Tài liệu Luận văn Vốn huy động tại chi nhánh nông nghiệp và phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam: LUẬN VĂN:
Vốn huy động tại chi nhánh nông nghiệp
và phát triển nông thôn để phát triển
kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh
quảng nam
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta sau những
năm đổi mới đã đạt được nhiều kết quả rất to lớn. Đất nước đã vượt qua những khó khăn,
đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Những thành tựu của công cuộc đổi mới
đất nước đã tạo ra những điều kiện, tiền đề quan trọng ban đầu đưa nước ta chuyển sang
thời kỳ phát triển mới, đó là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu: “...
Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [9, tr. 76].
Để đạt được mục tiêu đó, đòi hỏi cần phải có vốn. Vốn là một trong những yếu tố
quyết định của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, với chức năng
trung tâm tài chính, các Ngân hàng thư...
95 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1235 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vốn huy động tại chi nhánh nông nghiệp và phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vốn huy động tại chi nhánh nông nghiệp
và phát triển nông thôn để phát triển
kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh
quảng nam
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta sau những
năm đổi mới đã đạt được nhiều kết quả rất to lớn. Đất nước đã vượt qua những khó khăn,
đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Những thành tựu của công cuộc đổi mới
đất nước đã tạo ra những điều kiện, tiền đề quan trọng ban đầu đưa nước ta chuyển sang
thời kỳ phát triển mới, đó là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu: “...
Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [9, tr. 76].
Để đạt được mục tiêu đó, đòi hỏi cần phải có vốn. Vốn là một trong những yếu tố
quyết định của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, với chức năng
trung tâm tài chính, các Ngân hàng thương mại đã thực hiện tốt phương châm “ Đi vay để
cho vay”, nổ lực thu hút nhiều nguồn vốn nhàn rỗi để cung ứng vốn cho các dự án đầu tư,
cho vay các doanh nghiệp, hộ gia đình, góp phần kích thích sản xuất, lưu thông hàng hoá
và phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, trước xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới và nhu cầu tăng trưởng
kinh tế của đất nước đã đặt các Ngân hàng thương mại cần phải nổ lực, cải tiến hơn nữa để
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được đặt ra.
Thực tiễn công tác huy động và quản lý, sử dụng nguồn vốn trong hệ thống Ngân hàng
đang là vấn đề bức xúc trên nhiều mặt đòi hỏi cần phải được củng cố, từng bước có những giải
pháp đồng bộ, hữu hiệu nhằm huy động, quản lý, sử dụng nguồn vốn phục vụ phát triển kinh
tế - xã hội một cách hiệu quả.
Tiên Phước là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, có nhiều tiềm năng, nhiều
thế mạnh cho phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp -
thương mại và dịch vụ, đặc biệt là điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng rất phù hợp cho việc phát
triển kinh tế vườn, trang trại, chăn nuôi, phát triển ngành nghề... do đó nhu cầu về vốn để
phát triển kinh tế - xó hội của huyện là rất lớn.
Vì vậy việc chọn đề tài “Vốn huy động tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - xó hội ở huyện Tiờn Phước, tỉnh Quảng
Nam” có ý nghĩa hết sức cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế được nhiều nhà kinh tế trên thế giới
quan tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu, luận bàn trong nhiều tác phẩm.
ở nước ta vấn đề nguồn vốn nói chung, thu hút vốn huy động và quản lý, sử dụng
vốn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong hệ thống ngân hàng nói riêng được nhiều
người quan tâm nghiên cứu. Một số công trình nghiên cứu của các tác giả đã được đăng tải
trên các tạp chí chuyên ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng... như:
- Năm 1997, Ngân hàng nhà nước Việt Nam xuất bản “Ngân hàng Việt Nam với
chiến lược huy động vốn phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, với nhiều tác
giả đề cập đến các giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút mọi nguồn vốn vào ngân hàng để góp
phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Hà Thị Sáu: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn trong dân”, Tạp
chí Ngân hàng tháng 7/2002, đã đưa ra một số vấn đề để tăng cường công tác huy động
vốn trong khu vực dân cư.
- Đề án huy động vốn trong dân cư (Ngày 08/6/2004) của Chi nhánh Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam về thực trạng, mục tiêu và giải pháp
huy động vốn trong dân cư giai đoạn 2004 - 2010.
- Nguyễn Văn Lâm: “Vốn và đầu tư vốn của các tổ chức tín dụng phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn”, Tạp chí Ngân hàng tháng 2/2006.
- Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế của Trần Đức Thuấn về Huy động vốn để phát
triển kinh tế ở Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp, Hà Nội, 1998. Mục tiêu của luận án là
làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc huy động vốn để đề xuất một số giải pháp huy
động các nguồn vốn tiền tệ cho phát triển các ngành kinh tế - kỹ thuật ở Đà Nẵng, để Đà
Nẵng thực sự là thành phố trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài tuy phong phú, đa dạng nhưng
chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và trùng lắp với đề tài: “Vốn
huy động tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn để phát triển
kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam”
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, là người trực tiếp tham gia công tác trong Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, bản thân tôi lựa chọn đề tài này để đi sâu
nghiên cứu, góp phần làm rỏ cơ sở lý luận và thực tiễn trong công tác thu hút vốn huy
động để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng thu hút vốn huy động tại Chi nhánh
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên Phước, luận văn đề xuất một
số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tại
Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng
Nam.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích, làm rỏ khái niệm về vốn huy động và vai trò của nó đối với việc phát
triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích thực trạng thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội tại Chi
nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng
Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút vốn huy động để phát triển kinh
tế - xã hội tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên
Phước, tỉnh Quảng Nam đến năm 2010.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu vốn huy động tại Chi nhánh Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên
Phước, tỉnh Quảng Nam.
Số liệu được tính từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn dựa vào những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các quan điểm của Đảng bộ
tỉnh Quảng Nam, của huyện Tiên Phước về vốn và huy động vốn nói chung, huy động vốn để
phát triển kinh tế - xã hội nói riêng.
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, coi trọng phương pháp
tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, hệ thống, kết hợp với phương pháp điều tra, khảo
sát thực tiễn và kinh nghiệm về vấn đề huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh
Quảng Nam.
6. Những đóng góp của luận văn
Góp phần hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về vốn huy động và vai trò của
vốn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình hiện nay.
Phân tích thực trạng thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội tại Chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng
Nam.
Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế
- xã hội tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng
Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương, 8
tiết.
Chương 1
Vốn huy động và vai trò của nó
trong việc phát triển kinh tế - xã hội
1.1. Vốn huy động, các hình thức thu hút vốn huy động
Như chúng ta đã biết, muốn tiến hành quá trình sản xuất thì phải có vốn, vốn là điều
kiện quyết định để tạo ra của cải vật chất và tiến bộ xã hội. Vốn có vai trò to lớn đối với
phát triển sản xuất và tăng trưởng kinh tế, vốn là một trong những điều kiện có ý nghĩa
quyết định đế thực hiện CNH, HĐH đất nước. Sự gia tăng về vốn làm tăng năng lực sản
xuất trong nước, thúc đẩy gia tăng sản lượng và năng suất lao động, chất lượng hàng hoá sản
xuất ra, tạo khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nhân tố tài nguyên và lao động. Vốn
trở thành nhân tố cơ bản của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.1 Khái niệm về vốn
Vốn là phạm trù kinh tế, đã được các nhà kinh tế học đề cập từ lâu với nhiều quan
niệm thể hiện trong các học thuyết kinh tế khác nhau. .
Theo quan niệm của kinh tế học Mác xít, trong bộ “Tư bản” Các Mác đã nghiên cứu
và khái quát phạm trù vốn thông qua nghiên cứu phạm trù tư bản. Nguồn gốc chủ yếu của
tư bản (vốn) là lao động. Để tái sản xuất mở rộng đòi hỏi phải tích luỹ vốn. Các Mác đã
chỉ ra rằng: Thực chất của tư bản tích luỹ là việc chuyển hoá một phần ngày càng lớn giá
trị thặng dư thành tư bản và sử dụng phần đó vào quá trình tái sản xuất mở rộng. Trong
quá trình vận động, bất kỳ tư bản nào cũng vận động trải qua ba giai đoạn: mua - sản xuất -
bán hàng hoá, tương ứng với mỗi giai đoạn, tư bản mang một hình thái: Tư bản tiền tệ - tư
bản sản xuất - tư bản hàng hoá. Ba hình thái tư bản này sắp xếp kề nhau trong không gian
và vận động liên tục trong thời gian. Bộ phận thứ nhất tồn tại dưới dạng tiền và luôn sẳn
sàng đi vào lưu thông để mua các yếu tố của sản xuất, bộ phận thứ hai gồm sức lao động
và tư liệu sản xuất theo quan hệ tỷ lệ thích hợp sẳn sàng đi vào quá trình sản xuất, bộ phận
thứ ba là những hàng hoá sẳn sàng đem ra thị trường bán để thu tiền về và tiếp tục chu
trình mới.
Từ những luận điểm Các Mác về tuần hoàn của tư bản, có thể rút ra kết luận: Vốn là
những đại lượng giá trị tồn tại dưới ba hình thái kế tiếp nhau: tiền, các yếu tố của quá trình
sản xuất, hàng hoá. Sự vận động của vốn là sự chuyển hoá của các hình thái từ hình thái
này sang hình thái kế tiếp.
Ngày nay, do yêu cầu cao của sự phát triển, vốn là yếu tố đóng vai trò quan trọng
của hầu hết các quốc gia đang phát triển và kém phát triển. Vì vậy, phạm trù vốn trong
phát triển kinh tế vẫn được các nhà kinh tế học tiếp tục nghiên cứu và tiếp cận nó trên
nhiều bình diện khác nhau.
Như vậy, vốn là những đại lượng giá trị, là kết tinh lao động xã hội. Tiền giấy do
Nhà nước phát hành là những ký hiệu của giá trị. Nó chỉ trở thành một hình thức của vốn
khi được bảo đảm bằng giá trị tài sản thật. Tiền được phát hành đưa vào lưu thông trên thị
trường, chúng ta không thể phân biệt đâu là tiền được bảo đảm bằng tài sản thật, đâu là
tiền không được bảo đảm bằng tài sản thật, điều đó đã tạo ra cơ hội cho lạm phát, làm cho
sức mua đồng tiền giảm sút.
Quá trình phát triển lưu thông hàng hoá làm xuất hiện nhiều hình thức tiền tệ. Có
thể nói tiền tệ là toàn bộ các phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán (tiền mặt, séc, thẻ
tín dụng, thẻ thanh toán) và phương tiện cất trữ. Khái niệm tiền tệ theo nghĩa hẹp chỉ là tiền
mặt, và theo nghĩa rộng là bao gồm toàn bộ các phương tiện nói trên thực hiện một số chức
năng của tiền tệ, trong đó kể cả chứng khoán. Tiền chỉ trở thành vốn khi thoả mản hai điều
kiện:
Thứ nhất, tiền phải đại diện cho một lượng giá trị tài sản thực.
Thứ hai, tiền phải vận động trong môi trường đầu tư, kinh doanh nhằm mục đích
sinh lời.
Tiền đem ra tiêu dùng hằng ngày hay đưa vào cất trữ thì không phải là vốn. Việc
đưa tiền vào cất trữ chẳng những làm mất lợi nhuận do nó đem lại, mà còn không tạo ra sự
phát triển của nền kinh tế. Vốn đưa vào hoạt động, dù lĩnh vực kinh doanh nào thì điểm xuất
phát vốn đều tồn tại dưới hình thức tiền tệ.
Trong nền kinh tế thị trường, hình thức vận động của tiền với tư cách là vốn do
phương thức đầu tư cụ thể quyết định. Trên thực tế, sự vận động của vốn có ba hình thức:
a) T - H...SX...H’ - T’: Đây là hình thức vận động của vốn trong các doanh nghiệp
sản xuất. Thực chất, đó cũng chính là mô hình tái sản xuất xã hội nói chung.
b) T - H - T’: Đây là hình thức vận động của vốn trong các doanh nghiệp thương
mại - dịch vụ.
c) T - T’: Đây là hình thức vận động của vốn trong các tổ chức tài chính trung gian.
Trong đó:
T: Lượng tiền ứng ra để đầu tư phát triển.
H: Hàng hoá với tư cách là tư liệu sản xuất, sức lao động, hàng hoá dự trữ...
SX: Quá trình sản xuât - kinh doanh.
H’: Hàng hoá thu được sau quá trình sản xuất - kinh doanh.
T’: Lượng tiền thu được khi kết thúc chu kỳ kinh doanh [T’>T và T’= T+t] ( t là
lượng giá trị tăng thêm).
Hình thức bề ngoài sự vận động của vốn ở các lĩnh vực kinh doanh tuy có khác
nhau, song sự vận động của vốn các tổ chức tài chính trung gian, của các doanh nghiệp
thương mại - dịch vụ chỉ là những hình thái đặc thù được tách ra từ sự vận động của vốn
các doanh nghiệp sản xuất. Sự vận động của vốn trong các hình thức kinh doanh trên đây
có điểm giống nhau là qua vận động, vốn trở về điểm xuất phát và “lớn lên” sau một chu
kỳ vận động. Vì vậy, từng doanh nghiệp, từng ngành, từng địa phương và chung cho cả
nền kinh tế phải tìm mọi giải pháp làm cho vốn luôn hoạt động.
Xét về mặt cụ thể, vốn được biểu hiện rất phong phú, đa dạng và còn được bao gồm
tài sản hữu hình, tài sản vô hình.
Tài sản hữu hình là những tài sản tồn tại dưới dạng cụ thể của vật chất, tài sản hữu
hình bao gồm hai bộ phận:
Một là, những tài sản hữu hình phục vụ trực tiếp sản xuất, như: nhà xưởng, máy
móc, thiết bị, công cụ, nguyên - nhiên vật liệu, bán thành phẩm... Về thực chất, những tài
sản hữu hình này chính là sự cụ thể hoá năng lực sản xuất của một đơn vị kinh tế cơ sở hay
xét trên phạm vi rộng lớn: toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tới hiệu quả sản xuất -
kinh doanh.
Hai là, những tài sản hữu hình phục vụ gián tiếp cho sản xuất, như: trụ sở văn
phòng, trang bị nội thất văn phòng, phương tiện đi lại, nhà ở...Mặc dù những tài sản hữu
hình này là cần thiết cho hoạt động sản xuất - kinh doanh nhưng chỉ tác động gián tiếp đến
việc gia tăng sản lượng đầu ra, đóng vai trò gián tiếp đối với hiệu quả sản xuất - kinh
doanh.
Việc phân biệt rõ hai loại tài sản hữu hình như trên cho ta phương pháp luận đúng đắn
khi huy động, sử dụng chúng đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội.
