Luận văn Việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá

Tài liệu Luận văn Việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá: LUẬN VĂN: Việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Việc làm cho người lao động là vấn đề kinh tế- xã hội phổ biến và luôn mang tính thời sự ở mọi quốc gia, bởi vì đảm bảo việc làm là một trong những yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền vững. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì vấn đề việc làm cho người lao động là hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: "Giải quyết việc làm là nhân tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân". Hà Nội là trung tâm chính trị kinh tế và văn hoá của đất nước, là địa phương nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Vì vậy...

pdf123 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1016 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Việc làm cho người lao động là vấn đề kinh tế- xã hội phổ biến và luôn mang tính thời sự ở mọi quốc gia, bởi vì đảm bảo việc làm là một trong những yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền vững. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì vấn đề việc làm cho người lao động là hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: "Giải quyết việc làm là nhân tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân". Hà Nội là trung tâm chính trị kinh tế và văn hoá của đất nước, là địa phương nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Vì vậy, trong thời gian qua Hà Nội đã thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào phát triển kinh tế, tạo những bước chuyển biến quan trọng đối với thủ đô trên nhiều lĩnh vực trong đó có giải quyết việc làm. Tuy nhiên, do Hà Nội đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xu hướng đô thị hoá gia tăng nó đòi hỏi người lao động phải có trình độ, được đào tạo phải có tác phong công nghiệp thì mới đáp ứng được yêu cầu, lao động ở ngoại thành hiện nay chưa thể đáp ứng được yêu cầu này do mặt bằng trình độ thấp, tỷ lệ lao động qua đào tạo chưa cao, lao động giản đơn là chủ yếu.v.v... không có việc làm sẽ nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp vì vậy tạo việc làm cho lực lượng lao động, đặc biệt là lực lượng lao động ở khu vực ngoại thành bao gồm 5 huyện: Gia Lâm, Thanh Trì, Đông Anh, Sóc Sơn, Từ Liêm là vấn đề cấp bách. Để đánh giá lại những kết quả đã đạt được và những tồn tại vướng mắc, trong vấn đề giải quyết việc làm cho lao động ở ngoại thành Hà Nội. Từ đó, đề xuất một số giải pháp hữu hiệu cho vấn đề tạo việc làm nhằm góp phần vào sự ổn định và phát triển của thủ đô trong những năm tới, tác giả đã chọn đề tài: " Việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trỡnh đô thị hoá " làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm qua, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về việc làm và giải quyết việc làm. Có thể nêu ra một số đề tài sau: - TS Nguyễn Hữu Dũng: Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị hoá công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn - Tạp chí Lao động - Xã hội số 247 (từ 16- 30/9/2004). Tác giả đề cập đến thực trạng về lao động và việc làm ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá đồng thời đưa ra những phương hướng và giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề lao động và việc làm nông thôn. - PGS,TS Nguyễn Sinh Cúc: Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn đề đặt ra, Tạp chí Con số và sự kiện- 2003- số 8. Trong bài viết tác giả đã đề cập những biến động của tính hình dân số ở nông thôn và những xu hướng mới tạo việc làm ở nông thôn: từ kinh tế trang trại, khôi phục và phát triển các làng nghề nông thôn, tạo việc làm mới từ phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, từ các chương trình dự án quốc gia và quốc tế. - TS Vũ Đình Thắng: Vấn đề việc làm cho lao động ở nông thôn, Tạp chí Kinh tế và Phát triển 2002 - số 3. Trong bài viết, tác giả đánh giá tầm quan trọng và những kết quả đã đạt được về giải quyết việc làm đặc biệt là ở khu vực nông thôn bằng cách phát triển các ngành phi nông nghiệp với phương châm: ly nông bất ly hương. - GS,TS Phạm Đức Thành: Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam - Tạp chí Kinh tế và Phát triển 2002- số 64. Trong bài viết, tác giả đã đánh giá hiện trạng việc làm và thất nghiệp trên cơ sở đó đề ra những quan điểm và biện pháp giải quyết việc làm cho người lao động. - TS Nguyễn Tiệp: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn: Các giải pháp tạo thêm việc làm, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 309 (6/2004). Trong bài viết, tác giả đề cập đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn là phù hợp với yêu cầu của quá trình CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn. Là kết quả của phát triển lực lượng sản xuất và phân công lại lao động ở nông thôn. Đồng thời, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn còn chịu sức ép giải quyết việc làm, tăng mức cầu lao động trên địa bàn nông thôn. - TS Trương Văn Phúc: Thực trạng lao động việc làm qua kết quả điều tra 1- 7- 2004, Tạp chí Lao động - xã hội, số 251 (16- 30/11/2004). Trong bài viết, tác giả đề cập đến tình trạng lao động và việc làm của lực lượng lao động ở các tỉnh, thành phố cũng như ở những vùng kinh tế trọng điểm. Nó đánh giá một cách khái quát những kết quả đã đạt được về giải quyết việc làm cho lực lượng lao động. Trong đó, có đề cập đến lao động ngoại thành, một bộ phận quan trọng cấu thành lực lượng lao động chung của xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ về việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá dưới góc độ kinh tế chính trị. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích: - Góp phần nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề về lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực việc làm, tạo việc làm cho người lao động trong quá trình đô thị hoá. - Phân tích về thực trạng, chỉ ra phương hướng tạo việc làm cho lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá hiện nay. - Đề xuất những giải pháp cơ bản để tạo việc làm trong cho lao động ngoại thành trong thời gian tới. * Nhiệm vụ: - Làm rõ bản chất của việc làm, bản chất của tạo việc làm, nội dung của nó và sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động. - Tập trung phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ngoại thành: quy mô tạo việc làm cho người lao động, quá trình tạo việc làm, những nhân tố tác động đến quá trình tạo việc làm. Đồng thời đánh giá những nguyên nhân, hạn chế về kết quả tạo việc làm. - Đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm tạo việc làm cho lao động ngoại thành trong quá trình đô thị hoá từ nay đến năm 2010. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn đề cập trực tiếp đến vấn đề giải quyết việc làm cho toàn bộ lực lượng lao động nông nghiệp đang sinh sống ở khu vực ngoại thành do Thành phố quản lý. - Luận văn tập trung vào nội dung tạo việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá từ năm 2001 trở lại đây. Nhiệm vụ này được giao cho nhiều tổ chức thực hiện nhưng luận văn tập trung khai thác thông tin từ Sở LĐTB – XH Hà Nội. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp cơ bản cho vấn đề này đến năm 2010. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam cùng với những chủ trương và chính sách của Nhà nước về vấn đề lao động việc làm. Ngoài ra luận văn còn dựa trên kết quả nghiên cứu, đánh giá của các công trình khoa học đã được công bố, để nghiên cứu vấn đề việc làm và tạo việc làm ở ngoại thành Hà Nội - Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logíc kết hợp với lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh… 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn, đã trình bày một số lý luận cơ bản về việc làm và tạo việc làm, đã đề xuất những giải pháp để đẩy mạnh tạo việc làm cho lao động ngoại thành Hà Nội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 Tạo việc làm cho người lao động ngoại thành Hà nội trong quá trình đô thị hoá - một nhu cầu bức xúc 1.1. Đô thị hoá và tác động của nó đối với vấn đề việc làm 1.1.1. Đô thị hoá - một xu thế tất yếu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1.1.1.1. Tính tất yếu, nội dung và tác động của quá trình đô thị hoá Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá (CNH, HĐH& ĐTH) là con đường phát triển của mọi quốc gia trên thế giới. Trong thời đại ngày nay, thời đại khoa học- công nghệ phát triển nhanh như vũ bão, kinh tế tri thức đang dần đi vào cuộc sống và toàn cầu hoá là một xu thế không gì có thể cưỡng lại được thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường giúp các nước chậm phát triển rút ngắn thời gian so với các nước đi trước.Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp chưa phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, có nghĩa là chúng ta đang chuyển từ một nền kinh tế tiền tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy chúng ta phải từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chúng ta là phải thực hiện CNH, HĐH đất nước. Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá VII đã nêu định nghĩa khái quát về quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng xuất lao động xã hội cao [18, tr.4]. Như vậy CNH,HĐH là một khái niệm rộng, thực hiện CNH,HĐH trong tất cả các mặt hoạt động của đời sống xã hội, trong đó nội dung nổi bật chính là quá trình cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc và áp dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại để đạt được năng suất lao động cao. Kết quả mà quá trình này đem lại là tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất - kỹ thuật về con người và khoa học- công nghệ thúc đẩy qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế. Một vấn đề quan trọng trong quá trình CNH,HĐH là phải làm sao giải quyết đồng thời mối quan hệ giữa phát triển nền sản xuất với giải quyết được các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình CNH,HĐH như vấn đề giải phóng việc làm và các vấn đề xã hội khác. Chúng ta biết rằng, đi kèm với việc áp dụng máy móc, kỹ thuật vào trong sản xuất sẽ làm thay đổi tính chất của quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất chỉ sử dụng ít lao động sống và sử dụng nhiều máy móc thay thế. Hệ quả của việc này là dư thừa lao động: người lao động không có việc làm hoặc có việc làm nhưng không đầy đủ. Mặt khác qúa trình CNH,HĐH cũng làm xuất hiện những ngành kinh tế mới, có thể thu hút được một số lượng lao động nhất định. Nhưng nhìn chung, tình hình người lao động không có việc làm vẫn tăng nhanh hơn tỷ lệ người lao động tìm được việc làm. Như vậy CNH,HĐH sẽ dẫn đến sự thay đổi to lớn về nhiều mặt. Về mặt kinh tế, CNH, HĐH làm thay đổi phương thức sản xuất và cơ cấu nền kinh tế, làm cho nền kinh tế có một bước phát triển mới về chất, đó là nền kinh tế dựa trên nền đại công nghiệp và dịch vụ chất lượng cao. Về mặt xã hội, đó là quá trình đô thị hoá. Trong nền kinh tế hiện đại, đô thị hoá không chỉ đơn thuần là sự hình thành các đô thị mới mà đó là một nấc thang tiến hoá vượt bậc của xã hội với một trình độ văn minh mới, một phương thức hoạt động mới. Đó là cách thức tổ chức, bố trí lực lượng sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế. Có nhiều quan niệm khác nhau về đô thị hoá: Đô thị hoá là quá trình biến đổi và phân bố lại lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị theo chiều rộng và theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số ở các đô thị. Đó là quá trình tập trung, tăng cường, phân hoá các hoạt động trong đô thị và nâng cao tỷ lệ số dân thành thị trong các vùng, các quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Đồng thời, đô thị hoá cũng là quá trình phát triển của các thành phố lớn và phổ biến rộng rãi lối sống thành thị trong dân cư. Theo quan niệm trên chúng tôi cho rằng: Đô thị hoá được hiểu đó là quá trình biến đổi, chuyển biến về nhiều mặt kinh tế- xã hội của các khu vực trước đây là sản xuất nông nghiệp, khu vực nông thôn để trở thành các khu đô thị, khu chế xuất, khu công nghiệp phục vụ cho sản xuất công nghiệp và các ngành dịch vụ. Như vậy, ta thấy về bản chất của đô thị hoá là sự phát triển các cụm kinh tế công nghiệp, dịch vụ, kết cấu hạ tầng cơ sở, phát triển các cụm dân cư theo hình thức và điều kiện sống mang tính chất công nghiệp, đô thị sầm uất. Đây là một xu thế tất yếu xảy ra đối với tất cả các quốc gia, các thành