Tài liệu Luận văn Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay: LUẬN VĂN:
Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành
Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là nước nông nghiệp, có gần 80% dân số sống ở nông thôn và 70% lao
động làm nông nghiệp, do đó nông nghiệp là ngành kinh tế giữ vị trí trọng yếu trong đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đảng và
Nhà nước ta chủ trương mở mang công nghiệp, dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn.
Trong bối cảnh đó, việc huy động có hiệu quả các nguồn vốn để cung ứng đủ vốn cho
nông nghiệp, nông thôn là vấn đề trọng tâm và có ý nghĩa quyết định. Hà Nội là trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật của cả nước. Trong những năm đổi mới,
nông nghiệp ngoại thành Hà Nội có sự chuyển biến mạnh mẽ; phát triển đa dạng, phong
phú và đạt trình độ thâm canh cao hơn các vùng, miền khác trong cả nước. Tuy nhiên, so
với yêu cầu phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại, nông nghiệp ngoại thành
...
108 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1168 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành
Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là nước nông nghiệp, có gần 80% dân số sống ở nông thôn và 70% lao
động làm nông nghiệp, do đó nông nghiệp là ngành kinh tế giữ vị trí trọng yếu trong đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đảng và
Nhà nước ta chủ trương mở mang công nghiệp, dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn.
Trong bối cảnh đó, việc huy động có hiệu quả các nguồn vốn để cung ứng đủ vốn cho
nông nghiệp, nông thôn là vấn đề trọng tâm và có ý nghĩa quyết định. Hà Nội là trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật của cả nước. Trong những năm đổi mới,
nông nghiệp ngoại thành Hà Nội có sự chuyển biến mạnh mẽ; phát triển đa dạng, phong
phú và đạt trình độ thâm canh cao hơn các vùng, miền khác trong cả nước. Tuy nhiên, so
với yêu cầu phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại, nông nghiệp ngoại thành
Hà Nội vẫn còn những yếu kém. Sự phát triển nông nghiệp ở vùng này còn gặp nhiều hạn
chế, trở ngại, trong đó có vấn đề: thiếu vốn và chưa huy động được tối đa các nguồn vốn
vào phát triển nông nghiệp. Vấn đề huy động vốn trên địa bàn ngoại thành có những lợi
thế, đặc điểm và yêu cầu riêng. Các giải pháp nào đẩy mạnh việc huy động có hiệu quả các
nguồn vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội? Do đó chọn đề tài luận văn này
vẫn là cần thiết, góp phần nhỏ vào việc giải đáp các câu hỏi trên đây.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phạm trù tư bản, tích tụ và tập trung tư bản; vai trò của nó trong quá trình công
nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập
trong nhiều tác phẩm. Hiện nay, trên các ấn phẩm, các nhà kinh tế học hiện đại cũng tiếp
tục nghiên cứu vấn đề này.
ở nước ta, dưới ánh sáng đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, vấn đề vốn phục vụ
phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung, vốn cho phát triển công nghiệp, vốn cho phát
triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Đáng chú ý là các tác phẩm sau đây:
1. Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn các nước châu á và Việt Nam - GS
Nguyễn Điền (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997;
2. Tích tụ và tập trung vốn trong nước để phát triển công nghiệp nước ta hiện nay
- Trần Xuân Kiên, Luận án Tiến sĩ khoa học kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 1998;
3. Đầu tư trong nông nghiệp, thực trạng và triển vọng - TS Nguyễn Sinh Cúc và
TS Nguyễn Văn Tiêm (chủ biên), Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995;
4. Khuyến khích đầu tư trong nước - GS,TS Chu Văn Cấp, Tạp chí Nghiên cứu lý
luận, số 1/1995;
5. Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ phát triển
kinh tế Việt Nam - Nguyễn Văn Lai, Luận án TS Khoa học kinh tế, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội ,1996;
6. Một số giải pháp đầu tư vốn phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay, TS Cao Sỹ Kiêm, Tạp chí Ngân hàng, số 13/1998;
7. Vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn
- GS,TS Thứ trưởng Bộ Tài chính Tào Hữu Phùng, Tạp chí Cộng sản, số 1/1999.
...
Tháng 7/1998, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam tổ chức
cuộc Hội thảo quốc gia: "Nghị quyết Trung ương 4 và vấn đề tín dụng nông nghiệp, nông
thôn".
Hầu hết các công trình nêu trên đã đề cập một cách toàn diện, khái quát hoặc đi
sâu phân tích từng mặt của quá trình đầu tư vốn nói chung, đầu tư vốn phát triển nông
nghiệp, nông thôn nói riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu vào vấn đề huy động
vốn trên địa bàn các huyện ngoại thành, nơi mà điều kiện, đặc điểm và yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội chứa đựng những đặc trưng kinh tế riêng đang đòi hỏi phải được nghiên
cứu. Vì vậy, luận văn: "Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội trong giai
đoạn hiện nay" là đề tài cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng huy động vốn trong nông nghiệp ngoại thành Hà
Nội, đề xuất những phương hướng, giải pháp khả thi nhằm huy động có hiệu quả các
nguồn vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về vốn, đặc điểm, vai trò vốn đầu tư
cho phát triển nông nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng huy động vốn phục vụ phát triển nông nghiệp
ngoại thành Hà Nội.
- Luận chứng phương hướng, giải pháp huy động có hiệu quả các nguồn vốn phục
vụ phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nội dung nghiên cứu của luận văn liên quan chủ yếu đến lĩnh vực huy động vốn trong
nước (vốn bằng tiền) để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội.
Đề tài thuộc chuyên ngành Kinh tế chính trị nên chỉ tập trung vào những phương
hướng, quan điểm và giải pháp có tính chất định hướng.
Những tài liệu, số liệu được phân tích ở thời kỳ đổi mới kinh tế, chủ yếu là trong 5
năm trở lại đây.
5. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu luận văn
- Thực hiện đề tài luận văn, tác giả dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng trong các văn kiện Đại hội VI, VII,
VIII và các Hội nghị Trung ương. Đồng thời, tham khảo một số lý thuyết kinh tế hiện đại,
đặc biệt là lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, chủ yếu là phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; coi trọng phương
pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, kết hợp chặt chẽ với phương pháp điều tra
khảo sát thực tiễn nhằm khái quát, chọn lọc tri thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn để
đưa vào luận văn.
6. Những điểm mới của luận văn
- Trình bày một cách hệ thống lý luận về vốn và vai trò của vốn đối với quá trình
phát triển nông nghiệp.
- Đánh giá thực trạng huy động vốn phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội.
- Đưa ra những giải pháp có tính chất định hướng, góp phần huy động có hiệu quả
các nguồn vốn, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết, 12 biểu và 8 phụ
lục.
Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: Vốn đối với quá trình phát triển nông nghiệp 5
1.1. Vốn và vai trò của nó đối với phát triển nông nghiệp 5
1.1.1. Khái niệm về vốn 5
1.1.2. Cơ cấu nguồn vốn và các phương thức huy động vốn trong nước 10
1.1.3. Vai trò của vốn đối với phát triển nông nghiệp 19
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn để phát triển nông
nghiệp
26
1.2.1. Nhu cầu vốn quyết định qui mô, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn 26
1.2.2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp chi phối khả năng huy động
vốn
28
1.2.3. Khả năng cung ứng của các nguồn vốn và trình độ phát triển của
hệ thống tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến huy động vốn
28
1.2.4. Chính sách của Nhà nước ảnh hưởng đến việc huy động vốn 30
1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc tạo vốn để phát triển
nông nghiệp
31
Chương 2: Thực trạng huy động vốn để phát triển nông
nghiệp ngoại thành Hà Nội
35
2.1. Điều kiện tự nhiên, xã hội và tình hình phát triển nông nghiệp
ngoại thành Hà Nội thời gian qua
35
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, xã hội 35
2.1.2. Tình hình phát triển nông nghiệp ngoại thành thời gian qua 37
2.2. Thực trạng huy động vốn để phát triển nông nghiệp ngoại
thành Hà Nội
41
2.2.1. Thực trạng huy động vốn thông qua nguồn ngân sách nhà nước để
phát triển nông nghiệp ngoại thành
42
2.2.2. Thực trạng huy động vốn tín dụng nhà nước để phát triển nông
nghiệp ngoại thành
45
2.2.3. Thực trạng huy động vốn từ doanh nghiệp và hợp tác xã để phát
triển nông nghiệp
51
2.2.4. Thực trạng huy động vốn từ dân cư để phát triển nông nghiệp 54
2.2.5. Đánh giá chung 57
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu huy động vốn
có hiệu quả nhằm đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp ngoại thành Hà Nội trong thời gian tới
65
3.1. Định hướng phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội và dự
báo nhu cầu về vốn
65
3.1.1. Định hướng phát triển nông nghiệp ngoại thành 65
3.1.2. Dự báo nhu cầu về vốn 68
3.2. Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm huy động có hiệu
quả các nguồn vốn, để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà
Nội trong thời gian tới
69
3.2.1. Một số phương hướng chủ yếu để huy động vốn có hiệu quả để
phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội
69
3.2.2. Những giải pháp chủ yếu huy động có hiệu quả các nguồn vốn
để phát triển nông nghiệp ngoại thành trong thời gian tới
79
Kết luận 98
Danh mục tài liệu tham khảo 100
Chương 1
Vốn đối với quá trình phát triển nông nghiệp
1.1. Vốn và vai trò của nó đối với phát triển nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm về vốn
Vốn là nguồn lực quan trọng nhất đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi
quốc gia. Việt Nam là nước đang phát triển, nhu cầu về vốn là rất lớn. Tuy nhiên, do tích
lũy từ nội bộ nền kinh tế còn quá thấp, khả năng "hút" vốn từ nước ngoài còn hạn hẹp nên
lượng vốn đầu tư cho phát triển nền kinh tế còn rất thiếu. Vì vậy, nhận thức và vận dụng
đúng đắn phạm trù vốn sẽ là tiền đề thúc đẩy việc khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng về
vốn để đầu tư phát triển nền kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cho đến nay đã có nhiều khái niệm về vốn dưới các giác độ khác nhau:
Theo nghĩa rộng, vốn gồm toàn bộ các nguồn lực kinh tế được đưa vào chu
chuyển, như: tiền, lao động, vật tư, tài nguyên, máy móc, thiết bị, ruộng đất; giá trị của
những tài sản vô hình, như: vị trí đất đai, công nghệ, quyền phát minh, sáng chế. Trong các
nền kinh tế phát triển thì tài sản vô hình ngày càng có vai trò quan trọng trong cơ cấu vốn.
Theo nghĩa hẹp, vốn là một trong ba yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất (lao
động, đất đai, vốn). Đối với các nhà kinh tế, vốn là yếu tố thứ ba của sản xuất (các yếu tố
khác là lao động và đất đai) được kết hợp lại để sản xuất hàng hóa và dịch vụ.
Các nhà kinh tế học thuộc các trường phái kinh tế trước C.Mác đã nghiên cứu vốn
thông qua phạm trù tư bản và đi đến kết luận: vốn là phạm trù kinh tế.
Ngày nay, do yêu cầu của sự phát triển, vốn không những là yếu tố quan trọng đối
với quá trình sản xuất của các nước có nền kinh tế phát triển mà còn là yếu tố khan hiếm
đối với hầu hết các quốc gia đang và kém phát triển trên thế giới. Vì vậy, phạm trù vốn
luôn được các nhà kinh tế hiện đại quan tâm nghiên cứu và tiếp cận nó trên những bình
diện khác nhau. Đó là:
- "Vốn là tiền của bỏ ra lúc đầu, dùng trong sản xuất, kinh doanh nhằm sinh lợi"
[62, 1126].
- "Vốn là một loại nhân tố "đầu vào" đồng thời bản thân nó lại là kết quả "đầu ra"
của hoạt động kinh tế" [12, 138].
- Dưới dạng tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản tích lũy, tức là một phần thu nhập
chưa được tiêu dùng. Dưới dạng vật chất, vốn bao gồm các loại máy móc, thiết bị, nhà xưởng,
các công trình hạ tầng, các loại nguyên liệu, nhiên liệu, các sản phẩm trung gian, các thành
phẩm... Ngoài ra, còn có các loại vốn vô hình (bằng phát minh sáng chế, vị trí kinh doanh
v.v..), không tồn tại dưới dạng vật chất nhưng có giá trị kinh tế và cũng là những yếu tố vốn
cần thiết cho quá trình phát triển. Trong quá trình hoạt động của nền kinh tế, vốn luôn luôn
vận động và chuyển hóa về hình thái vật chất cũng như từ hình thái vật chất sang hình thái
tiền tệ.
Tổng số vốn đã tích lũy được còn gọi là tài sản quốc gia. Tài sản quốc gia tích lũy
được, có thể chia thành hai nhóm: vốn sản xuất (tài sản vật chất) và vốn phi vật chất (tài
sản phi vật chất). Như vậy, vốn sản xuất vật chất là một phần của tài sản quốc gia như là
kết quả của quá trình tích lũy và được trực tiếp sử dụng trong quá trình sản xuất hiện tại.
Tài nguyên thiên nhiên, như: đất đai, hầm mỏ... không được liệt vào phạm trù trên vì nó
không được tạo ra từ các hoạt động đầu tư. Các khoản đầu tư dưới dạng thiết bị, máy móc,
nhà xưởng, vật kiến trúc hay một số vật liệu khác cần cho quá trình khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên thì được xếp vào vốn sản xuất. Ngoài ra, bộ phận tài sản quốc gia phi sản
xuất là các công sản quốc gia cũng hết sức quan trọng.
Các tài sản vật chất trong quá trình sử dụng hao mòn theo thời gian
và do nhu cầu sử dụng các tài sản vật chất ngày càng tăng cho nên phải tiến hành thường
xuyên việc bù đắp hao mòn và tăng thêm khối lượng các tài
sản vật chất mới. Quá trình này được thực hiện bởi hoạt động đầu tư nhờ vốn đầu tư [12,
138-139].
- "Vốn là những tài sản có khả năng tạo ra thu nhập và bản thân nó cũng được cái
khác tạo ra. Vốn là một trong bốn yếu tố sản xuất, và bao gồm máy móc, nhà máy và nhà cửa
là cái làm cho sản xuất trở thành hiện thực nhưng trừ nguyên liệu thô và có thể được coi như
là giữ giá trị được tích trữ của những cái này" [7, 56].
Từ những cách tiếp cận trên về vốn, có thể rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, vốn là một trong những nhân tố không thể thiếu trong quá trình sản
xuất ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Nó góp phần tạo ra thu nhập, đẩy mạnh tăng trưởng
và phát triển kinh tế.
Thứ hai, vốn không chỉ là lượng tiền mặt nhất định trực tiếp đầu tư sinh lợi nhuận
mà còn là đại diện về mặt giá trị cho những tài sản hữu hình và vô hình tham gia vào các
quá trình sản xuất - kinh doanh.
Thứ ba, vốn được biểu hiện bằng tiền. Song, không phải tất cả tiền đều là vốn.
