Tài liệu Luận văn Vị từ cầu khiến trong tiếng Việt: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ LIÊN
VỊ TỪ CẦU KHIẾN TRONG TIẾNG VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 602201
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN
Thành phố Hồ Chí Minh -2007
Lời cảm ơn
Luận văn này là kết quả học tập của tôi từ tháng 10 năm 2004 đến tháng
10 năm 2007 tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh với sự giúp
đỡ của rất nhiều người.
Từ những ngày đầu khoá học, tôi đã ấn tượng sâu sắc về những tri thức
mà các bậc Giáo sư, Tiến sĩ đã truyền giảng trong từng buổi học, tôi say mê
thích thú về những vấn đề mới mẻ được gợi ra. Những ngày cuối khóa miệt mài
với luận văn, tôi lại may mắn nhận được sự chỉ bảo ân cần của các thầy, cô
trong hội đồng khoa học, đặc biệt là Phó Giáo sư Tiến sĩ Dư Ngọc Ngân, người
hướng dẫn khoa học, người cô đã dạy dỗ và động viên tôi rất nhiều.
Tôi cũng không quên những thầy cô của Phòng Khoa học Công nghệ –
Sau đại học của Trường Đại học Sư phạ...
102 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vị từ cầu khiến trong tiếng Việt, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ LIÊN
VỊ TỪ CẦU KHIẾN TRONG TIẾNG VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 602201
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN
Thành phố Hồ Chí Minh -2007
Lời cảm ơn
Luận văn này là kết quả học tập của tôi từ tháng 10 năm 2004 đến tháng
10 năm 2007 tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh với sự giúp
đỡ của rất nhiều người.
Từ những ngày đầu khoá học, tôi đã ấn tượng sâu sắc về những tri thức
mà các bậc Giáo sư, Tiến sĩ đã truyền giảng trong từng buổi học, tôi say mê
thích thú về những vấn đề mới mẻ được gợi ra. Những ngày cuối khóa miệt mài
với luận văn, tôi lại may mắn nhận được sự chỉ bảo ân cần của các thầy, cô
trong hội đồng khoa học, đặc biệt là Phó Giáo sư Tiến sĩ Dư Ngọc Ngân, người
hướng dẫn khoa học, người cô đã dạy dỗ và động viên tôi rất nhiều.
Tôi cũng không quên những thầy cô của Phòng Khoa học Công nghệ –
Sau đại học của Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều
kiện cho tôi học tập, thực hiện và bảo vệ luận văn.
Sau cùng là lời cảm ơn chân thành của tôi đối với địa phương nơi tôi ở,
cơ quan nơi công tác, cảm ơn gia đình và các đồng nghiệp, bạn bè đã hỗ trợ và
động viên tôi học tập trong suốt thời gian qua.
Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
QUY ƯỚC VIẾT TẮT
BN : bổ ngữ
BNĐT : bổ ngữ đối thể
BNND : bổ ngữ nội dung
HĐ : hành động
HĐCK : hành động cầu khiến
TPMR : thành phần mở rộng
VN : vị ngữ
VT : vị từ
VTCK : vị từ cầu khiến
VTHĐ : vị từ hành động
VTNH : vị từ ngôn hành
VTTT : vị từ trung tâm
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mục đính giao tiếp của con người xét cho cùng là nhằm thoả mãn những
nhu cầu của cá nhân dựa trên các chuẩn mực xã hội. Chính vì vậy mà hành
động cầu khiến của chủ thể nói năng giữ một vai trò hết sức quan trọng. Yêu
cầu, sai khiến, ra lệnh là hành động thường xuyên và quan trọng đến mức hầu
như không một ngôn ngữ nào trên thế giới là không có kiểu câu mang ý nghĩa
này. Thế nhưng không phải bao giờ một hành động cầu khiến đưa ra cũng được
tiếp thể thực hiện theo đúng mục đích của chủ thể phát ngôn. Điều này có nhiều
lý do mà một trong những lý do rất quan trọng, có tính quyết định đó chính là
tùy thuộc vào hiệu lực ngôn trung của phát ngôn cầu khiến.
Trong tiếng Việt có nhiều phương thức để diễn đạt ý nghĩa cầu khiến:
phương thức tỉnh lược chủ ngữ, dùng từ tình thái, dùng vị từ ngôn hành, dùng
các kiểu câu mang ý nghĩa cầu khiến,v.v. Trong đó, cách diễn đạt trực tiếp bằng
biểu thức chứa vị từ cầu khiến có phạm vi sử dụng nhiều hơn cả. Do vậy, xem
xét bản chất, đăc biệt là khả năng hành chức của vị từ cầu khiến (VTCK) có ý
nghĩa rất lớn đối với việc sử dụng loại từ này trong giao tiếp ngôn ngữ thường
ngày.
Tuy nhiên, có thể nói các công trình nghiên cứu Việt ngữ từ trước đến
nay chưa đề cập một cách rõ ràng, đầy đủ bản chất các vấn đề liên quan đến
VTCK. Luận văn của chúng tôi không có tham vọng như vậy nhưng mong
muốn qua khảo sát các cứ liệu thu thập được, sẽ góp phần nhận diện rõ hơn đặc
điểm của vị từ này, làm tăng thêm hiệu quả giao tiếp khi thực hiện một hành
động cầu khiến.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong lịch sử nghiên cứu tiếng Việt, ý nghĩa cầu khiến được các tác giả
đề cập đến từ nhiều góc độ trong quá trình phân loại các lớp từ, phân chia các
kiểu câu và xem xét khả năng hiệu lực tại lời. Nhưng để khẳng định một kiểu
loại vị từ (động từ) cầu khiến thì còn nhiều quan điểm khác nhau.
2.1. Quan điểm ngữ pháp truyền thống
Các tác giả Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm chia động từ
thành 2 loại, nhưng không thấy nhắc đến VTCK trong danh sách phân loại này:
-Động từ đơn: là những tiếng động từ do một tiếng, biểu diễn hẳn một
việc gì: nói, cười, ăn, uống, mua, bán, đứng, ngồi,…
- Động từ ghép: là những tiếng động từ do hai tiếng ghép với nhau thành
một tiếng. Trong đó:
+ Do hai tiếng có nghĩa riêng ghép nhau thành một nghiã: bẩm báo, bênh
vực, buôn bán,…
+ Do hai tiếng ghép nhau mà tiếng sau có công dụng làm cho “lọn nghĩa”
tiếng đứng trước: bán rao, đánh lừa, hỏi thăm,…
+ Do một tiếng động từ ghép với danh từ: biết ơn, đánh hơi, làm việc,…
+ Do một tiếng động từ ghép với một tiếng đệm đặt sau: bàn bạc, gặp
gỡ,…
+ Do hai tiếng không có nghĩa ghép nhau thành một tiếng: ăn năn, cằn
nhằn, phàn nàn,…
Phạm Tất Đắc phân tích tự loại động từ bao gồm:
- Động từ chỉ sự hành động: ăn, nói, gặp gỡ,…
- Động từ chỉ sự thực hiện: là, thì, có.
- Động từ chỉ sự thụ động: bị, được, phải,…
Theo tác giả này “rất nhiều khi động từ không có chủ từ trong những câu
nói có ý sai khiến, khuyên răn” [9;tr.50].
Laurence C.Thompson, trong công trình A Vietnamese Grammar chia
động từ tiếng Việt thành 2 kiểu loại:
- Động từ hành động (action verb): đi, làm, hát, ở,…
- Động từ trạng thái (state verb): khó, tốt, hay, xấu, biết,…
Bùi Đức Tịnh dựa vào nghĩa để phân biệt bốn loại động từ:
-Động từ viên ý: chỉ dùng một mình với chủ ngữ cũng làm nên câu trọn
nghĩa: vâng lời, lo ngại,…
- Động từ khuyết ý: ý nghĩa tự nó không đầy đủ phải dùng với danh từ
hay đại từ bổ túc: gởi, cãi vã,…
- Động từ thụ trạng: động từ chỉ có ý nghĩa khi dùng với một tĩnh từ: trở
nên, trở thành, tức là, …
- Trợ động từ : động từ được dùng chung với động từ khác: muốn, phải,
có thể,…
Nguyễn Tài Cẩn khi khảo sát các thành phần của động ngữ, đã chỉ ra 5
kiểu loại động từ có tính chất đối lập căn bản:
- Động từ chỉ động tác có phương hướng: chạy, mang,… và động từ chỉ
động tác không có phương hướng: ăn năn, trăn trở,…
- Động từ chỉ sự việc có khả năng kết thúc: ăn, mặc, mở,… và động từ chỉ
sự việc không có khả năng kết thúc: biết, ghét, dám,…
- Động từ có khả năng tăng, giảm mức độ hành động: giận, lo,… và động
từ không có khả năng tăng, giảm mức độ: đánh, ngồi,…
- Động từ có khả năng dùng độc lập: đọc, đi, biết,… và động từ không có
khả năng dùng độc lập: toan, dám, ngỡ,…
- Động từ có thể thêm thành tố phụ: khen, thưởng, đánh,… và động từ
không thể thêm thành tố phụ: bơi, ngủ, chết,…
Lê Văn Lý phân loại tự ngữ Việt Nam ra thành:
- Loại A: danh tự
- Loại B: động tự
- Loại B’: tĩnh tự
- Loại C1: ngôi tự ; loại C2: số tự ; loại C3: phụ tự
Tác giả này không phân chia, miêu tả các tự loại mà chỉ ra phương pháp
dùng các từ chứng để xác định từng loại. Chẳng hạn, những từ ngữ có thể có
ngôi tự đứng trước: tôi viết, mày học, nó chơi,… thì viết, học, chơi chính là
động tự.
Sách Ngữ pháp tiếng Việt (UBKHXH) phân loại động từ gồm:
- Động từ ngoại động: làm, viết,…
- Động từ nội động: ngủ, làm, tắm,…
- Động từ cảm nghĩ: nghe, tin, nhớ, nghi ngờ,…
- Động từ phương hướng: lên, xuống, ra, vào,…
- Động từ tồn tại: có, còn, mất, hết,…
- Động từ biến hóa: trở nên, trở thành,…
- Động từ ý chí: dám, muốn, quyết, toan,…
- Động từ tiếp thụ: bị, được, phải, chịu,…
- Động từ so sánh: bằng, thua, hơn,…
- Động từ là
Lê Cận, Phan Thiều phân loại động từ tiếng Việt có 8 tiểu loại:
- Động từ tác động đến đối tượng: ăn, cắt,viết, vẽ, làm, đánh,…
- Động từ phát nhận: biếu, cho, thu hồi, phát, nhận,…
- Động từ gây khiến: cấm, cho phép, buộc, ép, mời, khuyên, bảo,…
- Động từ chuyển động: ra, về, lăn, bò, bay,…
- Động từ xuất hiện, tồn tại, tiêu hủy: có, còn, hết, mất,…
- Động từ biến hóa: thành, trở thành, trở nên, …
- Động từ tình thái: muốn, cần, phải, nên, định,…
- Động từ cảm nghĩ , nói năng: trông, nhìn, nghe, hiểu, tin tưởng,…
- Động từ không tác động đến đối tượng: nằm, thức, đứng,…
Diệp Quang Ban chia động từ tiếng Việt thành hai tiểu loại:
- Động từ không độc lập: phải, được, bị, toan, muốn,…
- Động từ độc lập, bao gồm:
+ Động từ ngoại động: gặt, đóng, viết,…
+ Động từ gây khiến: bảo, khuyên,…
+ Động từ cảm nghĩ, nói năng: tin, tưởng,…
+ Động từ chuyển động: vào, ra, lên, đến, lăn,…
+ Động từ tồn tại: còn, có,…
+ Động từ biến hóa: trở thành, trở nên, hóa thành,…
Hoàng Văn Thung, Lê A cùng quan điểm phân loại với tác giả Diệp
Quang Ban và khẳng định những từ mời, sai, khuyên, bảo,… thuộc tiểu loại
động từ cầu khiến.
Hoàng Trọng Phiến khi miêu tả kiểu câu cầu khiến đã khẳng định có các
thực từ mang ý nghĩa cầu khiến: cấm, không được, mời, cho phép,…
Nguyễn Kim Thản phân loại động từ theo hai cách. Phân loại theo tính
chất từ pháp thì động từ tiếng Việt gồm 6 tiểu loại:
- Động từ khái quát và vận động xác định: làm lụng, yêu đương,…
- Động từ hoạt động có phương hướng: mang, nhìn,..
- Động từ hoạt động không phương hướng: bãi công, thảo luận,…
- Động từ trạng thái: trúng, tan,…
- Động từ tình cảm: yêu, ghét, ái ngại, bái phục,…
- Động từ tri giác: am hiểu, băn khoăn, mong,…
Phân loại theo tính chất cú pháp, động từ tiếng Việt gồm 6 tiểu loại:
- Động từ ngoại động: làm, ăn, đánh, viết, mang, đem,…
- Động từ bán ngoại động: nhìn, trông, nghe, yêu, ra, vào,…
- Động từ phát nhận: biếu, tặng, lấy, vay, ăn cắp, cướp đoạt,…
- Động từ gây khiến: khuyên, bảo, mời, bắt, cưỡng bức, xúi, cho,…
- Động từ đánh giá nhận xét: coi, gọi, bầu, chọn, cử, phong,…
- Động từ chỉ nhận xét của các bộ phận cơ thể: bạnh, cau, cúi, lắc,…
- Động từ cảm nghĩ, nói năng: nghĩ, tưởng, nhớ, cam đoan,…
- Động từ nội động: bò, lăn, đứng, ngồi,…
- Động từ hệ từ: thành, ra, nên, như, bằng,…
Đinh Văn Đức nêu lên một số tiểu loại động từ cơ bản, đó là:
- Động từ nội động và động từ ngoại động: chặt, viết, làm, đóng, ngồi,
ngủ, chơi, bơi,…
- Động từ tình thái - ngữ pháp: cần, muốn, phải, có thể, toan, định,…
- Động từ tổng hợp: đi đứng, nói năng, dàn xếp, trò chuyện,…
- Động từ chuyển động: ra, vào, lên, xuống,…
Nhìn chung, quan điểm của các nhà ngữ pháp truyền thống về vấn đề này
theo các xu hướng sau:
- Có tác giả không chú ý đến việc phân chia các tiểu loại động từ,
- Có tác giả không phân biệt vị từ cầu khiến với vị từ gây khiến, không
phân biệt VTCK với vị từ tình thái có ý nghĩa cầu khiến,
- Có tác giả không thừa nhận có tiểu loại VTCK trong lớp động từ tiếng
Việt.
- Có tác giả thừa nhận có VTCK nhưng không đi sâu miêu tả đặc điểm
ngữ pháp, ngữ nghĩa của lớp từ này.
2.2. Quan điểm các nhà dụng học
Cầu khiến là hành động ngôn từ, vì thế loại từ biểu hiện hành động này đã
được một số nhà nghiên cứu xem xét dưới góc độ dụng học. Người xây dựng
nền móng cho lý thuyết hành động ngôn từ là nhà triết học John L.Austin với
công trình “How to do things with words”. Austin đã phân loại các hành vi tại
lời bao gồm: phán xử (verdictives), hành sử (exercitives), cam kết
(commissives), trình bày (expositives), ứng xử (behabitives). Hành động cầu
khiến thuộc trong nhóm hành sử.
J.R. Searle cho rằng Austin đã phân loại dựa trên những tiêu chí chồng
chéo nhau và không rõ ràng. Ông đưa ra 3 tiêu chí phân loại hành động tại lời:
- Đích tại lời (illocutionary point).
- Hướng khép lời với hiện thực (direction of fit),
- Trạng thái tâm lý được thể hiện (expressed psychological states).
và 9 phương diện khác liên quan đến sự phân chia này.
Từ đó J.R. Searle đã chia hành động ngôn từ ra thành 5 loại:
i. Tái hiện (representatives):
- Đích ở lời: miêu tả lại sự tình đang được nói đến.
- Hướng thích nghi: từ hiện thực đến lời lẽ.
- Trạng thái tâm lý: niềm tin vào giá trị chân lý của điều được nói.
ii. Điều khiển (directives):
- Đích ở lời: đặt người nghe vào trách nhiệm thực hiện một hành động
tương lai.
- Hướng thích nghi: từ lời nói đến hiện thực.
- Trạng thái tâm lý: người nói (Sp1) mong muốn người nghe (Sp2) thực
hiện một hành động nào đó.
iii. Cam kết (commissives):
- Đích ở lời: trách nhiệm Sp1 phải thực hiện một hành động tương lai.
- Hướng thích nghi: từ lời nói đến hiện thực.
- Trạng thái tâm lý: ý định của Sp1 tùy thuộc vào hành động cam kết.
iv. Biểu cảm (expressives):
- Đích ở lời: bày tỏ một trạng thái tâm lý nào đó.
- Hướng thích nghi: phù hợp với hành vi ở lời và hiện thực.
- Trạng thái tâm lý: không xác định, thay đổi tùy loại hành vi.
v. Tuyên bố (declarations):
- Đích ở lời: gây ra một sự thay đổi bởi hành vi tuyên bố.