phố lớn khi thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và từng bước tiếp cận với nền kinh tế tri thức, vì đô thị hoá tạo ra cơ sở thúc đẩy sự phát triển phân công lao động xã hội, cơ cấu lại kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong đó có thủ đô Hà Nội. Khái niệm pháp quy về đô thị hoá ở Việt Nam: Điểm dân cư được coi là đô thị hoá phải có các tiêu chí cơ bản sau đây: - Là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội trong phạm vi cả nước, một miền lãnh thổ, của một tỉnh, một huyện hoặc một vùng trong tỉnh hay huyện. - Có quy mô dân số nội thị nhỏ nhất là 4000 người (vùng núi có thể thấp hơn). - Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp chiếm 60% trở lên trong tổng số lao động của nội thị, là nơi sản xuất và dịch vụ thương mại hàng hoá phát triển. - Có kết cấu hạ tầng kỹ thuật và các công trình công cộng phục vụ dân cư đô thị hoá từng phần hoặc đồng bộ. - Mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km2. Đô thị hoá có hai hình thức biểu hiện chủ yếu: Một là, đô thị hoá theo chiều rộng trong đó quá trình đô thị hoá diễn ra tại các khu vực trước đây không phải là đô thị. Đó cũng chính là quá trình mở rộng quy mô diện tích các đô thị hiện có trên cơ sở hình thành các khu đô thị mới, các quận, phường mới. Với hình thức này, dân số và diện tích đô thị không ngừng gia tăng, các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp và các hoạt động của kinh tế đô thị không ngừng mở rộng; các hoạt động sản xuất kinh doanh và điểm dân cư ngày càng tập trung. Sự hình thành các đô thị mới được tạo ra trên cơ sở phát triển các khu công nghiệp và trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ ở vùng nông thôn và ngoại ô là xu hướng tất yếu của sự phát triển là nhân tố mở đường thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đô thị hoá theo chiều rộng là hình thức phổ biến hiện nay ở các nước đang phát triển trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Hai là, đô thị hoá theo chiều sâu, đó là quá trình hiện đại hoá và nâng cao trình độ của các đô thị hiện có. Mật độ dân số có thể tiếp tục tăng cao, phương thức và các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, thực lực khoa học kỹ thuật, công nghệ ngày càng tăng cường; hiệu quả kinh tế - xã hội cũng ngày càng được cải thiện và nâng cao. Đô thị hoá theo chiều sâu là quá trình thường xuyên, là yêu cầu tất yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển. Quá trình đó đòi hỏi các nhà quản lý đô thị và các thành phần kinh tế trên địa bàn đô thị thường xuyên vận động và phải biết điều tiết, tận dụng tối đa những tiềm năng sẵn có và hoạt động có hiệu quả cao trên cơ sở hiện đại hoá trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội ở đô thị. Đô thị hoá là một tiến trình rất đa dạng, trong nó có chứa đựng nhiều hiện tượng và biểu hiện khác nhau trong quá trình phát triển. Trên quan điểm một vùng, đô thị hoá là quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị. Trên quan điểm kinh tế quốc dân, đô thị hoá là một quá trình biến đổi về phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư những vùng không phải đô thị thành đô thị, đồng thời phát triển các đô thị hiện có theo chiều sâu. Đô thị hoá là quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô thị của các nhóm dân cư, gắn liền với những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội của và nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ.v.v.. Do vậy, đô thị hoá gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đô thị hoá nông thôn là xu hướng bền vững có tính quy luật; đó là quá trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố cho các vùng nông thôn (cách sống, hình thức nhà cửa, phong cách sinh hoạt…); Thực chất đó là tăng trưởng đô thị theo xu hướng bền vững. Đô thị hoá ngoại vi là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi của thành phố do kết quả phát triển công nghiệp, dịch vụ và kết cấu hạ tầng, tạo ra các cụm đô thị, liên đô thị, góp phần đẩy nhanh đô thị hoá nông thôn. Trong quá trình CNH, HĐH sự hình thành các đô thị hiện đại có vai trò đặc biệt quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh nông thôn, đô thị là hình thái quần cư cơ bản thứ hai của xã hội loài người. Trên thế giới, đô thị ra đời rất sớm nhưng chỉ thật sự phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 và đến nay đô thị đã trở thành một hiện tượng xã hội, một hiện tượng kinh tế có ảnh hưởng hết sức quan trọng tới mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội. Đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Sự phát triển đô thị kích thích tăng trưởng, phát triển của các vùng lãnh thổ xung quanh và toàn bộ nền kinh tế thông qua quá trình phân bố lại các cơ sở kinh tế, lan truyền tiến bộ công nghệ, văn hoá, xã hội. Với sự phát triển của hệ thống các đô thị, nhiều nước đã từng bước hình thành được những vùng lãnh thổ phát triển, không chỉ đảm nhận chức năng động lực, thúc đẩy sự phát triển toàn bộ kinh tế - xã hội đất nước mà còn đảm nhận chức năng hợp tác và hội nhập quốc tế, vừa đảm nhận vai trò tiếp nhận thông tin, các thành tựu về phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hoá của thế giới rồi lan rộng ra các vùng xung quanh (Xem phụ lục 1). Sự hình thành các đô thị có những đóng góp hết sức quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia: + Các đô thị có vai trò to lớn trong việc tạo ra thu nhập quốc dân, tích luỹ của nền kinh tế và nguồn thu cho ngân sách quốc gia. Chẳng hạn chỉ tính riêng bốn thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng năm 2004 chiếm khoảng 14% dân số, tạo ra 36,4% GDP, 45,7% giá trị sản lượng công nghiệp và gần 50% giá trị xuất khẩu của cả nước. Các đô thị này đã trở thành những vùng động lực có tốc độ tăng trưởng cao và có đóng góp quan trọng vào việc tăng quy mô của nền kinh tế, tăng giá trị công nghiệp, dịch vụ và xuất khẩu của cả nước. + Với quy mô sản xuất, diện tích, dân số lớn và không ngừng gia tăng sự tập trung lớn các năng lực sản xuất, các đô thị cũng có khả năng cung cấp một khối lượng đáng kể những sản phẩm công nghiệp và dịch vụ với chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu của nhiều vùng trong nước và nguồn hàng cho xuất khẩu. Số liệu sau đây cho thấy rõ vai trò của bốn đô thị lớn nhất ở Việt Nam ( Xem phụ lục 2). + Các đô thị lớn thực sự là các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, thương mại của các vùng và cả nước là những “đầu tàu” trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là hợp tác và giao lưu quốc tế. Các hoạt động dịch vụ quan trọng như xuất nhập khẩu, tài chính, tiền tệ, vận tải, du lịch, khoa học công nghệ từ các đô thị lớn bắt đầu có sức lan toả và thúc đẩy sự phát triển chung của các lãnh thổ trên phạm vi cả nước. + Các đô thị có ưu thế về nhân lực được đào tạo chất lượng cao, có khả năng nhanh chóng tiếp cận trình độ công nghệ tiên tiến, trên cơ sở đó tạo ra các công nghệ và các trang thiết bị hiện đại không chỉ phục vụ cho sự phát triển của bản thân đô thị mà còn đáp ứng cho nhu cầu của các vùng lãnh thổ khác trên toàn quốc. + Với những ưu thế về hệ thống kết cấu hạ tầng so với các lãnh thổ khác, các đô thị từng bước bảo đảm sự tiếp cận nhanh chóng, kịp thời các nguồn thông tin, đặc biệt là thông tin kinh tế, thông tin về thị trường… để lại tiếp tục cung cấp, chuyển tải và phản hồi các thông tin này tạo điều kiện cho các vùng cùng tham gia trao đổi thông tin và hoà nhập vào sự phát triển của thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. + Sự phát triển các đô thị góp phần nâng cao năng suất và chất lượng lao động cho toàn bộ nền kinh tế. Chẳng hạn, tại các đô thị của Việt Nam đã bước đầu hình thành đội ngũ lao động và cán bộ quản lý có trình độ và tác phong lao động công nghiệp hiện đại. Hầu hết lực lượng lao động có trình độ từ cao đẳng và đại học trở lên của cả nước tập trung tại các đô thị. Tay nghề của người lao động được nâng cao cùng các kinh nghiệm quản trị kinh doanh… được tiếp tục lan toả sang các lãnh thổ còn lại của đất nước thông qua việc phát triển của các chi nhánh, các cơ sở sản xuất kinh doanh đặt tại các địa phương khác, góp phần từng bước nâng cao trình độ và hiệu quả quản lý kinh doanh, nâng cao năng suất và chất lượng lao động cho toàn bộ nền kinh tế nói chung và các vùng kém phát triển nói riêng. + Với lợi thế về lực lượng và tiềm lực khoa học kỹ thuật, sự tập trung số lượng lớn các cơ sở đào tạo và khoa học trong đó có các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học đầu ngành, các đô thị lớn còn giữ vai trò đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước góp phần từng bước nâng cao chất lượng nguồn lao động cho nền kinh tế. + Do GDP/người tăng nhanh cộng với sự phát triển của các cơ sở công nghiệp chế biến, xuất khẩu làm cho sức mua của các đô thị tăng nhanh, trong đó phải kể đến sức mua về hàng nông lâm thuỷ sản với chất lượng cao. Việc các đô thị trở thành nơi tiêu thụ hàng nông sản chất lượng cao sẽ tác động đến sự phát triển các cơ sở cung cấp nguyên liệu và dịch vụ, góp phần chuyển đổi tập quán sản xuất truyền thống của nhiều vùng nông thôn, mở ra khả năng nâng cao chất lượng và giá trị nông sản, mở rộng thị trường … Như vậy, sự phát triển các đô thị sẽ tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn và của cả nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. + Sự phát triển của các đô thị cũng được đánh giá là đã tạo điều kiện để bổ sung nguồn vốn đầu tư cho sự phát triển của các vùng nông thôn, vùng kém phát triển thông qua việc các cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức từ các thành phố lớn chuyển vốn đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh công nghiệp, du lịch, văn hoá… đến các vùng kém phát triển. Thông qua việc thu hút lao động tới các đô thị, một phần đáng kể trong thu nhập của người lao động được đưa trở về các vùng nông thôn, vùng kém phát triển để giúp đỡ gia đình xây dựng, sửa sang nhà cửa, đường sá, phát triển kinh tế nông hộ...v.v. Đô thị tượng trưng cho thành quả kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi quốc gia, là sản phẩm mang tính kế thừa của nhiều thế hệ cả về cơ sở vật chất kỹ thuật và văn hoá. Sự phát triển của các đô thị có vai trò quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Nhiều đô thị đã và đang chuyển dần từ chức năng hành chính thuần tuý sang cả chức năng kinh tế, đồng thời tùy theo các cấp độ khác nhau mà đảm nhận các chức năng trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá. Tác động lan toả của các đô thị được mở rộng cả về phạm vi không gian và biến đổi về chất. Nhiều đô thị đã thực sự trở thành các hạt nhân động lực cho sự phát triển của nhiều vùng. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi đối với sản xuất và đời sống con người, sự phát triển nhanh chóng của các đô thị cũng là nguyên nhân chính gây ảnh hưởng đáng kể đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đến cân bằng sinh thái do tài nguyên đất bị khai thác triệt để cho xây dựng đô thị, khối lượng khai thác và sử dụng nước sạch tăng, ô nhiễm các chất thải công nghiệp và sinh hoạt, giảm diện tích cây xanh và mặt nước, bùng nổ giao thông cơ giới. Ngoài ra, sự gia tăng dòng người di dân từ nông thôn ra đô thị cũng gây nên những áp lực đáng kể về nhà ở và vệ sinh môi trường, hình thành các khu nhà “ổ chuột” và khu nghèo đô thị, gây nên những khó khăn cho công tác quản lý đô thị do sự phức tạp về mặt tổ chức đời sống và sản xuất v.v… Do đó, khi quy hoạch đô thị, cần phải tính đến các biện pháp ngăn chặn và hạn chế những hiện tượng không có lợi đó. 1.1.1.2. Đô thị hoá trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng Đối với nước ta, từ một nền kinh tế nông nghiệp truyền thống muốn trở thành nước có nền công nghiệp hiện đại thì phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đó là con đường để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Cũng như ở nhiều nước khác công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cũng tất yếu kéo theo quá trình đô thị hoá. Tốc độ công nghiệp hoá càng nhanh trình độ đô thị hoá sẽ càng cao. Đô thị hoá là hệ quả tất yếu của CNH, HĐH. Đô thị hoá và sự hình thành các đô thị hiện đại là một trong những chỉ tiêu cơ bản phản ánh trình độ CNH, HĐH. Về thực chất CNH, HĐH và đô thị hoá là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển mạnh khu vực công nghiệp, dịch vụ và chuyển dịch cơ cấu lao động đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, tăng nhanh lao động làm công nghiệp và dịch vụ, giảm mạnh lao động làm nông nghiệp. CNH diễn ra đồng thời với phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, khu kinh tế mở, khu công nghiệp tập trung, các trung tâm dịch vụ lớn, cùng với nó là quá trình mở rộng các khu đô thị, các thị trấn, thị tứ… Điều đó dẫn đến dân số thành thị cũng sẽ tăng lên. Và như vậy, một phần lớn lao động nông thôn làm nông nghiệp sẽ phải chuyển sang làm phi nông nghiệp, dân sống ở nông thôn trở thành dân thành thị. Quá trình CNH, HĐH tác động trên hai mặt, một mặt quá trình đô thị hoá cũng là một trong những nhân tố chủ yếu góp phần tạo thêm việc làm mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, nhất là đối với những nước mà tỷ lệ lao động trong nông nghiệp chiếm tới 57,9% lực lượng lao động của cả nước. Theo tính toán của các nhà kinh tế, nếu 1 ha đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay mới chỉ tạo ra 22,5 triệu đồng/ một năm (năm 2004) và sử dụng 3-5 lao động thì khi chuyển sang xây dựng khu công nghiệp có thể thu hút 50- 100 lao động và tạo ra giá trị từ 500 triệu đến hàng tỷ đồng/năm. Hơn nữa, thu nhập của người lao động trong công nghiệp sẽ cao hơn trong nông nghiệp gấp nhiều lần. Đô thị hoá cũng góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động và việc làm ở nước ta. Nhờ chuyển đổi cơ cấu mà một bộ phận không nhỏ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp chuyển sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, đi cùng với đó là việc hình thành các khu đô thị cũng góp phần tạo ra một khối lượng việc làm mới cho lao động tại đây. Do đó, làm giảm đáng kể lao động nông nhàn ở nông thôn. Chỉ riêng 4 thành phố lớn là Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng và Hải Phòng trong năm 2004 đã giải quyết việc làm cho khoảng 363.000 lao động ngoài ra còn chưa kể số lao động là các công việc phi chính thức, làm vệ tinh cho các khu đô thị, khu công nghiệp này. Mặt khác, quá trình đô thị hoá sẽ dẫn đến tình trạng: xuất hiện những ngành nghề đang có sự phát triển mạnh và để áp dụng máy móc, kỹ thuật hiện đại, phục vụ cho sản xuất lớn đòi hỏi người lao động phải có trình độ, được đào tạo về một ngành, nghề chuyên môn nhất định, có tác phong lao động công nghiệp… cũng như là xuất hiện ngành sử dụng nhiều lao động, sản xuất hướng vào chế biến và xuất khẩu. Trong khi đó, lao động ở khu vực này lại ít được đào tạo nghề. Năm 2002 tỷ lệ công nhân kỹ thuật, cao đẳng, đại học trở lên ở khu vực nông thôn chỉ chiếm 5,74%, nếu kể từ những người có chứng chỉ nghề trở lên là 11,95%. Nguồn nhân lực trình độ thấp trở thành lực cản cho việc thúc đẩy sự phát triển các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ có năng suất cao cũng như các nghề truyền thống nhằm tạo việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình đô thị hoá. Để có thể hình thành những nhà máy, xưởng chế biến, sản xuất, hạ tầng đô thị đòi hỏi phải hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất với diện tích lớn tới vài trăm hécta, điều này khiến cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp. Việc hình thành các khu đô thị lớn, phát triển các trung tâm dịch vụ lớn sẽ ảnh hưởng rất nhiều mặt đến đời sống của người dân ở khu vực ngoại thành, nhất là khi những người lao động ở khu vực ngoại thành chủ yếu dựa vào ruộng đất để sản xuất. Khi tư liệu sản xuất là ruộng đất không còn thì có sự tách rời giữa tư liệu sản xuất và sức lao động, sẽ có một bộ phận dân cư trước đây sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp nay chuyển sang làm ngành, nghề khác khiến cho tỷ trọng và lao động trong ngành công nghiệp, dịch vụ tăng dần còn tỷ trọng và lao động trong ngành nông nghiệp ngày càng giảm đi. Nhiều vấn đề kinh tế- xã hội sẽ nảy sinh, trong đó nóng bỏng nhất là vấn đề phải làm sao tạo được nhiều việc làm nông dân mất đất. Theo nhiều kết quả nghiên cứu, ở những nơi thu hồi đất thì trung bình mỗi hộ có 1,5 lao động rơi vào tình trạng không có việc làm và mỗi ha đất nông nghiệp bị thu hồi có tới 13 lao động mất việc làm. Theo số liệu của Bộ Tài nguyên - Môi trường, giai đoạn 2000- 2004 diện tích đất nông nghiệp đã được chuyển đổi mục đích sử dụng là gần 157.000 ha và có tới 20,41 vạn lao động nông nghiệp phải chuyển đổi nghề nghiệp, nhiều người trong số đó hiện nay chưa có việc làm [52, tr. 41, 42] 1.1.2. Tác động của đô thị hoá đối với việc làm cho người lao động ở ngoại thành nói chung (trong đó có ngoại thành Hà Nội) Việc đô thị hoá tác động trên các mặt sau đây: 1.1.2.1. Tác động đến cung về sức lao động Cung về lao động biểu hiện khối lượng lao động sống (số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động) tham gia vào thị trường lao động trong một thời gian nhất định. Thông thường khi nói đến cung về lao động, người ta thường phân biệt rõ thành hai phạm trù: cung thực tế và cung tiềm năng. Cung thực tế về lao động: bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc và những người thất nghiệp. Cung tiềm năng về lao động: bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc, những người thất nghiệp, những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang đi học, đang làm công việc nội trợ hoặc không có nhu cầu làm việc. Cung về lao động phụ thuộc vào quy mô và tốc độ tăng nguồn lao động, sự biến đối động của cầu về lao động, trình độ giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề... Năm 2004 dân số nước ta là 82 triệu người, số người trong độ tuổi lao động là 40.792.571 người, chiếm 50% dân số. Trong đó, số lượng lao động đã qua đào tạo là 22,57% còn số lao động chưa qua đào tạo chiếm tới 77,43% [2, tr.8]. Về trình độ văn hoá, đặc biệt là số lượng lao động ở khu vực nông thôn trong độ tuổi lao động là 30.651.890 người, số người chưa biết chữ là 5,4%, chưa tốt nghiệp tiểu học là 15,91%, đã tốt nghiệp tiểu học là 32,11%, đã tốt nghiệp trung học cơ sở là 34,12% và đã tốt nghiệp phổ thông trung học là 12,46% [2, tr.6]. Qua số liệu trên, chúng ta có thể thấy đây là một lực lượng lao động đông đảo, nhưng nó cũng là gánh nặng hết sức lớn cho chính quyền của các tỉnh, thành phố. Đặc biệt, là các tỉnh thuần nông có tỷ lệ lao động trong nông nghiệp cao, bởi vì : Một là, do tác động của đô thị hoá làm cho diện tích đất bị thu hồi phần lớn tập trung vào đất nông nghiệp, đất khu đông dân cư và vào một số xã nhất là ở ven các đô thị lớn (khoảng 70-80%), có xã thậm chí phải thu hồi 100% diện tích đất sản xuất. Do đó, lực lượng lao động trước đây làm việc trong nông nghiệp thì nay không có việc làm. Vì thế, làm tăng nguồn cung lao động cho thị trường. Trong giai đoạn 2001- 2005, tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích đất thu hồi là 1.200 ha đã làm cho khoảng 8.000 lao động ở khu vực nông nghiệp mất việc; Thành phố Đà Nẵng là 854,4 ha với 20.000 lao động bị mất việc… [52, tr. 42]. Trong thời gian 13 năm, từ năm 1990 đến năm 2003 Nhà nước ta đã thu hồi 697.410 ha đất phục vụ cho việc xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Đặc biệt, ở một số tỉnh có tốc độ đô thị hoá nhanh là: Lào Cai, Hà Nội, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Đà Nẵng, Hà Tây, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hoà, Lâm Đồng, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Long An, Đồng Tháp và Cần Thơ. Trong giai đoạn 2001- 2005, các địa phương này đã thu hồi 44.720 ha mà chủ yếu là đất nông nghiệp [52, tr.31, 32, 33]. Hai là, do quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH,HĐH theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ nên tỷ trọng về cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế cũng biến đổi. Những người trước đây sống dựa vào nguồn thu nhập từ nông nghiệp thì nay không còn hoặc bị giảm sút về thu nhập . Muốn nuôi sống được bản thân phải tìm việc làm. Cung lao động vì thế cũng tăng lên. Theo thống kê lao động nông nghiệp đã giảm từ 62,6% năm 2000 xuống còn 56,8% năm 2005, trong khi lao động công nghiệp và xây dựng tăng từ 13,10% lên 17,9% còn lao động dịch vụ tăng tương ứng từ 24,30% lên 25.3% . Đô thị hoá thúc đẩy chuyển dịch lao động nông thôn sang làm các công việc phi nông nghiệp với các hoạt động rất đa dạng tại các vùng trung tâm, thị trấn, thị tứ, các vùng nông thôn ven các thành phố, thị xã hình thành thị trường lao động khá sôi động. Ba là, khu vực ngoại thành thường là khu vực có tỷ lệ gia tăng dân số cao, lực lượng lao động trẻ nhiều, do đó cũng tác động đến cung lao động trên thị trường. Một số lượng lớn lao động bước vào độ tuổi lao động thiếu việc làm đã tham gia vào thị trường lao động. Năm 2005, quy mô lực lượng lao động ở khu vực nông thôn, ngoại thành là 33.313.874 người chiếm 75,06%, trong số đó lực lượng lao động trẻ chiếm tỷ lệ lớn. Đặc biệt, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trẻ từ 15- 24 tuổi chiếm 13,44% và cao gấp 2,5 lần tỷ lệ thất nghiệp chung [2, tr.5]. Bốn là, theo kết quả của cuộc Điều tra lao động và việc làm được công bố ngày 1/7/2005, cho biết tỷ lệ thời gian nhàn rỗi, không có việc làm ở nông thôn Việt Nam là 19,3%, tương đương với khoảng 6,42 triệu lao động [2, tr.13]. Đây cũng là một tác động không nhỏ có ảnh hưởng đến cung lao động. Cần lưu ý rằng, đô thị hoá và di chuyển lao động nông thôn ra thành thị trở thành xu thế không thể cưỡng nổi. Nó có tác dụng giảm sức ép căng thẳng về việc làm tại các vùng nông thôn và cung ứng lao động cho thị trường lao động ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu du lịch. Đây là nguồn cung cấp dồi dào về lao động cho sự phát triển của các khu đô thị. Nhưng ở khía cạnh nào đó, nó cũng trở thành sức ép do lao động giản đơn là chủ yếu cũng như sức ép do hệ thống hạ tầng cơ sở không đáp ứng được số lượng lao động gia tăng qúa nhanh. Từ đó dẫn đến tính trạng quá tải, gây biến động lớn về các vấn đề kinh tế - xã hội của khu vực thành thị. Theo tính toán hàng năm số lao động từ khu vực nông thôn, ngoại thành chuyển sang thành người dân ở khu vực thành thị tăng giảm khoảng 0,52%, chưa kể đến số lao động nhàn rỗi di chuyển ra khu vực thành thị tìm kiếm việc làm cũng chiếm số lượng không nhỏ. 1.1.2.2. Tác động đến cầu sức lao động Có nhiều quan niệm khác nhau về cầu lao động, nhưng theo hai tác giả Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung trong cuốn “Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam ” thì: Cầu về lao động là khả năng thuê mướn lao động trên thị trường lao động. Cũng có quan niệm phân tích một cách rõ ràng hơn cầu về sức lao động: là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một địa phương một ngành hay một doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định, nhu cầu này thể hiện qua khả năng thuê mướn lao động trên thị trường lao động. Như vậy, theo khái niệm thì đó chính là nhu cầu mà những người thuê lao động cần sử dụng một số lượng nhất định về lao động để kết hợp với tư liệu sản xuất đã có. Theo lý thuyết, cầu về lao động cũng được phân chia thành hai loại: cầu thực tế và cầu tiềm năng. Cầu thực tế về lao động: là nhu cầu thực tế về lao động cần sử dụng tại một thời điểm nhất định, thể hiện qua số lượng những chỗ làm việc trống và chỗ làm viịc mới. Cầu tiềm năng về lao động: là nhu cầu về lao động cho tổng số chỗ làm việc có thể có được, sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tạo việc làm trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ và cả những điều kiện khác như chính trị, xã hội v.v.. Cầu về lao động bao gồm hai mặt: Thứ nhất, là cầu về chất lượng lao động. Thứ hai, là cầu về số lượng lao động. Xét từ góc độ số lượng, trong điều kiện năng suất lao động không biến đổi cầu về sức lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc độ sản xuất. Nếu quy mô sản xuất không đổi, cầu về sức lao động tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Còn xét từ góc độ chất lượng, việc nâng cao năng suất lao động, mở rộng quy mô, tiền vốn, tri thức của doanh nghiệp, ngày càng đòi hỏi cầu về chất lượng sức lao động phải tăng lên trong tổng số lao động được sử dụng. Khi xảy ra quá trình đô thị hoá, tất yếu nó đòi hỏi không chỉ người sử dụng lao động mà cả người lao động cũng có nhu cầu, đòi hỏi chính đáng cần được giải quyết đó chính là vấn đề việc làm. Bởi vì: - Do quá trình CNH,HĐH thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế làm xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới, nhiều mô hình sản xuất kinh doanh mới. Chính vì vậy, các nhà tuyển dụng có nhu cầu tuyển thêm lao động. Hàng loạt những ngành mới như công nghệ thông tin; viễn thông; thương mại điện tử.. hay sự xuất hiện của những làng nghề mới có nhu cầu tuyển dụng lao động mới từ đó có tác động đến cầu về lao động - Việc mở rộng sản xuất kinh doanh cũng có tác động đến cầu về lao động. Trong quá trình CNH,HĐH luôn luôn có sự tái sản xuất mở rộng. Một phần thu nhập quốc dân được tích luỹ lại để mở rộng sản xuất đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về các sản phẩm cho cả tiêu dùng và sản xuất. Các nhà sản xuất, phải luôn tìm cách mở rộng quy mô sản xuất của mình.