Luận văn Văn hóa kinh doanh ở Công ty phát hành sách Hà Nội trong cơ chế thị trường

Tài liệu Luận văn Văn hóa kinh doanh ở Công ty phát hành sách Hà Nội trong cơ chế thị trường: LUẬN VĂN: Văn hóa kinh doanh ở Công ty phát hành sách Hà Nội trong cơ chế thị trường mở đầu 1. Lý do lựa chọn đề tài Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, từ nền kinh tế hành chính tập trung, quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Cơ chế kinh tế mới khẳng định vai trò to lớn của các hoạt động thương mại, dịch vụ, các doanh nghiệp và doanh nhân nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Trong cơ chế thị trường, phát hành sách (PHS) cũng là một trong số các hoạt động thương mại, có chi phí mua, chi phí bán và sau quá trình đó là lợi nhuận (tiền lãi), vì vậy PHS cũng có nhiều điểm tương đồng với các ngành kinh doanh khác. Tuy nhiên, kinh doanh xuất bản phẩm (XBP) là hoạt động kinh tế đặc thù, vừa đảm bảo mục tiêu đạt hiệu quả kinh tế vừa thực hiện mục tiêu tư tưởng - văn hóa, vì sự tiến bộ và phát triển của xã hội, sự phát triển con người. Kinh d...

pdf123 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1029 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Văn hóa kinh doanh ở Công ty phát hành sách Hà Nội trong cơ chế thị trường, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Văn hóa kinh doanh ở Công ty phát hành sách Hà Nội trong cơ chế thị trường mở đầu 1. Lý do lựa chọn đề tài Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, từ nền kinh tế hành chính tập trung, quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Cơ chế kinh tế mới khẳng định vai trò to lớn của các hoạt động thương mại, dịch vụ, các doanh nghiệp và doanh nhân nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Trong cơ chế thị trường, phát hành sách (PHS) cũng là một trong số các hoạt động thương mại, có chi phí mua, chi phí bán và sau quá trình đó là lợi nhuận (tiền lãi), vì vậy PHS cũng có nhiều điểm tương đồng với các ngành kinh doanh khác. Tuy nhiên, kinh doanh xuất bản phẩm (XBP) là hoạt động kinh tế đặc thù, vừa đảm bảo mục tiêu đạt hiệu quả kinh tế vừa thực hiện mục tiêu tư tưởng - văn hóa, vì sự tiến bộ và phát triển của xã hội, sự phát triển con người. Kinh doanh XBP có ý nghĩa to lớn và giữ vị trí quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa và phát triển tri thức khoa học cho nhân dân. Việc nhận thức đúng đắn về hoạt động kinh doanh XBP trong cơ chế thị trường là cơ sở cần thiết để các doanh nghiệp tổ chức hoạt động theo định hướng mới và giúp Nhà nước có chính sách phù hợp với sự phát triển của ngành PHS. Nói đến kinh doanh là nói tới, một ngành khoa học, một nghề nghiệp, một hệ thống những thao tác trong giao tiếp xã hội có liên quan đến sản xuất, lưu thông, phân phối, lợi nhuận (lãi) đến tiêu dùng. Do đó việc nghiên cứu về văn hóa thương trường phản ánh sự phồn vinh kinh tế và một nền văn hóa giao tiếp trong kinh doanh là vấn đề ngày càng cần thiết. Mối quan hệ giữa văn hóa và kinh doanh ra sao, làm thế nào để đưa văn hóa vào kinh doanh và kinh doanh có văn hóa để đạt được cả hiệu quả kinh tế và văn hóa là những vấn đề cấp thiết đang được đặt ra với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại nói chung và kinh doanh XBP nói riêng. Cơ chế quản lý kinh tế thay đổi từ cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường nhiều thành phần đã tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống. Kinh tế thị trường có những nguyên tắc vận hành, phát triển riêng đã có ảnh hưởng sâu sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội. Hệ thống giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức, thói quen suy nghĩ của từng cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng... Sự thay đổi của cơ chế kinh tế mới cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh sách và văn hóa phẩm (VHP) đòi hỏi ngành PHS cần có chiến lược kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển mới của toàn xã hội. Hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung ngày càng được nhận thức không chỉ có mục tiêu lợi nhuận, kinh tế mà còn phải hướng tới mục tiêu văn hóa. Đặc biệt đối với ngành PHS là ngành kinh doanh các văn hóa phẩm có tính chất đại chúng. ở đây, văn hóa kinh doanh có ý nghĩa quyết định sự thành bại trong phương hướng phát triển của doanh nghiệp. Công ty PHS Hà Nội là doanh nghiệp nhà nước vốn được bao cấp một thời gian rất dài với mục đích chủ yếu là phục vụ công tác chính trị, tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, khi chuyển sang cơ chế thị trường đã phải đối mặt với nhiều thách thức mới, đòi hỏi phải có những phương thức kinh doanh phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội. Việc đổi mới phương thức kinh doanh của Công ty PHS Hà Nội nhằm mục đích nâng cao hiệu quả kinh doanh, đẩy mạnh phát triển sản xuất, đa dạng hóa các hình thức kinh doanh, thu hút sự quan tâm chú ý nhiều hơn của nhân dân Thủ đô là một yêu cầu cấp bách. Trong phương hướng đổi mới thì việc xây dựng văn hóa kinh doanh ở Công ty PHS Hà Nội trong cơ chế thị trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự vững mạnh của công ty trong thời kỳ mới. Từ những vấn đề đặt ra ở trên, chúng tôi lựa chọn đề tài " Văn hóa kinh doanh ở Công ty phát hành sách Hà Nội trong cơ chế thị trường ", làm luận văn tốt nghiệp hệ đào tạo cao học, chuyên ngành lý luận văn hóa, nhằm góp phần nhận thức đúng đắn vai trò của văn hóa kinh doanh trong hoạt động PHS hiện nay; đánh giá đúng thực trạng và đề xuất các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh xây dựng văn hóa kinh doanh ở Công ty PHS Hà Nội, đáp ứng được các yêu cầu mới của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề xây dựng văn hóa, đạo đức trong xã hội nói chung trong kinh tế nói riêng đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Sự quan tâm này càng được chú ý hơn khi nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Có rất nhiều công trình nghiên cứu về các phương diện văn hóa trong kinh tế ở những góc độ khác nhau, do đó khi thực hiện đề tài "Văn hóa kinh doanh ở Công ty Phát hành sách Hà Nội trong cơ chế thị trường" chúng tôi đã kế thừa được từ những nhà nghiên cứu đi trước nhiều ý kiến và kinh nghiệm quý báu. Thứ nhất là vấn đề văn hóa kinh doanh trong hoạt động kinh tế, thương mại. Trong các công trình Tinh thần doanh nghiệp giá trị định hướng của văn hóa kinh doanh Việt Nam (Trần Quốc Dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003), Xây dựng văn hóa doanh nghiệp Việt Nam (Đào Duy Quát, Tạp chí Tư tưởng - văn hóa số 6/2003); Văn hóa và kinh doanh (Phạm Văn Nghiêm, Vũ Hòa, Trần Trúc Thanh (chủ biên), Nxb Lao động, Hà Nội, 2001); Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay từ góc nhìn giá trị học (Đỗ Huy, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001); Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh (Đỗ Minh Cương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001); Doanh nghiệp, doanh nhân trong kinh tế thị trường (Vũ Quốc Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001); Văn hóa và phát triển (Trường Lưu chủ biên, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1995); Văn hóa vì phát triển (Phạm Xuân Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998); Văn hóa và kinh doanh (Phạm Xuân Nam (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996); Văn hóa và nguyên lý quản trị (Nguyễn Văn Đáng, Vũ Xuân Hương, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1996), v.v... các tác giả đã đưa ra các quan niệm cơ bản về văn hóa, về kinh doanh, về văn hóa và kinh tế, văn hóa và kinh doanh, văn hóa kinh doanh... Đồng thời xác nhận vai trò đặc biệt quan trọng của nhân tố văn hóa trong kinh doanh. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng sự phát triển kinh tế không chỉ bị quy định bởi các nhân tố thuần kinh tế (đất đai, lao động, vốn, kỹ thuật...) mà còn chịu sự tác động của các nhân tố văn hóa, giáo dục, đạo đức. Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế không phải chỉ nhằm mục tiêu lợi nhuận kinh tế mà còn phải hướng tới mục tiêu văn hóa, do đó cần có một cách tiếp cận rộng rãi hơn của văn hóa học đối với hoạt động kinh tế, kinh doanh. Khái niệm văn hóa kinh tế, văn hóa kinh doanh nhờ vậy đã xuất hiện. Văn hóa kinh doanh "đảm bảo kết hợp được cả cái đúng, cái tốt, cái đẹp vốn là những giá trị cốt lõi của văn hóa - với cái lợi là mục đích trực tiếp của kinh doanh" [27, tr. 37]. Các tác giả cũng phân tích những mặt mạnh và yếu trong văn hóa kinh doanh của người Việt Nam trong lịch sử, đồng thời bước đầu chỉ ra phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm đưa các yếu tố văn hóa vào kinh tế, kinh doanh, xây dựng văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp, tinh thần doanh nghiệp, triết lý doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Thứ hai là vấn đề kinh doanh XBP trong cơ chế thị trường. Các công trình Nguyên lý hoạt động biên tập xuất bản sách (Ngô Sĩ Liên (chủ biên) - Trần Văn Hải - Trần Đăng Hanh - Lê Đỗ Khanh - Quách Văn Lịch - Lê Thị Phúc, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998); Lịch sử phát hành sách Việt Nam (Phạm Thị Thanh Tâm (chủ biên), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1994); Xuất bản và phát triển (Phi líp G.Altbach và Đamtew Teferar (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999); Đại cương phát hành xuất bản phẩm, Phạm Thị Thanh Tâm, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, 2002, Đổi mới mô hình tổ chức ngành phát hành sách (Phạm Thị Thanh Tâm, Tạp chí Sách và đời sống, số đặc biệt chào mừng 50 năm ngày truyền thống ngành xuất bản - in - PHS Việt Nam, 9/2002)... đã nêu rõ các vấn đề cơ bản của phát hành XBP trong nền kinh tế thị trường, về thị trường XBP, những nghiệp vụ cơ bản của phát hành XBP và một số giải pháp đổi mới mô hình tổ chức ngành PHS hiện nay đáp ứng yêu cầu xây dựng thể chế kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế. Các ý kiến trong các công trình nghiên cứu ở trên xới gợi những ý tượng quan trọng về hoạt động PHS trong cơ chế thị trường, về văn hóa kinh doanh XBP giúp chúng tôi nghiên cứu sâu hơn về văn hóa kinh doanh PHS trong cơ chế thị trường. Có thể nói các ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước về cơ bản rất gần gũi và quan trọng đối với người thực hiện đề tài này. Chúng tôi tiếp thu được ở đó sự xác định các quan niệm cơ bản về văn hóa, về văn hóa kinh doanh và những đặc trưng cơ bản của PHS trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam... Đến lượt mình chúng tôi sẽ tiến sâu hơn một bước trong việc nghiên cứu văn hóa kinh doanh trong hoạt động PHS ở nước ta nói chung và ở Công ty PHS Hà Nội nói riêng. Có thể xem đây là một vấn đề còn mới mẻ đối với những người nghiên cứu và hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, kinh doanh XBP. 3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Nhiệm vụ của luận văn Để hoàn thành nội dung nghiên cứu, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể là: - Xác định quan niệm về văn hóa, văn hóa kinh doanh, mối liên hệ giữa văn hóa và kinh doanh ở doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh XBP. - Đánh giá thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và văn hóa kinh doanh ở Công ty PHS Hà Nội trong 5 năm gần đây. - Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao văn hóa kinh doanh ở Công ty PHS Hà Nội trong thời gian tới. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Do điều kiện thời gian, khuôn khổ luận văn cao học và trình độ người viết còn hạn chế, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng văn hóa kinh doanh ở Công ty PHS Hà Nội từ năm 1996 cho đến năm 2002, làm cơ sở để đề xuất các giải pháp thúc đẩy việc xây dựng văn hóa kinh doanh ở công ty trong thời gian tới. 4. Phương pháp nghiên cứu Dưới ánh sáng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn được tiến hành nghiên cứu từ góc độ văn hóa học và các khoa học khác như: triết học, kinh tế học, xã hội học, xuất bản... Luận văn được thực hiện với việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: Phương pháp lôgíc thống kê, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích hoạt động kinh tế... 5. Đóng góp mới của đề tài Vấn đề văn hóa kinh doanh ở Công ty PHS Hà Nội trong cơ chế thị trường còn chưa được quan tâm nghiên cứu, do đó giải quyết vấn đề này luận văn có một số đóng góp mới: Thứ nhất, xác định quan niệm về văn hóa kinh doanh trong hoạt động PHS (văn hóa kinh doanh sách). Thứ hai, đánh giá thực trạng văn hóa kinh doanh ở Công ty PHS Hà Nội từ năm 1996 đến 2002 Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao văn hóa kinh doanh ở Công ty PHS Hà Nội trong thời gian tới. 6. ý nghĩa của đề tài Một trong những xu hướng nghiên cứu kinh tế, kinh doanh hiện nay là gắn với văn hóa, vì vậy đề tài có thể có những đóng góp nhất định về lý luận văn hóa, về văn hóa kinh doanh - một mắt khâu quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Luận văn cung cấp các tư liệu, số liệu xác thực về văn hóa kinh doanh của công ty PHS Hà Nội có thể giúp ích cho các ngành hữu quan trong công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa trong điều kiện xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Thủ đô nói riêng, ở nước ta nói chung. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn gồm 3 chương: - Chương 1: Văn hóa kinh doanh và vai trò của văn hóa kinh doanh với hoạt động kinh tế, thương mại và phát hành XBP trong cơ chế thị trường. - Chương 2: Thực trạng văn hóa kinh doanh ở Công ty PHS Hà Nội từ 1996 đến nay. - Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả văn hóa kinh doanh ở Công ty PHS Hà Nội trong thời gian tới. Luận văn được hoàn thành nhờ sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong Khoa Sau đại học, Khoa Phát hành sách Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, các đồng chí lãnh đạo và đồng nghiệp ở Công ty PHS Hà Nội, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của TS. Nguyễn Duy Bắc, giảng viên Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo, các anh chị em đồng nghiệp và những người thân trong gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn này. Chương 1 Văn hóa kinh doanh và vai trò của văn hóa kinh doanh đối với hoạt động kinh tế thương mại và phát hành xuất bản phẩm trong cơ chế thị trường 1.1. quan niệm về văn hóa Văn hóa là một khái niệm rất rộng và được nhiều học giả nghiên cứu tiếp cận từ những góc độ khác nhau. Theo quan niệm ở phương Đông trong tiếng Hán cổ, từ văn hóa bao gồm văn là vẻ đẹp của nhân tính, cái đẹp của tri thức, trí tuệ. Con người có thể đạt được bằng cách tự tu dưỡng của bản thân và là cách thức cai trị đúng đắn của người cầm quyền. Chữ "hóa" trong văn hóa là việc đem cái văn (cái đẹp, cái đúng, cái tốt) để cảm hóa giáo dục và hiện thực hóa trong thực tiễn đời sống. Văn hóa chính là nhân hóa hay nhân văn hóa. Theo nghĩa rộng, văn hóa là toàn bộ hoạt động vật chất và tinh thần mà loài người sáng tạo ra trong lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống loài người mới sáng tạo ra và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn mặc ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn" [26, tr. 431]. Theo phạm vi hẹp, văn hóa được coi như một ngành - ngành văn hóa thông tin, văn hóa nghệ thuật để phân biệt với các ngành kinh tế - kỹ thuật khác của nền kinh tế quốc dân. Văn hóa còn được coi là một lĩnh vực hoạt động bên cạnh các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội (và chúng cần được coi trọng ngang nhau). Văn hóa được đề cập trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng, bao gồm toàn bộ đời sống tinh thần xã hội, tập trung vào những lĩnh vực then chốt nhất: Tư tưởng, đạo đức, lối sống, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, văn học nghệ thuật, thông tin đại chúng, giao lưu văn hóa với thế giới, các thể chế văn hóa... Trong các mặt đó thì tư tưởng, đạo đức và đời sống văn hóa được coi là lĩnh vực quan trọng nhất được đặc biệt quan tâm hiện nay. Đời sống xã hội có hai mặt: Vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, và với tính cách như vậy văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm chiếm ưu thế hiện nay coi mục tiêu phát triển là phải nâng cao chất lượng cuộc sống con người với đảm bảo sao cho có sự kết hợp hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa mức sống cao với lối sống và quan hệ xã hội tốt đẹp, không chỉ cho một số ít người mà cho toàn thể xã hội. Để đạt được mục tiêu đó, nhất thiết phải có sự phát triển cao về kinh tế, về cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ. Song chỉ như thế chưa đủ và rất không đúng nếu hiểu xây dựng kinh tế chỉ là tăng trưởng đơn thuần, tăng trưởng với bất kỳ giá nào, thậm chí hy sinh văn hóa, hy sinh phẩm giá con người. Nếu hiểu như thế là hoàn toàn xa lạ với lý tưởng XHCN của chúng ta. Trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của sự giàu có không chỉ là tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật mà yếu tố quan trọng và quyết định là nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm năng này nằm trong văn hóa, trong trí tuệ, đạo đức, nhân cách, tâm hồn, tài năng... của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Vì vậy, quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam là quá trình thực hiện chiến lược con người và phát huy nguồn lực con người - nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển. Kinh tế thị trường và mở cửa với bên ngoài làm sống động nền kinh tế và các hoạt đông xã hội, phát triển giao lưu hàng hóa, du lịch và các sản phẩm văn hóa, giúp nhân dân ta mở rộng chân trời hiểu biết và kiến thức tiếp nhận từ bốn phương. Điều dễ nhận thấy trong sự thay đổi này là tính năng động xã hội - kinh tế và tính tích cực của công dân được khơi dậy và phát huy thay thế cho tâm lý thụ động ỷ lại trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước. Không khí dân chủ cởi mở trong xã hội được nâng cao, năng lực cá nhân của con người được khuyến khích, tôn trọng. Văn hóa bắt nguồn từ yếu tố nguồn lực con người. Con người là chủ thể, là linh hồn của sự sáng tạo, là nhân tố hàng đầu của văn hóa. Hội nghị liên Chính phủ về chính sách văn hóa vì sự phát triển do UNESCO tổ chức tại Xtốckhôm (Thụy Điển) đã khẳng định: "Sự sáng tạo văn hóa là động lực tiến bộ của loài người; Sự đa dạng của văn hóa là kho tàng quý báu nhất của nhân loại và là một yếu tố cần thiết của sự phát triển" [Dẫn theo 42, tr. 51]. Quan điểm đó đã góp phần khắc phục được cách nhận thức của một số người chỉ nhấn mạnh vai trò của kinh tế, coi văn hóa thuộc loại phi sản xuất, là lĩnh vực thứ yếu, là hoạt động đứng ngoài kinh tế, văn hóa sống được là nhờ vào trợ cấp của Nhà nước và ăn theo kinh tế, chịu sự quy định một cách đơn giản của kinh tế ít chú ý đến các giá trị và vai trò của văn hóa. Thực tiễn ngày càng giúp chúng ta nhận thức đầy đủ hơn vị trí vai trò của văn hóa trong phát triển. Sự hiểu biết và trí tuệ do con người tích lũy được, cùng đạo lý tốt đẹp trong mối quan hệ của con người và cộng đồng, với tự nhiên được bồi đắp nên suốt chiều dài lịch sử, là các thành tố cấu thành văn hóa, làm nên nền tảng tinh thần xã hội, giữ vai trò cực kỳ quan trọng vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Như sự nhấn mạnh về văn hóa được đưa ra trong Hội nghị liên Chính phủ về chính sách văn hóa do UNESCO tổ chức tại Thụy Điển trong thời gian gần đây: "Sự phát triển của xã hội chính là sự phát triển của văn hóa;và sự thăng hoa của văn hóa là đỉnh cao nhất của sự phát triển" [Dẫn theo 42, tr. 51]. Văn hóa là thuộc tính bản chất của con người, văn hóa dùng để chỉ đặc điểm và nhân tố nhân tính, nhân văn chung của loài người, văn hóa có trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào của con người:kinh tế, chính trị, nghiên cứu, giao tiếp, lao động, sáng tạo nghệ thuật, kinh doanh... (ta thường nói văn hóa chính trị, văn hóa giao tiếp, văn hóa lao động, văn hóa thương mại, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa kinh doanh...). Có thể văn hóa không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, nhưng với chức năng quan trọng hàng đầu của văn hóa là chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, sức mạnh và hiệu quả của văn hóa là ở chỗ nó có thể huy động được toàn bộ các năng lực tinh thần của con người và tác động tới chiều sâu trong đời sống tinh thần của con người. Do vậy, văn hóa đồng nghĩa với trí tuệ, đạo đức, lương tâm... Đó là hệ thống các giá trị Chân - Thiện - Mỹ thúc đẩy con người sáng tạo vật chất và tinh thần. Nếu quên đi yếu tố văn hóa sớm muộn ở đó sẽ lụi bại không chỉ về lương tâm, đạo đức mà còn lụi bại cả về kinh tế nữa. Qua các phân tích trên có thể thấy định nghĩa của UNESCO về văn hóa như một quan niệm phổ biến về văn hóa: "Văn hóa là tổng thể sống động mọi mặt của cuộc sống con người đã diễn ra trong quá khứ và cũng đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao nhiêu thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình" (Federico -Mayor -1988) [Dẫn theo 17. tr. 52]. 1.2. quan niệm về văn hóa kinh doanh 1.2.1. Quan niệm về kinh doanh Kinh doanh là một hoạt động cơ bản của con người xuất hiện cùng với kinh tế hàng hóa và thị trường, ngay từ thời cổ đại đã có tầng lớp những người làm nghề kinh doanh hay còn gọi doanh nhân. Kinh doanh bao gồm nhiều hình thức khác nhau: Buôn bán (thương mại), sản xuất, dịch vụ, thông tin, tư vấn,... Xét về lịch sử kinh doanh thương mại thì mua bán, trao đổi và lưu thông hàng hóa là loại kinh doanh xuất hiện đầu tiên và có liên quan đến sản xuất và trao đổi hàng hóa. Xét từ góc độ công nghệ - kỹ thuật thì kinh doanh là một quá trình bao gồm nhiều công đoạn khác nhau như đầu tư, sản xuất, marketing, dịch vụ bảo hành... Đó là một hệ thống hoạt động gồm nhiều chuyên ngành nghiệp vụ như: quản trị kinh doanh, công nghệ và kỹ thuật sản xuất, chất lượng, mua hàng, bán hàng, kế toán tài chính, tư vấn bảo hành... Các dạng hoạt động trên đều có chủ thể hoạt động với các nghề nghiệp chuyên môn. Mục đích của kinh doanh, với tư cách là một nghề, hay là một hoạt động đều nhằm đem lại lợi ích cho chủ thể là người kinh doanh. Vì vậy, Luật doanh nghiệp Việt Nam đưa ra định nghĩa kinh doanh từ đặc điểm bản chất của nó như sau: "Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi" [22, tr. 7-8]. Mục đích chính của kinh doanh là kiếm lời, là đem lại lợi nhuận cho người kinh doanh hay còn gọi là chủ thể kinh doanh. Chủ thể kinh doanh bao gồm các cá nhân, tổ chức, doanh nhân có hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa trên thị trường. Khách thể kinh doanh là những khách hàng của chủ thể bao gồm người tiêu dùng trực tiếp và gián tiếp và cả những nhà kinh doanh khác trong mối quan hệ bạn hàng hoặc cùng hợp tác kinh doanh. Trong mối quan hệ đó, người tiêu dùng (khách thể) giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Họ là trung tâm của thị trường, là người quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp phụ thuộc vào sức mua của người tiêu dùng nên người kinh doanh phải căn cứ vào nhu cầu, thị hiếu, sở thích của khách hàng để cung cấp cho họ một lượng hàng hóa hay dịch vụ nào đó nhằm thu lại một lượng tiền với mức lợi nhuận nhất định. Vì vậy việc quyết định sự thành bại của doanh nghiệp phụ thuộc vào khách hàng có chấp nhận hàng hóa, sản phẩm đó hay không. Như vậy, kinh doanh không trái với phục vụ nhưng đây là sự phục vụ có mục đích vì lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất phát triển ngày càng cao hơn và các dịch vụ kèm theo sản phẩm cũng được chú trọng hơn. Trong nền kinh tế thị trường thì kinh doanh cần cho cuộc sống cũng như cuộc sống cần cho kinh doanh. Kinh doanh là một nghề chính đáng xuất phát từ nhu cầu phát triển của xã hội, do sự phân công lao động xã hội tạo ra. Vấn đề là kinh doanh như thế nào? Kinh doanh bằng cách nào? Đấy là nội dung của vấn đề văn hóa trong kinh doanh và kinh doanh có văn hóa. 1.2.2. Văn hóa trong kinh doanh và kinh doanh có văn hóa 1.2.2.1. Văn hóa trong kinh doanh Bản thân hoạt động kinh doanh thương mại là một hoạt động văn hóa, bởi nó đáp ứng nhu cầu hưởng thụ hay thưởng thức của con người. Và khi con người là đối tượng hưởng thụ văn hóa chân chính cũng là con người đích thực của xã hội biết phân biệt cái đúng, cái sai, phải, trái, trắng, đen trong những điều mình đang hưởng thụ thưởng thức về văn hóa. Chính yêu cầu cao về chất lượng và ngày càng nhiều về số lượng của người tiêu dùng đã kích thích sự sáng tạo vô biên, sự cố gắng không mệt mỏi của các doanh nhân, doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh. Yếu tố văn hóa trong kinh doanh chính là hoạt động đem cái đẹp, cái tiện lợi tới mọi nhà. Không thỏa mãn với những gì có hôm nay các nhà thiết kế mỹ thuật, nhà sản xuất kinh doanh đã không ngừng cải tiến mẫu mã, ứng dụng những thành tựu lớn nhất của khoa học và công nghệ vào quá trình chế tạo sản phẩm và đội ngũ các nhà thương nghiệp không quản ngại đường sá xa xôi đưa sản phẩm tới nơi tiêu thụ, từng bước hình thành mạng lưới kinh doanh xuyên quốc gia, xuyên lục địa và cũng từ hoạt động này thúc đẩy xã hội tiến lên theo hướng văn minh, hiện đại. Văn hóa trong kinh doanh còn biểu hiện mối quan hệ giữa người bán và người mua. Người