Luận văn Vốn kinh doanh và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại công ty cổ phần xây dựng công trình Thăng Long 9

Tài liệu Luận văn Vốn kinh doanh và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại công ty cổ phần xây dựng công trình Thăng Long 9: LUẬN VĂN: Vốn kinh doanh và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 Lời nói đầu Theo quan điểm hiện đại, mỗi doanh nghiệp được xem như một tế bào sống cấu thành nên toàn bộ nền kinh tế. Tế bào sống đó cũng cần phải có quá trình trao đổi chất với môi trường bên ngoài thì mới tồn tại và phát triển được, Vốn chính là đối tượng của quá trình trao đổi đó. Nó đảm bảo sự sống cho doanh nghiệp, nếu thiếu hụt thì doanh nghiệp sẽ mất khả năng thanh toán. Nói cách khác, vốn là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của bất kỳ doanh nghiệp nào. Do đó, hiệu quả của quản lý và sử dụng vốn trở thành vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng với các doanh nghiệp. Nếu đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng có khả năng đem lại lợi nhuận cao thì doanh nghiệp không những bù đắp được chi phí mà còn tích luỹ được để tái sản xuất mở rộng. Vốn kinh doanh tham gia vào hầu hết các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh. ...

pdf95 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vốn kinh doanh và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại công ty cổ phần xây dựng công trình Thăng Long 9, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Vốn kinh doanh và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 Lời nói đầu Theo quan điểm hiện đại, mỗi doanh nghiệp được xem như một tế bào sống cấu thành nên toàn bộ nền kinh tế. Tế bào sống đó cũng cần phải có quá trình trao đổi chất với môi trường bên ngoài thì mới tồn tại và phát triển được, Vốn chính là đối tượng của quá trình trao đổi đó. Nó đảm bảo sự sống cho doanh nghiệp, nếu thiếu hụt thì doanh nghiệp sẽ mất khả năng thanh toán. Nói cách khác, vốn là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của bất kỳ doanh nghiệp nào. Do đó, hiệu quả của quản lý và sử dụng vốn trở thành vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng với các doanh nghiệp. Nếu đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng có khả năng đem lại lợi nhuận cao thì doanh nghiệp không những bù đắp được chi phí mà còn tích luỹ được để tái sản xuất mở rộng. Vốn kinh doanh tham gia vào hầu hết các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Vì vậy, việc quản lý và sử dụng nguồn vốn kinh doanh sao cho có hiệu quả tác động mạnh mẽ tới khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy vậy, trên thực tế tình hình quản lý và sử dụng của các doanh nghiệp kinh doanh còn nhiều bất cập và chưa được quan tâm đúng mức. đề tài: “ Vốn kinh doanh và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình. Ngoài lời nói đầu và kết luận, Khóa luận của em được trình bày theo 3 phần: Phần I : Cơ sở lý luận về vốn và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp. Phần II: Thực trạng vốn và công tác quản lý sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 Phần 1 Cơ sở Lý luận về vốn và hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp I. Khái quát về vốn 1. Khái niệm Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh đều với mục đích là sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để trao đổi với các đơn vị kinh tế khác nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng để tiến hành sản xuất kinh doanh thì cần thiết phải có vốn. Vậy vốn là gì ? Từ trước đến nay, có rất nhiều khái niệm về vốn, và mỗi khái niệm đều có những ưu điểm khác nhau, tuỳ điều kiện, mục đích nghiên cứu mà người ta có thể tiếp cận vốn dưới giác độ nào. Theo các nhà kinh tế học cổ điển tiếp cận vốn dưới góc độ hiện vật, “Vốn là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh” [3] .Đây là cách hiểu phù hợp với trình độ quản trị còn sơ khai, nó rất đơn giản, dễ hiểu nhưng chưa đầy đủ và chưa phản ánh hết mặt tài chính của vốn. Theo quan điểm của Mác dưới góc độ các yếu tố sản xuất, “Vốn (tư bản) là giá trị mang lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất” [3] . Định nghĩa của C.Mác có tầm khái quát lớn, tuy nhiên trong bối cảnh lúc đó khi mà nền kinh tế chưa phát triển, C.Mác quan niệm chỉ có khu vực sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Và tiền chỉ được gọi là vốn khi nó được dùng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với mục đích là lợi nhuận. Quan điểm này đã chỉ rõ mục tiêu của quản trị và sử dụng vốn, nhưng quan điểm này lại mang tính trừu tượng, do đó hạn chế về ý nghĩa nhất là đối với các vấn đề như hạch toán, phân tích tình hình quản trị và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Theo Paul-Sammelson, nhà kinh tế học theo trường phái tân cổ điển đã kế thừa quan niệm về các yếu tố sản xuất của trường phái cổ điển và chia yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất ra làm ba loại: đất đai, lao động và vốn. Theo ông, “Vốn là hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp” – [3]. Khái niệm này không đề cập đến các loại tài sản khác, các giấy tờ có giá trị có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Do đó, cũng không phản ánh đầy đủ mặt tài chính của vốn. Theo một số nhà tài chính thì “Vốn là tổng số tiền do những người có cổ phần trong công ty đóng góp và họ nhận được phần thu nhập chia cho các chứng khoán của công ty” – [4]. Quan điểm này đã đề cập đến mặt tài chính của vốn, khuyến khích các nhà đầu tư tăng cường đầu tư , mở rộng và phát triển sản xuất. Song nó có hạn chế là không nói rõ nội dung và trạng thái của vốn trong quá trình phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Hiểu theo nghĩa rộng, một số quan điểm lại cho rằng vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố trí để sản xuất hàng hoá, dịch vụ như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, các kiến thức về kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp được tích luỹ, sự khéo léo về trình độ quản trị và tác nghiệp của cán bộ điều hành cùng chất lượng của đội ngũ công nhân viên trong doanh nghiệp, các lợi thế về cạnh tranh như vị trí, uy tín của doanh nghiệp trên thương trường...Quan điểm này có ý nghĩa rộng trong việc khai thác đầy đủ mọi hình thức thức của vốn trong nền kinh tế thị trường nhưng việc xác định và quản trị vốn theo quan điểm này rất khó khăn, phức tạp nhất là khi trình độ quản trị chưa cao và hệ thống pháp luật chưa thực sự hợp lý và hoàn thiện như nước ta hiện nay. Cũng có quan niệm lại cho rằng: “Vốn kinh doanh là giá trị của các tài sản hiện có của doanh nghiệp được biểu hiện bằng tiền” – [4], nhưng quan điểm này mới dừng lại ở mặt hình thái của vốn mà không phản ánh trạng thái, mục đích của vốn nên cũng không thuận lợi cho phân tích kinh tế. Như vậy, các quan điểm về vốn ở trên một mặt đã thể hiện được vai trò của vốn trong những điều kiện lịch sử cụ thể với những yêu cầu, mục đích nghiên cứu cụ thể. Nhưng mặt khác, trong cơ chế thị trường hiện nay, đứng trên góc độ hạch toán và quản trị, các quan điểm đó còn gây khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu của quản trị vốn hiệu quả. Trong điều kiện tồn tại một nền sản xuất hàng hoá -tiền tệ, khái niệm về vốn sản xuất kinh doanh phải thể hiện những vấn đề sau: - Nguồn gốc sâu xa của vốn sản xuất kinh doanh là một bộ phận của thu nhập quốc dân được tái đầu tư (khác vốn đất đai, vốn nhân lực). - Trạng thái vốn tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh là tài sản vật chất (tài sản cố định, tài sản dự trữ ) và tài sản tài chính (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các chứng khoán, tín phiếu…) là cơ sở để ra biện pháp quản trị vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách hiệu quả. - Mối quan hệ mật thiết giữa vốn và các nhân tố khác trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (đất đai, lao động). Điều này đòi hỏi các nhà quản trị phải sử dụng tiết kiệm, hợp lý và hiệu quả vốn. - Mục đích của quá trình đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận. Vấn đề này sẽ định hướng cho quá trình quản trị kinh doanh nói chung và quản trị vốn nói riêng. Từ những quan điểm trên, có thể định nghĩa: “Vốn là một phần thu nhập quốc dân dưới dạng tài sản vật chất hay tài sản tài chính được các cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp bỏ ra, đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh nhằm tối đa hoá lợi nhuận” – [11] . 2. Đặc trưng của vốn: Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có tư liệu lao động đội tượng lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm, lao vụ, dịch vụ. Để tạo ra các yếu tố phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định ban đầu để xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc, thiết bị, thuê lao động hay mua sắm nguyên vật liệu, …Có vốn tiền tệ, doanh nghiệp mới tiến hành sản xuất kinh doanh. Sau khi tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp dành một phần thu nhập của mình để bù đắp lại những chi phí đã bỏ ra như tài sản cố định đã bị hao mòn, chi phí vật tư, tiền lương, tiền công … và một phần để tạo lập quỹ dự trữ cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo. Như vậy, có thể thấy các tư liệu lao động và đối tượng lao động mà doanh nghiệp phải đầu tư để sản xuất và tái sản xuất mở rộng là hình thái hiện vật của vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, vốn phải có những đặc trưng cơ bản sau: - Vốn phải là một lượng tài sản nhất định. Vốn được biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp. - Vốn phải được tích tụ và tập trung tới một qui mô nhất định mới có thể bỏ ra để đầu tư vào sản xuất kinh doanh và phát huy tác dụng. Các nhà quản trị, các nhà đầu tư không chỉ tìm cách khai thác mọi tiềm năng của vốn mà còn tìm cách tập trung, huy động vốn từ những nguồn cung ứng thích hợp. - Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định và phải được quản trị chặt chẽ. Trong nền kinh tế thị trường không có những đồng vốn vô chủ, mà nếu có tồn tại những đồng vốn vô chủ thì cũng đồng nghĩa với việc sử dụng lãng phí và kém hiệu quả vốn. Khi đồng vốn gắn liền với chủ sở hữu nhất định thì nó mới là động lực để vốn được chi tiêu hợp lý, hiệu quả. - Vốn là một loại hàng hoá đặc biệt có giá trị (trao đổi, mua bán) và giá trị sử dụng. Những người có vốn có thể đưa vào thị trường và những người cần vốn tới thị trường để vay vốn, tức là chuyển quyền sử dụng vốn. Người vay phải trả một tỷ lệ lãi suất nhất định tức là phải trả giá cho quyền sử dụng vốn (chi phí sử dụng vốn). Như vậy, khác với hàng hoá thông thường, vốn khi được bán sẽ không mất đi quyền sở hữu mà chỉ mất đi quyền sử dụng vốn. - Vốn phải có giá trị về mặt thời gian, có nghĩa là khi tiến hành đầu tư vào một dự án kinh doanh nào thì đều phải xét đến yếu tố thời gian của vốn vì trong nền kinh tế thị truờng do ảnh hưởng của nhiều nhân tố như giá cả, lạm phát,…nên sức mua của đồng tiền tại những thời điểm khác thì cũng khác nhau. - Vốn phải được vận động để sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, còn để trở thành vốn sản xuất kinh doanh thì vốn phải được vận động, đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Khi tham gia vào sản xuất kinh doanh, vốn luôn biến động và chuyển hoá hình thái vật chất theo thời gian và không gian. Toàn bộ sự vận động của vốn khi tham gia quá trình sản xuất kinh doanh được thể hiện ở sơ đồ sau: TLSX T - H -- SX - H - T SLĐ Sự vận động của vốn trong doanh nghiệp thương mại có thể chỉ là: T-H- T’ và trong doanh nghiệp ngân hàng là: T - T’. Qua sơ đồ ta thấy: quá trình vận động của vốn trải qua ba giai đoạn chủ yếu sau đây: - Giai đoạn một: vốn hoạt động trong phạm vi lưu thông, lúc đầu là vốn tiền tệ (T) tích luỹ được đem ra thị trường (đó là thị trường các yếu tố đầu vào) mua hàng hoá bao gồm tư liệu sản xuất và sức lao động. Trong giai đoạn này vốn thay đổi từ hình thái vốn tiền tệ sang vốn sản xuất. TLSX T - H SLĐ - Giai đoạn hai: Vốn rời khỏi lĩnh vực lưu thông bước vào hoạt động trong khâu sản xuất. ở đây các yếu tố sản xuất hay còn gọi là các yếu tố hàng hoá dịch vụ được sản xuất ra trong đó có phần giá trị mới (do giá trị sức lao động con người tạo ra). TLSX - H’ SLĐ - Giai đoạn ba: Sau giai đoạn sản xuất tạo ra H’ thì vốn lại trở lại hoạt động trên lĩnh vực lưu thông dưới hình thái hàng hoá. Kết thúc giai đoạn này (hàng hoá được tiêu thụ) thì vốn dưới hình thái hàng hoá chuyển thành hình thái vốn tiền tệ ban đầu nhưng về mặt số lượng có thể là khác nhau. H’ _______________ T’ (T’  T) Từ sự phân tích sự vận động của vốn thông qua “vòng tuần hoàn vốn” ta thấy rằng: tiền có khả năng chuyển hoá thành vốn chỉ khi tiền được đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh thông qua hoạt động đầu tư nhằm mục đích sinh lời mới được gọi là vốn. Với tư cách đầu tư thì mục đích cuối cùng là tạo được T’ phải lớn hơn T. Vòng tuần hoàn của vốn bắt đầu từ hình thái tiền tệ (T) và chuyển sang hình thái hàng hoá (H) dưới dạng các tư liệu lao động và đối tượng lao động. Qua quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm, lao vụ và dịch vụ, vốn chuyển sang hình thái sản phẩm hàng hoá được bán trên thị trường và cuối cùng vốn lại trở về hình thái tiền tệ (T’). Do sự luân chuyển không ngừng của vốn trong sản xuất kinh doanh nên cùng một lúc, vốn sản xuất kinh doanh tồn tại dưới các hình thức khác nhau trong lĩnh vực dự trữ, sản xuất và lưu thông. Như vậy, từ những phân tích trên cho thấy trong nền kinh tế thị trường, phạm trù vốn phải được nhận thức một cách đầy đủ, phù hợp. Đây là vấn đề có tính chất nguyên lý, là cơ sở cho việc quản trị và sử dụng vốn hiệu quả trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. 