- Hướng thích nghi: từ lời nói đến hiện thực và ngược lại.
- Trạng thái tâm lý: không có đặc trưng nhưng có các thể chế tâm lý làm
cho lời tuyên bố có giá trị.
Trong cách phân loại của một số tác giả khác: D.Wunderlich, F. Recanati,
K.Bach và R.M. Harnish, ta thấy hành động cầu khiến cũng được kể đến trong
nhóm điều khiển, đề nghị, thỉnh cầu.
Ở Việt Nam, các công trình của Nguyễn Đức Dân (2000), Nguyễn Thiện
Giáp (2000), Đỗ Hữu Châu (2001) cũng đã xem xét hành động cầu khiến ở góc
độ dụng học. Nguyễn Thiện Giáp cho rằng cầu khiến là hành động mà người
nói sử dụng để khiến người nghe làm cái gì đó… Thuộc nhóm này có các hành
động như: đề nghị, yêu cầu, cho phép, ra lệnh, mời mọc, rủ rê, thỉnh cầu,
khuyên, cấm đoán, hỏi, chỉ thị,v.v. (hỏi cũng là một hành động cầu khiến)
[13,tr.48].
2.3. Quan điểm ngữ pháp chức năng
Cao Xuân Hạo (cùng các cộng sự) trong Ngữ pháp chức năng tiếng Việt -
Ngữ đoạn và Từ loại (2005) đã phân chia vị từ hành động thành hai loại:
-Vị từ chuyển tác, gồm có:
+ Vị từ hành động chuyển thái (làm cho đối tượng thay đổi trạng thái):
ách, băm, cán, dùi, đánh, ép,…
+ Vị từ hành động chuyển vị (làm cho đối tượng thay đổi vị trí): áp, ban,
dắt, đặt, gắn, giữ, hút,…
+ Vị từ hành động tạo tác (tạo ra một vật trước đó chưa có): ấp, bảo, cất,
che, in, khai, may, nói,…
+ Vị từ hành động hủy diệt (làm cho đối tượng không còn tồn tại): hủy,
xóa, bôi, giết, tẩy,…
- Vị từ vô tác, gồm có:
+ Vị từ hành động di chuyển: vào, ra, lên, xuống, chạy, đi,,…
+ Vị từ hành động cử động (thay đổi tư thế của thân thể): bấm, dậy, đạp,
húc, múa, ngẩng,…
+ Vị từ ứng xử (bộc lộ những phản ứng về thể xác và tinh thần): cười,
đùa, giỡn, khóc,…
+ Vị từ tri giác (nhằm nhận thức một đối tượng): xem, ngắm, học,…
+Vị từ cầu khiến (điều khiển một đối tượng thực hiện một hành động nào
đó): cấm, bảo, sai, xin,…
Nguyễn Thị Quy là tác giả đã trình bày khá rõ các quan điểm từ trước đến
nay về động từ tiếng Việt và có kiến giải riêng về cách phân loại vị từ hành
động theo cấu trúc tham tố, trong đó tác giả này đã xem VTCK chiếm một vị trí
đặc biệt trong các vị từ [+ tác động] ba diễn tố.
Gần đây, các bài viết trên các tạp chí ngôn ngữ, trong các công trình khoa
học của một số tác giả: Đào Thanh Lan, Chu Thị Thủy An, Nguyễn Thị Thanh
Ngân, Nguyễn Thị Thuận, Đào Nguyên Phúc, Nguyễn Thị Lương, Lê Đình
Tường, Vũ Thị Thanh Hương, Nguyễn Vân Phổ,v.v. có nhiều kiến giải rất lý
thú về khả năng hành chức của hành động cầu khiến, câu cầu khiến dưới nhiều
góc độ: tính lịch sự của hành động cầu khiến, đặc điểm nói năng của hành động
cầu khiến,v.v.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở tham kiến các nhà nghiên cứu đi trước, luận văn của chúng tôi:
- Xác định rõ đối tượng nghiên cứu là VTCK trong tiếng Việt và tiến
hành phân loại các VTCK.
- Xem xét đặc trưng ngữ nghĩa, ngữ pháp của VTCK.
- Khảo sát khả năng hành chức của VTCK trong hoạt động nói năng.
Phạm vi khảo sát của chúng tôi là những biểu thức có sử dụng VTCK
trong nói năng hàng ngày, trong một số văn bản văn chương và văn bản hành
chính - công vụ. Những ví dụ sử dụng của các tác giả đi trước nhằm mục đích
minh xác cho lý lẽ riêng sẽ được chúng tôi chú thích rõ xuất xứ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chính:
-Phương pháp thống kê, phân loại: thống kê, phân loại hệ thống VTCK
trong tiếng Việt và tần số sử dụng của chúng trên các cứ liệu được khảo sát.
-Phương pháp đối chiếu, so sánh: đặt VTCK trong hệ thống vị từ hành
động và so sánh với một số vị từ khác (vị từ tình thái, vị từ gây khiến) để xác
định rõ bản chất của VTCK.
-Phương pháp phân tích ngữ nghĩa - cú pháp: là phương pháp đặc trưng
để nghiên cứu ngữ nghĩa, cấu trúc của đối tượng.
-Phương pháp phân tích ngữ nghĩa - ngữ dụng: phân tích đặc điểm hành
chức của VTCK trong một số phạm vi sử dụng.
- Các phương pháp lập luận như: diễn dịch, quy nạp,v.v. cũng được chúng
tôi sử dụng trong khi trình bày các luận điểm.
Tùy vào từng nội dung nghiên cứu, tùy vào từng đối tượng cụ thể, các thủ
pháp, phương pháp có khi được vận dụng kết hợp hoặc sử dụng chủ yếu một
phương pháp nào đó thích hợp.
5. Y nghĩa của luận văn
5.1. Về mặt lý luận, luận văn hy vọng sẽ chỉ ra được các đặc điểm cơ bản
(về ngữ nghĩa, ngữ pháp và ngữ dụng) của một loại vị từ có ý nghĩa rất lớn
trong nói năng; hệ thống và phân loại được các VTCK trong tiếng Việt, góp
thêm tiêu chí để phân định vị từ cầu khiến (directive verb) với các loại vị từ gây
khiến (causative verb) và vị từ tình thái (modal verb) mang ý nghĩa cầu khiến.
5.2. Về mặt thực tiễn, khi hiểu được khả năng kết hợp cú pháp, phạm vi
hành chức, ý nghĩa trong nói năng của vị từ cầu khiến, người sử dụng tiếng Việt
(với tư cách là chủ thể cầu khiến) sẽ thực hiện một cách hiệu quả những mong
muốn đối với người nghe (với tư cách là đối thể thực hiện các yêu cầu).
Mặt khác, những lý giải của chúng tôi trong luận văn hy vọng cũng sẽ
góp phần làm rõ thêm một số nội dung giảng dạy từ ngữ tiếng Việt hiện nay ở
nhà trường.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phần
chính của luận văn bao gồm 2 chương.
Ở chương một, qua xem xét bản chất của hành động cầu khiến, luận văn
xác lập khái niệm vị từ cầu khiến, cung cấp một danh sách VTCK và phân loại
các nhóm VTCK trong tiếng Việt.
Ở chương hai, luận văn khảo sát đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của
VTCK trong các phạm vi hành chức. Nghĩa của một VTCK đã chi phối các
tham tố của nó, xác lập tư cách của nó khi tham gia tạo lập các biểu thức ngôn
ngữ trong giao tiếp. Ở chương này, khi xem xét VTCK trong các biểu thức ngữ
vi, bước đầu chúng tôi cũng đã chỉ ra một số đặc điểm ngữ dụng của lớp từ này.
CHƯƠNG MỘT : VỊ TỪ CẦU KHIẾN CÁC NHÓM VỊ TỪ CẦU
KHIẾN TRONG TIẾNG VIỆT
1.1. Hành động cầu khiến
Trong phần này, luận văn sẽ đề cập một số vấn đề liên quan đến ý nghĩa cầu
khiến, hành động cầu khiến và phân loại các hành động cầu khiến, từ đó xác
định VTCK và các vấn đề liên quan mà đề tài đã đặt ra.
1.1.1. Khái niệm cầu khiến
Cầu khiến (directive) là hành động “yêu cầu làm hay không làm một việc
gì” [29,tr.122]. Trong thực tế giao tiếp, hành động này được thực hiện ở nhiều
mức độ khác nhau, có nhiều cách thức biểu đạt khác nhau trong các ngôn ngữ.
Trong các ngôn ngữ biến hình, ý nghĩa cầu khiến được gắn với phạm trù
ngữ pháp thức (mood). Những thức thường gặp trong các ngôn ngữ đó là: thức
tường thuật, thức mệnh lệnh, thức giả định, thức điều kiện. Trong đó, thức
mệnh lệnh biểu thị nguyện vọng của người nói đối với việc thực hiện hành
động. Ý nghĩa cầu khiến trong các ngôn ngữ này thường được xác định bằng
các dấu hiệu hình thức. Chẳng hạn trong tiếng Anh, nó được đặc trưng bằng sự
vắng mặt của chủ ngữ, động từ ở nguyên dạng, không có từ tình thái cũng như
những phương tiện đánh dấu thời, thể đi kèm. Ví dụ: Don’t go out! Come in!.
Nhưng trong tiếng Việt, một ngôn ngữ thuộc loại ngôn ngữ không biến
hình, việc xác định ý nghĩa cầu khiến thật không dễ dàng. Như đã điểm qua ở
phần Mở đầu, có nhiều quan điểm không thống nhất trong việc phân loại
có/không có động từ cầu khiến, hoặc lẫn lộn giữa động từ cầu khiến với động từ
gây khiến. Ngay trong cách phân loại câu theo mục đính phát ngôn, ngữ pháp
truyền thống vốn đã chia câu tiếng Việt gồm: câu nghi vấn, câu cầu khiến, câu
cảm thán, câu trần thuật; nhưng đến nay đã có tác giả đặt lại vấn đề: “Không coi
câu cầu khiến là một kiểu câu riêng trong tiếng Việt mà chỉ là một dạng của câu
trần thuật” [15,tr.211].
Trong các công trình nghiên cứu gần đây, ý nghĩa cầu khiến trong tiếng
Việt đã được xác định có phần rõ hơn. Tác giả Bùi Thị Kim Tuyến [39,tr.46]
chỉ ra các phương thức thể hiện ý nghĩa cầu khiến trong tiếng Việt như sau:
- Phương thức trực tiếp:
+ Phương thức tỉnh lược chủ ngữ ở ngôi thứ hai: Dậy!Dậy!Dậy!
+ Phương thức dùng tiểu từ tình thái: Đấy muốn thì ăn đi!.
+ Phương thức dùng vị từ, phụ từ tình thái: Hãy nhớ lấy lời tôi!
+ Phương thức dùng vị từ ngôn hành: Bố cấm con hút thuốc!
- Phương thức gián tiếp:
+ Dùng hình thức câu khẳng định: Mẹ muốn con chăm chỉ học bài.
+ Dùng hình thức câu nghi vấn: Cái áo mưa đâu rồi nhỉ?
Chu Thị Thủy An khẳng định: “Một câu ngôn hành có vị ngữ là một động
từ ngữ vi có ý nghĩa cầu khiến sẽ trở thành một câu cầu khiến” [TL1] và công
nhận một danh sách gồm 13 động từ mang ý nghĩa cầu khiến: cấm, cho, cho
phép, đề nghị, khuyên, nhờ, mời, lạy, ra lệnh, van, xin, xin phép, yêu cầu.
Nguyễn Thị Lương chỉ ra 32 động từ biểu thị hành động cầu khiến trong
tiếng Việt là: yêu cầu, ra lệnh, hạ lệnh, lệnh, chỉ thị, đề nghị, kiến nghị, chỉ
định, phân công, phái, cấm, nghiêm cấm, buộc, bắt, cấm chỉ, xin phép, can,
bảo, cử, khuyên, mời, xin, cầu, cầu xin, cầu mong, năn nỉ, nài nỉ, nài xin, van,
van nài, van xin, nhờ [TL24].
Vũ Thị Thanh Hương cho rằng ở nghĩa hẹp, cầu khiến được hiểu là các
hành động mà S thực hiện nhằm buộc H làm một điều gì đó theo ý muốn của
mình để đem lại lợi ích cho S và thường gây thiệt hại cho H; ở nghĩa rộng, cầu
khiến là hành vi mà thông qua đó S muốn tạo ra bất kỳ một sự thay đổi nào
trong hành động của H bất kể hành động đó có lợi hay hại cho S hay H; theo
đó, cầu khiến không chỉ bao gồm ra lệnh, sai bảo, yêu cầu, nhờ vả, mà còn cả
mời mọc, xin phép [20,tr.35]. Đây cũng là quan điểm chúng tôi thừa nhận khi
xem xét các vấn đề tiếp theo.
1.1.2. Hành động cầu khiến
Cầu khiến là hành động được thực hiện bằng một phát ngôn ngữ vi. Khi yêu
cầu, sai khiến ai làm một việc gì đó, người nói phải thực hiện ngay một phát
ngôn mà cái lõi của nó phải là một biểu thức ngữ vi mang ý nghĩa cầu khiến.
Theo cách phân loại của Austin, cầu khiến là một hành vi tại lời.
J.L.Austin phân các hành động ngôn ngữ thành 3 loại lớn: hành vi tạo lời
(locutionary act) , hành vi mượn lời (perlocutionary act) và hành vi tại lời
(illocutionary act). Hành vi tại lời là hành vi người nói thực hiện ngay khi phát
ngôn. Hiệu quả của những hành vi này nằm ngay trong hiệu lực của phát ngôn
(lực ngôn trung). Chúng đặt người nói và người nghe vào những nghĩa vụ và
quyền lợi mới so với trước khi phát ngôn. Chẳng hạn, khi ra lệnh cho ai, ngay
sau đó chúng ta phải chịu trách nhiệm về cái lệnh của mình và đặt người nghe
vào tình trạng phải thực hiện (hay không thực hiện) lệnh của chúng ta. Hành vi
tại lời là một hành vi có đích, được quy ước và có thể chế (dù không được hiển
ngôn) mà mọi người trong một cộng đồng ngôn ngữ phải tuân theo.
Theo Austin có 3 điều kiện để đảm bảo hành vi tại lời thực hiện được [dẫn
theo Đỗ Hữu Châu-6,tr.112]:
i) Phải có thủ tục có tính chất quy ước và thủ tục này phải có hiệu quả cũng
có tính quy ước; hoàn cảnh và con người phải thích hợp với những điều quy
định trong thủ tục;
ii) Thủ tục phải được thực hiện một cách đúng đắn và đầy đủ;
iii) Thông thường thì những người thực hiện hành vi ở lời phải có ý nghĩ,
tình cảm và ý định đúng như đã được đề ra trong thủ tục và khi hành động diễn
ra thì ý nghĩ, tình cảm, ý định đúng như nó đã có.
J.R. Searle bổ sung thêm các điều kiện cần để cho một hành vi tại lời đạt
hiệu quả đúng với đích của nó:
i) Điều kiện nội dung mệnh đề: chỉ ra bản chất nội dung của hành động. Nội
dung mệnh đề có thể là một hành động của người nói hay một hành động của
người nghe.
ii) Điều kiện chuẩn bị: đó là những hiểu biết của người phát ngôn về năng
lực, lợi ích, ý định của người nghe và về các quan hệ giữa người nói và người
nghe.
iii) Điều kiện chân thành: chỉ ra các trạng thái tâm lý tương ứng của người
phát ngôn.
iv) Điều kiện căn bản: đây là điều kiện đưa ra kiểu trách nhiệm mà người
nói hoặc người nghe bị ràng buộc khi phát ngôn.
Ông miêu tả các điều kiện của một hành động thỉnh cầu như sau:
- Nội dung mệnh đề: hành vi tương lai A của người nghe H.
- Chuẩn bị: H có khả năng thực hiện A (theo chủ ý của người nói S). Nếu
không thỉnh cầu thì cả đối với S cả đối với H không chắc rằng H sẽ tự thực hiện
A bất kể thế nào.
- Chân thành: S mong muốn rằng H sẽ thực hiện A.
- Căn bản: nhằm dẫn H đến việc thực hiện A.
Như vậy có thể nói, hành động cầu khiến là một hành động ngôn từ nhằm
điều khiển một đối tượng thực hiện một hành động nào đó.
1.1.3. Phân loại hành động cầu khiến
Theo hướng phân loại của Austin và Grice, tác giả Bùi Thị Kim Tuyến đã
chia hành động cầu khiến gồm hai loại [39,tr.35]:
- Cầu khiến cạnh tranh: là loại HĐCK với lợi ích của việc thực hiện thường
thuộc về người nói hoặc trung hòa hoặc không thuộc về người nghe. Đó là
những hành động như: ra lệnh, thỉnh cầu, nhờ vả, xin phép,v.v. Xét về vị thế
giao tiếp, loại này có thể chia ra hai loại: vị thế người nói cao hơn người nghe
(ra lệnh, bắt buộc), vị thế người nói thấp hơn hoặc ngang bằng người nghe
(thỉnh cầu, nhờ vả,v.v.)