Tiền là hình thái biểu hiện của vốn. Trường hợp tiền để tiêu dùng hàng ngày, tiền để cất
trữ không được coi là vốn. Đó là các khoản để chi tiêu và tiền tiết kiệm để giành, là các
khoản tiền không sinh lời, không thể tạo ra sự phát triển kinh tế. Chỉ có những đồng tiền
được đảm bảo bằng tài sản thật, đưa vào đầu tư kinh doanh với mục đích sinh lời mới là
vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, cách vận động và phương thức vận động của tiền do
phương thức đầu tư kinh doanh quyết định.
Trên thực tế, sự vận động của vốn có ba hình thức:
TLSX
SLĐ
vốn đầu tư trong các doanh nghiệp sản xuất. Đây cũng chính là mô hình tái sản xuất nói
chung.
+ T - H - T’: là hình thức vận động của vốn đầu tư trong các doanh nghiệp thương
mại - dịch vụ.
+ T - T’: là hình thức vận động của vốn đầu tư thuộc các tổ chức tài chính trung
gian mua trái phiếu, cổ phiếu công ty, đầu tư góp vốn liên doanh.
Trong cơ chế thị trường, đối với một quốc gia, từng doanh nghiệp có thể sử dụng
cùng một lúc ba phương thức đầu tư vốn theo mô hình trên nhằm mục tiêu có mức doanh
+ T - H ... SX ... H’ - T’: là hình
thức vận động của
lợi cao và nằm trong khuôn khổ pháp luật. Vốn biểu hiện bằng tiền là nguồn vốn linh hoạt
nhất nhưng phải là tiền vận động đi vào sản xuất một cách hiệu quả. Thị trường không
những là nơi diễn ra các hoạt động đa dạng của vốn mà còn là nơi để vốn bộc lộ khả năng
sinh lời của chúng. Khả năng sinh lời của vốn vừa là mục đích cuối cùng của việc đầu tư
kinh doanh đồng vốn, vừa là phương tiện để vốn tiếp tục vận động với qui mô ngày càng
mở rộng ở chu kỳ sau. Sự vận động của vốn trong thị trường tuân theo qui luật khách quan
của kinh tế thị trường. Song, con người có thể nắm bắt và lợi dụng chúng để tạo ra những
kênh huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu mục đích sản xuất, kinh
doanh của mình.
Trong giới hạn phạm vi và đối tượng nghiên cứu, luận văn chỉ đề cập dưới góc độ
huy động vốn trong nước (vốn bằng tiền) để phát triển nông nghiệp. Cụ thể:
Một là, vốn trong nước là toàn bộ những giá trị của tất cả các yếu tố cần thiết để
cấu thành quá trình sản xuất, được hình thành nên từ nguồn lực kinh tế và sản phẩm thặng dư
của nhân dân lao động trong một quốc gia [29, 17]. Hay, nói cụ thể hơn, vốn trong nước là
toàn bộ những giá trị của tất cả các yếu tố cần thiết cấu thành quá trình sản xuất, bao gồm:
tiền mặt, nhà xưởng máy móc thiết bị, vật kiến trúc, nguyên liệu, đất đai, lao động, kinh
nghiệm quản lý, chữ tín của khách hàng đối với sản phẩm, bí quyết công nghệ, vị trí kinh
doanh, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm,... Được hình thành nên từ các nguồn lực kinh tế và
sản phẩm thặng dư của nhân dân lao động trong một quốc gia.
Như vậy, các nhân tố cấu thành vốn trong nước là rất đa dạng: vốn bằng tiền, các
dạng của cải, vốn con người, vốn tài sản,... Trong điều kiện nền sản xuất hàng hóa, các loại
vốn trên có thể thâm nhập vào nhau, chuyển hóa cho nhau và dĩ nhiên, chúng sẽ trở thành
tiền mặt trong những điều kiện cụ thể. Vì vậy, cần có cách nhìn biện chứng, linh hoạt về
các nguồn vốn. Từ đó mà có biện pháp khai thác, huy động nguồn vốn còn tiềm ẩn trong
nền kinh tế vào phát triển kinh tế. Nhất là, khi có một nguồn vốn nhất định đủ sức tiến
hành sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm hàng hóa thì điều quan trọng là phải tìm cách
cấu trúc tối ưu các yếu tố, quản lý có hiệu quả chúng để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh.
Hai là, vốn bằng tiền (tiềm lực về tài chính) đầu tư vào phát triển nông nghiệp.
Nói cụ thể, vốn đầu tư trong nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối
tượng lao động được sử dụng vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.
Vốn là yếu tố không thể thiếu đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để tiến
hành sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp hay trên phạm vi từng quốc gia cần phải có
các khoản tiền ứng ra để đầu tư ban đầu và đầu tư vào sản xuất trong giai đoạn đưa công
trình vào hoạt động. Xã hội càng phát triển, những chi phí cho các khoản "đầu vào" càng
lớn. Bởi lẽ, những tư liệu lao động và đối tượng lao động do con người tạo ra có quy mô
ngày càng lớn, phong phú về kết cấu, đa dạng về chủng loại và hàm chứa một trình độ
khoa học - công nghệ ngày càng cao. Chúng trở thành những tài sản (vốn) rất có giá trị.
Dựa theo những tiêu thức khác nhau mà người ta có thể chia vốn thành các loại khác nhau.
Dưới đây là một số loại cơ bản:
+ Dựa vào đặc điểm vận động của vốn, có hai loại: vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định ứng với tài sản cố định (nhà xưởng, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương
tiện vận tải, dụng cụ đo lường, phương tiện quản lý...; vốn lưu động ứng với tài sản lưu
động (nguyên liệu, nhiên liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hóa và các khoản tiền
tệ đáp ứng nhu cầu thanh toán chi trả,...).
+ Dựa theo hình thái và nguồn lực đầu tư, vốn có hai loại: vốn hữu hình và vốn vô
hình. Vốn hữu hình có hình thái vật chất cụ thể, bao gồm các tài sản hữu hình, tiền mặt,
những giấy tờ có giá trị thanh toán...; vốn vô hình là phần vốn tiền tệ đã được chi phí nhằm
sử dụng những tài sản vô hình để phục vụ yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn
vô hình bao gồm: vị trí kinh doanh, bí quyết công nghệ, bằng phát minh sáng chế...
+ Dựa vào thời gian sử dụng, vốn có ba loại: vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và vốn
dài hạn. Vốn ngắn hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu tư với thời hạn 1 năm. Vốn trung
hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu tư với thời hạn từ 1 năm đến dưới 5 năm. Vốn dài
hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu tư với thời hạn 5 năm trở lên.
+ Dựa vào chế độ sở hữu, vốn có hai loại: vốn chủ sở hữu và vốn vay. Vốn chủ sở
hữu là lượng vốn thuộc quyền quản lý, sử dụng của một chủ thể kinh doanh. Chẳng hạn,
vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, được hình thành trên cơ sở ngân sách nhà nước
cấp và vốn tự bổ sung; vốn chủ sở hữu của công ty cổ phần, được hình thành thông qua huy
động vốn góp của cổ đông; vốn chủ sở hữu của công ty trách nhiệm hữu hạn, được hình thành
thông qua vốn góp của các thành viên. Vốn vay là lượng vốn huy động từ các nguồn bên ngoài
chủ thể kinh doanh nhằm đảm bảo tính liên tục, hiệu quả của quá trình sản xuất. Vốn vay
có thể vay ngân hàng hay các tổ chức tài chính trung gian khác và vay qua thị trường
chứng khoán (trái phiếu công ty). Trong nền kinh tế thị trường, vốn vay là lượng vốn
chiếm phần lớn trong tổng vốn đầu tư.
Ngoài các cách phân loại trên, người ta còn có những cách thức phân loại vốn
khác,như: phân theo giác độ sử dụng vốn có hai loại: vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián
tiếp; căn cứ vào quyền sở hữu các nguồn vốn để tiến hành đầu tư trên tổng thể nền kinh tế có
vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài,... [40, 13]. Trong nền kinh tế thị trường, ở
mỗi góc nhìn khác nhau cho ta những quan niệm khác nhau về vốn, đầu tư vốn, song, xét về
bản chất nó là thể thống nhất. Việc phân chia vốn thành các loại khác nhau nhằm mục đích
hiểu rõ bản chất phạm trù vốn. Nói cách khác, là hiểu được tính đa dạng, phong phú và rất
phức tạp của vốn đầu tư trong nền kinh tế thị trường, giúp cho các chủ thể kinh doanh có kế hoạch
chủ động để huy động và sử dụng vốn ngày càng có hiệu quả.
1.1.2. Cơ cấu nguồn vốn và các phương thức huy động vốn trong nước
1.1.2.1. Cơ cấu nguồn vốn
Hiện nay, nguồn vốn trong nước tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, nhưng tựu
chung lại có các loại: vốn ngân sách nhà nước, vốn doanh nghiệp, vốn tín dụng ngân hàng
và vốn tích lũy của dân cư.
- Nguồn vốn ngân sách nhà nước: Nguồn này được hình thành thông qua việc tiết
kiệm của chính phủ. Nói cách khác, phần tiết kiệm của chính phủ là phần tiết kiệm của
ngân sách nhà nước. Tiết kiệm của chính phủ thể hiện ở số chênh lệch giữa tổng số thu so
với tổng số chi tiêu thường xuyên của ngân sách nhà nước. Về bản chất, đây là nguồn vốn
của ngân sách nhà nước chi cho phát triển kinh tế.
Trong những năm gần đây, qui mô ngân sách của Nhà nước ta không ngừng tăng
lên nhờ mở rộng nguồn thu. Song, thu chủ yếu vẫn qua huy động thuế và phí (trên 90%).
Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nước tăng trung bình từ 13,1% GDP (1986 - 1990)
lên 20,5% GDP (1991 - 1995) và hiện nay, khoảng 22% GDP (ước tính giá trị GDP nước ta
khoảng 26 tỷ USD) [38, 3]. Với khả năng huy động vốn trên, ngân sách nhà nước sẽ có điều
kiện để tăng lượng vốn đầu tư cho phát triển nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng.
- Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, bao gồm: doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Nguồn này được hình thành từ phần tiết kiệm của doanh nghiệp,
thể hiện ở phần lãi thuần được để lại dùng làm tăng vốn chủ sở hữu. Phần lãi thuần để lại
thực chất là phần đầu tư ròng tăng thêm của các doanh nghiệp. Ngoài ra, phần khấu hao cơ
bản hàng năm cũng là nguồn để các doanh nghiệp đầu tư.
ở nước ta hiện có 5.280 doanh nghiệp nhà nước, chiếm khoảng 30% GDP, 20%
tổng đầu tư, 50% dư nợ tín dụng của các ngân hàng trong nước. Trong đó, có 200 doanh
nghiệp lớn nhất, chiếm 60% tổng số vốn nhà nước và 40% tổng số dư nợ [6]. Bên cạnh đó,
doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng nhanh, khả năng thu hút vốn thuận lợi, mức thu nhập
lao động và nộp ngân sách khá cao. Năm 1991 có 123 doanh nghiệp với tổng vốn điều lệ là
69 tỷ đồng, 1996 có 26.091 doanh nghiệp và 8.257 tỷ đồng [6, 4]. Đây là nguồn có khả
năng lớn trong huy động để phát triển nền kinh tế.
- Nguồn vốn tín dụng: Nguồn này được hình thành từ vốn tự có của ngân hàng,
vốn huy động tiền gửi trong dân cư và các nguồn khác. Nền kinh tế thị trường càng phát
triển, nguồn vốn tín dụng càng trở thành nguồn vốn chủ yếu trong tổng vốn kinh doanh của
các chủ thể kinh tế. ở nước ta, nguồn vốn tín dụng được thực hiện thông qua hệ thống ngân
hàng thương mại, ngân hàng cổ phần, quỹ tín dụng nhân dân. Trong đó, hệ thống ngân hàng
thương mại bao gồm: Ngân hàng trung ương (Ngân hàng nhà nước), Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và
phát triển Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Trong đó, Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn Việt Nam là ngân hàng chủ yếu cung ứng vốn tín dụng cho phát
triển nông nghiệp, nông thôn.
Tính đến cuối năm 1998, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt
Nam đã có tổng nguồn vốn kinh doanh là 31.789 tỷ đồng, tăng 29% so với năm 1997. Trong 7
tháng đầu năm 1999, do tích cực tìm nguồn vốn rẻ và ổn định, mở rộng quan hệ với bạn hàng
nước ngoài, khai thác các nguồn vốn ủy thác quốc tế; mở rộng mạng lưới tín dụng ở nông
thôn nên Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đảm bảo được tốc độ tăng trưởng
tín dụng cao, tổng nguồn vốn tăng 12,9% so với 1998. Trong đó, vốn tín dụng tăng 6,4% [5].
Và, đến cuối 1998, Ngân hàng trên cho vay hết số vốn ước khoảng 691 tỷ đồng, thu nợ 69,7
tỷ đồng, dư nợ 621 tỷ đồng và nợ quá hạn 679 triệu đồng, chiếm 0,15% dư nợ. Đồng thời
Ngân hàng đã tài trợ cho 229.477 tiểu dự án với doanh số cho vay là 994,3 tỷ đồng, dư nợ
đến 31/10/1999 là 686 tỷ đồng [51]. Tuy nhiên, khả năng cấp tín dụng của các ngân hàng
còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được các tài trợ về đầu tư cơ bản. Nguồn vốn huy động
được chủ yếu mới cho vay ngắn hạn. Vốn cho vay trung và dài hạn còn rất khiêm tốn.
- Nguồn vốn của dân cư: Đây là nguồn được hình thành từ phần còn lại trong thu
nhập của dân cư. Thu nhập của dân cư được hình thành từ thu nhập trong kết quả lao động
ở lĩnh vực sản xuất và dịch vụ của các gia đình, cá nhân người lao động; thu nhập do thừa
kế các loại thu nhập khác, như: trúng xổ số, thân nhân từ nước ngoài gửi về. Nói cách
khác, nguồn vốn của dân cư là khoản tiết kiệm của họ. Thực chất đó là phần dôi ra sau khi
đã trừ chi tiêu của các hộ gia đình.
Trong nền kinh tế thị trường, tiết kiệm của dân cư là bộ phận chủ yếu và ngày
càng khẳng định được vị trí quan trọng trong việc hình thành tổng nguồn vốn đầu tư của
các quốc gia. Theo điều tra của Tổng cục Thống kê; của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ước tính
nguồn vốn trong dân cư hiện có từ 6-8 tỷ USD. Trong đó chỉ có 36% vốn hiện có được huy
động cho đầu tư phát triển [38,4].
Biểu 1: Mức vốn huy động trong dân qua các năm
Năm
Mức huy động
(tỷ đồng)
Mức tăng so với năm trước
(%)
1991
1992
1993
1994
6.430
10.864
13.000
17.000
181,4
170
120
130
1995
1996
1997
20.000
24.000
28.000
117,7
120,6
116,7
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 4/1994 [38, 6]
Tóm lại: Cơ cấu nguồn vốn trong nước bao gồm: vốn ngân sách, vốn tín dụng, vốn
của doanh nghiệp, vốn của dân cư... Mỗi nguồn vốn đều có đặc điểm, tầm quan trọng
riêng. Song, bản thân chúng là những yếu tố hợp thành nên tổng nguồn vốn để đầu tư phát
triển kinh tế. Do đó, phải biết cách khai thác, huy động, quản lý và sử dụng các nguồn vốn
một cách hiệu quả.
