Tài liệu Luận văn Văn hoá đảo quan lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh trong lịch sử: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
─────────────
NGUYỄN THANH THUỶ
VĂN HOÁ ĐẢO QUAN LẠN
HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH
TRONG LỊCH SỬ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
Thái Nguyên - năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
─────────────
NGUYỄN THANH THUỶ
VĂN HOÁ ĐẢO QUAN LẠN
HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH
TRONG LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐÀM THỊ UYÊN
Thái Nguyên - năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN
TỈNH QUẢNG NINH .................................................................................... 8
1.1. Vị trí địa ...
103 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1127 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Văn hoá đảo quan lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh trong lịch sử, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
─────────────
NGUYỄN THANH THUỶ
VĂN HOÁ ĐẢO QUAN LẠN
HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH
TRONG LỊCH SỬ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
Thái Nguyên - năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
─────────────
NGUYỄN THANH THUỶ
VĂN HOÁ ĐẢO QUAN LẠN
HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH
TRONG LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐÀM THỊ UYÊN
Thái Nguyên - năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN
TỈNH QUẢNG NINH .................................................................................... 8
1.1. Vị trí địa lý - Điều kiện tự nhiên ...................................................... 8
1.2. Quan Lạn trong lịch sử ................................................................... 10
1.3. Thành phần dân cư, dân tộc ........................................................... 13
Chương 2: VĂN HOÁ VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN ĐẢO QUAN LẠN
HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH ................................................. 15
2.1. Ăn- ở- mặc- đi lại ........................................................................... 15
2.2. Hoạt động kinh tế ........................................................................... 20
2.2.1. Kinh tế ngư nghiệp ................................................................... 20
2.2.2. Kinh tế thương nghiệp .............................................................. 24
2.2.3. Kinh tế nông nghiệp ................................................................. 29
2.2.4. Kinh tế lâm nghiệp ................................................................... 30
2.2.5. Nghề vận tải biển ...................................................................... 31
Chương 3: VĂN HOÁ TINH THẦN CỦA CƯ DÂN ĐẢO QUAN LẠN ... 34
HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH ................................................. 34
3.1 Các tục lệ chủ yếu trong đời sống ................................................... 34
3.1.1. Sinh đẻ ..................................................................................... 34
3.1.2. Cưới xin ................................................................................... 37
3.1.3. Tang ma ................................................................................... 45
3.1.4. Một số lễ tết và lễ hội trong năm ............................................. 48
3.1.5. Những biến đổi ngày nay.......................................................... 54
3.2. Tín ngưỡng- tôn giáo ..................................................................... 56
3.2.1 Tín ngưỡng dân gian ................................................................. 57
3.2.2. Những ảnh hưởng của tam giáo trong đời sống ngư dân Quan
Lạn ....................................................................................................... 69
3.3. Văn học dân gian ........................................................................... 72
3.4. Mối quan hệ và ảnh hưởng giữa văn hoá tinh thần của ngư dân Quan
Lạn với ngư dân và cư dân Quảng Ninh. .................................................. 85
KẾT LUẬN ................................................................................................. 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 91
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa
con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Nếu văn hoá vật chất cung cấp
cho con người mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên
và xã hội thì văn hoá tinh thần lại thực hiện chức năng gắn kết cộng đồng, điều
chỉnh xã hội, định hướng các chuẩn mực làm động lực cho sự phát triển.
Văn hoá Việt Nam là thành quả kết tinh những tinh hoa có phong cách
riêng biệt của nhiều cộng đồng dân cư. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước,
trong lao động sản xuất, mỗi cộng đồng dân cư trên các vùng lãnh thổ khác
nhau vừa sáng tạo ra truyền thống văn hoá riêng cho mình, vừa giao lưu tác
động lẫn nhau làm cho nền văn hoá vật chất, tinh thần Việt Nam phong phú
đa dạng. Bản sắc văn hoá Việt Nam có ý nghĩa thiêng liêng cao quý là linh
hồn của núi sông là biểu hiện sự trường tồn của giống nòi, là sợi dây kết nối
giữa các thế hệ.