- Cầu khiến hòa đồng: là loại HĐCK với lợi ích của việc thực hiện thường
thuộc về người nghe hoặc trung hòa hoặc không thuộc về người nói. Đó là
những hành động như: khuyên răn, mời mọc,v.v.
Cũng có quan điểm căn cứ vào phương thức thể hiện, chia HĐCK thành
HĐCK trực tiếp và HĐCK gián tiếp [x.mục 1.1.1].
Căn cứ vào lý thuyết hành vi ngôn ngữ và các quy tắc hội thoại, chúng tôi
đề nghị có bốn cách phân loại HĐCK như sau:
a) HĐCK thực hiện/không thực hiện một việc.
- HĐ thực hiện: sai, nhờ, mời, phân công,v.v.
- HĐ không thực hiện: can, cấm, nghiêm cấm, v.v.
b) HĐCK có lợi/không có lợi đối với người nghe.
- HĐ có lợi đối với người nghe: khuyên, mời, cử,v.v.
- HĐ không có lợi đối với người nghe: ra lệnh, bức, cấm,v.v.
c) HĐCK lịch sự/không lịch sự.
- HĐ lịch sự: xin, mời, xin mời, xin phép,v.v.
- HĐ không lịch sự: cấm, buộc, yêu cầu, đề nghị,v.v.
d) HĐCK có vai giao tiếp ngang bằng/không ngang bằng.
- Ngang bằng: bảo, can, nhờ, v.v.
- Không ngang bằng: yêu cầu, cấm, van xin, khẩn cầu,v.v.
Thật ra, sự phân loại này chỉ mang tính tương đối vì trong thực tế nói năng
việc nhận diện đích tại lời, các điều kiện mệnh đề, các vai tham thoại hoặc mức
độ lịch sự/không lịch sự,v.v. còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố của ngữ cảnh.
Chẳng hạn, trong phong cách hành chính, hành vi xin được sử dụng ở mọi vai
giao tiếp. Ví dụ:
(1) Xin các đồng chí cho biểu quyết!
(2) Tôi xin được phát biểu ý kiến!
Đối với hành vi mời, tùy hoàn cảnh giao tiếp mà có lợi hoặc không có lợi
đối với người nghe:
(3) Tôi mời anh đi ra ngay!
(4) Mời anh lên hàng ghế trên ngồi!
Chấp nhận việc phân loại theo nhiều tiêu chí như trên sẽ giúp ta hiểu được
đặc điểm hoạt động của HĐCK dưới nhiều giác độ.
1.2. Vị từ cầu khiến
1.2.1. Vị từ
“Vị từ là một từ có thể tự mình làm thành một vị ngữ (hay một ngữ đoạn
biểu thị nội dung của cái sự tình được trần thuật trong câu) hoặc làm trung tâm
cho ngữ đoạn ấy” [14,tr.355].
Liên quan đến định nghĩa trên, cần nói rõ thêm mấy vấn đề sau:
Câu trong tiếng Việt có hai thành phần chính. Có nhiều cách gọi tên khác
nhau đối với hai thành phần này (Chủ ngữ - Vị ngữ, Chủ đề - Thuật đề, Đề -
Thuyết,v.v.) nhưng về cơ bản các tác giả đều thống nhất mỗi thành phần là một
ngữ đoạn có cấp bậc cao nhất trong các bộ phận bậc dưới câu. Ngữ đoạn ở
thành phần thứ hai là ngữ vị từ (vị ngữ). Ngữ vị từ làm cái lõi của sự tình do
một vị từ đảm nhiệm.
Căn cứ vào nghĩa biểu hiện người ta chia vị từ thành hai loại: VT biểu thị
nội dung sự tình (một hành động, một trạng thái, một tư thế, một quá trình) và
VT tình thái biểu thị thái độ của người nói đối với nội dung sự tình hoặc với
tham tố của sự tình. Đăc điểm của vị từ được xem xét ở nghĩa của VT và các
tham tố (diễn tố và chu tố) của nó. Diễn tố là tham tố bắt buộc cùng với VT tạo
thành vị ngữ hạt nhân. Chu tố là tham tố không bắt buộc, bổ sung cho VN hạt
nhân, là thành phần mở rộng của VN hạt nhân. Trong kết hợp cú pháp với VT,
các tham tố đảm nhận một số vai nghĩa nhất định (do một ngữ danh từ, một ngữ
vị từ, một tiểu cú biểu hiện) như: vai tác thể, vai hành thể, vai động thể, vai
nghiệm thể, vai đương thể, vai tạo thể, vai tiếp thể, vai mục tiêu, vai đích, vai
nguồn, vai công cụ, vai vị trí, vai thời gian, vai nguyên nhân, vai mục đích, vai
phương thức, vai nội dung, v.v.
Là một ngữ đoạn biểu hiện nội dung của sự tình, vị từ có thể đảm đương
một trong các chức năng cú pháp sau: làm một thành phần chính của câu, làm
trung tâm cho một ngữ đoạn, làm phụ ngữ cho một ngữ đoạn chính phụ có bậc
cao hơn.
Ngữ pháp truyền thống vốn xem động từ (verb) và tính từ (adjective) là
những loại từ có khả năng làm vị ngữ (ngữ vị từ) của câu. Những từ tự thân làm
ngữ vị từ không phải chỉ có từ chỉ hành động (động từ), từ chỉ tính chất (tính từ)
mà còn có các từ chỉ trạng thái, tư thế,v.v. Ví dụ: Nước hết rồi. Mưa đã tạnh.
Cửa đã mở.
Chính vì vậy, Dik.S.C (1978) đã đưa ra một cách phân loại vị từ căn cứ vào
tính [+ động], [+ chủ ý], theo đó vị từ có bốn loại: vị từ hành động, vị từ tư thế,
vị từ trạng thái, vị từ quá trình.
[ + động]
Biến cố
[ - động]
Tình trạng
[ + chủ ý] Hành động Tư thế
[ - chủ ý] Quá trình Trạng thái
Trên cơ sở đó, các nhà ngữ pháp chức năng tiếng Việt đã chia vị từ tiếng
Việt thành các loại như sau [18,tr.28]:
Trong đó vị từ hành động (VTHĐ) được chia thành:
- VTHĐ chuyển tác: tác động (chuyển thái, chuyển vị) và tạo diệt (tạo tác,
hủy diệt).
- VTHĐ vô tác: di chuyển (có hướng, không có hướng) và không di chuyển
(cử động, ứng xử).
1.2.2. Vị từ cầu khiến
VTCK là một tiểu loại của vị từ hành động. Nguyễn Thị Quy khi phân loại
các vị từ hành động đã xem VTCK là vị từ hành động có khả năng tham gia vào
những kết cấu cầu khiến [32,tr.68]. Từ đó tác giả này đã đưa ra một danh sách
các vị từ cầu khiến bao gồm VTCK chuyên biệt bao giờ cũng được dùng trong
những kết cấu cầu khiến: mời, sai, cho phép, thỉnh cầu, ra lệnh, cho, giục và
VTCK không chuyên biệt có thể dùng trong nhiều kết cấu khác: bảo, bắt, cầu,
cầu xin, cử, đòi, nài, nài nỉ, năn nỉ, phái, van, van nài, van xin, xin, dặn,v.v.
Vì hành động cầu khiến là hành động được thực hiện bằng một phát ngôn
ngữ vi (có hoặc không có VTCK). Cho nên, từ điểm này, Nguyễn Vân Phổ đã
xem VTCK là một “nhóm biểu hiện” của VT nói năng có thể tham gia vào kết
TIÊU CHÍ
VỊ TỪ động chủ ý
Vị từ hành động + +
Vị từ quá trình + -
Vị từ tư thế - +
Vị từ trạng thái - -
Vị từ tình thái + +
cấu cầu khiến [31,tr.22]. Chẳng hạn: bảo, dặn, sai, nhờ, ra lệnh, đề nghị, yêu
cầu, thuyết phục, kêu gọi, năn nỉ, nài, nài nỉ, nhắc, cầu xin, mời, rủ, khuyên,
giục, thúc giục, hối thúc, xúi giục,v.v. Thật ra, VTCK cũng là một tiểu loại của
vị từ nói năng nhưng không phải bất cứ VTCK nào cũng có thể tham gia vào
hành động nói; có những VT chỉ có giá trị miêu tả hành động cầu khiến (x. mục
2.4.2.).
Các tác giả Ngữ pháp chức năng tiếng Việt – Ngữ đoạn và Từ loại xem
VTCK là một loại vị từ ứng xử, điều khiển một đối tượng thực hiện một hành
động nào đó (nhưng không gây nên một quá trình hiện thực, không có lực
xuyên ngôn). Chẳng hạn: bầu, bổ, cấm, cử, hứa, khuyên, mời, sai, xin,v.v.
[18,tr.53].
VTCK là vị từ biểu thị một hành động cầu khiến (tỏ ý muốn, bắt ai đó làm
một việc gì đó). Như đã nói, hành động cầu khiến không chỉ bao gồm ra lệnh,
sai bảo, yêu cầu, nhờ vả, mà còn cả mời mọc, xin phép. Cho nên, một VT hành
động khi có một trong các nghĩa như trên (hoặc tiềm tàng những nét nghĩa như
trên) mới có khả năng tham gia vào kết cấu cầu khiến.
Trên cơ sở đó, chúng tôi đề nghị một danh sách các VTCK trong tiếng Việt
bao gồm: yêu cầu, ra lệnh, lệnh, đề nghị, kiến nghị, cấm, nghiêm cấm, bắt buộc,
bắt, cho, cho phép, phân công, phái, can, cử, bảo, sai, mời, nhờ, xin, xin phép,
khuyên, cầu, cầu xin, van, van xin, năn nỉ, nài nỉ, chúc, lạy, v.v.(xem phụ lục 1).
1.2.3. Phân biệt vị từ cầu khiến/vị từ gây khiến
VTCK hàm chứa các nét nghĩa cầu khiến, thể hiện hành động yêu cầu, sai
khiến của người nói đối với người nghe. Trong các phát ngôn ngữ vi, VTCK thể
hiện ý mong muốn của người nói, không co ý nghĩa hiện thực, được thực hiện
trong một hoàn cảnh nói năng nhất định, thực hiện chỉ một lần ngay khi phát
ngôn với một đối tượng có khả năng nhận thức được. Ví dụ:
(5) Tôi bảo anh đi ra ngoài!
“Bảo”là VT biểu thị một hành động ra lệnh, “tôi” là chủ thể của hành động
này. Khi phát ngôn, người nói có mong muốn, yêu cầu người nghe thực hiện
một nội dung “đi ra ngoài”. Phát ngôn này đồng thời cũng là một hành động ra
lệnh. Mặc dù hành động mang tính bắt buộc, nhưng việc thực hiện điều mong
muốn “đi ra ngoài”đó có hay không là còn tùy thuộc vào khả năng của người
nghe, là việc ở phía sau lời nói chứ chưa phải là hiện thực.
Còn trong ví dụ sau:
(6) Tôi làm nó giận.
“Làm” là một vị từ biểu hiện hành động chuyển tác có ý gây khiến, “tôi” là
chủ thể của hành động này. Làm không phải là hành động ngôn hành. Làm là
một hành động vật lý tác động đến một đối tượng, gây ra một kết quả trong hiện
thực (nó giận).
Trong kết hợp cú pháp, VT cầu khiến và VT gây khiến tuy có hình thức kết
cấu giống nhau: CT + V1 + Dn + V2 (CT: chủ thể, V1: vị từ thứ nhất, Dn: danh
ngữ, V2: vị từ thứ hai) nhưng bản chất là rất khác. Nguyễn Thị Quy đưa ra 7 chỗ
khác nhau giữa hai loại kết cấu này như sau [32,tr.70]:
i. Kết cấu gây khiến kết quả, ngoài dạng trên đây còn có thể có dạng
V1V2Dn (làm vỡ bát); kết cấu cầu khiến không thể có dạng này. (chỉ có thể nói
sai con đi, không thể nói sai đi con).
ii. Vị từ trung tâm của kết cấu cầu khiến là một vị từ có nghĩa “nói”; vị từ
trung tâm của kết cấu gây khiến - kết quả là một vị từ chuyển tác (cập vật), bất
kỳ, không có nghĩa nói: làm (cho), khiến (cho), buộc, bẻ (gãy), đốt (cháy), đánh
(gục, chết, bại, sập, vỡ).
iii. Chủ thể của vị từ thứ hai (V2) trong kết cấu cầu khiến là một người hay
một động vật có thể sai khiến được; chủ thể thứ hai trong kết cấu gây khiến -
kết quả là một vật bất kỳ (động vật hay bất động vật).
iv. Vị từ thứ hai (V2) trong kết cấu cầu khiến là một vị từ [+ chủ ý], vị từ
thứ hai trong kết cấu gây khiến là một vị từ bất kỳ, và thường là một vị từ quá
trình
- Chủ ý hay trạng thái - Chủ ý
+ Động - Động
v. Trong kết cấu gây khiến, hành động của chủ thể gây ra một kết quả hiện
thực, dù là tích cực hay tiêu cực (bẻ gãy cái que, bẻ cái que gãy đôi, bẻ cái que
không gãy). Vị từ thứ hai (V2) biểu hiện cái kết quả ấy. Nó có thể được phủ
định bằng không, chẳng, chả.
So sánh:
a. N bẻ cái que gãy đôi, * nhưng nó không gãy.
a’. N bảo em đi chợ nhưng nó không đi.
b. N bẻ cái que không gãy, * nhưng nó vẫn gãy.
b’. N bảo đứa em đừng đi nhưng nó vẫn đi.
b’’. ? N bảo đứa em không đi (chẳng đi, chả đi).
Trong kết cấu cầu khiến, hành động của chủ thể là một phát ngôn mà nội
dung là phần DnV2. Cái nội dung này chỉ là một sự mong muốn chứ không phải
là một sự việc hiện thực, cho nên V2 có thể được khẳng định bằng hãy, nên và
được phủ định bằng đừng, chớ (chứ không phải bằng không, chẳng, chả).
vi. Giữa Dn chỉ chủ thể và V2 của kết cấu cầu khiến không thể chen bất cứ
từ nào, trừ phải (nếu V1 là bắt, ra lệnh, cho, đòi) và được (nếu V1 là cho phép);
giữa Dn chỉ chủ thể và V2 của kết cấu gây khiến có thể chen từ phủ định không
hay chưa và từ chỉ mục tiêu cho.
vii. Trong một kết cấu cầu khiến, chủ thể của V2 chỉ có thể là danh ngữ làm
bổ ngữ, trong một kết cấu gây khiến - kết quả, chủ thể của V2 có thể là chủ ngữ
của V1, nghĩa là chủ thể của hành động gây khiến.
Cũng theo tác giả này, vì sự khác nhau ở hai điểm iii và iv, chỉ có kết cấu
cầu khiến mới có thể dùng làm một tiêu chí hình thức để phân biệt các vị từ [+
chủ ý] và [- chủ ý].
Theo Cao Xuân Hạo: “Những vị từ như bảo, khuyên, sai,v.v. được ngữ pháp
truyền thống gọi là “động từ gây khiến”. Thực ra, nếu cần phải gọi tên những vị
từ này thì phải gọi chúng là những vị từ biểu thị hành động điều khiển (một loại
vị từ ứng xử) và chúng hoàn toàn khác với những vị từ biểu thị hành động gây
khiến. Hành động gây khiến thực chất là một hành động chuyển tác. Hành động
này gây nên những quá trình hiện thực (có thể được nói ra hoặc không được nói
ra trong câu), chẳng hạn: đánh đổ, đánh tan, làm vỡ,v.v. Trong khi đó hành
động điều khiển có thể không gây nên một kết quả như vậy (không có lực
xuyên ngôn) [18,tr.53].
Có thể xem có/không có lực xuyên ngôn cũng là một tiêu chí để phân biệt
vị từ gây khiến/vị từ cầu khiến trong tiếng Việt.
1.3. Các nhóm vị từ cầu khiến trong tiếng việt
1.3.1. Các quan điểm phân chia tiểu loại VTCK
Có rất ít công trình nghiên cứu đi sâu vào việc phân chia các tiểu loại trong
VTCK. Người ta căn cứ vào các tiêu chí khác nhau để đưa ra những cách phân
loại như sau:
1.3.1.1. Căn cứ vào tính áp đặt của vị từ
Chu Thị Thủy An cho rằng các động từ ngữ vi có nghĩa cầu khiến là các
động từ có tình thái áp đặt với các mức độ khác nhau; căn cứ vào mức độ áp đặt
có thể chia động từ này thành bốn nhóm:
Nhóm 1: nhóm có tính áp đặt tuyệt đối, gồm: ra lệnh, cấm, yêu cầu. Khi sử
dụng các động từ này, vị thế người nói cao hơn người nghe.
Nhóm 2: nhóm có tính áp đặt trung bình, gồm: cho, cho phép, đề nghị,
khuyên. Trong nét nghĩa của các động từ này có sắc thái thương lượng. Người
nghe vẫn có phản hồi về việc thực hiện hay không thực hiện nội dung cầu
khiến.