1.1.2.2. Các phương thức huy động vốn
Trong nền kinh tế thị trường, để có đủ vốn đầu tư, chủ đầu tư có thể và cần phải
huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, bằng những phương thức khác nhau. Trên thực
tế, có hai phương thức cơ bản để huy động vốn:
Một là, phương thức huy động vốn gián tiếp: Đó là phương thức chuyển vốn từ
nơi thừa sang nơi thiếu vốn thông qua các trung gian tài chính, như: các ngân hàng thương
mại, các tổ chức tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính, các quỹ hỗ trợ đầu
tư quốc gia... Nội dung của phương thức này là thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi vào các
trung gian tài chính, từ đó, các trung gian tài chính cấp vốn cho những nơi cần vốn. Việc
đa dạng hóa các kênh huy động vốn đã từng bước đáp ứng được các nhu cầu về vốn đầu
tư. Tuy nhiên, ở nước ta, việc huy động vốn thông qua các công ty bảo hiểm, công ty tài
chính còn là loại hình mới mẻ. Do đó, việc huy động vốn cho phát triển kinh tế nói chung,
kinh tế nông nghiệp nói riêng chủ yếu được thực hiện qua kênh ngân hàng và các tổ chức
tín dụng.
Hiện nay ở Việt Nam có 1.202 chi nhánh của 4 ngân hàng quốc doanh, gần 200
chi nhánh của 63 ngân hàng thương mại cổ phần và 186 quỹ tín dụng nhân dân. Các ngân
hàng thương mại huy động vốn thông qua tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các tổ
chức kinh tế, phát hành kỳ phiếu ngân hàng thương mại, hình thành các quỹ tín dụng nhân
dân. Bên cạnh đó, ngân hàng còn thực hiện các phương thức huy động vốn mới, như: huy
động vốn cổ phần xác lập và cổ phần thường xuyên từ các hộ sản xuất kinh doanh ở nông
thôn. Số dư tiền gửi loại hình này lên tới hàng trăm tỷ đồng. Các ngân hàng đầu tư phát
triển, ngân hàng công thương đã hình thành hình thức huy động tiết kiệm xây dựng nhà ở
(điển hình là Ngân hàng phát triển nhà ở đồng bằng sông Cửu Long), với số vốn huy động
hàng ngàn tỷ đồng. Các loại trái phiếu vô danh, trái phiếu ghi danh của các ngân hàng phát
hành trên thị trường theo chủ trương của Nhà nước vào các thời điểm khác nhau đã khai
thác được lượng vốn khá lớn. Ngoài ra, hình thức huy động vốn thông qua mở tài khoản
tiền gửi cho khoảng 50.000 tài khoản tiền gửi, với số dư hàng chục tỷ đồng.
Về lãi suất: cơ chế điều hành lãi suất đã có sự thay đổi căn bản. Nếu như trước
đây, Ngân hàng nhà nước trực tiếp qui định mức lãi suất, thì từ tháng 4 năm 1994, Ngân
hàng nhà nước chỉ qui định khung lãi suất, còn dành quyền chủ động cho các ngân hàng
thương mại qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo diễn biến cung cầu
vốn trên thị trường. ở đây, thể hiện tính linh hoạt, mềm dẻo, hợp lý trong chính sách huy
động các nguồn vốn của Đảng và Nhà nước cũng như của ngành ngân hàng. Cũng trong
tháng 9 năm 1994 Thống đốc Ngân hàng nhà nước ra Quyết định số 211/QĐ/NH1 ban
hành qui chế phát hành tín phiếu ngân hàng nhà nước và Quyết định số 212/QĐ/NH1 ban
hành thể lệ phát hành trái phiếu ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát triển, tạo
điều kiện thuận lợi cho huy động vốn.
Tín phiếu Ngân hàng nhà nước là giấy nợ ngắn hạn có lãi do ngân hàng nhà nước
phát hành nhằm tạo công cụ để điều hành thị trường tiền tệ theo mục tiêu của chính sách
trong từng thời kỳ. Đối tượng mua tín phiếu ngân hàng nhà nước là các ngân hàng thương
mại, ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính. Việc mua tín phiếu ngân hàng nhà nước dựa trên
cơ sở tự nguyện, nhưng trong trường hợp cần thiết để phục vụ mục tiêu ổn định tiền tệ,
Thống đốc Ngân hàng nhà nước có thể qui định tỷ lệ mua tín phiếu ngân hàng nhà nước
bắt buộc đối với các ngân hàng trên. Tỷ lệ này được tính trên tổng vốn huy động của các
ngân hàng [42]. Về bản chất, huy động vốn bằng trái phiếu ngân hàng là nguồn vốn dài
hạn của các tổ chức tín dụng, không phải dành để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước mà
chủ yếu để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu, lao động,... cho
các dự án kinh tế. Vì vậy, lãi suất của trái phiếu do các tổ chức tín dụng quy định phải dựa
trên cơ sở quan hệ cung cầu đồng vốn trên thị trường. Nghĩa là lãi suất của trái phiếu phải
linh hoạt, mềm dẻo để vừa khuyến khích được người gửi tiền dài hạn, chủ đầu tư (người
vay) có thể chấp nhận được; vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương
mại.
Hai là, phương thức huy động vốn trực tiếp: Đó là phương thức chuyển vốn từ
nơi thừa sang nơi thiếu vốn một cách trực tiếp, thông qua thị trường chứng khoán mà
không qua các trung gian tài chính. Các nhà đầu tư có thể phát hành các cổ phiếu, trái
phiếu thu hút vốn. Ngược lại, các nhà đầu tư tài chính mua cổ phiếu, trái phiếu do các công
ty hay chính phủ phát
hành có thể rút vốn thông qua mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán. Cụ thể là:
- Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước.
Trái phiếu doanh nghiệp nhà nước là chứng chỉ vay nợ có kỳ hạn, có mệnh giá và
có lãi phát hành bao gồm các loại ký danh và vô danh, thời hạn từ một năm trở lên tùy
thuộc vào nhu cầu sử dụng và khả năng thu hồi vốn để trả nợ của doanh nghiệp nhà nước.
Lãi suất trái phiếu doanh nghiệp nhà nước được Bộ Tài chính qui định và do doanh nghiệp
nhà nước công bố theo từng đợt phát hành đảm bảo cho người mua trái phiếu được hưởng
lãi suất thực (+) với các chỉ số trượt giá và căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu
hồi vốn của doanh nghiệp.
Cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước là chứng chỉ thừa nhận sự góp vốn và quyền sở
hữu về vốn của chủ sở hữu cổ phiếu do doanh nghiệp nhà nước phát hành nhằm góp vốn
vào doanh nghiệp đang hoạt động hoặc góp vốn thành lập doanh nghiệp mới mà nhà nước
là người sáng lập. Cổ phiếu bao gồm các loại ký danh và vô danh, phát hành dưới dạng
chứng chỉ do kho bạc nhà nước qui định theo mẫu. Cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước chỉ có
một loại mệnh giá do doanh nghiệp nhà nước qui định sau khi đã được Bộ Tài chính chấp
thuận. Lợi tức cổ phần được thanh toán hàng năm vào cuối năm tài chính qui định, tùy
thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh và theo Điều lệ hoạt động doanh nghiệp. Cổ phiếu
doanh nghiệp nhà nước được tự do mua bán, chuyển nhượng, thừa kế. Việc chuyển
nhượng quyền sở hữu đối với các loại cổ phiếu, ký danh và vô danh được thực hiện tại
doanh nghiệp nhà nước, nơi phát hành cổ phiếu và không phải chịu bất cứ khoản phí nào.
Trên thế giới, huy động vốn bằng cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp nhà nước là
phương thức quan trọng và phổ biến nhằm vay vốn để mở rộng qui mô sản xuất kinh
doanh, đổi mới thiết bị, công nghệ của doanh nghiệp. ở nước ta, phương thức huy động
vốn này còn rất mới mẻ. Việc thành lập thị trường chứng khoán đang ở giai đoạn tìm tòi,
thử nghiệm trên thực tiễn. Tuy nhiên, đó sẽ là một phương thức, một kênh chủ lực để huy
động vốn đầu tư hiệu quả trong tương lai. Vì vậy, Chính phủ đang rất chủ động thúc đẩy
việc hình thành thị trường chứng khoán bằng các thông tư, nghị định hướng dẫn việc thực
hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Đó là Nghị định số 120/CP (ngày
17/9/1994) [17] của Chính phủ ban hành qui chế tạm thời về việc phát hành trái phiếu, cổ
phiếu doanh nghiệp nhà nước; Thông tư số 91/TC-KBNN (ngày 5/11/1994) [50] của Bộ
Tài chính hướng dẫn chi tiết việc thực hiện qui chế trên; Nghị định số 28/CP (ngày
7/5/1996) về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần [35]. Và, gần đây
nhiều thông tư, nghị định mới ra đời nhằm thúc đẩy sự ra đời thị trường chứng khoán tại
Việt Nam.
Có thể nói rằng, mỗi thông tư, nghị định ra đời đều thể hiện sự tìm tòi, thử nghiệm và
tiếp tục hoàn thiện dần hình thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu
doanh nghiệp nhà nước; phù hợp với từng bước đi của tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà
nước. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp,
đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Về thực chất, đó là nhằm mục tiêu huy động tối đa vốn
nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế trong
và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp, tạo điều kiện cho
những người góp vốn, những người có cổ phần nâng cao vai trò làm chủ, tạo thêm động
lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
- Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ. Trái phiếu chính phủ là
chứng chỉ vay nợ của Chính phủ do Bộ Tài chính phát hành (trái phiếu, cổ phiếu doanh
nghiệp nhà nước không có ý nghĩa tác động trực tiếp đến việc giảm bội chi ngân sách nhà
nước). Trái phiếu chính phủ được phát hành dưới các dạng: tín phiếu kho bạc nhà nước,
trái phiếu kho bạc nhà nước và trái phiếu công trình.
+ Tín phiếu kho bạc nhà nước là loại trái phiếu ngắn hạn dưới một năm, huy động
vốn để bù đắp thiếu hụt ngân sách tạm thời trong năm tài chính. Số dư nợ về trái phiếu kho
bạc nhà nước đến cuối năm tài chính (31/12) chưa đến hạn thanh toán được tính là khoản
vay bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước và được hoàn trả trong năm tài chính tiếp theo.
+ Trái phiếu kho bạc là loại trái phiếu có thời hạn từ một năm trở lên, huy động
vốn để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu đầu tư phát triển
trong kế hoạch ngân sách nhà nước được duyệt.
+ Trái phiếu công trình có hai loại: trái phiếu chính phủ huy động vốn cho các
công trình trung ương do Bộ Tài chính (Ngân sách trung ương) bảo lãnh thanh toán.
Trái phiếu chính phủ bao gồm các loại ký danh và vô danh; phát hành dưới dạng
chứng chỉ trái phiếu và có nhiều mệnh giá khác nhau, được ghi thu và thanh toán bằng
đồng Việt Nam theo thời giá của cơ quan có thẩm quyền quy định.
Lãi suất trái phiếu chính phủ do Bộ Tài chính công bố theo từng đợt phát hành, sau
khi đã thỏa thuận với Ngân hàng nhà nước Việt Nam, đảm bảo cho người mua trái phiếu
được hưởng lãi suất thực (+) có tính đến chỉ số trượt giá. Mức lãi suất trái phiếu được xác
định trên cơ sở tỷ lệ lạm phát và biến động giá cả theo từng thời kỳ do Tổng cục Thống kê
công bố; lãi suất trái phiếu có thời hạn dài được qui định cao hơn lãi suất trái phiếu có thời
hạn ngắn; nhu cầu huy động vốn và khả năng huy động trái phiếu.
Ngoài ra còn có trái phiếu với lãi suất chỉ đạo, tổ chức đấu thầu chọn lãi suất phát
hành là mức lãi suất đặt thầu tối đa cho các trái phiếu mà đơn vị tham gia đấu thầu có thể
đặt thầu. Mức lãi suất chỉ đạo được Bộ Tài chính công bố trong thông báo đấu thầu.
Trong những giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội, "Chính phủ chủ trương phát
hành trái phiếu là để thực hiện chức năng đi vay (thực hiện tín dụng nhà nước) của Chính
phủ, nhằm huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế để tạo vốn bù
đắp thiếu hụt ngân sách, tăng cường vốn cho đầu tư phát triển. Chính phủ cần phải huy
động vốn qua phát hành trái phiếu chính phủ và giao cho Bộ Tài chính phát hành" [33].
Tóm lại: Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại song hành hai phương thức huy
động vốn: trực tiếp và gián tiếp. Hai phương thức huy động vốn này luôn hỗ trợ, bổ sung,
tác động lẫn nhau nhằm thu hút tối đa và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn theo tiêu
chuẩn thị trường, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, đồng thời tạo ra những công cụ hữu
hiệu trong quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. ở nước ta, 2 phương thức huy động
vốn trên đã được áp dụng. Song, trên thực tế, phương thức huy động vốn gián tiếp vẫn là
phổ biến. Phương thức huy động vốn trực tiếp còn mới mẻ, nhưng theo đà phát triển của
nền kinh tế, nó sẽ trở thành kênh huy động vốn quan trọng ở nước ta trong tương lai.
1.1.3. Vai trò của vốn đối với phát triển nông nghiệp
1.1.3.1. Yêu cầu cấp bách về vốn để phát triển nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của
mọi quốc gia. ở nước ta, nông nghiệp càng giữ vị trí trọng yếu trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi lẽ, gần 80% dân số sống ở nông thôn với nguồn sống chính
dựa vào nông nghiệp. Trong nhiều năm, nông nghiệp đã tạo ra trên 40% thu nhập quốc
dân. Hiện nay ngành này đang tạo ra gần 30% GDP và hơn 45% giá trị xuất khẩu của cả
nước [26, 30]. Đồng thời, nông nghiệp còn là ngành cung cấp nhân lực, thị trường và nguyên
liệu cho các ngành công nghiệp, dịch vụ. Sự tăng trưởng và phát triển của nông nghiệp có tác
động to lớn đến qui mô, tốc độ tăng trưởng và phát triển của toàn bộ nền kinh tế, đẩy mạnh
tích lũy vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính vì vậy, phát triển nông
thôn nói chung, nông nghiệp nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước ta coi trọng và đặt lên
vị trí hàng đầu. Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định: "Nội dung cơ bản của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại của thập kỷ 90 là đặc biệt coi trọng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp
gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm thủy sản" [16, 86]; để thực hiện nhiệm vụ trên
phải "huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn
trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng... Chiến lược lâu
dài phải huy động tối đa nguồn vốn trong nước để chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư" [16, 228].