3. Vai trò của vốn : Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá, do vậy bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào dù ở bất cứ cấp độ nào: cá nhân, tổ chức, gia đình, doanh nghiệp hay quốc gia luôn luôn cần có một lượng vốn nhất định dưới dạng tiền tệ, tài nguyên đã được khai thác, bản quyền phát minh,…Vốn là điều kiện tiền đề quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp . - Về mặt kinh tế: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh vốn là mạch máu của doanh nghiệp. Vốn không những đảm bảo mua sắm máy móc thiết bị dây chuyền công nghệ phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra liên tục, thường xuyên. Vốn cũng là yếu tố quyết định việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng thì sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, vốn của doanh nghiệp phải sinh lời, tức là hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải có lãi đảm bảo cho vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng phạm vi sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Nhu cầu về vốn xét trên giác độ mỗi doanh nghiệp là điều kiện để duy trì sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm và thu nhập cho người lao động, đóng góp cho xã hội... Như vậy: + Vốn sản xuất kinh doanh là công cụ quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp. + Vốn sản xuất kinh doanh phản ánh các quan hệ về lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp trong vấn đề đầu tư. + Vốn sản xuất kinh doanh cho phép khả năng lựa chọn của doanh nghiệp trong sự phân tích nhu cầu thị trường là: quyết định sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? sao cho đạt hiệu quả cao nhất. - Về mặt pháp lý: Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện tiên quyết là doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định. Đối với một số ngành, lĩnh vực thì lượng vốn đó tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp định (do Nhà nước quy định). Nếu không, doanh nghiệp sẽ không được thành lập. Và trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, lượng vốn doanh nghiệp không đạt điều kiện Nhà nước quy định thì doanh nghiệp sẽ tự tuyên bố chấm dứt hoạt động như phá sản, sát nhập với doanh nghiệp khác. Như vậy, với một số ngành, vốn có thể được xem là một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp trước pháp luật. Nhận thức được tầm quan trọng của vốn, các doanh nghiệp nhất thiết phải tìm mọi cách huy động, bảo toàn và phát triển vốn bằng cách sử dụng tiết kiệm, hợp lý vốn tức là phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 4. Phân loại vốn : Do trong quá trình vận động, vốn biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau nên cũng có nhiều cách phân loại vốn khác nhau: 4.1. Căn cứ vào nguồn hình thành vốn. 4.1.1. Vốn chủ sở hữu. Là số vốn góp của các chủ sở hữu, của các nhà đầu tư đóng góp. Số vốn này không phải là một khoản nợ, doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán, không phải chịu lãi suất. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được do sản xuất kinh doanh có lãi của doanh nghiệp sẽ được chia cho các cổ đông theo tỷ lệ phần vốn góp của mình. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu được hình thành theo các hình thức khác nhau, thông thường là:  Vốn góp Là số vốn do các thành viên tham gia thành lập doanh nghiệp đóng góp, sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì đây là nguồn vốn do Nhà nước cấp. Đối với công ty liên doanh thì là phần vốn góp của các đối tác trong và ngoài nước tham gia thành lập liên doanh. Số vốn này được bổ sung hoặc rút bớt trong quá trình sản xuất kinh doanh.  Lãi chưa phân phối Là số vốn có nguồn gốc từ lợi nhuận hay các khoản thu nhập hợp pháp khác của doanh nghiệp sau khi đã trừ đi các khoản phải nộp hay thanh toán. Số lãi trong khi chưa phân phối cho các chủ đầu tư, trích quỹ thì được sử dụng trong sản xuất kinh doanh như vốn chủ sở hữu. 4.1.2. Vốn vay. Vốn vay là khoản vốn đầu tư ngoài vốn chủ sở hữu được hình thành từ nguồn vốn đi vay, đi chiếm dụng của các cá nhân, đơn vị, tổ chức trong và ngoài nước và sau một thời gian nhất định, doanh nghiệp phải trả cho người cho vay cả gốc lẫn lãi. Phần vốn này, doanh nghiệp được sử dụng với những điều kiện nhất định (như thời hạn sử dụng, lãi suất, thế chấp,…) nhưng không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Vốn vay luôn được ưu tiên chi trả trước vốn chủ sở hữu trong bất cứ hoàn cảnh nào đặc biệt doanh nghiệp khó khăn về tài chính. Doanh nghiệp càng sử dụng vốn vay càng nhiều thì độ rủi ro càng cao nhưng để phục vụ sản xuất kinh doanh thì đây là nguồn huy động vốn rất lớn tuỳ thuộc vào khả năng thế chấp, tình hình sản xuất kinh doanh, uy tín của doanh nghiệp. Vốn vay có hai loại: Vốn vay, nợ ngắn hạn và vốn vay, nợ trung, dài hạn với nhiều hình thức khác nhau như tín dụng thương mại, hùn vốn qua phát hành trái phiếu, tín dụng cầm đồ hoặc thế chấp tài sản... Thông thường, một doanh nghiệp đều nên phối hợp cả hai nguồn vốn trên để đảm bảo nhu cầu vốn của doanh nghiệp cũng như bảo đảm nguyên tắc phân tán rủi ro trong đầu tư. Kết cấu hợp lý của hai nguồn vốn này tuỳ thuộc đặc điểm ngành doanh nghiệp đang hoạt động, quyết định của nhà quản trị doanh nghiệp trên cở sở xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp và tình hình chung của nền kinh tế đất nước. 4.2. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn. 4.2.1. Nguồn vốn thường xuyên. Đây là nguồn vốn mang tính chất ổn định, lâu dài mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đầu tư vào TSCĐ và một bộ phận TSLĐ tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn này bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và vốn vay dài hạn. 4.2.2. Nguồn vốn tạm thời. Đây là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (sử dụng trong thời gian dưới một năm) để đáp ứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay, nợ ngắn hạn và các khoản chiếm dụng của doanh nghiệp với các bạn hàng. Với cách phân loại này còn giúp cho nhà quản trị doanh nghiệp lập các kế hoạch tài chính, hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn vốn trong tương lai trên cơ sở xác định quy mô vốn cần thiết, lựa chọn nguồn cung ứng và quy mô vốn thích hợp cho từng nguồn vốn đó, khai thác nguồn tài chính tiềm năng, tổ chức sử dụng vốn đạt hiệu quả cao. 4.3. Căn cứ vào vai trò, đặc điểm chu chuyển cuả vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 4.3.1. Vốn cố định. VCĐ của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư, ứng trước về TSCĐ, mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng. Quy mô của VCĐ quyết định quy mô của TSCĐ nhưng các đặc điểm của TSCĐ lại ảnh hưởng tới sự vận động và công tác quản trị VCĐ. Vì vậy, muốn quản trị VCĐ hiệu quả thì phải quản trị, sử dụng hiệu quả TSCĐ. Từ mối quan hệ này, ta có thể khái quát những nét đặc thù của VCĐ như sau: - VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh do TSCĐ có thể phát huy trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nên VCĐ-hình thái biểu hiện của nó cũng được tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh tương ứng. - VCĐ được luân chuyển dần từng phần khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện vật ban đầu nhưng tính năng và công suất của nó bị giảm dần và kéo theo giá trị tài sản đó cũng bị giảm đi. Theo đó, VCĐ cũng được tách làm hai phần: + Một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình thức khấu haoTSCĐ. Tức là trong quá trình sử dụng và bảo quản, TSCĐ bị hao mòn. Bộ phận giá trị của TSCĐ tương ứng với mức hao mòn mà nó được chuyển dịch dần dần vào giá trị sản phẩm, gọi là khấu hao TSCĐ. + Phần còn lại của VCĐ được “cố định ” trong TSCĐ. Việc quản trị VCĐ và TSCĐ trên thực tế là một công việc rất phức tạp. Để giảm nhẹ khối lượng quản trị, về kế toán tài chính người ta có những quy định thống nhất về tiêu chuẩn giới hạn về giá trị và thời gian sử dụng một TSCĐ. Hiện nay, ở nước ta một tư liệu lao động là TSCĐ phải đồng thời thoả mãn hai điều kiện: Giá trị tối thiểu từ 10 triệu đồng Việt nam và thời gian sử dụng ít nhất là 1năm . Để quản trị VCĐ hiệu quả, cần nghiên cứu kết cấu và phân loại VCĐ.  Cơ cấu của vốn cố định Là tỷ trọng của từng loại VCĐ so với tổng toàn bộ VCĐ của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Cần lưu ý rằng quan hệ tỷ lệ trong cơ cấu vốn là một chỉ tiêu động mang tính biện chứng và phụ thuộc nhiều nhân tố như: khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, khả năng thu hút vốn đầu tư, phương hướng mục tiêu sản xuất kinh doanh, trình độ trang bị kỹ thuật, quy mô sản xuất. Việc nghiên cứu cơ cấu vốn cố định có ý nghĩa quan trọng trong việc huy động và sử dụng vốn. Khi nghiên cứu vốn cố định phải nghiên cứu trên hai góc độ là: nội dung kế hoạch và quan hệ mỗi bộ phận so với toàn bộ. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng được một cơ cấu hợp lý phù hợp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp và với trình độ phát triển khoa học- kỹ thuật.  Phân loại vốn cố định Có nhiều cách phân loại TSCĐ: - Căn cứ vào hình thái biểu hiện : + TSCĐ hữu hình: Là TSCĐ có hình thái vật chất. + TSCĐ vô hình: là TSCĐ không có hình thái vật chất. - Căn cứ theo tình hình sử dụng: + TSCĐ đang sử dụng. + TSCĐ chưa sử dụng. + TSCĐ không cần dùng. + TSCĐ chờ thanh lý. - Căn cứ theo công dụng kinh tế: + TSCĐ dùng trong sản xuất kinh doanh. + TSCĐ dùng ngoài sản xuất kinh doanh : - Căn cứ theo quyền sở hữu: + TSCĐ doanh nghiệp tự có. + TSCĐ doanh nghiệp thuê ngoài + TSCĐ doanh nghiệp bảo quản, giữ hộ cho đơn vị khác. 4.3.2. Vốn lưu động VLĐ của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của TSLĐ và vốn lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp tiến hành thường xuyên, liên tục. Khác với VCĐ, VLĐ chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm sau mỗi chu kỳ sản xuất. Trong quá trình sản xuất kinh doanh VLĐ được luân chuyển không ngừng qua ba giai đoạn: dự trữ, sản xuất và tiêu thụ. VLĐ chu chuyển nhanh hơn VCĐ. Trong mỗi giai đoạn đó VLĐ được biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau, có thể là hình thái hiện vật hay hình thái giá trị. Có thể thấy rằng VLĐ là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Nếu doanh nghiệp không đủ vốn thì việc tổ chức sử dụng vốn sẽ gặp nhiều khó khăn và do đó quá trình sản xuất cũng bị trở ngại hay gián đoạn. Để quản trị VLĐ tốt, cần nghiên cứu kết cấu và phân loại VLĐ.  Cơ cấu vốn lưu động Là quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần vốn lưu động chiếm trong tổng số VLĐ. ở những doanh nghiệp khác nhau, kết cấu vốn lưu động không giống nhau. Xác định được cơ cấu VLĐ hợp lý sẽ góp phần sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả VLĐ. Để quản lý và sử dụng có hiệu quả VLĐ thì cần thiết phải tiến hành phân loại vốn khác nhau.  