Nhóm 3: nhóm có tính áp đặt thấp, gồm: nhờ, mời. Người nói ở vị thế nào
khi sử dụng các từ này cũng phải tự hạ mình, hạ vị thế giao tiếp của mình.
Nhóm 4: nhóm có tính áp đặt rất thấp, gồm: xin, xin phép, lạy, van. Đặc
điểm chung nhóm này là mang đậm sắc thái thương lượng. Người nói phải tự
hạ vị thế của mình rất thấp mới có thể thuyết phục được người nghe.
Tác giả này đã đưa ra thang độ về tính áp đặt của các động từ ngữ vi có
nghiã cầu khiến như sau:
Ra lệnh, cấm
Yêu cầu
Đề nghị
Cho phép
Khuyên
Mời
Nhờ
Xin phép, xin, van, lạy
1.3.1.2. Căn cứ vào nghĩa của các vị từ
Căn cứ vào nghĩa của các vị từ, Chu Thị Thủy An còn đưa ra một hướng
phân loại khác như sau:
Nhóm các động từ: ra lệnh, cấm, yêu cầu, đề nghị. Đây là các động từ có
chung nét nghĩa: đưa ra một yêu cầu tỏ ý muốn người khác thực hiện. Sự khác
nhau giữa các động từ trong nhóm là ở mức độ bắt buộc.
Nhóm các động từ: nhờ, mời, khuyên. Đây là các động từ có sự đối lập nhau
về tính lợi ích (thuộc về người nói hoặc thuộc về người nghe).
Nhóm các động từ: xin, xin phép, cho, cho phép. Các động từ này có đích
đến là hành vi cho phép của người nghe.
Nhóm các động từ: van, xin, lạy. Cả ba động từ có nhiều nét tương đồng
trong hoạt động giao tiếp, thể hiện sự khẩn khoản, tha thiết, nhún nhường của
người nói khi cầu xin một điều nào đó.
Hai cách phân loại trên tuy đã được tác giả miêu tả chi tiết nhưng cũng
không thỏa đáng với khá nhiều trường hợp trong thực tế. Chẳng hạn, xin là một
cách nói tỏ ý lịch sự nhưng nhiều khi lại mang tính áp đặt rất cao, vai người nói
cao hơn người nghe. Những cách nói sau đây được hiểu là một lời yêu cầu, ra
lệnh: Xin anh đi ngay cho! Xin anh im đi!v.v.
1.3.1.3. Căn cứ vào tính thuận/nghịch chủ ý tiếp nhận
Phạm Thanh Vân căn cứ vào tính [ + chủ ý] của đối tượng nhận hành động
cầu khiến đề xuất cách phân loại như sau [41,tr.30]:
i. Nếu hành động cầu khiến thuận với chủ ý của đối tượng nhận, ta có vị từ
cầu khiến dương tính như: cho, cho phép…
Ví dụ: Bố cho phép tôi đi chơi.
ii. Nếu hành động cầu khiến nghịch với chủ ý của đối tượng nhận, ta có vị
từ cầu khiến âm tính như: cấm, van xin, nài nỉ, bắt,…
Ví dụ: Tôi cầu xin anh cho tôi khất đến tháng sau.
iii. Nếu hành động cầu khiến không thuận, không nghịch với chủ ý của đối
tượng nhận, tức là đối tượng nhận không nảy sinh nhu cầu nhưng vẫn nhận
hành động cầu khiến, ta có vị từ cầu khiến trung hòa. Thường thì đó là những vị
từ cầu khiến được sử dụng trong phạm vi rộng, có tính chất cộng đồng như: yêu
cầu, đề nghị.
Ví dụ: Yêu cầu không đi lên cỏ.
Đề nghị chính quyền địa phương có biện pháp xử lý thích đáng.
1.3.1.4. Căn cứ vào tính [+ chuyên biệt] của vị từ
Căn cứ khả năng tham gia vào các kết cấu cầu khiến, Nguyễn Thị Quy phân
loại VTCK như sau:
- Các VTCK gồm có những vị từ chuyên biệt như: mời, sai, cho phép,
thỉnh cầu, ra lệnh, cho, giục và bao giờ cũng được dùng trong những kết cấu
cầu khiến, vốn có mô hình:
VC + CT + V [+ chủ ý]
trong đó có VC là vị từ cầu khiến, CT là chủ thể của hành động được cầu khiến
và V[+ chủ ý] là vị từ chỉ hành động đó.
- Ngoài ra còn có những vị từ không chuyên biệt, có thể dùng trong nhiều
kết cấu khác nhau (chẳng hạn như những kết cấu chỉ có một bổ ngữ danh từ)
nhưng khi làm hạt nhân cho một kết cấu có mô hình như trên thì tạo nên một
kết cấu cầu khiến: bảo, bắt, cầu, cầu xin, cử, đòi, nài, nài nỉ, năn nỉ, phái, van,
van nài, van xin, xin, dặn,…
Cùng quan điểm với tác giả Nguyễn Thị Quy nhưng chúng tôi có những
kiến giải bổ sung như sau.
1.3.2. Hai tiêu chí phân loại VTCK
Như đã trình bày, các quan điểm phân loại hiện nay thường theo hai xu
hướng: hoặc căn cứ vào tiêu chí hình thức hoặc căn cứ vào tiêu chí nội dung.
Tiêu chí hình thức có thể đem đến một hệ thống phân loại hết sức khách quan
nhưng tiêu chí này thường chỉ phù hợp với những ngôn ngữ có biến đổi hình
thái. Tiêu chí nội dung thường mang dấu ấn chủ quan, nhất là trong từng ngữ
cảnh nội dung có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Cho nên, việc phân
loại các đơn vị ngôn ngữ cần chú ý đến các phương diện sau đây để có được
một cái nhìn toàn diện.
Trong ngôn ngữ học hiện đại, xuất phát từ lý thuyết ký hiệu học của
Ch.Morris (1938), các đơn vị có nghĩa thường được khảo sát trên ba bình diện
[dẫn theo Cao Xuân Hạo – 15,tr.8]:
-Nghĩa học (semantics): nghiên cứu các ký hiệu trong những mối quan hệ
với các sự vật ở bên ngoài hệ thống.
-Kết học (syntactics): nghiên cứu các ký hiệu trong những mối quan hệ kết
hợp với các ký hiệu khác.
-Dụng học (pragmatics): nghiên cứu các ký hiệu trong những mối quan hệ
với những người sử dụng nó.
Mặt khác, bản chất của từ có những thuộc tính phổ quát như sau:
- Từ là đơn vị ngôn ngữ có tính hai mặt: âm và nghĩa,
- Có khả năng độc lập về cú pháp khi sử dụng trong câu.
Do đó, hai tiêu chí chúng tôi đưa ra làm nguyên tắc cho sự chọn lựa và phân
chia các tiểu loại VTCK là: căn cứ vào nghĩa của từ và căn cứ vào khả năng
hoạt động của từ trong giao tiếp.
a) Căn cứ vào nghĩa của từ:
Như đã nói, ý nghĩa cầu khiến trong ngôn ngữ được thể hiện bằng nhiều
phương thức. Trong VTCK, nghĩa cầu khiến được thể hiện ở ngay chính nghĩa
từ vựng của từ. Căn cứ vào nghĩa vị của từ (với các nét nghĩa) và căn cứ vào
quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ trong hệ thống (bao hàm, đồng nghĩa, trái
nghĩa,.v.v.), ta có nhiều hướng phân loại khác nhau.
Ví dụ:
Đề nghị có các nét nghĩa sau:
- Đưa ra ý kiến về một việc nên làm nào đó để thảo luận, để xét.
- Yêu cầu, thường là việc riêng, và mong được chấp nhận, được giải quyết.
- Từ dùng ở đầu câu để nêu lên một yêu cầu, đòi hỏi phải làm theo.
Yêu cầu: Nêu ra điều gì với người nào đó, tỏ ý muốn người ấy làm, biết
rằng đó là việc thuộc nhiệm vụ, trách nhiệm hoặc quyền hạn, khả năng của
người ấy.
Ra lệnh: đưa ra một mệnh lệnh.
Như vậy đề nghị, yêu cầu, ra lệnh có thể xếp chung một nhóm loại (theo
quan hệ đồng nghĩa, gần nghĩa).
Ví dụ:
Cấm có các nét nghĩa sau:
- Không cho phép làm việc gì đó hoặc không cho phép tồn tại.
- Không cho phép tự do qua lại hoặc đi vào một khu vực nào đó.
Nghiêm cấm: cấm ngặt, hoàn toàn, không cho phép.
Can: làm cho thấy không nên mà thôi đi, không làm; khuyên đừng làm.
Như vậy, can, cấm, nghiêm cấm có thể xếp trong cùng nhóm đối lập với
nhóm đề nghị, yêu cầu, ra lệnh (theo quan hệ trái nghĩa).
b) Căn cứ vào khả năng hoạt động của từ trong giao tiếp
Trong giao tiếp việc chọn lựa từ ngữ luôn bị sự chi phối của các nhân tố
giao tiếp: nhân vật giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, nội dung giao tiếp, mục đích
giao tiếp, kênh giao tiếp. Đây là những yếu tố mà người tạo ngôn cũng như
người lập ngôn không thể bỏ qua khi muốn giải mã một thông điệp. Sự chi phối
này càng nghiêm ngặt đối với một vị từ ngôn hành. Trong ví dụ sau:
(7) Người ta bắt (tôi) viết văn tự.
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
(8) Tôi đã nhờ ông giáo bên ấy viết văn tự rồi.
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
Bắt, nhờ cùng là VTCK biểu hiện ý yêu cầu thực hiện một điều gì đó. Điều
yêu cầu thực hiện ở đây có cùng một nội dung là: viết văn tự. Sự thay đổi vai
nhân vật giao tiếp đã chi phối việc lựa chọn hai vị từ khác nhau. Bắt mang nét
nghĩa: khiến phải làm việc gì, không cho phép làm khác đi. Nhờ mang nét
nghĩa: yêu cầu người khác làm giúp cho việc gì. Ở ví dụ (7), do các vai giao
tiếp không ngang bằng (lớn tuổi, có thế lực, có tiền) nên bà Nghị Quế (người
ta) “bắt” chị Dậu (tôi) phải viết văn tự. Ở ví dụ (8), chị Dậu (tôi) nhờ ông giáo
viết văn tự trong thế quan hệ ngang bằng (mua bán sòng phẳng).
Hay trong ví dụ sau:
(9) Con đi mua báo cho bố nhé mẹ.
-Mẹ bảo con rửa bát!
(10) Con đã mua báo cho bố chưa?
-Mẹ bảo con rửa bát.
với cùng một sự tình, cùng một chủ thể phát ngôn nhưng trong hai hoàn cảnh
giao tiếp khác nhau, “bảo” ở (9) là VT thực hiện một hành động cầu khiến:
người mẹ đề nghị, yêu cầu con làm cái việc rửa bát. Còn “bảo” ở (10) là VT
miêu tả một hành động cầu khiến: người con thuật lại cho bố nghe lời yêu cầu,
đề nghị của mẹ với ý phân trần: con chưa mua báo cho bố được vì con đang bận
rửa bát.
Từ đó, các nhóm VTCK được chúng tôi phân chia theo những cách như
sau.
1.3.3. Danh sách các nhóm VTCK trong tiếng Việt
a) VTCK chính danh và VTCK lâm thời
Một VTCK được xem là chính danh khi nó luôn mang nghĩa cầu khiến
trong mọi tình huống ngôn ngữ. Đó là những từ như: yêu cầu, ra lệnh, lệnh, đề
nghị, kiến nghị, cấm, nghiêm cấm, bắt buộc, cho phép, phái, can, mời, cử, sai,
khuyên, cầu xin, van, van xin, năn nỉ, nài nỉ,v.v. VTCK lâm thời là những vị từ
chỉ có nghĩa cầu khiến trong hoàn cảnh nói năng nào đó như: bảo, cho, lạy, xin,
mượn, nhủ,v.v.
Thật ra, trong các VTCK lâm thời, có những VT hoạt động khá đặc biệt.
Chẳng hạn “xin” vừa là một VTHĐ (ngỏ ý với người nào đó, mong người ấy
cho mình cái gì hoặc đồng ý cho mình làm điều gì), vừa là một VT tình thái
(biểu thị thái độ khiêm tốn lịch sự), vừa là tác tử đánh dấu lời chào mời, cảm
ơn. Có thể thấy hoạt động lâm thời của nó qua nhận định sau [15,tr.229]:
Khi được dùng như một vị từ tình thái với một VTNH làm bổ ngữ, nghĩa
riêng của nó (xin) có phần mờ đi (ngay cả nghĩa “thỉnh cầu”), và vai trò chủ yếu
là báo hiệu một phát ngôn ngôn hành. Bên cạnh xin còn có từ tổ có lời (hay xin
có lời) cũng là một tác tố làm cho vị từ đi sau có được tính ngôn hành một cách
chắc chắn. Dùng xin, có lời hay xin có lời, câu nói sẽ có tính ngôn hành ngay cả
khi bổ ngữ chỉ người tiếp nhận là ngôi thứ ba:
a. Con xin chính thức hỏi Lan làm vợ. (nói với bố mẹ cuả Lan)
b. Tôi có lời khen ngợi các đồng chí ấy.
Hơn nữa nhiều khi xin và có lời còn làm cho những câu nói không dùng
VTNH có được ý nghĩa ngôn hành:
a. Tôi xin gửi lời thăm anh.
b. Tôi có lời chia buồn với gia đình.
Ngoài ra, những VTCK chưa được kể ra trong danh sách hoặc những vị từ
do chuyển nghĩa, biệt ngữ, phương ngữ, tiếng lóng,v.v. trong tình huống nói
năng mang ý nghĩa cầu khiến cũng được chúng tôi xem xét phân loại theo
hướng như trên. Chẳng hạn:
(11) Mẹ biểu con đi ngủ!
(12) Mẹ dạy con phải biết chào hỏi người lớn.
(13) Cậy em, em có chịu lời.
(Nguyễn Du –Truyện Kiều)
(14) Con không khiến U mang con đi!
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
(15) Trẫm truyền gọi ngay Cống Quỳnh vào!
(16) Tôi muốn anh phải xin lỗi nó.
(17) Tôi cần anh đi với tôi đến nhà nó chiều nay.
Biểu là một cách nói phương ngữ của “bảo” (nói cho biết để phải theo đó
mà làm). Dạy : bảo người dưới. Cậy: nhờ. Khiến: bảo làm việc gì. Truyền: ra
lệnh.
Muốn: cảm thấy có sự đòi hỏi về tâm lý, tình cảm hay sinh lý, làm một việc
gì hoặc có cái gì. Cần: không thể không làm, không thể không có, vì nếu không
làm, không có thì sẽ có hại.
Ở đây muốn, cần mang nét nghĩa cầu khiến và tham gia được trong cấu trúc
CT + V1 + Dn + V2 nên muốn, cần được xem là VTCK.
Thực ra, những từ như: mong, muốn, nên, cần, phải vốn là những VT tình
thái, chỉ trong ngữ cảnh như trên mới được chúng tôi xem là những VTCK lâm
thời. Có tác giả đã khẳng định mong, muốn, nên, cần, phải chính là những động
từ cầu khiến [TL22]. Ví dụ:
(17) Cậu nên mua thuốc bổ mà uống.
(18) Anh không cần phải nói gì hết.
(19) Ê, bồ phải ăn mừng lớn đó nghe.
Trong các câu trên, nên, cần, phải chỉ là những VT tình thái (mang nét
nghĩa cầu khiến). Thứ nhất, nếu không có các VT này, câu vẫn đảm bảo nghĩa
sự tình:
- Cậu mua thuốc bổ mà uống.
- Anh không phải nói gì hết.
Thứ hai, nên, cần, phải trong các câu trên không có cấu trúc: VC + CT + V
[+ chủ ý]. Đứng sau nên, cần, phải trong các câu trên là một ngữ vị từ có
VTHĐ làm trung tâm (có cùng chủ thể với nên, cần, phải); mà theo định nghĩa
của Givon, VT tình thái là những vị từ ngoại động đòi hỏi một bổ ngữ vị ngữ
(nghĩa là cần có một ngữ đoạn vị từ làm bổ ngữ trực tiếp) [dẫn theo Cao Xuân
Hạo;14;tr.397].
b) VTCK yêu cầu thực hiện/không thực hiện một việc
- VTCK yêu cầu thực hiện một việc nào đó: yêu cầu, ra lệnh, lệnh, đề nghị,
kiến nghị, bắt buộc, bắt, cho, cho phép, phái, can, cử, bảo, sai, mời, nhờ, xin,
xin phép, khuyên, cầu, cầu xin, van, van xin, năn nỉ, nài nỉ, lạy, v.v.
- VTCK yêu cầu không thực hiện một việc nào đó: can, cấm, nghiêm cấm,
cấm chỉ, cấm tiệt, v.v.
c) Phân loại VTCK theo các mức độ hành động:
i. VTCK mệnh lệnh – bắt buộc
Thuộc về loại này là các VT: yêu cầu, ra lệnh, lệnh, đề nghị, sai, cấm,
nghiêm cấm, bắt, bắt buộc.