Thực hiện đường lối trên, thời gian qua đã huy động được lượng vốn khá từ nhiều
nguồn khác nhau để đầu tư phát triển nông nghiệp. Do đó, nông nghiệp nước ta nói chung,
nông nghiệp ngoại thành nói riêng từng bước phát triển ổn định, khá toàn diện và đạt nhịp
độ tăng trưởng bình quân hàng năm 4,5% - 4,8%. Riêng về lương thực (gạo) của nước ta,
từ chỗ phải nhập khẩu đến nay trở thành nước xuất khẩu gạo có thứ hạng cao trong khu
vực và thế giới. Mặc dù vậy, lượng vốn đầu tư để phát triển nông nghiệp vẫn chưa đủ
mạnh để cải biến một cách cơ bản, đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp,
cũng như phát triển khoa học - công nghệ, ứng dụng thành tựu đó vào khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư..., đáp ứng yêu cầu thâm canh nông nghiệp ở trình độ cao. Do đó,
nền nông nghiệp nước ta vẫn đang đứng trước những thách thức to lớn: cơ cấu nông
nghiệp chuyển dịch chậm chạp và còn mất cân đối nghiêm trọng giữa trồng trọt - chăn
nuôi - nghề rừng; thị trường tiêu thụ nông sản không ổn định; chất lượng nông sản còn
thấp, chưa đủ sức cạnh tranh với sản phẩm đồng loại trên thị trường khu vực và thế giới...
Vì vậy, tăng cường huy động các nguồn vốn, đảm bảo cung ứng vốn đủ mạnh cho phát
triển nông nghiệp, nông thôn, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước là một đòi hỏi mang tính tất yếu của thực tiễn hiện nay.
1.1.3.2. Vốn - nhân tố quyết định thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Các nhà kinh tế học từ cổ đại đến hiện đại đều khẳng định vốn là nhân tố cơ bản
của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng. Sự gia
tăng về vốn làm tăng năng lực sản xuất trong nước, thúc đẩy gia tăng sản lượng và năng
suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hóa sản xuất ra, tạo khả năng thu hút và sử dụng
có hiệu quả các nhân tố: tài nguyên, lao động...
Khi nghiên cứu về Học thuyết địa tô, C.Mác đã chỉ rõ vai trò của tư bản (vốn)
trong quá trình phát triển nông nghiệp. Người viết: "Do những qui luật tự nhiên chi phối
trong nông nghiệp nên khi canh tác đạt đến một trình độ nhất định và khi đất đã bị kiệt
màu đi một cách tương ứng thì tư bản... sẽ trở thành một yếu tố quyết định" [32, 333].
C.Mác còn khẳng định, địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II đều là lợi nhuận siêu
ngạch, hình thành do hiệu quả đầu tư khác nhau của những tư bản như nhau. Địa tô chênh
lệch I tương ứng với phương thức quảng canh, khai hoang, mở rộng diện tích và không cần
nhiều vốn đầu tư. Nó rất phù hợp với thời kỳ đầu phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa
bậc thấp. Thành thử, "các khoản đầu tư được tiến hành cùng một lúc trên những diện tích
khác nhau. Mỗi lần đầu tư đều có ý nghĩa là mở rộng hơn nữa việc canh tác đất đai, diện
tích canh tác lại được mở rộng thêm" [32, 329]. Trái lại, địa tô chênh lệch II ứng với
phương thức đầu tư thâm canh, đòi hỏi phải có lượng vốn đầu tư lớn: "Về mặt kinh tế,
chúng ta phải hiểu thâm canh không phải là cái gì khác hơn là tập trung tư bản trên cùng
một thửa đất, chứ không phải phân tán trên nhiều thửa đất song song với nhau" [32, 331].
Như vậy, cùng với đất đai, lao động, vốn trở thành yếu tố nội sinh, quyết định sự thành bại
của chiến lược thâm canh tăng năng suất cây trồng, thúc đẩy việc sử dụng đất có hiệu quả.
Do đó, thâm canh là một yêu cầu cơ bản, một xu hướng tất yếu đối với mọi nền nông
nghiệp, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội.
Vận dụng sáng tạo lý luận địa tô của C.Mác, trong những năm qua, Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp tăng cường huy động các nguồn vốn để đẩy
mạnh phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, đặc biệt là thâm canh nông nghiệp; xây
dựng các ngành, các lĩnh vực có tác động trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh nông
nghiệp. Nếu như ở giai đoạn trước, đầu tư vốn cho nông nghiệp nhằm mục tiêu đủ ăn về
lương thực, thực phẩm; từng bước vươn lên xuất khẩu nông sản thì nay, đã đến lúc vốn
đầu tư cho nông nghiệp phải được tiến hành ở giai đoạn II. Nghĩa là, phải tăng tốc huy
động vốn để nâng cao tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo an toàn
lương thực, thực phẩm; đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao chất lượng nông sản hàng hóa
để chiếm thị phần rộng lớn về xuất khẩu, tăng nguồn thu cho ngân sách, tăng sức mạnh nội
lực thực sự cho nền kinh tế Việt Nam. Chính vì vậy, những tác động của vốn đối với nông
nghiệp càng trở nên rõ nét, thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất: Vốn làm thay đổi bộ mặt kết cấu hạ tầng theo yêu cầu chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn nói chung, nông nghiệp nói riêng theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Kết cấu hạ tầng nông thôn bao gồm: các công trình thủy lợi, (tưới, tiêu, chống lũ);
các công trình giao thông, bưu chính viễn thông, nhà xưởng, mạng lưới điện... phục vụ
phát triển nông nghiệp. Nông nghiệp là ngành chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện tự nhiên.
Do đó, kinh doanh trong nông nghiệp có độ rủi ro cao, khả năng thu hồi vốn chậm, lợi
nhuận thấp hơn các ngành kinh tế khác. Nếu cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ ảnh hưởng lớn đến
hiệu quả kinh doanh nông nghiệp, không "hút" được vốn đầu tư của các nhà đầu tư cả
trong và ngoài nước vào phát triển lĩnh vực này. Tăng cường vốn đầu tư cho phát triển
nông nghiệp, trước hết phải chú trọng đầu tư phát triển lĩnh vực kết cấu hạ tầng.
Kinh nghiệm của thế giới cho thấy, đối với các nước châu á, chi phí cải tạo cơ sở
hạ tầng sẽ phải tăng từ mức 4% GDP trong thập kỷ 80 lên 7% GDP trong thập kỷ 90. ở
nước ta, cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng còn
yếu kém hơn so với các nước Đông á, nhất là về giao thông, bưu chính, mạng lưới điện,
thủy lợi. Những diễn biến bất thường của thời tiết thời gian qua: hạn hán, lũ lụt ở đồng
bằng sông Cửu Long, miền Trung, Tây Nguyên; lũ quét ở miền núi phía Bắc... làm cho
nông dân thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng càng thấy rõ vai trò to lớn của việc tăng đầu tư vốn
để cải tạo, nâng cấp, xây dựng hệ thống thủy lợi, đê điều,... Việc hiện đại hóa kết cấu hạ
tầng nông nghiệp thực hiện tốt, không những sẽ hình thành được vùng cây chuyên canh,
mở rộng diện tích canh tác mà còn tạo điều kiện thâm canh tăng vụ, đặc biệt là tăng từ 1 vụ
lúa lên 2 vụ (ở vùng trũng), thậm chí ở các tỉnh phía Nam còn dịch chuyển được mùa vụ,
trồng lúa quanh năm, tăng hệ số sử dụng đất, nhất là tránh được những con lũ lớn ở đồng
bằng Nam Bộ.
Thứ hai: Vốn tác động vào khoa học - công nghệ tạo ra động lực để phát triển
một nền nông nghiệp hàng hóa chất lượng cao và bền vững, gắn với bảo vệ môi trường
sinh thái.
Các công nghệ cao được áp dụng vào nông nghiệp, như: công nghệ sinh học; công
nghệ loại hình "tri thức", như: công nghệ thông tin, công nghệ quản lý, công nghệ nông
nghiệp chính xác,... Bên cạnh đó những công nghệ trên đòi hỏi phải có một hệ thống sản
xuất giao lưu giữa các ngành, thay đổi căn bản nền nông nghiệp và chuyển nền nông
nghiệp từ truyền thống sang nền nông nghiệp công nghiệp, hướng vào mục tiêu an toàn
lương thực, gia tăng sản phẩm xuất khẩu qua chế biến. Phấn đấu thời gian tới, Việt Nam
có thể đạt được từ 85% - 90% giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Muốn vậy, phải có
vốn và tăng lượng vốn đầu tư vào phát triển khoa học - công nghệ phục vụ nông nghiệp để
vừa có đủ vốn nhập khẩu những công nghệ
cao từ nước ngoài khi trong nước chưa nghiên cứu được; vừa có vốn để triển khai, nghiên
cứu, ứng dụng những công nghệ mới ở trong nước cho phù hợp với điều kiện cụ thể nền
nông nghiệp Việt Nam. Một khi khoa học - công nghệ xâm nhập được vào nông nghiệp sẽ
mang lại hiệu quả sản xuất - kinh doanh cao.
Biểu 2: Năng suất của một số cây trồng nhờ áp dụng công nghệ sinh học
Đơn vị tính: Tấn/ha
Loại cây trồng Thời kỳ những năm 80 Thời kỳ những năm 90
- Mía
- Cà chua
- Sắn
- Lạc
- Thầu dầu
- Tre
- Cây lấy gỗ
70 - 90
20 - 40
15 - 20
1,6
0,6
250
10 - 20
150 - 250
60 - 100
60 - 100
4,0
2,5
1.000
40 - 100
Nguồn: Chương trình phân tích và lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa - Bộ Khoa
học - công nghệ và môi trường, Hà Nội 1994 [8, 42].
Hiểu rõ tầm quan trọng của khoa học - công nghệ, Đảng ta đã xác định: "Khoa học
- công nghệ là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khoa học và công nghệ có vai
trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của mỗi quốc gia" [14, 60]. Trong
những năm qua, tỷ lệ đầu tư cho khoa học - công nghệ đã từng bước tăng lên. Năm 1998
đạt 1,28% tổng chi ngân sách, tương đương với 1.054 tỷ đồng. Song, về lâu dài phải nâng
tỷ lệ đầu tư cho khoa học - công nghệ, đặc biệt là khoa học - công nghệ ứng dụng trong
nông nghiệp lên 2% tổng chi ngân sách. Đồng thời tích cực thu hút các nguồn vốn vào
phát triển lĩnh vực này. Từ năm 1995, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập
Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia theo Quyết định số 808/TTg (9/12/1995) hoạt động theo Luật
khuyến khích đầu tư. Mục tiêu của Quỹ là hỗ trợ một số ngành nghề được khuyến khích
phát triển, trong đó có lĩnh vực công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp.
Thứ ba: Vốn tác động vào hệ thống công nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp làm
thay đổi năng suất, chất lượng và hiệu quả nông phẩm hàng hóa.
Hệ thống công nghiệp phục vụ nông nghiệp được hình thành bởi các ngành: chế
tạo máy động lực và máy nông nghiệp, các nhà máy điện, phân bón, thuốc trừ sâu và hàng
loạt các nhà máy chế biến lương thực, thực phẩm của nông nghiệp. Hiện nay, hệ thống
công nghiệp phục vụ nông nghiệp đều rất lạc hậu (khoảng 20 năm). Năng lực sản xuất của
ngành mới đáp ứng được 20% nhu cầu máy nội địa, 40% nhu cầu máy nông nghiệp nhỏ,
10% nhu cầu phân bón...; các nhà máy chế biến nông sản hoạt động cầm chừng do thiếu
nguyên liệu và chủ yếu mới ở dạng sơ chế, năng suất, chất lượng thấp. Về thực chất, công
nghệ ở nước ta được hình thành theo qui trình "ngược". Nghĩa là, công nghệ phụ thuộc vào
máy móc đã trang bị chứ chưa phải được hình thành trên cơ sở yêu cầu của sản xuất. Vì
vậy, Đảng ta chủ trương tăng cường đầu tư "phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy
sản với công nghệ ngày càng cao gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp đô
thị" [16, 87] là đúng hướng. Đồng thời, Đảng chỉ rõ: "mở rộng tín dụng, tăng dần vốn vay
trung và dài hạn đáp ứng yêu cầu vốn cho công nghiệp hóa nông nghiệp... Thời hạn cho
vay vốn phải phù hợp với chu kỳ sinh trưởng của vật nuôi, cây trồng và thời gian khấu hao
máy móc nông nghiệp" [18, 25]. Khi những chủ trương này đi vào cuộc sống, vai trò của
vốn được xác lập, hệ thống công nghiệp phục vụ nông nghiệp sẽ thay đổi hẳn, thúc đẩy
nền nông nghiệp nước ta phát triển nhanh, bền vững.
Thứ tư: Thông qua huy động, đầu tư và quản lý có hiệu quả các nguồn vốn sẽ
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, hình thành những vùng chuyên canh,
vùng trọng điểm, đẩy mạnh nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa.
Hiện nay vốn đầu tư để phát triển nông nghiệp còn thấp, vấn đề quản lý, sử dụng
còn kém hiệu quả, do đó cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch còn chậm chạp; ngành
trồng trọt chiếm tỷ lệ cao, chăn nuôi chưa trở thành ngành sản xuất chính, nghề rừng mới
bước đầu phát triển, dịch vụ nông nghiệp phát triển chưa thật sự vững chắc... thì việc tăng
cường đầu tư vốn và sử dụng chúng có hiệu quả sẽ hình thành được những vùng chuyên
canh lớn (vùng cây lương thực, vùng cà phê, cao su,...), khai thác được tiềm năng về đất
đai, lao động, nguyên liệu... tạo ra sức bật mới, có tác dụng lan tỏa, lôi cuốn các ngành,
vùng khác cùng phát triển, tạo ra ngày càng nhiều nông sản hàng hóa có giá trị xuất khẩu
cao, có lợi thế so sánh trên trường quốc tế.
Thứ năm: Vốn là điều kiện không thể thiếu để đầu tư và phát triển nguồn nhân lực
nông nghiệp, nông thôn đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hiện nay lực lượng lao động trong nông nghiệp đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất thấp
(khoảng 18% - 30%). Số còn lại chủ yếu được đào tạo theo kinh nghiệm "cha truyền, con
nối", hiệu quả thấp. Mặc dù trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta đã chú ý đầu
tư cho đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp, nhưng dường như chỉ quan tâm đến đào tạo
đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật (chủ yếu là cơ khí nông nghiệp), các nghề, như: trồng
trọt, chăn nuôi, nghề cá, nghề rừng... chưa chú ý đầu tư, dẫn đến đại bộ phận nông dân trực
tiếp sản xuất ít, thậm chí không được trang bị kiến thức sản xuất nông nghiệp. Vì vậy tăng
cường đầu tư vốn cho nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn, nhất là đào tạo nghề cho
nông dân là vấn đề cấp thiết. Cần phải hỗ trợ 100% vốn cho những lao động nông nghiệp
được cử đi học dài hạn, tình nguyện trở về phục vụ quê hương. Về lâu dài phải thành lập
Quỹ hỗ trợ giáo dục, động viên sự đóng góp của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội để đầu
tư đào tạo nguồn nhân lực, trước hết là đào tạo nghề cho nông dân.