ở Việt Nam, trong thời gian 2001- 2005 vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng 1,76 lần so với 5 năm 1996- 2000. Vốn đầu tư của người dân cũng tăng. Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP tăng từ 34% năm 2001 lên 36,5% năm 2005, trong đó lĩnh vực kinh tế chiếm gần 71% tổng vốn đầu tư xã hội (nông, lâm, ngư nghiệp chiếm trên 13%, công nghiệp và xây dựng chiếm gần 44%, giao thông và bưu điện gần 14%). Trong cầu về lao động có hai điều cần chú ý: Một là, cầu về lao động có chất lượng, đã qua đào tạo cũng ngay một tăng theo để đáp ứng nhu cầu cho nền sản xuất hiện đại. Trong điều kiện nền sản xuất của thế giới đang phát triển mạnh mẽ, do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao đang dần chiếm tỷ trọng lớn, nền sản xuất xã hội đang hướng tới nền kinh tế tri thức thì nhu cầu về đội ngũ lao động được đào tạo lành nghề có trình độ cũng như một đội ngũ những nhà khoa học, nhà quản lý tầm cỡ có khả năng thích ứng với sự biến động của nền kinh tế thế giới hay chính là đội ngũ lao động đã được tri thức hoá ngày càng cao. Chính yêu cầu này nó tác động mạnh mẽ tới cầu lao động về mặt chất lượng. Hai là, những người lao động trong ngành nông nghiệp, luôn có nhu cầu được tham gia vào lực lượng lao động để đóng góp cho xã hội và nuôi sống bản thân. Chính điều này cũng làm ảnh hưởng đến cầu về lao động. Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là một bộ phận cấu thành trong lực lượng lao động của một quốc gia. ở những nước phát triển thì lực lượng lao động này chiếm một tỷ lệ nhỏ Mỹ khoảng 2%, Hàn Quốc khoảng 10%... nhưng lại có những đóng góp không nhỏ vào sự phát triển về kinh tế của quốc gia đó. Trong khi đó, ở những quốc gia đang phát triển như Việt Nam lực lượng lao động nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ lệ rất cao trong lực lượng lao động xã hội và có những đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Năm 2004, Việt Nam đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về điều, thứ nhất về hạt tiêu. Nhưng do tác động của quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động lao động theo hướng công nghiệp, nó đặt ra yêu cầu là phải giảm lao động trong nông nghiệp xuống, tăng lao động trong công nghiệp và dịch vụ lên. Vì vậy, nó làm cho cầu về số lượng lao động trong nông nghiệp giảm, số lao động dư thừa này buộc phải chuyển sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Theo con số thống kê, tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động của cả nước năm 2001 của khu vực thành thị là 6,3% và nông thôn là 1,78% và năm 2004 con số này tương ứng là 5,6% và 1,1%. Đáng lưu ý là số lao động dư thừa này có chất lượng thấp [7, tr.13]. 1.1.2.3. Việc làm, thất nghiệp và tạo việc làm cho người lao động trong quá trình đô thị hoá Từ sự phân tích cung cầu về lao động ở trên chúng ta thấy rằng, khi có sự cân bằng giữa cung - cầu trên thị trường lao động thì khi đó vấn đề việc làm đã được giải quyết. * Việc làm và thất nghiệp là những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với không chỉ chính phủ của các quốc gia mà còn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi người lao động trong xã hội. Đặc biệt đối với đang phát triển như Việt Nam, nơi mà tốc độ gia tăng dân số, nguồn lao động khá cao trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm bị hạn chế do khả năng về vốn, tư liệu sản xuất còn nhiều khó khăn. - Việc làm: Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đưa ra khái niệm việc làm với nhiều khía cạnh, nhiều chiều khác nhau. Tại điều 13, chương II (Việc làm) Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam nêu rõ: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm" [10, tr.163]. Từ khái niệm được cụ thể hoá thành ba dạng hoạt động sau: * Làm các công việc để người lao động được nhân tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật từ người sử dụng lao động. * Làm các công việc để tự đem lại thu nhập cho bản thân thông qua các hoạt động kinh tế mà bản thân người lao động làm chủ. * Làm công việc đem lại thu nhập cho hộ gia đình mà bản thân người thực hiện công việc đó là thành viên của hộ gia đình, do gia đình quản lý. Như vậy, một hoạt động được xem xét có phải là việc làm hay không phải là việc làm chủ yếu dựa trên tính hợp pháp của hoạt động đó. Từ khái niệm trên một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn hai điều kiện: Thứ nhất, hoạt động đó phải có ích và đem lại thu nhập cho người lao động và cho các thành viên trong gia đình. Thứ hai, đó là các hoạt động không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm. Mọi người lao động, có quyền tự tìm kiếm cho mình những công việc phù hợp với khả năng hoặc cũng có thể tạo việc làm cho người khác, trong khuôn khổ pháp luật. Như vậy, quan niệm về việc làm khác hẳn so với trước đây. Trước đây, chúng ta chỉ coi những người làm trong biên chế nhà nước mới là có việc làm. Hai điều kiện này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ cho một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Còn tất cả những hoạt động khác, có tạo ra thu nhập nhưng không được thừa nhận về mặt pháp lý thì không thể được gọi là việc làm. Ngược lại, có những hoạt động có ích dù là hợp pháp nhưng không đem lại thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm. Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật. Theo giáo trình Kinh tế lao động của trường ĐHKTQD do Phạm Đức Thành và Mai Quốc Chánh chủ biên thì quan niệm việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất,công nghệ...) để sử dụng sức lao động đó. Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỷ lệ giữa chi phí ban đầu (C) như nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu...và chi phí về sức lao động (V). Có thể biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ này bằng phương trình sau: VL = C V Quan hệ tỷ lệ biểu hiện sự kết hợp giữa C và V phải phù hợp với trình độ công nghệ của sản xuất. Khi trình độ kỹ thuật công nghệ thay đổi thì sự kết hợp đó cũng thay đổi theo, có thể công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc công nghệ sử dụng nhiều sức lao động. Do đó, tuỳ từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn phương án phù hợp để tạo việc làm cho người lao động. Từ quan niệm này ta thấy, để đảm bảo cho người lao động có việc làm cần thiết phải có những điều kiện quan trọng để đảm bảo cho sự kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất. Đồng thời quan niệm này cũng cho thấy rằng quan hệ tỷ lệ này luôn luôn thay đổi. Vì vậy, đối với mỗi quốc gia phải căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế của mình để lựa chọn những chiến lược phát triển phù hợp nhưng vẫn giải quyết tốt vấn đề việc làm. Chỉ có như vậy mới tránh được tình trạng lãng phí nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực con người. * Về thất nghiệp: Đây là một hiện tượng gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hiện đại. Tỷ lệ thất nghiệp cao hay thấp là tiêu chí quan trọng để đánh giá sự thành công hay không thành công trong chính sách phát triển kinh tế của một quốc gia, một chính phủ đưa ra trong quá trình triển khai các chính sách kinh tế của mình. Có nhiều các khái niệm khác nhau được đưa ra để nói đến thất nghiệp nhưng nội dung cơ bản của vấn đề: thất nghiệp là khái niệm dùng để chỉ những người trong lực lượng lao động chính là những người có khả năng lao động, có sức khỏe và muốn lao động để kiếm sống (thể hiện qua những cố gắng tìm kiếm công ăn việc làm hoặc đang chờ để trở lại nơi làm việc cũ), nhưng hiện đang không có việc làm trong một khoảng thời gian xác định. Theo quan niệm của ILO: thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc, nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công thịnh hành. Thất nghiệp có nhiều loại: Thất nghiệp cơ cấu: là thất nghiệp xuất hiện khi không có sự đồng bộ giữa kỹ năng, trình độ của người lao động với việc làm do cầu lao động và sản xuất thay đổi. Thất nghiệp do chuyển đổi: Đây là một dạng của thất nghiệp cơ cấu, nó xảy ra do có sự chuyển đổi chính sách kinh tế làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế và thay đổi nhu cầu sản xuất và tiêu thụ một số loại sản phẩm nào đó. Vì vậy, một số ngành kinh tế truyền thống bị giảm sút và có sự xuất hiện của một ngành kinh tế mới. Sự xuất hiện của các ngành sản xuất tạo ra sự thay đổi trong kỹ năng, thao tác cũng như tay nghề của người lao động nên số lao động cũ phải thôi việc vì không đáp ứng được yêu cầu của công việc hoặc phải mất một thời gian nhất định để tham gia các lớp đào tạo lại kỹ năng, tay nghề. Loại thất nghiệp này xảy ra ở những quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi, nhất là ở các quốc gia đang phát triển hơn nữa do sự biến đổi sâu sắc cơ cấu kinh tế- xã hội của các quốc gia này nên thất nghiệp do chuyển đổi có quy mô lớn hơn và trầm trọng hơn so với thất nghiệp do thay đổi cơ cấu của các nước phát triển. Thất nghiệp theo mùa vụ: Là loại hình thất nghiệp xảy có tính định kỳ trong một khoảng thời gian nhất định do tính mùa vụ của quá trình sản xuất kinh doanh gây ra. Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động bỏ việc do muốn tìm một công việc khác tốt hơn hoặc chưa tìm được việc làm phù hợp với nguyện vọng. Thất nghiệp không tự nguyện: Đây là loại thất nghiệp mà ở đó người lao động chấp nhận những điều kiện làm việc và mức lương thực tế nhưng vẫn không được tuyển dụng hoặc không có việc làm. Trong điều tra thực trạng lao động và việc làm của Bộ LĐTB - XH, người bị coi là thất nghiệp ở nước ta được hiểu: là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế hiện tại đang: - Có hoạt động đi tìm việc làm trong 4 tuần qua hoặc không có hoạt động đi tìm việc làm vì lý do không biết tìm việc ở đâu hoặc tìm nhưng chưa tìm được. - Trong tuần lễ trước đó (tính từ thời điểm điều tra) có tổng số giờ là việc dưới 8 giờ, có mong muốn và sẵn sàng làm thêm giờ nhưng không tìm được việc. Dù vậy, chúng ta cũng có sự phân biệt cho những người từ 15 tuổi trở lên nhưng thuộc những đối tượng sau đây không nằm trong số những người thất nghiệp và không nằm trong lực lượng lao động: người đang đi học; người không có khả năng lao động; người không có nhu cầu tìm việc làm; người làm công việc nội trợ ở gia đình. Mặc dù những tiêu chí đưa ra để xác định người có việc, người thất nghiệp chỉ mang tính chất tương đối, nhưng nó góp phần quan trọng để chính phủ đưa ra những chính sách ở tầm vĩ mô. Qua đó chống thất nghiệp, phát triển kinh tế mạnh mẽ để tạo nhiều việc làm cho người lao động góp phần vào sự phát triển ổn định và bền vững của quốc gia. Ngược lại, nếu không có sự nghiên cứu những cơ sở này thì chúng ta sẽ không đưa ra được những chính sách phù hợp, chính xác và khoa học. Từ đó, sẽ làm lãng phí nguồn lực không tạo ra động lực cho sự phát triển đất nước. * Tạo việc làm cho người lao động: Từ phân tích trên ta thấy, việc làm cho người lao động được tạo ra khi có sự gặp nhau giữa cung và cầu lao động, nó được thể hiện thông qua phạm trù tiền lương. Có nghĩa là khi người lao động và người sử dụng lao động phải gặp nhau thì việc làm mới sẽ được tạo ra. Tạo việc làm cho người lao động chính là việc sử dụng một cách hợp lý nhất nguồn lực con người, nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên để tạo ra của cải cho đất nước và tạo ra nguồn thu nhập một cách chính đáng, tương xứng với đóng góp của người lao động cũng như người sử dụng lao động. Tạo việc làm cho người lao động là quá trình tạo ra số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế - xã hội khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động. Theo quan niệm như trên thì tạo việc làm cho người lao động đòi hỏi phải có những yếu tố cơ bản: tư liệu sản xuất với số lượng và chất lượng đầy đủ- yếu tố này muốn có được trong nền kinh tế đòi hỏi phải có sự có mặt của phía doanh nghiệp; sức lao động đáp ứng số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất đã được tạo