Error! Hn 2002 = Error! Hn 2003 = Error! Bảng 10 Bảng nghiên cứu đánh giá khả năng thanh toán của Công ty Minh Nam Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 So sánh Tuyệt đối Tương đối (%) 1. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát 65,9 28,82 -37,08 -56 2. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời 21,7 9,2 -12,5 -58 3. Hệ số khả năng thanh toán nhanh 15,94 8,21 -7,73 -47 Hệ số khả năng thanh toán tổng quát Năm 2002 hệ số khả năng thanh toán tổng quát là 65,9 lần tức là Công ty vay 1 đồng có 65,9 đồng tài sản bảo đảm. Năm 2003 hệ số khả năng thanh toán tổng quát là 28,82 lần tức là Công ty vay 1 đồng thì có 28,82 đồng tài sản đảm bảo. Như vậy, ta thấy hệ số khả năng thanh toán tổng quát năm 2003 so với năm 2002 giảm 37,08 lần với tỷ lệ giảm 56%. Khả năng thanh toán tổng quát của Công ty năm 2003 tuy giảm nhưng hệ số nay vẫn đảm bảo khả năng thanh toán tổng quát tốt của Công ty. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời Hệ số thanh toán hiện thời của Công ty 2002 là 21,7 lần năm 2003 là 9,2 lần giảm 12,5 lần với tỷ lệ giảm 58%. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời năm 2003 không được tốt, Công ty đang có 1 lượng tài sản lưu động tồn trữ lớn, việc sử dụng tài sản không hiệu quả (có nhiều khoản nợ phải đòi). Hệ số khả năng thanh toán nhanh (Hn) Năm 2002 hệ số khả năng thanh toán nhanh là 15,94 lần còn năm 2003 chỉ còn 8,21 lần giảm 7,73 lần với tỷ lệ giảm 48% so với năm 2002. Tuy hệ số thanh toán nhanh năm 2003 giảm nhưng với hệ số 8,21 lần Công ty vẫn đủ khả năng thanh toán nhanh. Chương III Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Minh Nam 1.Tiếp tục thực hiện tốt các biện pháp tích cực mà Công ty đã và đang áp dụng, đó là: - Thường xuyên theo dõi hiện trạng của vốn, làm tốt các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. - Tiếp tục tranh thủ sử dụng một cách hợp lý và có hiệu quả nguồn vốn chiếm dụng hợp pháp từ các khỏan phải trả nhưng chưa đến hạn thanh toán ( phải trả người bán, phải trả công nhân viên, thuế và các khoản phải nộp Nhà nước). 2.Xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn Mọi hoạt động của Công ty đòi hỏi phải có vốn, bước vào hoạt động kinh doanh, tài chính, Công ty phải xác định nhu cầu vốn cần thiết cho các hoạt động của Công ty. Tiếp theo phải tổ chức huy động các nguồn vốn để đáp ứng kịp thời đầy đủ cho các hoạt động của Công ty. Việc tổ chức huy động các nguồn vốn có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của một Công ty. Để đi đến quyết định lựa chọn hình thức và phương pháp huy động vốn thích hợp, cần xem xét, cân nhắc nhiều mặt như: kết cấu nguồn vốn, chi phí cho việc sử dụng các nguồn vốn, những điểm lợi và bất lợi của các hình thức huy động vốn. Tổ chức sử

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty TNHH Minh Nam.pdf
Tài liệu liên quan