Tóm lại: Vốn là yếu tố quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển nông
nghiệp. Hiểu rõ tầm quan trọng của vốn sẽ có phương pháp luận đúng đắn để khai thác,
huy động các nguồn vốn có hiệu quả, thúc đẩy nông nghiệp phát triển, đáp ứng yêu cầu hội
nhập khu vực và thế giới.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn để phát triển nông nghiệp
1.2.1. Nhu cầu vốn quyết định qui mô, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn
Để tiến tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh",
nước ta cần phải đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chiến lược phát triển kinh tế
của Việt Nam đặt ra yêu cầu tăng thu nhập quốc dân bình quân đầu người lên gấp 2 lần
vào năm 2000 và những năm tiếp theo. Muốn vậy, phải tăng cường đầu tư vốn cho nền
kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng. Đối với nông nghiệp, tăng vốn đầu tư trước hết
phải hướng vào xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp, đổi mới công nghệ, máy
móc, hình thành vùng chuyên canh, trọng điểm, cải tạo đất đai, giống cây trồng và vật
nuôi... Vì vậy, phải dự báo được nhu cầu vốn đầu tư trong kế hoạch phát triển ngắn, trung
và dài hạn.
Hiện nay trên thế giới, phương pháp phổ biến để tính nhu cầu vốn đầu tư dựa vào
mô hình Harrod - Domar: khối lượng vốn tăng thêm để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế
được tính theo công thức:
G = K.
K
1
Suy ra: K = K. G
Trong đó: K là lượng vốn tăng thêm
G là lượng GDP (GNP) tăng thêm
K là hệ số vốn hay chỉ số ICOR. Hệ số này cho biết để có một đơn vị khối lượng
sản phẩm tăng thêm thì cần bao nhiêu đơn vị khối lượng vốn đầu tư.
Theo tính toán của các nhà kinh tế, chỉ số ICOR ở các nước đang phát triển dao
động từ 3,3 - 7,1. ở nước ta, thời kỳ 1955 - 1975 là 3,2; 1976 - 1986
là 3,9 [1]; 1986 - 1990 là 2,9; 1991 - 1995 là 2,7; 1996- 2000 là 4,5. Như vậy, để có mức
thu nhập kinh tế quốc dân bình quân đầu người tăng gấp đôi, chúng ta cần có mức gia tăng
sản phẩm xã hội G = 51.002 tỷ đồng, giả sử với hệ số K là 4,5 thì cần phải có số vốn đầu tư
bổ sung là 51.022 x 4,5 = 229.509 tỷ đồng. Đây là những con số tương đối. Trên thực tế,
tổng nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định dù tính theo phương
pháp nào cũng còn phụ thuộc rất nhiều vào mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng hay
chiều sâu; cần nhiều hay cần ít vốn; có ưu tiên sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới hay
chỉ ưu tiên đặc biệt cho những ngành nghề sử dụng nhiều lao động cơ bắp. Đặc biệt, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế, kinh tế thế giới đang có sự biến động sâu sắc, mạnh mẽ với sự lớn mạnh
của mô hình kinh tế trí tuệ dựa trên cơ sở tiến bộ khoa học công nghệ thì nhất định các
cách tính toán nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế sẽ chịu nhiều ảnh hưởng lớn.
Với cách tính như trên, các nhà kinh tế Việt Nam dự tính nhu cầu vốn cho đầu tư
phát triển kinh tế từ nay đến năm 2010, Việt Nam cần huy động lượng vốn khoảng 45 - 50
tỷ USD. Trong đó, nhu cầu vốn cho ngành nông nghiệp là 5 tỷ USD, ngành công nghiệp 17 tỷ
USD và ngành dịch vụ là 26 tỷ USD.
Như vậy, nhu cầu vốn là một nhân tố quan trọng thúc đẩy việc huy động vốn cho
phát triển kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp nói riêng. Nhu cầu vốn càng lớn càng
phải đẩy mạnh huy động tổng lực các nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
1.2.2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp chi phối khả năng huy động vốn
- Hoạt động của sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên.
Nếu thời tiết thuận lợi, nông dân trúng vụ, giá cả nông sản ổn định không những khuyến
khích được nông dân bỏ vốn ra đầu tư mà còn thu hút được các nguồn vốn khác vào phát
triển nông nghiệp và ngược lại việc huy động vốn sẽ rất khó khăn.
- Chu kỳ sản xuất của cây trồng, vật nuôi khá phức tạp. tùy thuộc vào từng loại cây
trồng vật nuôi mà chu kỳ sản xuất dài, ngắn khác nhau. Chu kỳ sản xuất ngắn nhất là 3
tháng. Đối với những cây dài ngày như: cây công nghiệp, cây ăn quả thời gian kiến thiết
cơ bản từ 5-7 năm. Do vậy chu kỳ kinh tế phải mất hàng chục năm, thậm chí vài chục năm,
làm cho vòng tuần hoàn và luân chuyển của vốn chậm chạp, kéo dài thời gian thu hồi vốn
cố định. Đồng thời nó cũng tạo ra sự cần thiết phải dự trữ đáng kể một lượng vốn lưu
động, dẫn tới vốn sản xuất nông nghiệp bị "ứ đọng" tương đối, làm giảm khả năng sinh lời
của đồng vốn. Yếu tố này tác động rất tiêu cực đến việc huy động vốn vào phát triển nông
nghiệp. Nếu như Nhà nước không có chính sách đầu tư vốn phù hợp với mùa vụ của từng
cây trồng, vật nuôi sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động vốn.
- Đất đai dùng vào sản xuất nông nghiệp cũng có ảnh hưởng lớn đến quá trình huy
động vốn. Trong điều kiện đất xấu, cần lượng vốn đầu tư lớn hơn đất tốt và ngược lại. Đặc
biệt là đối với ngoại thành Hà Nội và các vùng ven đô khác, do quá trình đô thị hóa, diện
tích đất canh tác nông nghiệp bị thu hẹp, để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp cần phải đầu
tư phát triển theo chiều sâu, lượng vốn đầu tư phải lớn. Đây cũng là yếu tố khách quan ảnh
hưởng tới vấn đề huy động vốn
1.2.3. Khả năng cung ứng của các nguồn vốn và trình độ phát triển của hệ
thống tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến huy động vốn
Như trên đã phân tích, nhu cầu vốn càng lớn càng phải tăng cường huy động tổng
lực các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư. Song, nhu cầu vốn được xây dựng theo kế
hoạch của dự án, mang tính chất chủ quan của con người. Trái lại, khả năng cung ứng vốn
của các nguồn trong thực tế lại có tính khách quan, quyết định qui mô, tốc độ tăng trưởng
của vốn. Trong trường hợp nhu cầu vốn lớn nhưng khả năng cung ứng từ các nguồn hạn
hẹp sẽ không đáp ứng được nhu cầu đầu tư. Trong trường hợp ngược lại, vốn sẽ bị "ứ
đọng" tương đối trong quá trình huy động.
Khả năng cung ứng của các nguồn vốn trong nước đều phụ thuộc vào tiềm năng và
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tiềm năng của quốc gia mạnh, khả năng
khai thác vốn sẽ lớn. Tuy nhiên, trong cùng một thời điểm không thể đưa toàn bộ vốn
(tiềm năng) vào sản xuất - kinh doanh hoặc chi dùng mà phải có kế hoạch huy động phù
hợp với tiến trình phát triển của đất nước trong mỗi thời kỳ, đảm bảo độ bền vững của tiềm
năng (có giới hạn) của quốc gia.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng có ảnh hưởng rất lớn đến
khả năng huy động vốn. Khi nền kinh tế - xã hội ở trình độ tiên tiến sẽ duy trì mức độ tăng
trưởng cao và ổn định, tích lũy nội bộ cao, huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế nói
chung, nông nghiệp nói riêng sẽ lớn. Hơn nữa, trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao sẽ có
một hệ thống tài chính phát triển tương ứng, càng có điều kiện thu hút tối đa nguồn vốn
nhàn rỗi để đầu tư phát triển. Trong trường hợp tiềm năng đất nước hạn hẹp, trình độ phát
triển kinh tế - xã hội thấp, khả năng tích lũy nội bộ không cao, hệ thống tài chính không
phát triển, sẽ rất khó khăn cho việc huy động vốn.
Tuy nhiên, khả năng cung ứng vốn của từng nguồn lại phụ thuộc vào những đặc
điểm riêng của chúng. Cụ thể là:
- Đối với nguồn vốn ngân sách: qui mô, tốc độ tăng giảm của chúng phụ thuộc lớn
vào việc thu - chi ngân sách nhà nước. Đến lượt mình, ngân sách nhà nước lại phụ thuộc
vào sự tăng trưởng của nền kinh tế, ở chính sách thu và chính sách chi của nhà nước.
- Đối với nguồn vốn của doanh nghiệp: khả năng cung ứng của nguồn này phụ
thuộc vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, ở chính sách thu của nhà nước, chính
sách phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. ở công ty cổ phần, chính sách phân phối lợi
nhuận của công ty thể hiện ở lợi tức cổ phần của công ty do Đại hội đồng cổ đông quyết
định. Đối với doanh nghiệp nhà nước, chính sách phân phối lợi nhuận do nhà nước qui
định.
Hiện nay ở nước ta, chính sách trực tiếp có liên quan đến phân phối lợi nhuận của
doanh nghiệp nhà nước là Nghị định 56/CP (đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động
công ích); Nghị định 59/CP (đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh) và
Nghị định 27/CP về sửa đổi bổ sung Nghị định 59/CP.
- Đối với nguồn tín dụng: khả năng cung ứng vốn phụ thuộc vào chính sách lãi
suất, chính sách thuế, cơ chế huy động, cho vay và xử lý rủi ro của nhà nước.
- Đối với nguồn vốn của dân cư: khả năng cung ứng phụ thuộc vào thu nhập của
dân cư, tập quán và xu hướng tiêu dùng, chính sách động viên của nhà nước. Trong trường
hợp thu nhập của dân cư cao (tính trên GDP), đời sống của họ ổn định và không ngừng
tăng lên sẽ tăng tỷ lệ tích lũy vốn. Phần tích lũy đó có thể đem đầu tư trực tiếp vào sản
xuất kinh doanh hoặc cho Chính phủ vay thông qua việc mua tín phiếu, trái phiếu của
chính phủ qua kho bạc của nhà nước, gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng v.v.. trong trường
hợp thu nhập của dân cư thấp, việc huy động vốn cho đầu tư phát triển sẽ gặp khó khăn.
Bên cạnh đó, xu hướng và tập quán tiêu dùng của các tầng lớp dân cư ở mỗi vùng có sự
khác nhau cũng ảnh hưởng đến việc huy động vốn. ở nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng
xa trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán lạc hậu, việc tiếp xúc với kinh tế hàng hóa
chậm... tích lũy vốn của họ thấp, có chăng thể hiện ở phần tài sản (nhà cửa, ruộng vườn...),
vàng bạc... việc huy động vốn gặp khó khăn. Trái lại, ở vùng đồng bằng, đô thị, khu công
nghiệp lớn sẽ thuận lợi hơn trong việc huy động vốn.
1.2.4. Chính sách của Nhà nước ảnh hưởng đến việc huy động vốn
Chính sách của nhà nước là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại trong
quá trình huy động vốn. Một chính sách đúng đắn, hợp lòng dân sẽ đem lại hiệu quả cao
trong huy động vốn, thúc đẩy nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng phát triển và
ngược lại, chính sách sai lầm, một cơ chế gò bó, không phù hợp với tiến trình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, không phù hợp với những qui ước và thông lệ quốc tế, trong
điều kiện kinh tế mở hiện nay sẽ rất khó khăn huy động vốn, thậm chí không thể huy động
được vốn.
Trên thực tế, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Do đó đã khơi dậy được sức người,
sức của ở nông thôn đầu tư phát triển sản xuất. Nhà nước chủ động dành nguồn ngân sách
nhà nước đầu tư cho bản thân ngành nông nghiệp và các ngành trực tiếp phục vụ phát triển
nông nghiệp. Đồng thời, Nhà nước còn tạo ra những cơ hội, biện pháp cụ thể (thông qua
chính sách lãi suất, chính sách giá cả, chính sách đầu tư, chính sách ruộng đất...) nhằm đẩy
mạnh việc huy động vốn trong và ngoài nước đầu tư phát triển nông nghiệp. Nhờ đó, nông
nghiệp nước ta nhiều năm qua đã tăng trưởng và phát triển, đời sống nhân dân ổn định, tạo
môi trường, điều kiện cho ổn định tình hình chính trị - xã hội.
1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc tạo vốn để phát triển nông
nghiệp
Lý luận và thực tiễn của các nước chỉ ra rằng, vốn là chìa khóa để phát triển nền
kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, trong điều kiện cụ thể của mình, mỗi
nước đều có cách thức khai thác, huy động riêng để có vốn đầu tư vào phát triển nông
nghiệp. Dưới đây là một số cách thức cụ thể:
- Tạo vốn thông qua nguồn ngân sách nhà nước, ở Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật
Bản trong giai đoạn đầu tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã lấy nông nghiệp làm
cơ sở để tích lũy vốn. Vì vậy, chiến lược của họ là tăng cường đầu tư vốn ngân sách nhà
nước để phát triển nông nghiệp. Chẳng hạn, ở Đài Loan, từ 1951 - 1955, vốn ngân sách
nhà nước đầu tư cho phát triển nông nghiệp chiếm 14% GDP và 78,4% tổng số vốn đầu tư
trong nông nghiệp. Vì vậy, sản xuất nông nghiệp của Đài Loan tăng trưởng nhanh và ổn
định trong thời gian khá dài. Trung bình tăng 5,2%/năm (1952 - 1960) và 4,2%/năm (thập
kỷ 60) [11, 47]. Sản xuất nông nghiệp phát triển, xuất khẩu nông sản tăng đã góp phần
nâng cao mức sống của nhân dân. Bình quân thu nhập của nông dân tăng 4,5% trong thập
kỷ 50 - 60. Việc tạo vốn để phát triển nông nghiệp thông qua chi ngân sách nhà nước ở Đài
Loan đã thúc đẩy nông nghiệp của nước này phát triển. Và chính nó lại tạo nguồn để tích
lũy vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy vậy, chiến lược phát
triển nông nghiệp không được nước này theo đuổi đến cùng. Việc tạo vốn để phát triển đất
nước thời gian sau đó của Đài Loan dựa hẳn vào vốn nước ngoài (Mỹ), đồng thời chuyển
hướng chiến lược phát triển kinh tế hướng ra xuất khẩu. Các nguồn lực để phát triển nông
nghiệp bị co hẹp, tăng trưởng nông nghiệp chững lại, nông dân phá sản, đời sống sa sút và
đó chính là ngòi nổ cho sự bất ổn về chính trị - xã hội (Hàn Quốc cũng là nước thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế kiểu Đài Loan). Do đó, công nghiệp hóa trên cơ sở hy sinh
nông nghiệp là bài học đắt giá cho tất cả các nước nông nghiệp khi tiến hành sự nghiệp
công nghiệp hóa.