ra- điều này muốn có được phải phụ thuộc về phía người lao động. Tuy nhiên, để có được sự kết hợp của hai yếu tố này đòi hỏi cần phải có những điều kiện kinh tế - xã hội khác. Những điều kiện này có được một phần chủ yếu là thông qua vai trò to lớn của nhà nước. Muốn giải quyết việc làm, cần có sự nỗ lực từ hai phía: người lao động với năng lực của mình phải tự tìm kiếm công việc phù hợp, người sử dụng lao động phải tìm được người lao động đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp mình. Điều này muốn có được đòi hỏi phải có nhưng thông tin về thị trường lao động, bao gồm cầu và cung về lao động. Trên có sở này người lao động và người sử dụng lao động mới có thể gặp nhau được. Để có được những thông tin này, hay nói rộng ra chính là môi trường để có được sự kết hợp giữa yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất cần phải có cơ chế, chính sách phù hợp cùng với vai trò của nhà nước. Về phía người sử dụng lao động là toàn bộ các doanh nghiệp cả trong và ngoài nước, có vai trò là tạo ra chỗ làm mới và duy trì chỗ làm hiện có. Để đảm nhận vai trò đó người sử dụng lao động cần phải có những điều kiện: có vốn, có công nghệ, có kiến thức và kinh nghiệm tổ chức quản lý và phải tìm được thị trường tiêu thụ hàng hoá. Mặt khác, người sử dụng lao động còn phải đến thị trường lao động để thuê lao động. Chỉ khi nào người sử dụng lao động tìm được sức lao động phù hợp với nhu cầu của mình cả về chất lượng và số lượng thì khi đó việc làm mới được hình thành. Về phía người lao động: Người lao động muốn có việc làm phải có sức khoẻ, có trình độ cũng như những kỹ năng cần thiết đáp ứng được yêu cầu của công việc. Vì vậy, họ phải không ngừng hoàn thiện bản thân trên các mặt này. Khi đã có đủ những điều kiện trên, người lao động còn phải chủ động nắm bắt những cơ hội về việc làm. Trên thực tế người lao động luôn di chuyển đến những nơi có điều kiện sống, điều kiện làm việc tốt hơn cũng như có nhiều có hội về việc làm, đặc biệt là lao động ở khu vực nông thôn luôn có xu hướng vận động ra thành thị. Bởi tại đây có điều kiện sống và điều kiện làm việc tốt hơn, mặt khác ở nông thôn họ cũng không sử dụng hết thời gian lao động của họ. ở các nước đang phát triển lao động nông thôn chiếm tỷ lệ cao (khoảng 40%). Trong khi đó, điều kiện sống và làm việc ở nông thôn thì thấp hơn nhiều so với khu vực thành thị nên người lao động có xu hướng chuyển ra thành thị. Chính điều này lại tạo thành sức ép đối với lao động và việc làm cho khu vực thành thị, vốn tỷ lệ thất nghiệp đã khá cao. Do vậy, để từng bước giải quyết vấn đề này phải quan tâm tới tạo việc làm cho người lao động ngay ở khu vực nông thôn. Về phía Nhà nước: Nhà nước có vai trò quan trọng trong tạo việc làm. Vai trò của nhà nước được thể hiện trong việc tạo môi trường thuận lợi cho việc làm hình thành và phát triển việc làm. Tạo môi trường thuận lợi cho người lao động cũng như người sử dụng lao động, phát huy được khả năng của họ, đưa ra những chính sách liên quan tới người lao động, người sử dụng lao động. Đối với người lao động, Nhà nước tạo điều kiện cho họ được tiếp cận với hệ thống giáo dục, đào tạo nghề, trung tâm dịch vụ việc làm... và đặc biệt là tạo cơ sở pháp lý để phát triển thị trường lao động. Còn đối với người sử dụng lao động, Nhà nước có sự hướng dẫn về mặt pháp lý để họ được tự do, bình đẳng trong kinh doanh, có nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ về vốn, thông tin đào tạo nâng cao kiến thức quản lý của các doanh nghiệp... để khuyến khích họ phát triển sản xuất, kinh doanh. Qua đó, thu hút thêm nhiều lao động vào làm việc trực tiếp hoặc gián tiếp. Tóm lại, để tạo việc làm cho người lao động thì không chỉ là sự đảm bảo về phía người sử dụng lao động, người lao động mà còn có cả sự đảm bảo từ phía Nhà nước. Có như vậy việc làm mới được tạo ra và được đảm bảo ổn định. * Một số mô hình tạo việc làm cho người lao người lao động: - Mô hình lựa chọn công nghệ phù hợp, khuyến khích giá, tạo việc làm: Theo mô hình này, trong quá trình sản xuất để tạo ra một lượng sản phẩm như mong muốn chủ các doanh nghiệp sẽ phải lựa chọn: Một là để mua các yếu tố của quá trình sản xuất như sức lao động, nguyên vật liệu... thì có nhiều mức giá khác nhau, do đó họ phải lựa chọn mức giá nào cho phù hợp để có chi phí sản xuất là thấp nhất. Hai là: để đạt được lợi nhuận tối đa các nhà sản xuất sẽ phải lựa chọn một loại công nghệ phù hợp. Đó có thể là công nghệ hiện đại nhưng sẽ phải bỏ ra nhiều vốn trong trường hợp chi phí về lao động cao hoặc công nghệ ở một mức độ để sử dụng được nhiều lao động trong trường hợp giá lao động thấp. Việc áp dụng mô hình này ở các nước đang phát triển sẽ tạo được nhiều việc làm cho người lao động, vì có lợi thế và lực lượng lao động dồi dào nhưng lại bị giới hạn về nguồn vốn. Do đó, họ thường áp dụng công nghệ sử dụng nhiều lao động. Tuy nhiên, để đạt được điều này phải có vai trò của Nhà nước trong việc đưa ra những chính sách nhằm điều chỉnh lại giá cả sức lao động. - Mô hình lý thuyết tăng việc làm bằng gia tăng sản lượng quốc dân: Mô hình này chỉ ra rằng: ở các nước đang phát triển có lợi thế về lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ. Do đó, để tăng việc làm họ thường tìm cách đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng GDP qua đó sẽ thu hút được nhiều lao động vào làm việc. Theo tính toán của mô hình này thì hiệu quả của tăng trưởng kinh tế là kết quả tổng hợp của tăng sản lượng và việc làm chứ không chỉ có tăng năng suất lao động. Điều này đòi hỏi các chính sách vĩ mô của Nhà nước phải hướng mạnh vào tăng cầu lao động, qua đó sẽ tăng việc làm. - Mô hình thu nhập dự kiến về sự di cư nông thôn - thành thị (Harris - Todaro): Theo tác giả của mô hình thì quá trình CNH,HĐH sẽ kéo theo quá trình đô thị hoá. Vì vậy, sẽ xảy ra tình trạng di chuyển của dân cư từ khu vực nông thôn vào khu vực thành thị. Khi đó, người lao động sẽ phải so sánh mức thu nhập dự kiến có được từ việc di cư trong một khoảng thời gian nhất định với mức thu nhập trung bình đang có ở nông thôn. Nếu thu nhập dự kiến cao hơn thu nhập thực tế hiện có thì họ sẽ di cư. Thu nhập dự kiến thu được của người lao động di chuyển, tuỳ thuộc vào khả năng có thể tìm được việc làm, mức lương và độ tuổi của người di cư. Do đó, lúc này tác giả đề xuất với chính phủ giảm mức lương ở thành thị, xoá bỏ những nhân tố ảnh hưởng đến giá cả của các nhân tố sản xuất, tăng việc làm ở nông thôn, áp dụng công nghệ và có chính sách phù hợp sẽ là biện pháp tạo thêm việc làm. 1.2. Tác động của quá trình đô thị hoá và sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động trong quá trình đô thị hoá ở ngoại thành Hà Nội Khi đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại nó sẽ kéo theo quá trình đô thị hoá mạnh mẽ. Khi đó người lao động đang sinh sống và làm việc ở khu vực ngoại thành sẽ tìm cách di chuyển vào khu vực thành thị để tìm việc làm, tăng thu nhập và tiếp cận với đời sống hiện đại. Điều này sẽ trở thành sức ép đối với khu vực thành thị, gây ra sự bất ổn về kinh tế - xã hội của khu vực ngoại thành. Để giải quyết được tận gốc vấn đề này, phải tìm mọi cách tạo việc làm cho người lao động tại khu vực ngoại thành bị ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá. 1.2.1. Mâu thuẫn giữa cung - cầu lao động do quá trình đô thị hoá và hệ quả của nó về các mặt kinh tế - xã hội của ngoại thành * Mâu thuẫn giữa cung - cầu lao động trong quá trình đô thị hoá ngoại thành: ở nước ta, mức cung lao động luôn luôn lớn hơn so với mức cầu về lao động. Theo số liệu điều tra năm 2004, lực lượng lao động ở nước ta khoảng 43,242 triệu người, tăng 22,9% so với năm 1996. Trong giai đoạn 2000 - 2004, bình quân mỗi năm lực lượng lao động cả nước tăng thêm 1,02 triệu người (tăng 2,5%/năm). Mức tăng lao động khá cao tạo nên sức ép trên thị trường lao động đối với cầu lao động, thể hiện ở tỷ lệ thất nghiệp của năm 2004 là 5,6 %. Trong khi đó, lao động ở khu vực nông thôn vẫn chiếm một tỷ lệ lớn. Năm 2004, lực lượng lao động nông thôn có 32,7 triệu người, chiếm tỷ lệ 75,58% lực lượng lao động cả nước. Năm 2005, lực lượng lao động cả nước là 44,385 triệu người, tăng so với năm 2004 là 2,64%. Tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi lao động có giảm nhưng vẫn chiếm 5,3%. Tuy tỷ lệ lao động ở khu vực nông thôn có giảm so với năm 2004 là 0,54%, nhưng tỷ lệ vẫn cao chiếm 75,06% tương đương với 33,318 triệu người. [ 2, tr.5, 12 ] Khi quá trình đô thị hoá ngoại thành diễn ra sẽ dẫn đến các hiện tượng sau đây khiến cho cung - cầu về lao động càng mất cân đối: Một là, do tác động của quá trình đô thị hoá quá trình phân công lại lao động diễn ra mạnh mẽ, làm cho một bộ phận rất lớn lao động sống dựa vào nông nghiệp bị ảnh hưởng do bị mất tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai. Do đó, tạo ra sức ép là phải giải quyết việc làm cho lực lượng lao động dôi dư này. Từ đây, nó gây ra sự mất cân đối về cung - cầu lao động trên thị trường lao động. Mặc dù cầu có tăng nhưng tỷ lệ tăng của nó vẫn không tương ứng với mức tăng của cung. Chính mâu thuẫn này, làm cho vấn đề giải quyết việc làm gặp nhiều khó khăn. Hai là, quá trình CNH,HĐH sẽ kéo theo xu thế đô thị hoá nhanh chóng các khu vực trước đây thuộc nông thôn, sẽ ảnh hưởng đến những ngành nghề truyền thống ở nông thôn. Do tình trạng di dân từ khu vực nông thôn vào khu vực thành thị để tìm kiếm việc làm, khi đó ở một mặt nào đó nó sẽ làm cho cung về lao động ở khu vực nông thôn cũng bị thiếu hụt (chủ yếu là là cung về lao động giản đơn làm việc trong các làng nghề thủ công) trong khi cung về lao động ở khu vực thành thị lại bị dư thừa (chủ yếu là lao động giản đơn, lao động chưa qua đào tạo). Ba là, tình trạng dư thừa lao động giản đơn rất trầm trọng. Dù chiếm một số lượng đông đảo trong lực lượng lao động xã hội, nhưng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam phần nhiều là lao động giản đơn, chưa qua đào tạo còn lao động qua đào tạo, lao động có trình độ chuyên môn cao chỉ chiếm một con số rất nhỏ. Năm 2004, trong tổng cơ cấu lực lượng lao động cả nước thì khu vực thành thị có số lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật là 46,05%. Còn ở nông thôn, con số này chỉ là 14,99%, số lao động chưa qua đào tạo chiếm 85,01%. Vì thế, giải quyết việc làm cho số lao động này càng trở lên khó khăn [6, tr.28]. Bốn là, do yêu cầu của việc mở rộng sản xuất, áp dụng công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất trong quá trình CNH,HĐH thì cầu về lao động chuyên môn kỹ thuật, lao động qua đào tạo luôn gia tăng nhưng cung về lao động có chất lượng, nhất là ở khu vực nông thôn lại không đáp ứng được cũng như không đủ mặc dù có nhiều tiến bộ. Theo số liệu năm 2004, lực lượng lao động được đào tạo ở khu vực nông thôn mới chỉ là 14,99 %. Điều đó đang trở ngại cho việc phát triển một số ngành nghề mới trong khu vực nông thôn, gây khó khăn cho việc giải quyết việc làm cho người lao động ở khu vực nông thôn, ngoại thành. Năm là, thông tin trên thị trường lao động còn chưa chính xác, đầy đủ và kịp thời nên cung và cầu trên thị trường lao động không gặp được nhau, người có nhu cầu tìm việc và người có nhu cầu sử dụng sức lao động vẫn chưa gặp nhau. Đây là một nội dung cần được chú trọng phát triển, vì phải có thông tin thì người muốn được tuyển dụng, người lao động - bên cung và người chủ thuê lao động, doanh nghiệp cần tuyển dụng lao động - bên cầu mới có thể gặp nhau. Khi đó, mới hình thành việc làm và góp phần tạo việc làm cho người lao động. Từ tất cả những điều trên, làm cho mâu thuẫn giữa cung - cầu về lao động trong quá trình đô thị hoá trở nên gay gắt hơn bao giờ hết và gây ra những hệ quả xấu về kinh tế - xã hội đối với khu vực ngoại thành. * Hệ quả của mâu thuẫn giữa cung - cầu về lao động trong quá trình đô thị hoá ngoại thành: Thứ nhất, gây lãng phí nguồn lực lao động. Trong khi tỷ lệ lao động ở khu vực thành thị cũng đang thất nghiệp cao chưa giải quyết được thì lại phải giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động đông đảo từ khu vực ngoại thành di chuyển vào. Thành thị trở thành nơi tập trung lao động quá đông dẫn đến lãng phí nguồn lực lao động “ nguồn lực của mọi nguồn lực”. Thứ hai, gây ra mâu thuẫn về lợi ích mà đặc biệt là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa khu vực thành thị với khu vực nông thôn. Điều này được thể hiện, trong khi mức sống và điều kiện đảm bảo cho cuộc sống như giao thông, dịch vụ … của lao động ở khu vực thành thị luôn được đáp ứng thì thu nhập và những điều kiện này của người lao động khu vực ngoại thành, nông thôn lại rất thiếu thốn. Do đó, tiềm ẩn nguy cơ có thể nảy sinh những xung đột về lợi ích kinh tế nếu không sớm được giải quyết. Thứ ba, nảy sinh những vấn đề xã hội nhức nhối do nạn thất nghiệp tăng cao. Những người trước đây lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, do tác động của quá trình đô thị hoá, quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp lên bị mất việc làm cũng như thiếu việc làm, buộc phải chuyển sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ nhưng không đáp ứng được yêu cầu. Do đó, họ không có việc làm và thời gian nhàn rỗi nhiều lại không có thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình nên dễ nảy sinh các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, cờ bạc… làm ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định và bền vững của thủ đô nói chung và khu vực ngoại thành nói riêng. Thứ tư, tình trạng không có việc làm tăng cao, người dân gặp nhiều khó khăn trong đời sống sẽ dẫn đến lòng tin vào chính quyền bị giảm sút, rất dễ xảy ra tình trạng không ổn định trong xã hội. Gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà trước hết là ở lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông thôn. 1.2.2. Sự cần thiết phải tạo việc làm và những nhân tố tác động đến quá trình tạo việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội 1.2.2.1. Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội Thấy được tầm quan trọng của việc tạo việc làm cho người lao động ở khu vực nông thôn, nên trong thời gian qua ở nhiều tỉnh và thành phố đã có nhiều hoạt động nhằm tạo việc làm để giải quyết lao động dư thừa ở khu vực nông nghiệp, nông thôn bằng nhiều hình thức khác nhau như: tạo việc làm mới từ kinh tế trang trại; từ việc khôi phục và phát triển làng nghề nông thôn; tạo việc làm mới từ phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá lớn cũng như tạo việc làm mới từ các chương trình, dự án quốc gia và quốc tế. Điều này cho thấy sự quan tâm đặc biệt của các cấp, các ngành đối với vấn đề việc làm cho lao động nông thôn, ngoại thành. Thủ đô Hà Nội cũng không phải là một ngoại lệ. Chúng ta nhận thức, giải quyết việc làm là vô cùng quan trọng, nó có tác động to lớn đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt là tạo việc làm cho người lao động ở khu vực ngoại thành nói chung và ngoại thành Hà Nội nói riêng là vô cùng cần thiết. Vì: - Con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế, xã hội. Chúng ta luôn khẳng định mục tiêu phát triển con người, làm cho người lao động có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và được chăm sóc một cánh đầy đủ về đời sống vật chất, tinh thần là mục tiêu cao nhất, có ý nghĩa nhất. Muốn đạt được điều này một trong những nhiệm vụ ưu tiên quan trọng hàng đầu đó là phải làm cho người lao động có việc làm. - Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước nói chung và với thủ đô Hà Nội nói riêng. Chính vì vậy sự ổn định, phát triển của khu vực này sẽ góp phần to lớn vào sự phát triển của đất nước. Do đó đặt trong mục tiêu đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước của cả nước nói chung và của thủ đô nói riêng đều đặt nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trước mắt đó là đẩy mạnh CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn. - Nông nghiệp, nông thôn là khu vực quan trọng của Thành phố. Nó chính là vùng đệm cho sự mở rộng của Thành phố sau này, là nơi cung cấp lao động, cung cấp những sản phẩm cần thiết cho công nghiệp chế biến cũng như cho cuộc sống của người dân ở khu vực thành thị, là thị trường tiêu thụ những sản phẩm của các ngành công nghiệp, dịch vụ từ khu vực nội thành. Do đó, tạo ra sự ổn định ở khu vực này sẽ góp phần tạo ra sự ổn định cho cả thành phố. - Đối với những người lao động ở ngoại thành chỉ có tạo việc làm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân họ và gia đình tại chỗ thì mới đảm bảo được sự ổn định, đồng thời giảm bớt được tình trạng người dân ở khu vực này di chuyển vào trong nội thành gây ra sức ép trên nhiều mặt. 1.2.2.2. Những nhân tố tác động đến quá trình tạo việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội * Nhân tố về điều kiện tự nhiên: Nhân tố này, được thể hiện trên một số nội dung: tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… Để quá trình sản xuất có thể diễn ra được đòi hỏi phải có những yếu tố cơ bản của quá trình lao động: sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động của ngành nông nghiệp là điều kiện tự nhiên, bao gồm đất đai và những tài nguyên thiên nhiên khác. Nếu nơi nào tài nguyên thiên nhiên càng phong phú và đa dạng, thì càng dễ dàng cho người lao động có những cơ sở, điều kiện tự tạo việc làm cho mình. Ngược lại, nếu nơi nào tài nguyên thiên nhiên ít và kém đa dạng, thì sẽ rất khó khăn cho người lao động tìm việc làm cũng như tự tạo việc làm cho mình.( ở những vùng có nhiều núi đá người lao động có thể tự tạo việc làm cho mình thông qua các hoạt động liên quan đến khai thác nguồn tài nguyên này như: khai thác đá, nung vôi…). Cùng với đó, ở những nơi mà tài nguyên thiên nhiên càng phong phú, đa dạng thì cơ cấu ngành, nghề ở nơi đó cũng được rất đa dạng khi đó càng thuận tiện cho người lao động trong việc tìm kiếm việc làm cũng như tạo việc làm cho chính bản thân mình. Đặc biệt, tài nguyên thiên nhiên còn là lợi thế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những nước có điều kiện thiên nhiên và vị trí địa lý thuận lợi, sẽ có lợi thế để thu hút được các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài tham gia bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh, chuyển giao công nghệ. Do đó, sẽ rất thuận lợi trong giải quyết việc làm cho những người lao động. Hà Nội là thủ đô của cả nước, là một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá hàng năm thu hút rất nhiều các nhà đầu tư. Ngoại thành Hà Nội với diện tích rộng, vừa có đồng bằng vừa có miền núi, thiên nhiên đa dạng với nhiều tiềm năng đang là lợi thế lớn trong giải quyết việc làm. * Nhân tố liên quan đến chính sách vĩ mô của Nhà nước: Đây cũng là một nhân tố có những ảnh hưởng lớn đến nhiệm vụ giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và cho lao động ở khu vực ngoại thành nói riêng. Những chính sách vĩ mô của nhà nước như: chính sách về vốn; chính sách về phát triển khoa học công nghệ; chính sách hỗ trợ cho người lao động trong quá trình chuyển đổi công việc; chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn và hướng tới mục tiêu ổn định xã hội; chính sách về phát triển giáo dục; chính sách chăm sóc sức khoẻ cho người dân.. có thể nói, đây là những chính sách hết sức quan trọng và có ý nghĩa lâu dài trong chiến lược phát triển của đất nước nói chung và chiến lược giải quyết việc làm nói riêng. Nhờ sự đúng đắn của những chính sách này mà nền kinh tế từng bước được phát triển ổn định, tạo lập được môi trường kinh doanh và đầu tư thuận lợi. Nhờ vậy, có thể kêu gọi được các nhà đầu tư tham gia tổ chức sản xuất kinh doanh, khi đó sẽ góp phần to lớn vào giải quyết việc làm. Ngược lại, nếu những chính sách này của Nhà nước không phù hợp cũng có thể kìm hãm sự phát triển của đất nước, gây khó khăn trong việc kêu gọi các nguồn lực cho phát triển kinh tế, làm sản xuất bị đình trệ khi đó sẽ dẫn đến sự giảm sút của việc làm. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta khẳng định: “giải quyết việc làm là một chính sách xã hội cơ bản”, với những phương hướng chính là: Bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều chỗ làm mới, tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng, nhất là trong nông nghiệp và nông thôn. Các thành phần kinh tế mở mang các ngành nghề, các cơ sở sản xuất, dịch vụ có khả năng sử dụng nhiều lao động, chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, đảm bảo an toàn về sinh lao động, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, phòng chống thiên tai và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Khôi phục và phát triển các làng nghề. Tổ chức quản lý chặt chẽ hoạt động xuất khẩu lao động và bảo vệ quyền lợi của người lao động ở nước ngoài. Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội, xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm đối với người lao động thất nghiệp. [20, tr.104 - 105] Thời gian qua, chúng ta đã thực hiện một số chính sách có tác động trực tiếp đến việc làm và nâng cao thu nhập của người dân nhờ vậy đã đạt được những thành tựu đáng kể, trong đó có thành tựu về giải quyết việc làm. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm 2001 - 2005 tăng bình quân gần 7,51%/ năm. Năm 2005, GDP đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt 10 triệu đồng, tương đương khoảng 640USD. Tỷ trọng lao động của các ngành công nghiệp và xây dựng trong tổng số lao động xã hội tăng từ 12,1% năm 2000 lên gần 17,9% năm 2005; lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3% năm 2005; lao động trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và thuỷ sản đã giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%. Tỷ trọng lao động đã qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2005 [21, tr 142,146]. Trong 5 năm (2001- 2005), chúng ta đã giải quyết việc làm cho 7,5 triệu lao động. Bình quân mỗi năm, giải quyết việc làm cho 1,5 triệu lao động. Thời gian sử dụng lao động ở nông thôn, từ 74,37% năm 2001 lên 80% năm 2005, tăng 5,63%; thất nghiệp ở khu vực thành thị từ 6,28% năm 2001 xuống còn 5,4% năm 2005, giảm 0,88%.[21, tr.156] * Nhân tố liên quan đến giáo dục- đào tạo và khoa học - công nghệ: + Sự phát triển của hệ thống giáo dục- đào tạo: Đây là yếu tố liên quan đến trình độ của người lao động, nó có vai trò quyết định đến chất lượng và số lượng của lao động. Một quốc gia được đánh giá là nước phát triển nếu đảm bảo những yêu cầu về con người: những chuyên gia giỏi, những nhà quản lý giỏi, có đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề để có thể có những phát minh hoặc sử dụng được những công nghệ hiện đại được chuyển giao từ nước ngoài. Điều này cho ta thấy tầm quan trọng có ý nghĩa quyết định của giáo dục- đào tạo đối với sự phát triển của đất nước. Giáo dục- đào tạo giúp cho người lao động có đủ tri thức, năng lực sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của công việc. Nhờ có giáo dục- đào tạo, mà người lao động luôn luôn đón nhận được cơ hội để được sắp xếp vào những công việc phù hợp với trình độ chuyên môn, tay nghề được đào tạo và cơ hội để được tham gia và quá trình phân công lao động xã hội. Thấy được điều này, trong nhiều năm qua Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Đảng ta khẳng định: cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, cũng như hoạch định Chiến lược Phát triển giáo dục- đào tạo giai đoạn 2001- 2010, để từng bước đưa giáo dục Việt Nam hoà nhịp vào nền giáo dục của thế giới. Đáp ứng được những đòi hỏi, yêu cầu bức xúc về nguồn nhân lực có chất lượng cao. Chăm lo đầu tư cho giáo dục- đào tạo là chăm lo cho tương lai, đầu tư cho tương lai, đầu tư cho sự phát triển. Chỉ có như vậy, mới góp phần to lớn vào giải quyết việc làm, tăng thu nhập cũng như tạo việc làm mới cho người lao động. Đáp ứng được những thay đổi của nền sản xuất do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Nhờ đầu tư cho giáo dục- đào tạo mà chúng ta từng bước có được một đội ngũ những người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có tay nghề cao, có kỹ năng trong quản lý và vận hành nền kinh tế hiệu quả, đáp ứng yêu cầu cả về chất lượng và số lượng lao động cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. + Tiến bộ KH - CN: Đây cũng là một nhân tố quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng cũng như số lượng của lao động. Việc phát triển nhân tố này là một đòi hỏi bức thiết cho tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, khi phát triển nhân tố này sẽ gặp phải sự mâu thuẫn: nếu một quốc gia sử dụng công nghệ hiện đại, máy móc tự động, thì sẽ sử dụng lao động có chất lượng, được đào tạo về trình độ chuyên môn kỹ thuật với số lượng ít và không sử dụng lao động giản đơn. Khi đó, sẽ có một bộ phận lao động bị gạt khỏi quá trình sản xuất. Ngược lại, nếu một quốc gia sử dụng công nghệ trung bình, thì sẽ sử dụng lao động qua đào tạo những không cần ở trình độ cao và đặc biệt là, sử dụng nhiều lao động giản đơn, sẽ có nhiều chỗ làm, nhưng khả năng cạnh tranh của sản phẩm và của nền kinh tế sẽ giảm sút. Mâu thuẫn này đòi hỏi các quốc gia, nhất là những nước đang phát triển phải có những lựa chọn công nghệ sao cho phù hợp để vừa đảm bảo phát triển sản xuất, phát triển kinh tế phải vừa giải quyết được việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay thì ở nhiều nước nhất là những nước đang phát triển sẽ phải đảm bảo phát triển khoa học công nghệ trong một số ngành, lĩnh vực để đáp ứng yêu cầu cao cho sự phát triển. Nhưng mặt khác, cũng phải hiện đại hoá một số khâu của các ngành nghề thủ công truyền thống để vừa giảm bớt khó khăn trong sản xuất, vừa không làm ảnh hưởng đến việc làm của đội ngũ lao động. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến kết hợp hài hoà phát triển khoa học- công nghệ với việc chú trọng phát triển những cơ sở sử dụng nhiều lao động. Điều này đã góp phần to lớn cho việc vừa phát triển khoa học- kỹ thuật vừa giải quyết việc làm, tạo dựng được một đội ngũ những nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao, đội ngũ lao động được tri thức hoá… đáp ứng được những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. * Nhân tố dân số: Sự biến động về dân số cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển bền vững của một quốc gia, đặc biệt là sự biến động về số lượng và chất lượng của lao động. Nếu mức tăng trưởng dân số với tốc độ và quy mô hợp lý, sẽ cung cấp một cách đầy đủ nguồn lực có ý nghĩa quyết định nhất cho sự phát triển của sản xuất cũng như sự phát triển của xã hội- nguồn lực con người. Ngược lại, chính nhân tố này cũng trở thành sức ép, trở thành gánh nặng đối với sự phát triển của một quốc gia, nhất là sức ép về việc làm cho người lao động. Điều này thường xảy đến đối với những quốc gia đang phát triển, trong đó Việt Nam. Khi xem xét tác động của nhân tố dân số đến việc làm, phải xem xét tới cơ cấu dân số, chất lượng dân số và tình hình phân bố dân cư…chỉ có như thế mới tạo cho chúng ta có một cái nhìn tổng quan về những ảnh hưởng của việc nhân tố này tới vấn đề giải quyết việc làm và tạo việc làm mới. Nếu cơ cấu dân số trẻ, sẽ là một áp lực rất lớn về việc làm nhưng ngược lại nếu cơ cấu dân số già thì trong tương lai sẽ lại là lực cản cho sự phát triển, khi số người tham gia vào lao động tạo ra của cải ít hơn so với số người ra khỏi độ tuổi lao động được hưởng trợ cấp xã hội. ở Việt Nam hiện nay, có cơ cấu dân số trẻ, nhóm dân số dưới 15 tuổi chiếm tỷ lệ khá cao nhưng có xu hướng giảm rõ rệt, từ 33,1% năm 1999 giảm xuống còn 26,16% năm 2004, giảm 6,94%, bình quân mỗi năm giảm 1,39%; ngược lại dân số từ 15 tuổi trở lên tăng tương ứng từ 66,9% năm 1999 lên 73,8% năm 2004, tăng 6,94%, bình quân mỗi năm tăng 1,39% [16, tr.81]. Điều này cho thấy, tháp dân số đang chuyển dần từ dân số trẻ sang dân số trưởng thành, có lợi về mặt kinh tế, góp phần làm giảm tỷ lệ phụ thuộc kinh tế song cũng sẽ làm tăng tổng cung lao động, tăng hơn nữa sức ép về việc làm trong tương lai. Nếu chất lượng lao động ở trình độ cao, sử dụng công nghệ hiện đại sẽ tạo ra nhiều của cải cho xã hội và họ sẽ dễ dàng tìm được những công việc phù hợp. Cho nên vấn đề việc làm được giải quyết. Nhưng ở những nước đang phát triển thì lực lượng lao động được qua đào tạo còn thấp, lao động giản đơn vẫn là chủ yếu. Vì thế, ngoài những đóng góp cho xã hội thấp do năng suất lao động thấp thì họ sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình tìm một công việc phù hợp với khả năng của bản thân, làm cho số lượng lao động dư thừa tăng lên. Điều này lại trở thành sức ép đối với các quốc gia, trong tạo việc làm cho người lao động. Việt Nam là nước đang trong quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại. Vì vậy, cơ cấu lao động cũng từng bước chuyển dịch từ lao động thủ công, lao động nông nghiệp là chính sang lao động sử dụng mày móc, lao động công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, hiện nay số lao động được qua đào tạo còn thấp, nhất là lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Đứng trước thực trạng này, Đảng và Nhà nước ta đã có Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010, Pháp lệnh dân số… để hướng tới mục tiêu: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hưóng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế và quốc phòng, an ninh được tăng cường… * Thị trường lao động và sự phát triển của nó: Thị trường lao động (thực chất là thị trường sức lao động) là một trong những thị trường quan trọng và cơ bản của nền kinh tế thị trường. Phát triển thị trường lao động là một tất yếu khách quan nhằm phân bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực theo cung - cầu và giá cả lao động của thị trường, thu hút đầu tư, tạo việc làm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. TTLĐ theo nghĩa rộng, là nơi mua bán sức lao động diễn ra giữa người lao động (cung lao động) và người sử dụng lao động (cầu lao động). TTLĐ theo nghĩa hẹp, chỉ giới hạn trong khu vực có quan hệ lao động được hiểu là nơi diễn ra sự trao đổi theo nguyên tắc thoả thuận về các quan hệ lao động (việc làm, tiền công và các điều kiện là việc khác), giữa người lao động và người sử dụng lao động bằng hình thức hợp đồng lao động [14, tr.79 - 83, 90]. Trên thị trường lao động nếu cung và cầu về lao động gặp nhau, nghĩa là người lao động muốn bán sức lao động của mình phải gặp được người cần mua sức lao động và người sử dụng lao động cũng mua được loại hàng hoá sức lao động từ người lao động, thì có nghĩa là việc làm đã được hình thành, người lao động được coi là người có việc làm. Thị trường lao động có một chức năng hết sức quan trọng đó là chức năng thông tin: thông qua thị trường này, người lao động có nhu cầu tìm việc sẽ tìm kiếm cho mình một công việc phù hợp với khả năng, tay nghề cũng như chuyên môn được đào tạo thông qua những yêu cầu mà nhà tuyển dụng đưa ra. Ngược lại, nhà tuyển dụng cũng có thể có được thông tin về chất lượng, số lượng những người cần việc làm để có thể lựa chọn được những người lao động đáp ứng được yêu cầu của mình. Như vậy, để việc làm được tạo ra nhiều hơn đòi hỏi phải có sự đồng ý và nhất trí giữa người lao động - bên cung lao động và người sử dụng lao động - bên cầu lao động. Muốn vậy, cần phải có sự phát triển mạnh mẽ của thị trường lao động. Để phát triển thị trường lao động cần có nhiều yếu tố: - Cơ chế, chính sách của nhà nước qui định về thuê mướn, sử dụng lao động...để đảm bảo có sự xuất hiện của quan hệ cung - cầu lao động - Các trung tâm dịch vụ việc làm. - Các tổ chức để bảo vệ quyền lợi cho người lao động. 1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố về tạo việc làm cho người lao động (trong đó có tạo việc làm cho người lao động ngoại thành) 1.3.1. Kinh nghiệm tỉnh Hải Dương Hải Dương là tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phía Bắc, có diện tích là 1.661 km2. Trong đó, đất nông nghiệp chiếm 63,15%; đất lâm nghiệp chiếm 5,48%; đất chuyên dùng 17%; đất ở là 6,87%; đất chưa sử dụng là 7,47%. Dân số là 1.696.230 người (vào thời điểm 31/12/2003). Dân số khu vực thành thị tăng nhanh, năm 2003 dân số thành thị tăng gần gấp đôi so với năm 1996. Tuy nhiên, dân số ở nông thôn vẫn chiếm tới 86% [47, tr.41]. Là tỉnh đang chịu những tác động lớn về nhiều mặt kinh tế- xã hội của qúa trình đô thị hoá, do sự hình thành nhiều khu công nghiệp để kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp. Tình trạng thất nghiệp của tỉnh vẫn còn cao, dù có giảm trong vài năm gần đây. Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2004, tỷ lệ thất nghiệp từ 6,03% xuống còn 5,69%, giảm 0,34%. Tạo việc làm cho 94.023 lao động; thời gian sử dụng lao động ở nông thôn từ 78,40% lên 78,85%, tăng 0,45% [ 47, tr.56, 61, 64]. Như vậy ở nông thôn vẫn còn khoảng trên 20% thời gian nhàn rỗi chưa huy động được vào sản xuất. Nhằm khắc phục những tồn tại, khó khăn trên về vấn đề giải quyết việc làm, Hải Dương đã có nhiều quyết sách để đạt mục tiêu trong giai đoạn 2006 – 2010 là: mỗi năm phải tạo việc làm mới cho 2,5 vạn lao động trở lên; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 38,4%; tỷ lệ thất nghiệp thành thị giảm xuống còn 4,5%, nâng thời gian lao động ở nông thôn lên 82%- 83%. [47, tr 75], thông qua một số giải pháp: + Tạo việc làm, thông qua nguồn vốn vay quỹ Quốc gia về giải quyết việc làm. Nguồn vốn này, được tập trung chủ yếu cho phát triển dịch vụ nông nghiệp, hình thành các cơ sở sản xuất tư nhân và phục vụ cho phát triển công nghiệp truyền thống để tạo thêm việc làm cho người lao động nông thôn. + Tạo việc làm bằng cách phát huy vai trò của tất cả các thành phần kinh tế. Nhờ vậy, thu hút thêm nhiều người lao động tham gia vào các hoạt động kinh tế. Qua đó, từng bước giải quyết được vấn đề lao động - việc làm. + Tạo việc làm qua giáo dục - đào tạo, đặc biệt là hệ thống đào tạo nghề và hướng nghiệp cho lao động nông thôn. Trong đó, chú trọng đến các lớp dạy nghề ngắn hạn để trang bị tay nghề cho người lao động nhờ đó họ có thể tìm cho mình một công việc phù hợp. Tỉnh đã có nhiều biện pháp, khuyến khích giải quyết việc làm như: các nhà đầu tư vào địa bàn tỉnh sẽ được cung cấp lao động đã qua đào tạo hay doanh nghiệp có nhu cầu riêng sẽ được cấp kinh phí hỗ trợ đào tạo từ ngân sách của tỉnh. + Tạo việc làm thông qua phát triển các làng nghề truyền thống để thu hút lao động. Nhờ vậy, người lao động đã có thêm việc làm, giảm thời gian nông nhàn và tăng thêm thu nhập cho bản thân. + Tạo việc làm thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu lao động ra các thị trường. Chú trọng đến lao động ở khu vực nông thôn, khu vực bị tác động của quá trình đô thị hoá trên cơ sở trang bị cho họ một trình độ nhất định về tay nghề, chuyên môn kỹ thuật. 1.3.2. Kinh nghiệm của Thành phố Đà Nẵng Năm 1997, Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương và đến cuối năm 2003 được Chính phủ xếp hạng là đô thị loại I cấp quốc gia. Dân số của thành phố đến cuối năm 2002, là 747.000 người. Do tác động của quá trình đô thị hoá, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng: tăng dần lao động ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, đồng thời giảm dần lao động nông nghiệp, đã làm cho dân số đô thị của Đà Nẵng tăng mạnh với 587.000 người. [ 31, tr.16,17 ] Bên cạnh những kết quả to lớn mà quá trình đô thị hoá mang lại thì cũng phát sinh những khó khăn, bất cập như: Số lao động nông nghiệp bị mất việc làm và thiếu việc làm tăng mạnh, một bộ phận lớn lao động phải chuyển sang nghề các khác đòi hỏi phải được đào tạo. Hơn nữa, số lao động bước vào độ tuổi lao động ở đây đang có xu hướng tăng lên, trong khi trình độ văn hoá thấp, không được đào tạo về tay nghề đang trở thành những bức xúc đòi hỏi thành phố phải giải quyết. Đứng trước tình hình này, thành phố đã có nhiều giải pháp để tạo việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động ngoại thành như: - Tiếp tục thực hiện đầy đủ các chính sách bồi thường thiệt hại, hỗ trợ và tái định cư cho người dân khi nhà nước thu hồi đất bên cạnh đó thường xuyên rà soát, bổ sung điều chỉnh chính sách cho phù hợp. - Cho vay vốn để sản xuất kinh doanh từ nguồn vốn vay của Ngân hàng Chính sách xã hội, quỹ Quốc gia giải quyết việc làm. Bổ sung nguồn vốn quỹ Quốc gia giải quyết việc làm từ ngân sách địa phương đồng thời cho vay ưu đãi theo hướng cấp bù lãi suất để đảm bảo nguồn cho vay chuyển đổi ngành nghề, tạo việc làm cho đối tượng chịu tác động của quá trình đô thị hoá. - Miễn thuế, giảm thuế sản xuất kinh doanh đối với những hộ nông dân chịu ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá buộc phải chuyển qua sản xuất kinh doanh ở những ngành nghề khác. - Tăng đầu tư ngân sách và mở rộng hoạt động dạy nghề, đặc biệt tăng chỉ tiêu dạy nghề dài hạn bằng ngân sách để từng bước tăng nhanh đội ngũ công nhân lành nghề cho thành phố, tiếp tục duy trì chỉ tiêu dạy nghề ngắn hạn do ngân sách đài thọ. Tổ chức các lớp học nghề miễn phí, có chú trọng đến những đối tượng bị buộc phải chuyển đổi ngành nghề. - Đối với những nông dân không còn đất sản xuất nhưng thật sự không có điều kiện chuyển đổi nghề, thành phố vận động họ lập trang trại để hình thành vùng chuyên canh sản phẩm nông nghiệp hoặc thuê mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản, tự tạo việc làm cho mình và cho người khác. Đẩy mạnh hoạt động khuyến nông, khuyến ngư, tăng cường chuyển giao kỹ thuật, mở các lớp huấn luyện kỹ thuật, bồi dưỡng và bổ túc nghề cho họ. - Có văn bản quy định đối với các doanh nghiệp được giao đất tại các khu công nghiệp trên địa bàn, phải có trách nhiệm tiếp nhận người lao động trong diện chịu ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá vào làm việc tại doanh nghiệp. Nhờ đó, Đà Nẵng đã thu được một số kết quả: trong giai đoạn 1997 - 2004 đã giải quyết việc làm cho 144.380 lao động, tỷ lệ thất nghiệp giảm còn 5,4%, tỷ lệ sử dụng quỹ thời gian lao động ở nông thôn được nâng lên 82% vào cuối năm 2004. Nhìn chung, cơ cấu lao động đã chuyển dịch phù hợp với cơ cấu phát triển của thành phố theo hướng công nghiệp - du lịch- dịch vụ làm mũi nhọn. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng lên 35%, trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 22,5% vào cuối năm 2004. Thành phố đã hình thành được hệ thống DVVL bao gồm 5 trung tâm thuộc các đơn vị Nhà nước, Hội, Đoàn thể và một công ty tư vấn. Hàng năm hệ thống này đã tư vấn, giới thiệu, cung ứng cho 12.000 lao động cho các ngành kinh tế [30, tr.13, 14]. Trên đây, là một số kinh nghiệm tạo việc làm cho lao động nông thôn ngoại thành bị tác động của quá trình đô thị hoá. Đây là những kiến thức thực tiễn rất có ý nghĩa để chúng ta học tập, vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn ở ngoại thành Hà Nội trong những năm tới khi mà tốc độ đô thị hoá của thành phố ngày càng diễn ra nhanh hơn và mạnh mẽ hơn. Những vấn đề được rút ra: + Muốn tạo được việc làm cho người lao động phải tập trung phát triển kinh tế bao gồm tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Trong đó có trú trọng đến đặc điểm của các ngành kinh tế ở khu vực nông thôn, ngoại thành. + Phải có chính sách đào tạo nghề, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động. Từ đó, giúp cho người lao động dễ dàng tìm được một công việc phù hợp hoặc tự tạo cho mình một nghề nghiệp chính đáng. + Tạo thêm việc làm thông qua các chính sách khuyến khích, ưu đãi của nhà nước: ưu đãi về thuế, chính sách tín dụng cho người nghèo, thông qua Quỹ quốc gia giải quyết việc làm hoặc thông qua nguồn vốn của các tổ chức quốc tế. + Tập trung vào hoạt động xuất khẩu lao động để tạo thêm việc làm cho người lao động. Có các chính sách ưu đãi, khuyến khích của nhà nước đối với những lao động có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài. Chương 2 Thực trạng tạo việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội 2.1. Những đặc điểm của thủ đô Hà Nội có ảnh hưởng đến tạo việc làm 2.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên - lịch sử Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm Đồng bằng Bắc bộ, từ 20054’ đến 200 22’ vĩ độ bắc, 1050 42’ đến 1060 00’ kinh độ đông. Phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc, tỉnh Thái Nguyên; phía Nam giáp tỉnh Hà Tây, Hưng Yên; phía Đông giáp tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên; phía Tây giáp tỉnh Hà Tây. Hà Nội nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, là một trong 3 cạnh của tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng- Quảng Ninh, đang được Chính phủ quan tâm đầu tư để phát triển tương xứng với tiềm năng của Thủ đô, giữ vị trí đầu não về chính trị, kinh tế và văn hoá của cả nước. Sự phát triển của Hà Nội cũng làm cho các vùng lân cận trong tam giác kinh tế được phát triển, trở thành vệ tinh đảm bảo cho sự phát triển mạnh mẽ của cả vùng kinh tế. Hà Nội có tổng diện tích là 920,97 km2, khoảng cách từ Bắc xuống Nam dài trên 50 km, từ Tây sang Đông gần 30 km. Hà Nội, có 9 quận nội thành là: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Tây Hồ, Long Biên, Cầu Giấy, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Hoàng Mai và Thanh Xuân với 128 phường, diện tích nội thành là 178,78 km2 chiếm 19,41% diện tích toàn thành phố. Khu vực ngoại thành bao gồm 5 huyện là: Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Từ Liêm, Thanh Trì với 98 xã và 6 thị trấn, diện tích là 742,19 km2 chiếm 80,59% diện tích toàn Thành phố. Mật độ dân số bình quân của toàn thành phố là 3.515 người/km2 tuy nhiên, sự phân bố dân cư của khu vực nội thành và ngoại thành lại không đồng đều. ở khu vực nội thành, với mật độ dân số trung bình là 11.314 người/ km2, trong đó cao nhất là quận Đống Đa và Hoàn Kiếm với 37.631 người/km2 và 33.856 người/km2, còn thấp nhất là quận Tây Hồ và Long Biên với 4.550 người/km2 và 3.205 người/km2. Mật độ dân số trung bình ở khu vực ngoại thành chỉ là 1.643 người/km2, cao nhất là huyện Từ Liêm với 3.569 người/km2 và thấp nhất là huyện Sóc Sơn với 875 người/km2 [13, tr.9]. Thủ đô Hà Nội có hệ thống giao thông thuận lợi, nối liền với nhiều địa phương trong nước và quốc tế về cả đường bộ, đường không và đường sắt. Hà Nội có sân bay quốc tế Nội Bài (thuộc huyện Sóc Sơn) với khả năng phục vụ trên nhiều triệu lượt khách trong nước và quốc tế mỗi năm. Về đất đai, Hà Nội cũng có nhiều thuận lợi cho sự đa dạng hoá sinh học. Trong đó, vùng đồi núi chiếm khoảng 10% diện tích tự nhiên, tập trung chủ yếu ở phía Tây Bắc huyện Sóc Sơn. Vùng đồng bằng chiếm khoảng 90% diện tích tự nhiên, trong đó phía nam huyện Sóc Sơn và phần lớn huyện Đông Anh là đất bạc màu, còn lại là đất phì nhiêu, màu mỡ thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi. Theo số liệu của Cục Thống kê Thành phố, diện tích đất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản của Hà Nội năm 2005 là 47.025 ha. Trong đó, đất nông nghiệp chiếm 38.414 hécta, diện tích mặt nước nuôi thuỷ sản là 3.057 héc ta, đất lâm nghiệp chiếm 5.432 hécta và diện tích đất nông, lâm nghiệp - thuỷ sản khác là 122 hécta [13, tr 167]. Như vậy, tài nguyên đất phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và diện tích mặt nước phục vụ nuôi trồng thuỷ sản của thành phố còn rất lớn. Thủ đô Hà Nội còn rất thuận lợi trong việc phát triển các ngành dịch vụ, đặc biệt là ngành du lịch. Với lịch sử gần 1000 năm tuổi của mình, Hà Nội mang trong mình những giá trị văn hoá và tinh thần hết sức to lớn. Bên cạnh đó, Hà Nội còn lưu giữ những công trình có giá trị lịch sử quan trọng như khu Quảng trường Ba Đình, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh nơi gìn giữ thi hài của Người và nhiều công trình lịch sử khác, rất thuận lợi cho việc phát triển các hoạt động tham quan du lịch về nguồn, du lịch lịch sử, văn hoá. Với thuận lợi nêu trên, Thành phố có điều kiện để đề ra những chính sách phù hợp nhắm từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Nhờ đó, phát triển mạnh các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ, du lịch cũng như từng bước hoàn thiện các vùng sản xuất nông sản, thực phẩm… để từng bước tạo nhiều việc làm cho người lao động của thành phố. 2.1.2. Những đặc điểm của lao động ngoại thành Hà Nội ảnh hưởng đến tạo việc làm Trong giai đoạn hiện nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, Hà Nội đang từng bước vươn lên xứng đáng là trung tâm văn hoá, khoa học, giáo dục và kinh tế của cả nước. Thành phố đã đạt được những kết quả nhất định trong nhiều lĩnh vực: giá trị các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch mạnh theo xu thế hiện đại, cơ cấu kinh tế dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp đã hình thành rõ nét; tỷ trọng các ngành kinh tế trong GDP là dịch vụ 57,5% - công nghiệp 40,5% và nông nghiệp 2%. Nhờ đó đã đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu lao động làm cho lao động nông nghiệp còn 20,04, lao động công nghiệp đạt 28,37% và lao động dịch vụ là 51,59%. So với cả nước, Hà Nội luôn là một trong những địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Trong 20 năm qua, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đã tăng lên: thời kỳ 1986- 1990 là 7,1%/năm, thời kỳ 1991 - 1995 là 12,52%/năm, thời kỳ 1996 - 2000 là 10,18%/năm và thời kỳ 2001- 2005 đạt là tốc độ tăng GDP bình quân là 11,1%/năm. Nếu giá trị GDP năm 2001 mới đạt 35.717 tỷ đồng thì đến năm 2005 đã tăng gần gấp đôi và đạt là 70.362 tỷ đồng.[13, tr.37] Trong nhiều năm qua, nhờ tăng trưởng kinh tế liên tục mà Thành phố đã hoàn thành được những chỉ tiêu đề ra. Nhiều nhiệm vụ quan trọng là giải quyết việc làm, nâng cao mức sống, xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa đã đạt được kết quá cao. Vì thế trong giai đoạn 2001 - 2004, Thành phố đã giải quyết việc làm cho 275.059 lao động và năm 2005, giải quyết việc làm khoảng 80.000 lao động, trung bình mỗi năm giải quyết việc làm cho khoảng 70.000 lao động. Tỷ lệ thất nghiệp của khu vực thành thị từ 7,95% năm 2000 giảm xuống 6,2% năm 2005. Đến năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo toàn thành phố giảm xuống còn 0,3% (theo chuẩn cũ) [23, tr.38]. Số vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô đều tăng qua các năm. Nếu năm 2002 là 22.185 tỷ đồng thì năm 2005 con số này đã là 34.640 tỷ đồng. Trong đó, vốn trong nước luôn luôn chiếm tỷ lệ cao từ 85,7% đến 87%, đặc biệt năm 2004 đạt 25.247 tỷ đồng chiếm 87% tổng số vốn đầu tư và năm 2005 đạt 30.100 tỷ đồng chiếm 87,01% [13, tr.107-108]. Nhờ vậy mà hàng năm, Thành phố có thể đầu tư một lượng lớn kinh phí cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, là đầu tư cho khu vực ngoại thành để phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, tạo việc làm, dạy nghề cũng như giảm dần tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm cho lực lượng lao động thủ đô. Trong 5 năm 2001- 2005, tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho nông thôn khoảng 2.540 tỷ đồng, chiếm 26% vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Thành phố [23, tr.31]. Hà Nội có số lượng dân cư lớn thứ hai cả nước, chỉ đứng sau Thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến ngày 1/7/2005, tổng dân số toàn thành phố là 3.182.700 người. Trong đó nam là 1.592.800 người, nữ là 1.589.900 người. Ngoại thành Hà Nội chiếm một tỷ lệ lớn về diện tích với 80,59% diện tích toàn thành phố, nhưng dân số trung bình là 1.192.600 nghìn người, chỉ chiếm 37,47% dân số trung bình toàn thành phố, được phân bố ổn định ở những địa bàn sau:[13, tr.9, 19] Bảng 2.1: Dân số trung bình của khu vực ngoại thành [13, tr.19] Đơn vị tính: 1000 người Năm Huyện 2002 2003 2004 2005 Sóc Sơn 256,6 256,3 260,9 266.0 Đông Anh 273,4 275,6 280,7 288,0 Gia Lâm 399,3 375,3 206,5 212,0 Từ Liêm 220,7 234,9 248,7 261,8 Thanh Trì 247,2 267,2 159,0 164,8 Qua số liệu ta thấy, ở những địa bàn ổn định thì dân số năm sau đều tăng hơn năm trước. Tuy nhiên, do một số huyện trong quá trình phân chia lại địa giới hành chính để hình thành những quận mới là Long Biên và Hoàng Mai năm 2004, nên có sự biến động về dân số trung bình của hai huyện là Gia Lâm và Thanh Trì. Nhưng trên bình diện chung, dân số ở ngoại thành luôn tăng lên do tỷ lệ tăng tự nhiên của khu vực ngoại thành luôn là 1,16% năm 2002 lên đến 1,34% năm 2005. Còn tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của khu vực nội thành chỉ là 0,96% năm 2002 lên đến 1,10% năm 2005. Huyện có tỷ lệ tăng dân số tự nhiên cao nhất là Sóc Sơn với 1,51% và thấp nhất là Từ Liêm với 1,10% năm 2005. Cùng với đó, là tỷ lệ sinh con thứ 3 của người mẹ ở khu vực ngoại thành luôn duy trì ở 2 chữ số. Thuận lợi ở đây là đáp ứng được yêu cầu lao động cho sự phát triển kinh tế, nhưng mặt khác tỷ lệ tăng dân số ở khu vực ngoại thành cao sẽ kéo theo số người bước vào độ tuổi lao động tăng lên, sẽ là sức ép về lao động, việc làm với khu vực nội thành và thành phố trong những năm tới. Những năm qua, do tác động của quá trình đô thị hoá diễn với tốc độ cao đã làm dân cư của khu vực thành thị tăng lên nhanh chóng. Nếu năm 2001, dân số ở khu vực thành thị mới chỉ là 1.593.400 người thì đến năm 2004, đã tăng thêm 426.500 người thành 2.019.900 người và năm 2005 là 2.078.300 người, tăng thêm so với năm 2004 là 58.400 người. Như vậy, trung bình mỗi năm giai đoạn 2001 - 2005 dân số của khu vực thành thị lại tăng thêm gần 100.000 người/năm.[13, tr.19] Quy mô về lực lượng lao động của thành phố luôn chiếm trên 50% dân số trung bình, năm 2004 lực lượng lao động toàn thành phố là 1.535.521 người. Nếu với mức tăng dân số tự nhiên hiện nay là 1,2% thì dân số trong độ tuổi lao động hàng năm sẽ tăng gần 19.000 người. Trong tổng số lực lượng lao động của thành phố, khu vực ngoại thành chiếm 42,5% với 652.532 người. Tuy nhiên, do tác động của quá trình đô thị hoá làm cho số lao động này đứng trước nhiều khó khăn, lớn nhất là họ phải chuyển đổi ngành nghề, phải không ngừng được đào tạo về trình độ chuyên môn để đáp ứng được yêu cầu cho sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng lao động trong lĩnh vực công

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá.pdf
Tài liệu liên quan