Tài liệu Luận văn Vốn kinh doanh và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại công ty cổ phần xây dựng công trình Thăng Long 9: LUẬN VĂN:
Vốn kinh doanh và một số giải pháp nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty
Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9
Lời nói đầu
Theo quan điểm hiện đại, mỗi doanh nghiệp được xem như một tế bào sống cấu
thành nên toàn bộ nền kinh tế. Tế bào sống đó cũng cần phải có quá trình trao đổi chất với
môi trường bên ngoài thì mới tồn tại và phát triển được, Vốn chính là đối tượng của quá
trình trao đổi đó. Nó đảm bảo sự sống cho doanh nghiệp, nếu thiếu hụt thì doanh nghiệp sẽ
mất khả năng thanh toán. Nói cách khác, vốn là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của
bất kỳ doanh nghiệp nào.
Do đó, hiệu quả của quản lý và sử dụng vốn trở thành vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan
trọng với các doanh nghiệp. Nếu đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng có khả năng đem lại lợi
nhuận cao thì doanh nghiệp không những bù đắp được chi phí mà còn tích luỹ được để tái sản
xuất mở rộng. Vốn kinh doanh tham gia vào hầu hết các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh
doanh. ...
95 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vốn kinh doanh và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại công ty cổ phần xây dựng công trình Thăng Long 9, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vốn kinh doanh và một số giải pháp nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty
Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9
Lời nói đầu
Theo quan điểm hiện đại, mỗi doanh nghiệp được xem như một tế bào sống cấu
thành nên toàn bộ nền kinh tế. Tế bào sống đó cũng cần phải có quá trình trao đổi chất với
môi trường bên ngoài thì mới tồn tại và phát triển được, Vốn chính là đối tượng của quá
trình trao đổi đó. Nó đảm bảo sự sống cho doanh nghiệp, nếu thiếu hụt thì doanh nghiệp sẽ
mất khả năng thanh toán. Nói cách khác, vốn là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của
bất kỳ doanh nghiệp nào.
Do đó, hiệu quả của quản lý và sử dụng vốn trở thành vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan
trọng với các doanh nghiệp. Nếu đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng có khả năng đem lại lợi
nhuận cao thì doanh nghiệp không những bù đắp được chi phí mà còn tích luỹ được để tái sản
xuất mở rộng. Vốn kinh doanh tham gia vào hầu hết các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh
doanh. Vì vậy, việc quản lý và sử dụng nguồn vốn kinh doanh sao cho có hiệu quả tác động
mạnh mẽ tới khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy vậy, trên thực tế tình hình
quản lý và sử dụng của các doanh nghiệp kinh doanh còn nhiều bất cập và chưa được quan tâm
đúng mức.
đề tài: “ Vốn kinh doanh và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh tại Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9” làm đề tài cho
khoá luận tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, Khóa luận của em được trình bày theo 3 phần:
Phần I : Cơ sở lý luận về vốn và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh
nghiệp.
Phần II: Thực trạng vốn và công tác quản lý sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần Xây
dựng Công trình Thăng Long 9
Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ
phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9
Phần 1
Cơ sở Lý luận về vốn và hiệu quả sử dụng vốn
sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp
I. Khái quát về vốn
1. Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất kinh
doanh đều với mục đích là sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để trao đổi với các đơn vị kinh
tế khác nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng để tiến hành sản xuất kinh doanh thì
cần thiết phải có vốn. Vậy vốn là gì ?
Từ trước đến nay, có rất nhiều khái niệm về vốn, và mỗi khái niệm đều có những ưu
điểm khác nhau, tuỳ điều kiện, mục đích nghiên cứu mà người ta có thể tiếp cận vốn dưới
giác độ nào.
Theo các nhà kinh tế học cổ điển tiếp cận vốn dưới góc độ hiện vật, “Vốn là yếu tố
đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh” [3] .Đây là cách hiểu phù hợp với trình độ
quản trị còn sơ khai, nó rất đơn giản, dễ hiểu nhưng chưa đầy đủ và chưa phản ánh hết mặt
tài chính của vốn.
Theo quan điểm của Mác dưới góc độ các yếu tố sản xuất, “Vốn (tư bản) là giá trị
mang lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất” [3] . Định nghĩa của
C.Mác có tầm khái quát lớn, tuy nhiên trong bối cảnh lúc đó khi mà nền kinh tế chưa phát
triển, C.Mác quan niệm chỉ có khu vực sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Và tiền chỉ được gọi là vốn khi nó được dùng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp với mục đích là lợi nhuận. Quan điểm này đã chỉ rõ mục tiêu của quản trị và
sử dụng vốn, nhưng quan điểm này lại mang tính trừu tượng, do đó hạn chế về ý nghĩa
nhất là đối với các vấn đề như hạch toán, phân tích tình hình quản trị và sử dụng vốn của
doanh nghiệp.
Theo Paul-Sammelson, nhà kinh tế học theo trường phái tân cổ điển đã kế thừa quan
niệm về các yếu tố sản xuất của trường phái cổ điển và chia yếu tố đầu vào của quá trình sản
xuất ra làm ba loại: đất đai, lao động và vốn. Theo ông, “Vốn là hàng hoá được sản xuất ra
để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho các hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp” – [3]. Khái niệm này không đề cập đến các loại tài sản khác, các giấy
tờ có giá trị có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Do đó, cũng không phản ánh đầy đủ
mặt tài chính của vốn.
Theo một số nhà tài chính thì “Vốn là tổng số tiền do những người có cổ phần
trong công ty đóng góp và họ nhận được phần thu nhập chia cho các chứng khoán của
công ty” – [4]. Quan điểm này đã đề cập đến mặt tài chính của vốn, khuyến khích các nhà
đầu tư tăng cường đầu tư , mở rộng và phát triển sản xuất. Song nó có hạn chế là không
nói rõ nội dung và trạng thái của vốn trong quá trình phục vụ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp .
Hiểu theo nghĩa rộng, một số quan điểm lại cho rằng vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố
kinh tế được bố trí để sản xuất hàng hoá, dịch vụ như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, các
kiến thức về kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp được tích luỹ, sự khéo léo về trình độ quản
trị và tác nghiệp của cán bộ điều hành cùng chất lượng của đội ngũ công nhân viên trong
doanh nghiệp, các lợi thế về cạnh tranh như vị trí, uy tín của doanh nghiệp trên thương
trường...Quan điểm này có ý nghĩa rộng trong việc khai thác đầy đủ mọi hình thức thức
của vốn trong nền kinh tế thị trường nhưng việc xác định và quản trị vốn theo quan điểm
này rất khó khăn, phức tạp nhất là khi trình độ quản trị chưa cao và hệ thống pháp luật
chưa thực sự hợp lý và hoàn thiện như nước ta hiện nay.
Cũng có quan niệm lại cho rằng: “Vốn kinh doanh là giá trị của các tài sản hiện có
của doanh nghiệp được biểu hiện bằng tiền” – [4], nhưng quan điểm này mới dừng lại ở
mặt hình thái của vốn mà không phản ánh trạng thái, mục đích của vốn nên cũng không
thuận lợi cho phân tích kinh tế.
Như vậy, các quan điểm về vốn ở trên một mặt đã thể hiện được vai trò của vốn trong
những điều kiện lịch sử cụ thể với những yêu cầu, mục đích nghiên cứu cụ thể. Nhưng mặt
khác, trong cơ chế thị trường hiện nay, đứng trên góc độ hạch toán và quản trị, các quan
điểm đó còn gây khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu của quản trị vốn hiệu quả.
Trong điều kiện tồn tại một nền sản xuất hàng hoá -tiền tệ, khái niệm về vốn sản xuất
kinh doanh phải thể hiện những vấn đề sau:
- Nguồn gốc sâu xa của vốn sản xuất kinh doanh là một bộ phận của thu nhập quốc
dân được tái đầu tư (khác vốn đất đai, vốn nhân lực).
- Trạng thái vốn tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh là tài sản vật chất (tài sản
cố định, tài sản dự trữ ) và tài sản tài chính (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các chứng khoán,
tín phiếu…) là cơ sở để ra biện pháp quản trị vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
một cách hiệu quả.
- Mối quan hệ mật thiết giữa vốn và các nhân tố khác trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp (đất đai, lao động). Điều này đòi hỏi các nhà quản trị phải sử dụng tiết
kiệm, hợp lý và hiệu quả vốn.
- Mục đích của quá trình đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận. Vấn đề
này sẽ định hướng cho quá trình quản trị kinh doanh nói chung và quản trị vốn nói riêng.
Từ những quan điểm trên, có thể định nghĩa: “Vốn là một phần thu nhập quốc dân dưới
dạng tài sản vật chất hay tài sản tài chính được các cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp bỏ ra,
đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh nhằm tối đa hoá lợi nhuận” – [11] .
2. Đặc trưng của vốn:
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có tư liệu lao động
đội tượng lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các
yếu tố đó để tạo ra sản phẩm, lao vụ, dịch vụ. Để tạo ra các yếu tố phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định ban đầu để xây
dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc, thiết bị, thuê lao động hay mua sắm nguyên vật liệu,
…Có vốn tiền tệ, doanh nghiệp mới tiến hành sản xuất kinh doanh. Sau khi tiêu thụ sản phẩm,
doanh nghiệp dành một phần thu nhập của mình để bù đắp lại những chi phí đã bỏ ra như tài
sản cố định đã bị hao mòn, chi phí vật tư, tiền lương, tiền công … và một phần để tạo lập quỹ
dự trữ cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo.
Như vậy, có thể thấy các tư liệu lao động và đối tượng lao động mà doanh nghiệp phải
đầu tư để sản xuất và tái sản xuất mở rộng là hình thái hiện vật của vốn sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Do vậy, vốn phải có những đặc trưng cơ bản sau:
- Vốn phải là một lượng tài sản nhất định. Vốn được biểu hiện bằng giá trị của tài sản
hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp.
- Vốn phải được tích tụ và tập trung tới một qui mô nhất định mới có thể bỏ ra để đầu
tư vào sản xuất kinh doanh và phát huy tác dụng. Các nhà quản trị, các nhà đầu tư không
chỉ tìm cách khai thác mọi tiềm năng của vốn mà còn tìm cách tập trung, huy động vốn từ
những nguồn cung ứng thích hợp.
- Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định và phải được quản trị chặt chẽ. Trong
nền kinh tế thị trường không có những đồng vốn vô chủ, mà nếu có tồn tại những đồng
vốn vô chủ thì cũng đồng nghĩa với việc sử dụng lãng phí và kém hiệu quả vốn. Khi đồng
vốn gắn liền với chủ sở hữu nhất định thì nó mới là động lực để vốn được chi tiêu hợp lý,
hiệu quả.
- Vốn là một loại hàng hoá đặc biệt có giá trị (trao đổi, mua bán) và giá trị sử dụng.
Những người có vốn có thể đưa vào thị trường và những người cần vốn tới thị trường để
vay vốn, tức là chuyển quyền sử dụng vốn. Người vay phải trả một tỷ lệ lãi suất nhất định
tức là phải trả giá cho quyền sử dụng vốn (chi phí sử dụng vốn). Như vậy, khác với hàng
hoá thông thường, vốn khi được bán sẽ không mất đi quyền sở hữu mà chỉ mất đi quyền sử
dụng vốn.
- Vốn phải có giá trị về mặt thời gian, có nghĩa là khi tiến hành đầu tư vào một dự án
kinh doanh nào thì đều phải xét đến yếu tố thời gian của vốn vì trong nền kinh tế thị truờng
do ảnh hưởng của nhiều nhân tố như giá cả, lạm phát,…nên sức mua của đồng tiền tại
những thời điểm khác thì cũng khác nhau.
- Vốn phải được vận động để sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng tiền chỉ là
dạng tiềm năng của vốn, còn để trở thành vốn sản xuất kinh doanh thì vốn phải được vận
động, đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
Khi tham gia vào sản xuất kinh doanh, vốn luôn biến động và chuyển hoá hình thái
vật chất theo thời gian và không gian. Toàn bộ sự vận động của vốn khi tham gia quá trình
sản xuất kinh doanh được thể hiện ở sơ đồ sau:
TLSX
T - H -- SX - H - T
SLĐ
Sự vận động của vốn trong doanh nghiệp thương mại có thể chỉ là: T-H- T’ và trong
doanh nghiệp ngân hàng là: T - T’.
Qua sơ đồ ta thấy: quá trình vận động của vốn trải qua ba giai đoạn chủ yếu sau đây:
- Giai đoạn một: vốn hoạt động trong phạm vi lưu thông, lúc đầu là vốn tiền tệ (T)
tích luỹ được đem ra thị trường (đó là thị trường các yếu tố đầu vào) mua hàng hoá bao
gồm tư liệu sản xuất và sức lao động. Trong giai đoạn này vốn thay đổi từ hình thái vốn
tiền tệ sang vốn sản xuất.
TLSX
T - H
SLĐ
- Giai đoạn hai: Vốn rời khỏi lĩnh vực lưu thông bước vào hoạt động trong khâu sản xuất.
ở đây các yếu tố sản xuất hay còn gọi là các yếu tố hàng hoá dịch vụ được sản xuất ra trong đó
có phần giá trị mới (do giá trị sức lao động con người tạo ra).
TLSX
- H’
SLĐ
- Giai đoạn ba: Sau giai đoạn sản xuất tạo ra H’ thì vốn lại trở lại hoạt động trên lĩnh
vực lưu thông dưới hình thái hàng hoá. Kết thúc giai đoạn này (hàng hoá được tiêu thụ) thì
vốn dưới hình thái hàng hoá chuyển thành hình thái vốn tiền tệ ban đầu nhưng về mặt số
lượng có thể là khác nhau.
H’ _______________ T’ (T’ T)
Từ sự phân tích sự vận động của vốn thông qua “vòng tuần hoàn vốn” ta thấy rằng: tiền
có khả năng chuyển hoá thành vốn chỉ khi tiền được đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh
thông qua hoạt động đầu tư nhằm mục đích sinh lời mới được gọi là vốn. Với tư cách đầu tư
thì mục đích cuối cùng là tạo được T’ phải lớn hơn T.
Vòng tuần hoàn của vốn bắt đầu từ hình thái tiền tệ (T) và chuyển sang hình thái hàng
hoá (H) dưới dạng các tư liệu lao động và đối tượng lao động. Qua quá trình sản xuất kinh
doanh tạo ra sản phẩm, lao vụ và dịch vụ, vốn chuyển sang hình thái sản phẩm hàng hoá
được bán trên thị trường và cuối cùng vốn lại trở về hình thái tiền tệ (T’). Do sự luân
chuyển không ngừng của vốn trong sản xuất kinh doanh nên cùng một lúc, vốn sản xuất
kinh doanh tồn tại dưới các hình thức khác nhau trong lĩnh vực dự trữ, sản xuất và lưu
thông.