Mỗi giá trị văn hóa đều được biểu hiện trong cuộc sống thường nhật,
được lưu giữ trong trí nhớ, chữ viết, tồn tại trong lối sống, kí ức, tâm thức của
mỗi con người. Những giá trị văn hoá đặc biệt là văn hoá tinh thần với những
sinh hoạt cộng đồng có tính bền vững lâu dài song đang đứng trước nguy cơ
thất truyền mai một rất cao, nhất là khi các điều kiện của đời sống đang từng
bước được cải thiện cùng với sự hấp dẫn của những loại hình giải trí hiện đại.
Do đó cần hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn
hoá truyền thống không chỉ là bảo tồn mô hình mà phải làm cho những giá trị
văn hoá đó đi vào đời sống cộng đồng một cách tự nhiên, trở thành lối sinh
hoạt có văn hóa của mỗi người dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
2
Vị trí cách biệt với đất liền, sự giao lưu với các khu vực xung quanh
cũng như trình độ phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội còn nhiều hạn chế đã
làm cho những giá trị văn hoá truyền thống của ngư dân đảo Quan Lạn, huyện
Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh trở nên vô cùng quan trọng trong đời sống của cư
dân nơi đây. Những giá trị văn hoá được vun đắp trong hàng ngàn năm lịch sử
vừa là kết quả của sự giao lưu tình cảm văn hoá giữa các cộng đồng ngư dân,
vừa là sản phẩm của sự hòa nhập trong truyền thống của ngư dân Quan Lạn-
hoà nhập để cùng nhau kiên cường đứng trước biển nơi đầu sóng ngọn gió,
hoà nhập để tạo nên sức mạnh đập tan âm mưu xâm lược của các thế lực
ngoại xâm, gìn gữi từng tấc đất biên cương của tổ quốc, hoà nhập để cùng
“chung lưng đấu cật” cần cù làm ăn và phát triển. Hơn nữa được quy định bởi
tính chất ngư nghiệp, quan niệm tâm linh cũng như những tục lệ trong đời
sống văn hoá tinh thần của ngư dân nơi đây có nhiều nét đặc trưng riêng và
tiến bộ đơn giản mà ý nghĩa, đa dạng mà thống nhất. Đặc biệt hơn, những
hoạt động tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội ở Quan Lạn đã và đang trở thành một
trong những tiềm năng quan trọng để phát triển loại hình kinh tế du lịch văn
hoá - lịch sử - sinh thái trên đảo.
Dựa trên nghị quyết hội nghị lần thứ X Ban chấp hành trung ương Đảng
khoá 9 đã xác định “tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng
đạo đức lối sống và đời sống văn hoá lành mạnh trong xã hội ", với mục đích
bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc trong văn hoá của ngư dân đảo Quan
Lạn, được sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của PGS TS. Đàm Thị Uyên, cùng các
thầy cô giáo trong tổ bộ môn lịch sử Việt Nam và Ban chủ nhiệm khoa lịch sử
ĐHSP - ĐHTN, nên em chọn “Văn hoá đảo Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh
Quảng Ninh trong lịch sử” làm đề tài luận văn. Đề tài góp phần làm rõ một
số nội dung và hình thức biểu hiện, chỉ ra những nét đặc sắc mang tính truyền
thống trong văn hoá của ngư dân đảo Quan Lạn. Qua đó góp phần giáo dục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
3
thế hệ trẻ trên đảo có ý thức trách nhiệm giữ gìn bảo vệ những giá trị văn hoá
truyền thống. Từ việc phát huy bảo tồn các yếu tố văn hoá sẽ thúc đẩy hơn
nữa sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Văn hoá với hai bộ phận là văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần đã
được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau trong các tác phẩm mang tính
lý luận như:
- Cuốn “Nguồn gốc của văn hoá và tôn giáo” của FREUD do Lương Văn
Kế dịch (NXB Đại học Quốc gia năm 2000).
- Cuốn “Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Đăng Duy do NXB Văn hoá thông tin xuất bản năm 2001 đã trình
bày khá đầy đủ về khái luận về tín ngưỡng tôn giáo, nguồn gốc, nội dung của
các hình thái tín ngưỡng dân gian, đặc trưng riêng ở một số vùng miền, một
số dân tộc ít người, trình bày nguồn gốc và những giáo lý cơ bản của các loại
hình tôn giáo trong đời sống hiện nay.