- Tạo vốn thông qua giảm thuế sử dụng đất, giảm thuế doanh thu đối với hộ nông
dân. Nhiều nước đã coi việc giảm những loại thuế trên như là một khoản đầu tư mới cho nông
nghiệp. Đây là vấn đề tinh tế và nhạy cảm nhất đối với nông dân, góp phần tạo động lực giải
phóng mọi tiềm năng trong dân cư.
ở Indonexia qui định mỗi năm thu 0,5% -1% thuế tính trên sản lượng thu hoạch.
Đối với vùng quá xa, đất quá xấu sản lượng thu được chính phủ nước này không đánh
thuế. ở Thái Lan, trước đây đánh thuế gạo, sắn. Nay, tất cả các mặt hàng do nông dân sản
xuất ra đều được miễn thuế. Đặc biệt đối với mặt hàng gạo xuất khẩu, chính phủ Thái Lan
miễn thuế để tăng cường sức mạnh cạnh tranh của mặt hàng này trên thị trường khu vực và
thế giới rất có hiệu quả. ở Trung Quốc, trong nhiều năm thuế nông nghiệp được tính bằng
5% sản lượng thu nhập bình quân/năm [13, 21].
- Tạo vốn thông qua nguồn tín dụng: Đây là nguồn vốn được nhiều nước quan
tâm, huy động vào phát triển nông nghiệp.
ở Thái Lan, Nhà nước thành lập BAAC (Ngân hàng nông nghiệp và Hợp tác xã
nông nghiệp) thuộc Bộ Tài chính. Bộ trưởng bộ Tài chính là Chủ tịch Hội đồng quản trị
BAAC. Chính phủ Thái Lan có biện pháp tạo vốn cho BAAC hoạt động bằng cách chỉ đạo
cho các ngân hàng thương mại trợ cấp cho BAAC, cho vay không lấy lãi (thực tế lãi suất là
1% - 3%/năm nhưng do ngân sách trả). Ngân hàng trung ương cũng bảo lãnh cho BAAC
vay vốn nước ngoài, BAAC không phải ký quỹ bắt buộc (trong khi ngân hàng thương mại
phải ký quỹ từ 5% - 7%). Đồng thời, pháp luật còn quy định các ngân hàng thương mại
phải gửi 20% vốn hoạt động vào BAAC và hàng năm chính phủ Thái Lan có chỉ tiêu bắt
buộc cho các ngân hàng thương mại phải cho vay đối với nông nghiệp, nếu ngân hàng
thương mại không cho vay hết, số còn lại phải gửi vào BAAC [52, 53]. Vì vậy, BAAC đã có
chương trình đặc biệt cho nông dân vay tín dụng với mức lãi suất ưu đãi, có chính sách cho
vay tín dụng bằng hiện vật, vay vật tư theo giá rẻ, chất lượng tốt; thủ tục cho vay đơn giản
(75% số tiền cho vay đến hộ không phải thế chấp mà chỉ có cam kết). Năm 1990, BAAC đã
cho nông dân vay 1,3 tỷ USD với lãi suất thấp. ở Indonexia, Ngân hàng Rakyat (BRI) là cơ
quan tín dụng cho nông dân vay vốn phát triển nông nghiệp với lãi suất ưu đãi. Bên cạnh
đó, BRI còn cho vay để phát triển công nghiệp và dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn
[25, 114-115]. Đây cũng là bài học kinh nghiệm đối với các nước khi cho vay tín dụng - cho
vay để phát triển đồng bộ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ nông nghiệp, nông thôn.
ở nhiều nước như Bangladesh, Nepan, Philippin, Indonexia, Thái Lan không chỉ
chú ý cho vay tín dụng đối với những doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân kinh doanh giỏi trong
nông nghiệp mà còn đặc biệt chú ý đến các hộ nông dân nghèo, thiếu vốn sản xuất. ở đây đã
hình thành các tổ chức tín dụng cho người nghèo vay vốn với những ưu đãi về lãi suất, thủ
tục vay thuận tiện, linh hoạt, mềm dẻo đã thu hút được nhiều đối tượng vay, như: tín dụng
đầu tư nhỏ (KIK), tín dụng vốn luân chuyển nhỏ (KMKP), các hợp tác xã tín dụng nông
thôn v.v.. [25, 115]. Đặc biệt, Ngân hàng Gramen (Bangladesh) đã có nhiều kinh nghiệm
quý báu khi cho nông dân tiếp cận nguồn tín dụng, như: tín dụng phải đến tay người
nghèo; có điều kiện vay thích hợp; thủ tục đơn giản, hướng dẫn chu đáo; lập các nhóm
những người nghèo có khả năng vay nợ; cho phép người vay nợ tự lựa chọn hình thức tín
dụng trong chế độ cho vay của ngân hàng; vay nợ nhỏ và trả dần từng tuần; cho các thành
viên trong mỗi nhóm vay lệch nhau về thời gian; có sự giám sát chặt chẽ; tiến hành công khai
mọi giao dịch; quản lý tập trung, thống nhất nhưng không quan liêu, kiên trì mục tiêu nhất
quán cấp tín dụng cho người nghèo... [54, 14-19].
Hiện nay, vấn đề tín dụng nông nghiệp, nông thôn ở các nước đang phát triển còn
có những ý kiến đánh giá khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau, như: tín dụng ưu đãi chỉ
đến được với hộ khá - giàu; tín dụng ưu đãi nảy sinh tiêu cực, đe dọa chính bản thân sự tồn
tại của các thể chế tài chính hoạt động dựa vào nguồn tín dụng này v.v... [20, 15]. Song,
những gì tín dụng nông thôn làm được đã, đang từng bước góp phần xóa đói, giảm nghèo
và làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp, nông thôn ở các nước đang phát triển. Vì vậy cần
thận trọng trong mỗi quyết định khi mở rộng hay thu hẹp loại hình tín dụng nông thôn.
Chương 2
Thực trạng huy động vốn
để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội
2.1. Điều kiện tự nhiên, xã hội và tình hình phát triển nông nghiệp ngoại
thành Hà Nội thời gian qua
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, xã hội
- Về địa lý: Thành phố Hà Nội là Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, nằm ở vị trí trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, trong khoảng tọa độ địa lý từ 20054’ đến
20022’ vĩ độ Bắc và từ 105042’ đến 106000’ kinh độ Đông. Hà Nội có 5 huyện ngoại
thành: Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì và Từ Liêm; với 118 xã, 8 thị trấn; diện
tích là 844,61 km2, chiếm 90,86% diện tích toàn thành phố [36].
Hà Nội là trung tâm đầu não về chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, đồng thời
là một trung tâm lớn về kinh tế, trung tâm giao dịch quốc tế của cả nước [56, 14], với hàng
ngàn cơ quan, trụ sở thương mại và nhiều trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu... Từ
Hà Nội có thể đi khắp mọi miền trong và ngoài nước bằng hệ thống giao thông thuận lợi cả
về đường ô tô, sắt, thủy và hàng không. Đây là yếu tố đảm bảo gắn bó chặt chẽ Hà Nội với
tất cả các vùng, miền khác. Đồng thời, chính nó lại tạo điều kiện thuận lợi cho Hà Nội tiếp
cận nhanh các thông tin, thành tựu mới về khoa học - công nghệ trên thế giới, đẩy mạnh
quá trình phân công, hợp tác quốc tế trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa. Sự tăng
trưởng và phát triển của Thủ đô Hà Nội nói chung, ngoại thành nói riêng sẽ có tác động
như là đầu tàu lôi kéo các vùng trong cả nước phát triển.
- Về khí hậu: Hà Nội mang tính khí hậu của đồng bằng sông Hồng: nhiệt đới, gió
mùa; chia thành 2 mùa rõ rệt: mùa nóng và mùa lạnh. Nhiệt độ trung bình là 240C. Do địa
hình phức tạp, cùng với hệ thống thủy lợi chưa hoàn chỉnh nên một số nơi ngoại thành, đặc
biệt là Sóc Sơn thường bị khô hạn từ tháng 1 đến tháng 3; Đông Anh, Thanh Trì thường bị
ngập úng vào mùa mưa.
- Về tài nguyên đất đai: Ngoại thành Hà Nội có 88.017 ha đất đai tự nhiên. Trong
đó có 43.200 ha đất nông nghiệp, bao gồm 38.900 ha đất canh tác, 3.000 ha mặt nước lớn,
8.000 ha gò đồi, 1.900 ha đất trồng cây ăn quả và 300 ha trồng hoa, cây cảnh. Bình quân
đất nông nghiệp trên đầu người đạt 0,53 ha/nhân khẩu và chỉ bằng 46,4% bình quân đất nông
nghiệp của cả nước, bằng 86,3% bình quân đất nông nghiệp đồng bằng sông Hồng. Và, nếu so
sánh với các nước trong khối ASEAN, sự chênh lệch đó càng lớn (xem phụ lục 1).
Đất đai Hà Nội có nguồn gốc là phù sa, một phần vẫn tiếp tục được phù sa bồi đắp
nên diện tích đất được mở rộng. Nhìn chung, đất đai Hà Nội tốt, phù hợp với việc gieo
trồng các loại cây lương thực, thực phẩm có giá trị kinh tế cao... Riêng huyện Sóc Sơn có
vùng gò đồi, tầng canh tác đất mỏng rất thích hợp cho việc trồng rừng, cây ăn quả, một số
cây công nghiệp ngắn ngày... thuận lợi cho loại hình kinh tế trang trại phát triển.
- Về nguồn lao động: ngoại thành Hà Nội có nguồn lao động đã qua đào tạo cao
hơn các vùng, miền khác trong cả nước.
Biểu 3: Tỷ trọng qua đào tạo ở Hà Nội so với cả nước
Đơn vị tính: %
Trình độ đào tạo So với
cả nước
So với đồng bằng
Sông Hồng
So với địa bàn
trọng điểm Bắc Bộ
- Trên Đại học
- Cao đẳng, Đại học
- Trung cấp
68,6
17,6
8,4
90,1
50,4
34,5
94,7
66,1
44,8
Nguồn: Báo cáo qui hoạch tổng thể kinh tế - xã hội đến năm 2010 của Thành phố
Hà Nội, tháng 12/1994 [3, 21]
Đây là nguồn lao động tốt, thúc đẩy kinh tế Thủ đô phát triển. Tuy vậy, lao động ở
nông thôn ngoại thành tỷ lệ qua đào tạo vẫn thấp. Qua số liệu điều tra 542.856 người ở
ngoại thành, có tới 443.815 người không có chuyên môn kỹ thuật, chiếm 81,51%; 19.154
người có trình độ trung học chuyên nghiệp, chiếm 3,52%; 10.978 người có trình độ cao
đẳng và đại học, chiếm 2,02%; 700 người có trình độ trên đại học. Trong đó, số người được
đào tạo cho ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ nông thôn chiếm tỷ trọng thấp [48,
11].
- Về cơ sở hạ tầng: Hiện nay toàn bộ 118 xã ngoại thành Hà Nội đều có điện, với
13 trạm điện trung gian, công suất 20.000 KVA; 630 trạm hạ thế và gần 350 km đường
dây cao thế [3, 11]. Hệ thống giao thông, thủy lợi, mạng thông tin liên lạc phát triển hơn so
với các vùng khác trong cả nước, thuận lợi cho lưu chuyển hàng hóa, tiếp thu nhanh những
thông tin về thời tiết, giá cả thị trường...
Những điều kiện tự nhiên - xã hội trên tác động trực tiếp đến tình hình phát triển
kinh tế Thủ đô nói chung, nông nghiệp ngoại thành nói riêng.
2.1.2. Tình hình phát triển nông nghiệp ngoại thành thời gian qua
Trong những năm đổi mới, nền kinh tế Thủ đô phát triển mạnh theo hướng lấy
công nghiệp - xây dựng làm chủ đạo; ngành thương mại - dịch vụ làm mũi nhọn đột phá
(xem phụ lục 2). Song, không vì thế mà thành phố coi nhẹ phát triển ngành nông nghiệp.
Bởi lẽ, nông nghiệp ngoại thành là nguồn cung cấp cho nội thành lương thực, thực phẩm
có giá trị cao, như: thịt, trứng, sữa, rau quả, cá tươi, hoa cây cảnh,... đồng thời nông nghiệp
ngoại thành còn tạo lập một vành đai xanh, hình thành "lá phổi" cho thành phố. Bộ Chính
trị đã nhận định: "Nông nghiệp ngoại thành có tiềm năng lớn, cần chuyển mạnh sang sản
xuất hàng hóa, trồng trọt và chăn nuôi theo qui mô lớn; sản xuất ra các sản phẩm rau sạch
có chất lượng để phục vụ nhu cầu ngày càng cao của nhân dân Thủ đô, khách trong và
ngoài nước" [56, 28].
Trên thực tế, so với các ngành kinh tế khác, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu
kinh tế Thủ đô từ những năm 90 trở lại đây chỉ khiêm tốn ở mức 1 con số và có xu hướng
giảm dần (do bị chi phối bởi yêu cầu, nhiệm vụ và thế mạnh của Thủ đô). Song, tốc độ
tăng trưởng của nông nghiệp ngoại thành Hà Nội luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng bình
quân của cả nước.
Biểu 4: Tốc độ tăng trưởng và cơ cấu ngành nông, lâm, thủy sản
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998
A. Tốc độ tăng trưởng (giá so sánh):
- Cả nước (%)/năm [28,13].
- Hà Nội [36]
B. Cơ cấu ngành nông, lâm, thủy sản
trong GDP (giá thực tế):
- Cả nước [28, 13]
- Hà Nội [36]
4,8
5,35
27,2
5,7
4,4
6,42
27,8
5,1
4,3
6,53
25,8
4,7
2,7
3,36
26,0
4,3
Năm 1997, nông nghiệp Hà Nội tạo ra giá trị sản lượng bằng 1.459 tỷ đồng, bình
quân khoảng 33 triệu đồng/ha, tương đương 3.027 USD/ha. Đồng thời, giá trị gia tăng
nông nghiệp đạt 912,7 tỷ đồng, tương đương 1.891 USD/ha. Chỉ tiêu này của cả nước năm
1997 là 13 triệu đồng/ha, tương đương 1.209 USD/ha và 10,5 triệu đồng giá trị gia tăng,
tương đương 955 USD/ha [2]. Như vậy, hiệu quả của nông nghiệp Hà Nội cao gấp 2 lần so
với mức trung bình của cả nước (xem phụ lục 3).
Hiện nay, nông nghiệp ngoại thành Hà Nội đã và đang chuyển đổi mạnh sang sản
xuất hàng hóa, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có chất lượng và giá trị cao; chuyển
đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, phát
huy ngành nghề truyền thống. Song, nông nghiệp vẫn là ngành giữ vị trí chủ đạo trong cơ
cấu kinh tế nông thôn [63]. Cụ thể là:
- Về trồng trọt: Diện tích gieo trồng hàng năm từ 86.000 ha - 87.700 ha. Năm
1998, diện tích gieo trồng tăng 0,9%.