Tài sản vô hình là những tài sản không tồn tại dưới dạng cụ thể của vật chất, bao
gồm những sản phẩm trí tuệ, như: bằng phát minh, sáng chế, bản quyền; thương hiệu sản
phẩm, uy tín kinh doanh, vị trí kinh doanh; chi phí đào tạo nguồn nhân lực (kỷ năng lao
động, tri thức quản lý).v..v. Nền kinh tế thị trường càng phát triển, giá trị tài sản vô hình
càng trở nên quan trọng trong cơ cấu vốn đầu tư. Bởi lẽ, khi đã huy động được những tài
sản vô hình vào phát triển kinh tế, sử dụng chúng hợp lý sẽ đem lại lợi nhuận, thậm chí là
siêu lợi nhuận cho các nhà đầu tư. Chẳng hạn Nhật Bản là một điển hình thành công khi
tạo bước đột phá trong khai thác giá trị tài sản vô hình để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế.
Người Nhật Bản không ngần ngại trả giá cao cho những phát minh, sáng chế mới của các
nhà khoa học trên khắp các châu lục, đồng thời đem những tài sản - trí tuệ đó ứng dụng
vào sản xuất - kinh doanh, nhờ đó nền kinh tế Nhật Bản cất cánh thật ngoạn mục. Nếu như
sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nền kinh tế Nhật bị kiệt quệ, lạm phát phi mã, thất
nghiệp gia tăng...thì chỉ trong vòng hai mươi năm, Nhật Bản đã trở thành một siêu cường
kinh tế thế giới, chỉ đứng sau Mỹ và liên minh châu Âu (EU), thành công đó có sự đống
góp không nhỏ của việc khai thác tốt yếu tố vô hình - sản phẩm trí tuệ của loài người vào
phát triển kinh tế.
Như vậy, về mặt nhận thức, có thể thấy rằng, vốn tồn tại dưới nhiều hình thái cụ
thể, nhưng hình thái giá trị - tiền tệ với tư cách vốn là loại vốn linh hoạt, biến hoá nhất
trong nền kinh tế thị trường. Thị trường không những là nơi diễn ra các hoạt động đa dạng
của vốn mà còn là nơi để vốn bộc lộ khả năng sinh lời của chúng. Khả năng sinh lời vừa là
mục đích cuối cùng của việc đầu tư kinh doanh đồng vốn, vừa là phương tiện để vốn tiếp
tục vận động với quy mô ngày càng được mở rộng ở chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Sự vận
động của vốn trên thị trường tuân thủ quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường.
Song, với khả năng nhận thức, con người có thể nắm bắt, vận dụng quy luật khách quan,
tạo ra những kênh huy động vốn một cách có hiệu quả, đáp ứng mục đích sản xuất - kinh
doanh của mình.
Vốn có vai trò to lớn trong việc tạo ra của cải vật chất, đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Huy động vốn có hiệu quả, cung ứng vốn đầy đủ và kịp thời cho nền kinh
tế là một trong những điều kiện quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Tuy nhiên,
trong mỗi quyết định đầu tư cụ thể lại đòi hỏi không chỉ lượng vốn đủ lớn mà còn yêu cầu
một hay nhiều loại vốn khác nhau. Thực tiễn luôn đặt ra yêu cầu phân chia và xác định rõ
từng loại vốn để có giải pháp huy động, sử dụng và quản lý vốn có hiệu quả.
Tuỳ theo cách tiếp cận và đặc điểm vận động của vốn trong quá trình đầu tư sản
xuất - kinh doanh, mà có các tiêu thức phân loại vốn khác nhau.
- Căn cứ vào biên giới lãnh thổ quốc gia, vốn chia thành hai loại, đó là: vốn trong
nước và vốn ngoài nước.
- Căn cứ vào đặc điểm chu chuyển của vốn, có vốn cố định và vốn lưu động.
- Căn cứ vào quan hệ sở hữu trong quá trình sử dụng vốn, người ta phân chia vốn
hoạt động thành hai loại: vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và vốn vay (huy động từ bên ngoài).
+ Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc quyền quản lý, sử dụng của một hoặc nhiều chủ thể
sở hữu. Chẳng hạn, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước được hình thành trên cơ sở
ngân sách nhà nước cấp và vốn tự bổ sung; vốn chủ sở hữu của công ty cổ phần được hình
thành thông qua huy động vốn góp của cổ đông; vốn chủ sở hữu của công ty trách nhiệm
hữu hạn được hình thành thông qua vốn góp của các thành viên...
+ Vốn vay là vốn huy động được từ bên ngoài để bổ sung, làm tăng lượng vốn của
chủ thể kinh doanh, đảm bảo tính liên tục và hiệu quả của quá trình sản xuất. Vốn vay có
thể huy động từ vay trong nước và vay ngoài nước. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế,
vay vốn ngoài nước để phát triển kinh tế không phải là công việc quá khó đối với các nước
đang phát triển. Song, vấn đề quan trọng là quản lý và sử dụng vốn vay ngoài nước đảm
bảo có hiệu quả vẫn còn là vấn đề nan giải đối với các nước nghèo và kém phát triển.
- Căn cứ vào thời gian tham gia của vốn vào quá trình hoạt động gồm có vốn ngắn
hạn, vốn trung hạn và vốn dài hạn.
Ngoài ra, còn có một số cách thức phân loại khác như: vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu
tư gián tiếp; vốn với mục đích sinh lời trực tiếp và vốn để đảm nhiệm các dịch vụ công
cộng; vốn thực (tư bản thật), vốn ảo (tư bản giả)...
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi cách tiếp cận khác nhau cho ta những quan niệm
khác nhau về vốn, song, nhận thức về vốn, xét về bản chất là thống nhất. Việc phân chia
vốn thành nhiều loại khác nhau nhằm mục đích hiểu rõ bản chất của phạm trù vốn - vốn
là hình thái giá trị, là thứ hàng hoá đặc biệt, có mối liên hệ mật thiết với thời gian.
Cùng với việc hiểu rõ bản chất của vốn còn nhận thức được tính đa dạng, nhiều vẻ và
rất phức tạp của vốn trong nền kinh tế thị trường. Đó là những căn cứ khoa học giúp
các chủ thể kinh doanh nắm bắt kịp thời và chủ động trong kế hoạch huy động, quản lý,
sử dụng các loại vốn, đẩy mạnh sản xuất - kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế
phát triển.
1.1.2. Các hình thức thu hút vốn huy động
1.1.2.1. Khái niệm về vốn huy động
Nguồn vốn của NHTM bao gồm vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, các nguồn
vốn khác.
- Vốn tự có: Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh đặc biệt, vì vậy quan niệm vốn
tự có của ngân hàng cũng có điểm khác với các tổ chức kinh doanh khác. Có thể hiểu vốn
tự có của ngân hàng theo hai cách tiếp cận sau:
Về khía cạnh kinh tế, vốn của ngân hàng là vốn do các chủ sở hữu đóng góp và vốn
được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận được giữ lại. Theo pháp luật
Việt Nam, vốn ngân hàng trong trường hợp này được gọi là vốn chủ sở hữu hay còn gọi là
vốn điều lệ và các quỹ dự trữ.
Về khía cạnh quản trị, vốn tự có của ngân hàng bao gồm vốn chủ sở hữu, vốn thặng
dư và các tài sản nợ khác có thể coi như vốn tự có. Luật các Tổ chức tín dụng quy định:
“Vốn tự có gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản “nợ” khác
của tổ chức tín dụng theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Vốn tự có là căn cứ để tính
toán các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng” [19, tr.6].
Vốn điều lệ: là vốn riêng do các chủ sở hữu đóng góp được ghi trong điều lệ ngân
hàng, vốn điều lệ tối thiểu phải bằng vốn pháp định (vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải
có để thành lập ngân hàng do pháp luật quy định).
Đối với các NHTMQD, vốn điều lệ là vốn đã được ngân sách cấp dưới hình thức
bằng tiền và trái phiếu chính phủ; đối với các NHTM cổ phần, vốn điều lệ là vốn do các cổ
đông đóng góp; đối với các tổ chức tín dụng hợp tác là vốn do các xã viên đóng góp...
Vốn khác: gồm lợi nhuận giữ lại, chênh lệch do đánh giá lại tài sản( chênh lệch tỷ
giá ngoại tệ, chênh lệch giá vàng, kim khí quý, đá quý); Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, trái
phiếu hùn vốn.
Nguồn vốn tự có ở các NHTM ổn định nhưng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn, chủ yếu được dùng để xây dựng trụ sở văn phòng, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho
hoạt động kinh doanh và bù đắp rủi ro nhưng không vượt 50% vốn tự có, mức độ tăng
trưởng vốn tự có thể hiện thế và lực của NHTM trên thị trường. Vốn tự có là điều kiện
pháp lý cơ bản, đồng thời là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc bảo đảm các khoản
nợ đối với khách hàng. Chính vì vậy, quy mô vốn là yếu tố quyết định quy mô huy động
vốn và quy mô tài sản có.
- Vốn huy động là những phương tiện tiền tệ do NHTM huy động được bằng nghiệp
vụ nhận tiền gửi và các nghiệp vụ khác của ngân hàng để làm vốn kinh doanh. Các khoản
tiền gửi tạm thời nhàn rỗi này không thuộc quyền sở hữu của NHTM, nhưng NHTM được
quyền sử dụng chúng. Đây là nguồn vốn lớn nhất, chủ yếu nhất trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng, thường chiểm khoảng trên 80% trong tổng cơ cấu hoạt động của
ngân hàng. NHTM dùng nguồn vốn nầy để cấp tín dụng hay đầu tư vào các nghiệp vụ sinh
lợi trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vỡ vậy, khi sử dụng NHTM luụn phải dự
trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả. Vốn huy động của NHTM bao gồm các loại
tiền gửi và các nguồn vốn huy động khác.
Trong nghiệp vụ huy động vốn, các NHTM cung cấp nhiều sản phẩm tiền gửi khác
nhau, chẳng hạn như: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi
dưới hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng...Mỗi loại sản phẩm lại có những đặc điểm
riêng phù hợp với những nhu cầu đa dạng của khách hàng. Hiện nay, các NHTM đang áp
dụng các loại huy động tiền gửi là: tiền gửi thanh toán, tiền gửi các tổ chức kinh tế, tiền
gửi tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá. Luật pháp cũng quy định rừ trách nhiệm và quyền
lợi của ngân hàng trong việc nhận tiền gửi. Theo luật các TCTD Việt Nam: “Tiền gửi là số
tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi
có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức tiền gửi khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc
không được hưởng lãi và được hoàn trả cho người gửi tiền” [19, tr.6].
Việc duy trì và mở rộng tiền gửi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc mở rộng
kinh doanh và gia tăng lợi nhuận của ngân hàng. Vì lý do đó, các ngân hàng đã tập trung
mọi nỗ lực trong việc khai thác thường xuyên mọi nguồn vốn trong xã hội nhằm gia tăng
nguồn vốn huy động của mình.
- Vốn vay các ngân hàng : Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các NHTM có thể
thiếu vốn trong thanh toán hoặc thiếu vốn đáp ứng các nhu cầu tín dụng của nền kinh tế thì
có thể đi vay của NHTW hoặc các NHTM và các TCTD khác.
Các nguồn vốn khác: Ngoài các nguồn vốn chủ yếu trên, NHTM còn có thể có
những khoản vốn khác như vốn trong thanh toán, vốn phát sinh từ nghiệp vụ đại lý, nghiệp
vụ uỷ nhiệm..., NHTM có thể sử dụng tạm thời các khoản vốn này vào hoạt động kinh
doanh của mình.
1.1.2.2. Các hình thức huy động vốn
* Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi thanh toán là tiền gửi không kỳ hạn của các cá nhân, doanh nghiệp và các
tổ chức khác gửi tiền vào tài khoản của mình tại ngân hàng để sử dụng bất kỳ lúc nào để
chi trả cho các nghiệp vụ trong tương lai hoặc các nghiệp vụ phát sinh trước đó.
Mục đích của loại tiền gửi này là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các
khoản chi trả phát sinh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, thông qua đó
được hưởng các dịch vụ tiện ích mà ngân hàng có thể cung cấp cho họ, khách hàng không
có ý định để dành và không chú trọng đến tiền lãi. Tuy nhiên, ngân hàng có thể không trả
lãi hoặc trả lãi (tính theo phương pháp tích số) cho khách hàng hằng tháng với lãi suất theo
quy định, đồng thời phải đáp ứng kịp thời, chính xác khi khách hàng có yêu cầu chi trả bất
cứ lúc nào.
Ngân hàng theo dõi tiền gửi thanh toán trên hai tài khoản; tài khoản tiền gửi thông
thường và tài khoản vãng lai.
Tài khoản tiền gửi thanh toán có những đặc điểm sau:
+ Tiền gửi thanh toán là nguồn vốn có chi phí rẻ nhất của ngân hàng. Chi phí cho
việc huy động nguồn tiền gửi này ngoài lãi suất còn có chi phí quản lý tài khoản, chi phí in
ấn xử lý séc, nhưng do ngân hàng không phải trả lãi hay chỉ phải trả với mức lãi suất thấp
nên có chi phí thấp hơn nhiều so với tiền gửi các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm. Ngoài
ra, ngân hàng còn thu thêm được khoản phí dịch vụ khi khách hàng thực hiện thanh toán
chi trả qua ngân hàng. Do đó, ngân hàng nào có số dư tiền gửi thanh toán lớn thì sẽ có thu
nhập cao hơn ngân hàng có số dư tiền gửi thanh toán ít.
+ Bản chất của loại tiền gửi thanh toán không có tính ổn định cao, tuy nhiên, nếu
xét trong một thời gian nào đó, các nhu cầu rút tiền của khách hàng thường diễn ra không
đồng thời, nên tại thời điểm đó số dư tổng tiền gửi thanh toán vẫn đủ lớn, tạo nên nguồn
vốn ổn định cho ngân hàng. Mặt khác, nếu người thụ hưởng cũng có tài khoản tại ngân
hàng thì tiền vẫn không ra ngoài hệ thống ngân hàng, khả năng sử dụng vốn của ngân hàng
sẽ cao hơn.
+ Do khả năng chuyển đổi của loại tiền gửi thanh toán sang tiền mặt rất nhanh, vì
vậy các NHTM phải chấp hành một tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của ngân hàng
trung ương theo từng thời kỳ nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu của khách hàng.
* Tiền gửi các tổ chức kinh tế (hay tiền gửi của pháp nhân)
Tiền gửi các tổ chức kinh tế là loại tiền gửi được ký thác vào ngân hàng trên cơ sở
có sự thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng với ngân hàng. Đối tượng chủ yếu
gửi vào tài khoản này là các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội có thu nhập tạm thời chưa sử
dụng trong một thời gian nhất định có thể gửi vào ngân hàng dưới hình thức ký thác có kỳ
hạn
Đối với loại tiền gửi này được ngân hàng trả lãi theo mức lãi suất do ngân hàng ấn
định cố định trong suốt thời gian gửi. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế có nhiều kỳ hạn
khác nhau; tiền gửi có kỳ hạn càng dài, lãi suất sẽ càng cao; ngân hàng có thể dùng tiền
gửi tương đối ổn định này để cho vay và có lợi tức cao hơn các loại tiết kiệm và phát hành
trái phiếu do chi phí huy động vốn loại tiền gửi này tương đối thấp. Vì vậy, các ngân hàng
rất chú trọng đến việc nâng cao tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn trong cơ cấu nguồn vốn huy
động của mình.