- Cuốn “Lí luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của Đặng
Nghiêm Vạn do NXB Chính trị quốc gia xuất bản năm 2001 đã nêu lên những
khái niệm chung về tôn giáo, xu thế của tôn giáo, đời sống tôn giáo trong
nhân dân.
- Cuốn “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam” (cách nhìn hệ thống và loại
hình) của Trần Ngọc Thêm do NXB thành phố Hồ Chí Minh xuất bản (1997)
đã tiến hành phân loại các hình thái tín ngưỡng, những nét đặc trưng trong
phong tục được quy định bởi văn hoá truyền thống, phân tích sự giao lưu
ảnh hưởng giữa các nền văn hoá Đông- Tây được biểu hiện trong văn hoá
Việt Nam.
- Cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm do NXB Giáo
dục xuất bản năm 2000 đã trình bày khái niệm văn hoá, tiến trình văn hoá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
4
Việt Nam và những nét nổi bật trong văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên
và môi trường xã hội, sự giao lưu văn hoá giữa Việt Nam với các khu vực văn
hoá khác.
Vân Đồn với hoạt động kinh tế thương nghiệp đã được phản ánh trong
nhiều tác phẩm nghiên cứu lịch sử. Nhiều tác phẩm như “Dư địa chí” của
Nguyễn Trãi, “Đại Việt sử kí toàn thư” của Ngô Sĩ Liên, “Lịch triều hiến
chương loại chí” của Phan Huy Chú, “Đại Nam thực lực” của Quốc sử quán
triều Nguyễn... đã ghi chép tóm tắt về thời gian thành lập và vị trí thuận lợi
của thương cảng Vân Đồn. Cuốn “Thương cảng Vân Đồn” của Đỗ Văn Ninh
với nguồn tư liệu khảo cổ phong phú đã cho chúng ta có cái nhìn đầy đủ về đô
thị cổ Vân Đồn với một hệ thống các bến thuyền cổ, hoạt động buôn bán và
phương thức buôn bán tại thương cảng xưa.
Bên cạnh đó, các tài liệu chuyên khảo về hoạt động kinh tế và phong tục,
tín ngưỡng tôn giáo của cư dân ở Quảng Ninh nói chung trong cuốn “Địa chí
Quảng Ninh” đề cập đến một số phong tục tiêu biểu như cưới xin, ma chay, lễ
tết trong năm, đặc trưng tín ngưỡng dân gian và tình hình sinh hoạt tôn giáo
của cư dân trên địa bàn tỉnh. Trong đó có đề cập đến một số đặc trưng của cư
dân biển song rất sơ lược.
Hiện nay chưa có tài liệu nào đi sâu nghiên cứu tổng thể văn hoá của cư
dân đảo Quan Lạn dưới sự tác động của hoạt động ngư nghiệp.
Song qua những tài liệu trên, chúng tôi có cái nhìn khái quát về văn hoá
với những nội dung của nó, hình dung được vị trí của Quan Lạn trong thương
cảng Vân Đồn xưa cũng như hoạt động kinh tế thương nghiệp của cư dân nơi
đây, đồng thời cung cấp những tư liệu chính xác, đáng tin cậy gợi mở những
nội dung cụ thể giúp chúng tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Mục đích đề tài: Nghiên cứu văn hoá của cư dân đảo Quan Lạn, đề tài
nhằm hệ thống hoá những phương thức ứng xử với tự nhiên và xã hội của cư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
5
dân trên đảo Quan Lạn, từ đó góp phần nhận thức rõ hơn về văn hoá ngư dân
ở Quảng Ninh nói chung và Quan Lạn nói riêng.
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là những thành tố trong
văn hoá vật chất và tinh thần như cách thức sinh hoạt, hoạt động kinh tế, một
số tục lệ, tín ngưỡng tôn giáo và văn học dân gian của cư dân đảo Quan Lạn,
huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu: Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất
nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh
thần của con người. Song do khả năng và thời gian có hạn, đề tài luận văn chỉ
đi sâu nghiên cứu ở góc độ hẹp bao gồm các nét nổi bật trong ăn, ở, mặc, đi
lại, hoạt động kinh tế cũng như tục lệ và tín ngưỡng tôn giáo, văn học dân
gian của cư dân đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh nhằm làm
rõ những đặc trưng trong văn hoá truyền thống mang tính địa phương.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Luận văn của chúng tôi dựa trên cơ sở tham khảo các nguồn tài liệu sau:
+ Nguồn tài liệu thành văn
- Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Các tác phẩm mang tính lí luận chung và chuyên khảo về văn hoá
như “Văn hoá một số vấn đề lý luận” của Trương Lưu, “Tín ngưỡng
Việt Nam” của Toan Ánh, “Cơ sở văn hoá Việt Nam” của Trần Ngọc
Thêm, và một số bản dịch sắc phong còn lưu trong đình Quan Lạn.