Như vậy, từ những phân tích trên cho thấy trong nền kinh tế thị trường, phạm trù vốn
phải được nhận thức một cách đầy đủ, phù hợp. Đây là vấn đề có tính chất nguyên lý, là cơ
sở cho việc quản trị và sử dụng vốn hiệu quả trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
3. Vai trò của vốn :
Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá, do vậy bất kỳ một
quá trình sản xuất kinh doanh nào dù ở bất cứ cấp độ nào: cá nhân, tổ chức, gia đình, doanh
nghiệp hay quốc gia luôn luôn cần có một lượng vốn nhất định dưới dạng tiền tệ, tài nguyên đã
được khai thác, bản quyền phát minh,…Vốn là điều kiện tiền đề quyết định sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp .
- Về mặt kinh tế:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh vốn là mạch máu của doanh nghiệp. Vốn không
những đảm bảo mua sắm máy móc thiết bị dây chuyền công nghệ phục vụ cho quá trình
sản xuất kinh doanh mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
được diễn ra liên tục, thường xuyên.
Vốn cũng là yếu tố quyết định việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Để
có thể tiến hành tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng thì sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh
doanh, vốn của doanh nghiệp phải sinh lời, tức là hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp phải có lãi đảm bảo cho vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển.
Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng phạm vi sản xuất kinh doanh, mở
rộng thị trường, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
Nhu cầu về vốn xét trên giác độ mỗi doanh nghiệp là điều kiện để duy trì sản xuất, đổi
mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm và thu
nhập cho người lao động, đóng góp cho xã hội... Như vậy:
+ Vốn sản xuất kinh doanh là công cụ quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ kinh
doanh của doanh nghiệp.
+ Vốn sản xuất kinh doanh phản ánh các quan hệ về lợi ích kinh tế giữa doanh
nghiệp với doanh nghiệp trong vấn đề đầu tư.
+ Vốn sản xuất kinh doanh cho phép khả năng lựa chọn của doanh nghiệp trong sự
phân tích nhu cầu thị trường là: quyết định sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản
xuất cho ai? sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
- Về mặt pháp lý:
Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện tiên quyết là doanh nghiệp phải có
một lượng vốn nhất định. Đối với một số ngành, lĩnh vực thì lượng vốn đó tối thiểu phải
bằng lượng vốn pháp định (do Nhà nước quy định). Nếu không, doanh nghiệp sẽ không
được thành lập. Và trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, lượng vốn doanh
nghiệp không đạt điều kiện Nhà nước quy định thì doanh nghiệp sẽ tự tuyên bố chấm dứt
hoạt động như phá sản, sát nhập với doanh nghiệp khác. Như vậy, với một số ngành, vốn
có thể được xem là một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại tư cách
pháp nhân của một doanh nghiệp trước pháp luật.
Nhận thức được tầm quan trọng của vốn, các doanh nghiệp nhất thiết phải tìm mọi
cách huy động, bảo toàn và phát triển vốn bằng cách sử dụng tiết kiệm, hợp lý vốn tức là
phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
4. Phân loại vốn :
Do trong quá trình vận động, vốn biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau nên cũng
có nhiều cách phân loại vốn khác nhau:
4.1. Căn cứ vào nguồn hình thành vốn.
4.1.1. Vốn chủ sở hữu.
Là số vốn góp của các chủ sở hữu, của các nhà đầu tư đóng góp. Số vốn này không
phải là một khoản nợ, doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán, không phải chịu lãi
suất. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được do sản xuất kinh doanh có lãi của doanh nghiệp sẽ
được chia cho các cổ đông theo tỷ lệ phần vốn góp của mình. Tuỳ theo từng loại hình
doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu được hình thành theo các hình thức khác nhau, thông
thường là:
Vốn góp
Là số vốn do các thành viên tham gia thành lập doanh nghiệp đóng góp, sử dụng
vào mục đích sản xuất kinh doanh. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì đây là nguồn vốn
do Nhà nước cấp. Đối với công ty liên doanh thì là phần vốn góp của các đối tác trong và
ngoài nước tham gia thành lập liên doanh. Số vốn này được bổ sung hoặc rút bớt trong quá
trình sản xuất kinh doanh.
Lãi chưa phân phối
Là số vốn có nguồn gốc từ lợi nhuận hay các khoản thu nhập hợp pháp khác của
doanh nghiệp sau khi đã trừ đi các khoản phải nộp hay thanh toán. Số lãi trong khi chưa
phân phối cho các chủ đầu tư, trích quỹ thì được sử dụng trong sản xuất kinh doanh như
vốn chủ sở hữu.
4.1.2. Vốn vay.
Vốn vay là khoản vốn đầu tư ngoài vốn chủ sở hữu được hình thành từ nguồn vốn đi vay, đi
chiếm dụng của các cá nhân, đơn vị, tổ chức trong và ngoài nước và sau một thời gian nhất định,
doanh nghiệp phải trả cho người cho vay cả gốc lẫn lãi. Phần vốn này, doanh nghiệp được sử
dụng với những điều kiện nhất định (như thời hạn sử dụng, lãi suất, thế chấp,…) nhưng không
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Vốn vay luôn được ưu tiên chi trả trước vốn chủ sở hữu
trong bất cứ hoàn cảnh nào đặc biệt doanh nghiệp khó khăn về tài chính. Doanh nghiệp càng sử
dụng vốn vay càng nhiều thì độ rủi ro càng cao nhưng để phục vụ sản xuất kinh doanh thì đây là
nguồn huy động vốn rất lớn tuỳ thuộc vào khả năng thế chấp, tình hình sản xuất kinh doanh, uy
tín của doanh nghiệp. Vốn vay có hai loại: Vốn vay, nợ ngắn hạn và vốn vay, nợ trung, dài hạn
với nhiều hình thức khác nhau như tín dụng thương mại, hùn vốn qua phát hành trái phiếu, tín
dụng cầm đồ hoặc thế chấp tài sản...
Thông thường, một doanh nghiệp đều nên phối hợp cả hai nguồn vốn trên để đảm bảo
nhu cầu vốn của doanh nghiệp cũng như bảo đảm nguyên tắc phân tán rủi ro trong đầu tư.
Kết cấu hợp lý của hai nguồn vốn này tuỳ thuộc đặc điểm ngành doanh nghiệp đang hoạt
động, quyết định của nhà quản trị doanh nghiệp trên cở sở xem xét tình hình tài chính của
doanh nghiệp và tình hình chung của nền kinh tế đất nước.
4.2. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn.
4.2.1. Nguồn vốn thường xuyên.
Đây là nguồn vốn mang tính chất ổn định, lâu dài mà doanh nghiệp có thể sử dụng để
đầu tư vào TSCĐ và một bộ phận TSLĐ tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động
sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn này bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và vốn vay dài hạn.
4.2.2. Nguồn vốn tạm thời.
Đây là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (sử dụng trong thời gian dưới một năm) để
đáp ứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay, nợ ngắn hạn và các
khoản chiếm dụng của doanh nghiệp với các bạn hàng.
Với cách phân loại này còn giúp cho nhà quản trị doanh nghiệp lập các kế hoạch tài
chính, hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn vốn trong tương lai trên cơ sở xác
định quy mô vốn cần thiết, lựa chọn nguồn cung ứng và quy mô vốn thích hợp cho từng
nguồn vốn đó, khai thác nguồn tài chính tiềm năng, tổ chức sử dụng vốn đạt hiệu quả cao.
4.3. Căn cứ vào vai trò, đặc điểm chu chuyển cuả vốn trong quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp
4.3.1. Vốn cố định.
VCĐ của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư, ứng trước về TSCĐ, mà đặc
điểm của nó là luân chuyển dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một
vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng.
Quy mô của VCĐ quyết định quy mô của TSCĐ nhưng các đặc điểm của TSCĐ lại
ảnh hưởng tới sự vận động và công tác quản trị VCĐ. Vì vậy, muốn quản trị VCĐ hiệu
quả thì phải quản trị, sử dụng hiệu quả TSCĐ. Từ mối quan hệ này, ta có thể khái quát
những nét đặc thù của VCĐ như sau:
- VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh do TSCĐ có thể phát huy
trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nên VCĐ-hình thái biểu hiện của nó cũng được
tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh tương ứng.
- VCĐ được luân chuyển dần từng phần khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh
doanh. TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện vật ban đầu nhưng tính năng và công suất
của nó bị giảm dần và kéo theo giá trị tài sản đó cũng bị giảm đi. Theo đó, VCĐ cũng
được tách làm hai phần:
+ Một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình thức khấu
haoTSCĐ. Tức là trong quá trình sử dụng và bảo quản, TSCĐ bị hao mòn. Bộ phận giá trị
của TSCĐ tương ứng với mức hao mòn mà nó được chuyển dịch dần dần vào giá trị sản
phẩm, gọi là khấu hao TSCĐ.
+ Phần còn lại của VCĐ được “cố định ” trong TSCĐ. Việc quản trị VCĐ và TSCĐ
trên thực tế là một công việc rất phức tạp. Để giảm nhẹ khối lượng quản trị, về kế toán tài
chính người ta có những quy định thống nhất về tiêu chuẩn giới hạn về giá trị và thời gian
sử dụng một TSCĐ. Hiện nay, ở nước ta một tư liệu lao động là TSCĐ phải đồng thời thoả
mãn hai điều kiện: Giá trị tối thiểu từ 10 triệu đồng Việt nam và thời gian sử dụng ít nhất
là 1năm .
Để quản trị VCĐ hiệu quả, cần nghiên cứu kết cấu và phân loại VCĐ.
Cơ cấu của vốn cố định
Là tỷ trọng của từng loại VCĐ so với tổng toàn bộ VCĐ của doanh nghiệp trong
một thời kỳ nhất định. Cần lưu ý rằng quan hệ tỷ lệ trong cơ cấu vốn là một chỉ tiêu động
mang tính biện chứng và phụ thuộc nhiều nhân tố như: khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị
trường, khả năng thu hút vốn đầu tư, phương hướng mục tiêu sản xuất kinh doanh, trình độ
trang bị kỹ thuật, quy mô sản xuất. Việc nghiên cứu cơ cấu vốn cố định có ý nghĩa quan
trọng trong việc huy động và sử dụng vốn. Khi nghiên cứu vốn cố định phải nghiên cứu
trên hai góc độ là: nội dung kế hoạch và quan hệ mỗi bộ phận so với toàn bộ. Vấn đề đặt ra
là phải xây dựng được một cơ cấu hợp lý phù hợp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật của doanh
nghiệp và với trình độ phát triển khoa học- kỹ thuật.
Phân loại vốn cố định
Có nhiều cách phân loại TSCĐ:
- Căn cứ vào hình thái biểu hiện :
+ TSCĐ hữu hình: Là TSCĐ có hình thái vật chất.
+ TSCĐ vô hình: là TSCĐ không có hình thái vật chất.
- Căn cứ theo tình hình sử dụng:
+ TSCĐ đang sử dụng.
+ TSCĐ chưa sử dụng.
+ TSCĐ không cần dùng.
+ TSCĐ chờ thanh lý.
- Căn cứ theo công dụng kinh tế:
+ TSCĐ dùng trong sản xuất kinh doanh.
+ TSCĐ dùng ngoài sản xuất kinh doanh :
- Căn cứ theo quyền sở hữu:
+ TSCĐ doanh nghiệp tự có.
+ TSCĐ doanh nghiệp thuê ngoài
+ TSCĐ doanh nghiệp bảo quản, giữ hộ cho đơn vị khác.
4.3.2. Vốn lưu động
VLĐ của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của TSLĐ và vốn lưu thông nhằm đảm
bảo cho quá trình sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp tiến hành thường xuyên, liên
tục.
Khác với VCĐ, VLĐ chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm sau mỗi chu kỳ sản xuất.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh VLĐ được luân chuyển không ngừng qua ba giai
đoạn: dự trữ, sản xuất và tiêu thụ. VLĐ chu chuyển nhanh hơn VCĐ. Trong mỗi giai đoạn
đó VLĐ được biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau, có thể là hình thái hiện vật hay
hình thái giá trị.
Có thể thấy rằng VLĐ là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản
xuất. Nếu doanh nghiệp không đủ vốn thì việc tổ chức sử dụng vốn sẽ gặp nhiều khó khăn
và do đó quá trình sản xuất cũng bị trở ngại hay gián đoạn. Để quản trị VLĐ tốt, cần
nghiên cứu kết cấu và phân loại VLĐ.
Cơ cấu vốn lưu động
Là quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần vốn lưu động chiếm trong tổng số VLĐ. ở những
doanh nghiệp khác nhau, kết cấu vốn lưu động không giống nhau. Xác định được cơ cấu VLĐ
hợp lý sẽ góp phần sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả VLĐ.
Để quản lý và sử dụng có hiệu quả VLĐ thì cần thiết phải tiến hành phân loại vốn
khác nhau.
Phân loại VLĐ
- Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn lưu động người ta chia vốn là
ba loại:
+ Vốn dự trữ: Là một bộ phận dùng để mua nguyên liệu, phụ tùng thay thế... dự
trữ và đưa vào sản xuất.
+ Vốn trong sản xuất: Là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn sản xuất
+ Vốn trong lưu thông: Là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu
thông như thành phẩm, vốn tiền mặt...
- Căn cứ vào phương pháp xác định vốn người ta chia vốn thành:
+ VLĐ định mức: là số VLĐ cần thiết tối thiểu thường xuyên trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm: vốn dự trữ, vốn trong sản xuất và thành phẩm,
hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm, vật tư thuê ngoài chế biến.
+ VLĐ không định mức: là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá trình sản
xuất kinh doanh nhưng không có căn cứ để tính định mức được.
- Căn cứ vào nguồn hình thành:
+ VLĐ tự có: là số vốn doanh nghiệp được Nhà nước cấp, VLĐ từ bổ sung lợi
nhuận, các khoản phải trả nhưng chưa đến kỳ hạn...
+ VLĐ đi vay: đây là nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp có thể sử dụng
để đáp ứng nhu cầu về VLĐ thường xuyên cần thiết trong kinh doanh. Có thể vay vốn
ngân hàng, các tổ chức tín dụng hoặc có thể vay vốn của các đơn vị, tổ chức và các cá
nhân khác trong và ngoài nước.
Mỗi doanh nghiệp cần xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý .
Sự khác nhau cơ bản giữa VCĐ và VLĐ là: nếu như VCĐ tham gia vào quá trình sản xuất
như tư liệu lao động thì VLĐ là đối tượng lao động. Nếu như VLĐ tạo ra thực thể của sản
phẩm hàng hoá thì VCĐ là phương thức để dịch chuyển VLĐ thành sản phẩm hàng hoá. Mặt
khác nếu như VLĐ được kết chuyển một lần vào giá trị của sản phẩm hàng hoá và thu hồi
được ngay sau khi doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá còn VCĐ tham gia nhiều vào quá
trình sản xuất kinh doanh và kết chuyển vào giá trị sản phẩm hàng hoá dưới hình thức khấu
hao.
4.4. Căn cứ vào phạm vi nguồn hình thành vốn
4.4.1. Nguồn vốn do doanh nghiệp tự cung ứng
Khấu hao tài sản cố định
Việc xác định mức khấu hao cụ thể phụ thuộc vào thực tiễn sử dụng tài sản cố định cũng như
ý muốn chủ quan của con người. Đối với doanh nghiệp nhà nước trong chừng mực nhất định phải
phụ thuộc ý đồ của Nhà nước, các doanh nghiệp khác có thể tự lựa chọn thời hạn sử dụng và
phương pháp tính khấu hao cụ thể. Trong chính sách tài chính của mình, doanh nghiệp có thể lựa
chọn và điều chỉnh khấu hao tài sản cố định và coi đây là một nguồn cung ứng vốn bên trong của
mình.