Về nguyên tắc, khách hàng gửi tiền chỉ được rút tiền ra khi đến hạn như đã thoả
thuận trước. Trên thực tế, do nhu cầu vốn cho thị trường ngày càng cao và do cạnh tranh
để thu hút khách hàng, các ngân hàng vẫn chấp thuận cho khách hàng rut tiền trước thời
hạn, đồng thời khách hàng phải chấp nhận hưởng một mức lãi suất thấp hơn so với mức lãi
suất thoả thuận ban đầu (thường được trả bằng mức lãi suất tiền gửi thanh toán).
- Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của dân cư được gửi vào ngân hàng với
mục đích tích luỹ để đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong tương lai, người gửi được hưởng lãi từ
khoản tiền đó và đáp ứng nhu cầu an toàn về tài sản.
Tiền gửi tiết kiệm gồm những loại sau:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: giống với tiền gửi thanh toán, người gửi được
quyền gửi vào và rút tiền ra bất kỳ lúc nào, được ngân hàng trả lãi, chỉ khác ở chổ là khách
hàng không được sử dụng các phương tiện thanh toán của ngân hàng. Mục đích của loại
tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn nhằm khuyến khích những người có thu nhập ít nhưng
tương đối ổn định, muốn tích luỹ dần những khoản tiền nhỏ để đáp ứng nhu cầu tiết kiệm
hoặc chi tiêu trong tương lai.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Về cơ bản giống tiền gửi có kỳ hạn, khách hàng gửi
tiền vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi và an toàn tài sản. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm có
kỳ hạn cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Đây là nguồn vốn ổn định, giúp
cho ngân hàng hàng chủ động lập kế hoạch đầu tư cho vay với thời hạn dài mang lại lợi
nhuận cao.
- Tiền gửi tiết kiệm khác: Đây là loại tiền gửi ngoài mục đích tích luỹ còn đi kèm
với mục đích của người sử dụng và của người gửi. Ví dụ như: Tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm
dự thưởng, tiết kiệm để mua nhà ở, tiết kiệm giáo dục... người gửi tiền, ngoài mục đích
hưởng lãi còn được ngân hàng hỗ trợ để thực hiện mục tiêu đã định. Ngoài ra, để thu hút,
khuyến khích khách hàng gửi tiền, tạo lợi thế cạnh tranh, các ngân hàng còn đưa ra những
sản phẩm khác mới hơn như tiền gửi tiết kiệm bậc thang, khách hàng có thể chọn lựa một kỳ
hạn ban đầu dài hạn, nhưng nếu vì lý do cần chi tiêu đột xuất thì ngân hàng có thể chi trả cho
người gửi theo các kỳ hạn ngắn hơn với mức lãi suất thoả thuận.
- Phát hành giấy tờ có giá
Để chủ động thực hiện huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư theo kế
hoạch trong từng thời kỳ, các NHTM có thể phát hành các loại giấy tờ có giá bán cho công
chúng. Giấy tờ có giá là một loại giấy nhận nợ của ngân hàng như: chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, trái phiếu, được phát hành từng đợt với lãi suất thường cao hơn lãi suất tiền gửi tiết
kiệm thông thường nên có sức hấp dẫn lớn đối với người gửi tiền. Các ngân hàng có thể
ngưng phát hành các loại giấy tờ có giá khi đã huy động đủ số vốn theo nhu cầu của mình.
Việc huy động vốn dưới hình thức phát hành giấy nợ thường được thực hiện theo hai
phương thức sau:
- Phát hành theo mệnh giá: Người mua giấy nợ trả tiền theo mệnh giá đã được ghi
trên giấy nợ. Khi đến hạn thanh toán, ngân hàng sẽ hoàn trả cho khách hàng vốn gốc
(mệnh giá) và phần lãi được hưởng ghi trên giấy nhận nợ.
- Phát hành dưới hình thức chiết khấu: Người mua giấy nợ sẽ trả tiền bằng mệnh giá
trừ đi số tiền chiết khấu và khi đến hạn thanh toán ngân hàng sẽ hoàn trả cho khách hàng
theo đúng mệnh giá (hay nói một cách khác ngân hàng trả lãi trước khi khách hàng đến
gửi, tức là ngân hàng chỉ thu về số tiền bằng mệnh giá trừ đi tiền lãi phải trả, khi đến hạn
thanh toán ngân hàng chỉ phải thanh toán phần gốc theo đúng mệnh giá).
Đối với hình thức chiết khấu, khách hàng được lợi hơn vì lãi suất thực tế mà họ
được hưởng cao hơn lãi suất danh nghĩa ghi trên giấy nợ. Vì vậy, hình thức này thu hút
được khách hàng hơn, nhưng đối với ngân hàng thì chi phí thực tế phải trả cho việc sử
dụng vốn cao hơn. Do đó, các ngân hàng chỉ sử dụng hình thức này trong trường hợp cần
huy động vốn trong một thời gian nhất định để phục vụ cho kế hoạch kinh doanh của
mình.
1.2. Các yếu tố ảnh hưỏng đến thu hút vốn huy động
Trong nền kinh tế thị trường, các ngân hàng phải đối mặt với nhiều yếu tố bất lợi và
rủi ro trong hoạt động ngân hàng nói chung, cũng như hoạt động huy động vốn nói riêng.
Khi một ngân hàng gặp rủi ro, điều đó có thể đi đến phá sản, hoặc sẽ bị thiệt hại về thu
nhập, mất uy tín với khách hàng . Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của các nhà quản trị ngân
hàng là hoạch định được một cơ chế, chiến lược và biện pháp kinh doanh phù hợp nhằm
hạn chế mức độ rủi ro, giảm thiểu hậu quả đến mức thấp nhất có thể chấp nhận được.
Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thường chịu tác động bởi những nhân tố tài
chính đặc thù như thanh khoản, lãi suất, rủi ro tín dụng và nhiều yếu tố khác, trong đó yếu
tố thanh khoản và lãi suất mang tính quan trọng hơn cả.
1.2.1. Thanh khoản
Vấn đề chủ yếu mà các ngân hàng phải đương đầu trong quá trình hoạt động của
mình là xác định nhu cầu thanh khoản và làm thế nào để đáp ứng được nhu cầu đó một
cách hiệu quả nhất. Cái khó ở đây là phải xử lý mối quan hệ giữa rũi ro và lợi nhuận, tức là
phải đáp ứng nhu cầu thanh toán kịp thời cho người gửi tiền với chi phí thấp nhất. Một
ngân hàng có đủ vốn, chất lượng tín dụng tốt nhưng nếu không quan tâm xây dựng chiến
lược và phương pháp quản trị thanh khoản tốt hoặc xây dựng thanh khoản không hợp lý,
không kiểm soát được khả năng thanh khoản sẽ dẫn đến rủi ro thanh khoản.
Rủi ro thanh khoản phát sinh khi ngân hàng có sự thiếu hụt về ngân quỹ để đáp ứng
nhu cầu chi trả cho người gửi tiền, thanh toán các khoản nợ đến hạn mà ngân hàng đã vay hay
giải ngân cho các hợp đồng tín dụng đã thoả thuận.
Những nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro thanh khoản, đó là:
- Ngân hàng quá chú trọng đến lợi nhuận nên đầu tư vào những tài sản sinh lời quá
mức, chưa quan tâm đến công tác quản trị thanh khoản.
- Xuất hiện những biến cố bất thường như khách hàng mất niềm tin vào khả năng
chi trả của ngân hàng hay do những tin đồn thất thiệt có dụng ý xấu.
- Do hiệu ứng dây chuyền, một ngân hàng phá sản, khách hàng của ngân hàng khác
sẽ đổ xô đến ngân hàng để rút tiền.
- Do ảnh hưởng trực tiếp của các loại rủi ro khác như rủi ro tín dụng, ngoại hối, thị
trường...
Trong các loại nguồn vốn huy động thì tiền gửi thanh toán có độ rủi ro lớn nhất,
tiền gửi không kỳ hạn có rủi ro cao hơn tiền gửi có kỳ hạn và các loại giấy tờ có giá. Nếu
khối lượng các loại tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn càng lớn thì nguy cơ rủi
ro là rất cao. Do ngân hàng không biết trước được khách hàng sẽ gửi bao nhiêu cũng như
không biết khi nào sẽ chi trả cho khách hàng và chi trả bao nhiêu. Khi khách hàng đến rút
tiền gửi không kỳ hạn, ngân hàng không được quyền từ chối, nếu vào thời điểm đó ngân
hàng không dự trữ đủ tiền, ngân hàng sẽ gặp rủi ro trong thanh khoản.
Việc ngân hàng mất khả năng thanh khoản, bị phá sản có ảnh hưởng tiêu cực rất lớn
đối với toàn bộ nền kinh tế, đến đời sống xã hội và cả chế độ chính trị của mỗi quốc gia.
Vì vậy, trong luật lệ ngân hàng của các nước đều được quy định rất cụ thể, chặt chẽ các
yêu cầu về đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng. ở Việt Nam, Luật các
TCTD quy định các tỷ lệ đảm bảo an toàn và buộc các TCTD phải duy trì, trong đó có tỷ
lệ về khả năng chi trả. Luật các TCTD quy định: “Khả năng chi trả được xác định bằng tỷ
lệ giữa tài sản “Có” có thể thanh toán ngay so với các loại tài sản “Nợ” phải thanh toán tại
một thời điểm nhất định của tổ chức tín dụng” [19, tr.22].
1.2.2. Lãi suất
Cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng diễn ra vừa đa dạng, vừa phức tạp và quyết
liệt; không chỉ giữa các NHTM mà còn có các định chế tài chính khác; không chỉ cạnh
tranh trong việc cung cấp các dịch vụ sản phẩm tài chính mà còn trong yếu tố lãi suất (mặc
dù lãi suất không phải là yếu tố cạnh tranh). Lãi suất là một trong những yếu tố của chi phí
huy động vốn (ngoài các chi phí khác như tuyên truyền, quãng cáo, quản lý...); các ngân
hàng đặc biệt quan tâm đến chi phí huy động vốn, bởi vì trong các khoản mục chi phí thì
đây là loại chi phí lớn nhất đối với hầu hết các ngân hàng. Tuy nhiên, việc xác định chi phí
đối với nguồn vốn huy động sẽ giúp cho nhà quản trị nguồn vốn có cơ sở để định giá các
dịch vụ tài chính, bao gồm xác định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay. Nếu chi phí huy
động vốn cao thì khả năng sinh lời sẽ giảm nhưng nguồn vốn sẽ ổn định và tăng; ngược lại,
nếu chi phí huy động vốn thấp thì khả năng sinh lời tăng nhưng khả năng thu hút và duy trì
nguồn vốn ổn định lại thấp. Việc xác định một chính sách huy động vốn hấp dẫn, linh hoạt
và hợp lý là hết sức cần thiết, có ý nghĩa quyết định đến quy mô nguồn vốn để đảm bảo
khả năng sinh lời tăng, đảm bảo sự tăng trưởng và ổn định của nguồn vốn huy động.
1.2.3. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng xảy ra khi có sự sai hẹn của người đi vay trong việc thực hiện nghĩa
vụ trả nợ theo hợp đồng (bao gồm cả gốc và lãi).
Rủi ro tín dụng không tác động trực tiếp đến hoạt động huy động vốn của ngân
hàng mà tác động một cách gián tiếp thông qua việc tác động đến khả năng thanh khoản.
Nếu các khoản nợ quá hạn tồn đọng cao, tổn thất tín dụng cao sẽ làm giảm nguồn thanh
khoản của ngân hàng và tất nhiên việc đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi có thể không
thực hiện được. Ngân hàng huy động vốn là để cho vay, nếu cho vay không hiệu quả,
không thu được nợ vay thì ngân hàng sẽ không có tiền để chi trả cho những khoản tiền gửi
khi khách hàng đến rút.
Bên cạnh việc mở rộng cho vay nhằm đem lại lợi nhuận thì các ngân hàng cũng có
chính sách tín dụng thích hợp, cố gắng phân tán giảm thiểu rủi ro liên quan đến hoạt động
cho vay bằng cách: sàng lọc và giám sát khách hàng vay, quy định các mức cho vay, thế
chấp và hạn chế tín dụng... Ngoài ra, NHTW còn có quy định cho phép các NHTM được
trích lập quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp cho các khoản tín dụng tổn thất, mua bảo hiểm tiền
gửi cho người gửi tiền. Các giải pháp trên đã giúp cho các ngân hàng hạn chế rủi ro tín
dụng, góp phần bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền, tao được niềm tin của khách hàng khi
gửi tiền vào ngân hàng.
Đối với các nhà quản trị ngân hàng, vấn đề khó khăn là lựa chọn nguồn vốn để huy
động. Chi phí huy động vốn và rủi ro của nguồn vốn huy động tương quan tỷ lệ nghịch với
nhau, nguồn vốn huy động có chi phí cao có thể có rủi ro thấp và ngược lại những nguồn
vốn huy động có chi phí thấp lại có thể có rủi ro cao cho ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng
cần xem xét tính chất rủi ro của từng loại nguồn vốn để huy động, vừa đáp ứng đủ trong
việc đầu tư cho vay và có lợi nhuận, vừa đảm bảo yêu cầu thanh khoản và nhu cầu chi trả
kịp thời cho người gửi tiền.
1.2.4. Các yếu tố khác
- Cơ sở vật chất, mạng lưới của ngân hàng: cơ sở vật chất là yếu tố đầu tiên để
khách hàng đặt niềm tin vào ngân hàng. Một trụ sở khang trang, bề thế, có trang bị tiện
nghi hiện đại tạo cho dân chúng một hình ảnh giàu có của ngân hàng. Các ngân hàng có
nhiều chi nhánh được bố trí thuận tiện cho khách hàng khi giao dịch sẽ tạo điều kiện thu
hút khách hàng yên tâm gửi tiền vào ngân hàng ngày càng nhiều hơn.
- Các sản phẩm dịch vụ ngân hàng: phong phú, đa dạng, có nhiều tiện ích đáp ứng
nhu cầu của khách hàng sẽ khuyến khích khách hàng sử dụng nhiều hơn.
- Đội ngũ nhân viên ngân hàng: Đội ngũ nhân viên trực tiếp giao dịch với khách
hàng phải trung thực, niềm nở, có trình độ không chỉ trong lĩnh vực ngân hàng mà còn
phải có kiến thức tổng hợp, biết các lĩnh vực khác để tư vấn, thuyết phục khách hàng là
cần thiết. Song, sự quen biết, thân thích với khách hàng bao giờ cũng rất quan trọng, khách
hàng có thể đem tiền của mình đến gửi cho ngân hàng và khách hàng cũng có thể rút vốn
khỏi ngân hàng, làm giảm uy tín, hình ảnh của ngân hàng.