Phân loại VLĐ - Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn lưu động người ta chia vốn là ba loại: + Vốn dự trữ: Là một bộ phận dùng để mua nguyên liệu, phụ tùng thay thế... dự trữ và đưa vào sản xuất. + Vốn trong sản xuất: Là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn sản xuất + Vốn trong lưu thông: Là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu thông như thành phẩm, vốn tiền mặt... - Căn cứ vào phương pháp xác định vốn người ta chia vốn thành: + VLĐ định mức: là số VLĐ cần thiết tối thiểu thường xuyên trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm: vốn dự trữ, vốn trong sản xuất và thành phẩm, hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm, vật tư thuê ngoài chế biến. + VLĐ không định mức: là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh nhưng không có căn cứ để tính định mức được. - Căn cứ vào nguồn hình thành: + VLĐ tự có: là số vốn doanh nghiệp được Nhà nước cấp, VLĐ từ bổ sung lợi nhuận, các khoản phải trả nhưng chưa đến kỳ hạn... + VLĐ đi vay: đây là nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu về VLĐ thường xuyên cần thiết trong kinh doanh. Có thể vay vốn ngân hàng, các tổ chức tín dụng hoặc có thể vay vốn của các đơn vị, tổ chức và các cá nhân khác trong và ngoài nước. Mỗi doanh nghiệp cần xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý . Sự khác nhau cơ bản giữa VCĐ và VLĐ là: nếu như VCĐ tham gia vào quá trình sản xuất như tư liệu lao động thì VLĐ là đối tượng lao động. Nếu như VLĐ tạo ra thực thể của sản phẩm hàng hoá thì VCĐ là phương thức để dịch chuyển VLĐ thành sản phẩm hàng hoá. Mặt khác nếu như VLĐ được kết chuyển một lần vào giá trị của sản phẩm hàng hoá và thu hồi được ngay sau khi doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá còn VCĐ tham gia nhiều vào quá trình sản xuất kinh doanh và kết chuyển vào giá trị sản phẩm hàng hoá dưới hình thức khấu hao. 4.4. Căn cứ vào phạm vi nguồn hình thành vốn 4.4.1. Nguồn vốn do doanh nghiệp tự cung ứng  Khấu hao tài sản cố định Việc xác định mức khấu hao cụ thể phụ thuộc vào thực tiễn sử dụng tài sản cố định cũng như ý muốn chủ quan của con người. Đối với doanh nghiệp nhà nước trong chừng mực nhất định phải phụ thuộc ý đồ của Nhà nước, các doanh nghiệp khác có thể tự lựa chọn thời hạn sử dụng và phương pháp tính khấu hao cụ thể. Trong chính sách tài chính của mình, doanh nghiệp có thể lựa chọn và điều chỉnh khấu hao tài sản cố định và coi đây là một nguồn cung ứng vốn bên trong của mình.  Tích luỹ tái đầu tư Nguồn này phụ thuộc vào hai nhân tố cụ thể và tổng số lợi nhuận thu được trong từng thời kỳ kinh doanh và chính sách phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước toàn bộ lợi nhuận thu được sẽ phải sử dụng cho các khoản. + Nộp tiền sử dụng vốn ngân sách nhà nước theo quy định + Trả các khoản phải quy định + Lập các quỹ đặc biệt  Điều chỉnh cơ cấu tài sản Phương thức này tuy không làm tăng tổng số vốn sản xuất - kinh doanh nhưng lại có tác dụng rất lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết. 4.4.2. Nguồn vốn do bên ngoài cung ứng  Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu Là hình thức do doanh nghiệp được cung ứng vốn trực tiếp từ thị trường chứng khoán. Khi có cầu về vốn và lựa chọn hình thức này, doanh nghiệp tính toán và phát hành cổ phiếu bán trên thị trường chứng khoán. Đặc trưng cơ bản là tăng vốn nhưng không tăng nợ của doanh nghiệp bởi lẽ những người sở hữu cổ phiếu trở thành cổ đông của doanh nghiệp. Vì lẽ đó nhiều nhà quản trị học coi hình thức này là nguồn cung ứng nội bộ. Tuy nhiên chỉ có công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn mới được phát hành cổ phiếu. Và doanh nghiệp phải có nghĩa vụ công khai hoá thông tin tài chính theo Luật doanh nghiệp.  Vay tiền bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn Đây là hình thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng. Doanh nghiệp phát hành lượng vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường có kỳ hạn xác định và bán cho công chúng. Đặc trưng cơ bản là tăng vốn gắn với tăng nợ của doanh nghiệp. Cũng có những ưu điểm và hạn chế nhất định. - Ưu điểm chủ yếu: có thể huy động được một lượng vốn cần thiết, chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm soát chặt chẽ như vay ngân hàng và doanh nghiệp. - Hạn chế: đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm chắc kỹ thuật tài chính để tránh áp lực nợ đến hạn và vẫn có lợi nhuận đặc biệt khi kinh tế suy thoái lạm phát cao. Chi phí kinh doanh phát hành trái phiếu khá cao vì doanh nghiệp cần có sự trợ giúp của ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp phải tính toán thoả mãn hai điều kiện: TSCĐ phải nhỏ hơn tổng số vốn và nợ dài hạn của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nào thoả mãn các điều kiện theo luật định mới được phép phát hành trái phiếu.  Vay vốn của các ngân hàng thương mại Vay vốn từ các ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn dưới các hình thức cụ thể ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn từ các ngân hàng thương mại. Đây là mối quan hệ tín dụng giữa một bên đi vay và một bên cho vay. Với hình thức này doanh nghiệp có thể huy động được một lượng vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các doanh nghiệp cùng tham gia thẩm định dự án nếu có cầu vay đầu tư lớn. Yêu cầu doanh nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm phán, chấp nhận các thủ tục thẩm định ngặt nghèo. Nếu doanh nghiệp vay tiền của ngân hàng có thể bị ngân hàng thương mại kiểm soát các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian cho vay.  Tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp: Trong hoạt động kinh doanh, quan hệ mua bán trao đổi giữa các doanh nghiệp thông thường không kết thúc tại một điểm, tức là xuất hiện sự chênh lệch về mặt thời gian giữa dòng tài chính và dòng vật chất. Thực chất luôn diễn ra đồng thời quá trình doanh nghiệp nợ khách hàng tiền và chiếm dụng tiền của khách hàng. Nếu tiền doanh nghiệp chiếm dụng của khách hàng nhiều hơn số tiền doanh nghiệp bị chiếm dụng thì số tiền dôi ra sẽ mang bản chất tín dụng thương mại hay tín dụng nhà cung cấp. Ngoài tín dụng thương mại còn gồm cả khoản đặt cọc trước của khách hàng. Đây là một hình thức tín dụng ngắn hạn quan trọng (thường phải thanh toán trong vòng 30-90 ngày) đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp đang trong thời kỳ tăng trưởng.  Tín dụng thuê mua Trong cơ chế thị trường hình thức này được thực hiện giữa một doanh nghiệp có cầu sử dụng máy móc, thiết bị với một doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua diễn ra khá phổ biến. Hình thức này có ưu điểm rất cơ bản là giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, khi nào doanh nghiệp có cầu về sử dụng máy móc, thiết bị cụ thể mới đặt vấn đề thuê mua. Doanh nghiệp không chỉ được nhận máy móc thiết bị mà còn được nhận tư vấn đào tạo. Tuy nhiên cũng có những hạn chế như: chi phí kinh doanh cho việc sử dụng máy móc thiết bị cao và hợp đồng tương đối phức tạp.  Vốn liên doanh, liên kết Với phương thức này doanh nghiệp liên doanh, liên kết với một hoặc một số doanh nghiệp khác nhằm tạo vốn cho hoạt động liên doanh nào đó. - Ưu điểm: với hình thức này doanh nghiệp sẽ có một lượng vốn cần thiết cho một hoặc một số hoạt động nào đó mà không tăng nợ. - Nhược điểm: các bên liên doanh cùng tham gia liên doanh và cùng chia sẽ lợi nhuận thu được.  Nguồn vốn ODA Đối tác mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm và nhận được nguồn vốn này là các chương trình hợp tác của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế khác. Hình thức cấp vốn ODA có thể là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán. Hình thức này có chi phí kinh doanh thấp (sử dụng vốn). Tuy nhiên để nhận được nguồn vốn này các doanh nghiệp phải chấp nhận thủ tục chặt chẽ. Đồng thời doanh nghiệp phải có điều kiện làm việc với các cơ quan Chính phủ và chuyên gia nước ngoài.  Nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp FDI Với phương thức này doanh nghiệp không chỉ nhận được vốn mà còn nhận được cả kỹ thuật - công nghệ cũng như phương thức quản trị tiên tiến và cũng được chia sẻ thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên huy động vốn theo hình thức này phải chịu sự kiểm soát điều hành của doanh nghiệp (tổ chức kinh tế) nước ngoài phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn.  Cung ứng vốn từ sự kết hợp công và tư trong xây dựng cơ bản Phương thức này rất có ý nghĩa với các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng, song cũng đòi hỏi doanh nghiệp phải có những điều kiện nhất định. Như vậy, tuỳ mục đích nghiên cứu, đặc thù của doanh nghiệp mà lựa chọn cách phân loại, cũng như kết cấu thích hợp. II. Hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp 1. Khái niệm chung về hiệu quả - hiệu quả sử dụng vốn Mặc dù có rất nhiều các quan điểm khác nhau về vấn đề hiệu quả song có thể khẳng định trong nền kinh tế thị trường hiệu qủa là công cụ để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Mọi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh đều có mục tiêu bao trùm lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Hiệu quả là một phạm trù được sử dụng rất rộng rãi trong cả các lĩnh vực kinh tế xã hội và kỹ thuật. Song ở đây chúng ta chỉ xem xét hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh (hiệu quả kinh doanh ). Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị, máy móc, nguyên nhiên vật liệu và tiền vốn ) để đạt mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét với mỗi sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào. Vì vậy có thể mô tả bằng công thức: + Hiệu quả kinh doanh : H =K/C Trong đó : K: là kết quả đạt được C: hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả. Như vậy, Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trong sự vận động không ngừng của các quá trình sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào qui mô, tốc độ biến động của từng nhân tố. – [8] Hiệu quả kinh doanh cũng là một phạm trù phức tạp, và khó xác định tính toán bởi cả phạm trù kết quả và hao phí nguồn lực gắn với một thời kỳ cụ thể đều khó xác định một cách chính xác. Từ các vấn đề trên suy ra : ‘Hiệu quả sử dụng vốn là một bộ phận của hiệu quả kinh doanh, nó phản ánh trình độ lợi dụng nguồn vốn của doanh nghiệp nhằm mục tiêu xác định. Hiệu quả sử dụng vốn ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn phản ánh mối quan hệ so sánh giữa kết quả thu được với số vốn bình quân đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định ‘.[11] Và hai loại chỉ tiêu trên được xem xét với yếu tố đầu vào là vốn cố định và vốn lưu động. 2. Bản chất hiệu quả sử dụng vốn Để hiểu rõ bản chất của hiệu qủa kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng, cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù kết quả và hiệu quả sử dụng vốn. Kết quả sử dụng vốn bao giờ cũng là mục tiêu mà doanh nghiệp hướng tới, có thể biểu hiện bằng đơn vị hiện vật cụ thể như m, lít, kg,…hay đơn vị giá trị như triệu đồng, ngoại tệ,… Kết quả sử dụng vốn cũng có thể phản ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh hoàn toàn định tính của doanh nghiệp như uy tín, danh tiếng, chất lượng sản phẩm…Nhưng không chỉ có kết quả định tính mà kết quả định lượng của một thời kỳ kinh doanh nào đó thường là rất khó xác định bởi nhiều lý do như kết quả không chỉ là sản phẩm hoàn chỉnh mà còn là sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,....Hơn nữa, hầu như quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lại tách rời quá trình tiêu thụ nên ngay cả sản phẩm sản xuất xong ở một thời kỳ nào đó cũng chưa thể khẳng định được liệu sản phẩm đó có tiêu thụ được không và bao giờ thì tiêu thụ và thu được tiền về …nên nó cũng lại tách rời quá trình tiêu thụ. Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực vốn. Trình độ lợi dụng nguồn lực vốn không thể đo bằng các đơn vị hiện vật hay giá trị mà là một phạm trù tương đối, chỉ có thể được phản ánh bằng số tương đối: tỷ số giữa kết quả và hao phí nguồn lực vốn tạo ra kết quả đó. Cũng cần tránh nhầm lẫn giữa phạm trù hiệu quả với phạm trù mô tả sự chênh lệch giữa kết quả và vốn. Chênh lệch giữa kết quả và vốn luôn là số tuyệt đối, phạm trù này phản ánh mức độ đạt được của vốn nên cũng mang bản chất kết quả của việc sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh và không bao giờ phản ánh trình độ lợi dụng nguồn lực vốn. Nếu kết quả là mục tiêu của quá trình sản xuất kinh doanh thì hiệu quả sử dụng vốn là phương tiện để doanh nghiệp có thể đạt được mục tiêu đó. Mặt khác, hao phí nguồn lực vốn của một thời kỳ trước hết là hao phí về mặt hiện vật, cũng có thể được xác định bằng đơn vị hiện vật hay đơn vị giá trị. Tuy nhiên, thông thường người ta hay xác định bằng đơn vị giá trị vì nó mang tính so sánh cao hơn. Việc xác định hao phí nguồn lực trong một thời kỳ là một vấn đề không đơn giản, không đơn giản ngay ở sự nhận thức về vấn đề này: Hao phí nguồn lực vốn này được đánh giá thông qua phạm trù chi phí kế toán hay chi phí sản xuất kinh doanh ? Chỉ có phạm trù chi phí sản xuất kinh doanh mới phản ảnh tương đối đầy đủ chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã bỏ ra. Nhưng việc có tính toán được chi phí kinh doanh trong từng thời kỳ kinh doanh ngắn hay không cũng như có tính toán được chi phí kinh doanh tới từng bộ phận hay không còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học quản trị chi phí kinh doanh . Cũng cần chú ý rằng hiệu quả sử dụng vốn phản ánh trình độ lợi dụng nguồn lực vốn trong một thời kỳ kinh doanh nào đó cũng hoàn toàn khác với việc so sánh sự tăng lên của kết quả với sự tăng lên của sự tham gia các yếu tố đầu vào. Vậy, bản chất của phạm trù kết quả và hiệu quả sử dụng vốn là hoàn toàn khác nhau. Kết quả là mục tiêu còn hiệu quả sử dụng vốn là phuơng tiện để doanh nghiệp đạt mục tiêu đó trong một thời kỳ nhất định. 3. Mục đích Phân tích hiệu quả sử dụng vốn Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhằm mục đích thông tin giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có các quyết định đúng đắn, kịp thời. - Xác lập được một cơ cấu vốn hợp lý - Giúp cho các nhà quản trị đánh giá được tình hình thực tế về vấn đề sử dụng vốn. - Từ đó tìm ra những mặt yếu kém, chưa có hiệu quả cụ thể đến từng bộ phận và xem xét, phát hiện ra những nguyên nhân để tìm ra những biện pháp khắc phục. Tuy nhiên để công việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn là đúng, xác thực và phát huy được những mục đích trên thì cần quán triệt một số nhiệm vụ sau: - Thông tin thu thập để phân tích được lấy từ nguồn như báo cáo về tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp khác đặc biệt cùng ngành, tài liệu thống kê các vấn đề có liên quan của ngành. - Xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá thích hợp. - Sử dụng các phương pháp đánh giá kết hợp với các chỉ tiêu đã xây dựng. - Lựa chọn tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả thích hợp - Cung cấp thông tin đánh giá đến cán bộ quản trị doanh nghiệp . 4. Các chỉ tiêu đánh giá và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng vốn 4.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói chung  Hệ số doanh lợi của tổng vốn = (lợi nhuận thuần + lãi trả vốn vay)/tổng tài sản - ý nghĩa: hệ số doanh lợi của vốn cho biết cứ đầu tư một đồng vốn vào sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần (gồm cả lãi trả vốn vay). Chỉ tiêu này càng cao thì có thể khẳng định hiệu quả sử dụng tổng vốn của doanh nghiệp càng cao. Nhưng, nếu lãi trả vốn vay là quá lớn thì cũng cần xem xét lại bởi thực chất, lãi trả vốn vay cũng là chi phí kinh doanh.  Số vòng quay của toàn bộ vốn kinh doanh = doanh thu/ tổng tài sản - ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết, tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng trong kỳ sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ vốn càng quay được nhiều vòng trong kỳ và hiệu quả sử dụng vốn càng cao. 4.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ thường sử dụng là:  Sức sản xuất của VCĐ = Doanh thu thuần/VCĐ bình quân - ý nghĩa: Sức sản xuất của VCĐ cho biết, cứ một đồng VCĐ đầu tư vào sản xuất kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ sức sản xuất của VCĐ càng cao và hiệu quả sử dụng VCĐ càng cao.  Hệ số đảm nhiệm của VCĐ = VCĐ bình quân/Doanh thu thuần - ý nghĩa: Hệ số đảm nhiệm cho biết, để tạo ra được một đồng doanh thu thuần thì doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng VCĐ để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ doanh nghiệp càng tiết kiệm được VCĐ và hiệu quả sử dụng VCĐ càng cao.  Hiệu suất sử dụng VCĐ = Lợi nhuận thuần/VCĐ bình quân - ý nghĩa: Hiệu suất sử dụng VCĐ cho biết cứ đầu tư một đồng VCĐ vào sản xuất kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng VCĐ càng cao.  Suất hao phí của VCĐ = VCĐ bình quân/lợi nhuận thuần - ý nghĩa: Suất hao phí cho biết, để tạo ra được một đồng lợi nhuận thuần thì doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp càng tiết kiệm được VCĐ nên hiệu quả sử dụng VCĐ càng cao. 4.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ thường được sử dụng là:  Số vòng quay của VLĐ = doanh thu thuần/VLĐ bình quân - ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết, VLĐ của doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng trong kỳ sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ VLĐ trong kỳ càng quay vòng nhanh nên hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao.  Mức đảm nhiệm của VLĐ = VLĐ bình quân / doanh thu thuần - ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết để tạo ra được một đồng doanh thu thuần, doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng VLĐ để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này càng thấp, chứng tỏ doanh nghiệp càng tiết kiệm được VLĐ, do đó hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao.  Số ngày bình quân của một vòng luân chuyển VLĐ = 365/ số vòng quay của VLĐ - ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để VLĐ quay được một vòng quay. Chỉ tiêu này càng thấp, chứng tỏ VLĐ càng quay vòng nhanh và hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao.  Hiệu suất sử dụng VLĐ = lợi nhuận thuần / VLĐ bình quân - ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết cứ đầu tư một đồng VLĐ vào sản xuất kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần. Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao. 4.4. Tiêu chuẩn hiệu quả Từ công thức xác định hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng nói riêng, ta có thể xác lập được một dãy các giá trị có thể có của kết quả/chi phí kinh doanh. Nếu xét các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh cụ thể thì với mỗi chỉ tiêu cũng đều xác lập được một dãy các giá trị có thể. Vấn đề được đặt ra là liệu mọi giá trị đó đều phản ánh có hiệu quả ở mức độ khác nhau hay trong dãy các giá trị đó thì giá trị nào thì có hiệu quả ? Rõ ràng, trong dãy giá trị có thể của mỗi chỉ tiêu không phải giá trị nào cũng phản ánh sự có hiệu quả. Trường hợp doanh nghiệp bị lỗ vốn chỉ tiêu lợi nhuận/vốn âm thì rõ ràng là doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả. Còn các giá trị khác, khi nào có và khi nào không có hiệu quả ? Chính vì vậy, phải nghiên cứu phạm trù tiêu chẩn hiệu quả. Có thể hiểu, tiêu chuẩn hiệu quả là giới hạn, là “mốc ” xác định ranh giới có hay không có hiệu quả. Như thế, trước hết cần xác định được tiêu chuẩn hiệu quả cho mỗi chỉ tiêu để phân biệt “ mức ” có hay không có hiệu quả. Sẽ không có tiêu chuẩn chung cho các công thức xác định khác nhau. Nếu theo phương pháp so sánh toàn ngành có thể lấy giá trị bình quân đạt được của ngành làm tiêu chuẩn hiệu quả. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp chỉ đạt được hiệu quả nếu giá trị đạt được ứng với một chỉ tiêu cụ thể xác định không thấp hơn giá trị bình quân của ngành. 5. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 5.1. Các nhân tố bên trong. 5.1.1. Lực lượng lao động. Người ta thường nhắc đến luận điểm ngày nay khoa học công nghệ kỹ thuật công nghệ đã trở thành lực lượng lao động trực tiếp. áp dụng kỹ thuật tiên tiến là điều kiện tiên quyết để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, máy móc dù có tối tân đến đâu cũng do con người chế tạo ra. Nếu không có lao động sáng tạo của con người, sẽ không thể có các máy móc thiết bị đó. Mặt khác máy móc thiết bị dù có hiện đại tối tân đến đâu cũng phải phù hợp với trình độ tổ chức, trình độ kỹ thuật, trình độ sử dụng máy móc thiết bị của người lao động. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp nhập tràn lan máy móc thiết bị hiện bại của nước ngoài nhưng do trình độ sử dụng yếu kém nên không những không đem lại hiệu quả mà còn vừa tốn kém tiền của cho hoạt động sửa chữa nên hiệu quả kinh doanh rất thấp. Trong sản xuất kinh doanh lực lượng lao động của doanh nghiệp có thể sáng tạo ra công nghệ, kỹ thuật mới và đưa chúng vào sử dụng tạo ra tiềm năng lớn cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cũng chính lực lượng lao động sáng tạo ra sản phẩm mới với kiểu dáng phù hợp với cầu người tiêu dùng làm cho sản phẩm của doanh nghiệp có thể bán được tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả. Lực luợng lao động tác động trực tiếp đến năng suất lao động, đến trình độ sử dụng các nguồn lực khác nên tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. 5.1.2. Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật Cơ sở vật chất kỹ thuật là nền tảng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trong quá trình sử dụng nó sẽ bị hao mòn (cả hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình). Do vậy, doanh nghiệp phải luôn luôn quan tâm để sửa chữa, nâng cấp đổi mớivì nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến năng suất lao động. Năng suất lao động tăng, làm giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng chất lượng….và sẽ làm tăng hiệu quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn 5.1.3. Nhân tố quản trị. Nhà quản trị là kim chỉ nam cho mọi hoạt động trong doanh nghiệp vai trò của nhà quản trị trong kinh doanh hiện đại ngày nay càng được coi trọng. Sự thành bại của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào trình độ quản trị. Các quyết định của nhà quản trị doanh nghiệp về các hoạt động đầu tư sẽ liên quan đến toàn bộ quá trình sản xuất của hoạt động đầu tư đó. Nếu quyết định đầu tư đúng thì mới có cơ sở nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Mặt khác, những quyết định đúng về cầu, lựa chọn nhà cung ứng thích hợp, linh hoạt trong điều chỉnh chiến luợc sản xuất, sử dụng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và khéo léo trong thu hồi vồn… cũng sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng vốn. 5.1.4. Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin. Trong kinh doanh hiện đại, thông tin có một vai trò hết sức quan trọng, nó chính là phương tiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. cũng như chiến thắng trong cạnh tranh. Các thông tin đó bao gồm các thông tin về thị trường với cầu về sản phẩm, giá cả, đối thủ cạnh tranh và nhà cung ứng,...; về chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước, về điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những thông tin đúng đắn, đầy đủ, kịp thời là cơ sở vững chắc để doanh nghiệp xác định và điều chỉnh chiến lược kinh doanh sao cho phù hợp, đảm bảo tính chất “động và tấn công” nhằm đáp ứng tốt cầu thị trường, chiến thắng đối thủ cạnh tranh, tăng thị phần và nâng cao vị thế, uy tín của doanh nghiệp. Từ đó, tăng doanh thu, lợi nhuận, tăng số vòng quay của vốn,... tạo điều kiện đổi mới công nghệ, khuyến khích người lao động tích cực làm việc, tăng năng suất...Đây chính là tiền đề nâng hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. 5.1.5. Nhân tố tính toán kinh tế. Hiệu quả sử dụng vốn được xác định bằng tỷ số giữa kết quả đạt được và hao phí nguồn lực vốn để đạt được kết quả đó. Mà các đại lượng kết quả và chi phí trong mỗi thời kỳ đều rất khó xác định. Hiệu quả sử dụng vốn ở đây phải gắn với chi phí kinh doanh mới có thể phản ánh chính xác và có ý nghĩa đích thực nhưng để làm được điều này thì doanh nghiệp phải triển khai tính chi phí kinh doanh. 5.2. Các nhân tố bên ngoài. 5.2.1. Môi trường pháp lý. Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật, …Mọi quy định về pháp luật kinh doanh đều tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì môi trường pháp lý tạo ra “sân chơi” để các doanh nghiệp cùng tham gia hoạt động kinh doanh, vừa cạnh tranh lại vừa hợp tác với nhau tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh là rất quan trọng. Nó có thể tác động tích cực hay tiêu cực đến doanh nghiệp. Nhưng doanh nghiệp không có quyền thay đổi nó, do đó nếu tác động tích cực đến doanh nghiệp thì đó là một thuận lợi và doanh nghiệp phải nắm bắt. Ngược lại, doanh nghiệp phải tự điều chỉnh để hạn chế, khắc phục khó khăn nhằm đạt hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn. 5.2.2. Môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế là môi truờng bên ngoài tác động rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trước hết phải kể đến chính sách đầu tư, chính sách phát triển, …mang tầm vĩ mô của Nhà nước. Nó có thể thúc đấy hoặc kìm hãm sự phát triển của từng ngành, vùng cụ thể và do đó tác động đến hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn. 5.2.3. Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng. Doanh nghiệp ở khu có cơ sở hạ tầng (ví dụ giao thông thuận tiện, mạng lưới thông tin, điện nước,…) tốt thì sẽ tạo thuận lưọi cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh , tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, giảm chi phí góp phần tăng hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. phần II Thực trạng vốn và công tác quản lý sử dụng vốn tại công ty cổ phần xây dựng công trình thăng long 9 I. Giới thiệu tổng quan về công ty: Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 – Là đơn vị thi công xây dựng với chuyên ngành xây dựng cơ bản. Là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân đầy đủ. 1. Tên công ty: Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 Tên giao dịch: 9 Thăng Long construction joint stock company Tên viết tắt: T.L., JSC. 2. Địa chỉ trụ sở chính: Phòng 406 Toà nhà CT4A2 – Khu đô thị Bắc Linh Đàm, Phường Đại Kim, Quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội. - Điện thoại: 04.6413920 Fax: 04.6413973 - Email: Tlong@vol.vnn.vn/tl9jsc@yahoo.com Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 thành lập ngày 17 tháng 07 năm 2001. Được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần, hoạt động kinh doanh trên cơ sở góp vốn của các cổ đông, theo nguyên tắc hợp tác cùng có lợi. Là đơn vị mới ra đời, tiềm năng, năng lực hoạt động còn hạn chế, hạch toán tài chính một cách độc lập, chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về kết quả kinh doanh của công ty mình theo các điều khoản của hình thức công ty cổ phần. 3. Ngành nghề kinh doanh:. - Xây dựng dân dụng, công nghiệp, giao thông thuỷ lợi. - Sản xuất, buôn bán vật liệu xây dựng. - Buôn bán máy móc, linh kiện, thiết bị điện tử, viễn thông, tin học. - Sản xuất, thiết kế cài đặt phần mềm tin học. - Đại lý bán lẻ xăng dầu, khí đốt, gas hoá lỏng. - Vận chuyển hành khách và hàng hóa. - Kinh doanh bất động sản. - Kinh doanh nhà hàng, khách sạn. - Đại lý mua, đại lý bán, ký gửi hàng hoá. - Đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp, khu Đô thị mới, bao gồm cả đường giao thông, cầu, phà, các công trình điện nước. - Kinh doanh phát triển nhà. - Đầu tư và xây dựng nhà máy thuỷ điện, kinh doanh điện. - Đầu tư khai thác khoáng sản và kinh doanh khoáng sản. ( Doanh nghiệp chỉ kinh doanh khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật) 4. Người đại diện theo pháp luật của công ty: Chức danh : Giám đốc Họ và tên: Lê Thống Nhất Giới tính: ( Nam) Sinh ngày: 18/07/1976 Dân tộc: Kinh Quốc tịch: Việt Nam, Chứng minh nhân dân số: 090698108 Ngày cấp: 24/04/1994 Nơi cấp: Công an tỉnh Bắc Thái Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 17, phường Hương Sơn, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Chỗ ở hiện tại: xóm Đền, thôn Kim Lũ, xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, Hà Nội. 5. Chức năng, nhiệm vụ của công ty: Là một doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng cơ bản nên toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính của Công ty đều được tổ chức phù hợp với quy trình công nghệ xây dựng rất phức tạp. Các sản phẩm xây dựng của Công ty thường là các công trình hay hạng mục công trình có giá trị lớn, có tính đơn chiếc, được xây dựng cố định. Phương thức hoạt động chủ yếu của Công ty là hình thức đấu thầu công trình, vì vậy kế hoạch tài chính, kế hoạch sản xuất đều được xây dựng trên cơ sở các hợp đồng trúng thầu - Là công ty xây lắp do vậy những sản phẩm chủ yếu của Công ty là các công trình dân dụng và quốc phòng. Trong lúc đó đầu tư xây dựng ngày càng giảm. Vì vậy, việc tìm kiếm việc làm của công ty gặp nhiều khó khăn. - Công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản năm 2001 Nhà nước và Bộ xây dựng có các văn bản quy định chỉ thị chặt chẽ từ đấu thầu, chất lượng, thanh quyết toán công trình. Đặc biệt yêu cầu về chất lượng giá thành công trình hết sức nghiêm ngặt. - Vốn sản xuất kinh doanh của Công ty còn hạn chế kể cả con người và trang thiết bị. 6. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất của công ty: Như chúng ta đã biết sản phẩm xây dựng là những công trình, nhà cửa, xây dựng và sử dụng tại chỗ, sản phẩm mang tính đơn chiếc, có kích thước và chi phí lớn, thời gian xây dựng lâu dài. Xuất phát từ đặc điểm đó nên quá trình sản xuất các loại sản phẩm chủ yếu của Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 nói riêng và các công ty xây dựng nói chung là sản xuất liên tục, phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau( điểm dừng kỹ thuật) mỗi công trình đều có một dự toán, thiết kế riêng và phân bổ rải rác ở các địa điểm khác nhau. Tuy nhiên hầu hết các công trình đều phải tuân theo một quy trình công nghệ như sau: Quy trình công nghệ sản xuất của công ty 7. Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của công ty: ....................... Đấu thầu Ký hợp đồng với chủ đầu tư Tổ chức thi công Nghiệm thu kỹ thuật tiến độ thi công với bên A Bàn giao thanh quyết toán với công trình HĐQT Giám đốc 02 Phó giám đoc Phòng TCKT Phòng KD BĐS Phòng TCHC Phòng KH- DT Phòng VT-XM Công trường A Công trường B Công trường C 8. Sơ đồ cơ cấu bộ máy kế toán của công ty: 9. Những thuận lợi, khó khăn và hướng phát triển : Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 là một doanh nghiệp còn non trẻ đang trên đà phát triển, tuy nhiên qua số liệu một vài năm qua cho thấy doanh thu, lợi nhuận, thu nhập bình quân đầu người và đặc biệt là tài sản của Công ty tăng lên nhanh chóng. Công ty đã tự khẳng định được mình và không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động. Được các nhà đầu tư đánh giá cao về chất lượng và tiến độ của các công trình mà Công ty thi công. Đội ngũ cán bộ công nhân viên của Công ty nhiệt tình, gắn bó với công việc, trình độ nghiệp vụ, tay nghề ngày một cao. Thu nhập của cán bộ quản lý và nhân viên ổn định, đời sống luôn được cải thiện ngày một tốt hơn. Nhưng bên cạnh đó Công ty còn gặp nhiều khó khăn do Công ty là một doanh nghiệp còn non trẻ nên còn rất nhiều hạn chế trong khi tham gia đấu thầu các công trình. Ngoài ra Công ty cần một lượng vốn rất lớn để đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị để mở rộng phạm vi kinh doanh nên rất cần thiết được các nhà đầu tư bổ sung, góp vốn cổ phân, các ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty vay vốn với lãi suất ưu đãi. Nhận thức được vấn đề đó, Công ty vẫn đang từng bước khắc phục và khẳng định vị trí của mình luôn đề ra kế hoạch, biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và hướng phát triển trong tương lai: - Luôn hoàn thành kế hoạch đặt ra. - Tăng cường các khâu quản lý. Kế toán trưởng Kế toán tổng hợp Kế toán vật tư Thủ quỹ Kế toán than h Kế toán sổ NK Kế toán TSCĐ - Tăng cường sử dụng tối đa tài sản. - Quản lý và sử dụng hợp lý nguồn vốn. - Đầu tư trọng điểm các công trình có lợi nhuận cao. - Liên doanh liên kết, hợp tác với các đơn vị khác… II. Thực trạng vốn và công tác quản lý sử dụng vốn tại Công ty cổ phần xây dựng công trình thăng long 9 1. Khái quát tình hình tài chính của Công ty Cổ phần Xây dựng công trình Thăng Long 9 Bảng 1 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong một số năm gần đây TT Chỉ tiêu Đơn vị 2004 2005 2006 1 Doanh thu Triệu đồng 13.230,65 15.290,15 28.815,92 2 Nộp thuế Triệu đồng 37 56 139 3 Lợi nhuận Triệu đồng 150 167 296 4 Thu nhập bình quân /người/tháng 1000đ 750 900 1100 ( Nguồn:[6] ) 0 10,000 20,000 30,000 triÖu ®ång N¨m 2004 N¨m 2005 N¨m 2006 Doanh thuDoanh thu 0 100,000 200,000 300,000 ngh×n ®ång N¨m 2004 N¨m 2005 N¨m 2006 Lî i nhuËn Lî i nhuËn 0 500 1000 1500 ngh×n ®ång N¨m 2004 N¨m 2005 N¨m 2006 Thu nhËp b×nh qu©n Thu nhËp b×nh qu©n Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần nên Công ty phải tự tạo nguồn vốn kinh doanh cho mình bằng cách tự bổ sung từ lợi nhuận hoạt động kinh doanh của Công ty, các khoản vay ngắn hạn Ngân hàng để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh và bổ sung bằng các nguồn tài chính bên ngoài khác. Bằng hình thức trả chậm số những khoản nợ trong thời gian cho phép của các bạn hàng, các nhà thầu phụ, Công ty có thể tranh thủ được nguồn vốn này để phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo đó là một cách chiếm dụng vốn của đơn vị khác mà chúng ta có thể thấy ở bất kỳ doanh nghiệp sản xuất nào đó. Bảng 2 Bảng nghiên cứu đánh giá biến động kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2005- 2006 (Đơn vị tính: triệu đồng) ( Nguồn:[6] ) Trong đó: Số tuyệt đối = năm 2006 - năm 2005 Số tương đối =[(năm 2006/năm 2005)x 100%] - 100%. (Số liệu của hai năm lấy trong bảng kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty) Nhìn vào bảng nghiên cứu đánh giá biến động hoạt động sản xuất kinh doanh, ta có nhận xét sau: Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 So sánh Tuyệt đối Tương đối(%) 1.Doanh thu thuần 15.290,15 28.815,92 13.525,7 7 88,46 2.Giá vốn hàng bán 14.499,42 27.612,31 13.112,5 3 90,44 3.Lợi nhuận gộp 790,71 1.203,49 412,77 52,20 5.Chi phí quản lý doanh nghiệp 574,17 776,18 202 35,18 6.Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh 216,54 427,32 210,78 97,34 7.Thu nhập hoạt động tài chính 2,17 8,19 6,02 278,00 9.Lợi nhuận thuần từ hoạt động tài chính 2,17 8,19 6,02 278,00 10.Các khoản thu nhập bất thường 4,52 0,792 -3,736 -82,51 12.Lợi nhuận bất thường 4,52 0,792 -3,736 -82,51 13.Tổng lợi nhuận trước thuế 223,24 436,30 213,06 95,44 14.Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp 25% 55,80 139,61 88,06 150,17 15.Lợi nhuận sau thuế 167,42 296,68 129,25 77,20 Năm 2006 so với năm 2005 doanh thu tăng gần gấp đôi doanh thu năm 2005, cụ thể tăng tuyệt đối là 13.525,77 triệu đồng, tương đương với 88,46%. Điều này cho thấy năm 2006, Công ty kinh doanh rất phát triển, có nhiều công trình đã đưa vào nghiệm thu và sử dụng. Do Công ty là một công ty xây dựng nên chi phí bỏ ra ban đầu cũng tương đối lớn. Nhưng bên cạnh đó, các khoản giảm trừ như giảm giá hàng bán, hàng bị trả lại, thuế TTĐB, thuế xuất khẩu phải nộp đều không có nên doanh thu không thay đổi cũng chính là tổng doanh thu. Giá vốn hàng bán: tăng 13.113,53 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 88,46%, do doanh thu tăng mà doanh thu tăng là do năm 2006 Công ty sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Lợi nhuận gộp: tăng cụ thể là :412,77 triệu đồng so với năm 2005, tương đương với 52,20%. Năm 2006, Công ty có nhiều công trình hoàn thành quyết toán nên chi phí quản lý doanh nghiệp cũng tăng lên. Công ty có nhiều khoản phải chi nên chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 202 triệu đồng, với tỷ lệ tăng là 35,18% so với năm 2005. Năm 2006, lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên một cách đáng kể, đó là 211 triệu đồng, với tỷ lệ tăng là 97,34% so với năm 2005. Đây là một điều đáng mừng cho Công ty. Là một công ty xây dựng để lãi số tiền như vậy cũng là một thành công không nhỏ. Hơn nữa, năm 2006 Công ty có nhiều công trình quyết toán và thanh toán bằng chuyển khoản nên năm 2006 lợi nhuận thuần từ hoạt động tài chính tăng lên 6,02 triệu đồng, với tỷ lệ tăng là 278% so với năm 2005. Chứng tỏ một điều rằng khả năng thanh toán của Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 hoàn toàn tăng lên, nhu cầu vay vốn nhờ đó cũng có phần giảm bớt. Lợi nhuận tài chính tăng lên không những giúp cho Công ty phát triển, đứng vững trong nền kinh tế cạnh tranh này, mà còn chứng tỏ một điều chắc chắn rằng khả năng thu hồi vốn của Công ty là rất an toàn và có hiệu quả. Chi phí hoạt động tài chính năm 2006 so với năm 2005 không có gì biến đổi. Do năm 2006 Công ty có doanh thu lớn nên các khoản lợi nhuận bất thường không tăng lên mà còn giảm từ 4,53 triệu đồng năm 2005 đến năm 2006 giảm xuống còn 0,79 triệu đồng. Tức là giảm 3,73 triệu đồng, với tỷ lệ giảm là 82,51%. Điều này hoàn toàn dễ hiểu, do năm 2005 Công ty còn có khoản nợ phải thu khó đòi nên Công ty có thu lãi bất thường từ các khoản mà khách hàng chưa thanh toán hết. Xong, năm 2006 dường như các công trình, các khoản nợ của khách hàng đều được giảm một cách đáng kể. Do tổng doanh thu tăng mà các khoản thu nhập bất thường khác giảm nên tổng lợi nhuận trước thuế tăng, cụ thể là từ 223,23 triệu đồng đến 436,30 triệu đồng, tức là tăng 213,06 triệu đồng, tương đương với tỷ lệ tăng là 95,44%. Do lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh tăng, năm 2006 Công ty hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả nên sau khi trừ các khoản chi phí khác Công ty đã có lợi nhuận. Điều này thể hiện ở thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2006 tăng so với năm 2005 là 83,80 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 150,17%. Tuy nhiên, xét cho cùng thì năm 2006 cũng là một thắng lợi của Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 vì năm 2006, Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 đã thu được lợi nhuận sau thuế tăng 129,25 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 77,20%, là một điều đáng vui nhất của Công ty, để tạo niềm tin cho bước tiến tiếp theo của Công ty một cách vững vàng nhất. Mà nguyên nhân của sự tăng giảm này không gì khác đó chính là sự tăng doanh thu và giảm các khoản nợ khó đòi là hai yếu tố quyết định nên phần tăng lợi nhuận một cách rõ ràng nhất hiện nay của Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9. 