Tích luỹ tái đầu tư
Nguồn này phụ thuộc vào hai nhân tố cụ thể và tổng số lợi nhuận thu được trong từng
thời kỳ kinh doanh và chính sách phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Đối với
doanh nghiệp nhà nước toàn bộ lợi nhuận thu được sẽ phải sử dụng cho các khoản.
+ Nộp tiền sử dụng vốn ngân sách nhà nước theo quy định
+ Trả các khoản phải quy định
+ Lập các quỹ đặc biệt
Điều chỉnh cơ cấu tài sản
Phương thức này tuy không làm tăng tổng số vốn sản xuất - kinh doanh nhưng lại có
tác dụng rất lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ sở giảm vốn ở
những nơi không cần thiết.
4.4.2. Nguồn vốn do bên ngoài cung ứng
Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu
Là hình thức do doanh nghiệp được cung ứng vốn trực tiếp từ thị trường chứng
khoán. Khi có cầu về vốn và lựa chọn hình thức này, doanh nghiệp tính toán và phát hành
cổ phiếu bán trên thị trường chứng khoán. Đặc trưng cơ bản là tăng vốn nhưng không tăng
nợ của doanh nghiệp bởi lẽ những người sở hữu cổ phiếu trở thành cổ đông của doanh
nghiệp. Vì lẽ đó nhiều nhà quản trị học coi hình thức này là nguồn cung ứng nội bộ.
Tuy nhiên chỉ có công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn mới được phát
hành cổ phiếu. Và doanh nghiệp phải có nghĩa vụ công khai hoá thông tin tài chính theo
Luật doanh nghiệp.
Vay tiền bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn
Đây là hình thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng. Doanh nghiệp phát hành
lượng vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường có kỳ hạn xác định và bán cho công
chúng. Đặc trưng cơ bản là tăng vốn gắn với tăng nợ của doanh nghiệp. Cũng có những ưu
điểm và hạn chế nhất định.
- Ưu điểm chủ yếu: có thể huy động được một lượng vốn cần thiết, chi phí kinh
doanh sử dụng vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm soát
chặt chẽ như vay ngân hàng và doanh nghiệp.
- Hạn chế: đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm chắc kỹ thuật tài chính để tránh áp lực nợ
đến hạn và vẫn có lợi nhuận đặc biệt khi kinh tế suy thoái lạm phát cao. Chi phí kinh
doanh phát hành trái phiếu khá cao vì doanh nghiệp cần có sự trợ giúp của ngân hàng
thương mại. Doanh nghiệp phải tính toán thoả mãn hai điều kiện: TSCĐ phải nhỏ hơn tổng
số vốn và nợ dài hạn của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nào thoả mãn các điều kiện
theo luật định mới được phép phát hành trái phiếu.
Vay vốn của các ngân hàng thương mại
Vay vốn từ các ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn dưới các
hình thức cụ thể ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn từ các ngân hàng thương mại. Đây là
mối quan hệ tín dụng giữa một bên đi vay và một bên cho vay. Với hình thức này doanh
nghiệp có thể huy động được một lượng vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các doanh nghiệp
cùng tham gia thẩm định dự án nếu có cầu vay đầu tư lớn. Yêu cầu doanh nghiệp phải có
uy tín lớn, kiên trì đàm phán, chấp nhận các thủ tục thẩm định ngặt nghèo. Nếu doanh
nghiệp vay tiền của ngân hàng có thể bị ngân hàng thương mại kiểm soát các hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian cho vay.
Tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp:
Trong hoạt động kinh doanh, quan hệ mua bán trao đổi giữa các doanh nghiệp thông
thường không kết thúc tại một điểm, tức là xuất hiện sự chênh lệch về mặt thời gian giữa
dòng tài chính và dòng vật chất. Thực chất luôn diễn ra đồng thời quá trình doanh nghiệp
nợ khách hàng tiền và chiếm dụng tiền của khách hàng. Nếu tiền doanh nghiệp chiếm dụng
của khách hàng nhiều hơn số tiền doanh nghiệp bị chiếm dụng thì số tiền dôi ra sẽ mang
bản chất tín dụng thương mại hay tín dụng nhà cung cấp. Ngoài tín dụng thương mại còn
gồm cả khoản đặt cọc trước của khách hàng.
Đây là một hình thức tín dụng ngắn hạn quan trọng (thường phải thanh toán trong
vòng 30-90 ngày) đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp đang
trong thời kỳ tăng trưởng.
Tín dụng thuê mua
Trong cơ chế thị trường hình thức này được thực hiện giữa một doanh nghiệp có cầu
sử dụng máy móc, thiết bị với một doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua diễn ra khá
phổ biến. Hình thức này có ưu điểm rất cơ bản là giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn đúng
mục đích, khi nào doanh nghiệp có cầu về sử dụng máy móc, thiết bị cụ thể mới đặt vấn đề
thuê mua. Doanh nghiệp không chỉ được nhận máy móc thiết bị mà còn được nhận tư vấn đào
tạo. Tuy nhiên cũng có những hạn chế như: chi phí kinh doanh cho việc sử dụng máy móc
thiết bị cao và hợp đồng tương đối phức tạp.
Vốn liên doanh, liên kết
Với phương thức này doanh nghiệp liên doanh, liên kết với một hoặc một số doanh
nghiệp khác nhằm tạo vốn cho hoạt động liên doanh nào đó.
- Ưu điểm: với hình thức này doanh nghiệp sẽ có một lượng vốn cần thiết cho một
hoặc một số hoạt động nào đó mà không tăng nợ.
- Nhược điểm: các bên liên doanh cùng tham gia liên doanh và cùng chia sẽ lợi nhuận
thu được.
Nguồn vốn ODA
Đối tác mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm và nhận được nguồn vốn này là các chương
trình hợp tác của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế khác. Hình
thức cấp vốn ODA có thể là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện
ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán. Hình thức này có chi phí kinh doanh thấp (sử
dụng vốn). Tuy nhiên để nhận được nguồn vốn này các doanh nghiệp phải chấp nhận thủ
tục chặt chẽ. Đồng thời doanh nghiệp phải có điều kiện làm việc với các cơ quan Chính
phủ và chuyên gia nước ngoài.
Nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp FDI
Với phương thức này doanh nghiệp không chỉ nhận được vốn mà còn nhận được cả
kỹ thuật - công nghệ cũng như phương thức quản trị tiên tiến và cũng được chia sẻ thị
trường xuất khẩu. Tuy nhiên huy động vốn theo hình thức này phải chịu sự kiểm soát điều
hành của doanh nghiệp (tổ chức kinh tế) nước ngoài phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn.
Cung ứng vốn từ sự kết hợp công và tư trong xây dựng cơ bản
Phương thức này rất có ý nghĩa với các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng, song
cũng đòi hỏi doanh nghiệp phải có những điều kiện nhất định.
Như vậy, tuỳ mục đích nghiên cứu, đặc thù của doanh nghiệp mà lựa chọn cách phân
loại, cũng như kết cấu thích hợp.
II. Hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp
1. Khái niệm chung về hiệu quả - hiệu quả sử dụng vốn
Mặc dù có rất nhiều các quan điểm khác nhau về vấn đề hiệu quả song có thể khẳng
định trong nền kinh tế thị trường hiệu qủa là công cụ để đạt được mục tiêu của doanh
nghiệp. Mọi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh đều có mục tiêu bao trùm lâu dài
là tối đa hoá lợi nhuận.
Hiệu quả là một phạm trù được sử dụng rất rộng rãi trong cả các lĩnh vực kinh tế xã
hội và kỹ thuật. Song ở đây chúng ta chỉ xem xét hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất
kinh doanh (hiệu quả kinh doanh ). Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ lợi
dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị, máy móc, nguyên nhiên vật liệu và tiền vốn ) để đạt
mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể
đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét với mỗi sự hao phí nguồn lực xác
định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào. Vì vậy có thể mô tả bằng công thức:
+ Hiệu quả kinh doanh : H =K/C
Trong đó : K: là kết quả đạt được
C: hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả.
Như vậy, Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh mặt chất lượng của hoạt
động sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong
quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trong sự vận động không ngừng của các quá
trình sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào qui mô, tốc độ biến động của từng
nhân tố. – [8]
Hiệu quả kinh doanh cũng là một phạm trù phức tạp, và khó xác định tính toán bởi cả
phạm trù kết quả và hao phí nguồn lực gắn với một thời kỳ cụ thể đều khó xác định một
cách chính xác.
Từ các vấn đề trên suy ra : ‘Hiệu quả sử dụng vốn là một bộ phận của hiệu quả
kinh doanh, nó phản ánh trình độ lợi dụng nguồn vốn của doanh nghiệp nhằm mục
tiêu xác định. Hiệu quả sử dụng vốn ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn phản ánh mối quan hệ so sánh giữa kết quả thu
được với số vốn bình quân đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp trong một thời kỳ nhất định ‘.[11]
Và hai loại chỉ tiêu trên được xem xét với yếu tố đầu vào là vốn cố định và vốn lưu
động.
2. Bản chất hiệu quả sử dụng vốn
Để hiểu rõ bản chất của hiệu qủa kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói
riêng, cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù kết quả và hiệu quả sử dụng vốn.
Kết quả sử dụng vốn bao giờ cũng là mục tiêu mà doanh nghiệp hướng tới, có thể biểu
hiện bằng đơn vị hiện vật cụ thể như m, lít, kg,…hay đơn vị giá trị như triệu đồng, ngoại
tệ,… Kết quả sử dụng vốn cũng có thể phản ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất
kinh doanh hoàn toàn định tính của doanh nghiệp như uy tín, danh tiếng, chất lượng sản
phẩm…Nhưng không chỉ có kết quả định tính mà kết quả định lượng của một thời kỳ kinh
doanh nào đó thường là rất khó xác định bởi nhiều lý do như kết quả không chỉ là sản
phẩm hoàn chỉnh mà còn là sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,....Hơn nữa, hầu như quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lại tách rời quá trình tiêu thụ nên ngay cả sản
phẩm sản xuất xong ở một thời kỳ nào đó cũng chưa thể khẳng định được liệu sản phẩm đó
có tiêu thụ được không và bao giờ thì tiêu thụ và thu được tiền về …nên nó cũng lại tách
rời quá trình tiêu thụ.
Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn
lực vốn. Trình độ lợi dụng nguồn lực vốn không thể đo bằng các đơn vị hiện vật hay giá trị
mà là một phạm trù tương đối, chỉ có thể được phản ánh bằng số tương đối: tỷ số giữa kết
quả và hao phí nguồn lực vốn tạo ra kết quả đó. Cũng cần tránh nhầm lẫn giữa phạm trù
hiệu quả với phạm trù mô tả sự chênh lệch giữa kết quả và vốn. Chênh lệch giữa kết quả
và vốn luôn là số tuyệt đối, phạm trù này phản ánh mức độ đạt được của vốn nên cũng
mang bản chất kết quả của việc sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh và không
bao giờ phản ánh trình độ lợi dụng nguồn lực vốn. Nếu kết quả là mục tiêu của quá trình
sản xuất kinh doanh thì hiệu quả sử dụng vốn là phương tiện để doanh nghiệp có thể đạt
được mục tiêu đó.
Mặt khác, hao phí nguồn lực vốn của một thời kỳ trước hết là hao phí về mặt hiện vật,
cũng có thể được xác định bằng đơn vị hiện vật hay đơn vị giá trị. Tuy nhiên, thông
thường người ta hay xác định bằng đơn vị giá trị vì nó mang tính so sánh cao hơn. Việc
xác định hao phí nguồn lực trong một thời kỳ là một vấn đề không đơn giản, không đơn
giản ngay ở sự nhận thức về vấn đề này: Hao phí nguồn lực vốn này được đánh giá thông
qua phạm trù chi phí kế toán hay chi phí sản xuất kinh doanh ? Chỉ có phạm trù chi phí sản
xuất kinh doanh mới phản ảnh tương đối đầy đủ chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã bỏ ra.
Nhưng việc có tính toán được chi phí kinh doanh trong từng thời kỳ kinh doanh ngắn hay
không cũng như có tính toán được chi phí kinh doanh tới từng bộ phận hay không còn phụ
thuộc vào trình độ phát triển của khoa học quản trị chi phí kinh doanh .
Cũng cần chú ý rằng hiệu quả sử dụng vốn phản ánh trình độ lợi dụng nguồn lực vốn trong
một thời kỳ kinh doanh nào đó cũng hoàn toàn khác với việc so sánh sự tăng lên của kết quả với
sự tăng lên của sự tham gia các yếu tố đầu vào.
Vậy, bản chất của phạm trù kết quả và hiệu quả sử dụng vốn là hoàn toàn khác nhau.
Kết quả là mục tiêu còn hiệu quả sử dụng vốn là phuơng tiện để doanh nghiệp đạt mục tiêu
đó trong một thời kỳ nhất định.
3. Mục đích Phân tích hiệu quả sử dụng vốn
Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhằm mục đích thông tin giúp các
nhà quản trị doanh nghiệp có các quyết định đúng đắn, kịp thời.
- Xác lập được một cơ cấu vốn hợp lý
- Giúp cho các nhà quản trị đánh giá được tình hình thực tế về vấn đề sử dụng vốn.
- Từ đó tìm ra những mặt yếu kém, chưa có hiệu quả cụ thể đến từng bộ phận và xem xét,
phát hiện ra những nguyên nhân để tìm ra những biện pháp khắc phục.
Tuy nhiên để công việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn là đúng, xác thực và phát huy
được những mục đích trên thì cần quán triệt một số nhiệm vụ sau:
- Thông tin thu thập để phân tích được lấy từ nguồn như báo cáo về tình hình sử dụng
vốn của doanh nghiệp khác đặc biệt cùng ngành, tài liệu thống kê các vấn đề có liên quan
của ngành.
- Xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá thích hợp.
- Sử dụng các phương pháp đánh giá kết hợp với các chỉ tiêu đã xây dựng.
- Lựa chọn tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả thích hợp
- Cung cấp thông tin đánh giá đến cán bộ quản trị doanh nghiệp .
4. Các chỉ tiêu đánh giá và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
4.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói chung
Hệ số doanh lợi của tổng vốn = (lợi nhuận thuần + lãi trả vốn vay)/tổng tài sản
- ý nghĩa: hệ số doanh lợi của vốn cho biết cứ đầu tư một đồng vốn vào sản xuất kinh
doanh thì doanh nghiệp sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần (gồm cả lãi trả vốn
vay). Chỉ tiêu này càng cao thì có thể khẳng định hiệu quả sử dụng tổng vốn của doanh nghiệp
càng cao. Nhưng, nếu lãi trả vốn vay là quá lớn thì cũng cần xem xét lại bởi thực chất, lãi trả
vốn vay cũng là chi phí kinh doanh.