- Các chính sách cơ bản của ngân hàng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến
hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Các ngân hàng phải đưa ra được những mục tiêu
kinh doanh nhất quán, lâu dài; xây dựng chiến lược, chính sách cơ bản của mình (chính
sách con người, chính sách khách hàng, chính sách tín dụng...), vấn đề là các chiến lược,
chính sách đó có phù hợp hay không và được thực hiện như thế nào trong quá trình kinh
doanh.
Một chính sách cho vay năng động, hiệu quả với nhiều phương thức cho vay, lãi
suất đa dạng, thủ tục nhanh gọn tạo thuận lợi cho khách hàng là điều kiện thu hút vốn vào
ngân hàng, bởi vì những người gửi tiền sẽ trở thành những người vay tiền của ngân hàng
hay ngược lại, khi những ý tưởng và ham muốn kinh doanh của họ hình thành.
Chính sách khách hàng phải luôn được các ngân hàng quan tâm từ việc tiếp cận, thu
hút khách hàng ban đầu đến việc duy trì và phát triển lâu dài đối với khách hàng truyền
thống của mình. Việc khai thác các khía cạnh tâm lý việc thu hút khách hàng trong quan hệ
giao dịch đến trong cuộc sống đời thường của khách hàng có tác dụng rất lớn; do đó các
khó khăn, vướng mắc giữa khách hàng và ngân hàng sẽ được giải quyết có tình, có lý, vừa
đạt ý muốn của ngân hàng vừa làm vừa lòng khách hàng.
1.3. Vai trò của vốn huy động trong việc phát triển kinh tế - xã hội
1.3.1. Vốn tiền tệ là điểm xuất phát của mọi hoạt động kinh doanh
Khi nghiên cứu về quá trình lưu thông của tư bản, Các Mác đã đưa ra công thức vận
động của tư bản công nghiệp
- TLSX
T - H ... SX...H’ - T’
- SLĐ
ở tuần hoàn này, điểm xuất phát là T và điểm kết thúc là T’(T’>T). T (vốn tiền tệ) là
phương tiện ứng ra trong lưu thông, T’ là mục đích đạt được trong lưu thông của tư bản
tiền tệ, còn sản xuất chỉ là khâu trung gian. Như vậy, trong kinh tế hàng hoá vận động của
vốn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng đều lấy tiền tệ làm điểm xuất phát của sự biến
hoá. Qua đây chúng ta thấy rằng: hình thái tuần hoàn của tư bản tiền tệ là phương thức vận
động của vốn tiền tệ trong nền sản xuất hàng hoá nói chung chứ không phải chỉ riêng trong
nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Nghĩa là, vốn tiền tệ trong nền sản xuất hàng hoá
vận động theo tuần tự: trước tiên, vốn tiền tệ phải là điểm xuất phát, được ứng ra với tư
cách là giá trị trong hình thái tiền dùng để chuyển hoá thành giá trị dưới hình thái các yếu
tố của quá trình sản xuất.
Quá trình sản xuất là quá trình tiêu dùng tư liệu sản xuất và sức lao động tạo ra
sản phẩm hàng hoá (làm tăng giá trị), cuối cùng bán sản phẩm hàng hoá để thu về một
lượng tiền lớn hơn lượng tiền ứng ra ban đầu. Nhưng nếu xét theo một khía cạnh khác
thì lưu thông hàng hoá ( bao gồm tư liệu sản xuất, sức lao động và hàng hoá thành
phẩm) quyết định lưu thông vốn tiền tệ. Ngược lại, lưu thông của vốn tiền tệ có tác
động mạnh mẽ đến lưu thông hàng hoá, nghĩa là lưu thông tiền tệ có thể làm cho lưu
thông hàng hoá trôi chảy, do đó cũng làm cho vòng tuần hoàn vốn nhanh hơn, nhưng
nó cũng có thể làm cho lưu thông hàng hoá bị ách tắc bởi nhiều nguyên nhân khác
nhau.
Trong quá trình sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất, sức lao động là hai nhân tố
quyết định trực tiếp đến việc chế tạo ra sản phẩm hàng hoá, trong đó việc bảo tồn giá trị
của tư liệu sản xuất và tạo giá trị mới lớn hơn là do lao động sống quyết định. Trên thực tế,
dù kinh doanh ở bất kỳ ngành nào thuộc lĩnh vực nào, các nhà đầu tư hoặc phải ứng trước
một lượng vốn tiền tệ do tích luỹ được, hoặc phải huy động vốn tiền tệ từ các nguồn khác
nhau trong xã hội, trên cơ sở đó mới tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh.
1.3.2. Vốn huy động có tính quyết định đến phát triển kinh tế - xã hội
Vốn là một trong những yếu tố có tầm quyết định đối với hoạt động của nền kinh tế
quốc dân, là điều kiện quan trọng nhất góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn vốn huy động của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM huy động được
dùng để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác. Ngân hàng là một lĩnh
vực không thể tách rời với tổng thể chung của nền kinh tế, hoạt động ngân hàng gắn bó hết
sức mật thiết, hỗ trợ cho nền kinh tế phát triển. Nghiệp vụ huy động vốn giữ vai trò rất
quan trọng không chỉ đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà còn có vai trò to lớn
trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Vốn là một trong những tiền đề quan trọng trong tái sản xuất mở rộng, là điều kiện
tiên quyết để tiến hành sản xuất trong từng doanh nghiệp cũng như trong toàn nền sản xuất
xã hội. Sự tích tụ, tập trung một lượng tiền tương ứng với quy mô đầu tư sản xuất hàng hoá
là điều kiện để tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Sản xuất phát triển đạt hiệu quả cao,
đến lượt nó, lại là cơ sở vững chắc cho quá trình tích luỹ vốn dồi dào. Trong các kênh tập
trung và đầu tư vốn cho nền kinh tế, NHTM là kênh chu chuyển vốn hiệu quả nhất, ít tốn
kém nhất. Thông qua NHTM, những đồng vốn riêng lẻ, nhàn rỗi trong xã hội sẽ được tập
trung thành nguồn vốn lớn, đáp ứng nhu cầu đầu tư của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sản
xuất , lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế - xã hội cụ thể như:
- Cho vay các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình để phát triển kinh tế, xoá đói
giảm nghèo, giải quyết việc làm.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn đã
làm nảy sinh nhu cầu vốn. Có thể nói nguồn vốn ngân hàng có sức lan toả rộng vào mọi
tầng lớp dân cư, đã đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn và hình thành
nên thị trường vốn trong nền kinh tế thị trường. Nguồn vốn của ngân hàng cho các doanh
nghiệp, cá nhân, hộ gia đình vay đã tác động tích cực đến việc khai thác các thế mạnh,
tiềm năng của đất nước, góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, giúp các doanh
nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh, chuyển dịch cơ cấu trong sản
xuất nông nghiệp, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân góp phần xoá được
đói, giảm được nghèo, đồng thời vươn lên làm giàu, tạo động lực nhằm mang lại hiệu quả
kinh tế - xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Cho vay phục vụ đời sống, tiêu dùng, cho vay đi lao động nước ngoài
Nguồn vốn của ngân hàng còn tạo điều kiện giúp cho các cá nhân và hộ gia đình
vay vốn để giải quyết các nhu cầu về đời sống, học hành, tiêu dùng như mua sắm phương
tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt gia đình, sửa chửa nhà ở...nhằm không ngừng cải thiện và
nâng cao đời sống của nhân dân, đồng thời còn giải quyết cho vay đi lao động nước ngoài
góp phần giải quyết công ăn, việc làm và tăng nguồn thu nhập từ nước ngoài chuyển về.
Với đường lối đổi mới và chính sách mở cửa của Đảng, nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trong cả nước, nhu cầu về vốn cho sản xuất
kinh doanh ngày càng tăng, đòi hỏi các ngân hàng phải có nguồn vốn lớn tương xứng, đáp
ứng đầy đủ, kịp thời cho các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần
phục vụ quá trình CNH, HĐH và phát triển kinh tế - xã hội một cách ổn định và vững
chắc.
Chương 2
thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội tại Chi nhánh Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên phước, tỉnh Quảng Nam
trong những năm vừa qua
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng
Nam
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Tiên Phước là một huyện miền núi thuộc tỉnh Quảng Nam, nằm cách trung tâm tỉnh
lỵ thành phố Tam Kỳ 25km về phía Tây, phía Bắc giáp với huyện Thăng Bình và Quế Sơn,
phía Nam giáp huyện Bắc Trà My, phía Đông giáp huyện Phú Ninh, phía Tây giáp huyện
Hiệp Đức.
Huyện Tiên phước có 14 xã và 01 thị trấn, trong đó có 14 xã miền núi. Tổng diện
tích tự nhiên toàn huyện: 45.322ha, trong đó đất nông nghiệp 7.760ha, đất lâm nghiệp
20.694ha, đất phi nông nghiệp 4.611ha, đất chưa sử dụng 12.239ha.
Địa hình toàn huyện mang nét đặc trưng của địa hình đồi núi, phức tạp và có độ
chia cắt lớn, bao gồm 03 dạng địa hình cơ bản sau:
- Địa hình đồi núi: chiếm 55% diện tích tự nhiên của huyện, phân bổ chủ yếu ở phía Tây,
Tây Nam và phía Bắc của huyện, nằm ở khu vực tiếp giáp với huyện Hiệp Đức và huyện
Bắc Trà My trên địa bàn các xã Tiên Lãnh, Tiên Ngọc, Tiên Hiệp, Tiên Cảnh.
- Địa hình gò đồi: dạng địa hình này chiếm khoảng 25% diện tích tự nhiên, địa hình phổ
biến là những dãy đồi thấp, bát úp hoặc lượn sóng, có độ cao trung bình từ 100 - 200m, tập
trung ở các khu vực tiếp giáp với địa hình đồi núi. Phần lớn diện tích các khu vực gò đồi
đã được sử dụng trồng các loại cây lâu năm như quế, tiêu và các loại cây ăn quả khác.
- Địa hình bậc thang thấp trũng: chiếm khoảng 20% diện tích tự nhiên, bao gồm các
khu vực địa hình bậc thang nhỏ hẹp và phân tán, càng về phía trung tâm huyện và phía
đông, địa hình bậc thang thấp có xu hướng mở rộng và tập trung hơn, độ dốc cũng giảm
dần, phần lớn diện tích này đã dược sử dụng trồng hoa màu và lúa nước.
Về khí hậu, thời tiết: ngoài ảnh hưởng chung của khí hậu nhiệt đới, gió mùa, huyện
Tiên Phước còn có những nét đặc trưng riêng, đó là: một năm chia làm hai mùa khá rõ rệt,
mùa khô bắt đầu từ tháng 3, kết thúc vào tháng 8, nhiệt độ cao nhất vào các tháng 5, 6, 7.
Tháng 7 thường có gió Tây - Nam khô nóng. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9, kết thúc vào
tháng 11, mưa lớn thường xảy ra vào tháng 10, 11. Từ tháng 12 đến tháng 2 là thời kỳ
chuyển tiếp giữa mùa mưa và mùa khô, hai tháng này thường có gió bấc rét lạnh, rồi
chuyển sang khô hanh vào cuối tháng 2. Nhiệt độ trung bình hằng năm khoảng 26,5 độ,
lượng mưa khoảng 3.070mm, độ ẩm không khí trung bình từ 82 - 85%.
Về hệ thống thuỷ văn: trên địa bàn có 04 sông chính là sông Tranh, sông Khang,
sông Tiên, sông Trạm và một số sông suối nhỏ khác.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Toàn huyện có 15.961 hộ, 74.779 người, trong đó dân số khu vực nông thôn là
67.401 người, chiếm 90,13%, dân số khu vực đô thị là 7.378 người, chiếm 9,87%. Số lao
động trong độ tuổi là 36.534 người, trong đó có khả năng lao động là 29.063 người, không
có khả năng lao động là 7.471 người. Mật độ dân số trung bình 164 người/km2, tập trung
chủ yếu ở khu vực đô thị với mật độ 887 người/km2.
Kết quả trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng của huyện là 8%, giá trị sản xuất ngành
nông nghiệp là 132.373 triệu đồng, tăng 4,8%, trồng rừng hằng năm 700ha, cải tạo vườn
tạp 200ha, giá trị ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 11.375 triệu đồng, tổng thu
ngân sách trên địa bàn tăng 15%.
Với cơ cấu kinh tế của huyện là nông - lâm nghiệp - công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp - thương mại - dịch vụ. Trong những năm gần đây, trên địa bàn huyện kinh tế
vườn, kinh tế trang trại được phát triển rộng khắp, người dân đã chú trọng việc chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đã tiến hành đầu tư những cây trồng, vật nuôi đạt hiệu quả cao
như: trồng cỏ kết hợp chăn nuôi bò, nuôi cá nước ngọt, trồng cây lấy gỗ và các loại cây có
giá trị như tiêu, quế, bòn bon... và các dự án đầu tư trên lĩnh vực nông nghiệp, công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tạo công ăn việc làm và từng bước nâng cao đời sống của
nhân dân trong huyện.
Với những đặc điểm về tự nhiên - kinh tế - xã hội nêu trên đã tạo nên những thuận
lợi và khó khăn đến quá trình hoạt động của Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước,
đặc biệt là việc thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyệnTiên
Phước, tỉnh Quảng Nam:
* Những thuận lợi:
Nhìn chung, vị trí địa lý của huyện tương đối thuận lợi do nằm ở vùng tiếp giáp với
thành phố tỉnh lỵ Tam Kỳ, là đầu mối giao lưu kinh tế, hàng hoá quan trọng giữa vùng
đồng bằng và miền núi phía Tây, có hệ thống giao thông thuận lợi. Điều kiện khí hậu, đất
đai phù hợp với nhiều loại cây trồng và vật nuôi, đặc biệt là phát triển các loại cây trồng có
giá trị kinh tế cao như quế, tiêu, bòn bon, các loại cây ăn quả, sản xuất lâm nghiệp và phát
triển trang trại.
Có lực lượng lao động dồi dào, chịu khó. Các thành phần kinh tế được khuyến khích
phát triển sản xuất kinh doanh bằng cơ chế, chính sách thích hợp. Đời sống của các tầng lớp
dân cư trong huyện ngày càng được cải thiện, số hộ đói nghèo ngày càng giảm, số hộ sản xuất
kinh doanh giỏi ngày càng tăng.
Từ đó có điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội một cách vững chắc, đảm bảo thực
hiện tốt sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn, tạo động lực thúc đẩy
công tác huy động vốn của ngân hàng.