mua có quyền lựa chọn sản phẩm mà mình có nhu cầu với những chỉ tiêu về chất lượng, số lượng hàng hóa, phong cách phục vụ. Người bán cố bày tỏ lòng hiếu khách, tôn trọng người mua, bởi họ hiểu rằng, chính khách hàng là ân nhân, là sự sống của doanh nghiệp trên thương trường. Còn nhà sản xuất coi sự thành đạt trong kinh doanh là nguyên nhân chính đưa đến sự phát triển sản xuất, nên họ cũng rất tôn trọng quan hệ mua bán trên thị trường. Chính việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh có thể làm lành mạnh hóa quan hệ xã hội, bởi nó thúc đẩy quá trình phát triển của xã hội. Lợi nhuận do kinh doanh đem lại tạo nên tiềm lực kinh tế, khoa học - kỹ thuật cho quốc gia và mỗi đơn vị, cá nhân tham gia kinh doanh, từ đó mọi người thông cảm và hiểu biết nhau hơn, có điều kiện để sống có văn hóa hơn trong sự điều tiết có tính khách quan của cơ chế thị trường năng động. Văn hóa trong kinh doanh là cơ sở để điều tiết mọi mối quan hệ trong kinh doanh. Tuy nhiên, phải nhìn nhận yếu tố văn hóa trong kinh doanh một cách dung dị và chấp nhận phản đề của sự kiện. Bởi lẽ, mục đích kiếm lời của mọi hoạt động kinh doanh là như nhau, nếu thua lỗ thì không thể tồn tại, do đó xuất hiện các nghệ thuật kinh doanh, thủ đoạn kinh doanh vừa có tính hướng thiện, vừa có tính cạnh tranh quyết liệt để tồn tại và phát triển. Do đó, yếu tố văn hóa và phản văn hóa tiềm ẩn trong mỗi nhà kinh doanh. Vấn đề ở chỗ, nhà kinh doanh nào thực tài thì có đối sách thích hợp để gặt hái thành công trên thương trường. Ai có trí có lực thì vượt qua những biến động ghê gớm khó lường trước được của thị trường và vươn lên. Lúc này yếu tố văn hóa trong kinh doanh chính là bản lĩnh của người kinh doanh. Nhiều tấm gương thành đạt của doanh nhân nổi tiếng đã chứng minh điều đó. Phạm trù văn hóa trong kinh doanh chính là nỗ lực chủ quan của người kinh doanh, họ thực sự đã đóng góp công sức cho sự tiến bộ xã hội. Song cũng chính họ nếu không đủ tài lực, nhân trí sẽ có hành vi phản văn hóa trong kinh doanh. Do đó, điều tiết mối quan hệ này chính là các hoạt động nhân văn với sự chi phối của gia đình, truyền thống dân tộc, thể chế nhà nước (quốc gia) và các chuẩn mực quốc tế hướng tới sự tiến bộ của xã hội. 1.2.2.2. Kinh doanh có văn hóa Hoạt động kinh doanh diễn ra trên khắp thế giới, cả trong thời chiến và thời bình với nhiều quy mô và hình thức khác nhau. Có thể nói một cách hình ảnh rằng cả thế giới như một cái chợ, chỗ này buôn bán lương thực, thực phẩm, chỗ kia buôn bán văn hóa phẩm, chỗ khác buôn bán vũ khí... Bởi lẽ tất cả các nơi đó đang diễn ra quá trình thỏa mãn nhu cầu của mối quan hệ cung - cầu, mua - bán, trao đổi. Cái khác nhau cơ bản của hoạt động kinh doanh nhìn dưới góc độ văn hóa chính là "đối tượng" và "phương thức" của quá trình kinh doanh trên thị trường. Trong phạm trù "kinh doanh có văn hóa" yếu tố cái thiện, cái ác là thước đo giữa văn hóa và phản văn hóa, giữa văn minh và man rợ mà biểu hiện của phạm trù này chính là vật được đem đi trao đổi giữa kẻ bán và người mua. Nói đến kinh doanh là nói đến việc đầu tư cho việc sản xuất buôn bán phân phối hàng hóa và dịch vụ nhằm mục đích kiếm tìm lợi nhuận tối đa, thu được lợi nhuận để từ đó tái đầu tư, đảm bảo lợi ích cho người kinh doanh và người lao động, nhờ đó doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển được. Người ta có thể kiếm lợi nhuận bằng nhiều cách khác nhau nhưng thực tế phát triển hàng trăm năm của nền kinh tế thị trường trên thế giới cũng như nền kinh tế thị trường còn rất mới mẻ ở Việt Nam cho thấy có hai cách thức kinh doanh cơ bản sau: Cách kinh doanh thứ nhất xuất phát từ mục đích cho rằng kinh doanh là kinh doanh: lợi nhuận là mục tiêu tối thượng trong kinh doanh. Không cần đạo đức người ta cạnh tranh bằng mọi giá, tìm kiếm lợi nhuận bằng sự bóc lột quá sức người lao động, khai thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường, làm hàng giả, hàng kém chất lượng, buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo, đầu cơ... Để đạt được lợi nhuận tối đa họ có thể dùng mọi biện pháp mánh khóe xấu xa, thậm chí đe dọa tính mạng người khác. Đây là cách kiếm tiền biểu hiện sự tồi tệ của giới kinh doanh chụp giật, vô đạo đức, thiếu văn hóa, phản tự nhiên. Họ coi đồng tiền là trên hết, giẫm đạp lên lương tâm, nghĩa vụ, danh dự, coi thường lợi ích của người khác và của xã hội. Đối với họ chuẩn mực đạo đức của văn hóa kinh doanh không gì khác ngoài tư lợi. Kiểu kinh doanh như trên chỉ làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng vô chính phủ, tạo ra hiểm họa đe dọa sự tồn tại, phát triển của thị trường, đe dọa sinh tồn của người tiêu dùng và ngay bản thân lợi nhuận của nhà kinh doanh. Cách kiếm lợi nhuận này không thể tồn tại lâu bền do sự thiển cận và sai lầm của bản thân và nhận được sự phán quyết của xã hội. Mặt khác, khi đạt được tới lợi nhuận tối đa, nhà kinh doanh chưa hẳn đã đạt được hạnh phúc. Thực tế cho thấy không ít nhà kinh doanh giàu có, sở hữu một tài sản kếch sù mà vẫn thấy bất hạnh bởi tình cảm giữa con người cạn kiệt, gia đình bất ổn, đạo đức suy đồi, sa ngã vào tệ nạn xã hội. Đây chính là yếu tố báo trước nguy cơ hủy hoại nền tảng của chính xã hội mà họ đang sống. Theo ông Kim Woo Choong, nguyên Chủ tịch tập đoàn Daewoo, một trong những tập đoàn kinh doanh lớn nhất Hàn Quốc thì: "Người nào ít tiền biết cách sử dụng của cải vì lợi ích của người khác mới là người giàu có và hạnh phúc thực sự" [2, tr. 5]. Qua đó chúng ta thấy rằng, ý nghĩa của cuộc sống con người nói chung và của nhà kinh doanh nói riêng không chỉ ở sự giàu có mà quan trọng hơn là giá trị văn hóa đạo đức và nhân văn. Cách kinh doanh thứ hai trái với kiểu kiếm lợi nhuận trên, nhiều nhà kinh doanh lại quan niệm rằng nội dung chủ yếu của kinh doanh là phải vừa nâng cao hiệu quả kinh doanh, vừa nâng cao nhân tố trí tuệ; coi trọng nhân tố đạo đức của người sản xuất, tiếp thị và quản lý tài chính. Theo họ kinh doanh không những vì lợi ích của mình mà ngay từ đầu phải tính đến lợi ích và phát triển của xã hội. Từ quan niệm như vậy mà văn hóa kinh doanh cũng được xác định theo nguyên tắc mới, đó là: Một mặt phải đảm bảo cho nhà kinh doanh xác định được đầy đủ chủ quyền của mình trong việc bảo vệ và phát triển quyền lợi sở hữu tài sản, sử dụng các nguồn lực vào hoạt động kinh doanh đưa ra những quyết định kịp thời, chính xác nhằm thực hiện các mục tiêu kinh doanh có lợi cho họ và xã hội. Mặt khác văn hóa kinh doanh cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải hoạt động theo luật định. Ngay từ đầu họ phải chú ý đến lợi ích xã hội, đến đời sống và công việc của những người có liên hệ tới hoạt động kinh doanh của mình để doanh nghiệp của mình thu được lợi nhuận vững chắc. Đó chính là môi trường đảm bảo cho hoạt động của nhà kinh doanh có thể tồn tại và phát triển lâu dài. Cách kinh doanh này thể hiện mặt ưu việt của phương thức kinh doanh có đạo đức, có văn hóa. Phạm trù kinh doanh có văn hóa chính là phần thể hiện cái tâm và là bản chất văn hóa của người tham gia kinh doanh. Nó chính là thước đo văn hóa, giáo dục, tình cảm và trách nhiệm của người kinh doanh trước nhu cầu của khách hàng và xã hội. Một xã hội kinh doanh có văn hóa, tập hợp các nhà kinh doanh có văn hóa đó là xã hội văn minh, lành mạnh và phát triển. Nếu ngược lại, xã hội sẽ phải trả giá cho sự bất lực và yếu kém về trí tuệ và văn hóa trong kinh doanh. Những vụ tranh chấp đầy kịch tính, những phi vụ làm ăn phi pháp, buôn lậu, ma túy, tham nhũng... là biểu hiện của hoạt động kinh doanh phản văn hóa. Hiện tượng này chỉ có thể khắc phục trong xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1.2.3. Quan niệm về văn hóa kinh doanh Kinh doanh là hoạt động gắn liền với lợi ích kinh tế, nhưng kinh doanh như thế nào? Đem lại lợi ích cho ai? Đây là vấn đề cần được xem xét một cách nghiêm túc. Trong quá trình thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường tất yếu sẽ xuất hiện mối quan hệ canh tranh giữa các nhà doanh nghiệp. Sự cạnh tranh thể hiện ở mọi lĩnh vực: sản xuất, mua, bán,... Cách giải quyết các mâu thuẫn đó không thể không liên quan đến vấn đề văn hóa và kinh doanh; cạnh tranh có văn hóa là cạnh tranh lành mạnh, chân chính. Vấn đề văn hóa kinh doanh được đặt ra và giải quyết trong mối quan hệ tương hỗ về lợi ích giữa ba chủ thể chính của nền kinh tế thị trường là người tiêu dùng - nhà doanh nghiệp - Nhà nước. Ba chủ thể đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và ảnh hưởng tới toàn bộ quá trình kinh tế. Nhà nước ban hành và thực hiện những mục tiêu chiến lược của mình. Đương nhiên những chủ trương, biện pháp của Nhà nước tác động đến các hoạt động của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có trách nhiệm tuân thủ theo đúng pháp luật, chính sách của Nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. Người tiêu dùng được thụ hưởng (từ việc mua) các sản phẩm có giá trị vật chất và tinh thần từ các doanh nghiệp được Nhà nước quản lý và điều tiết với giá cả hợp lý... Nhà nước là chủ thể quan trọng trong nền kinh tế thị trường, sự điều tiết của Nhà nước thông qua chủ trương chính sách và luật lệ có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt động của mỗi doanh nghiệp. Do đó mỗi chính sách, chủ trương trước khi được ban hành cần được phân tích kỹ lưỡng và xây dựng trên luận cứ khoa học chắc chắn, có tính đến quan hệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Mỗi chính sách đúng đắn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế đất nước nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng. Một chính sách thiếu chính xác sẽ làm ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển của xã hội. Đối với người tiêu dùng - trung tâm của thị trường cũng cần phải thấy nhu cầu chính đáng để có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh hướng tới những nhu cầu văn hóa, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Ngược lại, những nhu cầu phi lý, có thể đẩy doanh nghiệp vào con đường làm ăn phi pháp, vi phạm văn hóa kinh doanh, đối lập với lợi ích xã hội. Đối với người kinh doanh hay một tổ chức kinh doanh cụ thể thì văn hóa tồn tại tiềm ẩn trong họ như nguồn lực, hệ giá trị... mà muốn khơi dậy, phát huy được cần có thời gian, môi trường và sự tác động phù hợp, tạo ra bản sắc riêng của từng doanh nghiệp. Như vậy, có thể đưa ra một quan niệm về văn hóa kinh doanh như sau: Văn hóa kinh doanh là việc các doanh nhân, các doanh nghiệp sử dụng các nhân tố văn hóa vào trong hoạt động kinh doanh của chủ thể nhằm làm cho hoạt động kinh tế có hiệu quả, đạt năng suất, sản lượng, giá trị cao, giá thành thấp, sản phẩm đạt chất lượng cao, tiêu thụ được sản phẩm trên thị trường trong nước và ngoài nước, làm đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, tạo được chữ tín với khách hàng. Văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp có thể được nhận biết từ hai phương diện chính: Một là, các nhân tố văn hóa (hệ giá trị, tâm lý, triết lý chung mà chủ thể lựa chọn từ văn hóa dân tộc và nhân loại), được vận dụng vào quá trình kinh doanh để tạo ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Nói cách khác đây là lối kinh doanh có văn hóa, kinh doanh phù hợp với sự tiến bộ của xã hội. Hai là, các giá trị văn hóa, kết tinh trong các sản phẩm như hệ giá trị, triết lý, tập tục riêng, nghệ thuật... mà chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh và làm nghề kinh doanh của họ có tác dụng cổ vũ, biểu dương đối với kiểu kinh doanh có văn hóa mà họ đang theo đuổi. Hai phương diện trên cũng chính là hai thành tố chính của hệ thống văn hóa kinh doanh, vốn có mỗi quan hệ biện chứng và hữu cơ với nhau. Điều này giống như việc muốn trở thành một con người sống có văn hóa thì trước hết phải tôn trọng và hành động theo các chuẩn mực văn hóa. Văn hóa kinh doanh là một bộ phận, là cái đặc thù so với văn hóa chung của dân tộc. Vì vậy không thể đồng nhất văn hóa kinh doanh với nền văn hóa dân tộc cũng như không thể không phân biệt các đặc thù mà các doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh khác tạo ra. Văn hóa của một cá nhân, một tổ chức cũng có cái đặc thù, có những điểm riêng so với cá nhân, tổ chức khác trong cùng dân tộc và đương nhiên sự khác biệt này càng lớn nếu họ thuộc vào những nền văn hóa dân tộc khác nhau. Mỗi thời đại phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất làm cho những nhu cầu tiêu dùng cũng khác nhau. Theo nhà nghiên cứu Đỗ Huy: "Bản chất của văn hóa kinh doanh là làm cho cái lợi gắn chặt chẽ với cái đúng, cái tốt, cái đẹp" [19, tr. 211]. Vì lý do đó người ta nói kinh doanh có văn hóa bao chứa cả trí tuệ của nhà triết học, lòng dũng cảm của người lính và tài năng của nhà nghệ sĩ. Để cái lợi gắn với cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong kinh doanh nhằm thỏa mãn có chất lượng nhu cầu và thị hiếu của con người trong môi trường sống, mỗi xã hội, mỗi nền văn hóa đều hình thành các truyền thống văn hóa kinh doanh trong nền văn hóa chung. Bản chất văn hóa kinh doanh gắn với văn hóa đạo đức. Văn hóa đạo đức là sự phản ánh lợi ích của cộng đồng. Khi nhà kinh doanh làm cho giá trị của đạo đức cộng đồng được củng cố thì bản thân cũng có sức mạnh bởi sự tín nhiệm của cộng đồng. Chữ "tín" là nội lực phát triển của nghề kinh doanh.: "Văn hóa kinh doanh được thống nhất trong bản thân nó các giá trị đạo đức, giá trị kinh tế và được các giá trị này điều hòa" [20, tr. 217]. Văn hóa kinh doanh không thể tách rời văn hóa chính trị. ở nhiều nước phát triển không những bản thân nhà kinh doanh là những chính khách và thủ đoạn thương trường của họ nhiều lúc còn vượt qua cả chính khách. ở nước ta văn hóa kinh doanh phải thống nhất với các mục tiêu của văn hóa chính trị. Chúng ta đang làm cho kinh tế thị trường ngày càng được mở rộng và vận hành khách quan hơn. Song nó phải được đặt dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa chính trị ở nước ta xác lập một hệ thống luật pháp và chính sách đảm bảo cho cơ sở kinh doanh thành công về mặt kỹ thuật, kinh tế, đồng thời Nhà nước làm chủ được thị trường, điều tiết sự tự do cạnh tranh (hoang dã), tạo cơ hội kinh doanh ngang nhau cho mọi thành phần kinh tế. Thuật ngữ về văn hóa kinh doanh mới xuất hiện gần đây. Trước đây, khi bàn về vấn đề này người ta chỉ nói kinh doanh có văn hóa hoặc văn hóa trong kinh doanh. Sự xuất hiện thuật ngữ "văn hóa kinh doanh" bao hàm sự thay đổi sâu sắc về yếu tố văn hóa trong hoạt động quản lý điều hành của doanh nghiệp. Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập với nền kinh tế tri thức văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp là mối quan tâm chú ý đặc biệt của doanh nghiệp nhằm khẳng định vị trí và uy tín của mình với thị trường. Từ khi đổi mới đến nay nền kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc, các lĩnh vực hoạt động kinh doanh dần xóa đi cơ chế kế hoạch hóa tập trung và đã vươn lên phát huy mạnh mẽ tiềm lực của mình. Tình hình văn hóa kinh doanh trên các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở nước ta trong những năm qua thể hiện ở những điểm chính là: Kinh doanh đạt năng suất cao, giá thành hạ, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị và giá trị thặng dư cho xã hội. Sản phẩm (kết quả) đạt chất lượng cao được xã hội và người tiêu dùng trong và ngoài nước chấp nhận. Hoạt động kinh doanh đảm bảo tuân thủ chính sách pháp luật, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước, tạo lòng tin (chữ "tín") vững chắc, ổn định đối với khách hàng trong và ngoài nước. 1.3. Những tác động của kinh tế thị trường tới hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm 1.3.1. Thị trường và cơ chế thị trường - Thị trường: Thị trường là phạm vi của lĩnh vực trao đổi, mua bán, nhờ đó mà các chủ thể kinh tế cạnh tranh nhau trong việc xác định giá cả hàng hóa, giá cả dịch vụ và sản lượng nhằm tiêu thụ hàng hóa, nắm bắt các yêu cầu tiêu dùng, từ đó tiếp tục sản xuất những mặt hàng quen thuộc hoặc đưa ra những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng và xã hội. Thị trường tồn tại một cách khách quan và gắn liền với sản xuất hàng hóa. Khái niệm thị trường đã trải qua quá trình phát triển lâu dài. Từ khi con người biết cách sản xuất ra sản phẩm để trao đổi sao cho có lợi cho mình thì khái niệm thị trường xuất hiện. Đầu tiên trong nền văn minh nông nghiệp người ta gọi thị trường là "chợ" - nơi trao đổi hàng hóa. Khái niệm chợ gắn với một địa điểm trao đổi hàng hóa nhất định mang tính địa phương, khu vực. Hàng hóa được đem trao đổi chủ yếu là hàng nông sản và tư liệu sản xuất phục vụ nông nghiệp. Chủ thể của chợ là nông dân và những nhà sản xuất hàng hóa nhỏ. Do lực lượng sản xuất còn lạc hậu, năng suất lao động thấp, cá nhân gắn chặt với cộng đồng, nên lợi ích của mỗi cá nhân dựa trên lợi ích cộng đồng. Trong quá trình trao đổi, người ta lấy công làm lãi và coi đó là chuẩn mực mang tính đạo đức của thị trường văn minh nông nghiệp. Như vậy khái niệm thị trường xuất hiện chậm hơn khái niệm "chợ". Trong nền văn minh công nghiệp, sản xuất hàng hóa phát triển mạnh mẽ, quan hệ trao đổi được mở rộng hơn và vì thế khái niệm thị trường càng được mở rộng. Từ chỗ thị trường là địa điểm trao đổi hàng hóa cụ thể, nó trở thành một lĩnh vực trao đổi hàng hóa mang tính xã hội, biểu hiện mối quan hệ kinh tế, mối quan hệ giữa người và người, là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu. Theo Philip G.Altbach thì thị trường, trong nghĩa đơn giản của nó là "tập hợp những người mua hàng hiện có và sẽ có" [31, tr. 21]. Cùng với sự phát triển của sản xuất, thị trường cũng phát triển dưới các dạng khác nhau như thị trường hàng tiêu dùng, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường sức lao động và dịch vụ, thị trường khoa học công nghệ, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản... Sự phát triển của thị trường trong nền văn minh công nghiệp đã làm cho nền kinh tế xã hội đã có những thay đổi lớn. Nhiều ngành nghề mới xuất hiện trong đó có ngành kinh doanh tiền tệ (thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán...). Việc ngành kinh doanh tiền tệ ra đời cho thấy từ công thức chung: Tiền (T) - hàng (H) - tiền (T) nảy sinh công thức mới (T) - (T). Công thức này cho phép nhà kinh doanh thu lợi nhanh chóng hơn. Chủ thể thị trường được chia thành hai lực lượng tham gia trao đổi, đó là người bán và người mua. Người có hàng bán trên thị trường luôn muốn bán với giá cao, ngược lại người mua muốn mua hàng với giá thấp. Đó là hai ý chí độc lập. Lúc này lợi ích của mỗi cá nhân có điều kiện thỏa mãn tối đa thông qua cạnh tranh với phương pháp, biện pháp hữu hiệu. Nhưng nhận thức và hành động thường không giống nhau. Nguồn gốc của sự khác nhau chính là chỗ đứng văn hóa khác nhau. Những kẻ chỉ lo thu vén cho lợi ích riêng tư, cục bộ bao giờ cũng tiến hành những thủ đoạn cạnh tranh bất chấp lẽ phải, luật pháp, đạo lý xã hội. Đó là người kinh doanh vô văn hóa. Những người quan tâm đến lợi ích toàn cục cùng hợp tác kinh doanh, cùng chia lợi nhuận một cách hài hòa, xử lý các mối liên hệ thương mại theo triết lý đôi bên cùng có lợi, hợp tác cùng phát triển, thì họ thực sự đại diện cho tầng lớp doanh nhân văn hóa. Sự nghiệp của doanh nghiệp chắc chắn sẽ bền vững và phát triển. - Cơ chế thị trường: Cơ chế thị trường là cơ chế vận động của nền kinh tế hàng hóa theo các quy luật của sản xuất và lưu thông hàng hóa trong sự tác động qua lại với các quy luật kinh tế khác. Theo cơ chế này hoạt động mua - bán hàng hóa đều tuân theo quy luật khách quan của sản xuất hàng hóa. Đó là quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, cạnh tranh, lưu thông tiền tệ. - Quy luật giá trị: Là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hóa. Quy luật này đòi hỏi việc sản xuất và trao đổi phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Sản xuất hàng hóa là công việc riêng của từng chủ thể bởi môi trường chủ thể có điều kiện sản xuất riêng (trình độ kỹ thuật, trang thiết bị kỹ thuật, tổ chức quản lý để sản xuất ra một loại hàng hóa, và mỗi loại hàng hóa thường có chi phí khác nhau gọi là chi phí cá biệt). Nhưng khi đưa ra thị trường loại hàng hóa đó chỉ có thể bán theo một giá trị có tính chất trung bình hay theo một chi phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa. Người nào có chi phí cá biệt nhỏ hơn chi phí trung bình của xã hội thì có lãi, ngược lại người nào có chi phí cá biệt lớn hơn chi phí trung bình thì lỗ, thậm chí mất vốn hoặc phá sản. Quy luật giá trị có tác dụng điều tiết việc phân phối sản phẩm tư liệu sản xuất và sức lao động xã hội vào các ngành khác nhau thông qua quy luật cung - cầu trên thị trường. Điều tiết lưu thông hàng hóa từ nơi giá bán thấp đến nơi giá bán cao kích thích ứng dụng kỹ thuật mới cải tiến quản lý, tăng năng suất lao động, phân hóa người sản xuất, đào thải sự yếu kém kích thích phát triển tài năng. - Quy luật cung - cầu: Là một quy luật của sản xuất hàng hóa trong cơ chế thị trường. Cầu là nhu cầu của xã hội được đảm bảo bằng lượng tiền tương ứng hay còn gọi là nhu cầu có khả năng thanh toán. Còn cung là tổng số hàng hóa có trên thị trường hoặc có khả năng cung cấp cho thị trường. Cung và cầu có quan hệ mật thiết với nhau và thường xuyên tác động lẫn nhau, đồng thời chúng có quan hệ trực tiếp đến giá cả. Nếu mặt hàng nào đó mà cung lớn hơn cầu thì khó tiêu thụ, giá cả giảm và do đó sản xuất bị thu hẹp. Khi đó người ta cần giảm dần việc sản xuất loại mặt hàng đó hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì hàng bán chạy giá cả tăng, sản xuất mở rộng, làm tăng khối lượng. Khi đó một số người trước đây chưa sản xuất mặt hàng này thì nay chuyển sang sản xuất mặt hàng đó, vì nó đang có nhu cầu lớn và thu được lợi nhuận cao hơn. Như vậy quy luật cung - cầu cùng với quy luật giá trị có vai trò điều tiết các tỷ lệ cân đối giữa các ngành làm cho sản xuất gắn liền với tiêu dùng hơn. Tuy nhiên, sự hoạt động của chúng diễn ra tự phát thường gây nhiều hậu quả tiêu cực, như lãng phí của cải xã hội, kích thích thị hiếu tiêu dùng xa thực tế. Trong chủ nghĩa xã hội các quy luật này được vận dụng có ý thức nhằm kích thích sản xuất phát triển và hạn chế tác động tiêu cực của chúng. - Cạnh tranh cũng là quy luật của sản xuất hàng hóa. Đó là sự đấu tranh của những người sản xuất hàng hóa nhằm dành được những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, thu nhiều lợi nhuận nhất. Cạnh tranh có vai trò tích cực là thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm để giảm chi phí sản xuất, làm tăng năng suất lao động, thúc đẩy cải tiến chất lượng và hình thức hàng hóa cho phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, cải tiến phương tiện vận chuyển, phương tiện bán hàng, kể cả tranh thủ tình cảm của khách hàng thông qua tinh thần thái độ phục vụ của người bán hàng. Bên cạnh mặt tích cực cạnh tranh cũng nảy sinh nhiều tiêu cực như lừa lọc, làm hàng giả và các hành động phi pháp khác gây thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa các chủ thể sản xuất hàng hóa không chỉ hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và sự quản lý nhà nước mà còn có sự hợp tác đem lại lợi ích cho chủ thể sản xuất và toàn xã hội. 1.3.2. Hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm trong cơ chế thị trường ở nước ta Công cuộc đổi mới từ năm 1986 đã đưa nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế quản lý ấy đã tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; không chỉ kinh tế mà cả trên lĩnh vực văn hóa, không chỉ với sản xuất vật chất mà cả đối với lĩnh vực sản xuất tinh thần. Xuất bản là ngành sản xuất, truyền bá các sản phẩm văn hóa, vừa có bộ phận sản xuất tinh thần, vừa có các khâu sản xuất vật chất, nên tất yếu cũng phải hoạt động theo cơ chế mới - cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Nếu như trong cơ chế cũ, mọi hoạt động biên tập xuất bản phát hành đều theo kế hoạch thống nhất của Nhà nước, chịu sự quản lý tập trung của Nhà nước, mỗi chỉ tiêu kế hoạch đều mang tính pháp lệnh thì trong cơ chế mới, kế hoạch xuất bản của mỗi cơ sở xuất bản phải tuân theo quy luật, điều tiết của thị trường. Các cơ sở xuất bản chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh của mình và chịu trách nhiệm về hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh ấy, kế hoạch của Nhà nước về xuất bản mang tính chất định tính, hướng dẫn nhiều hơn là định lượng, các chỉ tiêu Nhà nước chỉ dừng lại như là các chương trình mục tiêu toàn ngành, định hướng phát triển của ngành. Cơ chế cũ vì thế đã dẫn tới nguy cơ quan liêu hóa hoạt động xuất bản, bởi lẽ các đề tài, mục tiêu xuất bản không xuất phát từ việc nắm bắt nhu cầu thực sự của quần chúng, mà chỉ xuất phát từ ý đồ chiến lược, từ phương hướng công tác tư tưởng trong mỗi thời kỳ. Những người làm công tác biên tập xuất bản không phát huy được tính chủ động sáng tạo trong việc tìm chọn, phát hiện đề tài nảy sinh từ cuộc sống thực tế; tạo thói quen ỷ lại, dựa dẫm vào các cấp lãnh đạo quản lý... Cơ chế thị trường buộc những người làm xuất bản phải nắm vững nhu cầu của thị trường. Nhu cầu đó chính là đòi hỏi thực tế của cuộc sống, từ đó họ đề xuất được những đề tài thiết thực mang lại hiệu quả thực tế to lớn. Trong cơ chế cũ, Nhà nước quản lý và phân phối mọi nguồn lực sản xuất, kinh doanh của xuất bản như tiền vốn, kho giấy, máy móc, thiết bị in (nhân bản), các trung tâm PHS. Việc tổ chức sản xuất của các đơn vị xuất bản hoàn toàn phụ thuộc vào sự phân phối của cấp trên, thời gian sản xuất kéo dài và hoàn toàn bị động. Cơ chế thị trường cho phép các đơn vị chủ động khai thác mọi khả năng, lực lượng của mình, tổ chức sản xuất chủ động linh hoạt theo yêu cầu của thị trường. Ngoài ra, các cơ sở xuất bản còn có thể chủ động liên doanh, liên kết với nhau để giải quyết những nhiệm vụ có tầm cỡ quy mô, cần nhiều công sức trí tuệ và chi phí vật chất, mang lại lợi ích to lớn cho xã hội. Như vậy, trong cơ chế cũ, nhà nước bao cấp cả đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất XBP. Các cơ sở xuất bản nhận đề tài biên tập như nhận chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước, Nhà nước chỉ định cả nơi in và khống chế thời gian, in, PHS. Nhà nước bao mua toàn bộ sách được in ra và phân phối theo kế hoạch. Người làm ra sách không chịu trách nhiệm và không nắm được kết quả cuối cùng của sản phẩm do mình làm ra. Cơ chế cũ không tạo điều kiện và quy định trách nhiệm cho người biên tập quan tâm đến việc tiêu thụ các cuốn sách do mình làm ra và những tác dụng của nó đối với thực tiễn xã hội. Cơ chế thị trường đặt quá trình xuất bản trong một chu trình khép kín. Người biên tập xuất bản phải có trách nhiệm kiểm soát từ đầu đến cuối quá trình sản xuất, sao cho sản phẩm ấy đáp ứng đúng nhu cầu thị trường, được tổ chức sản xuất một cách hợp lý nhất, phù hợp với thị hiếu, điều kiện sử dụng và sức mua của bạn đọc đã xác định. Hơn nữa, việc sản xuất ấy còn phải mang lại lợi nhuận cho những người làm xuất bản. Cơ chế đó đòi hỏi một sự phát triển đồng bộ, nhịp nhàng, một sự gắn bó hữu cơ giữa các khâu của quá trình xuất bản: từ biên tập đến in ấn, phát hành, sao cho việc sản xuất gắn chặt với tiêu thụ, thời gian sản xuất ngắn nhất, có chất lượng bảo đảm yêu cầu, thời gian sách đến tay bạn đọc ngắn nhất, mọi ý kiến bạn đọc về sản phẩm đều được những người biên tập - xuất bản tiếp nhận. Trong cơ chế cũ, Nhà nước còn bao cấp hoạt động kinh doanh xuất bản thông qua chính sách giá cả, tiền lương. Giá sách, giá công in, giá phát hành do Nhà nước quy định. Lương cán bộ do Nhà nước cấp phát theo ngạch bậc không phụ thuộc và kết quả kinh doanh cụ thể của nhà xuất bản, cơ sở in và phát hành. Cơ chế thị trường cho phép người sản xuất tự xác định giá bán sản phẩm căn cứ vào quy luật giá cả ở thị trường, phù hợp với sức mua của công chúng. Đồng thời, các cơ sở xuất bản kinh doanh phải tự hạch toán kinh doanh, lời ăn lỗ chịu. Tiền lương, tiền thưởng cán bộ kinh doanh xuất bản phẩm do các cơ sở tự chi trả theo kết quả kinh doanh cụ thể của cá nhân và đơn vị. Chính điều đó đã tạo ra động lực kinh tế kích thích những người làm nghề kinh doanh xuất bản phẩm gắn bó hơn, năng động sáng tạo hơn trong nghề nghiệp của mình. Tóm lại, công cuộc đổi mới đã thúc đẩy mạnh mẽ những đổi mới trong cơ chế quản lý và phương thức hoạt động xuất bản, phát hành. Kinh doanh xuất bản phẩm nước ta từ 1986 đã chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cơ chế thị trường có nhiều điểm khác về chất so với cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước kia. ở những nét chung nhất, cơ chế thị trường đòi hỏi phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về xuất bản và chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các cơ sở xuất bản, phát hành; đề cao tính chủ động, tự giác, tự chịu trách nhiệm về sản xuất kinh doanh của các cơ sở xuất bản, chống lại tính quan liêu, bao cấp trong cơ chế cũ, mang lại một động lực mới kích thích hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm phát triển. Song, cơ chế thị trường tác động tới kinh doanh XBP nước ta có sự khác biệt về chất với cơ chế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa. Chúng ta đặt hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm nước ta khác hẳn với các nước tư bản chủ nghĩa. Chúng ta không thả nổi hoạt động xuất bản cho cơ chế thị trường, kinh doanh XBP không coi mục tiêu kinh doanh, lợi nhuận là hàng đầu, là tối cao mà phải hướng tới các mục đích cao đẹp về văn hóa tinh thần của xã hội. Trong cơ chế thị trường định hướng XHCN, hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm là phương tiện không thể thiếu để đạt tới mục tiêu văn hóa xã hội. Lợi nhuận là một phương tiện, một động lực kích thích hoạt động kinh doanh XBP. Song lợi nhuận không thể lấn át các mục tiêu văn hóa, tư tưởng vốn là mục tiêu cao cả nhất, là tôn chỉ, mục đích của hoạt động xuất bản. Thậm chí, khi cần thiết có thể hy sinh lợi ích kinh tế trước mắt để đạt tới mục tiêu văn hóa - tư tưởng. ở tầm quản lý vĩ mô, Nhà nước bao quát được toàn bộ nhu cầu, phương hướng phát triển tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Sự điều tiết, quản lý Nhà nước về kinh doanh XBP thông qua các chương trình mục tiêu định hướng, thông qua pháp luật, các chính sách đòn bẩy, chính sách cán bộ sẽ hướng sự phát triển của hoạt động kinh doanh XBP trong cơ chế thị trường đạt tới sự kết hợp hài hòa các mục tiêu kinh tế và văn hóa xã hội, trước mắt và lâu dài, cá nhân và tập thể, dân tộc và quốc tế... để góp phần phát huy cao nhất nguồn nội lực dân tộc, phát huy nhân tố con người, xây dựng đất nước văn minh, giàu mạnh, tiến lên chủ nghĩa xã hội. 1.3.3. Vấn đề "thương mại " trong kinh doanh xuất bản phẩm ở nước ta Sách là một trong những XBP văn hóa lớn nhất mà nhân loại đã tạo ra ngay từ thời thượng cổ. Sách tồn tại dưới dạng một vật phẩm cụ thể (chất liệu vật chất tạo ra nó tùy thuộc vào trình độ văn minh của mỗi thời đại), song lại hàm chứa một giá trị tinh thần vô hình không phụ thuộc trực tiếp vào chất liệu của nó. Kinh doanh XBP từ khi xuất hiện đã mang bản chất là hoạt động truyền bá các giá trị văn hóa, một bộ phận thiết yếu của ngành văn hóa - thông tin. Cùng với sự phát triển xã hội, hoạt động kinh doanh XBP cũng phát triển theo các quy luật và có những động lực riêng của nó. Song, quan hệ giữa kinh tế và văn hóa xã hội luôn luôn là mối quan hệ bao trùm toàn bộ hoạt động xuất bản sách. Cũng chính ở đây, mối quan hệ này biểu hiện rất nhiều khía cạnh đặc thù mà khoa học xuất bản cần nghiên cứu, làm sáng tỏ để hoạt động xuất bản được tiến hành một cách tự giác, phát triển lành mạnh, hoàn thành tốt hơn sứ mệnh lịch sử của mình trước xã hội. Trong luận văn này, chúng tôi đề cập đến vấn đề "thương mại" hoạt động kinh doanh XBP trong điều kiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta, nhằm làm rõ hơn cơ sở lý luận của đề tài luận văn. Trong cơ chế thị trường sách trở thành một hàng hóa. Bởi lẽ, sách không phải là sản phẩm tự sản tự tiêu mà nó cần được truyền bá phổ biến, được mang trao đổi trên thị trường. Người viết sách khi đặt bút sáng tác bao giờ cũng nghĩ tới công chúng bạn đọc, những tri âm tri kỷ, những đồng chí hoặc những người được giáo huấn, được mình khai sáng. Trong cơ chế thị trường, các cơ quan xuất bản, phát hành cần hướng tới những nhu cầu đa dạng của những người có tiền mua sách. Người mua sách cũng để nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần nào đó: để học tập nâng cao nhân thức, để thỏa mãn nhu cầu về tình cảm, để giải trí. Thông qua hoạt động mua bán, giá trị trao đổi hàng hóa được thực hiện, quy luật cung cầu phát huy tác dụng trên lĩnh vực xuất bản. Bởi sách là hàng hóa nên kinh doanh XBP mang tính tất yếu. Thương mại của hoạt động kinh doanh XBP trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa mới hình thành, kinh tế thị trường chưa phát triển đã có nhiều mặt tích cực đáng ghi nhận. Việc kinh doanh sách có lãi đã tạo động lực bên trong kích thích hoạt động kinh doanh XBP phát triển, làm cho sách nhanh chóng trở thành một phương tiện thông tin đại chúng trong xã hội và hoạt động kinh doanh XBP có thêm những chức năng mới. ở nước ta, trong bước chuyển sang cơ chế thị trường, hoạt động thương mại XBP cũng giúp sách nhanh chóng khắc phục tình trạng đơn điệu, tẻ nhạt, xơ cứng về nội dung... và đã làm sôi động hóa, đa dạng hóa hoạt động kinh doanh XBP. Thương mại sách dưới tác động của tiến bộ khoa học- công nghệ và cơ chế mở cửa đã tạo điều kiện cho cơ sở vật chất - kỹ thuật ngành in - xuất bản - phát hành nhanh chóng phát triển, hiện đại hóa, tiến lên hòa nhập được với trình độ công nghệ xuất bản thế giới, tạo bước phát triển nhảy vọt trong sản xuất sách, mở rộng phạm vi lựa chọn các món ăn tinh thần của công chúng độc giả. Thương mại xuất bản phẩm trong cơ chế thị trường cũng tạo ra động lực mới cho sự phát triển đời sống văn hóa tinh thần vì nó chú trọng đến lợi ích của các cá nhân và các nhóm xã hội. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường, mặc dù sách trở thành hàng hóa, nhưng nó là một hàng hóa đặc biệt. Sự "đặc biệt" này nhiều đến nỗi làm cho nhiều người không thừa nhận thuộc tính hàng hóa của sách, phủ nhận hoàn toàn ý nghĩa tích cực của khâu thương mại xuất bản phẩm. Tính đặc thù của sách, của xuất bản phẩm so với các hàng hóa thông thường khác thể hiện ở giá trị, giá trị sử dụng, cả quy trình tổ chức sản xuất và phát hành chúng. Trong cơ chế thị trường, dưới tác động của quy luật giá trị, của cạnh tranh, những nét đặc thù của hàng hóa sách và hoạt động kinh doanh XBP đã làm cho việc "thương mại hóa" xuất bản phẩm một cách đơn thuần trở thành những tác động kích thích sự phát triển tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng và phong phú. Giá trị của hàng hóa XBP chủ yếu là các giá trị văn hóa tinh thần, đáp ứng các nhu cầu về tinh thần của con người. Giá trị ấy không trực tiếp hình thành bởi kết cấu vật chất của XBP, không phải do lao động sản xuất vật chất cụ thể tạo ra mà chủ yếu hình thành bởi lao động sáng tạo tinh thần của các tác giả. Lao động sáng tác của các văn nghệ sĩ, nhà khoa học là loại lao động đặc biệt, không thể dùng thước đo giá trị trên thị trường để đánh giá. Lao động của các tác giả kết tinh trong mỗi tác phẩm không thể lượng hóa một cách đơn giản được. Nó là kết tinh của lao tâm khổ tứ, ấp ủ nhiều năm tháng trong các tài năng mới có thể tạo ra các tác phẩm. Những tác phẩm ấy không thể "thương mại hóa" như những hàng hóa thông thường bởi ở đây quy luật giá trị không thể đủ độ nhạy bén và sát đúng để điều chỉnh giá cả, giữ cho nó xoay quanh giá trị của những tác phẩm này. Có thể giá trị tác phẩm không chỉ có giá trị ngay mà tác động vào xã hội lâu dài hoặc là những giá trị lý luận sâu sắc, vượt trước trình độ nhận thức chung của xã hội, đưa ra định hướng một phong cách mới có tác động tới hoạt động văn hóa xã hội. Trong cơ chế thị trường, ai cũng phải kiếm tiền để sống và sản xuất. Đối với các hàng hóa thông thường khác, lợi nhuận là mục tiêu cơ bản nhất (nếu không nói là duy nhất) trong kinh doanh. Còn đối với những người viết sách làm sách, nhất là những văn nghệ sĩ, lại không thể viết sách, xuất bản chỉ để kiếm tiền. Các Mác từng nói: "Cố nhiên nhà văn phải kiếm tiền để có thể sống và viết, nhưng trong bất cứ trường hợp nào, anh ta cũng không được sống và viết để kiếm tiền... Nhà văn không thể xem công việc của mình như là một kế sinh nhai. Đó là một mục đích tự thân, nó không phải là một kế sinh nhai đối với anh ta cũng như đối với những người khác đến nỗi nhà văn phải hy sinh sự tồn tại của mình cho sự tồn tại của nó nếu cần" [24, tr. 66]. Bởi lẽ đó, cơ chế thị trường và "thương mại hóa" đơn thuần sẽ đối đầu với nghệ thuật chân chính ở cả hai mặt: nếu người nghệ sĩ chạy theo đồng tiền mà sáng tác thì sẽ không còn nghệ thuật đích thực, nghệ thuật mang tính thị hiếu tầm thường, khai thác nội dung không lành mạnh, mang tính bạo lực hoặc kích động không những ảnh hưởng lớn đến thị hiếu độc giả mà còn làm giảm uy tín của các nhà văn chân chính và là thứ nghệ thuật chụp giật không thể tồn tại lâu dài trong thị hiếu của công chúng. Từ khi kinh doanh XBP nước ta chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, giá cả sách được quy luật thị trường điều tiết. Song giá cả ấy có phản ánh đúng giá trị của sách không? Quy luật thị trường có giữ được giá cả "xoay quanh" giá trị được hay không? Không ai dám khẳng định điều đó (!). Có thể nói giá cả sách thời gian qua chủ yếu chỉ xoay quanh giá thành làm ra "cái vỏ vật chất" của nó, bởi trong cơ cấu giá thành, giá giấy, công in, quản lý phí, phát hành phí đã chiếm tới 80% giá bán. Giá trị tinh thần của tác phẩm, phần chủ yếu tạo nên giá trị cuốn sách, do các tác giả tạo ra chỉ "khiêm tốn" chiếm không quá 20% giá bán, đó là chưa kể việc tính gian, in lận. Qua những lời tâm sự của các tác giả, ta biết được cuốn "Thời xa vắng" của Lê Lựu qua 5 lần tái bản mà tiền nhuận bút mới đủ mua được một xe đạp Mipha; có tập truyện của Tô Hoài, khi in xong, tác