2. Thực trạng về tổ chức quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 2.1. Thực trạng về tổ chức nguồn vốn kinh doanh Để làm rõ được thực trạng về tổ chức nguồn vốn của Công ty ta phải biết rõ đâu là nhân tố ảnh hưởng chủ yếu , tích cực hay tiêu cực . Để làm được điều này ta không thể nhìn ngay vào bảng cân đối về nguồn vốn mà có thể nhận xét chính xác được . Nguồn vốn qua các năm đều có thể biến đổi nhiều hay ít phụ thuộc vào sự quản lý và quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty . Để nhận xét được sự biến động của nguồn vốn ta có thể lấy số liệu hai năm gần đây nhất là năm 2005 và 2006. Từ bảng cân đối kế toán của năm 2005 và 2006 ta lập bảng nghiên cứu đánh giá biến động về nguồn vốn kinh doanh. Bảng 3 Bảng Nghiên cứu đánh giá biến động nguồn vốn kinh doanh Năm 2005-2006 (Đơn vị tính :Triệu đồng) STT Nguồn vốn 2005 2006 So sánh Tuyệt đối Tương đối(%) (1) (2) (3) (4) (5) (6) A Nợ phải trả 6.766,22 12.112 5.345,72 79,01 I. Nợ ngắn hạn 6.355,41 11.701,1 3 5.345,71 84,11 1. Vay ngắn hạn 1.047 700 -346,90 -33,14 2. Nợ dài hạn đến hạn trả - - - - 3. Phải trả người bán 2.017,83 4.386,18 2.368,34 117,37 4. Người mua trả tiền trước 2.972,75 6.278,41 3.305,65 111,20 5. Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước 76,51 110,31 33,80 44,18 6. Phải trả công nhân viên - - - - 7. Phải trả các đơn vị nội bộ 19,55 - -19,55 -100 8. Các khoản phải trả phải nộp khác 221,86 226,21 4,35 1,96 II. Nợ dài hạn 410,81 410,81 0 0 1. Vay dài hạn 410,81 410,81 0 0 2. Nợ dài hạn - - - - B. Nguồn vốn chủ sở hữu 2.406 2.555,62 149,62 6,22 I. Nguồn vốn, quỹ 2.345,86 2.455,61 109,74 4,68 1. Nguồn vốn kinh doanh 2.149,50 2.177,47 27,96 1,30 2. Chênh lệch đánh giá lại tài sản - - - - 3. Chênh lệch tỷ giá - - - - 4. Quỹ đầu tư phát triển 75,60 137,44 61,84 81,8 5. Quỹ dự phòng tài chính 47,10 67,03 19,93 42,33 6. Lợi nhuận chưa phân phối - - - - 7. Nguồn vốn đầu tư XDCB 73,65 73,65 0 0 II. Nguồn kinh phí, quỹ khác 60,14 100,01 39,87 66,30 1. Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc - 13,52 13,52 100 làm 2. Quỹ khen thưởng và phúc lợi 56,58 86,49 29,90 52,85 Tổng nguồn vốn 9.172,22 14.667,5 6 5.495,33 59,91 ( Nguồn:[6] ) Để có được số liệu trong bảng ta cần phải tính như sau: Cột (3) : Số đầu năm 2005 + Số đầu năm 2005 2 Cột (4) : Số đầu năm 2006+Số đầu năm 2006 2 (Trong đó : số đầu năm , số cuối năm lấy trong bảng cân đối kế toán của hai năm 2005 và 2006). Cột (5) : Số tuyệt đối = cột (4) - cột (3) Cột (6) : Số tương đối = [cột (4)/ cột (3) x 100%] -100% Biểu đồ thể hiện tình hình biến động Nơ Phải trả 2005-2006 0 2,000 4,000 6,000 8,000 10,000 12,000 TriÖu ®ång N¨m 2005 N¨m 2006Nî ng¾n h¹n Nî dµi h¹n Biểu đồ thể hiện tình hình biến động Vốn chủ sở hữu 2005-2006. 0 500 1,000 1,500 2,000 2,500 N¨m 2005 N¨m 2006 Nguån vèn, quü Nguån kinh phÝ, quü kh¸ Từ bảng nghiên cứu đánh giá biến động về nguồn vốn , ta có thể thấy ngay sự biến động về nguồn vốn qua hai năm 2005 và 2006 như sau: Nhìn về dòng tổng cộng ta thấy có biến động tăng 5.495,33 triệu đồng với tỷ lệ tăng 59,91% vì thế mà ta có thể nhận xết là nguồn vốn tăng. Tuy nhiên kết cấu nguồn vốn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố cấu thành khác và sự thay đổi của các yếu tố cấu thành đó , từ đó ta mới có thể tìm ra nhân tố ảnh hưởng chủ yếu hay thứ yếu đến nguồn vốn . Điều này do hai nhân tố: A. Nợ phải trả năm 2006 so với năm 2005 tăng 5.345,71 triệu đồng với tỷ lệ tăng 79,01% là nguyên nhân chủ yếu. Bởi tỷ lệ tăng này cho thấy việc đi chiếm dụng của Công ty năm 2005 so với năm 2006 tăng lên, nguyên nhân là do nợ ngắn hạn t ăng lên. I. Nợ ngắn hạn: tăng 5.345,71 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 84,11%. 1. Vay ngắn hạn : Việc vay ngắn hạn của Công ty đã giảm xuống là 346,90 triệu đồng với tỷ lệ giảm là 33,14%. Do người mua trả tiền trước cũng tăng so với năm trước nên Công ty có vốn để luân chuyển liên hồi trong doanh nghiệp. Điều này chứng tỏ rằng Công ty sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả, sản xuất của Công ty đạt tiêu chuẩn và Công ty đang trên đà phát triển, từ đó làm cho vay ngắn hạn của Công ty giảm. 2.Nợ dài hạn đến hạn trả : Năm 2006 Công ty đã giải quyết được vấn đề nợ dài hạn đến hạn trả không có, cho thấy Công ty kinh doanh có hiệu quả, không rơi vào tình trạng đi vay mà không trả được. Như vậy có thể nói rằng, Công ty có nợ phải trả tăng lên không có nghĩa là Công ty rơi vào tình trạng nợ trồng lên nợ , mà ở đây là do sản xuất kinh doanh công trình nhiều nên cần có một lượng vốn lớn. 3. Phải trả người bán : Việc giảm vốn vay ngắn hạn thì tăng nợ phải trả người bán là một điều tất yếu. Bởi Công ty là một công ty xây dựng nên yêu cầu về nguyên vật liệu là rất lớn. Chính vì vậy, tăng 117,37% phải trả người bán là một điều chứng tỏ Công ty đang có chiều đi lên và uy tín của Công ty cũng đạt hiệu quả. Việc đầu tư mua nguyên vật liệu cho công trình cũng một phần làm cho nợ phải trả tăng lên. 4. Người mua trả tiền trước: tăng lên cụ thể là 3.305,65 triệu đồng với tỷ là 111,20% là nguyên nhân chủ yếu. Điều này là một tất yếu của công ty xây dựng vì nhiều khi công trình làm trước và cần nhiều khoản phải chi như : mua vật tư, nhiên liệu nên Công ty đã ứng trước tiền từ người mua tức là bên chủ công trình. 5. Thuế và các khoản phải nộp cho Nhà nước : Sau khi quyết toán các khoản nợ của khách hàng đã được giải quyết dẫn đến việc trả nợ đúng thời hạn, không để đến hạn trả một cách có hiệu quả, nên thuế và các khoản phải nộp cho Nhà nước tăng 33,80 triệu đồng với tỷ lệ tăng 44,18%. Điều này cho thấy, năm 2006 Công ty hoạt động kinh doanh phát triển có doanh thu, đã có công trình bàn giao nên đã nộp cho Ngân sách Nhà nước. 6. Năm 2006 Công ty hoạt động kinh doanh phát triển có doanh thu, đã có công trình bàn giao nên đã nộp cho ngân sách Nhà nước, tức là đã thanh toán hết tiền lương phải trả cho công nhân viên, đã không còn nợ công nhân viên nữa. 7. Phải trả các đơn vị nội bộ : Do số lượng công trình lớn lại có doanh thu nên việc giảm các khoản như : Phải trả các đơn vị nội bộ giảm 19,55 triệu đồng với tỷ lệ giảm là 100%. Điều này chứng tỏ khả năng thanh toán của Công ty là rất tốt và hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty là rất hiệu quả. 8. Các khoản phải trả, phải nộp khác : Ta thấy các khoản phải trả, phải nộp khác tăng 4,35 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 1,96%. Tuy tăng không đáng kể nhưng có thể nói rằng, do sự thay đổi cơ cấu kinh doanh, do có nhiều công trình, do nguồn vay phải trả giảm xuống nên việc phải nộp khác tăng lên là điều dĩ nhiên. Vì năm 2006 Công ty có doanh thu, có thể do công trình làm ở địa phương nên phải nộp thuế 1% thì điều này cũng chứng tỏ rằng Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 kinh doanh ngày một phát triển. Đối với các công ty xây dựng khi có các công trình thì đương nhiên các khoản phải trả, phải nộp khác tăng lên là điều tất yếu. Vì đây là khoản mà Công ty có thể chiếm dụng vốn, Công ty không phải trả ngay. Đây là khoản vốn chiếm dụng tạm thời, không lâu dài nên lượng vốn này phải sử dụng cho phù hợp và có hiệu quả. Nhưng nếu sử dụng không có hiệu quả, làm thất thoát vốn thì không những không trả được nợ mà còn khi tăng khoản này thêm thì cũng có thể là điều bất lợi cho Công ty. II. Nhìn vào bảng số liệu ta thấy : Nợ dài hạn và vay dài hạn đã được giải quyết xong, tức là năm 2006 Công ty kinh doanh rất có hiệu quả. Đã quyết toán xong nợ và vay, không rơi vào tình trạng đi vay mà không trả được. III. Nợ khác : Do Công ty hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, không hao phí, làm lãng phí những nguyên vật liệu để bù đắp cho công trình nên chi phí phải trả không có biến động gì. Cũng như năm 2005 đến năm 2006 chi phí Công ty không có gì biến động. Do năm 2006 tài sản cố định của Công ty được tăng lên cũng như công trình của Công ty ngày một lớn nên tài sản thừa chờ xử lý và nhận ký quỹ, ký cược dài hạn không có gì thay đổi. B. Trong bảng nghiên cứu đánh giá biến động về nguồn vốn hai năm 2005 và 2006 còn cho ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên 149,62 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 6,22% là nguyên nhân thứ yếu. Nguyên nhân của sự tăng này là do công trình chưa thi công xong toàn bộ, lợi nhuận thu về còn ít nên quỹ của Công ty cũng chỉ mới tăng được như vậy. I. Nguồn vốn, quỹ: nhờ vào đó cũng tăng được 109,75 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 4,68% so với năm 2005. Tuy tăng ít nhưng điều này còn có lợi cho sản xuất kinh doanh rất nhiều. 1. Nguồn vốn kinh doanh : Mặc dù xây dựng các công trình còn đang dở dang chưa có doanh thu lớn nhưng cũng đã giúp cho Nguồn vốn kinh doanh tăng lên một cách có triển vọng là 27,96 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 1,3% so với năm 2005. 2. Chênh lệch đơn giá lại tài sản: ở Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 tài sản cố định chủ yếu đầu tư vào năm 2006, chính vì vậy tài sản cố định không được thanh lý và chuyển nhượng. Điều này dẫn đến chênh lệch đánh giá lại tài sản không có gì biến đổi. 3. Chênh lệch tỷ giá : Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 là một công ty có vốn đầu tư 100% vốn Việt nam. Việc luân chuyển vốn chủ yếu bằng tiền mặt và chuyển khoản nên chênh lệch tỷ giá cũng không có gì thay đổi. 4. Quỹ ĐTPT : Qũy ĐTPT cũng đã tăng lên rất nhiều 61,84 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 81,8% là điều cần nói ở một công ty xây dựng vì như vậy có nghĩa là Công ty đã trực tiếp phát triển vùng nguyên liệu, đầu tư mở rộng qui mô hoạt động kinh doanh và đổi mới công nghệ, trang thiết bị, điều kiện làm việc của Công ty. 5. Quỹ DPTC : đã tăng lên 19,93 triệu đồng hay với tỷ lệ 42,33% so với năm 2006 là vấn đề cũng đáng phải quan tâm vì Công ty có thể dùng quỹ này bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình kinh doanh sau khi đã được bồi thường của các tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất và của tổ chức bảo hiểm. 6. Lợi nhuận chưa phân phối : lợi nhuận chưa phân phối không có. Điều này không có nghĩa là Công ty kinh doanh không có hiệu quả mà do công trình chưa làm xong, sản xuất kinh doanh chưa có doanh thu. 7. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản : năm 2006 có vẻ như ổn định hơn, không có gì biến động cả. II. Nguồn kinh phí, quỹ khác: Công ty tập trung vào hoàn thiện các công trình để nguồn kinh phí và quỹ khác tăng lên 39,87 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 66,30% là một việc làm mà ban quản lý Công ty đạt được_ điều rất đáng khen, bởi nếu kinh phí tăng lên thì nhu cầu việc làm của công nhân viên đựơc bảo đảm hơn. 1. Kinh phí để trợ cấp việc làm : Kinh phí để trợ cấp việc làm việc làm tăng 13,52 triệu đồng với tỷ lệ tăng 100% đảm bảo cho công nhân viên yên tâm làm việc trong thời gian công việc không có, hoặc Công ty không đảm bảo việc làm cho Công ty thì vẫn có trợ cấp mất việc làm cho công nhân viên nghỉ. Điều này khuyến khích công nhân viên vào làm việc ở Công ty một cách tự tin và quyết tâm hơn. 2.Quĩ khen thưởng và phúc lợi năm 2006 tăng 29,90 triệu đồng với tỷ lệ tăng 52,85% so với năm 2005. Quỹ này tăng lên do doanh thu năm 2006 tăng lên có thuân lợi cho công việc . Quỹ khen thưởng nhằm khuyến khích cán bộ công nhân viên làm việc năng suất và có hiệu quả vào hoạt động kinh doanh của Công ty. Như vậy, sự thay đổi nhân viên có ảnh hưởng rất lớn đến quản lý và sử dụng vốn, đồng thời sự thay đổi đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quản lý và sử dụng vốn, đồng thời sự thay đổi đó sẽ ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của Công ty. Nguồn vốn tăng lên thì kết quả sản xuất kinh doanh tăng lên, chứng tỏ một điều chắc chắn rằng Công ty kinh doanh có thuận lợi, đạt chất lượng và hệ số công việc được nâng lên một cách có hiệu quả nhất. 2.2. Thực trạng về quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9. 