* Những hạn chế ảnh hưởng công tác huy động vốn
Địa hình chia cắt phức tạp gây khó khăn trong việc xây dựng, phát triển cơ sở hạ
tầng và bố trí sản xuất. Địa hình đồi núi, độ dốc lớn, mức độ chia cắt mạnh gây nên những
hiện tượng xói lỡ, bào mòn nghiêm trọng. Đồng ruộng nhỏ hẹp, manh mún, đất đai nghèo
dinh dưỡng khó khăn cho sản xuất cơ giới hoá trong nông nghiệp cũng như phát triển hệ
thống thuỷ lợi.
Do địa hình của huyện miền núi, kết cấu hạ tầng còn yếu kém, tốc độ tăng trưởng
kinh tế tuy cao, song điểm xuất phát quá thấp, quy hoạch phát triển vùng kinh tế trọng điểm,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế còn chậm, năng suất chưa cao, việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật chưa
đồng đều. Tiềm năng về đất đai, lao động, nghề truyền thống, công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ chưa được đầu tư khai thác có hiệu quả. Vai trò của công nghiệp tác động,
thúc đẩy nông nghiệp phát triển còn hạn chế, còn bị động trong việc tiêu thụ nông sản
phẩm.
Những khó khăn trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc mở rộng quy mô hoạt động,
khả năng thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện.
2.2. Quá trình hình thành, phát triển của Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn huyện Tiên phước, tỉnh Quảng Nam
Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, là đơn vị trực thuộc NHNo&PTNT
tỉnh Quảng Nam, là NHTMQD chủ lực trên địa bàn, trong thời gian qua hoạt động của Chi
nhánh đã có nhiều đóng góp đáng kể cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Có thể nhận xét sự trưởng thành và phát triển của Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên
Phước, tỉnh Quảng Nam được thể hiện tóm tắt qua các giai đoạn sau:
- Giai đoạn từ 1975 đến 1987: Nhiệm vụ chủ yếu của chi nhánh là thu chi tiền mặt,
thực hiện công tác thanh toán, huy động tiền gửi để cho vay, chủ yếu là cho vay đối với
các đơn vị kinh tế quốc doanh, tập thể và tập trung ưu tiên cho vay thu mua nông sản thực
phẩm, hàng xuất khẩu, trong giai đoạn này chức năng kinh doanh của ngân hàng chưa chú
trọng đúng mức mà chỉ quan tâm đến chức năng quản lý, đặc biệt là quản lý tiền mặt.
- Thời kỳ từ 1988 đến 1990: Đây có thể nói là giai đoạn đầu phát triển của ngân
hàng nông nghiệp huyện Tiên Phước, kể từ khi có Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988
của HĐBT (nay là Chính Phủ), chính thức chuyển hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh
doanh, hạch toán kinh tế độc lập, trở thành hệ thống ngân hàng hai cấp. Trong giai đoạn
này hệ thống ngân hàng đã từ bỏ cơ chế bao cấp sang tập dượt kinh doanh đã tạo điều kiện
từng bước phục hồi nền kinh tế.
Tuy nhiên do hậu quả nặng nề của thời kỳ bao cấp, sự non kém của ngân hàng
chuyên doanh đã làm cho hệ thống ngân hàng bị suy yếu và mất uy tín nghiêm trọng.
Chính sách tiền tệ mới chưa được định hướng rõ ràng và những công cụ thực hiện chính
sách đó hầu như chưa có. Môi trường pháp lý chung cho hoạt động của ngân hàng chưa
đảm bảo. Các phương thức, sản phẩm tín dụng và nghiệp vụ kinh doanh của các ngân hàng
chưa được đổi mới, đa dạng và triển khai thực hiện có hiệu quả. Các công cụ giám sát,
thanh tra, kiểm soát hoạt động của ngân hàng hết sức yếu kém, không đảm bảo an toàn cho
người gửi tiền và kể cả an toàn cho hệ thống ngân hàng.
Giai đoạn này biên chế của Chi nhánh có đến 51 cán bộ - công nhân viên, nhưng
đến năm 1990 giảm xuống còn có 38 cán bộ - công nhân viên. Nguồn vốn huy động đến
cuối năm 1990 chỉ có 317 triệu, dư nợ cho vay 487 triệu đồng, trong đó đó nợ quá hạn
chiếm đến 78%, rủi ro tín dụng rất lớn, nhiều món vay mất khả năng thu hồi, phần lớn các
khoản vay là của các đơn vị kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể.tín dụng tư nhân cá thể chiếm tỷ
trọng rất ít.
- Giai đoạn từ tháng 11 năm 1990 đến tháng 10 năm 1996:
Tháng 5 năm 1990, HĐNN đã công bố hai pháp lệnh: Pháp lệnh về NHNN và Pháp
lệnh về Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính, có hiệu lực từ tháng 10 năm
1990.
Ngày 14 tháng 11 năm 1990, NHNo Việt Nam được thành lập theo Quyết định số
400/CT của Chủ tịch HĐBT (nay là Thủ tướng Chính phủ), trên cơ sở đó NHNo huyện
Tiên Phước cũng được hình thành, bên cạnh đó đó sự ra đời của kho bạc nhà nước huyện
đã làm cho chức năng kinh doanh, vai trò tín dụng của ngân hàng được thể hiện rõ nét hơn
trước. Đặc biệt, trong giai đoạn này có hai sự kiện đã củng cố, tạo đà phát triển cho hoạt
động của NHNo huyện Tiên Phước và làm tăng thêm uy tín cho Chi nhánh, đó là:
+ Chỉ thị 202/CT ngày 28 tháng 6 năm 1991 Chủ Tịch HĐBT (nay là Thủ tướng
Chính phủ) về việc cho vay trực tiếp kinh tế hộ, làm cơ sở để NHNo Việt Nam ban hành
văn bản số 499 A-TDNT ngày 02 tháng 9 năm 1993 quy định biện pháp cho vay hộ sản
xuất.
+ Năm 1994, NHNo huyện Tiên Phước đã tiến hành thực hiện nghiệp vụ cho vay
xoá đói giảm nghèo, tạo tiền đề cho Ngân hàng phục vụ người nghèo (nay là Ngân hàng
chính sách xã hội) hình thành và đi vào hoạt động để cho vay hộ nghèo và các đối tượng
chính sách thiếu vốn sản xuất.
Giai đoạn này kinh tế huyện Tiên Phước đã bắt đầu có chuyển biến tích cực theo
hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, phá bỏ dần thế thuần nông, độc canh bằng
việc xây dựng và đưa vào thực hiện sâu rộng đề án “Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi”, từ đó đời sống của nhân dân trong huyện từng bước được cải thiện.
Việc ra đời chính sách cho vay hộ sản xuất, phát triển nông - lâm - ngư - diêm
nghiệp và kinh tế nông thôn đã thực sự là chiếc cầu nối giữa NHNo với nông dân, NHNo
đã giúp nông dân và nông dân đã giúp NHNo.
- Giai đoạn từ năm 1997 đến nay;
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ mới của NHNo&PTNT trước yêu cầu CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn, ngày 15 tháng 10 năm 1996 Thống đốc NHNN Việt Nam đã có
quyết định số 280/QĐ-NH5 về việc thành lập NHNo&PTNT Việt Nam trên cơ sở NHNo
Việt Nam, cùng thời điểm này, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (cũ) được chia thành hai địa
giới hành chính là thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam trực thuộc trung ương. Ngày 02
tháng 6 năm 1998, Thống đốc NHNN Việt Nam có quyết định số 198/1998/NHNN-15 về
việc thành lập lại các Chi nhánh trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam.
Trong thời gian này, môi trường kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Tiên Phước,
tỉnh Quảng Nam ngày càng hoàn thiện hơn, số lượng cán bộ viên chức trong đơn vị cũng
được tinh gọn, đảm bảo chất lượng và hiệu quả hơn, năm 1997 có 10 cán bộ viên chức,
đến nay là 12 cán bộ viên chức, trong đó có 03 cán bộ hợp đồng.
Về mô hình tổ chức bộ máy của Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước:
Sơ đồ cơ cấu tổ chức Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước
Căn cứ quy chế tổ chức hoạt động của Chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam ban
hành theo Quyết định số 454/QĐ/HĐQT-TCCB ngày 24 tháng 12 năm 2004 của Chủ tịch
Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam thì Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên
Phước (Chi nhánh cấp 2) là đơn vị phụ thuộc đơn vị thành viên NHNo&PTNT tỉnh Quảng
Nam (Chi nhánh cấp 1).
Về cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành của Chi nhánh bao gồm:
- Giám đốc.
Giám đốc
Chi
nhánh
cấp 3
Phó Giám
đốc
Phòng
Tín dụng
Phòng
Kế toán
ngân quỹ
Phòng
Hành chính
nhân sự
Phòng
Giao dịch
Phó Giám đốc
- Các phó giám đốc.
- Các phòng nghiệp vụ: Phòng Tín dụng; Phòng Kế toán-ngân quỹ; Phòng Hành
chính-nhân sự.
- Chi nhánh cấp 3.
- Phòng Giao dịch.
Chi nhánh có các nhiệm vụ như sau:
* Huy động vốn:
+ Khai thác và nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác
dưới các hinh thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác bằng
đồng Việt Nam và ngoại tệ.
+ Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu và giấy tờ có giá khác để huy
động vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của
NHNo&PTNTViệt Nam.
+ Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam.
+ Việc huy động vốn có thể bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ, vàng và các công cụ
khác theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam.
* Cho vay:
+ Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
đời sống cho các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế theo phân
cấp uỷ quyền.
+ Cho vay trung hạn, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh, dịch vụ,, đời sống cho các tổ chức, cá nhân và hộ sản xuất thuốc mọi thành
phần kinh tế theo phân cấp uỷ quyền.
+ Cung ứng các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ gồm:
- Cung ứng các phương tiện thanh toán
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng
- Thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ
- Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN và của
NHNo&PTNT Việt Nam.
* Kinh doanh các dịch vụ ngân hàng khác;
Kinh doanh các dịch vụ ngân hàng theo Luật các TCTD, bao gồm: thu, phát tiền
mặt; mua bán vàng bạc; máy rút tiền tự động dịch vụ thẻ; két sắt, nhận bảo quản, cất giữ,
chiết khấu thương phiếu và các loại giầy tờ có giá khác, thẻ thanh toán; nhận uỷ thác cho
vay của các tổ chức tài chính, tín dụng, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; cho thuê tài
chính và các dịch vụ ngân hàng khác được Nhà nước, NHNo&PTNT Việt Nam cho phép.
* Hướng dẫn khách hàng xây dựng dự án, thẩm định các dự án tín dụng vượt quyền
phán quyết; trình Chi nhánh cấp trên quyết định.
* Kinh doanh các nghiệp vụ ngoại hối khi được Tổng giám đốc NHNo&PTNT
Việt Nam cho phép.
* Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của
NHNo&PTNT Việt Nam.
* Thực hiện kiểm tra, kiểm toán nội bộ việc chấp hành thể lệ, chế độ nghiệp vụ
trong phạm vi địa bàn theo quy định.
* Tổ chức thực hiện việc phân tích kinh tế liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng
và đề ra kế hoạch kinh phù hợp với kế hoach kinh doanh của Chi nhánh cấp trên và kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
* Chấp hành đầy đủ các báo cáo, thống kê theo chế độ quy định và theo yêu cầu
đột xuất của giám đốc Chi nhánh cấp trên.
* Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, quãng cáo, tiếp thị phục vụ trực tiếp
cho việc kinh doanh của Chi nhánh cũng như việc quãng bá thương hiệu của
NHNo&PTNT Việt Nam.
* Thực hiện các nhiệm vụ khác được giám đốc Chi nhánh cấp trên giao.
2.3. Thực trạng thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội tại Chi
nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên Phước
2.3.1. Tình hình thu hút vốn huy động
2.3.1.1. Về hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn huyện Tiên Phước
Là NHTM hoạt động kinh doanh trên địa bàn ở huyện miền núi, cho nên nông dân
là người bạn đồng hành, nông thôn là thị trường cần khai thác trên tinh thần hợp tác và
cùng có lợi. Với quan điểm đó, trong thời gian qua Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên
Phước luôn bám sát các chủ trương, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương,
đã thực hiện tốt việc xã hội hoá công tác ngân hàng, chủ động mọi nguồn vốn để đầu tư,
cho vay đầy đủ, kịp thời các nhu cầu vốn đầu tư cho các thành phần kinh tế mở rộng sản
xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi góp phần phát triển kinh tế, xoá
đói, giảm nghèo trên địa bàn huyện. Kết quả hoạt động của Chi nhánh được thể hiện trên
một số lĩnh vực chủ yếu sau:
Cùng với sự tăng trưởng của nguồn vốn huy động (đến 30/6/2006 đạt 43.685 triệu dồng,
tăng 19.751 triệu so với năm 2001, tỷ lệ tăng 82,52%), quy mô cho vay cũng ngày càng tăng lên
(đến 30/6/2006 dư nợ cho vay đạt 31.975 triệu đồng, tăng 15.722 triệu so với năm 2001, tỷ lệ tăng
96,73%, trong đó dư nợ ngắn hạn đạt 13.091 triệu đồng, tăng 7.324 triệu, tỷ lệ tăng 127%, dư nợ
trung, dài hạn đạt 18.884 triệu đồng, tăng 8.398 triệu, tỷ lệ tăng 80%) [xem bảng 2.1, 2.6].
Qua số liệu trên chứng tỏ Chi nhánh đã quan tâm đến việc mở rộng quy mô hoạt
động, tăng trưởng nguồn vốn huy động cũng như dư nợ tín dụng. Tốc độ thu hút vốn huy
động loại trung, dài hạn tuy có tăng cao nhưng lại chiếm tỷ trọng rất thấp với nguồn vốn
huy động, trong khi đó, dư nợ tín dụng trung, dài hạn của chi nhánh luôn phải tăng trưởng
cao nên phải sử dụng từ nguồn vốn huy động ngắn hạn và cân đối từ nguồn của ngân hàng
cấp trên mới đảm bảo nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Với phương châm “đi vay để cho vay”, hoạt động tín dụng của Chi nhánh
NHNo&PTNT huyện Tiên Phước trong những năm qua luôn xác định nông thôn là thị trường
cho vay, nông nghiệp là đối tượng cho vay, nông dân là khách hàng chủ yếu, đo đó đã đầu tư
đầy đủ, kịp thời các nhu cầu vốn vay trên địa bàn góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế –
xã hội của huyện, cụ thể:
- Cho vay cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại với các loại
cây chủ yếu như: tiêu, quế, dó bầu... và các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao.
- Cho vay phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo các chương trình, dự án của địa
phương.
- Cho vay phát triển ngành nghề ở nông thôn.
- Cho vay phục vụ các nhu cầu về đời sống, tiêu dùng, học hành sủa chửa nhà ở...
- Cho vay đi lao động nước ngoài..