giả chỉ lĩnh được không hơn 300 ngàn đồng tiền nhuận bút... Trong khi thị trường XBP chưa chấp nhận, quy luật thương mại không cho phép ta đẩy giá bán lên cao hơn. Người xuất bản, để duy trì hoạt động, cũng chưa thể trả cho các tác giả mức nhuận bút cao hơn được! Rõ ràng ở đây không thể để mặc cho quy luật cung cầu điều tiết XBP, không thể "thả nổi" việc sản xuất các giá trị tinh thần cho quy luật thị trường. Nhà nước phải có chính sách và biện pháp điều tiết hợp lý để các nhà văn, nhà khoa học có được đời sống ổn định, bù đắp hợp lý cho sự lao tâm, khổ tứ của các kẻ sĩ để họ tạo ra các tác phẩm của mình, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của xã hội. Khi được coi là một hàng hóa, tính chất đặc thù của XBP còn biểu hiện ở chính giá trị sử dụng của nó. XBP được sử dụng cho nhu cầu tinh thần của con người; là công cụ nhận thức thế giới, tích lũy tri thức; để thỏa mãn nhu cầu tình cảm vươn tới cái chân - thiện - mỹ, thông qua việc cảm thụ tác phẩm, con người có được đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh làm động lực cho sự phát triển xã hội. Song, giá trị sử dụng của XBP không được đánh giá như nhau ở mỗi cá nhân, mỗi nhóm xã hội. Trình độ dân trí của xã hội càng cao, giá trị sử dụng của XBP càng lớn, càng có hiệu quả. Các đối tượng xã hội, các cá nhân có địa vị xã hội khác nhau, lứa tuổi, nghề nghiệp khác nhau, trình độ văn hóa khác nhau thì có nhu cầu về tinh thần, thị hiếu thẩm mỹ khác nhau và họ đánh giá về giá trị sử dụng của XBP cũng khác nhau. Trong cơ chế thị trường, việc "thương mại hóa" đòi hỏi XBP phải đáp ứng mọi nhu cầu, mọi loại thị hiếu của công chúng, phải coi người tiêu dùng XBP là "thượng đế". Song, điều đó có thể chứa đựng nguy cơ sản xuất, phát hành cả các XBP phản văn hóa, các XBP độc hại làm ô nhiễm môi trường văn hóa hoặc cũng có thể gây ra tình trạng hỗn loạn, chồng chéo trong hoạt động kinh doanh XBP. Các XBP ấy có ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống văn hóa tinh thần xã hội, có thể xâm hại đến những giá trị văn hóa truyền thống hoặc làm mất đi bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, việc thương mại hóa đơn thuần hoạt động kinh doanh XBP ở nước ta đã gây ra biết bao tai họa. Hầu hết các "nạn dịch" XBP kém chất lượng tràn lan trên thị trường XBP những năm qua đều có nguồn gốc bất chấp kinh doanh để kiếm lợi, chỉ vì lợi nhuận kinh doanh cả những XBP độc hại, chạy theo thị hiếu của một số nhỏ trong xã hội làm tổn hại tới đời sống trí tuệ và tâm hồn độc giả. Từ "nạn dịch" sách "dã sử vũ hiệp" cuối những năm 80, sách "3T - tình yêu, tình dục, tình báo" đầu những năm 90, rồi "nạn dịch" in lại sách cấm trước ngày giải phóng ở miền Nam, đến việc in "sách chuyên đề", sách "truyện tranh Nhật Bản", "truyện trưởng Trung Quốc", "sách học thêm" "sách học tốt", "sách tham khảo"... tràn lan mấy năm gần đây đều là những biểu hiện của việc thương mại hóa đơn thuần, chạy theo lợi nhuận, vì lợi nhuận mà phần nào đã làm tổn hại đến đời sống tinh thần xã hội, ảnh hưởng không nhỏ tới định hướng thưởng thức nghệ thuật của tầng lớp thanh thiếu niên hiện nay. Giá trị sử dụng của XBP còn mang nét đặc thù ở chỗ nó không mất đi khi sử dụng mà còn có sức lan tỏa từ người này sang người khác, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có XBP như người bạn giúp con người tiến lên trong suốt cuộc đời. Có tác phẩm càng lưu trữ lâu giá trị sử dụng của nó càng lớn. Có những tác phẩm tạo nền móng cơ bản cho việc phát triển nền văn hóa dân tộc, mang lại lợi ích công cộng to lớn chứ không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu một cá nhân, một lớp người. Trong cơ chế thị trường, sự thương mại hóa đơn thuần không chờ đợi người ta phân biệt các tác dụng cụ thể mỗi loại sách, mỗi văn hóa phẩm. Kinh doanh XBP lấy việc tiêu thụ sản phẩm làm hiệu quả cao nhất. Do vậy trên thực tế, thương mại hóa thuần túy sẽ bóp chết những giá trị văn hóa đáp ứng lợi ích công cộng, làm cơ sở tinh thần cần thiết cho dân tộc nhưng không thể thu hồi vốn nhanh và hạch toán có lãi được. Nhà nước và các tổ chức xã hội nhất định phải có biện pháp hỗ trợ cho những hoạt động văn hóa thiết yếu này bằng cách tài trợ ngân sách và các quỹ phúc lợi, đặt hàng cho những công trình văn hóa, khoa học lớn, xây dựng các ngân hàng bản thảo để hỗ trợ cho những tác phẩm có giá trị nhưng chưa có điều kiện xuất bản, hoặc có giá trị lâu dài phải thu hồi vốn từ từ... Trong cơ chế thị trường, tính đặc thù của XBP và hoạt động kinh doanh còn thể hiện ở quy trình sản xuất ra XBP và ở toàn bộ hoạt động xuất bản. Xuất bản là một quá trình hoạt động đồng bộ nối tiếp gồm ba khâu: biên tập, in và phát hành. Việc sáng tạo ra bản thảo của các tác giả nằm ngoài quy trình sản xuất xuất bản song là yếu tố đầu vào quyết định số lượng và chất lượng hoạt động xuất bản. Quá trình tổ chức hoạt động xuất bản là tổ hợp các hoạt động sản xuất: vừa có sản xuất tinh thần của tác giả, biên tập viên, vừa có sản xuất vật chất của việc in ấn, nhân bản tác phẩm, và hoạt động phân phối, lưu thông XBP. Quy luật sản xuất và tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế hàng hóa đòi hỏi các công đoạn sản xuất - phân phối - tiêu dùng sản phẩm phải ăn khớp với nhau tác động qua lại nhau, tạo ra sự phát triển nhịp nhàng, liên tục. Nhưng, trong hoạt động kinh doanh XBP chỉ có quy luật cung cầu của thị trường không thể tạo ra sự ăn khớp nhịp nhàng. Kinh doanh XBP đòi hỏi một cơ chế quản lý phức hợp phù hợp với đặc điểm sản xuất ở từng công đoạn. Đối với sản xuất sáng tạo tinh thần, các chỉ tiêu đánh giá, phương pháp, công cụ quản lý phải khác với các công đoạn sản xuất vật chất. Hơn nữa ngay ở lĩnh vực sản xuất vật chất - in ấn, phát hành XBP cũng có những đặc điểm riêng khác với việc sản xuất các hàng hóa thông thường khác. Quy luật thị trường không thể đánh đồng những nét đặc thù của các hoạt động khác nhau đó. Do vậy, nếu thương mại hóa đơn thuần các hoạt động xuất bản, in, phát hành rất dễ có sự trùng chéo, nảy sinh hiện tượng dễ làm khó bỏ, hoạt động xuất bản và phát hành tập trung đổ về các vùng đô thị, làm tăng khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, đồng bằng và miền núi, không thực hiện được mục tiêu cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa là xóa bỏ khoảng cách giữa các vùng, bảo đảm sự bình đẳng về quyền hưởng thụ và sáng tạo các sản phẩm văn hóa tinh thần. Tính phức tạp của hoạt động kinh doanh XBP tất yếu đòi hỏi có sự can thiệp, quản lý của Nhà nước. Nhà nước phải điều tiết hoạt động kinh doanh XBP ở tầm vĩ mô bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng giữa xuất bản, in và phát hành giữa các địa phương có chính sách hỗ trợ giữa các vùng tạo điều kiện mở rộng thị trường. Trên cơ sở đó, tăng cường xã hội hóa hoạt động kinh doanh XBP, khuyến khích các tư nhân và các nhóm xã hội đứng ra tổ chức kinh doanh hoặc liên kết xuất bản và tổ chức phân phối theo nhu cầu xã hội để đáp ứng nhu cầu của thị trường dưới sự điều tiết của cơ chế thị trường và sự quản lý của Nhà nước về hoạt động kinh doanh XBP. Trong điều kiện đổi mới nền kinh tế hiện nay ở nước ta, có nhiều thành phần tham gia vào công tác kinh doanh XBP. Luật Xuất bản của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ban hành năm 1993 quy định các tổ chức và cơ quan Nhà nước được thành lập các Nhà xuất bản, các cá nhân được phép tham gia vào quá trình phổ biến XBP của mình thông qua các Nhà xuất bản. Tuy nhiên mọi tổ chức, cá nhân có quyền tham gia trực tiếp vào việc phát hành và kinh doanh trên cơ sở luật định. Như vậy là ngày nay tham gia vào quá trình kinh doanh XBP trên thị trường có nhiều thành phần, do đó giữa họ sẽ không tránh khỏi sự cạnh tranh. Thời mà PHS quốc doanh độc quyền trong lưu thông XBP đã không còn nữa, và hiện nay các Công ty kinh doanh XBP của Nhà nước cũng chỉ là một thành phần trên thương trường. Bên cạnh các Công ty phát hành sách, hiện nay còn có các thành phần cùng kinh doanh XBP như: tư nhân, liên doanh, các tổ chức xã hội khác có tham gia kinh doanh XBP, trong đó việc các Nhà xuất bản trực tiếp tiêu thụ sản phẩm của mình là một nhân tố kinh doanh quan trọng. Các cơ sở kinh doanh này đều tồn tại và phát triển trên cơ sở luật pháp. Sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế trong kinh doanh XBP trong mấy năm qua đã làm cho thị trường XBP sôi động hẳn lên, làm cho hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh XBP có nhiều khởi sắc đa dạng và phong phú về hình thức kinh doanh. Tuy vậy sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế này nhiều lúc có thể gây ra sự rối loạn thị trường XBP và là nguyên nhân sản sinh ra những XBP không theo định hướng. Nhiều nơi cùng tham gia vào quá trình xuất bản hoặc kinh doanh. Để tổ chức quản lý các thành phần kinh doanh XBP có hiệu quả, phát huy không ngừng giá trị của việc lưu thông XBP trên thị trường, Nhà nước cần có những biện pháp nghiêm ngặt trong việc kiểm soát và quản lý các thành phần kinh doanh XBP theo đúng luật và tạo sự công bằng giữa các doanh nghiệp. Sự tham gia của các tư nhân, các tổ chức xã hội, các nhà xuất bản vào khâu tiêu thụ XBP song song với Công ty phát hành sách là một trong những điểm nổi bật trong hoạt động kinh doanh XBP hiện nay. 1.4. Nội dung cơ bản của văn hóa kinh doanh xuất bản phẩm trong nền kinh tế thị trường Như chúng ta biết, trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp kinh doanh XBP phải tự mình quyết định các vấn đề cơ bản của sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về quá trình hoạt động của mình. Vì thế kinh doanh XBP không đơn thuần là bán những hàng hóa đã sản xuất ra mà là tổng thể các biện pháp về mặt tổ chức, kinh tế, kế hoạch quản lý nhằm thực hiện việc nghiên cứu, nắm bắt nhu cầu thị trường, tổ chức sản xuất và tiêu thụ XBP với phương thức mới để đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh và đáp ứng các yêu cầu phục vụ văn hóa - tư tưởng. Do đó việc thực hiện văn hóa trong kinh doanh XBP cần chú ý các nội dung cơ bản sau đây: 1.4.1. Lựa chọn đối tác để tạo nguồn hàng hóa XBP Đó là nguồn XBP từ các doanh nghiệp, từ các Nhà xuất bản, từ các tổ chức và cá nhân khác cùng kinh doanh XBP hoặc các tác giả có bản thảo và các XBP khác mà doanh nghiệp có thể khai thác, mở rộng hoạt động kinh doanh tạo lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong công cuộc đổi mới kinh tế- xã hội hiện nay hoạt động kinh doanh XBP cũng có những biến động. Nhiều thành phần kinh tế được tự do tham gia vào kinh doanh làm cho XBP được xuất bản và phát hành phong phú cả về giá cả, số lượng, chất lượng lẫn chủng loại. Nhưng giá thành của XBP đôi khi tương đối cao làm cho người có nhu cầu lại không được thỏa mãn vì điều kiện kinh tế. Vấn đề giá cả có ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình lưu thông XBP. Đôi khi trong quá trình kinh doanh cũng cần tới sự trợ giá cho loại XBP nào đó. Nhưng đó không phải là lối thoát cho doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh XBP doanh nghiệp phải tìm ra được con đường ngắn nhất cho sản phẩm của mình tiêu thụ và phát huy được giá trị sử dụng của XBP phù hợp với điều kiện kinh tế của đa phần khách hàng. Nền kinh tế thị trường với các quy luật của nó bên cạnh ảnh hưởng tích cực, cũng đặt kinh doanh XBP trước một thực tế rất khốc liệt là cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa PHS quốc doanh vốn được bao cấp với mạng lưới ồ ạt doanh nghiệp xuất bản ở các thành phần kinh tế cùng kinh doanh mặt hàng này. Một số tổ chức tư nhân vừa và nhỏ với những lợi thế vô cùng linh hoạt, nhạy bén tổ chức ra những XBP có tính chất giật gân, câu khách, in lậu, trốn thuế… làm rối loạn thị trường, phá vỡ mối quan hệ tồn tại lâu nay xuất bản - in - phát hành, phá vỡ quy luật cung cầu; XBP có giá cả chênh lệch lớn tạo ra thị trường không công bằng giữa các doanh nghiệp cùng kinh doanh XBP. Khắc phục tình trạng đó và cùng tạo thời cơ để thích ứng với cơ chế mới, các doanh nghiệp kinh doanh tổ chức hình thành các hoạt động liên doanh, liên kết xuất bản thực chất là cùng hợp tác với các nhà xuất bản, các công ty PHS các địa phương, các tác giả để in sách. Quá trình liên kết có thể áp dụng nhiều hình thức: Công ty và nhà xuất bản cùng bỏ vốn phân chia công việc theo chuyên ngành và trách nhiệm: nhà xuất bản chịu trách nhiệm bản thảo, biên tập, giấy phép xuất bản; PHS chịu trách nhiệm in và tiêu thụ XBP. Hoặc liên kết dưới hình thức côngty đầu tư hoàn toàn, chịu trách nhiệm hoàn toàn cả ba khâu, chấp nhận lợi nhuận và rủi ro. Nhưng Nhà xuất bản vẫn được hưởng phần trăm nhất định, trả cho nhuận bút tác giả, phí quản lý xuất bản. Với lợi thế là tổ chức phát hành, là nơi trực tiếp tiêu thụ XBP tại thị trường, thông qua bộ phận bán buôn, bán lẻ... nên công ty có khả năng điều tra rõ nhu cầu của khách hàng để lựa chọn đối tác, đưa ra những sản phẩm phù hợp có sức tiêu thụ mạnh trên thị trường. 