Số vòng quay của toàn bộ vốn kinh doanh = doanh thu/ tổng tài sản
- ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết, tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp quay được
bao nhiêu vòng trong kỳ sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ vốn càng
quay được nhiều vòng trong kỳ và hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
4.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ thường sử dụng là:
Sức sản xuất của VCĐ = Doanh thu thuần/VCĐ bình quân
- ý nghĩa: Sức sản xuất của VCĐ cho biết, cứ một đồng VCĐ đầu tư vào sản xuất
kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng cao chứng
tỏ sức sản xuất của VCĐ càng cao và hiệu quả sử dụng VCĐ càng cao.
Hệ số đảm nhiệm của VCĐ = VCĐ bình quân/Doanh thu thuần
- ý nghĩa: Hệ số đảm nhiệm cho biết, để tạo ra được một đồng doanh thu thuần thì
doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng VCĐ để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu
này càng thấp chứng tỏ doanh nghiệp càng tiết kiệm được VCĐ và hiệu quả sử dụng VCĐ
càng cao.
Hiệu suất sử dụng VCĐ = Lợi nhuận thuần/VCĐ bình quân
- ý nghĩa: Hiệu suất sử dụng VCĐ cho biết cứ đầu tư một đồng VCĐ vào sản xuất
kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ
hiệu quả sử dụng VCĐ càng cao.
Suất hao phí của VCĐ = VCĐ bình quân/lợi nhuận thuần
- ý nghĩa: Suất hao phí cho biết, để tạo ra được một đồng lợi nhuận thuần thì
doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này càng
cao chứng tỏ doanh nghiệp càng tiết kiệm được VCĐ nên hiệu quả sử dụng VCĐ càng
cao.
4.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ thường được sử dụng là:
Số vòng quay của VLĐ = doanh thu thuần/VLĐ bình quân
- ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết, VLĐ của doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng
trong kỳ sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ VLĐ trong kỳ càng quay
vòng nhanh nên hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao.
Mức đảm nhiệm của VLĐ = VLĐ bình quân / doanh thu thuần
- ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết để tạo ra được một đồng doanh thu thuần, doanh
nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng VLĐ để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này
càng thấp, chứng tỏ doanh nghiệp càng tiết kiệm được VLĐ, do đó hiệu quả sử dụng VLĐ
càng cao.
Số ngày bình quân của một vòng luân chuyển VLĐ = 365/ số vòng quay của VLĐ
- ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để VLĐ quay được một vòng
quay. Chỉ tiêu này càng thấp, chứng tỏ VLĐ càng quay vòng nhanh và hiệu quả sử dụng
VLĐ càng cao.
Hiệu suất sử dụng VLĐ = lợi nhuận thuần / VLĐ bình quân
- ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết cứ đầu tư một đồng VLĐ vào sản xuất kinh doanh
thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần. Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ hiệu quả
sử dụng VLĐ càng cao.
4.4. Tiêu chuẩn hiệu quả
Từ công thức xác định hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng nói riêng,
ta có thể xác lập được một dãy các giá trị có thể có của kết quả/chi phí kinh doanh. Nếu xét
các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh cụ thể thì với mỗi chỉ tiêu cũng đều xác lập được một dãy
các giá trị có thể. Vấn đề được đặt ra là liệu mọi giá trị đó đều phản ánh có hiệu quả ở mức
độ khác nhau hay trong dãy các giá trị đó thì giá trị nào thì có hiệu quả ? Rõ ràng, trong
dãy giá trị có thể của mỗi chỉ tiêu không phải giá trị nào cũng phản ánh sự có hiệu quả.
Trường hợp doanh nghiệp bị lỗ vốn chỉ tiêu lợi nhuận/vốn âm thì rõ ràng là doanh nghiệp
kinh doanh không có hiệu quả. Còn các giá trị khác, khi nào có và khi nào không có hiệu
quả ? Chính vì vậy, phải nghiên cứu phạm trù tiêu chẩn hiệu quả.
Có thể hiểu, tiêu chuẩn hiệu quả là giới hạn, là “mốc ” xác định ranh giới có hay không có
hiệu quả. Như thế, trước hết cần xác định được tiêu chuẩn hiệu quả cho mỗi chỉ tiêu để phân biệt
“ mức ” có hay không có hiệu quả. Sẽ không có tiêu chuẩn chung cho các công thức xác định
khác nhau. Nếu theo phương pháp so sánh toàn ngành có thể lấy giá trị bình quân đạt được của
ngành làm tiêu chuẩn hiệu quả. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp chỉ đạt được hiệu quả nếu
giá trị đạt được ứng với một chỉ tiêu cụ thể xác định không thấp hơn giá trị bình quân của ngành.
5. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
5.1. Các nhân tố bên trong.
5.1.1. Lực lượng lao động.
Người ta thường nhắc đến luận điểm ngày nay khoa học công nghệ kỹ thuật công nghệ đã
trở thành lực lượng lao động trực tiếp. áp dụng kỹ thuật tiên tiến là điều kiện tiên quyết để
tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, máy móc dù có tối tân đến
đâu cũng do con người chế tạo ra. Nếu không có lao động sáng tạo của con người, sẽ không
thể có các máy móc thiết bị đó. Mặt khác máy móc thiết bị dù có hiện đại tối tân đến đâu cũng
phải phù hợp với trình độ tổ chức, trình độ kỹ thuật, trình độ sử dụng máy móc thiết bị của
người lao động.
Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp nhập tràn lan máy móc thiết bị hiện bại của
nước ngoài nhưng do trình độ sử dụng yếu kém nên không những không đem lại hiệu quả
mà còn vừa tốn kém tiền của cho hoạt động sửa chữa nên hiệu quả kinh doanh rất thấp.
Trong sản xuất kinh doanh lực lượng lao động của doanh nghiệp có thể sáng tạo ra
công nghệ, kỹ thuật mới và đưa chúng vào sử dụng tạo ra tiềm năng lớn cho việc nâng cao
hiệu quả kinh doanh. Cũng chính lực lượng lao động sáng tạo ra sản phẩm mới với kiểu
dáng phù hợp với cầu người tiêu dùng làm cho sản phẩm của doanh nghiệp có thể bán
được tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả. Lực luợng lao động tác động trực tiếp đến năng suất
lao động, đến trình độ sử dụng các nguồn lực khác nên tác động trực tiếp đến hiệu quả
kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng.
5.1.2. Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật
Cơ sở vật chất kỹ thuật là nền tảng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trong
quá trình sử dụng nó sẽ bị hao mòn (cả hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình). Do vậy,
doanh nghiệp phải luôn luôn quan tâm để sửa chữa, nâng cấp đổi mớivì nó có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến năng suất lao động. Năng suất lao động tăng, làm giảm chi phí, hạ giá thành
sản phẩm, tăng chất lượng….và sẽ làm tăng hiệu quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn
5.1.3. Nhân tố quản trị.
Nhà quản trị là kim chỉ nam cho mọi hoạt động trong doanh nghiệp vai trò của nhà
quản trị trong kinh doanh hiện đại ngày nay càng được coi trọng. Sự thành bại của doanh
nghiệp phụ thuộc rất lớn vào trình độ quản trị. Các quyết định của nhà quản trị doanh
nghiệp về các hoạt động đầu tư sẽ liên quan đến toàn bộ quá trình sản xuất của hoạt động
đầu tư đó. Nếu quyết định đầu tư đúng thì mới có cơ sở nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Mặt khác, những quyết định đúng về cầu, lựa chọn nhà cung ứng thích hợp, linh hoạt trong
điều chỉnh chiến luợc sản xuất, sử dụng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và
khéo léo trong thu hồi vồn… cũng sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng vốn.
5.1.4. Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin.
Trong kinh doanh hiện đại, thông tin có một vai trò hết sức quan trọng, nó chính là
phương tiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. cũng như chiến thắng trong cạnh tranh.
Các thông tin đó bao gồm các thông tin về thị trường với cầu về sản phẩm, giá cả, đối thủ
cạnh tranh và nhà cung ứng,...; về chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước, về điều kiện tự
nhiên ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những thông tin
đúng đắn, đầy đủ, kịp thời là cơ sở vững chắc để doanh nghiệp xác định và điều chỉnh
chiến lược kinh doanh sao cho phù hợp, đảm bảo tính chất “động và tấn công” nhằm đáp
ứng tốt cầu thị trường, chiến thắng đối thủ cạnh tranh, tăng thị phần và nâng cao vị thế, uy
tín của doanh nghiệp. Từ đó, tăng doanh thu, lợi nhuận, tăng số vòng quay của vốn,... tạo
điều kiện đổi mới công nghệ, khuyến khích người lao động tích cực làm việc, tăng năng
suất...Đây chính là tiền đề nâng hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn
nói riêng.
5.1.5. Nhân tố tính toán kinh tế.
Hiệu quả sử dụng vốn được xác định bằng tỷ số giữa kết quả đạt được và hao phí nguồn
lực vốn để đạt được kết quả đó. Mà các đại lượng kết quả và chi phí trong mỗi thời kỳ đều
rất khó xác định. Hiệu quả sử dụng vốn ở đây phải gắn với chi phí kinh doanh mới có thể
phản ánh chính xác và có ý nghĩa đích thực nhưng để làm được điều này thì doanh nghiệp
phải triển khai tính chi phí kinh doanh.
5.2. Các nhân tố bên ngoài.
5.2.1. Môi trường pháp lý.
Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật, …Mọi quy định về pháp luật
kinh doanh đều tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Vì môi trường pháp lý tạo ra “sân chơi” để các doanh nghiệp cùng tham gia hoạt động
kinh doanh, vừa cạnh tranh lại vừa hợp tác với nhau tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh
là rất quan trọng. Nó có thể tác động tích cực hay tiêu cực đến doanh nghiệp. Nhưng doanh
nghiệp không có quyền thay đổi nó, do đó nếu tác động tích cực đến doanh nghiệp thì đó
là một thuận lợi và doanh nghiệp phải nắm bắt. Ngược lại, doanh nghiệp phải tự điều chỉnh
để hạn chế, khắc phục khó khăn nhằm đạt hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn.
5.2.2. Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế là môi truờng bên ngoài tác động rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn,
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trước hết phải kể đến chính sách đầu tư, chính
sách phát triển, …mang tầm vĩ mô của Nhà nước. Nó có thể thúc đấy hoặc kìm hãm sự
phát triển của từng ngành, vùng cụ thể và do đó tác động đến hiệu quả kinh doanh, hiệu
quả sử dụng vốn.
5.2.3. Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng.
Doanh nghiệp ở khu có cơ sở hạ tầng (ví dụ giao thông thuận tiện, mạng lưới thông
tin, điện nước,…) tốt thì sẽ tạo thuận lưọi cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh , tăng tốc
độ tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, giảm chi phí góp phần tăng hiệu quả kinh doanh,
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
phần II
Thực trạng vốn và công tác quản lý sử dụng vốn tại công ty cổ phần xây dựng công
trình thăng long 9
I. Giới thiệu tổng quan về công ty:
Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 – Là đơn vị thi công xây
dựng với chuyên ngành xây dựng cơ bản. Là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân đầy đủ.
1. Tên công ty: Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9
Tên giao dịch: 9 Thăng Long construction joint stock company
Tên viết tắt: T.L., JSC.
2. Địa chỉ trụ sở chính: Phòng 406 Toà nhà CT4A2 – Khu đô thị Bắc Linh Đàm,
Phường Đại Kim, Quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội.
- Điện thoại: 04.6413920 Fax: 04.6413973
- Email: Tlong@vol.vnn.vn/tl9jsc@yahoo.com
Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 thành lập ngày 17 tháng 07
năm 2001. Được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần, hoạt động kinh doanh trên cơ
sở góp vốn của các cổ đông, theo nguyên tắc hợp tác cùng có lợi. Là đơn vị mới ra đời,
tiềm năng, năng lực hoạt động còn hạn chế, hạch toán tài chính một cách độc lập, chịu
hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về kết quả kinh doanh của công ty mình theo các
điều khoản của hình thức công ty cổ phần.
3. Ngành nghề kinh doanh:.
- Xây dựng dân dụng, công nghiệp, giao thông thuỷ lợi.
- Sản xuất, buôn bán vật liệu xây dựng.
- Buôn bán máy móc, linh kiện, thiết bị điện tử, viễn thông, tin học.
- Sản xuất, thiết kế cài đặt phần mềm tin học.
- Đại lý bán lẻ xăng dầu, khí đốt, gas hoá lỏng.
- Vận chuyển hành khách và hàng hóa.
- Kinh doanh bất động sản.
- Kinh doanh nhà hàng, khách sạn.
- Đại lý mua, đại lý bán, ký gửi hàng hoá.
- Đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp, khu Đô thị mới, bao
gồm cả đường giao thông, cầu, phà, các công trình điện nước.
- Kinh doanh phát triển nhà.
- Đầu tư và xây dựng nhà máy thuỷ điện, kinh doanh điện.
- Đầu tư khai thác khoáng sản và kinh doanh khoáng sản.
( Doanh nghiệp chỉ kinh doanh khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật)
4. Người đại diện theo pháp luật của công ty:
Chức danh : Giám đốc
Họ và tên: Lê Thống Nhất
Giới tính: ( Nam)
Sinh ngày: 18/07/1976 Dân tộc: Kinh
Quốc tịch: Việt Nam,
Chứng minh nhân dân số: 090698108
Ngày cấp: 24/04/1994 Nơi cấp: Công an tỉnh Bắc Thái
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 17, phường Hương Sơn, thành phố Thái Nguyên,
tỉnh Thái Nguyên.
Chỗ ở hiện tại: xóm Đền, thôn Kim Lũ, xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
5. Chức năng, nhiệm vụ của công ty:
Là một doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng cơ bản nên toàn bộ hoạt động sản xuất
kinh doanh, hoạt động tài chính của Công ty đều được tổ chức phù hợp với quy trình công
nghệ xây dựng rất phức tạp. Các sản phẩm xây dựng của Công ty thường là các công trình hay
hạng mục công trình có giá trị lớn, có tính đơn chiếc, được xây dựng cố định. Phương thức hoạt
động chủ yếu của Công ty là hình thức đấu thầu công trình, vì vậy kế hoạch tài chính, kế hoạch
sản xuất đều được xây dựng trên cơ sở các hợp đồng trúng thầu
- Là công ty xây lắp do vậy những sản phẩm chủ yếu của Công ty là các công trình
dân dụng và quốc phòng. Trong lúc đó đầu tư xây dựng ngày càng giảm. Vì vậy, việc tìm
kiếm việc làm của công ty gặp nhiều khó khăn.
- Công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản năm 2001 Nhà nước và Bộ xây dựng có các văn
bản quy định chỉ thị chặt chẽ từ đấu thầu, chất lượng, thanh quyết toán công trình. Đặc biệt yêu
cầu về chất lượng giá thành công trình hết sức nghiêm ngặt.
- Vốn sản xuất kinh doanh của Công ty còn hạn chế kể cả con người và trang thiết
bị.
6. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất của công ty:
Như chúng ta đã biết sản phẩm xây dựng là những công trình, nhà cửa, xây dựng và sử
dụng tại chỗ, sản phẩm mang tính đơn chiếc, có kích thước và chi phí lớn, thời gian xây
dựng lâu dài. Xuất phát từ đặc điểm đó nên quá trình sản xuất các loại sản phẩm chủ yếu của
Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 nói riêng và các công ty xây dựng nói
chung là sản xuất liên tục, phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau( điểm dừng kỹ thuật)
mỗi công trình đều có một dự toán, thiết kế riêng và phân bổ rải rác ở các địa điểm khác
nhau. Tuy nhiên hầu hết các công trình đều phải tuân theo một quy trình công nghệ như sau:
Quy trình công nghệ sản xuất của công ty
7. Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của công ty:
.......................
Đấu
thầu
Ký hợp đồng với chủ
đầu tư
Tổ chức thi công
Nghiệm thu kỹ thuật
tiến độ thi công với
bên A
Bàn giao thanh quyết
toán với công trình
HĐQT
Giám đốc
02 Phó giám
đoc
Phòng
TCKT
Phòng KD
BĐS
Phòng
TCHC
Phòng KH-
DT
Phòng VT-XM
Công
trường A
Công
trường B
Công
trường C
8. Sơ đồ cơ cấu bộ máy kế toán của công ty:
9. Những thuận lợi, khó khăn và hướng phát triển :
Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 là một doanh nghiệp còn non trẻ đang
trên đà phát triển, tuy nhiên qua số liệu một vài năm qua cho thấy doanh thu, lợi nhuận, thu nhập
bình quân đầu người và đặc biệt là tài sản của Công ty tăng lên nhanh chóng. Công ty đã tự khẳng
định được mình và không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động. Được các nhà đầu tư đánh giá cao về
chất lượng và tiến độ của các công trình mà Công ty thi công. Đội ngũ cán bộ công nhân viên của
Công ty nhiệt tình, gắn bó với công việc, trình độ nghiệp vụ, tay nghề ngày một cao. Thu nhập của
cán bộ quản lý và nhân viên ổn định, đời sống luôn được cải thiện ngày một tốt hơn.
Nhưng bên cạnh đó Công ty còn gặp nhiều khó khăn do Công ty là một doanh
nghiệp còn non trẻ nên còn rất nhiều hạn chế trong khi tham gia đấu thầu các công trình.
Ngoài ra Công ty cần một lượng vốn rất lớn để đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị
để mở rộng phạm vi kinh doanh nên rất cần thiết được các nhà đầu tư bổ sung, góp vốn cổ
phân, các ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty vay vốn với lãi suất ưu đãi.
Nhận thức được vấn đề đó, Công ty vẫn đang từng bước khắc phục và khẳng định
vị trí của mình luôn đề ra kế hoạch, biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và
hướng phát triển trong tương lai:
- Luôn hoàn thành kế hoạch đặt ra.
- Tăng cường các khâu quản lý.
Kế toán
trưởng
Kế toán tổng
hợp
Kế
toán
vật
tư
Thủ
quỹ
Kế
toán
than
h
Kế
toán
sổ
NK
Kế
toán
TSCĐ
- Tăng cường sử dụng tối đa tài sản.
- Quản lý và sử dụng hợp lý nguồn vốn.
- Đầu tư trọng điểm các công trình có lợi nhuận cao.
- Liên doanh liên kết, hợp tác với các đơn vị khác…
II. Thực trạng vốn và công tác quản lý sử dụng vốn tại Công ty cổ phần xây dựng công
trình thăng long 9
1. Khái quát tình hình tài chính của Công ty Cổ phần Xây dựng công trình Thăng
Long 9
Bảng 1
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty
trong một số năm gần đây
TT Chỉ tiêu Đơn vị 2004 2005 2006
1 Doanh thu Triệu
đồng
13.230,65 15.290,15 28.815,92
2 Nộp thuế Triệu
đồng
37
56 139
3 Lợi nhuận Triệu
đồng
150 167 296
4 Thu nhập bình quân
/người/tháng
1000đ 750 900 1100
( Nguồn:[6] )
0
10,000
20,000
30,000
triÖu
®ång
N¨m 2004 N¨m 2005 N¨m 2006
Doanh thuDoanh thu
0
100,000
200,000
300,000
ngh×n
®ång
N¨m 2004 N¨m 2005 N¨m 2006
Lî i nhuËn
Lî i nhuËn
0
500
1000
1500
ngh×n
®ång
N¨m 2004 N¨m 2005 N¨m 2006
Thu nhËp b×nh qu©n
Thu nhËp
b×nh qu©n
Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 được thành lập dưới hình
thức công ty cổ phần nên Công ty phải tự tạo nguồn vốn kinh doanh cho mình bằng cách
tự bổ sung từ lợi nhuận hoạt động kinh doanh của Công ty, các khoản vay ngắn hạn Ngân
hàng để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh và bổ sung bằng các nguồn tài chính
bên ngoài khác.
Bằng hình thức trả chậm số những khoản nợ trong thời gian cho phép của các bạn
hàng, các nhà thầu phụ, Công ty có thể tranh thủ được nguồn vốn này để phục vụ quá trình
sản xuất kinh doanh tiếp theo đó là một cách chiếm dụng vốn của đơn vị khác mà chúng ta
có thể thấy ở bất kỳ doanh nghiệp sản xuất nào đó.
Bảng 2
Bảng nghiên cứu đánh giá biến động kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm
2005- 2006
(Đơn vị tính: triệu đồng)
( Nguồn:[6] )
Trong đó: Số tuyệt đối = năm 2006 - năm 2005
Số tương đối =[(năm 2006/năm 2005)x 100%] - 100%.
(Số liệu của hai năm lấy trong bảng kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty)
Nhìn vào bảng nghiên cứu đánh giá biến động hoạt động sản xuất kinh doanh, ta có nhận
xét sau:
Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006
So sánh
Tuyệt
đối
Tương
đối(%)
1.Doanh thu thuần 15.290,15 28.815,92 13.525,7
7
88,46
2.Giá vốn hàng bán 14.499,42 27.612,31 13.112,5
3
90,44
3.Lợi nhuận gộp 790,71 1.203,49 412,77 52,20
5.Chi phí quản lý doanh nghiệp 574,17 776,18 202 35,18
6.Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh
doanh
216,54 427,32 210,78 97,34
7.Thu nhập hoạt động tài chính 2,17 8,19 6,02 278,00
9.Lợi nhuận thuần từ hoạt động tài chính 2,17 8,19 6,02 278,00
10.Các khoản thu nhập bất thường 4,52 0,792 -3,736 -82,51
12.Lợi nhuận bất thường 4,52 0,792 -3,736 -82,51
13.Tổng lợi nhuận trước thuế 223,24 436,30 213,06 95,44
14.Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
25%
55,80 139,61 88,06 150,17
15.Lợi nhuận sau thuế 167,42 296,68 129,25 77,20
Năm 2006 so với năm 2005 doanh thu tăng gần gấp đôi doanh thu năm 2005, cụ thể tăng
tuyệt đối là 13.525,77 triệu đồng, tương đương với 88,46%. Điều này cho thấy năm 2006, Công ty
kinh doanh rất phát triển, có nhiều công trình đã đưa vào nghiệm thu và sử dụng. Do Công ty là
một công ty xây dựng nên chi phí bỏ ra ban đầu cũng tương đối lớn. Nhưng bên cạnh đó, các
khoản giảm trừ như giảm giá hàng bán, hàng bị trả lại, thuế TTĐB, thuế xuất khẩu phải nộp đều
không có nên doanh thu không thay đổi cũng chính là tổng doanh thu.
Giá vốn hàng bán: tăng 13.113,53 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 88,46%, do doanh thu tăng mà
doanh thu tăng là do năm 2006 Công ty sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Lợi nhuận gộp: tăng cụ thể là :412,77 triệu đồng so với năm 2005, tương đương
với 52,20%.
Năm 2006, Công ty có nhiều công trình hoàn thành quyết toán nên chi phí quản lý doanh
nghiệp cũng tăng lên. Công ty có nhiều khoản phải chi nên chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 202
triệu đồng, với tỷ lệ tăng là 35,18% so với năm 2005.
Năm 2006, lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên một cách đáng kể, đó
là 211 triệu đồng, với tỷ lệ tăng là 97,34% so với năm 2005. Đây là một điều đáng mừng
cho Công ty. Là một công ty xây dựng để lãi số tiền như vậy cũng là một thành công
không nhỏ.
Hơn nữa, năm 2006 Công ty có nhiều công trình quyết toán và thanh toán bằng chuyển
khoản nên năm 2006 lợi nhuận thuần từ hoạt động tài chính tăng lên 6,02 triệu đồng, với tỷ lệ
tăng là 278% so với năm 2005. Chứng tỏ một điều rằng khả năng thanh toán của Công ty Cổ phần
Xây dựng Công trình Thăng Long 9 hoàn toàn tăng lên, nhu cầu vay vốn nhờ đó cũng có phần giảm
bớt. Lợi nhuận tài chính tăng lên không những giúp cho Công ty phát triển, đứng vững trong nền
kinh tế cạnh tranh này, mà còn chứng tỏ một điều chắc chắn rằng khả năng thu hồi vốn của Công ty
là rất an toàn và có hiệu quả.
Chi phí hoạt động tài chính năm 2006 so với năm 2005 không có gì biến đổi.
Do năm 2006 Công ty có doanh thu lớn nên các khoản lợi nhuận bất thường
không tăng lên mà còn giảm từ 4,53 triệu đồng năm 2005 đến năm 2006 giảm xuống còn
0,79 triệu đồng. Tức là giảm 3,73 triệu đồng, với tỷ lệ giảm là 82,51%. Điều này hoàn toàn
dễ hiểu, do năm 2005 Công ty còn có khoản nợ phải thu khó đòi nên Công ty có thu lãi bất
thường từ các khoản mà khách hàng chưa thanh toán hết. Xong, năm 2006 dường như các
công trình, các khoản nợ của khách hàng đều được giảm một cách đáng kể.
Do tổng doanh thu tăng mà các khoản thu nhập bất thường khác giảm nên tổng lợi nhuận
trước thuế tăng, cụ thể là từ 223,23 triệu đồng đến 436,30 triệu đồng, tức là tăng 213,06 triệu đồng,
tương đương với tỷ lệ tăng là 95,44%.
Do lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh tăng, năm 2006 Công ty hoạt động sản xuất kinh
doanh đạt hiệu quả nên sau khi trừ các khoản chi phí khác Công ty đã có lợi nhuận. Điều này thể
hiện ở thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2006 tăng so với năm 2005 là 83,80 triệu đồng với tỷ
lệ tăng là 150,17%.
Tuy nhiên, xét cho cùng thì năm 2006 cũng là một thắng lợi của Công ty Cổ phần Xây
dựng Công trình Thăng Long 9 vì năm 2006, Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long
9 đã thu được lợi nhuận sau thuế tăng 129,25 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 77,20%, là một điều
đáng vui nhất của Công ty, để tạo niềm tin cho bước tiến tiếp theo của Công ty một cách vững
vàng nhất. Mà nguyên nhân của sự tăng giảm này không gì khác đó chính là sự tăng doanh thu và
giảm các khoản nợ khó đòi là hai yếu tố quyết định nên phần tăng lợi nhuận một cách rõ ràng nhất
hiện nay của Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9.
2. Thực trạng về tổ chức quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Cổ phần
Xây dựng Công trình Thăng Long 9
2.1. Thực trạng về tổ chức nguồn vốn kinh doanh
Để làm rõ được thực trạng về tổ chức nguồn vốn của Công ty ta phải biết rõ đâu là
nhân tố ảnh hưởng chủ yếu , tích cực hay tiêu cực . Để làm được điều này ta không thể
nhìn ngay vào bảng cân đối về nguồn vốn mà có thể nhận xét chính xác được . Nguồn vốn
qua các năm đều có thể biến đổi nhiều hay ít phụ thuộc vào sự quản lý và quá trình sản xuất kinh
doanh của Công ty . Để nhận xét được sự biến động của nguồn vốn ta có thể lấy số liệu hai năm
gần đây nhất là năm 2005 và 2006. Từ bảng cân đối kế toán của năm 2005 và 2006 ta lập bảng
nghiên cứu đánh giá biến động về nguồn vốn kinh doanh.
Bảng 3
Bảng Nghiên cứu đánh giá biến động nguồn vốn kinh doanh
Năm 2005-2006
(Đơn vị tính :Triệu đồng)
STT Nguồn vốn 2005 2006 So sánh
Tuyệt đối
Tương
đối(%)
(1) (2) (3) (4) (5) (6)
A Nợ phải trả 6.766,22 12.112 5.345,72 79,01
I. Nợ ngắn hạn 6.355,41 11.701,1
3
5.345,71 84,11
1. Vay ngắn hạn 1.047 700 -346,90 -33,14
2. Nợ dài hạn đến hạn trả - - - -
3. Phải trả người bán 2.017,83 4.386,18 2.368,34 117,37
4. Người mua trả tiền trước 2.972,75 6.278,41 3.305,65 111,20
5. Thuế và các khoản phải nộp Nhà
nước
76,51 110,31 33,80 44,18
6. Phải trả công nhân viên - - - -
7. Phải trả các đơn vị nội bộ 19,55 - -19,55 -100
8. Các khoản phải trả phải nộp khác 221,86 226,21 4,35 1,96
II. Nợ dài hạn 410,81 410,81 0 0
1. Vay dài hạn 410,81 410,81 0 0
2. Nợ dài hạn - - - -
B. Nguồn vốn chủ sở hữu 2.406 2.555,62 149,62 6,22
I. Nguồn vốn, quỹ 2.345,86 2.455,61 109,74 4,68
1. Nguồn vốn kinh doanh 2.149,50 2.177,47 27,96 1,30
2. Chênh lệch đánh giá lại tài sản - - -
-
3. Chênh lệch tỷ giá - - - -
4. Quỹ đầu tư phát triển 75,60 137,44 61,84 81,8
5. Quỹ dự phòng tài chính 47,10 67,03 19,93 42,33
6. Lợi nhuận chưa phân phối - - - -
7. Nguồn vốn đầu tư XDCB 73,65 73,65 0 0
II. Nguồn kinh phí, quỹ khác 60,14 100,01 39,87 66,30
1. Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc - 13,52 13,52 100
làm
2. Quỹ khen thưởng và phúc lợi 56,58 86,49 29,90 52,85
Tổng nguồn vốn
9.172,22
14.667,5
6
5.495,33 59,91
( Nguồn:[6] )
Để có được số liệu trong bảng ta cần phải tính như sau:
Cột (3) : Số đầu năm 2005 + Số đầu năm 2005
2
Cột (4) : Số đầu năm 2006+Số đầu năm 2006
2
(Trong đó : số đầu năm , số cuối năm lấy trong bảng cân đối kế toán của hai năm
2005 và 2006).
Cột (5) : Số tuyệt đối = cột (4) - cột (3)
Cột (6) : Số tương đối = [cột (4)/ cột (3) x 100%] -100%
Biểu đồ thể hiện tình hình biến động Nơ Phải trả
2005-2006
0
2,000
4,000
6,000
8,000
10,000
12,000
TriÖu ®ång
N¨m 2005 N¨m 2006Nî ng¾n h¹n
Nî dµi h¹n
Biểu đồ thể hiện tình hình biến động Vốn chủ sở hữu
2005-2006.