Đây là những vị từ biểu hiện hành động cầu khiến mang tính áp đặt, có khả
năng hiện thực cao. Người nói luôn có vị thế giao tiếp cao hơn người nghe (về
vai vế, tuổi tác, chức vụ,v.v.). Người nói có quyền ra lệnh, đề nghị, yêu cầu
người nghe được phép/không được phép thực hiện/không thực hiện một hành vi
nào đó và người nghe gần như phải chấp hành (dù muốn hay không muốn).
Người nghe bị đặt vào tình huống buộc phải thực hiện lời đề nghị, thỉnh cầu,
không có sự chọn lựa nào khác.
Ví dụ:
(20) Cấm dừng xe!
(21) Tôi yêu cầu các em im lặng!
Loại VT này có phạm vi sử dụng khá rộng rãi: dùng trong phong cách khẩu
ngữ, phong cách văn chương và đặc biệt là trong phong cách hành chính-công
vụ.
Có thể xác định mức độ lực ngôn trung của các VT này như sau: nghiêm
cấm -> bắt buộc -> ra lệnh -> đề nghị -> yêu cầu -> sai.
ii. VTCK đề nghị – lịch sự
Thuộc về loại này là các VT: phái, can, cử, khuyên, bảo, cho, mời, nhờ, xin,
xin phép.
Đây là những vị từ biểu hiện HĐCK mang sắc thái trung tính, được sử dụng
trong nhiều phong cách. Người nói và người nghe có vị thế giao tiếp ngang
bằng hoặc không ngang bằng nhưng HĐCK không có sự áp đặt, ép buộc mà là
đề nghị, thỏa thuận để người nghe thống nhất, đồng ý thực hiện/không thực
hiện một việc nào đó. Người nghe không bị đặt vào trách nhiệm phải thực hiện
mà là sự cần thiết để thực hiện điều mà người nói yêu cầu.
Ví dụ:
(22) Tôi khuyên anh không nên làm việc ấy!
(23) Mẹ bảo con phải học tập chăm chỉ!
(24) Con nhờ bố giảng cho con bài toán này!
Có thể xác định mức độ lực ngôn trung của các vị từ này như sau: phái ->
cử -> can -> khuyên -> bảo -> nhờ -> mời -> xin.
iii. VTCK van xin – khẩn thiết
Thuộc về loại này là các VT: cầu, cầu xin, van, van xin, năn nỉ, nài nỉ, lạy.
Đây là những vị từ biểu hiện hành động khẩn cầu cấp thiết. Vị thế các vai
giao tiếp không ngang bằng. Người nói có khi lớn hơn người nghe về địa vị,
tuổi tác nhưng phải hạ thấp thể diện của mình để đặt người nghe vào một vị thế
có thể diện cao hơn, có quyền ban phát, cho tặng, thực hiện điều mà người nói
mong muốn đạt được.
Ví dụ:
(25) Xin hai cụ nhón tay làm phúc!
(26) Con van u, con lạy u, u đừng đem bán con đi!
(27) Mẹ xin con đừng giao du với bọn người ấy nữa!
Chính vì vậy, VT từ này thường kết hợp với các phụ ngữ tình thái có giá trị
cường điệu để làm tăng tính cấp thiết.
Ví dụ:
(28) Tôi cắn rơm cắn cỏ lạy ông giáo!
(29) (Con) trăm sự nhờ thầy giúp con!
(30) Cụ làm ơn bảo cô ấy ra cho con hỏi một tí!
(Nam Cao – Sống mòn)
Loại VT này không thấy sử dụng trong các phong cách hành chính, phong
cách khoa học (do màu sắc phong cách không phù hợp).
Có thể xác định mức độ lực ngôn trung của các vị từ này như sau: lạy ->
cầu xin -> van xin -> xin -> nài nỉ -> năn nỉ
Có thể tóm tắt cách phân loại trên như sau:
LOẠI VTCK VỊ THẾ
GIAO TIẾP
TÍNH CHẤT VÍ DỤ
Mệnh lệnh - bắt buộc Không ngang bằng
Trách nhiệm
phải thực hiện
yêu cầu, ra
lệnh, cấm,…
Đề nghị - lịch sự Ngang bằng hoặc không ngang bằng
Sự cần thiết
để thực hiện
khuyên, bảo,
nhờ, xin
phép
Van xin - khẩn thiết Không ngang bằng
Tính cấp thiết
mong thực hiện
xin, cầu, cầu
xin, van,…
Bảng 1: Bảng phân loại VTCK theo mức độ khẩn cầu
1.4. Tiểu kết
Trên cơ sở xem xét bản chất của hành động cầu khiến, chúng tôi đã đi đến
nhận diện VTCK, một loại VT có vai trò khá đặc biệt trong việc biểu hiện hành
động đề nghị, thỉnh cầu. Việc trình bày những quan điểm nghiên cứu trước đây
cũng như những kiến giải thêm của chúng tôi trong phần này cũng đã góp phần
phân biệt rõ sự khác nhau giữa vị từ cầu khiến với vị từ gây khiến và những vị
từ tình thái có ý nghĩa cầu khiến trong tiếng Việt.
Vị từ cầu khiến là vị từ biểu hiện một hành động điều khiển một đối tượng
thực hiện một hành động nào đó. Đây là một loại vị từ ngôn hành. Cho nên
trong hoạt động nói năng, chắc chắn nó sẽ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố
theo như lý thuyết hành vi ngôn từ và các quy tắc hội thoại. Bước đầu xác lập
một danh sách và phân loại các VTCK trong tiếng Việt chắc sẽ còn nhiều bất
cập nhưng mục đích của chúng tôi là để hiểu rõ thêm những đặc điểm tự thân
của từ loại này (x.phụ lục 1 và 2). Trong phần tiếp theo, chúng tôi sẽ miêu tả rõ
hơn các đặc điểm của VTCK trên các bình diện ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ dụng.
CHƯƠNG HAI : ĐẶC ĐIỂM CỦA VỊ TỪ CẦU KHIẾN TIẾNG VIỆT
TRÊN BÌNH DIỆN NGỮ NGHĨA - NGỮ PHÁP - NGỮ DỤNG
2.1. Về tính [+ động] [+ chủ ý] của vị từ cầu khiến
VTCK thuộc vị từ hành động, nhưng tính [+ động], [+ chủ ý] của lớp từ này
có những nét riêng biệt.
2.1.1. Tính [+ động] của VTCK
Các vị từ hành động có đặc điểm chung là biểu hiện một hành động xảy
ra trong một không gian, thời gian, theo một phương thức nào đó. Hành động
mà vị từ biểu thị có thể là hành động chuyển tác hay hành động vô tác. Ví dụ:
(31) Mẹ nấu một bữa ăn thật ngon đãi cả nhà.
(32) Chị nhìn em chăm chú.
Một hành động tất nhiên phải có chủ thể thực hiện hành động đó. Nếu là
hành động chuyển tác, sự tác động của chủ thể đến đối tượng có thể trên các
phương diện sau:
i. Tác động để tạo lập đối tượng,
ii. Tác động để hủy diệt đối tượng,
iii.Tác động làm thay đổi trạng thái của đối tượng,
iv. Tác động làm thay đổi vị trí của đối tượng,
v. Tác động nhằm yêu cầu, điều khiển đối tượng.
Nếu đối tượng là một vật vô tri, tác động đó có thể làm thay đổi về tính chất
hay trạng thái vật lý, thay đổi về vị trí không gian, làm cho mất đi hoặc tạo ra
đối tượng mới. Nếu đối tượng đó là một động vật hay con người, ngoài những
tác động trên còn có thể tạo ra sự thay đổi về cảm giác, về tri giác,v.v.
Ví dụ:
(33) Anh ta bẻ gãy bó đũa.
(34) Bé vẽ bông hồng.
(35) Chị ấy cho tôi một chiếc khăn.
(36) Bài hát làm xúc động lòng người.
Như vậy, các hành động theo hướng i -> iv phải là những hành động có diễn
biến, có tốc độ, có quá trình, liên quan đến một sự biến đổi tức thì của đối tượng
bị tác động. Những hành động này có khởi đầu, có kết thúc, tạo ra một cái gì
khác trước khi tác động. Kết quả là những gì hiện hữu, cụ thể có thể thấy ngay
tùy theo mức độ của lực tác động, cách thức và phương tiện tác động. Đây là
loại hành động vật lý.
Kết quả của hành động trong các ví dụ trên có thể thấy như sau:
Ví dụ Tình trạng ban đầu Hành động Kết quả
(33) Bó đũa nguyên vẹn bẻ Bó đũa bị gãy
(34) Chưa có hình bông hồng vẽ Có hình bông hồng
(35) Chiếc khăn của chị cho Chiếc khăn của tôi
(36) Lòng người không cảm xúc làm Lòng người xúc động
Bảng 2: Kết quả của loại hành động vật lý
Nhưng đối với vị từ cầu khiến, tính [+ động] lại rất khác, rất đặc biệt. Hành
động cầu khiến tác động đến đối tượng không phải bằng một sự đụng chạm, sờ
nắm cụ thể, không có các phương thức, phương tiện vật chất bên ngoài hỗ trợ
mà nó tác động đến đối tượng bằng chính nội dung của điều cầu khiến. Đây là
loại hành động bằng lời. Hành động ở VTCK chỉ mới là mệnh lệnh, mệnh lệnh
này có được đối thể tiếp nhận, thực hiện hay không lại là chuyện khác. Nói cách
khác, kết quả của một hành động cầu khiến không thể có ngay được. Ví dụ:
(37) Tôi yêu cầu Nam mở cửa ra!
Khi phát ngôn câu nói trên, người nói đồng thời đã thực hiện xong hành
động “yêu cầu”, nhưng kết quả của hành động này là việc “mở cửa ra” thì
chưa thành hiện thực ngay được.
Tuy không trực tiếp tạo ra sự thay đổi tức thì của đối tượng nhưng hành
động cầu khiến lại là khởi đầu cho một hành động khác do đối tượng được yêu
cầu thực hiện. Hành động “yêu cầu” trong ví dụ trên sẽ kéo theo hành động
“mở cửa” của đối tượng “Nam”.
Giá trị của sự tác động này trước hết là tác động đến nhận thức để người
nghe tự hành động theo nội dung được yêu cầu. Có thể hình dung trong mô
hình sau:
Mô hình 1: Mô tả một hành động cầu khiến
Một điều hết sức đặc biệt nữa là nếu ở các vị từ khác, tính [+động] đặt chủ
thể vào cương vị tự mình chịu trách nhiệm về hành động thực hiện thì ở VTCK,
hành động cầu khiến đặt cả chủ thể phát ngôn lẫn người tiếp nhận vào trách
nhiệm đối với điều được nêu ra: người nói đương nhiên chỉ có thể yêu cầu điều
mà người nghe có khả năng thực hiện được. Người ta không thể yêu cầu một
người nào đó thực hiện cái điều đại loại như:
(38) *Tôi đề nghị anh thôi làm người!
hoặc như:
(39) Xin đừng làm tan vỡ trái tim em!
(Tên dịch của bài hát Unbreak my heart!)
Không thể đề nghị một ai đó “thôi làm người”, chẳng qua có thể đây là
một cách nói ví von nhằm chê bai hành vi không phải người của một người nào
đó. Cũng như vậy, không thể làm tan vỡ thật sự một trái tim, đây cũng chỉ là
một cách nói tu từ mà ta có thể hiểu là: đừng đánh mất tình yêu của em, đừng
làm em đau khổ,v.v.
2.1.2. Tính [+ chủ ý] của VTCK
Nếu tính [+ động] được xem xét ở bản chất của hành động thì tính [+chủ ý]
trước hết được nhìn ở góc độ người phát ngôn.
Chủ ý (suy nghĩ, ý nghĩ đã định sẵn) là thuộc tính bản chất của loại động vật
biết tri giác. Có thể khẳng định là tất cả mọi hành động của con người (bình
thường) trong cuộc sống đều là những hành động có chủ ý. Theo đó, một hành
động cầu khiến sẽ không thành nếu như chủ thể không định trước và đưa ra nội
dung cầu khiến ấy. Điều này có vẻ như cũng đúng với tất cả các loại hành động.
NGƯỜI NGHE
nghe hiểu làm
NỘI DUNG
YÊU CẦU
NGƯỜI NÓI
Phát lệnh
Tuy nhiên, đối với hành động không phải cầu khiến, chủ thể thực hiện có thể là
một động vật bất kỳ (người hoặc không phải người).
Ví dụ:
(40) Trèo lên cây bưởi hái hoa.
(41) Con mèo trèo cây cau.
Trong khi đó hành động cầu khiến chỉ có thể là hành động của một động vật
có khả năng ngôn ngữ (biết tư duy, biết nghe, biết nói,v.v.) chính là con người.
Xét các trường hợp thực tế sau:
(42) Tiếng gà
Giục quả na
Mở mắt
Tròn xoe
Giục hàng tre
Đâm măng
Nhọn hoắt
Giục bông lúa
Uốn câu
Giục con trâu
Ra đồng…
(Trần Đăng Khoa)
Có tác giả vì thấy rằng “tiếng gà” không phải là một thực thể có khả năng tư
duy nên cho rằng “giục” trong ví dụ trên là một VT gây khiến-kết quả
[41,tr.41]. Thực ra, ở bài thơ trên có một sự tri nhận thơ ngộ về quan hệ giữa
các sự việc tại một thời khắc bất chợt. Ở đây không chỉ có mối quan hệ nhân-
quả:
Tiếng gà khiến cho
mà còn có một mối quan hệ thời gian:
Tiếng gà thúc giục
Tại một thời điểm sáng sớm, khi tiếng gà cất lên, cũng là lúc con người, vạn
vật chuyển mình chào đón một ngày mới, dường như tiếng gà cũng thúc giục
Quả na mở mắt
Hàng tre đâm măng
Bông lúa uốn câu
Con trâu ra đồng
Quả na mở mắt
Hàng tre đâm măng
Bông lúa uốn câu
Con trâu ra đồng
vạn vật, con người. Trong bài thơ trên, ý nghĩa thúc giục được biểu hiện rõ hơn,
có giá trị tu từ hơn ý nghĩa gây khiến. Đây là hiện tượng chuyển nghĩa trong
văn chương: quả na, hàng tre, bông lúa không còn là những vật thụ động, còn
“tiếng gà” được xem là tín hiệu thời gian đánh dấu một thời điểm nào đó, như
là một quy ước, có chủ ý của một cộng đồng người.
Ta vẫn thường gặp những cách nói như vậy, đặc biệt là trong phong cách văn
chương. Những trường hợp chủ thể cầu khiến không phải là con người nhưng
được xem như người (hiện tượng chuyển nghĩa), chẳng hạn trong các ví dụ sau:
(43) Đất nước mênh mông đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
(Chế Lan Viên-Tiếng hát con tàu)
(44) Con tim cứ lên tiếng thúc giục nhưng lý trí mách bảo tôi đừng nghe theo.
Ở ví dụ (43) tàu đã được nhân hoá có tính [+động], [+chủ ý] như người
(con tàu trong tâm tưởng). Ví dụ (44) là một cách nói hoán dụ. Con tim, lý trí ở
đây cũng chính là chủ thể nhân vật “tôi”.
Đồng quan điểm này, tác giả Nguyễn Thị Quy cũng đã khẳng định: “Cái
chủ thể ấy dĩ nhiên phải là một động vật (một con người hay một con vật),
nhưng cũng có thể là Thượng Đế hiểu theo đủ các cách có thể, là một thần linh,
là một vật được coi là có hồn (trong các tín ngưỡng bái vật) hay là một vật, một
sức mạnh thiên nhiên được nhân cách hóa một cách ước định”[32,tr.65].
Đặc trưng về tính [+ chủ ý] của VTCK còn được thể hiện ở vai đối thể
của VT. Người ta chỉ có thể yêu cầu, đề nghị một đối tượng có khả năng nhận
biết lệnh và thực hiện được mệnh lệnh. Việc thực hiện này có khi là bằng hành
động, có khi là bằng lời. Vì thế đối tượng này cũng chỉ có thể là người. Ví dụ:
(45) Đề nghị anh báo cáo!
(46) Nhờ chị mua giùm gói thuốc!
Cũng có khi đối tượng đó không phải là người như trong ví dụ:
(47) Trâu ơi! Ta bảo trâu này!
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta.
(Ca dao)
Như đã trình bày, ở đây trâu đã được nhân hóa như là một động vật biết tri
giác (cũng như những con vật cưng nuôi trong nhà).
Ngoài ra, có trường hợp ta đã từng nghe như:
(48) Xin mặt trời ngủ yên!
(Tên một bài hát của Trịnh Công Sơn)
Đây là trường hợp cá biệt xuất hiện trong phong cách nghệ thuật. Tất nhiên
tiêu đề bài hát này vẫn có ý nghĩa khi quy chiếu với cả văn bản bài hát nhưng
vấn đề này không thuộc phạm vi xem xét của luận văn.