1.4.2. Thiết kế xây dựng các kênh phân phối Sau khi XBP đã được sản xuất ra hoàn thiện thì nó được chuẩn bị để tung ra thị trường nhằm thỏa mãn nhu cầu của người mua và người sản xuất kinh doanh. Trong quá trình tổ chức đưa XBP ra ngoài thị trường và đem đến người sử dụng cuối cùng là quá trình nhà kinh doanh phải nghiên cứu để lựa chọn thị trường cho XBP. Đó chính là lựa chọn kênh phân phối XBP. Kênh phân phối hàng hóa XBP được hình thành bởi các tuyến đi và phương thức di chuyển thông qua tay các nhà trung gian (hệ thống các nhà trung gian) để đưa nó từ nơi sản xuất đến người sử dụng. Tổ chức tốt kênh phân phối XBP là thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng về XBP trên thị trường và mang lại lợi nhuận cho các nhà sản xuất kinh doanh trong đó có các nhà tiêu thụ. Có thể nói kênh phân phối XBP là cách thức mà doanh nghiệp đưa XBP đến tay khách hàng (người sử dụng XBP). Việc thiết lập được các kênh phân phối XBP phù hợp sẽ đảm bảo đưa XBP đến với khách hàng một cách nhanh nhất, đúng hướng nhất và hiệu quả nhất. Có hai loại kênh phân phối: Thứ nhất là kênh phân phối XBP loại dài: Là kênh phân phối mà hàng hóa XBP phải đi qua tay nhiều nhà trung gian mới đến được khách hàng mua cuối cùng. Kênh phân phối này được phân bổ trong phạm vi rộng lớn về không gian và chi phí vận chuyển lớn và lâu về thời gian. Vì thế nhà tiêu thụ luôn luôn phải lựa chọn XBP nào để đưa vào kênh phân phối này sao cho phù hợp và đảm bảo cả mục tiêu của người bán lẫn người mua. Về ưu điểm: Kênh này phân phối được liên tục, thường xuyên khối lượng lớn XBP và có khả năng phân phối được XBP khó bán hoặc bán chậm. Về nhược điểm: Để XBP đến tay người sử dụng phải chi phí mất nhiều thời gian, chi phí nhiều tiền của và phải sử dụng sức mạnh tổng hợp của các nhà trung gian. Kênh phân phối thứ hai là kênh phân phối XBP loại ngắn: Là kênh phân phối mà ở đó XBP chỉ phải đi qua một (hai) trung gian là có thể đến tay người sử dụng cuối cùng. Kênh này có ưu điểm là đẩy nhanh tiến độ tiêu thụ hàng hóa XBP. Chi phí quá trình tiêu thụ thấp mà hiệu quả bán hàng cao; thỏa mãn kịp thời nhu cầu sử dụng XBP của khách hàng. Nhược điểm: Phân phối vào kênh ngắn không thể bán một lúc với nhiều chủng loại hàng hóa và doanh thu lớn như phân phối vào kênh dài. Mặt khác phân phối vào kênh ngắn chỉ có thể diễn ra trên thị trường là thành phố lớn và các đô thị trung tâm chứ không thể diễn ra trên mọi vùng, mọi miền, mọi vùng lãnh thổ. 1.4.3. Tổ chức tiếp thị, yểm trợ cho công tác tiêu thụ Tiếp thị yểm trợ là hoạt động rất quan trọng có tác dụng góp phần hỗ trợ và thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Tiếp thị sẽ giúp các khách hàng hiện tại cũng như khách hàng tiềm năng có những thông tin cần thiết về các sản phẩm của doanh nghiệp, cũng như về bản thân doanh nghiệp. Đây là điều kiện quan trọng để khách hàng lựa chọn XBP cho mình, lựa chọn doanh nghiệp làm đối tác mua. Thông qua biện pháp tiếp thị doanh nghiệp có thể thu hút khách hàng đến với mình và hàng hóa của mình tạo được uy tín cũng như duy trì và tăng khả năng tiêu thụ XBP của doanh nghiệp. Qua tiếp thị yểm trợ giúp khách hàng từ chỗ không biết đến hiểu về XBP, từ chưa có ý định mua sẽ đi đến quyết định mua. Tốc độ tiêu thụ XBP sẽ tăng mạnh nhờ tác động của hoạt động này. Việc tiếp thị cho công tác tiêu thụ được thực hiện qua hoạt động quảng cáo, chào hàng, chiêu hàng, xây dựng các cửa hàng giới thiệu sản phẩm và các biện pháp khác. * Quảng cáo: là những hình thức sử dụng các phương tiện thông tin để truyền tin về sản phẩm XBP cho các khâu trung gian, các doanh nghiệp, đại lý PHS, hiệu sách tư nhân hoặc là khách hàng trực tiếp thông qua những phương tiện như báo, đài, tivi, tờ rơi... Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng quảng cáo không phải là sự phô trương đánh lừa khách hàng mà là thông tin cho khách hàng hiểu rõ về nội dung giá trị nghệ thuật của XBP, đồng thời có thể thu hút sự chú ý của khách hàng, tạo cho khách hàng hiểu biết về XBP, thưởng thức tính thẩm mỹ của XBP đó. Thông qua những hình ảnh sống động lôi cuốn, từ ngữ ngắn gọn súc tích, quảng cáo lôi cuốn được sự chú ý của khách hàng tới XBP và tạo hứng thú muốn được sở hữu XBP đó. * Chào hàng: là phương pháp sử dụng các nhân viên bán hàng đi tìm khách hàng để giới thiệu XBP thông qua việc trực tiếp giới thiệu sản phẩm với khách hàng. Để chào hàng có hiệu quả, nhân viên chào hàng phải hiểu biết rõ giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm và tác giả của XBP, hiểu rõ thị trường và biết rõ nghệ thuật trình bày và giới thiệu XBP, giới thiệu cho khách hàng cái hay, cái đẹp, cái thẩm mỹ trong từng tác phẩm và ý nghĩa của tác phẩm đối với đời sống xã hội. 1.4.4. Xúc tiến bán hàng Là hoạt động của người bán hàng tác động trực tiếp vào tâm lý tư tưởng tình cảm của khách hàng nhằm gây cảm tình, tạo dựng niềm tin và thuyết phục khách hàng mua hàng. Xúc tiến bán hàng bao gồm: * Trang trí trình bày (tổ chức khoa học) nơi bán hàng: Nơi bán hàng là bộ mặt của chính bản thân doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, nó phản ánh khả năng về mọi mặt của tổ chức kinh tế ấy. Vì thế việc trang trí trình bày khoa học nơi bán hàng là một trong những biện pháp quan trọng góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy tiêu thụ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình mua và bán hàng hóa XBP. Vì thế trang trí phải đảm bảo điều kiện về không gian, về môi trường kinh doanh. Các cửa hàng kinh doanh XBP thường được đặt ở những trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của vùng, khu vực hoặc cụm dân cư, nơi có thể tạo điều kiện thuận lợi nhất để thu hút sự chú ý nhiều nhất của khách hàng đến với XBP. Tổ chức khoa học nơi kinh doanh là phải tạo điều kiện thỏa mái, tiện lợi cho quá trình tiếp xúc và kinh doanh, tạo cho khách hàng lựa chọn XBP một không khí văn hóa hấp dẫn bởi cách trang trí trình bày, sắp xếp hàng hóa. Mặt khác không khí thỏa mái còn biểu hiện ở các trang thiết bị trong cửa hàng, quầy hàng, được sắp xếp một cách khoa học, hợp lý tạo điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu với XBP của khách hàng. * Tổ chức hội chợ triển lãm XBP: Đây là việc mang hàng hóa XBP đến giới thiệu hoặc kinh doanh thông qua việc trưng bày giới thiệu ở những địa điểm nằm ngoài Công ty hoặc doanh nghiệp. Hội chợ triển lãm giúp tuyên truyền quảng cáo giới thiệu XBP với các doanh nghiệp khác và đông đảo khách hàng về XBP, về doanh nghiệp. Ngoài ra qua hội chợ triển lãm doanh nghiệp có thể dự đoán, nắm bắt nhu cầu thị trường, tìm kiếm các thông tin, các mặt hàng mới, thị trường mới... đồng thời tìm kiếm ký kết hợp đồng với các đối tác mới... * Thực hiện bán XBP bằng các biện pháp nhằm kích thích sức mua: Bán khuyến mãi cũng là một biện pháp xúc tiến bán hàng, đó chính là những hoạt động của người bán nhằm mục đích đem lại một lợi ích nhất định cho khách hàng và với mục tiêu kích thích thị hiếu và nhu cầu mới của khách hàng, thúc đẩy tiêu thụ XBP nhiều hơn và nhanh hơn. Nội dung của bán khuyến mãi gồm: Bán giảm giá, bán có thưởng, bán kèm theo quà tặng v.v... Biện pháp này sẽ có tác dụng thu hút khách đến với XBP của doanh nghiệp nhanh hơn, nhiều hơn. Mặt khác tạo điều kiện để doanh nghiệp có thể tiêu thụ được những XBP khó bán hoặc có nguy cơ tồn đọng. Bán XBP qua điện thoại, là hình thức bán hàng cho khách hàng tại chỗ. Đây là một biện pháp bán văn minh tạo ra cơ sở để tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau giữa khách hàng và doanh nghiệp. Bán qua internet, là biện pháp bán rất hiện đại, phải sử dụng công nghệ tiên tiến và đòi hỏi khách hàng khi tiêu thụ XBP phải có những điều kiện nhất định như phương tiện thông tin và điều kiện kinh tế... * Nghệ thuật giao tiếp ứng xử và bán hàng: Nghệ thuật giao tiếp ứng xử trong quá trình bán hàng là một nhân tố hết sức quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thúc đẩy quá trình kinh doanh. Giao tiếp chính là quá trình sử dụng nghệ thuật trao đổi với các đối tác, với khách hàng nhằm mục đích thực hiện được mục tiêu kinh doanh của mình. Trong quá trình giao tiếp và ứng xử người kinh doanh phải sử dụng thuật nghe và thuật ứng phó từ đó tạo ra không khí thân thiện, thoải mái, cởi mở trong quá trình giao tiếp và nhanh chóng đi đến mục tiêu mà mình đã đặt ra là giới thiệu quảng cáo XBP của tổ chức kinh doanh, của doanh nghiệp mình và tiêu thụ được nhiều XBP nhất, kinh doanh phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp. Quá trình kinh doanh XBP chủ yếu sử dụng nghệ thuật giao tiếp, vì người kinh doanh là người thường xuyên trực tiếp quan hệ với khách hàng, giao tiếp giúp hiểu rõ tâm tư tình cảm, sở thích thị hiếu, nhu cầu của khách hàng từ đó có biện pháp phù hợp đáp ứng các nhu cầu của khách hàng. Theo Sherdon: Nghệ thuật bán tức là nghệ thuật làm cho người mua tin chắc rằng họ có lợi khi họ mua. Muốn thực hiện nghệ thuật kinh doanh phải biết dẫn dụ khách hàng. Do đó một trong những cách để dẫn dụ khách hàng là có nghệ thuật giao tiếp, ứng xử, thông qua giao tiếp ứng xử với khách hàng người kinh doanh sẽ biết được khách hàng cần gì? nhu cầu đích thực của họ là XBP nào? Ngày nay nghệ thuật giao tiếp với khách hàng được quan tâm và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu được đối với hoạt động bán hàng nói chung và bán XBP nói riêng. Khi khách hàng bước chân vào hiệu sách, sự chú ý của khách hàng không chỉ dừng lại ở hình thức nội thất, cách trưng bày sách trên giá mà họ còn quan tâm người bán hàng. Vẻ bên ngoài của nhân viên bán hàng, cử chỉ thái độ của nhân viên ngay từ ban đầu đã tạo nên mối thiện cảm hay không của khách hàng. Toàn bộ cách cư xử và thái độ của nhân viên đã tác động tới ý thức của khách hàng khi bước vào cửa hàng. Một cách không tự giác, khách hàng hình thành ý kiến của mình về nhân cách người bán và nhiều khi về cả uy tín của công ty. Nếu sự đánh giá sơ bộ của khách hàng về nhân viên bán hàng mà tốt sẽ có lợi cho doanh nghiệp và ngược lại. Nhân viên bán hàng có thái độ lịch sự niềm nở cộng với phong cách ăn mặc đẹp, hài hòa sẽ gây được thiện cảm ban đầu với khách hàng, làm tăng thêm sự chú ý của họ, có khả năng thu hút được lượng khách hàng càng lớn. Hơn thế nữa người bán hàng phải am hiểu tâm lý khách hàng, có kiến thức chuyên môn tốt để giới thiệu, hướng dẫn khách hàng, trao đổi và đáp ứng được yêu cầu của họ. Ngoài ra giọng nói của người bán hàng cũng là một biểu hiện của phong cách văn hóa. Khác với mọi nơi buôn bán khác, sự trao đổi giữa người bán với khách hàng trong cửa hàng sách là hết sức tế nhị, đảm bảo có văn hóa. Giọng nói ở đây vừa mang ý nghĩa trao đổi mua bán vừa mang ý nghĩa thuyết phục người mua. Người bán XBP cần có giọng nói dịu dàng ấm áp và truyền cảm. Đó là nghệ thuật nói để chinh phục và thu hút khách hàng. Thông qua giao tiếp với khách hàng, người bán hàng có thể thu thập được những thông tin hữu ích, chính xác về tình hình thị trường XBP (cung cầu, giá cả, mức độ cạnh tranh...), từ đó Công ty có thể cải tiến các biện pháp nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng và hoàn thiện hoạt động bán XBP của mình. Chương 2 Thực trạng văn hóa kinh doanh ở công ty phát hành sách Hà Nội từ 1996 đến 2002 2.1. Vài nét khái quát về tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội ở thủ đô Hà Nội Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước. Vị thế địa - chính trị, địa - văn hóa đã làm cho Hà Nội trở thành môi trường rất thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, xã hội và giao lưu trong nước và quốc tế... Thủ đô Hà Nội có tổng diện 927,39 km2, số dân năm 2001 là 2.841.700 người, bao gồm 1.198.100 dân ở nông thôn và 1.643.600 dân ở thành thị, mật độ dân số trung bình 2.383 người/ km2 [30, tr. 29]. Về hành chính, Hà Nội hiện có 7 quận nội thành: Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa, Tây Hồ, Cầu Giấy, Hai Bà Trưng, Thanh Xuân, với 102 phường; ngoại thành Hà Nội gồm 5 huyện: Gia Lâm, Từ Liêm, Đông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì, với 111 xã và 8 thị trấn. Hà Nội là nơi tập trung đông nhất các cơ quan đầu não Trung ương, giữ vai trò quyết định trong lãnh đạo và quản lý đất nước, là nơi thường xuyên diễn ra các hoạt động chính trị, ngoại giao, kinh tế với tất cả các nước trên thế giới. Hà Nội cũng là trung tâm tiếp nhận nhanh nhất chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần gắn liền với thế mạnh của Thủ đô, tạo cho Hà Nội có một nền kinh tế phát triển đa dạng. Hoạt động thương mại dịch vụ của Thủ đô diễn ra rất sôi động, giữ vai trò then chốt trong sự phát triển kinh tế của Thủ đô. Cho tới nay, Hà Nội có hàng trăm doanh nghiệp nhà nước và hàng nghìn doanh nghiệp tư nhân ở các khu vực kinh tế do Nhà nước trung ương và địa phương quản lý, hoạt động trên các lĩnh vực thương mại, khách sạn, nhà hàng, du lịch trong và ngoài quốc doanh phục vụ cho nhu cầu dịch vụ của Hà Nội. Đời sống nhân dân Hà Nội được cải thiện và nâng cao đáng kể trong những năm gần đây. Số hộ giàu chiếm 19,7%, hộ nghèo chiếm tỉ lệ nhỏ 1,6%. Thu nhập bình quân đầu người đạt gần 9 triệu đồng/ người năm (năm 1998). Văn hóa - xã hội Thủ đô có bước phát triển mạnh mẽ, trong đó có nhiều thành tựu nổi bật. Năm 1999 đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trên toàn thành phố (vượt kế hoạch đặt ra 1 năm). 