0
500
1,000
1,500
2,000
2,500
N¨m 2005 N¨m 2006
Nguån vèn, quü
Nguån kinh phÝ, quü
kh¸
Từ bảng nghiên cứu đánh giá biến động về nguồn vốn , ta có thể thấy ngay sự biến
động về nguồn vốn qua hai năm 2005 và 2006 như sau:
Nhìn về dòng tổng cộng ta thấy có biến động tăng 5.495,33 triệu đồng với tỷ lệ tăng
59,91% vì thế mà ta có thể nhận xết là nguồn vốn tăng. Tuy nhiên kết cấu nguồn vốn còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố cấu thành khác và sự thay đổi của các yếu tố cấu thành đó , từ đó ta mới
có thể tìm ra nhân tố ảnh hưởng chủ yếu hay thứ yếu đến nguồn vốn . Điều này do hai nhân tố:
A. Nợ phải trả năm 2006 so với năm 2005 tăng 5.345,71 triệu đồng với tỷ lệ tăng
79,01% là nguyên nhân chủ yếu. Bởi tỷ lệ tăng này cho thấy việc đi chiếm dụng của Công
ty năm 2005 so với năm 2006 tăng lên, nguyên nhân là do nợ ngắn hạn t ăng lên.
I. Nợ ngắn hạn: tăng 5.345,71 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 84,11%.
1. Vay ngắn hạn : Việc vay ngắn hạn của Công ty đã giảm xuống là 346,90 triệu
đồng với tỷ lệ giảm là 33,14%. Do người mua trả tiền trước cũng tăng so với năm trước
nên Công ty có vốn để luân chuyển liên hồi trong doanh nghiệp. Điều này chứng tỏ rằng
Công ty sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả, sản xuất của Công ty đạt tiêu chuẩn và
Công ty đang trên đà phát triển, từ đó làm cho vay ngắn hạn của Công ty giảm.
2.Nợ dài hạn đến hạn trả : Năm 2006 Công ty đã giải quyết được vấn đề nợ dài hạn
đến hạn trả không có, cho thấy Công ty kinh doanh có hiệu quả, không rơi vào tình trạng đi
vay mà không trả được. Như vậy có thể nói rằng, Công ty có nợ phải trả tăng lên không có
nghĩa là Công ty rơi vào tình trạng nợ trồng lên nợ , mà ở đây là do sản xuất kinh doanh công
trình nhiều nên cần có một lượng vốn lớn.
3. Phải trả người bán : Việc giảm vốn vay ngắn hạn thì tăng nợ phải trả người bán
là một điều tất yếu. Bởi Công ty là một công ty xây dựng nên yêu cầu về nguyên vật liệu là
rất lớn. Chính vì vậy, tăng 117,37% phải trả người bán là một điều chứng tỏ Công ty đang
có chiều đi lên và uy tín của Công ty cũng đạt hiệu quả. Việc đầu tư mua nguyên vật liệu
cho công trình cũng một phần làm cho nợ phải trả tăng lên.
4. Người mua trả tiền trước: tăng lên cụ thể là 3.305,65 triệu đồng với tỷ là 111,20%
là nguyên nhân chủ yếu. Điều này là một tất yếu của công ty xây dựng vì nhiều khi công trình
làm trước và cần nhiều khoản phải chi như : mua vật tư, nhiên liệu nên Công ty đã ứng trước
tiền từ người mua tức là bên chủ công trình.
5. Thuế và các khoản phải nộp cho Nhà nước : Sau khi quyết toán các khoản nợ
của khách hàng đã được giải quyết dẫn đến việc trả nợ đúng thời hạn, không để đến hạn trả
một cách có hiệu quả, nên thuế và các khoản phải nộp cho Nhà nước tăng 33,80 triệu đồng
với tỷ lệ tăng 44,18%. Điều này cho thấy, năm 2006 Công ty hoạt động kinh doanh phát
triển có doanh thu, đã có công trình bàn giao nên đã nộp cho Ngân sách Nhà nước.
6. Năm 2006 Công ty hoạt động kinh doanh phát triển có doanh thu, đã có công
trình bàn giao nên đã nộp cho ngân sách Nhà nước, tức là đã thanh toán hết tiền lương
phải trả cho công nhân viên, đã không còn nợ công nhân viên nữa.
7. Phải trả các đơn vị nội bộ : Do số lượng công trình lớn lại có doanh thu nên
việc giảm các khoản như : Phải trả các đơn vị nội bộ giảm 19,55 triệu đồng với tỷ lệ giảm
là 100%. Điều này chứng tỏ khả năng thanh toán của Công ty là rất tốt và hoạt động sản
xuất kinh doanh của Công ty là rất hiệu quả.
8. Các khoản phải trả, phải nộp khác : Ta thấy các khoản phải trả, phải nộp khác tăng
4,35 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 1,96%. Tuy tăng không đáng kể nhưng có thể nói rằng, do sự
thay đổi cơ cấu kinh doanh, do có nhiều công trình, do nguồn vay phải trả giảm xuống nên việc
phải nộp khác tăng lên là điều dĩ nhiên. Vì năm 2006 Công ty có doanh thu, có thể do công trình
làm ở địa phương nên phải nộp thuế 1% thì điều này cũng chứng tỏ rằng Công ty Cổ phần Xây
dựng Công trình Thăng Long 9 kinh doanh ngày một phát triển. Đối với các công ty xây dựng
khi có các công trình thì đương nhiên các khoản phải trả, phải nộp khác tăng lên là điều tất yếu.
Vì đây là khoản mà Công ty có thể chiếm dụng vốn, Công ty không phải trả ngay. Đây là khoản
vốn chiếm dụng tạm thời, không lâu dài nên lượng vốn này phải sử dụng cho phù hợp và có
hiệu quả. Nhưng nếu sử dụng không có hiệu quả, làm thất thoát vốn thì không những không trả
được nợ mà còn khi tăng khoản này thêm thì cũng có thể là điều bất lợi cho Công ty.
II. Nhìn vào bảng số liệu ta thấy : Nợ dài hạn và vay dài hạn đã được giải quyết
xong, tức là năm 2006 Công ty kinh doanh rất có hiệu quả. Đã quyết toán xong nợ và vay,
không rơi vào tình trạng đi vay mà không trả được.
III. Nợ khác : Do Công ty hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, không hao phí, làm
lãng phí những nguyên vật liệu để bù đắp cho công trình nên chi phí phải trả không có biến
động gì. Cũng như năm 2005 đến năm 2006 chi phí Công ty không có gì biến động. Do
năm 2006 tài sản cố định của Công ty được tăng lên cũng như công trình của Công ty ngày
một lớn nên tài sản thừa chờ xử lý và nhận ký quỹ, ký cược dài hạn không có gì thay đổi.
B. Trong bảng nghiên cứu đánh giá biến động về nguồn vốn hai năm 2005 và 2006
còn cho ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên 149,62 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 6,22%
là nguyên nhân thứ yếu. Nguyên nhân của sự tăng này là do công trình chưa thi công xong
toàn bộ, lợi nhuận thu về còn ít nên quỹ của Công ty cũng chỉ mới tăng được như vậy.
I. Nguồn vốn, quỹ: nhờ vào đó cũng tăng được 109,75 triệu đồng với tỷ lệ tăng là
4,68% so với năm 2005. Tuy tăng ít nhưng điều này còn có lợi cho sản xuất kinh doanh rất
nhiều.
1. Nguồn vốn kinh doanh : Mặc dù xây dựng các công trình còn đang dở dang chưa có
doanh thu lớn nhưng cũng đã giúp cho Nguồn vốn kinh doanh tăng lên một cách có triển vọng
là 27,96 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 1,3% so với năm 2005.
2. Chênh lệch đơn giá lại tài sản: ở Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng
Long 9 tài sản cố định chủ yếu đầu tư vào năm 2006, chính vì vậy tài sản cố định không
được thanh lý và chuyển nhượng. Điều này dẫn đến chênh lệch đánh giá lại tài sản không
có gì biến đổi.
3. Chênh lệch tỷ giá : Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 là một
công ty có vốn đầu tư 100% vốn Việt nam. Việc luân chuyển vốn chủ yếu bằng tiền mặt và
chuyển khoản nên chênh lệch tỷ giá cũng không có gì thay đổi.
4. Quỹ ĐTPT : Qũy ĐTPT cũng đã tăng lên rất nhiều 61,84 triệu đồng với tỷ lệ tăng là
81,8% là điều cần nói ở một công ty xây dựng vì như vậy có nghĩa là Công ty đã trực tiếp phát
triển vùng nguyên liệu, đầu tư mở rộng qui mô hoạt động kinh doanh và đổi mới công nghệ,
trang thiết bị, điều kiện làm việc của Công ty.
5. Quỹ DPTC : đã tăng lên 19,93 triệu đồng hay với tỷ lệ 42,33% so với năm 2006
là vấn đề cũng đáng phải quan tâm vì Công ty có thể dùng quỹ này bù đắp phần còn lại
của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình kinh doanh sau khi đã được
bồi thường của các tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất và của tổ chức bảo hiểm.
6. Lợi nhuận chưa phân phối : lợi nhuận chưa phân phối không có. Điều này
không có nghĩa là Công ty kinh doanh không có hiệu quả mà do công trình chưa làm xong,
sản xuất kinh doanh chưa có doanh thu.
7. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản : năm 2006 có vẻ như ổn định hơn, không
có gì biến động cả.
II. Nguồn kinh phí, quỹ khác: Công ty tập trung vào hoàn thiện các công trình để
nguồn kinh phí và quỹ khác tăng lên 39,87 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 66,30% là một việc làm
mà ban quản lý Công ty đạt được_ điều rất đáng khen, bởi nếu kinh phí tăng lên thì nhu cầu việc
làm của công nhân viên đựơc bảo đảm hơn.
1. Kinh phí để trợ cấp việc làm : Kinh phí để trợ cấp việc làm việc làm tăng 13,52
triệu đồng với tỷ lệ tăng 100% đảm bảo cho công nhân viên yên tâm làm việc trong thời gian
công việc không có, hoặc Công ty không đảm bảo việc làm cho Công ty thì vẫn có trợ cấp mất
việc làm cho công nhân viên nghỉ. Điều này khuyến khích công nhân viên vào làm việc ở
Công ty một cách tự tin và quyết tâm hơn.
2.Quĩ khen thưởng và phúc lợi năm 2006 tăng 29,90 triệu đồng với tỷ lệ tăng 52,85%
so với năm 2005. Quỹ này tăng lên do doanh thu năm 2006 tăng lên có thuân lợi cho công
việc . Quỹ khen thưởng nhằm khuyến khích cán bộ công nhân viên làm việc năng suất và có
hiệu quả vào hoạt động kinh doanh của Công ty.
Như vậy, sự thay đổi nhân viên có ảnh hưởng rất lớn đến quản lý và sử dụng vốn,
đồng thời sự thay đổi đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quản lý và sử dụng vốn, đồng thời sự thay
đổi đó sẽ ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của Công ty. Nguồn vốn tăng lên thì kết quả
sản xuất kinh doanh tăng lên, chứng tỏ một điều chắc chắn rằng Công ty kinh doanh có
thuận lợi, đạt chất lượng và hệ số công việc được nâng lên một cách có hiệu quả nhất.
2.2. Thực trạng về quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Cổ phần Xây dựng
Công trình Thăng Long 9.
2.2.1. Cơ cấu vốn của Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9.
Bảng 4
Tình hình cơ cấu vốn của Công ty
2005-2006
(đơn vị tính: Triệu đồng)
Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006
Vốn cố định 1.595,98 1.477,76
Vốn lưu động 6.708,30 12.321,86
( Nguồn:[6] )
Biểu đồ thể hiện cơ cấu vốn của Công ty
2005-2006
0
2,000
4,000
6,000
8,000
10,000
12,000
14,000
TriÖu ®ång
N¨m 2005 N¨m 2006Vèn cè ®Þnh
Vèn l u ®éng
Nhìn vào biểu đồ ta thấy: Cơ cấu vốn của Công ty có sự chênh lệch giữa vốn cố
định và vốn lưu động. Điều này cũng là hợp lý. Vốn của Công ty thay đổi theo chiều
hướng tăng vốn lưu động và giảm vốn cố đinh qua 2 năm 2005, 2006
Trong đó:
- Vốn cố định năm 2006 giảm – 118,22 triệu đồng tương đương với – 7,4% so với
năm 2005. Điều này chứng tỏ trong năm 2006 Công ty đã bán, thanh lý bớt một số tài sản
cố định không dùng đến. Tuy nhiên, Công ty bán bớt tài sản cố định mà không mua bổ
sung những tài sản cố đinh thay thế chứng tỏ tài sản cố định còn lại của Công ty vẫn đang
sử dụng, hoạt động tốt nên Công ty thấy không cần thiết để bổ sung thêm.
- Trong khi vốn cố định giảm đi thì vốn lưu động trong năm 2006 tăng lên gần gấp đôi
so với năm 2005. Cụ thể: Vốn lưu động tăng lên 5.613,56 triệu đồng tương đương với 83.7% so
với năm 2005. Nhu cầu vốn lưu động tăng lên chứng tỏ trong năm qua Công ty đã trúng thầu
được nhiều Công trình quy mô lớn và giá trị cao. Chứng tỏ hình ảnh và uy tín của Công ty trên
thị trường ngày càng cao.
2.2.2. Tổ chức và quản lý sử dụng vốn cố định:
Qua phân tích nguồn vốn ta thấy, năm 2006 nguồn vốn của Công ty đã tăng lên một
phần do tài sản cố định của Công ty cũng tăng lên . Nó được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 5
Bảng nghiên cứu đánh giá sự biến động vốn cố định
năm 2005 -2006
(Đơn vị tính: Triệu đồng)
Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006
So sánh
Tuyệt đối
Tương
đối(%)
1. Nguyên giá TSCĐ 2.163,99 2.194,60 30,61 1,41
2. Giá trị HMLK của
TSCĐ
568,00 716,84 148,84 26,20
3. VCĐ 1.595,98 1.477,76 -118,22 -7,41
( Nguồn:[6] )
Dựa vào bảng ta thấy, năm 2006 do Công ty có đầu tư nhiều máy móc thiết bị nên năm
2006 nguyên giá TSCĐ đã tăng lên cụ thể tăng 30,61 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 1,41% .
Khi nguyên giá TSCĐ tăng lên thì giá trị hao mòn luỹ kế của TSCĐ cũng tăng lên một
cách đáng kể, cụ thể tăng 148,84 triệu đồng về tuyệt đối, nhưng xét về mặt tương đối chỉ
tăng 26,20% so với năm 2006. Giá trị hao mòn luỹ kế năm 2006 tăng lên là đương nhiên
vì tài sản qua sử dụng phải tính khấu hao qua các năm, mặt khác khấu hao tăng còn cho ta
thấy rằng máy móc thiết bị của Công ty vẫn còn sử dụng tốt nên không có máy móc thanh lý.