+ Nguồn tư liệu khảo sát, điền dã
Thông qua việc tiếp xúc với các nhân chứng của lịch sử, quan sát đời sống
sinh hoạt cũng như của các hoạt động văn hoá tinh thần của ngư dân địa
phương, chúng tôi được nghe những điệu hò biển khỏe khoắn, chứng kiến lễ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
6
hội Vân Đồn, lễ cầu bình, lễ tháp ấn, các phong tục và kinh nghiệm trong lao
động sản xuất của ngư dân. Qua đó chúng tôi có được những tư liệu cần thiết
mang tính thực tiễn về văn hoá đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng
Ninh để hoàn thành tốt đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic
Phương pháp điền dã
Phương pháp miêu thuật
Phương pháp hồi cố
Phương pháp văn hoá học
Phương pháp phân tích, so sánh đối chiếu các nguồn tài liệu.
Bên cạnh đó, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu của đề tài trong mối quan
hệ chung với sinh hoạt văn hoá của cộng đồng dân cư tỉnh Quảng Ninh để
thấy nét tương đồng giao thoa và những nét đặc trưng riêng có do hoạt động
ngư nghiệp quy định trong văn hoá truyền thống của ngư dân Quan Lạn.
5. Đóng góp của luận văn
- Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống toàn diện về
những đặc trưng trong văn hoá vật chất cũng như văn hoá tinh thần của ngư
dân đảo Quan Lạn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh trong lịch sử chỉ ra và đề
cao những nét đặc thù, những tinh hoa dưới góc độ di sản văn hoá. Từ đó giúp
cơ quan chức năng đánh giá toàn diện có kế hoạch trong công tác bảo tồn và
phát triển những giá trị trong văn hoá truyền thống của ngư dân Quan Lạn.
- Từ nội dung đó, luận văn góp phần vào việc hình thành ý thức tôn trọng
phát huy và xây dựng “một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”
không chỉ cho ngư dân trên đảo nói riêng mà còn cho cả thế hệ trẻ nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
7
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 94 trang, ngoài phần mở đầu phần kết luận, tài liệu tham
khảo, phụ lục. Nội dung chính chia làm 3 chương:
Chương I: Khái quát về đảo Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng
Ninh.
Chương II: Văn hoá vật chất của cư dân đảo Quan Lạn huyện Vân Đồn
tỉnh Quảng Ninh.
Chương III: Văn hoá tinh thần của cư dân đảo Quan Lạn huyện Vân
Đồn tỉnh Quảng Ninh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
8
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN
TỈNH QUẢNG NINH
1.1. Vị trí địa lý - Điều kiện tự nhiên
Vân Đồn là một huyện đảo có toạ độ từ 20040‟ đến 21012‟ vĩ độ bắc và
từ 107019‟ đến 107042‟ kinh độ đông. Huyện lỵ là thị trấn Cái Rồng trên đảo
Cái Bầu cách thành phố Hạ Long gần 50 km, cách Cửa Ông 7 km. Phía bắc
giáp vùng biển huyện Tiên Yên và huyện Đầm Hà. Phía tây giáp thị xã Cẩm
Phả, ranh giới là lạch biển Cửa Ông và sông Voi Lớn. Phía đông giáp vùng
biển huyện Cô Tô. Phía nam giáp vịnh Hạ Long và vùng biển Cát Bà thuộc
Hải Phòng.