2.2.1. Cơ cấu vốn của Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9. Bảng 4 Tình hình cơ cấu vốn của Công ty 2005-2006 (đơn vị tính: Triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Vốn cố định 1.595,98 1.477,76 Vốn lưu động 6.708,30 12.321,86 ( Nguồn:[6] ) Biểu đồ thể hiện cơ cấu vốn của Công ty 2005-2006 0 2,000 4,000 6,000 8,000 10,000 12,000 14,000 TriÖu ®ång N¨m 2005 N¨m 2006Vèn cè ®Þnh Vèn l­ u ®éng Nhìn vào biểu đồ ta thấy: Cơ cấu vốn của Công ty có sự chênh lệch giữa vốn cố định và vốn lưu động. Điều này cũng là hợp lý. Vốn của Công ty thay đổi theo chiều hướng tăng vốn lưu động và giảm vốn cố đinh qua 2 năm 2005, 2006 Trong đó: - Vốn cố định năm 2006 giảm – 118,22 triệu đồng tương đương với – 7,4% so với năm 2005. Điều này chứng tỏ trong năm 2006 Công ty đã bán, thanh lý bớt một số tài sản cố định không dùng đến. Tuy nhiên, Công ty bán bớt tài sản cố định mà không mua bổ sung những tài sản cố đinh thay thế chứng tỏ tài sản cố định còn lại của Công ty vẫn đang sử dụng, hoạt động tốt nên Công ty thấy không cần thiết để bổ sung thêm. - Trong khi vốn cố định giảm đi thì vốn lưu động trong năm 2006 tăng lên gần gấp đôi so với năm 2005. Cụ thể: Vốn lưu động tăng lên 5.613,56 triệu đồng tương đương với 83.7% so với năm 2005. Nhu cầu vốn lưu động tăng lên chứng tỏ trong năm qua Công ty đã trúng thầu được nhiều Công trình quy mô lớn và giá trị cao. Chứng tỏ hình ảnh và uy tín của Công ty trên thị trường ngày càng cao. 2.2.2. Tổ chức và quản lý sử dụng vốn cố định: Qua phân tích nguồn vốn ta thấy, năm 2006 nguồn vốn của Công ty đã tăng lên một phần do tài sản cố định của Công ty cũng tăng lên . Nó được thể hiện ở bảng sau: Bảng 5 Bảng nghiên cứu đánh giá sự biến động vốn cố định năm 2005 -2006 (Đơn vị tính: Triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 So sánh Tuyệt đối Tương đối(%) 1. Nguyên giá TSCĐ 2.163,99 2.194,60 30,61 1,41 2. Giá trị HMLK của TSCĐ 568,00 716,84 148,84 26,20 3. VCĐ 1.595,98 1.477,76 -118,22 -7,41 ( Nguồn:[6] ) Dựa vào bảng ta thấy, năm 2006 do Công ty có đầu tư nhiều máy móc thiết bị nên năm 2006 nguyên giá TSCĐ đã tăng lên cụ thể tăng 30,61 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 1,41% . Khi nguyên giá TSCĐ tăng lên thì giá trị hao mòn luỹ kế của TSCĐ cũng tăng lên một cách đáng kể, cụ thể tăng 148,84 triệu đồng về tuyệt đối, nhưng xét về mặt tương đối chỉ tăng 26,20% so với năm 2006. Giá trị hao mòn luỹ kế năm 2006 tăng lên là đương nhiên vì tài sản qua sử dụng phải tính khấu hao qua các năm, mặt khác khấu hao tăng còn cho ta thấy rằng máy móc thiết bị của Công ty vẫn còn sử dụng tốt nên không có máy móc thanh lý. Như chúng ta biết, khi tăng TSCĐ thì nghĩa là giảm về vốn bằng tiền hay bằng chuyển khoản, nhưng nhiều khi trong kinh doanh cũng có thể tăng TSCĐ mà lại giảm về vốn lưu động đang có thì sao? Điều này có nghĩa là TSCĐ đã được đem đi trao đổi. Cụ thể năm 2006, Công ty đã tăng về TSCĐ nhưng lại giảm về vốn cố định một cách đáng kể là 118,22 triệu đồng với tỷ lệ 0,07%. Điều này không phải là xấu nhưng nó cũng ảnh hưởng rất lớn cho quá trình luân chuyển vốn cố định. Xét về mặt tài chính thì giá trị hao mòn luỹ kế của TSCĐ tăng như vậy cũng không đúng với mức quy định trích khấu hao của bộ tài chính. Giá trị hao mòn luỹ kế giảm như vậy cũng có thể do máy móc của Công ty có nhiều hư hỏng, hay mua máy đã qua sử dụng... Như vậy, trong Công ty, TSCĐ là một nguồn vốn cố định, nó góp phần không nhỏ vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Nhưng nó không phải luôn đồng biến với nhau, mà có thể TSCĐ tăng nhưng vốn cố định có thể giảm. Hoặc ngược lại, TSCĐ có thể giảm nhưng vốn cố định có thể tăng lên. Điều này hiện đúng với thực tế của nền kinh tế nước ta hiện nay. 2.2.3 Tổ chức và quản lý sử dụng vốn lưu động: Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, chi phí dở dang và các khoản thanh toán khác, quản lý vốn lưu động chỉ đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm hợp lý mà có ý nghĩa hạ thấp chi phí sản xuất kinh doanh, thúc đẩy thanh toán các khoản công nợ một cách kịp thời. Qua sự đánh giá sức sản xuất kinh doanh và sinh lời của vốn cố định, ta thấy doanh thu năm 2006 tăng, cũng như sự biến động của vốn lưu động tăng cụ thể được đánh giá bằng các chỉ tiêu như sau: Bảng 6 Bảng nghiên cứu đánh giá sự biến động của vốn lưu động Năm 2005-2006. ( Đơn vị tính: Triệu đồng) St t Tài sản Năm 2005 Năm 2006 So sánh Tuyệt đối Tương đối(%) Tổng TSLĐ & đầu tư ngắn hạn 6.708,30 12.321,86 5.613,55 83,68 I. Tiền 1.608,30 2.698,32 1.090,02 67,77 1. Tiền mặt tại quỹ 209,06 267,43 58,37 27,92 2. Tiền gửi ngân hàng 1.399,24 2.430,88 1.031,64 73,73 3. Tiền đang chuyển _ _ _ _ II. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn _ _ _ _ II I Các khoản phải thu 1.104,96 947,29 -157,66 -14,27 1. Phải thu của khách hàng 158,48 142,12 -16,35 -10,32 2. Trả trước cho người bán _ _ _ _ 3. Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ 81,48 145,16 63,68 78,15 4. Thu nội bộ 865 660 -205 -23,70 _Phải thu nội bộ khác 865 660 -205 -23,70 5. Các khoản phải thu khác _ _ _ _ IV Hàng tồn kho 1.768,4 4.004,74 2.236,30 126,46 1. Hàng mua đang đi trên đường _ _ _ _ 2. Nguyên liệu, vật liệu tồn kho 33,56 33,56 0 0 3. Công cụ, dụng cụ trong kho _ _ _ _ 4. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang 1.734,87 3.971,18 2.236,30 128,90 V. Tài sản lưu động khác 2.226,58 4.671,49 2.444,90 109,80 1. Tạm ứng 2.057,79 4.571,30 2.513,51 122,15 2. Chi phí trả trước _ _ _ _ 3. Chi phí chờ kết chuyển 142,87 60,31 -82,55 -57,78 4. Tài sản thiếu chờ xử lý _ _ _ _ 5. Các khoản cầm cố,ký cược, ký quỹ NH 25,92 39,87 13,95 53,81 ( Nguồn:[6] ) Nhìn vào bảng nghiên cứu đánh giá sự biến động của vốn lưu động , ta thấy tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn năm 2006 tăng hơn năm 2005 là: 5.613,55 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 83.68%so với năm 2005, mà nguyên nhân là do: I. Tiền: năm 2006 Công ty tăng lên, cụ thể tiền năm 2005 chỉ đạt 1.608,30 triệu đồng , sang năm 2006 tăng lên 2.698,32 triệu đồng, tương đương với 67,77%.Điều này chứng tỏ năm 2006 Công ty kinh doanh có hiệu quả, có doanh thu và có lợi nhuận . 1.Tiền mặt tại quỹ tăng từ 209,06 triệu đồng của năm 2005 sang năm 2006 là 267,43 triệu đồng, tức là tăng 58,37 triệu đồng, tương đương với 27,92% . 2.Tiền gửi ngân hàng cũng tăng 1.031,64 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 73,73% so với năm 2005. 3. Nhưng mặt hạn chế ở đây là cả năm 2005 và năm 2006 tiền đang chuyển không có gì biến động. II. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn không có gì biến động. III. Các khoản phải thu của Công ty năm 2006 giảm 157,66 triệu đồng với tỷ lệ giảm là 14,27% so với năm 2005. Điều này do các nguyên nhân sau : 1.Phải thu khách hàng cũng giảm cụ thể là 16,35 triệu đồng so với năm 2005 với tỷ lệ giảm là 10,32% . Điều này là một dấu hiệu tốt cho Công ty, bởi phải thu của khách hàng giảm cũng có nghĩa là Công ty thu hồi vốn có hiệu quả, không có tình trạng nợ khó đòi dài hạn làm ngừng khả năng kinh doanh của Công ty . 2.Trả trước cho người bán không có gì biến đổi bởi lẽ đây là một công ty xây dựng nên khả năng thanh toán phải dựa vào khả năng công việc của bên đầu tư . Cho nên công trình được quyết toán thì đồng nghĩa với khả năng thanh toán cho người bán hết. 3.Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ năm 2006 tăng 63,68 triệu đồng so với năm 2005, với tỷ lệ tăng là 78,15%. Điều này chứng tỏ rằng Công ty có đầu vào lớn, phản ánh đúng với thực tế của Công ty vì Công ty có nhiều công trình đang cần đầu tư mua nguyên vật liệu, thiết bị, máy móc nên đầu vào thường lớn hơn đầu ra. 4.Khoản thu nội bộ cũng giảm 205 triệu đồng với tỷ lệ giảm là 23,70% là một dấu hiệu đáng mừng vì năm 2006 nhiều công trình quyết toán nên các đội trưởng đã có chi phí, có nguồn để hoàn trả số tiền tạm ứng nên năm 2006 Công ty đã giảm 23,70% mà chủ yếu của nó là phải thu nội bộ khác. Vì Công ty không có đại lý, không có đơn vị kinh doanh trực thuộc nên vốn kinh doanh ở các đơn vị trực thuộc khác là số 0. Cũng như các khoản phải thu khác, hay dự phòng các khoản phải thu khó đòi khác đều bằng 0. IV. Hàng tồn kho : Tài sản lưu động và vốn đầu tư ngắn hạn tăng một phần còn do hàng tồn kho tăng : 236,30 triệu đồng tương đương với 126,46% so với năm 2005. Công ty có công trình thì hàng hoá được nhập xuất tại chân công trường nên hàng mua đang đi đường là bằng 0 vì vậy nguyên nhân tăng chủ yếu của hàng tồn kho là những vấn đề sau : 1. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang tăng là 2.236,30 triệu đồng, tương đương với 128,90% so với năm 2005. 2. Các khoản nguyên liệu, vật liệu, thành phẩm trong kho, hàng hoá tồn kho, hàng gửi đi bán, dự phòng giảm giá hàng tồn kho không có gì biến động, nó hoàn toàn bằng 0. V. Tài sản lưu động khác : Năm 2006 tài sản lưu động khác hoàn toàn tăng lên từ 2.226,58 triệu đồng của năm 2005 đến năm 2006 là 4.671,49 triêu đồng, tức là tăng 2.444,90 triệu đồng tương đương với 109,80% so với năm 2005. Nguyên nhân là các vấn đề sau : 1. Tạm ứng : Tăng 2.513,51 triệu đồng tương với 122,15% so với năm 2005. 2. Chi phí chờ kết chuyển : giảm 82,55 triệu đồng tương đương với 57,78% so với năm 2005. 3. Các khoản cầm cố, ký cược, ký quỹ ngắn hạn : tăng 13,95 triệu đồng tương đương với 53,81% so với năm 2005. VI. Năm 2006 chi sự nghiệp không có gì biến đổi. Vậy sau khi phân tích bảng nghiên cứu đánh giá sự biến động của vốn lưu động ta thấy nguyên nhân tăng chủ yếu của vốn lưu động là tài sản lưu động khác tăng mà chủ yếu là tăng tiền tạm ứng lên. Tiền mặt tại quỹ tăng. Bên cạnh nguyên nhân tăng chủ yếu thì tăng do hàng tồn kho cũng không nhỏ so với số vốn lưu động năm 2006 tăng. Còn các khoản phải thu nội bộ khác hay các khoản phải thu giảm. 3. Thực trạng chi phí vốn của Công ty cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9. Bảng 7 Tình hình chi phí vốn 2005 - 2006 ( Đơn vị tính: %) ( Nguồn: [6] ) N hìn vào bảng chi phí vốn của Công ty cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 ta thấy: Chi phí vốn của Công ty năm 2006 hầu hết đều tăng so với năm 2005. Đây là yếu tố tiêu cực làm tăng chi phí doanh nghiệp, làm cho lợi nhuận của Công ty giảm. Trong đó: - Chi phí nợ vay trước thuế và chi phí nợ vay sau thuế không đổi. Điều này có lợi cho Công ty, vì trong năm qua khoản nợ phải trả của Công ty tăng lên rất nhiều so với năm 2005, cụ thể là tăng 5.345,71 triệu đồng. Trong khi các Ngân hàng không gia tăng lãi suất. Đây cũng có thể coi là điều có lợi cho Công ty trong việc mở rộng quy mô sản xuất, xây dựng các công trình. - Chi phí vốn chủ sở hữu năm 2006 tăng lên 0.05% so với năm 2005 trong đó: + Chi phí cổ phiếu ưu tiên tăng lên 0.05% so với năm 2005, việc naỳ chứng tỏ trong năm vừa qua Công ty hoạt động có hiệu quả làm cho cổ tức tăng lên làm cho chi phí về tài chính tăng lến. + Chi phí lợi nhuận giữ lại tăng lên 0.07% so với năm 2005. ST T Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Chênh lệch 1 Chi phí vay nợ trước thuế 1.2 1.2 0 2 Chi phí vay nợ sau thuế 0.9 0.9 0 3 Chi phí vốn chủ sở hữu 1.25 1.3 0.05 - Chi phí cổ phiếu ưu tiên 1.3 1.35 0.05 - Chi phí lợi nhuận giữ lại 1.37 1.3 0.07 4 Chi phí trung bình(WACC) 1.25 1.31 0.06 5 Chi phí cân biên(MCC) 1.22 1.25 0.03 - Chi phí trung bình năm 2006 tăng lên 0.06% so với năm 2005. Đây là nhân tố mà Công ty cần phải khắc phục trong năm 2007, góp phần làm giảm chi phí chung, dẫn đến tăng lợi nhuận cho Công ty. - Chi phí cận biên cũng tăng, điều này chứng tỏ trong năm qua để đảm bảo tiến độ thi công các công trình, Công ty đã huy động thêm nhiều vốn làm cho chi phí vốn tăng. 4. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9. 