Như chúng ta biết, khi tăng TSCĐ thì nghĩa là giảm về vốn bằng tiền hay bằng chuyển khoản,
nhưng nhiều khi trong kinh doanh cũng có thể tăng TSCĐ mà lại giảm về vốn lưu động đang
có thì sao? Điều này có nghĩa là TSCĐ đã được đem đi trao đổi. Cụ thể năm 2006, Công ty đã
tăng về TSCĐ nhưng lại giảm về vốn cố định một cách đáng kể là 118,22 triệu đồng với tỷ lệ
0,07%. Điều này không phải là xấu nhưng nó cũng ảnh hưởng rất lớn cho quá trình luân
chuyển vốn cố định.
Xét về mặt tài chính thì giá trị hao mòn luỹ kế của TSCĐ tăng như vậy cũng không
đúng với mức quy định trích khấu hao của bộ tài chính. Giá trị hao mòn luỹ kế giảm như
vậy cũng có thể do máy móc của Công ty có nhiều hư hỏng, hay mua máy đã qua sử
dụng... Như vậy, trong Công ty, TSCĐ là một nguồn vốn cố định, nó góp phần không nhỏ
vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Nhưng nó không phải luôn đồng
biến với nhau, mà có thể TSCĐ tăng nhưng vốn cố định có thể giảm. Hoặc ngược lại,
TSCĐ có thể giảm nhưng vốn cố định có thể tăng lên. Điều này hiện đúng với thực tế của
nền kinh tế nước ta hiện nay.
2.2.3 Tổ chức và quản lý sử dụng vốn lưu động:
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, chi phí
dở dang và các khoản thanh toán khác, quản lý vốn lưu động chỉ đảm bảo sử dụng vốn tiết
kiệm hợp lý mà có ý nghĩa hạ thấp chi phí sản xuất kinh doanh, thúc đẩy thanh toán các
khoản công nợ một cách kịp thời.
Qua sự đánh giá sức sản xuất kinh doanh và sinh lời của vốn cố định, ta thấy doanh
thu năm 2006 tăng, cũng như sự biến động của vốn lưu động tăng cụ thể được đánh giá
bằng các chỉ tiêu như sau:
Bảng 6
Bảng nghiên cứu đánh giá sự biến động của vốn lưu động
Năm 2005-2006.
( Đơn vị tính: Triệu đồng)
St
t
Tài sản Năm 2005 Năm 2006
So sánh
Tuyệt
đối
Tương
đối(%)
Tổng TSLĐ & đầu tư ngắn hạn 6.708,30 12.321,86 5.613,55 83,68
I. Tiền 1.608,30 2.698,32 1.090,02 67,77
1. Tiền mặt tại quỹ 209,06 267,43 58,37 27,92
2. Tiền gửi ngân hàng 1.399,24 2.430,88 1.031,64 73,73
3. Tiền đang chuyển _ _ _ _
II. Các khoản đầu tư tài chính ngắn
hạn
_ _ _ _
II
I
Các khoản phải thu
1.104,96 947,29 -157,66
-14,27
1. Phải thu của khách hàng 158,48 142,12 -16,35 -10,32
2. Trả trước cho người bán _ _ _ _
3. Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ 81,48 145,16 63,68 78,15
4. Thu nội bộ 865 660 -205 -23,70
_Phải thu nội bộ khác 865 660 -205 -23,70
5. Các khoản phải thu khác _ _ _ _
IV Hàng tồn kho 1.768,4 4.004,74 2.236,30 126,46
1. Hàng mua đang đi trên đường _ _ _ _
2. Nguyên liệu, vật liệu tồn kho 33,56 33,56 0 0
3. Công cụ, dụng cụ trong kho _ _ _ _
4. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang 1.734,87 3.971,18 2.236,30 128,90
V. Tài sản lưu động khác 2.226,58 4.671,49 2.444,90 109,80
1. Tạm ứng 2.057,79 4.571,30 2.513,51 122,15
2. Chi phí trả trước _ _ _ _
3. Chi phí chờ kết chuyển 142,87 60,31 -82,55 -57,78
4. Tài sản thiếu chờ xử lý _ _ _ _
5. Các khoản cầm cố,ký cược, ký quỹ
NH
25,92 39,87 13,95 53,81
( Nguồn:[6] )
Nhìn vào bảng nghiên cứu đánh giá sự biến động của vốn lưu động , ta thấy tổng tài sản
lưu động và đầu tư ngắn hạn năm 2006 tăng hơn năm 2005 là: 5.613,55 triệu đồng với tỷ lệ tăng
là 83.68%so với năm 2005, mà nguyên nhân là do:
I. Tiền: năm 2006 Công ty tăng lên, cụ thể tiền năm 2005 chỉ đạt 1.608,30 triệu
đồng , sang năm 2006 tăng lên 2.698,32 triệu đồng, tương đương với 67,77%.Điều này
chứng tỏ năm 2006 Công ty kinh doanh có hiệu quả, có doanh thu và có lợi nhuận .
1.Tiền mặt tại quỹ tăng từ 209,06 triệu đồng của năm 2005 sang năm 2006 là 267,43
triệu đồng, tức là tăng 58,37 triệu đồng, tương đương với 27,92% .
2.Tiền gửi ngân hàng cũng tăng 1.031,64 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 73,73% so
với năm 2005.
3. Nhưng mặt hạn chế ở đây là cả năm 2005 và năm 2006 tiền đang chuyển không
có gì biến động.
II. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn không có gì biến động.
III. Các khoản phải thu của Công ty năm 2006 giảm 157,66 triệu đồng với tỷ lệ giảm là
14,27% so với năm 2005. Điều này do các nguyên nhân sau :
1.Phải thu khách hàng cũng giảm cụ thể là 16,35 triệu đồng so với năm 2005 với tỷ lệ
giảm là 10,32% . Điều này là một dấu hiệu tốt cho Công ty, bởi phải thu của khách hàng giảm
cũng có nghĩa là Công ty thu hồi vốn có hiệu quả, không có tình trạng nợ khó đòi dài hạn làm
ngừng khả năng kinh doanh của Công ty .
2.Trả trước cho người bán không có gì biến đổi bởi lẽ đây là một công ty xây
dựng nên khả năng thanh toán phải dựa vào khả năng công việc của bên đầu tư . Cho nên
công trình được quyết toán thì đồng nghĩa với khả năng thanh toán cho người bán hết.
3.Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ năm 2006 tăng 63,68 triệu đồng so với năm
2005, với tỷ lệ tăng là 78,15%. Điều này chứng tỏ rằng Công ty có đầu vào lớn, phản ánh
đúng với thực tế của Công ty vì Công ty có nhiều công trình đang cần đầu tư mua nguyên
vật liệu, thiết bị, máy móc nên đầu vào thường lớn hơn đầu ra.
4.Khoản thu nội bộ cũng giảm 205 triệu đồng với tỷ lệ giảm là 23,70% là một dấu hiệu đáng
mừng vì năm 2006 nhiều công trình quyết toán nên các đội trưởng đã có chi phí, có nguồn để hoàn trả
số tiền tạm ứng nên năm 2006 Công ty đã giảm 23,70% mà chủ yếu của nó là phải thu nội bộ khác. Vì
Công ty không có đại lý, không có đơn vị kinh doanh trực thuộc nên vốn kinh doanh ở các đơn vị trực
thuộc khác là số 0. Cũng như các khoản phải thu khác, hay dự phòng các khoản phải thu khó đòi khác
đều bằng 0.
IV. Hàng tồn kho : Tài sản lưu động và vốn đầu tư ngắn hạn tăng một phần còn do
hàng tồn kho tăng : 236,30 triệu đồng tương đương với 126,46% so với năm 2005. Công ty
có công trình thì hàng hoá được nhập xuất tại chân công trường nên hàng mua đang đi
đường là bằng 0 vì vậy nguyên nhân tăng chủ yếu của hàng tồn kho là những vấn đề sau :
1. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang tăng là 2.236,30 triệu đồng, tương đương
với 128,90% so với năm 2005.
2. Các khoản nguyên liệu, vật liệu, thành phẩm trong kho, hàng hoá tồn kho, hàng
gửi đi bán, dự phòng giảm giá hàng tồn kho không có gì biến động, nó hoàn toàn bằng 0.
V. Tài sản lưu động khác : Năm 2006 tài sản lưu động khác hoàn toàn tăng lên từ
2.226,58 triệu đồng của năm 2005 đến năm 2006 là 4.671,49 triêu đồng, tức là tăng
2.444,90 triệu đồng tương đương với 109,80% so với năm 2005. Nguyên nhân là các vấn
đề sau :
1. Tạm ứng : Tăng 2.513,51 triệu đồng tương với 122,15% so với năm 2005.
2. Chi phí chờ kết chuyển : giảm 82,55 triệu đồng tương đương với 57,78% so với
năm 2005.
3. Các khoản cầm cố, ký cược, ký quỹ ngắn hạn : tăng 13,95 triệu đồng tương
đương với 53,81% so với năm 2005.
VI. Năm 2006 chi sự nghiệp không có gì biến đổi.
Vậy sau khi phân tích bảng nghiên cứu đánh giá sự biến động của vốn lưu động ta thấy
nguyên nhân tăng chủ yếu của vốn lưu động là tài sản lưu động khác tăng mà chủ yếu là tăng
tiền tạm ứng lên. Tiền mặt tại quỹ tăng. Bên cạnh nguyên nhân tăng chủ yếu thì tăng do hàng
tồn kho cũng không nhỏ so với số vốn lưu động năm 2006 tăng. Còn các khoản phải thu nội bộ
khác hay các khoản phải thu giảm.
3. Thực trạng chi phí vốn của Công ty cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9.
Bảng 7
Tình hình chi phí vốn
2005 - 2006
( Đơn vị tính: %)
(
Nguồn:
[6] )
N
hìn vào
bảng
chi phí
vốn của
Công ty
cổ phần
Xây dựng Công trình Thăng Long 9 ta thấy: Chi phí vốn của Công ty năm 2006 hầu hết
đều tăng so với năm 2005. Đây là yếu tố tiêu cực làm tăng chi phí doanh nghiệp, làm cho
lợi nhuận của Công ty giảm. Trong đó:
- Chi phí nợ vay trước thuế và chi phí nợ vay sau thuế không đổi. Điều này có lợi cho
Công ty, vì trong năm qua khoản nợ phải trả của Công ty tăng lên rất nhiều so với năm
2005, cụ thể là tăng 5.345,71 triệu đồng. Trong khi các Ngân hàng không gia tăng lãi suất.
Đây cũng có thể coi là điều có lợi cho Công ty trong việc mở rộng quy mô sản xuất, xây
dựng các công trình.
- Chi phí vốn chủ sở hữu năm 2006 tăng lên 0.05% so với năm 2005 trong đó:
+ Chi phí cổ phiếu ưu tiên tăng lên 0.05% so với năm 2005, việc naỳ chứng
tỏ trong năm vừa qua Công ty hoạt động có hiệu quả làm cho cổ tức tăng lên làm cho chi
phí về tài chính tăng lến.
+ Chi phí lợi nhuận giữ lại tăng lên 0.07% so với năm 2005.
ST
T
Chỉ tiêu Năm 2005
Năm 2006 Chênh lệch
1 Chi phí vay nợ trước thuế 1.2 1.2 0
2 Chi phí vay nợ sau thuế 0.9 0.9 0
3 Chi phí vốn chủ sở hữu 1.25 1.3 0.05
- Chi phí cổ phiếu ưu tiên 1.3 1.35 0.05
- Chi phí lợi nhuận giữ lại 1.37 1.3 0.07
4 Chi phí trung bình(WACC) 1.25 1.31 0.06
5 Chi phí cân biên(MCC) 1.22 1.25 0.03
- Chi phí trung bình năm 2006 tăng lên 0.06% so với năm 2005. Đây là nhân tố mà
Công ty cần phải khắc phục trong năm 2007, góp phần làm giảm chi phí chung, dẫn đến
tăng lợi nhuận cho Công ty.
- Chi phí cận biên cũng tăng, điều này chứng tỏ trong năm qua để đảm bảo tiến độ thi
công các công trình, Công ty đã huy động thêm nhiều vốn làm cho chi phí vốn tăng.
4. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Cổ phần Xây dựng Công
trình Thăng Long 9.
4.1. Hiệu quả sử dụng vốn cố định:
Như vậy , năm 2006, Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 đă đầu tư tài
sản cố định tăng lên cũng đạt hiệu quả cao . Điều này thể hiện ở sức sản xuất kinh doanh và sinh
lời của vốn cố định thể hiện như sau:
Bảng 8
Sức sản xuất kinh doanh và sinh lời của vốn cố định
năm 2005-2006
Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005 Năm 2006
So sánh
Tuyệt
đối
Tươn
g đối
(%)
1. Mức doanh thu thuần Triệu đồng 15.290,15 28.815,92 13.525,7
7
88,46
2. LN từ hoạt động SXKD Triệu đồng 790,71 1.203,49 412,77 52,20
3. VCĐ bình quân Triệu đồng 1.595,98 1.477,76 -118,22 -7,41
4. Nguyên giá TSCĐ bq Triệu đồng 2.163,99 2.194,60 30,61 1,41
5. Hiệu suất sd TSCĐ (1/4) lần 7,07 13,13 6,06 85,83
6. Sức SXKD của VCĐ (1/3)
lần 9,58 19,5 9,92
103,5
4
7. Hệ số sinh lời của VCĐ (2/3) lần 0,50 0,81 0,32 64,38
8. Hàm lượng VCĐ (3/1) lần 0,10 0,05 -0,05 -50,87
( Nguồn:[6] )
Nhìn vào bảng sức sản xuất kinh doanh và sinh lời ở vốn cố định ta có nhận xét sau:
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định năm 2005 cứ một đồng nguyên giá tài sản cố
định tạo ra 7,07 đồng doanh thu. Năm 2006 một đồng nguyên giá tài sản cố định tạo ra 13,13
đồng doanh thu. Điều này có nghĩa là năm 2006 Công ty đã sử dụng có hiệu quả tài sản cố
định. Đồng thời năm 2006 Công ty cũng đầu tư một số máy móc cho mục đích kinh doanh
và xây dựng, cũng như việc năm 2006 doanh thu và lợi nhuận có hiệu quả lớn hơn năm
2005, cụ thể năm 2006 hịêu suất sử dụng tài sản cố định đã tăng 6,06 với tỷ lệ tăng là
85,83%. Điều này rất tốt cho việc kinh doanh của Công ty, vì vậy Công ty cần phát huy khả
năng này.
Sức sản xuất kinh doanh năm 2005 cứ một đồng vốn cố định sản xuất ra 9,58
đồng doanh thu, năm 2006 cứ một đồng vốn cố sản xuất ra 19,5 đồng doanh thu. Do tài
sản cố định bình quân tăng lên nên dẫn đến sức sản xuất kinh doanh của vốn cố định tăng
9,92 lần tương đương với 103,54% so với năm 2005.