Bảng 2.1: So sánh tình hình sử dụng vốn với nguồn vốn huy động
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
30/6/
2006
1. Tổng dư nợ 16.253 19.101 21.673 25.172 30.384 31.975
- Ngắn hạn 5.767 8.351 9.663 12.404 12.704 13.091
- Trung, dài hạn 10.486 10.750 12.010 12.768 17.680 18.884
2. Vốn huy động 23.934 28.337 30.291 34.629 38.309 43.685
- Ngắn hạn 20.059 21.145 23.211 26.064 30.229 35.898
- Trung, dài hạn 3.875 7.192 7.080 8.565 8.080 7.787
Nguồn: NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, tháng 6/2006.
23
93
4
56
44
28
33
7
90
65
30
29
1
95
65
34
62
9
12
78
7
38
30
9
16
72
3
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
40000
2001 2002 2003 2004 2005
BiÓu ®å sè 2.1-nguå n vè n huy ®é ng
Tæng nguån
H§ tõ d©n c-
TriÖu ®ång
16
25
3
19
10
1
21
67
3
25
17
2
30
38
4
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
2001 2002 2003 2004 2005
BiÓu ®å sè 2.2. d- nî
TriÖu ®ång
Nguồn: NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, tháng 6/2006
Bảng 2.2: Kết quả hoạt động tín dụng qua các năm
STT Chỉ tiêu ĐVT 2001 2002 2003 2004 2005
6tháng
2006
1 Doanh số
chovay
Triệuđồn
g
9.640 10.070 12.813 17.008 25.040 9.835
2 Số lượt hộ vay
lượt hộ 1.312 1.263 1.482 1.409 2.698 957
3 Doanh số thu
nợ
triệu
đồng
7.274 10.241 13.447 19.828 8.244
4 Dư nợ triệu
đồng
16.253 19.101 21.673 25.172 30.384 31.975
5 Số hộ còn dư
nợ
Hộ 3.965 4.328 4.199 4.031 3.706 3.618
6 Nợ xấu
triệu
đồng
59 17 73 26 31 24
7 Tỷ lệ nợ xấu/
Dư nợ
% 0,36 0,09 0,34 0,10 0,10 0,08
Nguồn: NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, tháng 6/2006
Qua bảng 2.2 cho thấy: với đối tượng đầu tư hầu hết là hộ sản xuất để phát triển
kinh tế vườn, kinh tế trang trại, chăn nuôi...(chiếm trên 95% dư nợ cho vay của Chi
nhánh), từ năm 2001 đến 30/6/2006 Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước đã
giải quyết cho 9.121 lượt hộ vay với số tiền là 84.806 triệu đồng, bỡnh quõn mỗi hộ
vay 9,3 triệu đồng, doanh số thu nợ là 64.607 triệu đồng, đến 30/6/2006 dư nợ là
31.975 triệu đồng với số hộ còn dư nợ là 3.618 hộ, bình quân mỗi hộ dư nợ là 8,8 triệu
đồng. Do thực hiện tốt công tác thẩm định, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, cho
nên hầu hết vốn vay đều được sử dụng đúng mục đích, phát huy được hiệu quả, trả nợ tiền
vay (gốc, lãi) đảm bảo đúng kỳ hạn được quy định, cho nên tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ phát
sinh và chiếm tỷ lệ rất thấp (cuối năm 2001 là 59 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 0,36%, đến
30/6/2006 là 24 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 0,08% trên tổng dư nợ).
Về doanh số thanh toán, doanh số thu chi tiền mặt và kết quả kinh doanh của Chi
nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước từ năm 2001 đến 30/6/2006 luôn tăng trưởng và
đảm bảo được các chỉ tiêu kế hoạch được giao, kết quả được thể hiện qua các bảng 2.3, 2.4
và 2.5:
Bảng 2. 3: Kết quả công tác thanh toán của Chi nhánh
từ năm 2001 đến 30/6/2006
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005
30/6/200
6
Doanh số thanh
toán
- Số món 2.320 2.894 1.914 1.446 1.867 914
- Số tiền (triệu
đồng)
20.612 145.00
0
175.60
2
147.91
0
343.39
5
82.097
Tốc độ tăng so với
năm trước (%)
630,5 21,1 - 15,8 132,2 - 76,1
Nguồn: NHNo&PTNT Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, tháng 6/2006
Bảng 2.4: Kết quả thu chi tiền mặt
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005
30/6/
2006
Tổng thu tiền mặt 23.790 30.195 80.683 93.668 136.047 69.789
Tổng chi tiền mặt 59.831 65.163 80.731 93.742 135.803 70.041
Nguồn: NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, tháng 6/2006
Bảng 2.5: Kết quả tài chính
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005
30/6/
2006
*Tổng thu nhập 2.139 2.514 2.997 2.637 4.655 2.549
Tốc độ tăng so năm
trước (%)
17,5 19,2 - 12 76,5
- 45,2
* Tổng chi phí 1.506 1.842 1.616 1.554 3.084 1.547
Tốc độ tăng so năm
trước (%)
22,3 - 12,3 - 3,8 98,5
- 49,8
Chênh lệch (Thu -
Chi)
633 672 1.381 1.083 1.571
1.002
Tốc độ tăng so năm
trước (%)
6,2 105,5 - 21,6 45
- 36,2
Nguồn: NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, tháng 6/2006
96
40
55
73
10
07
0
72
74
12
81
3
10
24
1
17
00
8
13
44
7
25
04
0
19
82
8
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
2001 2002 2003 2004 2005
BiÓu ®å sè 2.3 -do a nh sè c ho va y vµ thu n î
DS cho vay
DS thu nî
TriÖu ®ång
20612
145000
175602
147910
343395
0
50000
100000
150000
200000
250000
300000
350000
2001 2002 2003 2004 2005
BiÓu ®å sè 2.4 -Do anh Sè t ha nh t o ¸ n
k h« ng d ï ng t iÒn mÆt
TriÖu ®ång
Nguồn: NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, tháng 6/2006.
23
79
0
59
83
1
30
19
5
65
16
3
80
68
3
80
73
1
93
66
8
93
74
2
13
60
47
13
58
03
0
20000
40000
60000
80000
100000
120000
140000
2001 2002 2003 2004 2005
BiÓu ®å sè 2. 5 - t hu chi t iÒn mÆt
tæng thu
tæng chi
TriÖu ®ång
Nguồn: NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, tháng 6/2006.
21
39
15
06
63
3
25
14
18
42
67
2
29
97
16
16
13
81
26
37
15
54
10
83
46
55
30
84
15
71
0
1000
2000
3000
4000
5000
2001 2002 2003 2004 2005
BiÓu ®å sè 2. 6 -t hu nhËp chi phÝ
Thu nhËp
chi phÝ
Chªnh lÖch
TriÖu ®ång
Nguồn: NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, tháng 6/2006
2.3.1.2. Về thu hút vốn huy động
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, công tác huy động vốn của
Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam đã đạt được nhiều kết quả
to lớn, liên tục tăng trưởng vững chắc và mang tính ổn định cao trong nhiều năm. Ngoài
các hình thức huy động mang tính chất truyền thống như tiết kiệm, kỳ phiếu, chứng chỉ
tiền gửi..., Chi nhánh còn áp dụng các hình thức huy động mới như: tiền gửi tiết kiệm bậc
thang, tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm dự thưởng...,đồng thời thường xuyên nâng cao chất
lượng tiện ích ngân hàng. Điều này thể hiện sự lựa chọn đúng đắn các hình thức huy động
vốn của ngân hàng và phù hợp với nhu cầu của người gửi tiền.
Kết quả nguồn vốn huy động của Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh
Quảng Nam đến 30/6/2006 là 43.685 triệu đồng, tăng 5.556 triệu đồng, tỷ lệ tăng 14,5%
so với cuối năm 2005, trong đó vốn huy động trong dân cư là 20.628 triệu đồng, tăng
3.905 triệu đồng, tỷ lệ tăng 23,4% so với năm 2005 và chiếm tỷ trọng 47,2% trong
tổng nguồn vốn huy động [xem bảng 2.6]. Hiện nay, Chi nhánh đang thực hiện các
hình thức huy động như sau:
- Mở tài khoản tiền gửi cho các doanh nghiệp và cá nhân.
- Tiền gửi tiết kiệm: không kỳ hạn, có kỳ hạn 1, 2, 3, 6, 9, 12 tháng và trên 12
tháng.
- Tiền gửi tiết kiệm bậc thang: các loại từ 3 - 6 tháng, từ 6 - 9 tháng, từ 9 - 12 tháng,
từ 12 đến dưới 24 tháng.
- Tiết kiệm gửi góp: kỳ hạn 3, 6, 9, 12 tháng.
- Kỳ phiếu các loại kỳ hạn: 3, 6, 9, 12 tháng và trên 12 tháng.
- Chứng chỉ tiền gửi dài hạn các loại: 12 , 24 , 36 tháng.
Khách hàng được hưởng các lợi ích khi gửi tiền, đó là:
+ Được phục vụ chu đáo, đảm bảo an toàn, bí mật.
+ Tiền gửi được hưỏng lãi.
+ Được cho, tặng, thừa kế, chuyển nhượng sổ tiết kiệm và các loại giầy tờ có giá;
được cầm cố các sổ tiết kiệm, kỳ phiếu ngân hàng...để vay vốn tai NHNo&PTNT và các
TCTD khác.
Ngoài ra, khi gửi tiền khách hàng được tư vấn miễn phí, được tặng quà khuyến mãi,
tham gia xổ số dự thưởng tuỳ theo loại hình tiết kiệm công bố theo từng đợt huy động.
Từ ngày 01 tháng 7 năm 2006, Chi nhánh áp dụng các mức lãi suất huy động tiền
gửi như sau:
*) Tiền gửi tiết kiệm (%/tháng)
- Không kỳ hạn 0,25%
- Kỳ hạn 01 tháng 0,42%
- Kỳ hạn 02 tháng 0,52%
- Kỳ hạn 03 tháng 0,57%
- Kỳ hạn 04 tháng 0,62%
- Kỳ hạn 05 tháng 0,63%
- Kỳ hạn 06 tháng 0,65%
- Kỳ hạn 07 tháng 0,655%
- Kỳ hạn 08 tháng 0,66%
- Kỳ hạn 09 tháng 0,665%
- Kỳ hạn 10 tháng 0,67%
- Kỳ hạn 11 tháng 0,675%
- Kỳ hạn 12 tháng 0,70%
- Kỳ hạn 18 tháng 0,71%
- Kỳ hạn 24 tháng 0,72%
*) Tiết kiệm bậc thang
- Dưới 3 tháng 0,25%
- Từ 3 đến dưới 6 tháng 0,55%
- Từ 6 đến dưới 9 tháng 0,63%
- Từ 9 đến dưới 12 tháng 0,645%
- Từ 12 đến dưới 24 tháng 0,68%
*) Kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi
- Kỳ hạn 3 tháng 0,57%
- Kỳ hạn 6 tháng 0,65%
- Kỳ hạn 13 tháng 0,68%
- Kỳ hạn 24 tháng 0,76%
- Kỳ hạn 36 tháng 0,77%
*) Tiền gửi các tổ chức kinh tế (%/Tháng)
- Không kỳ hạn 0,20%
- Kỳ hạn 01 tháng 0,40%
- Kỳ hạn 02 tháng 0,50%
- Kỳ hạn 03 tháng 0,55%
- Kỳ hạn 04 tháng 0,60%
- Kỳ hạn 05 tháng 0,61%
- Kỳ hạn 06 tháng 0,65%
- Kỳ hạn 07 tháng 0,655%
- Kỳ hạn 08 tháng 0,66%
- Kỳ hạn 09 tháng 0,665%
- Kỳ hạn 10 tháng 0,67%
- Kỳ hạn 11 tháng 0,675%
- Kỳ hạn 12 tháng 0,70%
- Kỳ hạn 18 tháng 0,71%
- Kỳ hạn 24 tháng 0,72%
Với nhiệm vụ thực thi chính sách tiền tệ của Nhà nước trên địa bàn, Chi nhánh
NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam đã tích cực làm tốt công tác xã hội hoá
và mở rộng quy mô hoạt động ngân hàng trên địa bàn. Từng bước đa dạng hoá các loại
hình nghiệp vụ, đổi mới công nghệ ngân hàng theo hướng ngân hàng hiện đại, tích cực
nâng cao chất lượng phục vụ và hiệu quả hoạt động kinh doanh tiền tệ, góp phần đẩy
nhanh tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Trong những năm qua, mặc dù là một huyện miền núi với địa hình khá phức tạp, hạ
tầng cơ sở còn nhiều bất cập, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, lại thường xuyên
bị ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, dịch bệnh, tỷ lệ hộ đói nghèo còn khá cao.
Tuy nhiên, với nhiều cố gắng để vượt qua mọi trở lực, kết quả hoạt động qua các
năm của Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam cơ bản đã hoàn
thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch được giao, trong đó công tác thu hút vốn huy động đã đạt được
nhiều kết quả rất khả quan, tăng nhanh về khối lượng vốn, thay đổi cơ cấu nguồn vốn hợp lý,
đáp ứng kịp thời, đầy đủ mọi nhu cầu vốn vay cho các thành phần kinh tế, cá nhân, hộ gia đình
trên địa bàn.
Công tác thu hút vốn huy động của Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước,
tỉnh Quảng Nam đã có những thay đổi đáng kể cả về số lượng lẫn chất lượng. Điều đó
được thể hiện: Nguồn vốn huy động đã tăng trưởng đều qua các năm, đến 30/6/2006 đạt
43.685 triệu đồng, tăng 19.751 triệu đồng so với năm 2001, tỷ lệ tăng 82,5%.
Về cơ cấu nguồn vốn huy động cũng có nhiều thay đổi, theo đó tỷ trọng nguồn vồn
không kỳ hạn trong tổng nguồn vốn huy động đã giảm dần qua các năm (từ 76,8% năm
2001, đến 30/6/2006 chỉ còn 52,8%), đồng thời tỷ trọng nguồn vốn tiền gửi có kỳ hạn
trong tổng nguồn vốn đã được tăng dần (từ 23,2 % năm 2001 tăng lên 47,2% vào thời điểm
30/6/2006).
Qua số liệu trên, đã thể hiện được sự nỗ lực của Chi nhánh trong việc thực hiện đa
dạng hoá các hình thức huy động vốn, làm tốt công tác tuyên truyền, quãng cáo một cách
sâu rộng trong các thành phần kinh tế, khu vực dân cư, không ngừng nâng cao chất lượng
phục vụ khách hàng, đặc biệt chú trọng khai thác nguồn tiền gửi có kỳ hạn, nâng dần tỷ
trọng nguồn tiền gửi có kỳ hạn trong tổng nguồn vốn huy động.