Tính [+ động], [+ chủ ý] của VTCK sẽ được tiếp tục làm rõ thêm khi xem
xét đặc điểm các diễn trị của một VTCK (mục 2.2).
2.2. Các vai nghĩa của một vị từ cầu khiến
VTCK vốn biểu thị một hành động ngôn từ do một chủ thể thực hiện
(diễn tố 1) tác động vào một đối tượng là người hay động vật (diễn tố 2) với
mục đích điều khiển đối tượng thực hiện một hành động nào đó. Hành động này
được biểu hiện bằng một vị ngữ, làm thành diễn tố thứ ba.
2.2.1. Diễn tố thứ 1: Vai tác thể
Đây là đệ nhất diễn tố (prime actant) biểu hiện chủ thể của hành động
cầu khiến. Nó chính là phần Đề (Chủ đề) của câu đơn hai thành phần. Chủ thể
đó phải là một con người hoặc vật/động vật được nhân hóa như người (như đã
trình bày ở 2.1.2) cho nên các từ ngữ có thể giữ vai trò làm diễn tố 1 là:
- Đại từ:
(49) Tôi xin ông cai, ông tha cho cháu!
(50) Họ khuyên can chị Dậu đừng khóc.
(51) Ai nấy đều khuyên chị Dậu phải yên lòng.
(52) Nó xúi chồng nó nhất định không đóng.
(53) Hắn sai tuần phu trói chặt chị Dậu vào cột đình.
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
(54) Y mời khách qua đường vào nghỉ chân, uống nước.
(Nam Cao- Đón khách)
- Danh ngữ chỉ người:
(55) Người này sai nó việc này, người kia sai nó việc khác.
(56) Bà lão lại khuyên chị Dậu: “Bác gái cũng phải ăn đi!”
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
- Tên riêng chỉ người hoặc một tổ chức:
(57) Thư bảo Hoài uống một chút cho vui.
(Nam Cao- Quên điều độ)
(58) Bộ Giáo dục - Đào tạo đề nghị các trường không tăng học phí.
- Danh ngữ chỉ vật/động vật được nhân hóa như ví dụ (43),(44):
Con tim cứ lên tiếng thúc giục nhưng lý trí mách bảo tôi đừng nghe theo.
Đất nước mênh mông đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
(Chế Lan Viên-Tiếng hát con tàu)
- Trong nhiều trường hợp, diễn tố 1 có thể là một vật vô sinh, như trong ví
dụ sau:
(59) Bức tranh này nhắc nhở chúng ta về thảm họa hạt nhân.
(Dẫn theo Nguyễn Vân Phổ- TL31;tr.35)
Theo Nguyễn Vân Phổ, đây là trường hợp có chủ thể là “những dấu hiệu
vật chất mà từ đó con người đọc được ý nghĩa của nó”, người nói cảm nhận
được, rút ra được từ những dấu hiệu vật chất bình thường “chứ không liên quan
gì đến quá trình nhân hoá”.
Diễn tố 1 có thể được rút gọn trong các trường hợp sau:
- Trong tình huống hội thoại người nói đang là chủ ngôn cầu khiến:
(60) () Xin ông hãy tạm tha trói nhà con một lúc!
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
(61) () Đề nghị im lặng!
- Trong trường hợp chủ ngôn là một cá nhân, tổ chức có quyền lực mà
mọi người phải tuân thủ:
(62) () Cấm đỗ xe!
() Yêu cầu anh cho xem giấy tờ!
- Trong thơ (khi nhân vật tôi trữ tình được xem là luôn hiện hữu):
(63) Hoa sớm tương tư đã nở đầy
Mời em dạo bước tới vườn đây.
(Xuân Diệu-Yêu)
Nhận xét về khả năng rút gọn của thành phần này trong câu, Cao Xuân
Hạo có viết: “Đề ngữ trong tiếng Việt rất hay vắng mặt trên bình diện cú pháp,
nhất là khi sở chỉ của nó là người nói, người nghe, là một cái gì mà hai người
đang nhìn thấy hay đang bàn tới, là “người ta” nói chung hoặc là môi trường
của cuộc đối thoại”[14,tr.427].
Ta thấy rằng các từ ngữ làm diễn tố 1 đều có thể ở các ngôi (số ít hoặc số
nhiều) nhưng trong các biểu thức cầu khiến tường minh thì chỉ có thể là đại từ
nhân xưng ngôi thứ nhất như trong các ví dụ sau:
(64) Tao bắt mày ở làm con trâu con ngựa cho nhà tao.
(Tô Hoài – Vợ chồng A Phủ)
(65) Chúng tôi đề nghị cấp trên, Đảng, Nhà nước xét truy tặng danh hiệu
Dũng sĩ diệt Mỹ cho Liệt sĩ Trần Đình Luận.
(Đỗ Viết Nghiệm - Tấm ảnh còn lại)
(66) Tôi yêu cầu cô quên thằng Tân đi!
(Nguyễn Mạnh Tuấn- Đời hát rong)
Về vị trí, khảo sát của chúng tôi cho thấy, diễn tố 1 luôn đứng đầu câu,
trong mọi trường hợp không thể đảo ngữ, không thể thay đổi trật tự. Thử cải
biên một số câu trong các ví dụ đã nêu ở trên:
Bố cho phép tôi đi chơi.
Tôi được bố cho phép đi chơi.
Tôi được cho phép đi chơi bởi bố.
Hay:
Y mời khách qua đường vào nghỉ chân uống nước.
Khách qua đường được y mời vào nghỉ chân uống nước.
Khách qua đường được mời vào nghỉ chân uống nước.
Những cách nói này thường không tự nhiên trong tiếng Việt, hơn nữa câu
được cải biên không còn ý nghĩa cầu khiến mà đã mang ý nghĩa tiếp thụ. Lúc
này tiêu điểm thông tin của câu cũng đã khác.
2.2.2. Diễn tố thứ 2: Vai đối thể
Diễn tố 2 có một cương vị hết sức đặc biệt: vừa là đối thể của VTCK trung
tâm, đứng ngay sau VT trung tâm, vừa là chủ thể của VT hành động ở diễn tố 3,
đứng ngay trước diễn tố 3. Trong ví dụ sau:
(67) Tôi bảo nó đi học.
nó là đối thể của hành động bảo, nhưng nó cũng là chủ thể của hành động đi
học.
Vì là đối tượng có trách nhiệm thực hiện điều mà người nói yêu cầu cho nên
diễn tố 2 là người hoặc có thể là động vật bất kỳ có khả năng nhận biết lệnh và
thực hiện được lệnh. Như ở ví dụ sau:
(68) Bụt sai chim sẻ xuống nhặt thóc giúp Tấm.
trong thế giới thần thoại, chim sẻ được xem là một nhân vật biết tri giác như
người. Hay trong ví dụ (47):
Trâu ơi! Ta bảo trâu này!
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta.
trâu được xem là người bạn biết đồng cam cộng khổ với người nông dân.
Đặc biệt là, diễn tố 2 cũng có khi là chính nhân vật chủ ngôn ở diễn tố 1
(diễn tố 2 = diễn tố 1).
Ví dụ:
(69) Tôi vẫn không cho phép mình lấy đồng tiền để thay cái mặt mình.
(Nguyễn Minh Châu-Bức tranh)
(70) Tôi không cho phép tôi chạy trốn.
(Nguyễn Minh Châu-Bức tranh)
(71) Ra về lòng lại dặn lòng
Chanh chua chớ phụ, ngọt bùi chớ ham.
(Ca dao)
Trong trường hợp này, hành động cầu khiến không hướng đến đối thể bên
ngoài mà hướng vào phía vai người nói. Ở đây, người nói tự khuyên răn, nhắc
nhở chính mình. Đây là cách nói độc thoại thường chỉ thấy xuất hiện trong
phong cách ngôn ngữ văn chương, trong nhật ký, tự thuật.
Các từ ngữ có thể tham gia làm diễn tố 2 là:
- Đại từ:
(72) Ông bảo mày lấy thêm rượu!
(73) Hắn bắt chị xỏ chân vào guốc.
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
- Danh từ, ngữ danh từ chỉ người:
(74) Các cụ sai ông pho đi tìm ông cửu.
(Nam Cao- Đôi móng giò)
(75) Hôm qua ông dặn bố nó nhà con sáng nay phải đi chợ sớm.
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
- Tên riêng chỉ người hoặc một tổ chức:
(76) Bà bắt Điền cưới vợ.
(Nam Cao - Trăng sáng)
(77) UBND Tỉnh đề nghị UBND Huyện Thuận An báo cáo sơ kết 6 tháng đầu
năm.
- Danh từ, ngữ danh từ chỉ động vật/vật được nhân hóa (ví dụ 43,44).
Diễn tố 2 cũng có thể được rút gọn tùy vào ngữ cảnh cho phép:
- Khi đối thể là người đang thuật lại điều yêu cầu phải thực hiện:
(78) Cụ bắt ()phải xin triện của ông nhận thực cho nữa.
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
(79) Tôi chưa biết ra sao thì có người bạn sang rủ ()đi làm cách mạng
(Phạm Quang Đẩu- Bí mật khu rừng chiến địa)
- Đối thể đã được nhắc đến trong văn cảnh trước hoặc sau đó:
(80) Vì tên Dậu là thân nhân của hắn, cho nên chúng con bắt ()phải nộp thay.
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
(81) Một hôm, mẹ Cám đưa cho Tấm và Cám mỗi người một cái giỏ bảo ()ra
đồng hớt tép, ai đầy giỏ thì được thưởng.
(Tấm Cám)
(82) Vợ con khuyên can ()đừng uống rượu mà ông Tư vẫn cứ không nghe.
- Nội dung yêu cầu là quy định chung mà mọi người phải thực hiện:
(83) Cấm () hút thuốc!
Yêu cầu () không đi lên cỏ!
Những trường hợp không thể, không nên rút gọn diễn tố 2 là:
- Khi vai người nghe cao hơn người nói (để đảm bảo lịch sự):
(84) Xin mời cụ lên trên!
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
- Khi diễn tố 2 là tiêu điểm thông tin. Vi dụ:
(85) Thầy bảo ai lên bảng?
- Thầy bảo anh lên bảng.
Câu hỏi (85) trong tình huống hội thoại có nhiều cách trả lời đầy đủ hoặc rút
gọn nhưng diễn tố 2 là điều người hỏi quan tâm nên không thể rút gọn được.
2.2.3. Diễn tố thứ 3: Vai nội dung hành động
Diễn tố thứ 3 của VTCK là một vị ngữ, có thể chỉ gồm một vị từ hành động
(VTHĐ) hoặc một VTHĐ kèm theo bổ ngữ của nó. Ví dụ:
(86) Tôi sai nó đi.
(87) Tôi đề nghị anh Ba ngày mai nhanh chóng đón xe đi thành phố đến gặp
ông Sáu để nhận tài liệu!
Ở câu (86), diễn tố 3 có cấu tạo là một vị từ. Ở câu (87), diễn tố 3 có cấu
tạo là một ngữ vị từ, trong đó có VTHĐ làm trung tâm “đón” và các bổ ngữ
xoay quanh nó (thời gian, phương tiện, cách thức, mục đích).
Vì cái hành động ở diễn tố 3 là hành động mà người nghe phải thực hiện
theo yêu cầu cuả người nói cho nên đây chỉ có thể là một hành động [+chủ ý].
Hành động đó có thể là hành động chuyển tác hay vô tác. Ví dụ:
(88) Nó nằng nặc giục mẹ bắc cháo ra.
(89) Con không cho u nằm nữa!
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
Thực tế có những phát ngôn trong đó diễn tố 3 không phải là một VT [+chủ
ý] mà là một VT [- chủ ý]. Ví dụ:
(90) Tao yêu cầu mày biến!
(91) Tôi mong anh trở thành người tốt!
Biến vốn là một vị từ quá trình vô tác chuyển thái [- chủ ý]. Con người ta
không thể nào tự mình, chủ động làm thay đổi mình từ một trạng thái tồn tại
sang một trạng thái không tồn tại. Cho nên ở ví dụ (90) chỉ có thể hiểu biến có
nghĩa là di chuyển từ nơi này đến một nơi nào khác (tương tự: Tao yêu cầu mày
đi khỏi đây!). Và như vậy biến trong ví dụ (90) trở thành một VTHĐ di chuyển
[+ chủ ý].
Trơ là một vị từ quá trình vô tác chuyển thái [- chủ ý], về lý thuyết, không
thể tham gia được trong kết cấu cầu khiến như ở ví dụ (91). Nhưng ở đây có lẽ
trong tình huống nói năng đã có một sự lược giản. Một cách nói đầy đủ có thể
là:
Tôi mong anh phấn đấu trở thành người tốt!
Tôi mong anh cố gắng trở thành người tốt!
Trong một số ngữ cảnh (rất ít) diễn tố 3 cũng có thể được rút gọn. Ví dụ:
(92) Con không khiến u ()! Con không khiến u mang con đi !
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
(93) Bà lão nhìn vòng quanh một lượt, rồi cũng cất bát cơm lên:
- Mời bà phó ()! (Nam Cao- Một bữa no)
Nhưng cần lưu ý là, ở một số VTCK lâm thời như bảo, dặn,… sự vắng mặt
của diễn tố 3 có khi sẽ làm thay đổi cấu trúc cơ bản của câu. Nguyễn Vân Phổ
có nhận xét về trường hợp này như sau: “Sự vắng mặt của vị từ thứ hai sẽ biến
cấu trúc của toàn câu trở thành cấu trúc trần thuật với vị từ chính là vị từ nói
năng thông tin” [31,tr.145]. Ví dụ:
(94) Ông Nam đã bảo cậu Hải làm tường trình về sự cố ở xưởng nhuộm.
(94’) Ông Nam đã bảo cậu Hải về sự cố ở xưởng nhuộm.
Ở câu (94), bảo là VTCK biểu thị hành động ông Nam yêu cầu Hải (đối thể)
thực hiện một việc, đó là tường trình về sự cố ở xưởng nhuộm. Còn ở câu (94’),
bảo là VT nói năng - thông tin biểu thị hành động ông Nam nói cho Hải (tiếp
thể) biết về sự cố ở xưởng nhuộm.
Về vị trí, BNND luôn đứng ngay sau BNĐT, rất ít trường hợp (trong câu
cầu khiến tường minh) BNND được người nói đưa lên đầu câu xem là tiêu điểm
thông báo cần nhấn mạnh như ở các ví dụ sau:
(95) Tôi đề nghị các em im lặng!
Im lặng! Tôi đề nghị các em!
(96) Tôi xin thề tuyệt đối trung thành với Tổ quốc!
Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc! Xin thề!
Là một VTHĐ [+ chủ ý] nên diễn tố 3 hầu như là diễn tố bắt buộc có mặt
trong kết cấu cầu khiến, không thể thay thế được. Những cách nói như:
(97) Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế!
(Tô Hòai – Vợ chồng A Phủ)
(98) Bố sai em đi mua thuốc lá.
Bố sai em làm việc ấy.
(99) Chỉ huy ra lệnh cho họ bắn vào đám biểu tình.
Chỉ huy ra lệnh cho họ làm như thế.
Chỉ huy ra lệnh cho họ hành động như thế.
đòi hỏi những quy định rất nghiêm ngặt: phải có văn cảnh để hồi chỉ hoặc khứ
chỉ, phải có từ ‘làm’ hoặc ‘hành động’ đứng trước các từ, ngữ thay thế (những
VTHĐ mua, bắn, đi, đứng, lấy, cho,v.v. đều có chung một ý nghĩa khái quát là
‘làm’ hay ‘hành động’).
Trường hợp này, có tác giả đã cho rằng BNND ở diễn tố 3 vốn là một
VTHĐ đã được thay thế bằng một danh ngữ [41,tr.51]. Có hay không có một
kết cấu tham tố của VTCK mà diễn tố 3 là một danh ngữ, ta hãy xét các ví dụ
dưới đây có BNND là một danh ngữ đứng sau BNĐT:
(100) Tôi khuyên anh một việc.
(101) Tôi khuyên anh một câu.
Có thể thấy ngay các câu dạng trên không tồn tại độc lập bởi chúng chưa
phải là một câu trọn nghĩa. Việc, điều, ý, câu, chuyện,v.v. là những danh từ trừu
tượng, trống nghĩa. Để người nghe hiểu được, chúng phải được giải thích rõ
hơn bằng một ngữ đoạn, một tiểu cú theo sau, kiểu như:
Tôi khuyên anh một câu, đó là…
Tôi khuyên anh một việc: (anh) nên…
Ví dụ:
(102) Con chỉ xin bà một điều: bà đừng nói xấu cách mạng.
(Nguyễn Huy Tưởng – Một phút yếu lòng)
Trong trường hợp này, “một câu”, “một việc”, một điều, v.v. khi được giải
thích ra cũng chính là cái hành động mà người nghe cần thực hiện theo lời
khuyên răn của người nói.
Nhưng trường hợp sau đây thì có khác:
(103) Anh nên khuyên nó một câu.