100% các trạm y tế xã, phường có bác sĩ. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được chú trọng. Các chương trình: dân số - kế hoạch hóa gia đình; giáo dục, bảo vệ, chăm sóc trẻ em; hoạt động của người cao tuổi được triển khai tích cực. Tỷ suất sinh, tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ 1,46% năm 1995 giảm xuống 1,09% năm 2000, hoàn thành trước 1 năm so với chỉ tiêu Đại hội lần thứ XII Đảng bộ thành phố. Các chính sách xã hội được quan tâm thực hiện và đạt được một số kết quả tốt. Từ 1996 đến 2000 đã giải quyết việc làm cho 26 vạn người; đã xây tặng trên 2000 nhà tình nghĩa; phụng dưỡng 100% bà mẹ Việt Nam anh hùng của Hà Nội; giúp đỡ nhiều hộ nghèo phát triển kinh tế, xóa được gần 15.000 hộ nghèo; trợ giúp 100% đối tượng cứu trợ xã hội. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ngày càng mở rộng và phát huy tác dụng. Thể dục thể thao quần chúng và thành tích cao phát triển; nhiều môn xếp hàng đầu trong cả nước, Hà Nội tham gia tích cực, hiệu quả trong các đội tuyển quốc gia thi đấu khu vực, quốc tế; cơ sở vật chất của ngành từng bước được nâng cấp. Phong trào thi đua "Người tốt, việc tốt", "Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa", "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư"... đạt hiệu quả tích cực. Nhiều di tích văn hóa, di tích lịch sử và cách mạng được trùng tu, tôn tạo. Công tác văn hóa - thông tin, báo chí, phát thanh truyền hình, hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật phát triển, góp phần xây dựng con người Thủ đô. Năm 1999, UNESCO đã bình chọn Hà Nội là thành phố duy nhất của khu vực châu á - Thái Bình Dương danh hiệu "Thành phố vì hòa bình". Năm 2000, chương trình kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội được chuẩn bị chu đáo và tổ chức thành công, khơi dậy mạnh mẽ khí thế cách mạng và niềm tự hào về "Thủ đô Anh hùng". Hệ thống giáo dục ở Thủ đô được chú trọng đầu tư phát triển. Hà Nội hiện có hơn 40 trường Đại học và cao đẳng với khoảng gần 10.000 giảng viên và trên 150.000 sinh viên, 22 trường công nhân kỹ thuật với gần 1.000 giáo viên và 24.500 học viên, 18 trường trung học chuyên nghiệp, 1.224 giáo viên và 25.945 học viên. Hà Nội có một hệ thống các trường phổ thông bao gồm 599 trường (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông...) với tổng số 12.807 lớp học, 22.648 giáo viên. Số học sinh các cấp là 502.424 học sinh. Mẫu giáo có 2.364 lớp học, 4.124 giáo viên và 76.343 học sinh [30, tr. 15]. Hà Nội cũng là nơi tập trung số lượng lớn các công trình văn hóa, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, các điểm đến của khách du lịch, gồm 30 điểm du lịch, 7 nhà văn hóa lớn, 10 câu lạc bộ, 10 viện bảo tàng, 5 khu triển lãm, 10 rạp hát, 12 rạp chiếu bóng, 14 công trình thể thao... Để phục vụ các hoạt động đó có hệ thống hàng trăm cửa hàng, dịch vụ, siêu thị hoạt động liên tục để phục vụ đời sống nhân dân Thủ đô. Các cửa hàng sách, siêu thị sách của Nhà nước và tư nhân cũng là những điểm đến đáng lưu ý, thu hút hàng triệu lượt khách hàng tới thưởng thức và nghiên cứu, tạo thành một thị hiếu lành mạnh về văn hóa tinh thần của người dân Thủ đô. Có thể nói, nhu cầu dịch vụ thương mại nói chung và nhu cầu XBP nói riêng của Thủ đô Hà Nội rất cao về số lượng, chất lượng, đa dạng về chủng loại, hình thức. Đây vừa là thuận lợi vừa là thách thức không nhỏ cho việc kinh doanh XBP của các doanh nghiệp trên địa bàn. 2.2. Thực trạng văn hóa kinh doanh xuất bản phẩm ở công ty phát hành sách Hà Nội từ 1996 đến nay 2.2.1. Tổng quan về Công ty Phát hành sách Hà Nội Công ty PHS Hà Nội được chính thức thành lập vào năm 1954 với tên gọi ban đầu là "Chi sở phát hành sách Hà Nội", là đơn vị trực thuộc "Sở phát hành sách Trung ương" (tiền thân của Tổng Công ty sách Việt Nam ngày nay). Sau một thời gian hoạt động đến ngày 14/6/1960 theo quyết định 1477/QĐ-UB của ủy ban hành chính thành phố Hà Nội, "Chi sở phát hành sách Hà Nội" được đổi tên thành "Quốc doanh phát hành sách Hà Nội". Đây vừa là một cơ quan phục vụ công tác văn hóa vừa là một doanh nghiệp, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Sở Văn hóa Hà Nội. Năm 1980 do nhu cầu hạch toán kinh tế và tổ chức lại ngành PHS, "Quốc doanh phát hành sách Hà Nội" được đổi tên là "Công ty Phát hành sách Hà Nội", theo Quyết định số 3227-QĐ/TC ngày 8/8/1980 của UBND thành phố Hà Nội. Năm 1993 để phù hợp với tình hình phát triển của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, theo Quyết định số 877/QĐ-UB ngày 2/3/1993 của UBND thành phố Hà Nội "Công ty PHS Hà Nội" được đăng ký thành lập mới trực thuộc Sở Văn hóa thông tin Hà Nội. Từ đó đến nay Công ty PHS Hà Nội là một doanh nghiệp trực thuộc Sở Văn hóa thông tin Hà Nội, là đơn vị quản lý, kinh doanh chuyên ngành PHS, có trụ sở chính tại 34 Tràng Tiền - Hà Nội. Công ty được phép tổ chức mua và phát hành các loại sách, văn hóa phẩm, văn phòng phẩm trong nước và nhập ngoại, các loại chứng từ phục vụ công tác quản lý hành chính kinh tế - xã hội, các loại hàng thủ công mỹ nghệ, mỹ thuật, dụng cụ thể dục thể thao, vật tư, vật phẩm văn hóa thông tin và làm đại lý tiêu thụ các loại sản phẩm hàng hóa nói trên cho các đơn vị và cá nhân có yêu cầu theo sự thỏa thuận. Được phép liên doanh, liên kết với các đơn vị cá nhân trong và ngoài nước để mở rộng khả năng kinh doanh XBP, cho thuê nhà làm phòng họp hội nghị, hội thảo và văn phòng đại diện. Công ty PHS Hà Nội là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, có con dấu và tài khoản riêng tại Ngân hàng công thương Việt Nam. Công ty PHS Hà Nội có các bộ phận trực thuộc là phòng ban, cửa hàng (hiệu sách nhân dân) nội ngoại thành với hơn 200 cán bộ công nhân viên. Trong cơ chế bao cấp, các ngành kinh tế nói chung và ngành PHS nói riêng được Nhà nước bao cấp hoàn toàn về vốn và các điều kiện khác. Hoạt động của Công ty chỉ nhằm vào mục đích phục vụ nhiệm vụ chính trị, giáo dục, tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong nhân dân. Lúc này hoạt động của các công ty nói chung và Công ty PHS Hà Nội nói riêng chưa quan tâm đúng mức đến hiệu quả kinh tế, số lượng XBP bán ra do cơ quan hành chính cấp trên mà chủ yếu là Tổng Công ty PHS Việt Nam phân phối, hiệu quả kinh tế bị xem nhẹ. Từ các Nhà xuất bản đến các Công ty PHS đều hoạt động một cách cứng nhắc, coi thường quan hệ cung cầu và giá trị hàng hóa, nhiều loại sách xuất bản và bán theo một khung giá định trước, nếu giá bán thấp hơn giá thành thì đã có Nhà nước bù lỗ, nhu cầu của khách hàng không được coi trọng. Từ khi chuyển sang cơ chế mới - cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, các doanh nghiệp kinh doanh XBP nói chung, Công ty PHS Hà Nội nói riêng không tránh khỏi những khó khăn phức tạp trước những biến động mới của nền kinh tế. Sự chuyển hướng kinh doanh XBP theo chỉ tiêu pháp lệnh, theo kế hoạch đặt trước từ Tổng Công ty và Nhà xuất bản là chính sang kinh doanh XBP theo nhu cầu thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia kinh doanh XBP. Công ty vừa phải hạch toán kinh tế, vừa phải làm tốt chức năng xã hội, phải tự chịu trách nhiệm trước Nhà nước về hoạt động kinh doanh của mình, phải bảo toàn và phát triển vốn sẵn có. Từ chỗ được bao cấp toàn diện sang hạch toán độc lập từ A đến Z, Công ty PHS Hà Nội phải tự mình quyết định việc tổ chức hoạt động kinh doanh. Đó là tự lo vốn để tổ chức kinh doanh và toàn bộ quá trình nhập vào cũng như kinh doanh ra các XBP sao cho có hiệu quả. Kinh doanh XBP là kinh doanh loại hàng hóa đặc thù, không giống như hàng hóa khác. Vì thế Công ty PHS Hà Nội phải đảm bảo thực hiện hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế. Kinh doanh có lãi và đúng định hướng của Đảng và Nhà nước là mục tiêu phấn đấu của ngành PHS nói chung, Công ty PHS Hà Nội nói riêng. Xuất phát từ những vấn đề đặt ra trên đây, Công ty PHS Hà Nội Hà Nội từ sau năm 1986 đã chuyển hướng hoạt động để nhanh chóng thích nghi với cơ chế mới. Với sự năng động tìm tòi của Ban giám đốc Công ty và sự phấn đấu nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên, Công ty PHS Hà Nội đã tìm ra nhiều giải pháp cho sự phát triển của chính mình. Trước hết là sự đổi mới về tổ chức, kiện toàn các bộ phận và sắp xếp lao động hợp lý Trong nền kinh tế tập trung những năm trước đổi mới, Công ty PHS Hà Nội có hơn 40% người làm việc gián tiếp. Đây là con số không nhỏ, đã khiến cho năng suất lao động chung của toàn Công ty tính theo đầu người không cao. Trong khi đó cơ chế thị trường đòi hỏi phải tăng cường cán bộ làm việc trực tiếp, giảm bớt hành chính trung gian không cần thiết và tạo ra sự tăng trưởng lợi nhuận. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, Công ty PHS Hà Nội đã khẩn trương sắp xếp lại phòng ban, bộ phận trong Công ty, phân bổ lại cán bộ theo phương châm: giảm gián tiếp, tăng cường cho trực tiếp và tinh lọc đội ngũ cán bộ, nhất là người bán hàng. Từ đó đã hình thành mô hình tổ chức mới của Công ty như sau: - Ban giám đốc (giám đốc và các phó giám đốc). - Phòng tổ chức hành chính. - Phòng kế hoạch tài vụ. - Phòng nghiệp vụ kinh doanh. - Phòng kho XBP. - Hệ thống các cửa hàng (hiệu sách nhân dân, nhà sách). Sơ đồ Bộ máy tổ chức của Công ty Phát hành sách Hà Nội Chỉ đạo toàn bộ hoạt động của Công ty đều do giám đốc trực tiếp hoặc gián tiếp điều hành. Một phó giám đốc giúp việc giám đốc phụ trách tổ chức hành chính và một phó giám đốc giúp phụ trách trực tiếp kinh doanh. Giám đốc trực tiếp phụ trách kế hoạch - tài vụ. Các phòng chức năng có nhiệm vụ riêng biệt và phải hoàn thành các chỉ tiêu đề Giám đốc Phó giám đốc hành chính tổ Phòng Tổ chức Hành chính Phó giám đốc kinh doanh Phòng kho xuất bản Phòng Kế hoạch Phòng nghiệp vụ Mạng lưới cửa hàng ra. Đặc biệt là hệ thống các cửa hàng kinh doanh XBP được hạch toán riêng, tuy các cửa hàng đều có mối quan hệ chịu sự chi phối của các phòng ban, ban giám đốc. Song các cửa hàng cũng có những nhiệm vụ độc lập tương đối, chủ động việc kinh doanh XBP theo định mức kế hoạch và tự khai thác XBP trực tiếp từ Nhà xuất bản hoặc nhiều nguồn khác ngoài Công ty. Phòng tổ chức hành chính: Là phòng tham mưu giúp việc và nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức, kiện toàn quy chế, quản lý cán bộ công nhân viên, đồng thời hướng dẫn tổng hợp tình hình hoạt động của Công ty. Phòng kế hoạch tài vụ: Có chức năng hướng dẫn tổ chức việc thực hiện công tác kế toán tài chính và thống kê, tham gia xây dựng nội dung các hoạt động kinh tế và tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh để báo cáo thường xuyên cho Ban giám đốc. Phòng kho XBP: Chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi việc xuất nhập hàng hóa, bảo quản giữ gìn và phân loại XBP một cách khoa học để đảm bảo giá trị của XBP và xuất nhập thuận lợi. Phòng nghiệp vụ kinh doanh: Có nhiệm vụ tham mưu và tổ chức thực hiện các mặt: - Triển khai phương hướng, kế hoạch kinh doanh mà Công ty đề ra, tìm hiểu nhu cầu thị trường. - Tổ chức khai thác, liên kết, sản xuất, in ấn, mua bán các XBP. - Tổ chức tiêu thụ sách, văn hóa phẩm. Nắm vững tình hình tiêu thụ, nhu cầu và thị hiếu khách hàng, số lượng tồn kho các loại để có biện pháp điều chỉnh thanh lý, nhằm thu hồi nhanh và bảo toàn và phát triển vốn. - Xác định tình hình xuất nhập hàng hóa, theo dõi quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế. - Thực hiện công tác tuyên truyền quảng cáo, giới thiệu hoạt động, mặt hàng của Công ty trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các cửa hàng kinh doanh (còn gọi là Hiệu sách nhân dân, Nhà sách): Là những đơn vị kinh doanh hạch toán nội bộ dưới sự chỉ đạo của Giám đốc Công ty thông qua

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Văn hóa kinh doanh ở Công ty phát hành sách Hà Nội trong cơ chế thị trường.pdf
Tài liệu liên quan