+ Cây lúa: từ khi thực hiện đường lối đổi mới, diện tích đất trồng lúa giảm dần.
Từ 1996 - 1998, diện tích trồng lúa đạt 54.449 ha, giảm 2000 ha so với 1995. Nguyên nhân
của tình hình này, một mặt, do chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, như: vùng gò đồi
Sóc Sơn chuyển sang trồng rừng, trồng cây ăn quả; vùng Thanh Trì, Đông Anh chuyển
sang trồng màu, một lúa - một cá hoặc chuyên cá. Mặt khác, do phải dành đất để thực hiện
đô thị hóa, hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, mở rộng đường giao thông...
Năng suất lúa của ngoại thành chỉ đạt 34,4 - 37 tạ/ha, thấp hơn trung bình cả nước (39
tạ/ha), thấp hơn nhiều so với đồng bằng Bắc bộ (48 tạ/ha). Năng suất và sản lượng lúa
thường không ổn định.
+ Cây ngô: diện tích cây ngô tăng đều. Bình quân giai đoạn 1996 - 1998 là 11.675 ha,
tăng 2000 ha so với năm 1995. Năng suất cây ngô cũng không ổn định, thường dao động
từ 22,6 tạ - 31 tạ/ha. Mặc dù diện tích ngô lai đạt tỷ trọng 75% - 80% nhưng do đầu tư thấp
nên năng suất ngô lai không cao. Sản lượng bình quân 1996 - 1998 là 33.070 tấn, tăng 11.255
tấn so với năm 1995.
+ Cây khoai tây: Diện tích cây khoai tây giảm. Năm 1998 có 1010 ha, chỉ bằng
56% so với năm 1995. Năng suất thấp 77,6 tạ/ha, sản lượng đạt 7.838 tấn, chỉ bằng 53,4%
năm 1995.
+ Cây khoai lang: do hiệu quả kinh tế không cao, nông dân chuyển diện tích trồng
cây khoai lang sang trồng màu: rau, đậu tương, lạc,...
Nhìn chung, các loại cây lương thực cho năng suất thấp, diện tích gieo trồng suy
giảm. Do đó, lương thực quy thóc sản xuất ra hàng năm không ổn định. Hiện nay, sản xuất
lương thực của ngoại thành chỉ đáp ứng được 40% - 50% nhu cầu tiêu dùng của Thủ đô.
Số còn lại phải nhập từ tỉnh ngoài (xem phụ lục 4).
+ Cây rau: Là nhóm cây có chủng loại phong phú, giá trị kinh tế cao, cung cấp
thực phẩm cho dân cư phi nông nghiệp, làm nguyên liệu chế biến và có xu hướng xuất
khẩu. Đây là thế mạnh của nền nông nghiệp đô thị. Hiện nay, cây rau phát triển ổn định,
vững chắc trên 7000 ha, tăng 2000 ha so với năm 1995. Năng suất cây rau đạt 145 - 169
tạ/ha. Sản lượng năm 1998 đạt 125.825 tấn, tăng 30.730 tấn so với năm 1995. Hiện nay,
cây rau đã đáp ứng được 75% - 80% nhu cầu tiêu dùng của Thủ đô.
+ Cây công nghiệp ngắn ngày: Diện tích gieo trồng khoảng 6000 - 7000 ha, có
khả năng mở rộng thêm. Loại cây trồng nhiều nhất là dâu tằm, cho hiệu quả kinh tế cao, sử
dụng nhiều lao động, góp phần giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn.
+ Cây lạc: Diện tích gieo trồng khoảng 3200 ha - 3800 ha. Trồng tập trung ở Sóc
Sơn, Đông Anh. Năng suất bình quân đạt 10 tạ/ha. Sản lượng đạt trên 3000 tấn. Nếu được
tháo gỡ về thị trường tiêu thụ, diện tích gieo trồng sẽ mở rộng thêm.
+ Cây ăn quả: Diện tích gieo trồng 2000 ha. Trong đó, 1518 ha đang cho thu
hoạch, chiếm 77,8% diện tích. Đây là loại cây thế mạnh của ngoại thành Hà Nội. Diện tích
cây ăn quả luôn có xu hướng mở rộng theo hướng phát triển trang trại, với các cây chủ lực:
cam Canh, bưởi Diễn, hồng xiêm Xuân Đỉnh, na dai, đu đủ, nhãn, vải... Tuy vậy, sản
lượng các loại cây này mới đáp ứng được 10% nhu cầu tiêu dùng của Thủ đô.
+ Hoa, cây cảnh: Trong vài năm trở lại đây, diện tích trồng hoa, cây cảnh tăng
nhanh do nhu cầu của thị trường. Diện tích gieo trồng đạt 1065 ha, tăng gấp 10 lần so với
năm 1991. Tuy nhiên, chất lượng hoa, cây cảnh còn thấp, mới đáp ứng tiêu dùng nội địa.
Nếu không nâng cao về mặt phẩm cấp, chất lượng để xuất khẩu mặt hàng này, việc mở
rộng thêm nữa diện tích hoa, cây cảnh sẽ không tiêu thụ được.
Nhìn tổng thể, ngành trồng trọt ngoại thành chuyển dịch theo xu hướng mở rộng
diện tích trồng các loại cây có năng suất, chất lượng và giá trị kinh tế cao; từng bước thâm
canh, xen canh, gối vụ để tăng hiệu quả sử dụng đất trên 1 ha đất canh tác. Tuy nhiên, do
thiếu vốn đầu tư, chưa mở rộng được thị trường tiêu thụ nông sản nên ngành trồng trọt vẫn
chưa thực sự phát triển.
- Về chăn nuôi, thủy sản: Cơ cấu giá trị sản xuất chăn nuôi ngoại thành Hà Nội
chiếm từ 37% - 38% trong tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, cao gần gấp 2 lần bình
quân chung cả nước. Trong đó:
+ Chăn nuôi lợn: Giai đoạn 1991 - 1999 tăng 230.000 - 260.000 con. Sản lượng
thịt hơi tăng 5% - 7%. Trọng lượng xuất chuồng tăng từ 70 kg lên 100kg. Đàn lợn có tỷ lệ
nạc cao từ 25% - 45% trong tổng đàn.
+ Đàn bò thịt, bò sữa: Từ 1990 - 1995 tăng nhanh từ 196 con lên 1.500 con.
Lượng sữa tăng gấp 10 lần. Năm 1996 đàn bò sữa giảm do chưa có cơ sở thu gom để đưa vào
chế biến. Nhưng từ 1997, tổng đàn bò sữa lại tăng lên.
+ Đàn gia cầm: Đạt 2,6 triệu con, tốc độ tăng bình quân năm 16%; sản lượng gia
cầm đạt 7.600 tấn, tăng 86% so với 1990; tốc độ tăng bình quân từ 12% - 22%/năm.
+ Diện tích nuôi cá: Hàng năm từ 2.800 - 3.100 ha, sản lượng tăng lên từ 5000 -
7000 tấn. Năng suất, chất lượng cá tăng lên rõ rệt từ 25% lên 45%. Đặc biệt nông dân nuôi
nhiều giống cá ngon, như: Rhohu, Mrigan, tôm càng xanh, cá chép Hung...
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt và chăn nuôi sang hướng sản xuất
hàng hóa là rõ rệt. Các giống mới có chất lượng và giá trị kinh tế cao được chú ý mở rộng
[59, 2]. Trong nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân đang phát triển theo xu hướng hình thành
trang trại. Hiện nay ở Hà Nội có trên 1000 trang trại, với 3 mô hình chủ yếu: 1) Chăn nuôi
- trồng trọt;
2) Chăn nuôi - trồng trọt - thủy sản; 3) Chăn nuôi - thủy sản. Giá trị sản lượng bình quân 1
trang trại đạt 187,8 triệu đồng/năm. Trong đó, giá trị chăn nuôi chiếm 63,4%; thủy sản
13,6% và trồng trọt 6,5%. Bình quân thu nhập 49,3 triệu đồng/hộ/năm và 8,4 triệu
đồng/khẩu/năm.
Nhìn chung, nông nghiệp ngoại thành đang dịch chuyển theo hướng sản xuất hàng
hóa. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp tăng nhanh nhưng không đều ở các ngành: nhanh
nhất là chăn nuôi 9,8%, tiếp đến là thủy sản 6,9%, trồng trọt chỉ có 3,1%, lâm nghiệp có xu
hướng giảm [2].
2.2. Thực trạng huy động vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội
Khai thác, huy động có hiệu quả các nguồn vốn phục vụ đầu tư phát triển kinh tế -
xã hội là một trong nhiều mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội đặt ra và chỉ
đạo thực hiện trong nhiều năm qua. Nhất là trong tình hình kinh tế - xã hội như hiện nay:
tốc độ tăng trưởng kinh tế bị suy giảm; đời sống của nhân dân Thủ đô chưa cao; sự tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á chưa hoàn toàn được khắc phục; khả
năng "hút" vốn từ nước ngoài gặp nhiều trở ngại... thì vấn đề khai thác, huy động các
nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô nói chung, nông
nghiệp ngoại thành nói riêng là cấp bách.
2.2.1. Thực trạng huy động vốn thông qua nguồn ngân sách nhà nước để phát
triển nông nghiệp ngoại thành
Huy động vốn ngân sách nhà nước để phát triển nông nghiệp đóng vai trò rất quan
trọng. Nó tạo ra "cú hích" ban đầu cho nông nghiệp phát triển. Trong những năm đổi mới,
nguồn vốn huy động vào ngân sách nhà nước trên địa bàn thành phố tăng lên không
ngừng. Đó là điều kiện đảm bảo vững chắc cho việc huy động nguồn vốn này vào phát
triển nông nghiệp ngoại thành.
- Từ năm 1990 - 1995, vốn đầu tư của ngân sách nhà nước (theo hạng mục xây
dựng cơ bản) vào nông nghiệp đạt 95.366 triệu đồng. Trong đó, đầu tư cho doanh nghiệp
nông nghiệp quốc doanh là 7,9%; cho ngoại thành là 92,1%. Đó là sự ưu tiên lớn đối với
nông nghiệp, nông thôn ngoại thành. Nhất là, từ khi thực hiện Chương trình 06/TU-CT của
Thành ủy Hà Nội về phát triển kinh tế ngoại thành, vốn đầu tư của ngân sách nhà nước cho
nông nghiệp được cải thiện rõ rệt: mức vốn đầu tư năm 1992 tăng lên 5,5 lần so với 1991,
năm 1994 tăng 1,84 lần so với năm 1993. Mức vốn đầu tư của ngân sách nhà nước tăng,
cùng với việc huy động nguồn vốn trong dân của các huyện ngoại thành đã xây dựng được
một số công trình hạ tầng cơ sở phục vụ nông nghiệp như: thủy lợi, giao thông, mạng lưới
điện... đến năm 1995, ngoại thành có 126 trạm biến thế điện, 148 trạm bơm nước, 7.489
máy bơm nước, 1.216 máy kéo lớn nhỏ, 227 máy tuốt lúa. Bình quân 100 nông hộ có 0,03
máy kéo lớn, 0,49 máy kéo nhỏ; 3,9 máy bơm nước; 0,93 máy tuốt lúa và hầu hết các nông
hộ đều có bình bơm thuốc trừ sâu [55, 11].
Nhìn chung ở giai đoạn này, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông nghiệp ngoại
thành là khá hơn các năm trước. Hệ thống dịch vụ quốc doanh như: dịch vụ giống cây
trồng, gia súc, gia cầm; dịch vụ vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu...)... đã từng
bước phát huy khả năng của mình. Tuy nhiên, mức huy động vốn ngân sách nhà nước cho
nông nghiệp giai đoạn 1990 - 1995 còn thấp, chỉ chiếm 3,82% tổng vốn ngân sách đầu tư
xây dựng cơ bản toàn thành phố. Do đó, nhiều hạng mục cần thiết phải đầu tư để đẩy mạnh
công nghiệp hóa nông nghiệp như: chế biến thức ăn gia súc, gia cầm; chế biến nông sản
(thịt, rau quả...); phát triển công nghệ sinh học trình độ cao để nhân giống cây trồng, vật
nuôi; công nghiệp hóa ngành chăn nuôi; cơ khí hóa một số khâu canh tác... chưa được chú
ý đầu tư. Những hạn chế đó ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng phát triển nền nông nghiệp
Thủ đô.
- Từ 1996 - 2000: Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XII
về phương hướng, nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn Hà Nội; kế hoạch 05/TU-
KH của Thành ủy về việc tiếp tục thực hiện chương trình phát triển kinh tế ngoại thành và
xây dựng nông thôn mới, vốn đầu tư huy động qua ngân sách nhà nước để phát triển nông
nghiệp tăng lên rõ rệt. Tổng vốn ngân sách nhà nước cho kinh tế ngoại thành đạt 468.007
triệu đồng, gấp hơn 4 lần thời kỳ 1990 - 1995. Bình quân mỗi năm huy động được
93.601,4 triệu đồng, bằng 8,3%/năm và gấp 1,5 lần so với năm 1995. Riêng vốn đầu tư xây
dựng cơ bản của thành phố, bình quân mỗi năm đầu tư 59.240,8 triệu đồng, gấp 1,8 lần so
với mức đầu tư của năm 1995. Tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn ngoại thành
trong tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của thành phố bình quân đạt 14%, tăng 1,3% so với
năm 1995. Trong 2 năm (1999 - 2000) tỷ trọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 18% - 19%.
Bên cạnh đó, vốn đầu tư cân đối qua ngân sách huyện tăng khá. Tổng vốn đầu tư trong 5 năm
(1995 - 2000) đạt 171.803 triệu đồng, bình quân mỗi năm huy động ngân sách huyện cho
nông nghiệp đạt 34.360,6 triệu đồng/năm [61, 1].
Số vốn huy động từ nguồn ngân sách được đầu tư vào các lĩnh vực chủ yếu sau:
+ Đầu tư cho trạm trại nông, lâm nghiệp: Tổng vốn huy động đạt 25.759 triệu
đồng, bình quân đầu tư 5.152 triệu đồng/năm. Số vốn trên dùng vào việc cải tạo, nâng cấp
hệ thống giống cây trồng, vật nuôi (giống lợn nạc, gà siêu thịt, bò sữa, thủy sản, ngô, lúa,
hoa quả và rau các loại). Kết quả, đã hình thành được các cơ sở giống: trại lợn giống Cầu
Diễn, trại gà giống Phúc Thịnh, Trung tâm kỹ thuật rau quả, trại lúa Phú Diễn, Trung tâm
giống thủy sản Hà Nội... Hàng năm các trung tâm trên đã cung cấp 2.000 lợn giống hậu bị,
5 triệu gà giống, 300 tấn giống lúa cấp I, 90 - 100 bò giống, 0,5 triệu giống cây ăn quả
v.v.., góp phần nâng cao năng suất, chất lượng nông phẩm hàng hóa. Đáng chú ý là, trong
những năm qua thành phố chỉ đạo tập trung phát triển chăn nuôi bò sữa. Số vốn huy động
để xây dựng cơ sở sản xuất giống bò khá lớn, từ 1996 - 1998 đầu tư khoảng 4.562 triệu
đồng vào dây chuyền sản xuất sữa, với qui mô 700 - 800 tấn sữa/năm. Bên cạnh đó, ngân
sách nhà nước còn được huy động để đầu tư cho cơ sở mua gom sữa tươi tại trạm Cầu
Diễn (Từ Liêm), Vĩnh Ngọc (Đông Anh), Phù Đổng, Dương Hà (Gia Lâm) khoảng 600
triệu đồng. Năng lực thu gom, bảo quản sữa tại các trạm trên bảo đảm 500 - 600 tấn/năm
[58, 2].