Đây là một phát ngôn có giá trị tự nghĩa. Khi cải biến nó, ta có:
*Anh khuyên nó.
*Anh nên nó.
Anh nên khuyên nó.
Rõ ràng là trung tâm ngữ nghĩa đã được đặt vào “nên” với hai diễn tố là
“khuyên” và “nó”. Câu vẫn mang ý nghĩa cầu khiến nhưng cái lõi của sự tình
không phải do một VTCK làm trung tâm (nên là một VT tình thái).
Nói chung, VTCK luôn là một VT có 3 diễn tố (vai tác thể, vai đối thể, vai
nội dung hành động). Các trường hợp thay thế, đảo trật tự hay rút gọn là rất ít,
chỉ mang tính lâm thời, tùy vào ngữ cảnh cho phép.
Đã từng có những quan điểm khác khi phân tích một kết cấu cầu khiến:
- Coi phần gồm diễn tố thứ hai và thứ ba là một kết cấu chủ vị làm bổ ngữ
(BN) cho vị từ trung tâm (VTTT). Chẳng hạn trong ví dụ:
(104) Tôi sai nó đi.
xem nó đi là một tiểu cú làm BN cho VTTT sai.
- Thừa nhận hai mối quan hệ cú pháp: giữa VTTT với diễn tố 2 như trong
một kết cấu vị từ bổ ngữ và giữa diễn tố 2 với diễn tố 3 như trong một kết cấu
chủ vị. Nói cách khác danh ngữ chỉ diễn tố 2 vừa là bổ ngữ của VTTT, vừa là
chủ ngữ của VT biểu thị diễn tố 3.
- Coi kết cấu cầu khiến, cũng như kết cấu gây khiến-kết quả, là sự thể hiện
ở bề mặt của một cấu trúc sâu gồm hai kết cấu chủ vị tôi sai nó và nó đi rút gọn
lại:
S
C1 C2
NP VP NP VP
V NP
Tôi sai nó nó đi
(S: câu, C: mệnh đề/tiểu cú, NP: ngữ danh từ, VP: ngữ vị từ, V: vị từ)
Về vấn đề này, Nguyễn Thị Quy đã có nhận xét như sau:
“Trong cách phân tích 1, kết cấu cầu khiến bị lẫn lộn với kết cấu gồm vị từ
nhận thức nói năng có bổ ngữ chỉ nội dung của nó. Thật ra “sai nó đi” không
có nghĩa là sai điều sau đây: “Nó đi”, mà là sai nó làm một việc là đi. Ở đây có
cả sự lẫn lộn giữa bình diện cú pháp (hình thức) và bình diện nghĩa (nội dung).
Về phương diện cú pháp, nó đi không thể là một cấu trúc chủ - vị (một tiểu cú)
vì nó không thể tình thái hóa bằng một trong 110 từ tình thái (trừ đừng đi với
bảo, khuyên).
Cách phân tích 2 giả định một sự cô đúc cú pháp, và cách phân tích 3 giả
định một sự cải biến từ cấu trúc sâu có gạt bỏ một tham tố.
Điều đã dùng để phê phán cách phân tích 1 cũng có hiệu lực đối với hai cách
phân tích này: nó đi không thể là một cấu trúc chủ - vị.
Qua biểu đồ hình nhánh trên đây, ta thấy ở cấu trúc sâu, tức ở cấu trúc
nghĩa, ta có hai câu: 1. tôi sai nó, và 2. nó đi. Cách phân tích này còn phần nào
có lý nếu dùng cho kết cấu gây khiến-kết quả: Tôi bẻ nó gãy. Tôi bẻ nó và nó
gãy. Ở đây tôi bẻ nó có đủ tư cách làm câu và nó gãy cũng vậy. Còn ở trường
hợp câu cầu khiến thì tôi sai nó là một câu tỉnh lược, vì thiếu mất một diễn tố
bắt buộc của vị từ sai, và nó đi như đã nêu rõ trên đây, không hề có tư cách của
một câu. Vả lại, tôi sai nó đi chỉ phản ảnh một sự thể, một hành động do tôi
làm, còn nó chưa hề làm gì hết, và có thể không bao giờ làm gì hết.
Cho nên, cách phân tích thích hợp nhất với nghĩa của vị từ cầu khiến là coi
danh ngữ và vị ngữ đi sau vị từ chính như là hai bổ ngữ của nó”[32,tr.146].
Cần phải thấy rằng trong cấu trúc của một ngữ đoạn có VTCK làm trung
tâm, tuy diễn tố thứ 3 là một VTHĐ có chủ thể là diễn tố thứ 2 nhưng quan hệ
giữa diễn tố 2 và diễn tố 3 không phải là một quan hệ Đề - Thuyết, hay nói cách
khác không làm thành một tiểu cú. Sở dĩ như vậy, xét cho cùng, chính nghĩa
của VTCK làm trung tâm đã chi phối tất cả các ngữ đoạn phụ kết với nó. Đứng
sau một VTCK phải có hai tham tố bắt buộc: ai đó (vai đối thể) - làm một việc
gì đó (vai nội dung). Điều này cũng được thể hiện rõ qua các dấu hiệu hình thức
và quy tắc cú pháp.
Để xác định tư cách của các thành phần đứng sau VT (là một hay nhiều
tham tố, là một kết cấu Đề - Thuyết hay một ngữ đoạn chính phụ hoặc đẳng lập)
ta có thể dùng những thủ pháp phân tích ngữ đoạn như sau:
a) Trắc nghiệm lược bỏ. Khi lược bỏ một thành phần đứng sau VT, câu
được tạo mới vẫn có nghĩa, hoặc không thay đổi ý nghĩa cơ bản thì VT chỉ có
một diễn tố (tức là thành phần bị lược bỏ không phải là tham tố bắt buộc). Ví
dụ:
(105) Tôi thấy nó đi.
Tôi thấy nó.
Thấy, nói, biết, nghĩ, tin tưởng,v.v. là những VT cảm nghĩ nói năng thông
tin. Loại VT này khi làm trung tâm của vị ngữ cũng có thể có nhiều ngữ đoạn
tham gia làm bổ ngữ. Ở ví dụ (105) khi lược bỏ “đi”, phần còn lại “tôi thấy
nó” hoàn toàn có tư cách của một câu, nghĩa là “đi” không chịu sự chi phối của
VT trung tâm, mà chịu sự chi phối trực tiếp của “nó”. Như vậy, “nó đi” là một
kết cấu Đề – Thuyết. Trong khi ở câu (104):
Tôi sai nó đi.
* Tôi sai nó.
khi lược bỏ “đi”, phần còn lại “tôi sai nó” là một ngữ đoạn chưa đủ nghĩa vì
không thể xác định được nội dung sai khiến là gì. Do đó “đi” ở câu (104)
không thể lược bỏ, “đi” là một tham tố bắt buộc của VTCK, “đi” có quan hệ
trực tiếp với VTTT “sai”.
b) Thao tác cải biến. Trong các câu cầu khiến tường minh, khi tách riêng
hai diễn tố và đảo trật tự của diễn tố 3 (vai nội dung) lên đầu câu, ý nghĩa cầu
khiến, mục đích cầu khiến vẫn không hề thay đổi. Như ở các ví dụ (95), (96):
Tôi đề nghị các em im lặng!
Im lặng ! Tôi đề nghị các em!
Tôi xin thề tuyệt đối trung thành với Tổ quốc!
Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc! Xin thề!
Trong khi việc này không thực hiện được ở các kết cấu như:
(106) Tôi xem nó đi.
* đi, tôi xem nó
(107) Tôi đánh nó đau.
*đau, tôi đánh nó
c) Trắc nghiệm mở rộng văn cảnh. Việc mở rộng văn cảnh nhằm mục đích
xem xét quan hệ của từng thành phần trong ngữ đoạn với các yếu tố thêm vào.
Ở câu (104), như đã nói, “sai nó đi” không có nghĩa là sai cái điều “nó đi”,
mà là sai nó làm một việc là “đi”. Vì vậy, đi hay chưa/không đi hoặc có thể
không bao giờ đi là việc của “nó”. Cho nên có thể thêm vào câu (104) nhưng
nó chưa/không đi mà vẫn chấp nhận được.
Tôi sai nó đi, nhưng nó chưa đi.
Tôi sai nó đi, nhưng nó không đi.
Trong khi đó, điều này không thể thực hiện được ở câu (105):
*Tôi thấy nó đi, nhưng nó chưa đi.
*Tôi thấy nó đi, nhưng nó không đi.
Một ngữ đoạn có vị từ khác với ngữ đoạn không có vị từ ở chỗ nó có thể
được tình thái hóa, nghĩa là có thể có những nét đặc trưng về tình thái có ảnh
hưởng đến thái độ cú pháp của nó trong ngữ đoạn lớn hơn. Theo đó, giữa hai
thành phần khi thêm vào được các từ chỉ thời, thể, tình thái thì chúng là một kết
cấu Đề-Thuyết, còn không thì chúng là hai tham tố riêng biệt. Ở ví dụ (104)
không thể thêm vào những từ kiểu như: đang, sẽ, đã, muốn,v.v.
* Tôi sai nó đang đi
* Tôi sai nó sẽ đi
* Tôi sai nó muốn đi
Trong khi điều này có thể xảy ra với các dạng câu như:
(108) Tôi biết nó đi.
Tôi biết nó đang đi.
Tôi biết nó sẽ đi.
Tôi biết nó muốn đi.
Khả năng kết hợp với rằng cũng là một dấu hiệu phân biệt. Rằng biểu thị
điều sắp nêu ra là nội dung thuyết minh cho điều vừa nói đến. Nếu thêm được
rằng vào trước hai ngữ đoạn đứng sau vị từ thì chúng là một kết cấu Đề–
Thuyết, còn không thì chúng là hai tham tố riêng biệt. So sánh hai trường hợp
thêm vào ví dụ (104) và (108):
* Tôi sai rằng nó đi.
Tôi biết rằng nó đi.
ta thấy rõ “nó” và “đi” trong “sai nó đi” là hai tham tố riêng biệt.
d) Thủ pháp trắc nghiệm Jakhontov. Theo Jakhontov, trong hai từ có quan
hệ phụ kết với nhau, từ phụ thuộc bao giờ cũng dễ thay thế hơn bằng một từ có
quan hệ tương đương. Nói cách khác, tính phụ thuộc của yếu tố phụ ngữ trong
ngữ đoạn là khả năng được thay thế bằng một đại danh từ nhân xưng hay một vị
từ nghi vấn (dẫn theo Cao Xuân Hạo-14,tr.370).
Vận dụng thủ pháp này, ở ví dụ (104) và (105) ta có thể đặt câu hỏi - ai?
đối với đại từ nhân xưng và câu hỏi - làm gì? đối với một VTHĐ để xác định bổ
ngữ trong các ngữ đoạn sai nó đi và thấy nó đi như sau:
(104) Tôi sai nó đi.
sai ai? (sai) nó
*(sai) đi
*(sai) nó đi
sai làm gì? *(sai) nó
(sai) đi
*(sai) nó đi
(105) Tôi thấy nó đi.
thấy ai? (thấy) nó
*(thấy) đi
*(thấy) nó đi
* thấy làm gì?
thấy việc gì? *(thấy) nó
(cái gì) *(thấy) đi
(thấy) nó đi
Như vậy, ở câu (104)“nó” là bổ ngữ đối thể và “đi” là bổ ngữ nội dung
hành động của VT “sai”. Còn ở câu (105), “nó đi” là một sự tình, một kết cấu
chủ vị, một tiểu cú bổ nghĩa cho VT “thấy”.
Những trình bày trên đây cũng đã chỉ ra sự khác biệt của VTCK trong
nhóm vị từ cảm nghĩ nói năng thông tin. Về nghĩa không có gì phải bàn nhưng
về cấu trúc tham tố trong một số dạng câu như trên, tuy hình thức có giống
nhau nhưng bản chất thì hoàn toàn khác.
Hiện nay vấn đề VTCK có ba diễn tố là điều đã được đương nhiên thừa
nhận. Đó là các tham tố bắt buộc thể hiện các vai nghĩa của nội dung sự tình (do
VTCK đảm nhiệm). Tất nhiên là một ngữ đoạn có VTCK làm trung tâm có thể
có hơn 3 tham tố; VTCK có thể kết hợp với các phụ ngữ để cùng với nội dung
sự tình làm nên cấu trúc nghĩa của câu. Các tham tố không bắt buộc này có thể
đứng trước hoặc sau VTCK để biểu hiện ý nghĩa bổ sung như:
Ý nghĩa thời, thể:
(109) Mới sáu giờ rưỡi ngài đã giục bếp bưng mâm lên rồi.
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
(110) Tôi đương bảo nó đi lấy thêm rượu.
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
(111) Con mời rồi nhưng bà không ăn.
Ý nghĩa tình thái:
(112) Anh muốn mời ai đi thì mời!
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
(113) Con không cho u nằm nữa!
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
(114) Ai cấm được người nghiện ăn tham.
(Hồ Dzếnh- Chú Nhì)
Ý nghĩa phương thức:
(115) Anh Dậu cũng rề rà giục vợ:
-Cháo sắp vữa cả rồi đấy. U nó ăn cho hết đi!
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
(116) Bà lão lại khuyên chị Dậu:
-Bác gái cũng phải ăn đi!
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
(117) Tôi đề nghị mấy lần rồi nhưng họ vẫn không thực hiện.
Sự kết hợp để thêm nghĩa như trên thường chỉ thấy ở các biểu thức cầu
khiến nguyên cấp.
Có thể mô tả cấu trúc ngữ nghĩa của VTCK như sau:
DIỄN TỐ 1 VT TRUNG TÂM DIỄN TỐ 2 DIỄN TỐ 3
Ví dụ Tôi sai nó đi
Vai nghĩa Tác thể VT cầu khiến Đối thể Nội dung
Bảng 3: Cấu trúc tham tố của một VTCK
Trong thực tế giao tiếp, cấu trúc này có thể được cụ thể trong nhiều mô hình
khác nhau. Chẳng hạn, những mô hình rút gọn như:
VT CẦU KHIẾN DIỄN TỐ 2 DIỄN TỐ 3
Mời bà xơi cơm
Bảng 4: Cấu trúc rút gọn vai tác thể của một VTCK
DIỄN TỐ 1 VT CẦU KHIẾN DIỄN TỐ 3
Nó đòi bế ra hè
Bảng 5: Cấu trúc rút gọn vai đối thể của một VTCK
DIỄN TỐ 1 VT CẦU KHIẾN DIỄN TỐ 2
Tôi mời các cụ
Bảng 6: Cấu trúc rút gọn vai nội dung của một VTCK
VT CẦU KHIẾN
Xin mời!
Bảng 7: Cấu trúc rút gọn các vai tham tố của VTCK
Hoặc những mô hình có thành phần mở rộng (chu tố) như:
DIỄN TỐ 1 Chu tố VTCK DIỄN TỐ 2 DIỄN TỐ 3
Họ thẳng thắn đề nghị giám đốc nâng lương
Bảng 8: Cấu trúc mở rộng chu tố (đứng trước) của VTCK
DIỄN TỐ 1 VTCK Chu tố DIỄN TỐ 2 DIỄN TỐ 3
Họ đề nghị bằng văn bản với giám đốc
về việc
nâng lương
Bảng 9: Cấu trúc mở rộng chu tố (đứng sau) của VTCK
Những TPMR này thường là thành phần chỉ phương tiện, cách thức thực
hiện hành động cầu khiến.
2.3. Tư cách ngữ đoạn của vị từ cầu khiến
Là một thực từ, VTCK hoạt động trong câu với nhiều cương vị: làm thành
phần chính trong câu, làm trung tâm của một ngữ đoạn, làm phụ ngữ cho một
ngữ đoạn có bậc cao hơn.
2.3.1. Làm thành phần chính trong câu
2.3.2.1. Làm phần Đề của câu
Khi tham gia làm Đề của câu, là phạm vi của điều được nói đến ở phần
Thuyết, VTCK đã chuyển loại, được danh hóa trở thành một sự việc, một tiến
trình của hành động. Với tư cách này, một VTCK có thể làm Ngoại Đề, Khung
Đề hoặc Chủ Đề của câu.
Ví dụ:
(120) Năn nỉ ư, tôi chẳng cần!
(121) Cấm thì cấm tôi vẫn cứ làm!
(122) Chỉ thị là không được để ảnh hưởng xấu đến các công tác khác.
(Chu Văn – Bão biển)
Khi làm Đề, VTCK có thể là một ngữ đoạn độc lập hoặc cũng có thể là
trung tâm ngữ đoạn với các bổ ngữ của nó. Ví dụ:
(123) Khóc là nhục, rên hèn, van yếu đuối.
(124) Năn nỉ cũng chẳng có ích gì.
Ở cương vị Chủ Đề, VTCK có thể kết hợp với các tác tử đánh dấu sự
phân giới Đề - Thuyết như:
-Thì, là, mà:
(125) Yêu cầu gì thì nói ngay đi!
(126) Biểu là phải nghe!
(127) Lệnh mà không chấp hành thì kỷ luật!