Bảng 2.6: Nguồn vốn huy động
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005
30/6/
2006
1. Tổng nguồn vốn huy
động
23.934 28.337 30.291 34.629 38.309 43.685
- Tốc độ tăng, giảm so năm
trước (%)
18,4 6,9 14,3 10,6 14
2. Tiền gửi không kỳ hạn 18.383 19.523 20.845 21.877 21.609 23.071
- Tốc độ tăng, giảm so năm
trước (%)
6,2 6,8 5 - 1,2 6,8
- Tỷ trọng trong tổng
nguồn vốn (%)
76,8 69 68,8 63,2 56,4 52,8
3. Tiền gửi có kỳ hạn 5.551 8.814 9.446 12.752 16.700 20.614
- Tốc độ tăng, giảm so năm
trước (%)
58,8 7,2 35 31 23,4
-Tỷ trọng trong tổng nguồn
vốn (%)
23,2 31 31,2 36,8 43,6 47,2
Nguồn: NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, tháng 6/2006
* Về cơ cấu của nguồn vốn tiền gửi không kỳ hạn [xem bảng 2.7]
Tiền gửi không kỳ hạn luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động, với
mức lãi suất tiền gửi tương đối thấp, do đó đã đem lại lợi thế lớn trong hiệu quả kinh
doanh nhưng lại có nhược điểm là không ổn định, thường xuyên biến động rất bất thường.
Bảng 2.7: Cơ cấu nguồn tiền gửi không kỳ hạn
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005
30/6/
2006
Tiền gửi không kỳ hạn:
Trong đó:
18.383 19.253 20.845 21.877 21.609 23.071
*Tiền gửi kho bạc 16.816 17.575 18.827 17.609 17.839 19.197
- Tỷ trọng (%) 91,5 91,3 90,3 80,5 82,5 83,2
-Tốc độ tăng, giảm
so năm trước (%)
4,5 7,1 - 6,5 1,3 7,6
*Tiền gửi tiết kiệm 86 251 119 36 23 14
- Tỷ trọng (%) 0,5 1,3 0,6 0,2 0,1 0,1
-Tốc độ tăng, giảm so
năm trước (%)
191,9 - 52,6 - 69,8 - 36,1 - 39,1
* Tiền gửi tài khoản cá 1.481 1.427 1.899 4.232 3.747 3.860
nhân, tổ chức kinh tế- xã
hội
- Tỷ trọng (%) 8 7,4 9,1 19,3 17,4 16,7
-Tốc độ tăng, giảm so
năm trước (%)
- 3,7 33 122,8 - 11,5 3
Nguồn: NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, tháng 6/2006
Trong nguồn tiền gửi không kỳ hạn thì nguồn tiền gửi kho bạc luôn chiếm tỷ
trọng lớn (thường trên 80%), nhưng xu hướng tỷ trọng của nguồn tiền gửi kho bạc
đã giảm dần (từ 91,5% của năm 2001 xuống còn 83,2% thời điểm 30/6/2006), đồng
thời tăng tỷ trọng nguồn tiền gửi các tài khoản cá nhân, tổ chức kinh tế - xã hội (từ
8% của năm 2001 lên 16,7% thời điểm 30/6/2006), bên cạnh đó nguồn tiền gửi tiết
kiệm không kỳ thường chiếm tỷ trọng rất thấp (0,5% vào năm 2001 và 0,1% thời
điểm 30/6/2006).
Bảng 2.8: Cơ cấu tiền gửi có kỳ hạn theo thời gian
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005
30/6/
2006
Tiền gửi có kỳ hạn 5.551 8.814 9.446 12.751 16.700 20.614
* Dưới 1 năm 1.676 1.622 2.366 4.186 8.620 12.827
- Tỷ trọng (%) 30,2 18,4 25 32,9 51,6 62,2
-Tốc độ tăng, giảm
so năm trước (%)
- 3,2 45,9 76,9 105,9 48,8
* Trên 1 năm 3.875 7.192 7.080 8.565 8.080 7.787
- Tỷ trọng (%) 69,8 81,6 75 67,1 48,4 37,8
-Tốc độ tăng, giảm
so năm trước (%)
85,6 - 1,6 21 - 5,7 - 3,6
Nguồn : NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, tháng 6/2006
*Về cơ cấu tiền gửi có kỳ hạn theo thời gian [xem bảng 2.8]
Đối với tiền gửi có kỳ hạn: trong thời gian qua đã tập trung khai thác bằng nhiều giải
pháp hữu hiệu cho nên đã đạt được kết quả tương đối khả quan, đến 30/6/2006 tiền gửi có
kỳ hạn đạt 20.614 triệu đồng, tăng 15.063 triệu đồng so với năm 2001, tỷ lệ tăng 271,3%,
tốc độ tăng bình quân hằng năm là 49,3%. Trong đó nguồn tiền gửi có kỳ hạn dưới 1 năm
từ 1.676 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 30,2% trong nguồn tiền gửi có kỳ hạn năm 2001 tăng
lên 12.827 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 62,2% trong nguồn tiền gửi có kỳ hạn vào thời điểm
30/6/2006. Tiền gửi có kỳ hạn trên 1 năm vào năm 2001 đạt 3.875 triệu đồng, chiếm tỷ
trọng 69,8% trong nguồn tiền gửi có kỳ hạn, đến 30/6/2006 tăng lên 7.787 triệu đồng,
chiếm tỷ trọng 37,8% trong nguồn tiền gửi có kỳ hạn.
Bảng 2.9: Cơ cấu nguồn tiền gửi trong dân cư
Đơn vị tính:Triệu đồng
ỉ Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 30/6/
2006
Tổng số 5.637 9.065 9.565 12.787 16.723 20.628
Trong đó:
* Tiết kiệm thông
thường
93 255 408 3.337 8.626 9.649
- Tỷ trọng (%) 0,2 2,8 4,3 26,1 51,6 46,8
-Tốc độ tăng so năm
trước (%)
174,2 60 717,9 158,5 11,8
* Tiết kiệm hưởng
lãi bậc thang
6.020 7.570 6.542 6.426
- Tỷ trọng (%) 62,9 59,2 39,1 31,2
-Tốc độ tăng, giảm
so năm trước (%)
- 13,6 - 1,8
* Kỳ phiếu, chứng
chỉ tiền gửi
5.544 8.810 3.137 1.880 1.555 4.553
- Tỷ trọng (%) 99,8 97,2 32,8 14,7 9,3 22
-Tốc độ tăng, giảm
so năm trước (%)
58,9 - 64,4 -17,3 193
Nguồn: NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, tháng 6/2006
Về cơ cấu tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, chứng chỉ [xem bảng 2.9]
Công tác huy động tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, chứng chỉ trong những năm qua luôn đạt
kết quả tăng trưởng khá, số dư hằng năm tăng rất nhanh, năm sau cao hơn năm trước. Đến
30/6/2006 toàn huyện có số dư tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, chứng chỉ đạt 20.628 triệu đồng,
tăng 14.991 triệu so với năm 2001, tỷ lệ tăng 265,9%, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm
48,3%, được bao gồm:
- Tiền gửi tiết kiệm thông thường: Trong những năm gần đây có xu hướng tăng dần,
chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và chiếm tỷ trọng cao trong nguồn tiền gửi dân cư
(đến 30/6/2006 là 46,8%) do đã triển khai thực hiện tốt các đợt huy động tiết kiệm dự
thưởng với hình thức và lãi suất phong phú, hấp dẫn đối với người gửi.
Tiền gửi tiết kiệm bậc thang mới được triển khai thực hiện từ năm 2003 nhưng rất
tiện lợi và được khách hàng ưa loại hình tiền gửi này do lãi suất tiền gửi được hưởng sẽ
tăng dần thời gian của kỳ hạn gửi. Chính vì lẽ đó, cho nên khi mới triển khai huy động vào
năm 2003, tỷ trọng loại tiền gửi tiết kiệm bậc thang tới 62,9% trong tổng nguồn vốn huy
động trong dân cư.
- Tiền gửi kỳ phiếu, chứng chỉ gồm loại ngắn hạn (Dưới 12 tháng) và trung, dài hạn
(Trên 12 tháng) trả lãi trước, hoặc trả lãi sau. Trong những năm 2001, 2002 nguồn tiền gửi
kỳ phiếu, chứng chỉ chiếm tỷ trọng cao trong nguồn tiền gửi huy động trong dân cư, nhưng
trong những năm gần đây có xu hướng giảm dần do có các loại hình thu hút vốn huy động
khác phong phú, hấp dẫn hơn nên đã chi phối và điều tiết sang các loại tiền gửi tiết kiệm
bậc thang và tiết kiệm thông thường (dự thưởng).
Nguồn vốn tiền gửi tiết kiệm., kỳ phiếu, chứng chỉ được huy động với lãi suất khá
cao, vì vậy muốn kinh doanh có hiệu quả đòi hỏi Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên
Phước phải thường xuyên nâng cao chất lượng quản lý và chất lượng đầu tư tín dụng để
đảm bảo khả năng chi trả tiền gửi cho khách hàng cả gốc và lãi, đảm bảo an toàn tuyệt đối
tài sản của nhà nước, của nhân dân và không ngừng tăng cường hiệu quả kinh doanh tiền
tệ.
* Về cơ cấu vốn huy động theo thành phần kinh tế [xem bảng 2.10]
Bảng 2.10: Cơ cấu vốn huy động theo thành phần kinh tế
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2001 2002 2003 2004 2005
30/6/
2006
Tổng vốn huy động 23.934 28.337 30.291 34.629 38.309 43.685
* Tiền gửi các tổ chức
kinh tế xã hội
18.297 19.272 20.726 21.842 21.586 23.067
- Tỷ trọng (%) 76,4 67,9 68,4 63 56,3 52,8
- Tốc độ tăng giảm so
năm trước (%)
5,3 7,5 5,4 - 1,2 6,9
Trong đó: kho bạc 16.816 17.575 18.827 17.609 17.839 19.197
- Tỷ trọng (%) 70,3 62 62,1 50,8 46,6 43,9
- Tốc độ tăng, giảm so
năm trước (%)
4,5 7,1 - 6,5 1,3 7,6
* Tiền gửi dân cư 5.637 9.065 9.565 12.787 16.723 20.618
- Tỷ trọng 23,5 32 31,6 37 43,7 47,2
- Tốc độ tăng, giảm so
năm trước (%)
60,8 5,5 33,7 30,8 23,3
Nguồn: NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, tháng 6/2006
Phân theo các thành phần kinh tế thì cơ cấu vốn huy động nghiêng về tiền gửi các tổ
chức kinh tế - xã hội cả về tỷ trọng lẫn số tuyệt đối, nhưng nguồn tiền gửi này đã giảm dần
về tỷ trọng trong tổng nguồn vốn huy động: từ 76,4% năm 2001 xuống còn 52,8% thời
điểm 30/6/2006. Trong tiền gửi các tổ chức kinh tế thì tiền gửi kho bạc nhà nước chiếm tỷ
trọng lớn nhất nhưng cũng giảm dần từ 70,3% năm 2001 xuống còn 43,9% thời điểm
30/6/2006. Bởi vì trong thời gian qua, do nguồn tiền gửi các tổ chức kinh tế thường không
ổn định, luôn biến động ,tốc độ tăng trưởng không được cao bằng nguồn tiền gửi trong dân
cư. Riêng nguồn vốn huy động trong dân cư đã được chi nhánh quan tâm, khai thác để huy
động một cách triệt để nguồn vốn này, theo đó đã nâng dần tỷ trọng nguồn vốn huy động
trong dân cư trong tổng nguồn vốn huy động từ 23,5% năm 2001 lên 47,2% thời điểm
30/6/2006. Điều này đã thể hiện được sự cố gắng lớn của Chi nhánh trong việc thu hút vốn
huy động trong dân cư, bên cạnh đó do giá trị đồng tiền được ổn định, thu nhập của dân cư
ngày càng tăng, các hình thức, lãi suất huy động vốn được phong phú, hấp dẫn... đã góp
phần tạo được nguồn vốn ổn định để chủ động đầu tư cho các nhu cầu vốn vay phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn.
2.3.2. Những kết quả về kinh tế - xã hội dưới tác động của vốn huy động tại
Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên Phước
Trong những năm qua, Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng
Nam luôn giữ một vai trò quan trọng trong lĩnh vực đầu tư phát triển nông nghiệp, nông
thôn trên địa bàn, góp phần quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi
theo đúng chiến lược kinh doanh của ngành và phương hướng phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương.
Có thể nói, kết quả lớn nhất mà Chi nhánh đạt được trong thời gian qua chính là
công tác huy động vốn, do đã quán triệt một cách sâu sắc các chủ trương, chính sách,
đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước nhất là đổi mới hoạt động ngân hàng. Chi nhánh
không ngừng đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động, chuyển biến kịp thời thích
ứng với cơ chế kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chi
nhánh đã làm tốt chức năng trung tâm tiền tệ, tín dụng, thanh toán, huy động được nhiều
nguồn vốn nhàn rổi trong các thành phần kinh tế thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tích cực cải
tiến nghiệp vụ, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn trong nền kinh tế và trong các
tầng lớp dân cư, mở rộng dịch vụ thanh toán góp phần thu hút nhanh lượng tiền gửi nhàn
rỗi.
Bảng 2. 11: Kết quả đạt được về kinh tế nông nghiệp huyện
Tiên Phước từ 2001 đến 2005
ST
T
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
2001 2002 2003 2004 2005
1 Diện tích gieo trồng Ha 8.123 7.901 7.443 7.523 7.562
- Cây lương thưc có
hạt
Ha
4.539 4.385 4.454 4.468 4.460
- Cây chất bột có củ Ha 2.342 2.286 1.989 1.933 1.892
- Cây thực phẩm Ha 657 481 385 384 406
- Cây công nghiệp Ha 585 557 542 547 581
2 Sản lượng cây trồng
- Lúa Tấn 12.967 11.827 15.402 17.442 15.591
- Ngô Tấn 433 558 537 502 580
- Sắn Tấn 16.726 17.079 14.193 15.489 15.472
- Lang Tấn 3.590 3.562 3.151 2.852 2.717
3 Sản lượng lương
thực quy thóc
Tấn
13.401 12.385 15.939 17.944 16.171
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Tiên Phước các năm từ 2001 đến 2005
Ngoài việc tiếp tục thu hút vốn huy động qua các nghiệp vụ truyền thống, chi nhánh
còn áp dụng các hình thức huy động mới như tiết kiệm hưởng lãi bậc thang, tiết kiệm dự
thưởng, kỳ phiếu, chứng chỉ ngắn hạn, dài hạn... Qua đó, nguồn vốn huy động dân cư liên
tục tăng trưởng và mang tính ổn định cao. Vốn huy động trong dân cư trong năm 2001
chiếm tỷ trọng 23,5%, đến 30/6/2006 tăng lên 47,2% trong tổng nguồn vốn huy động đã
giúp cho Chi nhánh không ngừng mở rộng quy mô kinh doanh, góp phần tích cực vào sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn và phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương
Toàn huyện với mục tiêu tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển nông - lâm
nghiệp, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ theo chiều hướng có hiệu
quả, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, khắc phục khó khăn vừa
hoàn thành nhiệm vụ trước mắt, chuẩn bị điều kiện để thực hiện các chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội lâu dài và bền vững.