Hệ số sinh lời: cứ một đồng vốn cố định năm 2005 làm ra 0,5 đồng lợi nhuận, cứ
một đồng vốn cố định năm 2006 làm ra 0,81 đồng lợi nhuận. Do lợi nhuận từ hoạt động
sản xuất kinh doanh tăng lên nên hệ số sinh lời cũng tăng lên là 0,32 lần tương đương với
64,38% so với năm 2005. Hệ số sinh lời tăng lên một phần do năm 2006 doanh thu thuần
của Công ty tăng lên một cách đáng kể. Nói chung, năm 2006, Công ty Cổ phần Xây dựng
Công trình Thăng Long 9 tăng lợi nhuận chủ yếu là do tăng về doanh thu mà cụ thể là tăng
doanh thu và tăng tài sản cố định. Nhưng năm 2006, vốn cố định của Công ty giảm là một
thứ yếu , nó không ảnh hưởng đến quá trình hình thành lợi nhuận cuả Công ty. Lợi nhuận
của Công ty tăng lên trong lúc đó vốn cố định giảm xuống cũng không phải là một thứ yếu
mà do vốn cố định của Công ty được phân giải ra toàn bộ doanh thu của Công ty.
Ngoài ra, do vốn cố định bình quân giảm nên hàm lượng vốn cố định giảm 0,05
lần , tương đương với 50,87% so với năm 2005. Có nghĩa là năm 2005 cứ một đồng doanh
thu có 0,10 đồng cố định, năm 2006 cứ một đồng doanh thu có 0,05 đồng vốn cố định.
Nguyên nhân chủ yếu là do vốn cố định bình quân giảm -118,22 triệu đồng so với năm
trước , cho thấy rằng cũng không có ảnh hưởng lớn đến công ty một cách nặng nề , mà lợi
nhuận kinh doanh vẫn tăng chứng tỏ Công ty kinh doanh đạt hiệu quả.
4.2. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Từ bảng cân đối kế toán và bảng xác định kết quả hoạt động kinh doanh, ta có bảng
số liệu sau:
Bảng 9
Sức sản xuất kinh doanh và sức sinh lời của vốn lưu động +
Tốc độ chu chuyển của vốn lưu động
Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005
Năm
2006
So sánh
Tuyệt
đối
Tươn
g đối
(%)
1. Doanh thu thuần Triệu đồng 15.290,15 28.815,92
13.525,7
7
88,46
2. LN hoạt động KD Triệu đồng 790,71 1.203,49 412,77 52,20
3. VLĐ bình quân Triệu đồng 6.708,30 12.321,86 5.613,55 83,68
4. Số vòng quay VLĐ(1/3) vòng 2,28 2,34 0,06 2,63
5. Kỳ luân chuyển
VLĐ(360/4)
ngày 157,97 153,94 -4,00 -2,53
6. Sức SXKD của VLĐ(1/3) lần 2,28 2,34 0,06 2,63
7. Hệ số sinh lời VLĐ(2/3) lần 0,12 0,10 -0,02 17,14
8. Hệ số đảm nhiệm VLĐ(3/1) lần 0,44 0,43 -0,01 -2,27
( Nguồn:[6] )
Dựa vào bảng ta thấy:
Số vòng quay vốn lưu động: cứ một đồng doanh thu thuần năm 2005 thì tạo ra được
2,28 vòng quay vốn lưu động. Cứ một đồng doanh thu thuần thì tạo ra được 2,34 vòng quay
vốn lưu động, tức là tăng 0,06 vòng tương đương với 2,63%.
Kỳ luân chuyển của vốn lưu động: cứ một kỳ luân chuyển của một đồng vốn lưu
động năm 2005 thì mất 157,97 ngày, cứ một kỳ luân chuyển của một đồng vốn lưu động năm
2006 thì mất 153,94 ngày, do doanh thu tăng nhưng kỳ luân chuyển của vốn lưu động cũng
đang bị hạ xuống, cụ thể năm 2006 kỳ luân chuyển của vốn lưu động đã giảm 4 đồng cho một
ngày, tỷ lệ giảm 2,53 % so với năm 2005. Điều này có nghĩa là sự quay vòng của vốn lưu
động không được tăng lên. Có nghĩa là sự thu hồi vốn lưu động của Công ty không kịp thời
bằng năm 2005.
Sức sản xuất kinh doanh của vốn lưu động thì cứ một đồng doanh thu thuần sẽ
tạo ra 2,28 lần sản xuất kinh doanh của vốn lưu động. Và đến năm 2006 thì cứ một đồng
doanh thu thuần tạo ra 2,34 lần sản xuất kinh doanh của vốn lưu động, tức là tăng 0,06 lần
tương đương với 2,63%.
Hệ số sinh lời của vốn lưu động năm 2005 bất cứ một đồng lợi nhuận thì tạo ra
được 0,12 lần hệ số sinh lời của vốn lưu động, còn năm 2006 cứ một đồng lợi nhuận thì
tạo được 0,10 lần hệ số sinh lời vốn lưu động, lợi nhuận thấp hơn năm 2005 là 0,02 với tỷ
lệ giảm 17,14%.Chứng tỏ năm 2006 Công ty đã giảm, không có lợi cho sản xuất kinh
doanh.
Mức đảm nhiệm vốn lưu động năm 2005 cứ một đồng vốn lưu động bình quân thì có
0,44 lần hệ số đảm nhiệm, năm 2006 cứ một đồng vốn lưu động bình quân thì có 0,43 lần hệ số
đảm nhiệm. Tức là giảm 0,01 lần so với năm 2005, tương đương với tỷ lệ gỉam là 2,27%. Như
vậy Công ty chưa đặt trách nhiệm cao trong việc sử dụng vốn lưu động. Cho nên Công ty cần
phát huy khả năng quay vòng của vốn lưu động, đồng thời cần có trách nhiệm khi sử dụng vốn
lưu động một cách có hiệu quả nhất, để tăng hệ số sinh lời lên, tăng lợi nhuận một cách cao nhất.
4.3. Đối với vốn kinh doanh :
Để đánh giá được vốn kinh doanh của Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình
Thăng Long 9 , ta cần nghiên cứu đánh giá bảng sau:
Bảng 10
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Chỉ tiêu ĐVT
Năm
2005
Năm
2006
So sánh
Tuyệt
đối
Tươn
g
đối(%
)
1. DTT Triệu đồng 15.290,15 28.815,92
2. Tổng nguồn vốn bq Triệu đồng 9.172,22 14.667,56
3. Lợi nhuận sau thuế Triệu đồng 167,42 296,68
4. Nguồn vốn CSH bq Triệu đồng 2.406 2.555,62
5. Lợi nhuận SXKD Triệu đồng 790,71 1.203,49
6.Vòng quay tổng vốn (1/2) vòng 1,67 1,96 0,30 17,85
7.Tỷ suất lợi nhuận
SXKD(3/1)
% 0,011 0,0103 -0,0007 -6,40
8.Tỷ suất lợi nhuận CSH(3/4) % 0,07 0,12 0,05 66,83
9.Tỷ suấtLN/DTT(5/1) % 0,0517 0,0418 -0,0099 -19,22
10.Tỷ suất lợi nhuận / giá
thành toàn bộ(5/*)
% 0,0525 0,0424 -0,0101 -19,24
( Nguồn:[6] )
Trong đó: (*) =giá thành toàn bộ = giá vốn HB +CPBH + CPQLDN
2 005 = 14.499,43 + 0 +574,17
= 15.073,61 triệu đồng
2006 = 27.612,43 + 0 + 776,18
= 28.388,61 triệu đồng
Nhìn vào bảng ta thấy, số vòng quay tổng vốn của năm 2006 tăng lên so với năm
2005, cụ thể tăng 0,3 vòng tương đương với 17,85% là điều đáng mừng. Nhưng sự tăng
nhanh này chủ yếu do vốn bằng vốn cố định, vốn lưu động thì số vòng quay giảm, khả
năng thanh toán chậm hơn năm 2005. Tỷ suất lợi nhuận sản xuất kinh doanh giảm không
đáng kể là 0,0007 tương đương với tỷ lệ giảm là 6,40%. Điều này cũng đúng thôi bởi lợi
nhuận sau thuế trong kỳ cụ thể là năm 2006 tăng không đáng kể, trong lúc đó doanh thu
thuần tăng rất ít.
Tỷ suất lợi nhuận chủ sở hữu năm 2006 tăng 0,05% tương đương với 66,83%, điều
này là hợp lý bởi năm 2006 lợi nhuận sau thuế trong kỳ tăng không đáng kể, nhưng nguồn
vốn chủ sở hữu tăng lên. Để đạt được điều này thì chủ yếu là vốn cố định năm 2006 tăng lên,
cụ thể nguồn vốn chủ sở hữu năm 2006 tăng 149,62 triệu đồng, điều này nhận thấy do tài
sản cố định năm 2006 tăng.
Nhưng nguồn vốn chủ sở hữu hay tỷ suất lợi nhuận chủ sở hữu năm 2006 tăng,
nhưng tỷ suất lợi nhuận/doanh thu thuần vẫn giảm là 0,0099% với tỷ lệ tăng là 19,22%
so với năm 2005. Vì do giá thành năm 2006 cao, chi phí nhiều nên doanh thu có nhưng lợi
nhuận vẫn không cao. Do vậy, để khắc phục được vấn đề này Công ty cần giảm chi phí
một cách tối đa, đạt hiệu quả nhất trong công việc sản xuất kinh doanh, cũng như vì đâu
lợi nhuận sản xuất kinh doanh vẫn tăng mà tỷ suất lợi nhuận/giá thành toàn bộ giảm. Cụ
thể lợi nhuận sản xuất kinh doanh năm 2006 tăng 412,77 triệu đồng mà tỷ suất lợi nhuận /
giá thành toàn bộ lại giảm 0,0101% tương đương với tỷ lệ giảm là 19,24% so với năm
2006. Nguyên nhân chủ yếu là do tỷ suất lợi nhuận / doanh thu giảm.
Nói tóm lại, Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 tuy hoạt động
xây dựng tốt nhưng bên cạnh đó cần có những biện pháp đích thực để tăng lợi nhuận, giảm
chi phí một cách có hiệu quả nhất.
4.4. Đối với khả năng thanh toán:
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp là khả năng dùng vốn tài sản của mình để chi trả các
khoản nợ đối với các đơn vị khác . Trong kinh doanh thời kinh tế thị trường , việc chiếm dụng vốn
lẫn nhau giữa các doanh nghiệp là đặc trưng nổi bật , thậm chí còn được coi là một sách lược kinh
doanh hữu hiệu , nhưng nó sẽ trở thành con dao hai lưỡi nếu doanh nghiệp không biết vận dụng vào
nó một cách linh hoạt và đúng đắn . Việc đánh giá khả năng tính toán giúp cho các nhà quản lý có
thể nắm vững được tình hình tài chính của doanh nghiệp , từ đó sẽ chủ động trong việc sử dụng vốn
kinh doanh .
Tình hình tài chính được đánh giá lành mạnh trước hết phải thể hiện được khả năng chi trả
, vì vậy chúng ta bắt đầu từ khả năng thanh toán . Đây là chỉ tiêu được rất nhiều người quan tâm
như các nhà đầu tư , nhà cho vay , nhà cung cấp vật liệu ...Họ luôn đặt câu hỏi : Hiện doanh
nghiệp có đủ khả năng đến hạn thanh toán hay không? Để đánh giá khả năng thanh toán của
Công ty, ta có thể nghiên cứu bảng hệ số thanh toán dưới đây:
Bảng 11.
Hệ số thanh toán.
(Đơn vị tính : lần)
Chỉ tiêu Năm Năm So sánh
2005 2006 Tuyệt
đối
Tương
đối(%
)
1. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát 1,44 1,25 -0,19 -13,1
2. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời 1,06 0,10 -0,95 -90,26
3. Hệ số thanh toán nhanh(Hn) 1,33 0,45 -0,89 -66,63
( Nguồn:[6] )
Qua bảng hệ số thanh toán, ta thấy:
1. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát :
Năm 2005: một đồng vốn vay thì có 1,44 đồng tài sản đảm bảo, có nghĩa là
khả năng thanh toán năm 2005 là tốt.
Năm 2006: một đồng vốn vay thì có 1,25 đồng tài sản đảm bảo, có nghĩa là
khả năng thanh toán năm 2006 là tốt.
Năm 2006 so với năm 2005, hệ số khả năng thanh toán tổng quát giảm 0,19 với tỷ
lệ giảm là 13,1%. Điều này cho thấy hệ số khả năng thanh toán tổng quát năm sau suy
giảm so với năm trước. Tuy nhiên hai năm qua doanh nghiệp vẫn đảm bảo khả năng thanh
toán. Doanh nghiệp cần có giải pháp tăng thêm khả năng thanh toán cho các năm sau.
2. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời:
Năm 2005: cứ một đồng vốn vay thì có 1,06 đồng tài sản đảm bảo, có nghĩa
là khả năng thanh toán hiện thời của Công ty năm 2005 là tốt, không có vấn đề gì về việc
trả nợ bằng tài sản.
Năm 2006: cứ một đồng vốn vay thì có 0,10 đồng tài sản đảm bảo, có nghĩa
là khả năng thanh toán hiện thời của Công ty giảm, điều này chứng tỏ khả năng thanh toán
tại thời điểm năm 2006 của Công ty giảm đi vì hiện tại toàn bộ vốn vay của Công ty đã
đầu tư vào công trình nên khả năng này là không tốt tại thời điểm năm 2006. Tuy nhiên
năm 2006 so với năm 2005, hệ số khả năng thanh toán hiện thời của Công ty giảm 0,95 với
tỷ lệ giảm là 90,26%. Điều này cho thấy khả năng thanh toán hiện thời của năm sau giảm
hơn so với năm trước, mặc dù hai năm qua doanh nghiệp vẫn đảm bảo khả năng thanh toán
hiện thời được nhưng chưa tốt, doanh nghiệp cần có biện pháp tăng thêm vào năm sau.
3. Hệ số thanh toán nhanh:
Năm 2005: cứ một đồng vốn vay thì có 1,33 đồng tài sản đảm bảo, tức là khả
năng thanh toán nhanh của năm 2005 là tốt.
Năm 2006: cứ một đồng vốn vay thì có 0,45 đồng tài sản đảm bảo, như vậy
là khả năng thanh toán nhanh của năm 2006 là kém.
Năm 2006 so với năm 2005: Hệ số khả năng thanh toán nhanh giảm 0,89 với tỷ lệ
giảm là 66,63%. Điều này cho thấy hệ số khả năng thanh toán nhanh năm sau giảm hơn so
với năm trước. Tuy nhiên đây là do thực tế công trình và quá trình sản xuất kinh doanh của
Công ty nên Công ty cần có giải pháp tăng thêm khả năng khả năng thanh toán nhanh cho
các năm sau.
III. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
1. Nhận xét chung về tình hình quản lý sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ
phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9.
Qua tìm hiểu, phân tích tình hình quản lý và sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cổ
phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9, ta thấy Công ty đã đạt được những thành tựu
đáng kể như: tình hình tài sản lưu động, tài sản Cố định của Công ty trong một vài năm
qua biến động theo chiều hướng đi lên, tăng dần qua các năm. Doanh thu thuần, lợi nhuận
đạt được cũng tăng. Công ty đang ngày càng hoàn thiện tốt hơn công tác quản lý và sử dụng
vốn kinh doanh một cách có hiệu quả. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động được nâng cao và số
lợi nhuận thu được từ một đồng vốn lưu động cũng được nâng cao hơn so với các năm trước.
Ngoài ra, hiệu suất sử dụng vốn cố định cũng được nâng cao. Đây là một nố lực của
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Vốn kinh doanh và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9.pdf