- Cũng:
(128) Van xin mãi cũng chẳng được gì.
(129) Nhờ một chút cũng không được!
- Những yếu tố sóng đôi:
(130) Mới cho phép nghỉ hai ngày giờ lại xin nghỉ tiếp.
(131) Hễ mời thì mời cho đông đủ.
Có thể thấy đây là những phương tiện phân giới Đề-Thuyết, nhưng cũng
là những tác tử để nhấn mạnh phần Đề. Ngoài ra, sự nhấn mạnh này cũng được
thực hiện bằng cách lặp lại VTCK ở phần Đề:
(132) Cấm thì cấm nhưng tôi vẫn cứ làm.
(133) Khuyên thì khuyên chứ nó cũng chẳng nghe.
Qua khảo sát các cứ liệu, chúng tôi nhận thấy không thể rút gọn VTCK
làm Chủ Đề trong câu vì đây chính là phạm vi mà phần thuyết sẽ nói đến, khi
rút gọn phần Đề này, phần Thuyết sẽ không có nghĩa hoặc sẽ tạo ra một câu
mới không cùng loại. Chẳng hạn, khi rút gọn Đề ở câu (124), (132) ta được:
Năn nỉ cũng chẳng có ích gì.
*Chẳng có ích gì
Cấm thì cấm nhưng tôi vẫn cứ làm.
Tôi vẫn cứ làm.
Về trật tự, trong một số trường hợp, VTCK làm Đề có thể được đảo vị trí
đứng sau phần Thuyết. Tuy nhiên, việc đảo vị trí này cũng làm thay đổi nghĩa
của câu và chức năng của các thành phần.
Ví dụ:
- Kiến nghị của chúng ta đã được Ban Giám đốc chấp nhận.
Ban Giám đốc đã chấp nhận kiến nghị của chúng ta.
- Cấm thì cấm nhưng tôi vẫn cứ làm.
Tôi vẫn cứ làm. Cấm thì cấm.
Chỉ ở Ngoại Đề và Khung Đề, việc đảo trật tự là có thể còn giữ được ý
nghĩa của câu (tuy tiêu điểm thông tin có khác). Nhưng lúc này ngữ đoạn có
VTCK làm Đề đã mang một chức năng khác trong câu: làm trạng ngữ hoặc làm
phụ ngữ trong ngữ VT.
- Đối với kiến nghị của anh em công nhân, chúng ta phải xem xét giải
quyết.
Chúng ta phải xem xét giải quyết kiến nghị của anh em công nhân.
- Kiến nghị của các anh ấy hả, Ban Giám đốc đã bác rồi.
Ban Giám đốc đã bác kiến nghị của các anh rồi.
- Năn nỉ ư? Tôi chẳng cần!
Tôi chẳng cần năn nỉ.
2.3.2.2. Làm phần Thuyết của câu
Đây là chức năng chính yếu của các loại VT. Khả năng làm phần Thuyết
của VTCK phần nào đã được đề cập đến khi xem xét đặc điểm về nghĩa và các
vai nghĩa của nó ở mục 2.1 và 2.2. Ở đây, chúng tôi sẽ trình bày thêm một số
đặc điểm đáng chú ý.
Thuyết là phần nội dung thuyết minh cho phạm vi của Đề. Phần thuyết
thường biểu hiện hành động, quá trình, tính chất, trạng thái, quan hệ, nói chung
là nội dung của sự tình. Ở một phần Thuyết có VTCK làm trung tâm, chính ý
nghĩa cầu khiến đã quyết định tính chất nội dung và chi phối các BN của nó. Có
thể hình dung kết cấu phần Thuyết này như sau:
VTCK + BNĐỐI THỂ + BNNỘI DUNG
Ví dụ:
(134) Bác sĩ bắt tôi phải kiêng ăn.
VTCK : bắt
BNĐT : tôi
BNND : kiêng ăn
Kết cấu này có thể được mở rộng thêm bằng các phụ ngữ đứng ngay
trước hoặc sau VTCK, trực tiếp bổ sung nghĩa tình thái cho VT hoặc cho cả
phần Thuyết. Ví dụ:
(135) Tôi đã khuyên rồi nhưng nó không nghe.
(136) Tôi cũng vẫn chưa khuyên nó.
Khả năng mở rộng hơn hai bổ ngữ ngay sau VTCK hầu như là rất ít.
Trong các cứ liệu có được, chúng tôi nhận thấy trong cấu trúc ngữ pháp của
VTCK còn có một số loại BN khác. Đó là BN phương tiện, BN cách thức với
một trật tự khá tự do.
Ví dụ:
(137) Họ van xin bọn lính cứu họ bằng thứ tiếng Mỹ bập bõm.
(138) Cô ấy bảo tôi làm việc này với giọng nhỏ nhẹ như thế làm sao tôi từ chối
được.
(139) Cảnh sát kêu gọi bọn khủng bố thả con tin bằng chính cái loa cầm tay
của trường.
(140) Qua máy bộ đàm, viên sĩ quan ra lệnh cho tiểu đoàn rút lui.
(dẫn theo Nguyễn Vân Phổ – TL31;tr.145)
Nhưng đối với BNĐT và BNND thì trật tự của hai BN này là khá nghiêm
ngặt, BNND luôn đứng sau BNĐT. Điều này, về cơ bản do chính nghĩa của
VTCK chi phối: phải có đối thể trước, rồi đối thể đó mới thực hiện được nội
dung yêu cầu. Như trong các ví dụ sau:
Tôi sai nó đi.
*Tôi sai đi nó.
Tôi yêu cầu các em im lặng!
*Tôi yêu cầu im lặng các em
Trong khi ở một số cấu trúc khác, ta thấy sự hoán đổi này có thể thực hiện
được, đặc biệt với sự trợ giúp của những giới từ, mà không làm thay đổi cấu
trúc và nghĩa cơ bản của câu:
(141) Tôi tặng quyển sách cho anh.
Tôi tặng cho anh một quyển sách.
(142) Con mèo nhảy làm lọ hoa đổ.
Con mèo nhảy làm đổ lọ hoa.
Trong nói năng, đôi khi VTCK ở phần Thuyết được lặp lại nhằm nhấn
mạnh, giải thích rõ cái mức độ, giới hạn của Thuyết:
(143) Tôi đã cấm là cấm cho đến cùng.
(144) Tôi đã yêu cầu là yêu cầu cho bằng được.
Qua khảo sát các cứ liệu, chúng tôi nhận thấy không thể rút gọn VTCK
giữ chức năng làm phần Thuyết trong câu vì đây chính là trọng tâm thông báo
của câu. Trong thực tế ta vẫn thấy có cách nói rút gọn như thế này:
(145) Tôi yêu cầu em đi về ngay!
Em đi về ngay!
Đây vẫn là câu có ý nghĩa cầu khiến, nhưng không phải là câu có VTCK
trong phạm vi xem xét của luận văn.
2.3.2. Làm trung tâm của ngữ vị từ
VTCK có khả năng tự mình làm trung tâm cho một ngữ đoạn. Đó có thể
là trung tâm của một ngữ VT làm thành phần chính trong câu (phần Thuyết),
trực tiếp biểu hiện nội dung của sự tình:
(146) Ông cụ sai anh Tư Bền rót chén nước.
(Nguyễn Công Hoan – Kép Tư Bền)
hoặc có thể là trung tâm của một ngữ VT làm phụ ngữ cho một ngữ đoạn có bậc
cao hơn.Ví dụ:
(147) Tôi năn nỉ Xếp cũng là vì anh thôi!
(148) Anh không có quyền yêu cầu quá đáng như vậy!
Cần lưu ý là VTCK làm trung tâm của một ngữ đoạn không có nghĩa là
VTCK có vị trí đứng đầu ngữ đoạn (dù thường là như thế). Vai trò trung tâm
của VTCK trong một ngữ đoạn có được chính là do nghĩa của VTCK quy định
các thuộc tính ngữ nghĩa và ngữ pháp của cả đoạn: biểu hiện nội dung sự tình,
chi phối sự có mặt, trật tự, và các khả năng của những thành tố xung quanh.
Ở vai trò này, VTCK có khả năng chi phối trực tiếp các bổ ngữ của nó mà
không cần có giới từ. Tuy nhiên, qua các cứ liệu, chúng tôi tìm thấy có thể có
một số giới từ sau:
- Đứng trước BNĐT: với, đối với, cho.
Ví dụ:
(149) Kiến nghị với anh cũng chẳng được gì!
(150) Tôi ra lệnh cho anh phải đi ngay!
- Đứng trước BNND: về, về việc.
Ví dụ:
(151) Chúng ta sẽ kiến nghị với ban giám đốc về việc nâng lương.
- Đứng trước BN cách thức: bằng, với.
Ví dụ:
Họ van xin bọn lính cứu họ bằng thứ tiếng Mỹ bập bõm.
Cô ấy bảo tôi làm việc này với giọng nhỏ nhẹ như thế làm sao tôi từ chối
được.
(Dẫn theo Nguyễn Vân Phổ – TL31;tr.145)
- Đứng trước BN phương tiện: qua, bằng.
Ví dụ:
Cảnh sát kêu gọi bọn khủng bố thả con tin bằng chính cái loa cầm tay
của trường.
Qua máy bộ đàm, viên sĩ quan ra lệnh cho tiểu đoàn rút lui.
(dẫn theo Nguyễn Vân Phổ – TL31;tr.145)
Những trường hợp như trên thường rất ít gặp trong nói năng hàng ngày.
2.3.3. Làm phụ ngữ trong một ngữ đoạn
VTCK có thể làm phụ ngữ cho một ngữ đoạn danh từ hoặc ngữ đoạn vị
từ. Ví dụ:
(152) Lời cầu xin của ông lão đánh cá đã được chấp nhận.
(153) Tôi muốn khuyên nó một câu.
Khi làm phụ ngữ trong một ngữ đoạn, VTCK luôn đứng sau và có quan
hệ phụ thuộc trực tiếp với trung tâm của ngữ đoạn, có giá trị bổ sung ý nghĩa
hoặc cụ thể hóa mục đính của hành động nêu ở trung tâm. Ở câu (152), cầu xin
là phụ ngữ bổ sung thêm ý mong muốn, cầu khiến cho danh từ lời. Ở câu (153),
khuyên là phụ ngữ chỉ rõ nôi dung (có ý khuyên) của hành động muốn.
2.4. Vị từ cầu khiến và câu ngôn hành
Trong phần này, luận văn đề cập đến một số đặc điểm về mặt dụng học
của VTCK, mà tập trung là miêu tả khả năng ngôn hành của VTCK và tính lịch
sự trong hành động cầu khiến.
2.4.1. Câu ngôn hành
Theo như cách phân loại của J.L.Austin, hành động tại lời (illocutionary
act) là hành động mà người nói thực hiện ngay khi phát ngôn. Câu ngôn hành là
câu biểu thị hành động thực hiện ngay khi nói ra đó (còn gọi là phát ngôn ngữ
vi).
Ví dụ:
(154) Tôi hứa là sẽ không nói với bất cứ ai về vấn đề này.
Bản thân người nói khi phát ngôn “hứa” cũng đồng thời đã thực hiện
hành động hứa hẹn, cam kết với người nghe giữ bí mật vấn đề.
Theo Đỗ Hữu Châu, “phát ngôn ngữ vi là sản phẩm của một hành vi ở lời
khi hành vi này được thực hiện một cách trực tiếp, chân thực. Phát ngôn ngữ vi
có một kết cấu lõi đặc trưng cho hành vi ở lời tạo ra nó. Kết cấu lõi đó được gọi
là biểu thức ngữ vi”[6,tr.91]. Cũng theo tác giả này, một biểu thức ngữ vi được
đánh dấu bằng các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời như sau:
- Các kiểu kết cấu ứng với từng hành vi ở lời,
- Những từ ngữ chuyên dùng trong các biểu thức ngữ vi,
- Ngữ điệu,
- Quan hệ giữa các thành tố trong biểu thức ngữ vi với các nhân tố của ngữ
cảnh,
- Các động từ ngữ vi.
Cao Xuân Hạo gọi các động từ ngữ vi là vị từ ngôn hành (VTNH) và đưa ra
những điều kiện để một vị từ có được tính ngôn hành như sau [14,tr.227]:
i. Chủ ngữ của nó phải là ngôi thứ nhất (chủ ngữ ấy có thể ẩn); nếu đó là
ngôi thứ hai hay thứ ba, câu nói có được chỉ có thể là trần thuật,
ii. Vị từ ấy phải được dùng ở thì hiện tại của thức chỉ định trong mệnh đề
chính của câu, vì chỉ có như thế thì câu nói mới có thể đồng thời là cái hành
động được nó biểu hiện,
iii. Ý nghĩa ngôn hành chỉ thật sự minh bạch khi nào vị từ hữu quan có một
bổ ngữ chỉ đối tượng tiếp nhận cái hành động ngôn hành được biểu thị, và đối
tượng đó thường phải là ngôi thứ hai.
VTCK khi dùng trong câu ngôn hành cũng tuân thủ theo các điều kiện
nghiêm ngặt đó. Tuy nhiên, trong thực tế giao tiếp, VTCK có nhiều khả năng
rất đặc biệt.
2.4.2. Khả năng ngôn hành của VTCK
- VTCK có khả năng tự mình làm thành một biểu thức ngôn hành tường
minh. Ví dụ:
(155) Bây giờ đến phần góp ý của các bạn. Xin mời!
(156) Các bạn có đồng ý đề nghị với thầy cho đi tham quan không?
-Đồng ý! Đề nghị đi!
Khả năng này thường rất ít xảy ra vì phải đặt trong ngữ cảnh hoặc phải kết
hợp với từ tình thái để hiển ngôn rõ ý cầu khiến.
- Sự có mặt của VTCK không phải bao giờ cũng cho ta một câu cầu khiến
tường minh. Chỉ những VT tuân thủ nghiêm ngặt các điều kiện ngôn hành nói
trên mới có thể tham gia vào các phát ngôn ngữ vi. So sánh hai ví dụ sau:
(157) Em đã hết sức mời cụ nhưng cụ một mực từ chối.
(Khái Hưng – Nữa chừng xuân)
(158) Mời cụ lớn xơi nước ạ!
(Khái Hưng – Nữa chừng xuân)
VT “mời” trong câu (157) không ở thì hiện tại. Đây là lời thuật lại của
Huy (với chị Mai), Huy đã hết sức mời bà Án dùng cơm nhưng bà một mực từ
chối. Câu (158) là lời ông lão Hạnh mời bà Án xơi nước. Ở đây vai người nói
(được tỉnh lược) ở ngôi thứ nhất, VT “mời” ở thì hiện tại (cùng với dấu hiệu
thể hiện tình thái lịch sự trong hội thoại: ạ). Khi phát ra lời mời, ông lão Hạnh
đã đồng thời thực hiện cái hành động mời bà Án dùng nước. Như vậy, trong các
biểu thức ngữ vi tường minh, VTCK thể hiện rõ mục đích cầu khiến; trong khi
ở các biểu thức ngữ vi nguyên cấp, VTCK chỉ có ý nghĩa trần thuật. Cũng như
trong các ví dụ sau:
(159) U van con, u lạy con, con có thương thầy thương u thì con cứ đi với u!
(160) Thằng Dần thúc giục mẹ đi tìm chị nó.
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
Câu (159) là lời van xin, năn nỉ của chị Dậu nói với cái Tý, đề nghị cái Tý đi
đến nhà Nghị Quế. Đây là câu có ý nghĩa cầu khiến. Câu (160) là lời của tác giả
thuật lại việc thằng Dần đòi chị Dậu đem cái Tý về. Đây là kiểu câu trần thuật,
không phải là câu có mục đích cầu khiến.
Có thể khẳng định rằng những VTCK xuất hiện trong câu ngôn hành là
những VT có giá trị thực hiện một hành động cầu khiến; còn những VTCK xuất
hiện trong câu trần thuật là những VT có giá trị miêu tả một hành động cầu
khiến.
Đây có thể được xem là một tiêu chí để phân biệt những VTCK đồng nghĩa,
gần nghĩa (cùng có nghĩa từ vựng khái quát nhưng khác nhau ở cái nghĩa dụng
pháp trong khi hành chức: là một VT trần thuật hay một VT ngôn hành). Căn cứ
vào đây, ta có thể lập được một danh sách các VTCK theo tiêu chí ngôn
hành/trần thuật như: mời/mời mọc, khuyên/khuyên can, cấm/cấm đoán, xin/xin
xỏ, bảo/sai bảo, v.v. Ví dụ:
(161) Tôi mời anh đi xem phim!
(161’) * Tôi mời mọc anh đi xem phim
(162) Nó mời mọc nhiều lần nhưng tôi không nhận lời.
Mời trong câu (161) là một VT ngôn hành. Khi muốn thực hiện một hành
động mời thì chỉ có thể nói như câu (161) chứ không thể nói như ở câu (161’).
Mời mọc trong câu (162) là một VT trần thuật, có giá trị miêu tả lại hành động
mời đã được thực hiện trước đó. Tương tự:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVNNH006.pdf