Trên cơ sở đó, trong thời gian qua hoạt động của NHNo&PTNT đó bỏm sỏt cỏc
mục tiêu phỏt triển kinh tế - xó hội của huyện, dó thực hiện tốt một số nhiệm vụ:
* Tín dụng NHNo&PTNT góp phần đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi, bán sản phẩm
non trên cây: do làm tốt việc xã hội hoá công tác ngân hàng một cách sâu rọng trong các
tầng lớp dân cư và đến tận các thôn, xóm ở các vùng xa, vùng sâu trong huyện nhằm góp
phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn từng bước chuyển từ sản xuất tự túc, tự cấp
sang sản xuất hàng hoá trên cơ sở luôn bám sát định hướng chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện.
*Tín dụng ngân hàng góp phần phát triển kinh tế vườn, trang trại
Nhằm tháo gỡ những vướng mắc về nguồn vốn đầu tư, tài sản thế chấp, cơ chế xử
lý rủi ro..., Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg, ngày
30/3/1999 về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và
nông thôn, tạo cơ chế đồng bộ về nguồn vốn; đảm bảo tiền vay, trong đó quy định hộ nông
dân vay vốn đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản; phát triển mạng lưới giao dịch
ngân hàng; cơ chế xử lý rủi ro tín dụng... Quyết định 67/1999/QĐ-TTg là sự thể hiện một
chính sách tín dụng lớn, ưu việt của Đảng và nhà nước ta đối với sự nghiệp phát triển nông
nghiệp, nông thôn.
Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách để đẩy mạnh phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, theo đó ngày 24/5/2002 Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có
Quyết định số 30/2002/QĐ-UB về ban hành cơ chế tài chính khuyến khích phát triển kinh
tế vườn, kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2002-2005.
Kết quả từ tháng 3/2003 đến 30/6/2006, thực hiện chủ trương trên, Chi nhánh
NHNo&PTNT huyện Tiên Phước đã giải quyết cho 1.038 hộ vay số tiền 9.436 triệu đồng,
bình quân mỗi hộ vay 9,1 triệu đồng để cải tạo vườn tạp, trồng những cây có giá trị kinh tế
cao, hầu hết các hộ vay vốn đều sử dụng vốn vay đúng mục đích, trả nợ lãi đúng hạn quy
định, vốn vay phát huy hiệu quả cao về kinh tế - xã hội, số tiền ngân sách hỗ trợ lãi vay
qua các năm là: năm 2003: 589 triệu đồng, năm 2004: 754 triệu đồng, năm 2005: 769 triệu
đồng.
Đến cuối năm 2005, toàn huyện đã cải tạo được 1.800/2.735 ha vườn nhà và 4.018 ha
vườn đồ, vườn rừng, trong đó hình thành 44 mô hình kinh tế trang trại vừa và nhỏ với tổng
diện tích 335 ha. Đàn gia súc đạt 51.779 con, đã khắc phục dần tập quán chăn nuôi quản canh
sang chăn nuôi thâm canh, đặc biệt mô hình trồng cỏ nuôi bò phát triển ở tất cả các xã trong
huyện với diện tích 117 ha.
Trồng rừng, trồng cây nguyên liệu phát triển khá mạnh, trong 5 năm (2001-2005)
trồng mới 2.225 ha (tăng 65% so với giai đoạn 1996-2000) đã góp phần cải thiện môi
trường sinh thái, bảo vệ độ phì của đất, ngăn lũ, ngăn xói mòn chất đất...
* Tín dụng ngân hàng góp phần phát triển chăn nuôi [xem bảng 2.12]
Ngày 20/8/2004 Uỷ ban nhân dân tỉnh còn có Quyết định số 66/QĐ-UB về ban
hành cơ chế hỗ trợ đầu tư phàt triển chăn nuôi bò trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn
2004-2007, theo đó đối tượng được hỗ trợ là hộ gia đình, chủ trang trại, tổ hợp tác, các hợp
tác xã và các doanh nghiệp thuộc địa phương quản lý sản xuất, kinh doanh đầu tư phát
triển chăn nuôi bò cái lai sinh sản, bò thịt chất lượng cao, bò sửa, trồng cỏ nuôi bò và sản
xuất chế biến sản phẩm từ chăn nuôi bò nhằm mục đích sản xuất hàng hoá. Riêng các đối
tượng nêu trên là đồng bào dân tộc thiểu số thì không phân biệt nuôi bò lai hay bò địa
phương. Ngân sách tỉnh hỗ trợ 50% mức lãi suất tiền vay phải trả thực tế tại thời điểm phát
sinh để đầu tư theo mức vốn vay của từng dự án cụ thể của chủ đầu tư có nhu cầu vay vốn
tại Chi nhánh NHNo&PTNT. Riêng đối với đồng bào dân tộc thiểu số mức hỗ trợ lãi suất
tiền vay là 100%. Thời gian hỗ trợ lãi suất là 36 tháng đối với nuôi bò cái lai sinh sản và
bò sữa, 12 tháng đối với nuôi bò thịt và trồng cỏ chăn nuôi bò. Kết quả từ 01/5/2006 đến
30/6/2006, Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước đã giải quyêt cho 39 hộ vay số
vốn là 416 triệu đồng để mua bò nái lai, trồng cỏ nuôi bò góp phần đưa tổng đàn gia súc
của huyện đến 30/6/2006 là 52.684 con, trong đó bò lai chiếm 12% trên tổng đàn, diện tích
trồng cỏ nuôi bò đạt 210,5 ha {40].
* Tín dụng ngân hàng góp phần thực hiện tốt chương trình mục tiêu xoá đói, giảm
nghèo, ngoài những nhiệm vụ trên, Chi nhánh còn tham gia vào chính sách xã hội thông
qua các chương trình xoá đói giảm nghèo, cho vay khắc phục hạn hán, khắc phục bão lụt.
Từ năm 1994 Chi nhánh đảm nhận nhiệm vụ cho vay hộ nghèo thiếu vốn sản xuất ở nông
thôn góp phần thực hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo trên địa bàn huyện. (Đến tháng
5/2004, chi nhánh đã bàn giao số dư nợ cho vay hộ nghèo 10.982 triệu đồng sang Ngân
hàng chính sách xã hội).
Bảng 2. 12: Số lượng đàn gia súc qua các năm (2001-2005)
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
2001 2002 2003 2004 2005
*Tổng đàn
gia súc
Con 36.141 41.999 44.365 49.386 51.779
*Tốc độ tăng
so năm trước
% 16,2 5,6 11,3 4,8
Trong đó:
- Trâu
Con 4.617 5.620 5.659 6.227 6.372
- Bò Con 11.334 14.637 15.734 18.052 21.802
- Lợn Con 20.190 21.742 22.972 25.107 23.605
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Tiên Phước các năm từ 2001-2005
- Tổng đàn gia súc trong huyện tăng từ 36.141 con (năm 2001) lên 51.779 con (
năm 2005), trong đó đàn trâu tăng từ 4.617 con lên 6.372 con, đàn bò tăng từ 11.334 con
lên 21.802 con, đàn heo tăng từ 20.190 con lên 23.605 con.
- Thúc đẩy phát triển các cụm công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp - Dịch vụ thương
mại: đã tiến hành quy hoạch các cụm công nghiệp ở các xã Tiên Kỳ, Tiên Thọ, Tiên Cảnh,
Tiên Hiệp với tổng diện tích 28,5 ha, hoàn chỉnh chi tiết cụm công nghiệp Phước An -
Tiên Kỳ với diện tích 7,6 ha. Đẩy mạnh phát triển các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp,
thương mại, dịch vụ. Hoàn thành và đưa vào sử dụng chợ trung tâm thị trấn, chợ trung tâm
cụm xã Tiên Cẩm, triển khai xây dựng chợ Tiên Thọ. Tổng giá trị công nghiệp - Tiểu thủ
công nghiệp đạt 36.226 triệu đồng, tăng bình quân mỗi năm 21,5%; dịch vụ - thương mại
đạt 290.557 triệu đồng.
Bảng 2.13: Giá trị sản xuất công nghiệp qua các năm (2001-2005)
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005
* giá trị sản xuất công nghiệp 4.837 5.980 6.897 8.552 11.375
* Sản phẩm chủ yếu
- Khai thác đá, sỏi, cát, sạn 325 2.382 2.484 2.872 1.240
- Sản xuất lương thực 1.270 971 1.485 1.765 4.490
- May thuộc và hoàn thiện 862 698 736 838 1.645
- Chế biến gỗ 798 675 914 1.335 971
- Sản xuất giường, tủ, bàn ghế 611 501 527 788 1.173
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Tiên Phước các năm 2001-2005
- Phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông thôn: Với tinh thần chủ động, năng động
trong huy động lồng ghép nhiều nguồn đầu tư, vốn của trung ương, của tỉnh, vốn từ các
chương trình dự án và đóng góp của nhân dân đã góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển
kinh tế xã hội địa phương. Trong năm năm qua đã tăng cường một bước đáng kể kết cấu
hạ tầng kỹ thuật, cấp phối 60 km đường trong huyện, bê tông hoá 60 km đường nông thôn,
hoàn thành việc xây dựng cầu, cống trên các tuyến đường trọng yếu, làm mới và gia cố 56
công trình thuỷ lợi, mở mới và cải tạo được 44 km lưới điện trung - hạ thế, đến nay điện
lưới quốc gia đã đến được 103/108 thôn (05 thôn đang đầu tư xây dựng), gần 85% hộ dùng
điện, xây dựng mới 250 phòng học, 11 trụ sở hành chính xã, sửa chữa nâng cấp các nghĩa
trang liệt sỹ, các thiết chế văn hoá được tăng cường một bước, với tổng vốn đầu tư 115 tỷ
đồng.
Hoạt động của các ngành thương mại, dịch vụ giá trị đạt được trong năm năm qua là
290.557 triệu đồng góp phần vào sự ổn định và phát triển bền vững của kinh tế xã hội trên
địa bàn.
Kết hợp huy động nhiều nguồn vốn, lồng ghép nhiều chương trình để thực hiện mục
tiêu xoá đói, giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 35,73% năm 2001 xuống còn 15,94% vào
năm 2005 (theo tiêu chí cũ) tương đương với 40,07% (theo tiêu chí mới), nhiều hộ nghèo
đã vươn lên khá, khuyến khích các cá nhân và hộ gia đình sản xuất kinh doanh giỏi, làm
giàu một cách chính đáng. Công tác xã hội được đẩy mạnh, góp phần làm lành mạnh hoá
các quan hệ xã hội trên địa bàn, thực hiện tốt các chính sách đối với người có công với
nước và các đối tượng xã hội , triển khai thực hiện có hiệu quả đề án xoá nhà tạm cho các
đối tượng chính sách, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, tương thân tương trợ trong cộng
đồng dân cư. Năm năm qua đã huy động được 2,5 tỷ đồng quỹ xoá nhà tạm, xây dựng và
sửa chữa 207 ngôi nhà tình nghĩa, vận động được 1,4 tỷ đồng quỹ vì người nghèo, xây mới
và sửa chữa trên 183 ngôi nhà đại đoàn kết.
Về chương trình mục tiêu xoá đói, giảm nghèo từ năm 2001 đến năm 2005, trên địa
bàn huyện đã thực hiện lồng ghép nhiều chương trình, có sự phối hợp của các cấp chính
quyền, ban, ngành, đoàn thể. Qua đó, đã giảm số hộ nghèo, quá nghèo từ 5.547 hộ, với tỷ
lệ 35,73% năm 2001 xuống còn 2.523 hộ, với tỷ lệ 15,94% (theo tiêu chí cũ) vào năm
2005. Kết quả được thể hiện ở bảng 2.14.
Bảng 2.14: Số hộ, tỷ lệ hộ đói nghèo qua các năm (2001 -2005)
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
2001 2002 2003 2004 2005
* Số hộ nghèo, quá Hộ 5.547 4.475 4.604 3.281 2.523
nghèo
Tỷ lệ % 35,73 28,72 29,43 20,82 15,94
- Số hộ nghèo Hộ 4.391 3.437 3.784 2.618 2.007
Tỷ lệ % 28,28 22,06 24,19 16,61 12,68
- Số hộ quá nghèo Hộ 1.156 1.038 820 663 516
Tỷ lệ % 7,45 6,66 5,24 4,21 3,26
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Tiên Phước các năm 2001-2005
Công tác quốc phòng được củng cố, an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội được giữ
vững và không ngừng được tăng cường, các tệ nạn xã hội ngày càng giảm, tạo môi trường
pháp lý lành mạnh cho Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam hoạt
động với hiệu quả ngày càng cao.
Năm năm qua (2001 - 2005), tuy vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng với truyền thống
đoàn kết, chung sức, chung lòng , Đảng bộ và nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng
Nam đã vượt qua thách thức, giành nhiều thành tựu quan trọng trên lĩnh vực kinh tế - xã
hội: Giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng trưởng
khá, cơ cấu cây trồng, vật nuôi từng bước chuyển đổi theo hướng tích cực; đã thu hút và
huy động được nhiều nguồn vốn để phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng, nhất là trên lĩnh vực giao thông, thuỷ lợi, điện...
Đạt được những kết quả trên, bên cạnh sự nổ lực, phấn đấu của các ngành, các cấp và
nhân dân trong huyện, còn có sự góp phần của Chi nhánh NHNo&PTNT trong việc thu hút
vốn huy động, đầu tư vốn phát triển kinh tế, xoá dói, giảm nghèo, đẩy nhanh tiến trình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện.
2.3.3. Những tồn tại và nguyên nhân của thu hút vốn huy động để phát triển
kinh tế - xó hội
2.3.3.1. Về thu hút vốn huy động
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác thu hút vốn huy động tại Chi nhánh
NHNo&PTNT huyện Tiên Phước còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém cần tiếp tục nghiên
cứu để tìm ra các giải pháp huy động đạt hiệu quả cao hơn mới đáp ứng được yêu cầu vốn
cho sự nghiệp CNH, HĐH và phát triển kinh tế - xã hội địa phương, cụ thể là tốc độ và tỷ
lệ của nguồn tiền gửi có kỳ hạn trên 1 năm trong tiền gửi có kỳ hạn giảm (từ 69,8% năm
2001 giảm xuồng cũn 37,8% thời điểm 30/6/2006, tốc độ năm 2005 giảm 5,7% so với năm
2004). Những tồn tại trong công tác huy động vốn, đó là:
- Thứ nhất, thị phần huy động vốn trên địa bàn tương đối lớn nhưng tỷ lệ vốn huy
động trong dân cư vẫn còn thấp, chưa tương xứng với quy mô và vai trò trong hoạt động
kinh doanh của Chi nhánh. Cơ cấu nguồn vốn tiền gửi trong dân cư chiếm tỷ trọng thấp
hơn so với tiền gửi các tổ chức kinh tế, do đó tính ổn định không cao.
- Thứ hai, nguồn vốn ngắn hạn vẫn còn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Vốn huy động tại chi nhánh nông nghiệp và phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh quảng nam.pdf