+ Huy động vốn ngân sách nhà nước vào phát triển lâm nghiệp: Tổng vốn đầu tư
trong 5 năm từ chương trình 327, chương trình 5 triệu ha rừng đạt 13.321 triệu đồng. Bình
quân mỗi năm huy động 2.664,2 triệu đồng. Số vốn này chủ yếu đầu tư vào việc bảo vệ rừng
hiện có, trồng và chăm sóc rừng phòng hộ, rừng đặc dụng Sóc Sơn. Trong 5 năm trồng mới
2.360 ha rừng và cây xanh, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc ở Sóc Sơn và tăng tỷ lệ cây xanh cho
thành phố; trồng mới trên 1.000 ha cây ăn quả, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế vùng gò,
đồi.
+ Huy động vốn ngân sách nhà nước vào phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ nông
nghiệp ngoại thành. Đây là lĩnh vực đòi hỏi quy mô vốn lớn, nông dân không có khả năng
đầu tư, thu hồi vốn chậm... Thành phố quyết định tăng mức vốn ngân sách cho xây dựng
kết cấu hạ tầng nông nghiệp, bao gồm: đầu tư cho thủy lợi; tu bổ đê điều; cải tạo, nâng cấp
và xây dựng giao thông nông thôn; xây dựng mạng lưới điện.
Trong 5 năm tổng vốn huy động để xây dựng công trình thủy lợi đạt 102.226 triệu
đồng. Bình quân mỗi năm đầu tư 20.445 triệu đồng. Kết quả đã cải tạo và xây dựng mới 16
trạm bơm tưới tiêu đầu mối, 4 hồ chứa nước, trên 100 km kênh mương được kiên cố hóa,
góp phần tăng diện tích tưới thêm 2500 ha, tiêu thêm 1000 ha; đảm bảo chủ động tưới cho
80% diện tích trồng trọt và tiêu chủ động cho 65% - 70% diện tích thường bị úng vào mùa
mưa. Bên cạnh đó, vốn ngân sách đầu tư tu bổ đê điều đạt 73.766 triệu đồng, bình quân mỗi
năm huy động được 14.753 triệu đồng. Số vốn trên đã tập trung vào đắp đê, làm kè, tôn cao
và cứng hóa mặt đê, đảm bảo an toàn đê điều trong mùa mưa lũ, cải thiện cảnh quan, môi
trường cũng như điều kiện đi lại trên mặt đê.
Vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho giao thông ngoại thành đạt khá. Từ 1996 -
2000 huy động được 161.070 triệu đồng, bình quân mỗi năm huy động 32.214 triệu đồng
vào phát triển giao thông nông thôn. Số vốn trên tập trung đầu tư cải tạo, nâng cấp đường
liên xã và hỗ trợ một phần đường liên thôn (phần vốn sự nghiệp giao thông cân đối qua
ngân sách huyện). Kết quả đã cải tạo, nâng cấp được 112 km đường liên xã, hỗ trợ xây
dựng trên 200km đường bê tông cấp phối.
Vốn ngân sách còn dành để cải tạo, nâng cấp và xây dựng hệ thống điện ngoại
thành. Từ 1996 - 2000 đã huy động được 8.740 triệu đồng vốn ngân sách vào phát triển hệ
thống điện. Kết quả 100% số xã trên địa bàn Hà Nội có điện, tiếp tục cải tạo, nâng cấp hệ
thống đường điện hiện có, phấn đấu hạ giá điện năng tiêu thụ ở nông thôn xuống dưới
700đ/Kwh [61, 3].
Nhìn chung, việc huy động vốn qua hệ thống ngân sách để phát triển nông nghiệp
đã có tác động tích cực không những đến bản thân ngành nông nghiệp mà còn có ảnh
hưởng tốt đến khả năng phát triển toàn bộ nền kinh tế ngoại thành, góp phần đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, vốn ngân sách nhà nước còn
đầu tư dàn trải ở nhiều công trình, chủ yếu là hạ tầng cơ sở phục vụ nông nghiệp mà chưa chú
trọng đầu tư cho sản xuất nhất là công nghiệp chế biến, mở rộng mạng lưới tiêu thụ nông
sản.
2.2.2. Thực trạng huy động vốn tín dụng nhà nước để phát triển nông nghiệp
ngoại thành
Trong nền kinh tế thị trường, vốn tín dụng là nguồn vốn quan trọng, lâu dài cung
cấp vốn cho mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nói
riêng. Xác định rõ tầm quan trọng của nguồn vốn tín dụng, Thành ủy cũng như ngành ngân
hàng Thành phố đã có nhiều giải pháp đồng bộ nhằm đẩy mạnh công tác huy động vốn tín
dụng qua hệ thống ngân hàng trên địa bàn Thủ đô, bao gồm: các ngân hàng thương mại
(Ngân hàng Đầu tư và phát triển, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển nông thôn...); Ngân hàng người nghèo, Quỹ tín dụng nhân dân. Do đó tốc độ
tăng trưởng nguồn tín dụng khá cao. Năm 1991 huy động được 1.191 tỷ đồng; 1992 là
1.681 tỷ đồng; 1993 là 2.897 tỷ đồng; 1994 là 5.671 tỷ đồng [4, 6]. Từ năm 1996 - 1998,
vốn huy động trực tiếp từ các tổ chức tín dụng khá lớn. Đến cuối năm 1998 đạt 40.318 tỷ
đồng, tăng 84,52% so với năm 1995. Riêng 6 tháng đầu năm 1999, số dư huy động đạt
43.700 tỷ đồng, tăng 8,5% so với cuối năm 1998 [19, 11]. Như vậy, tổng nguồn tín dụng
tăng là điều kiện quyết định để huy động vốn tín dụng vào phát triển nông nghiệp.
Trong hệ thống ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn Việt Nam là ngân hàng chủ lực trong huy động và cho vay tín dụng đối với các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Từ năm 1997 - 1999, ngân
hàng này đã huy động được lượng vốn khá lớn của các huyện ngoại thành phục vụ phát
triển nông nghiệp.
Biểu 5: Tình hình huy động vốn của hệ thống ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn Việt Nam trên địa bàn Hà Nội
Đơn vị: Tỷ đồng
1997 1998 1999
Toàn thành phố
- Từ Liêm
- Thanh Trì
- Gia Lâm
- Đông Anh
- Sóc Sơn
1.353,9
187,2
121,4
118,7
107,1
110,1
1.948,0
248,7
146,9
147,1
160,8
115,5
2.036,9
311,1
178,4
176,6
205,3
149,5
Nguồn: Số liệu thống kê của khối kinh tế - kế hoạch, Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam, Hà Nội, tháng 6/2000 [44].
Như vậy, tốc độ tăng trưởng tín dụng từ hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn toàn thành phố tăng lên khá nhanh. Năm 1997 chỉ huy động được 1.353,9
tỷ đồng, đến năm 1998 tăng lên 1.948 tỷ đồng và năm 1999 đạt 2.036,9 tỷ. Cụ thể, vốn huy
động từ các huyện tăng khá nhanh, nhanh nhất là huyện Từ Liêm, tiếp đến là huyện Đông
Anh, đến Thanh Trì, Gia Lâm và cuối cùng là Sóc Sơn. Tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh
góp phần thúc đẩy việc huy động vốn để đầu tư phát triển nông nghiệp ngoại thành.
Để thấy rõ hơn tình hình huy động vốn để phát triển nông nghiệp, có thể xem xét
tình hình cho vay của một số ngân hàng ngoại thành.
Biểu 6: Tình hình cho hộ nông dân vay vốn tín dụng
của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn;
Ngân hàng người nghèo 5 huyện ngoại thành Hà Nội
Chỉ tiêu Đ.V
tính
1992 1995 1996 1997 1998
1. Tổng số tiền cho
vay
2. Tổng số lượt hộ vay
a. Vay ngắn hạn
- Số tiền
- Số hộ vay
b. Vay trung hạn
- Số tiền
- Số hộ vay
c. Vay dài hạn
- Số tiền
- Số hộ vay
Tỷ đồng
Lượt hộ
Tỷ đồng
Lượt hộ
Tỷ đồng
Lượt hộ
Tỷ đồng
Lượt hộ
1,671
2.868
-
-
-
-
-
-
288,51
9
28.606
246,58
4
24.900
41,721
3.748
0
0
310,55
6
32.909
263,18
8
27.849
45,320
4.033
0
0
217,97
4
25.522
134,54
1
19.351
47,547
5.011
0
0
267,94
4
29.052
209,73
0
22.770
58,630
6.288
0
0
Nguồn: Báo cáo khoa học đề tài: "Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp đầu
tư, quản lý, sử dụng vốn vay cho sản xuất của Nhà nước đối với hộ nông dân ở Hà Nội. Hà
Nội 2000 [60, 26].
Như vậy, giai đoạn từ 1992 - 1996, vốn huy động vào phát triển nông nghiệp
(thông qua việc cho hộ nông dân vay) đã tăng lên rõ rệt. Nếu như năm 1992 chỉ huy động
được 1,671 tỷ đồng vào phát triển nông nghiệp, với số hộ được vay là 2.868 hộ thì đến
năm 1995 đã tăng lên 288,519 tỷ đồng, với 28.606 lượt hộ vay. Năm 1996 đạt cao nhất
310,556 tỷ đồng, với 32.909 lượt hộ vay. Với số vốn trên đã góp phần giải quyết tình trạng
thiếu vốn sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, từ 1997 - 1998 lượng vốn vay có xu hướng
giảm do tác động của thiên tai, của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, do thị
trường nông sản bị thu hẹp... Song, sự giảm sút đó là không lớn và có tính tạm thời. Trên
thực tế, hộ nông dân vẫn luôn có nhu cầu vay vốn để đầu tư vào sản xuất, kinh doanh nông
nghiệp.
Qua số liệu điều tra thực tế của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội, vốn vay ngắn hạn tập trung chủ yếu vào chăn nuôi gia cầm, trồng rau, hoa các
loại. Vốn vay trung hạn nông dân sử dụng vào chăn nuôi cá, bò sữa, trồng cây ăn quả lâu
năm.
Nhìn tổng thể, vốn tín dụng huy động vào phát triển nông nghiệp chủ yếu là vốn
ngắn hạn. Lượng vốn tín dụng cho vay trung hạn chiếm tỷ lệ thấp. Điểm nổi bật là không
có một ngân hàng nào ở ngoại thành cho vay dài hạn. Điều này, một mặt phản ánh tình
trạng thiếu vốn tín dụng trung và dài hạn của hệ thống ngân hàng; các ngân hàng chưa thật
sự sẵn sàng và chủ động trong việc huy động nguồn vốn tín dụng để đẩy mạnh phát triển
nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, nó cũng gián tiếp khẳng định khả năng hấp thụ vốn tín
dụng của nông dân nói riêng, của khu vực nông thôn nói chung còn thấp, làm cho ngân
hàng chưa thực sự tin tưởng khi cho nông dân vay những khoản vốn trung và dài hạn đủ
lớn để đầu tư chiều sâu, phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Vì vậy, nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn còn rất thiếu so với nhu cầu cần vay vốn của
hộ nông dân.
Trong những năm gần đây, Thành phố mở rộng hình thức cho vay tín dụng đối với
các dự án kinh tế thông qua Quỹ quốc gia. Vì vậy, việc huy động nguồn vốn tín dụng này
vào phát triển các dự án kinh tế nông nghiệp là một giải pháp tốt.
Biểu 7: Biến động của vốn vay Quỹ quốc gia 1996/1992
Năm 1992 Năm 1996
Dự án
(cái)
Số
vốn
(tr.đ)
Lao
động
(người)
Dự án
(cái)
Số
vốn
(tr.đ)
Lao
động
(người)
Toàn thành phố
Trong đó:
- 5 huyện ngoại thành
- Các đoàn thể quần
chúng
43
21
2
3.707
2.363
800
4.030
3.703
700
362
221
3
26.595
13.969
350
24.363
11.396
195
Nguồn: Báo cáo khoa học đề tài "Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp đầu
tư, quản lý, sử dụng vốn vay cho sản xuất của Nhà nước đối với hộ nông dân ở Hà Nội
[60, 27].
Qua số liệu trên có thể thấy rằng, phần vốn vay từ Quỹ quốc gia để đầu tư cho các
dự án nông nghiệp tăng nhanh. Nếu như năm 1992 chỉ có 43 dự án, với tổng số vốn huy
động được là 3.707 triệu đồng thì đến năm 1996, số dự án đã tăng lên 362 cái, với tổng
vốn huy động là 26.595 triệu đồng, tăng gấp hơn 8 lần. Riêng 5 huyện ngoại thành (so
sánh 2 thời điểm trên), số dự án tăng gấp 10 lần, số vốn tăng 5 lần và lao động tăng hơn 3
lần.
Nếu đi sâu tìm hiểu cụ thể tình hình huy động vốn từ các kênh tín dụng nhà nước
tại các xã và hộ trong xã, vốn vay tín dụng cũng tăng lên rõ rệt. Chẳng hạn, ở Thanh Liệt
(Thanh Trì), năm 1995 chỉ có 128 hộ vay vốn, với số tiền là 58 triệu đồng. Đến năm 1996
số hộ vay tăng lên 176 hộ, với số tiền là 94 triệu đồng. ở xã Đông Xuân (Sóc Sơn) năm
1994 có 1.057 hộ vay Nhà nước, với tổng số vốn là 930 triệu đồng, bình quân mỗi hộ vay
gần 900 ngàn đồng. Năm 1996 tăng lên 1.370 hộ, với số tiền là 1.560 triệu đồng, bình quân
mỗi hộ vay 1.200.000 đồng [60, 28].
Nhìn tổng thể, trong những năm qua, công tác huy động nguồn vốn tín dụng để
phát triển nông nghiệp ngoại thành có chuyển biến theo hướng tích cực, thể hiện trên các
mặt:
- Hầu hết các ngân hàng đều thực hiện phương châm "đi vay để cho vay", không ỷ
lại vào phần vốn cấp của Nhà nước trung ương, của Thành phố. Nhờ đó, đa số ngân hàng
chủ động đảm bảo được nguồn vốn tín dụng cho nông dân vay. Vốn huy động vào
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay (2).pdf