4.1. Hiệu quả sử dụng vốn cố định: Như vậy , năm 2006, Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 đă đầu tư tài sản cố định tăng lên cũng đạt hiệu quả cao . Điều này thể hiện ở sức sản xuất kinh doanh và sinh lời của vốn cố định thể hiện như sau: Bảng 8 Sức sản xuất kinh doanh và sinh lời của vốn cố định năm 2005-2006 Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005 Năm 2006 So sánh Tuyệt đối Tươn g đối (%) 1. Mức doanh thu thuần Triệu đồng 15.290,15 28.815,92 13.525,7 7 88,46 2. LN từ hoạt động SXKD Triệu đồng 790,71 1.203,49 412,77 52,20 3. VCĐ bình quân Triệu đồng 1.595,98 1.477,76 -118,22 -7,41 4. Nguyên giá TSCĐ bq Triệu đồng 2.163,99 2.194,60 30,61 1,41 5. Hiệu suất sd TSCĐ (1/4) lần 7,07 13,13 6,06 85,83 6. Sức SXKD của VCĐ (1/3) lần 9,58 19,5 9,92 103,5 4 7. Hệ số sinh lời của VCĐ (2/3) lần 0,50 0,81 0,32 64,38 8. Hàm lượng VCĐ (3/1) lần 0,10 0,05 -0,05 -50,87 ( Nguồn:[6] ) Nhìn vào bảng sức sản xuất kinh doanh và sinh lời ở vốn cố định ta có nhận xét sau: Hiệu suất sử dụng tài sản cố định năm 2005 cứ một đồng nguyên giá tài sản cố định tạo ra 7,07 đồng doanh thu. Năm 2006 một đồng nguyên giá tài sản cố định tạo ra 13,13 đồng doanh thu. Điều này có nghĩa là năm 2006 Công ty đã sử dụng có hiệu quả tài sản cố định. Đồng thời năm 2006 Công ty cũng đầu tư một số máy móc cho mục đích kinh doanh và xây dựng, cũng như việc năm 2006 doanh thu và lợi nhuận có hiệu quả lớn hơn năm 2005, cụ thể năm 2006 hịêu suất sử dụng tài sản cố định đã tăng 6,06 với tỷ lệ tăng là 85,83%. Điều này rất tốt cho việc kinh doanh của Công ty, vì vậy Công ty cần phát huy khả năng này. Sức sản xuất kinh doanh năm 2005 cứ một đồng vốn cố định sản xuất ra 9,58 đồng doanh thu, năm 2006 cứ một đồng vốn cố sản xuất ra 19,5 đồng doanh thu. Do tài sản cố định bình quân tăng lên nên dẫn đến sức sản xuất kinh doanh của vốn cố định tăng 9,92 lần tương đương với 103,54% so với năm 2005. Hệ số sinh lời: cứ một đồng vốn cố định năm 2005 làm ra 0,5 đồng lợi nhuận, cứ một đồng vốn cố định năm 2006 làm ra 0,81 đồng lợi nhuận. Do lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh tăng lên nên hệ số sinh lời cũng tăng lên là 0,32 lần tương đương với 64,38% so với năm 2005. Hệ số sinh lời tăng lên một phần do năm 2006 doanh thu thuần của Công ty tăng lên một cách đáng kể. Nói chung, năm 2006, Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 tăng lợi nhuận chủ yếu là do tăng về doanh thu mà cụ thể là tăng doanh thu và tăng tài sản cố định. Nhưng năm 2006, vốn cố định của Công ty giảm là một thứ yếu , nó không ảnh hưởng đến quá trình hình thành lợi nhuận cuả Công ty. Lợi nhuận của Công ty tăng lên trong lúc đó vốn cố định giảm xuống cũng không phải là một thứ yếu mà do vốn cố định của Công ty được phân giải ra toàn bộ doanh thu của Công ty. Ngoài ra, do vốn cố định bình quân giảm nên hàm lượng vốn cố định giảm 0,05 lần , tương đương với 50,87% so với năm 2005. Có nghĩa là năm 2005 cứ một đồng doanh thu có 0,10 đồng cố định, năm 2006 cứ một đồng doanh thu có 0,05 đồng vốn cố định. Nguyên nhân chủ yếu là do vốn cố định bình quân giảm -118,22 triệu đồng so với năm trước , cho thấy rằng cũng không có ảnh hưởng lớn đến công ty một cách nặng nề , mà lợi nhuận kinh doanh vẫn tăng chứng tỏ Công ty kinh doanh đạt hiệu quả. 4.2. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Từ bảng cân đối kế toán và bảng xác định kết quả hoạt động kinh doanh, ta có bảng số liệu sau: Bảng 9 Sức sản xuất kinh doanh và sức sinh lời của vốn lưu động + Tốc độ chu chuyển của vốn lưu động Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005 Năm 2006 So sánh Tuyệt đối Tươn g đối (%) 1. Doanh thu thuần Triệu đồng 15.290,15 28.815,92 13.525,7 7 88,46 2. LN hoạt động KD Triệu đồng 790,71 1.203,49 412,77 52,20 3. VLĐ bình quân Triệu đồng 6.708,30 12.321,86 5.613,55 83,68 4. Số vòng quay VLĐ(1/3) vòng 2,28 2,34 0,06 2,63 5. Kỳ luân chuyển VLĐ(360/4) ngày 157,97 153,94 -4,00 -2,53 6. Sức SXKD của VLĐ(1/3) lần 2,28 2,34 0,06 2,63 7. Hệ số sinh lời VLĐ(2/3) lần 0,12 0,10 -0,02 17,14 8. Hệ số đảm nhiệm VLĐ(3/1) lần 0,44 0,43 -0,01 -2,27 ( Nguồn:[6] ) Dựa vào bảng ta thấy: Số vòng quay vốn lưu động: cứ một đồng doanh thu thuần năm 2005 thì tạo ra được 2,28 vòng quay vốn lưu động. Cứ một đồng doanh thu thuần thì tạo ra được 2,34 vòng quay vốn lưu động, tức là tăng 0,06 vòng tương đương với 2,63%. Kỳ luân chuyển của vốn lưu động: cứ một kỳ luân chuyển của một đồng vốn lưu động năm 2005 thì mất 157,97 ngày, cứ một kỳ luân chuyển của một đồng vốn lưu động năm 2006 thì mất 153,94 ngày, do doanh thu tăng nhưng kỳ luân chuyển của vốn lưu động cũng đang bị hạ xuống, cụ thể năm 2006 kỳ luân chuyển của vốn lưu động đã giảm 4 đồng cho một ngày, tỷ lệ giảm 2,53 % so với năm 2005. Điều này có nghĩa là sự quay vòng của vốn lưu động không được tăng lên. Có nghĩa là sự thu hồi vốn lưu động của Công ty không kịp thời bằng năm 2005. Sức sản xuất kinh doanh của vốn lưu động thì cứ một đồng doanh thu thuần sẽ tạo ra 2,28 lần sản xuất kinh doanh của vốn lưu động. Và đến năm 2006 thì cứ một đồng doanh thu thuần tạo ra 2,34 lần sản xuất kinh doanh của vốn lưu động, tức là tăng 0,06 lần tương đương với 2,63%. Hệ số sinh lời của vốn lưu động năm 2005 bất cứ một đồng lợi nhuận thì tạo ra được 0,12 lần hệ số sinh lời của vốn lưu động, còn năm 2006 cứ một đồng lợi nhuận thì tạo được 0,10 lần hệ số sinh lời vốn lưu động, lợi nhuận thấp hơn năm 2005 là 0,02 với tỷ lệ giảm 17,14%.Chứng tỏ năm 2006 Công ty đã giảm, không có lợi cho sản xuất kinh doanh. Mức đảm nhiệm vốn lưu động năm 2005 cứ một đồng vốn lưu động bình quân thì có 0,44 lần hệ số đảm nhiệm, năm 2006 cứ một đồng vốn lưu động bình quân thì có 0,43 lần hệ số đảm nhiệm. Tức là giảm 0,01 lần so với năm 2005, tương đương với tỷ lệ gỉam là 2,27%. Như vậy Công ty chưa đặt trách nhiệm cao trong việc sử dụng vốn lưu động. Cho nên Công ty cần phát huy khả năng quay vòng của vốn lưu động, đồng thời cần có trách nhiệm khi sử dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả nhất, để tăng hệ số sinh lời lên, tăng lợi nhuận một cách cao nhất. 4.3. Đối với vốn kinh doanh : Để đánh giá được vốn kinh doanh của Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 , ta cần nghiên cứu đánh giá bảng sau: Bảng 10 hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005 Năm 2006 So sánh Tuyệt đối Tươn g đối(% ) 1. DTT Triệu đồng 15.290,15 28.815,92 2. Tổng nguồn vốn bq Triệu đồng 9.172,22 14.667,56 3. Lợi nhuận sau thuế Triệu đồng 167,42 296,68 4. Nguồn vốn CSH bq Triệu đồng 2.406 2.555,62 5. Lợi nhuận SXKD Triệu đồng 790,71 1.203,49 6.Vòng quay tổng vốn (1/2) vòng 1,67 1,96 0,30 17,85 7.Tỷ suất lợi nhuận SXKD(3/1) % 0,011 0,0103 -0,0007 -6,40 8.Tỷ suất lợi nhuận CSH(3/4) % 0,07 0,12 0,05 66,83 9.Tỷ suấtLN/DTT(5/1) % 0,0517 0,0418 -0,0099 -19,22 10.Tỷ suất lợi nhuận / giá thành toàn bộ(5/*) % 0,0525 0,0424 -0,0101 -19,24 ( Nguồn:[6] ) Trong đó: (*) =giá thành toàn bộ = giá vốn HB +CPBH + CPQLDN 2 005 = 14.499,43 + 0 +574,17 = 15.073,61 triệu đồng 2006 = 27.612,43 + 0 + 776,18 = 28.388,61 triệu đồng Nhìn vào bảng ta thấy, số vòng quay tổng vốn của năm 2006 tăng lên so với năm 2005, cụ thể tăng 0,3 vòng tương đương với 17,85% là điều đáng mừng. Nhưng sự tăng nhanh này chủ yếu do vốn bằng vốn cố định, vốn lưu động thì số vòng quay giảm, khả năng thanh toán chậm hơn năm 2005. Tỷ suất lợi nhuận sản xuất kinh doanh giảm không đáng kể là 0,0007 tương đương với tỷ lệ giảm là 6,40%. Điều này cũng đúng thôi bởi lợi nhuận sau thuế trong kỳ cụ thể là năm 2006 tăng không đáng kể, trong lúc đó doanh thu thuần tăng rất ít. Tỷ suất lợi nhuận chủ sở hữu năm 2006 tăng 0,05% tương đương với 66,83%, điều này là hợp lý bởi năm 2006 lợi nhuận sau thuế trong kỳ tăng không đáng kể, nhưng nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên. Để đạt được điều này thì chủ yếu là vốn cố định năm 2006 tăng lên, cụ thể nguồn vốn chủ sở hữu năm 2006 tăng 149,62 triệu đồng, điều này nhận thấy do tài sản cố định năm 2006 tăng. Nhưng nguồn vốn chủ sở hữu hay tỷ suất lợi nhuận chủ sở hữu năm 2006 tăng, nhưng tỷ suất lợi nhuận/doanh thu thuần vẫn giảm là 0,0099% với tỷ lệ tăng là 19,22% so với năm 2005. Vì do giá thành năm 2006 cao, chi phí nhiều nên doanh thu có nhưng lợi nhuận vẫn không cao. Do vậy, để khắc phục được vấn đề này Công ty cần giảm chi phí một cách tối đa, đạt hiệu quả nhất trong công việc sản xuất kinh doanh, cũng như vì đâu lợi nhuận sản xuất kinh doanh vẫn tăng mà tỷ suất lợi nhuận/giá thành toàn bộ giảm. Cụ thể lợi nhuận sản xuất kinh doanh năm 2006 tăng 412,77 triệu đồng mà tỷ suất lợi nhuận / giá thành toàn bộ lại giảm 0,0101% tương đương với tỷ lệ giảm là 19,24% so với năm 2006. Nguyên nhân chủ yếu là do tỷ suất lợi nhuận / doanh thu giảm. Nói tóm lại, Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 tuy hoạt động xây dựng tốt nhưng bên cạnh đó cần có những biện pháp đích thực để tăng lợi nhuận, giảm chi phí một cách có hiệu quả nhất. 4.4. Đối với khả năng thanh toán: Khả năng thanh toán của doanh nghiệp là khả năng dùng vốn tài sản của mình để chi trả các khoản nợ đối với các đơn vị khác . Trong kinh doanh thời kinh tế thị trường , việc chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp là đặc trưng nổi bật , thậm chí còn được coi là một sách lược kinh doanh hữu hiệu , nhưng nó sẽ trở thành con dao hai lưỡi nếu doanh nghiệp không biết vận dụng vào nó một cách linh hoạt và đúng đắn . Việc đánh giá khả năng tính toán giúp cho các nhà quản lý có thể nắm vững được tình hình tài chính của doanh nghiệp , từ đó sẽ chủ động trong việc sử dụng vốn kinh doanh . Tình hình tài chính được đánh giá lành mạnh trước hết phải thể hiện được khả năng chi trả , vì vậy chúng ta bắt đầu từ khả năng thanh toán . Đây là chỉ tiêu được rất nhiều người quan tâm như các nhà đầu tư , nhà cho vay , nhà cung cấp vật liệu ...Họ luôn đặt câu hỏi : Hiện doanh nghiệp có đủ khả năng đến hạn thanh toán hay không? Để đánh giá khả năng thanh toán của Công ty, ta có thể nghiên cứu bảng hệ số thanh toán dưới đây: Bảng 11. Hệ số thanh toán. (Đơn vị tính : lần) Chỉ tiêu Năm Năm So sánh 2005 2006 Tuyệt đối Tương đối(% ) 1. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát 1,44 1,25 -0,19 -13,1 2. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời 1,06 0,10 -0,95 -90,26 3. Hệ số thanh toán nhanh(Hn) 1,33 0,45 -0,89 -66,63 ( Nguồn:[6] ) Qua bảng hệ số thanh toán, ta thấy: 1. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát : Năm 2005: một đồng vốn vay thì có 1,44 đồng tài sản đảm bảo, có nghĩa là khả năng thanh toán năm 2005 là tốt. Năm 2006: một đồng vốn vay thì có 1,25 đồng tài sản đảm bảo, có nghĩa là khả năng thanh toán năm 2006 là tốt. Năm 2006 so với năm 2005, hệ số khả năng thanh toán tổng quát giảm 0,19 với tỷ lệ giảm là 13,1%. Điều này cho thấy hệ số khả năng thanh toán tổng quát năm sau suy giảm so với năm trước. Tuy nhiên hai năm qua doanh nghiệp vẫn đảm bảo khả năng thanh toán. Doanh nghiệp cần có giải pháp tăng thêm khả năng thanh toán cho các năm sau. 2. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời: Năm 2005: cứ một đồng vốn vay thì có 1,06 đồng tài sản đảm bảo, có nghĩa là khả năng thanh toán hiện thời của Công ty năm 2005 là tốt, không có vấn đề gì về việc trả nợ bằng tài sản. Năm 2006: cứ một đồng vốn vay thì có 0,10 đồng tài sản đảm bảo, có nghĩa là khả năng thanh toán hiện thời của Công ty giảm, điều này chứng tỏ khả năng thanh toán tại thời điểm năm 2006 của Công ty giảm đi vì hiện tại toàn bộ vốn vay của Công ty đã đầu tư vào công trình nên khả năng này là không tốt tại thời điểm năm 2006. Tuy nhiên năm 2006 so với năm 2005, hệ số khả năng thanh toán hiện thời của Công ty giảm 0,95 với tỷ lệ giảm là 90,26%. Điều này cho thấy khả năng thanh toán hiện thời của năm sau giảm hơn so với năm trước, mặc dù hai năm qua doanh nghiệp vẫn đảm bảo khả năng thanh toán hiện thời được nhưng chưa tốt, doanh nghiệp cần có biện pháp tăng thêm vào năm sau. 3. Hệ số thanh toán nhanh: Năm 2005: cứ một đồng vốn vay thì có 1,33 đồng tài sản đảm bảo, tức là khả năng thanh toán nhanh của năm 2005 là tốt. Năm 2006: cứ một đồng vốn vay thì có 0,45 đồng tài sản đảm bảo, như vậy là khả năng thanh toán nhanh của năm 2006 là kém. Năm 2006 so với năm 2005: Hệ số khả năng thanh toán nhanh giảm 0,89 với tỷ lệ giảm là 66,63%. Điều này cho thấy hệ số khả năng thanh toán nhanh năm sau giảm hơn so với năm trước. Tuy nhiên đây là do thực tế công trình và quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty nên Công ty cần có giải pháp tăng thêm khả năng khả năng thanh toán nhanh cho các năm sau. III. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp 1. Nhận xét chung về tình hình quản lý sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9. Qua tìm hiểu, phân tích tình hình quản lý và sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9, ta thấy Công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể như: tình hình tài sản lưu động, tài sản Cố định của Công ty trong một vài năm qua biến động theo chiều hướng đi lên, tăng dần qua các năm. Doanh thu thuần, lợi nhuận đạt được cũng tăng. Công ty đang ngày càng hoàn thiện tốt hơn công tác quản lý và sử dụng vốn kinh doanh một cách có hiệu quả. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động được nâng cao và số lợi nhuận thu được từ một đồng vốn lưu động cũng được nâng cao hơn so với các năm trước. Ngoài ra, hiệu suất sử dụng vốn cố định cũng được nâng cao. Đây là một nố lực của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Vốn kinh doanh và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9.pdf
Tài liệu liên quan