Huyện Vân Đồn có diện tích đất tự nhiên là 59.676 ha, gồm 600 hòn đảo
lớn nhỏ trong đó có hơn 20 hòn đảo có người ở lớn nhất là đảo Cái Bầu. Đảo
Vân Đồn xưa thuộc huyện Nghiêu Phong cách trung tâm huyện 125 dặm về
phía đông, “ở giữa biển cả đứng sững ở không trung hai ngọn đối nhau, một
dòng nước thông ở giữa, dựng sách gỗ, đặt cửa quan, nhân dân ở dăng hai bên
bờ đời Lý, đời Trần, thuyền buôn các nước phần nhiều đậu ở đây”.[ 12; 11].
Đảo Quan Lạn (đúng là Quang Lạn có nghĩa là quang đãng, sáng đẹp)
ngày nay nằm trong quần đảo Vân Hải thuộc huyện Vân Đồn cách trung tâm
huyện 40 km. Đảo có diện tích là 11 km2 gồm dân cư của 2 xã Quan Lạn và
Minh Châu cư trú trong 8 xóm (5 xóm chính và 3 xóm lẻ).
Đảo Quan Lạn thuộc vùng vịnh Bái Tử Long, đây là tuyến đảo phía
ngoài cùng của vịnh Bắc Bộ. Đảo Quan Lạn tương đối cách biệt với đất liền,
nằm ở vị trí tiền tiêu đối mặt với biển Đông, trở thành bức bình phong vững
vàng ngăn sóng biển che chắn cho Vân Đồn biến Vân Đồn thành nơi neo đậu
thuận tiện an toàn. Kể từ đại dương đi vào bến đầu tiên của thương cảng Vân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
9
Đồn là Cái Làng nằm sát dưới chân núi Man thuộc đảo Quan Lạn. Quan Lạn
nằm trên tuyến đường giao thông hàng hải quan trọng nối liền từ Trung Quốc,
Nhât Bản, Thái Lan, Philipin... với Việt Nam, do vậy nó đã từng là trung tâm
thương cảng Vân Đồn sầm uất và thịnh vượng.
Quan Lạn là một dải đất đẹp, trải dài theo hướng Đông Bắc- Tây Nam,
từ chân dãy núi Vân Đồn tới núi Gót, với những dãy núi cao ở phía Đông,
phía trước có 3 đỉnh núi, phía sau có 5 đỉnh núi tạo ra sự yên bình cho mảnh
đất này trước bão tố đại dương. Đảo Quan Lạn có hình củ lạc cùng với đảo
Ngọc Vừng có hình lưỡi kiếm, đảo Thừa Cống có hình ngôi sao bao quanh
đảo Cái Bàn trung tâm của thương cảng Vân Đồn xưa có hình chiếc thuyền
rộng lòng. Do địa hình đảo, nên đất có thể canh tác được rất ít (khoảng 43
mẫu) chủ yếu là đất cát thiếu nước. Tuy nhiên, Quan Lạn có nguồn tài
nguyên khá phong phú:
Trước hết là một ngư trường kín gió, nước sâu, ít lắng đọng. Trong “Đại
Nam nhất thống chí” về vùng đất Quảng Yên mục thổ sản có ghi lại những tư
liệu cho biết vùng Vân Đồn có nhiều hải sản phong phú về loài, số lượng [18,
tr47 - 49] như: Tôm he, mực, sá sùng, bào ngư, tôm rồng, hải sâm. Quan Lạn
nói riêng và Vân Đồn còn nổi tiếng với nguồn ngọc trai phong phú “ Trong
biển Vân Đồn, châu Tĩnh Yên có hạt châu... năm nào đêm trung thu có trăng
thì năm ấy có hạt châu”. [18, tr.20]
Bên cạnh đó đảo có nguồn tài nguyên rừng và đất rất lớn: rừng có nhiều
loại gỗ quý như lim, táu, nghiến đặc biệt là gỗ mần lái làm đình Quan Lạn là
thứ lâm sản đặc hữu ở đây mà không nơi nào khác có được và nhiều loại thú
quý như khỉ lông vàng, tắc kè, công…
Ngoài ra đảo Quan Lạn còn có nhiều bãi sú vẹt, có mỏ cát Vân Hải với
hàm lượng silíc cao 95%. Mỏ cát Vân Hải nằm ở đảo Cái Bàn giữa hai xã
Minh Châu và Quan Lạn trên diện tích 28 km2, có trữ lượng lớn trên 13 triệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
10
tấn, sản lượng khai thác hàng năm khoảng 20 ngàn tấn/ năm. “Cát Quan Lạn
có nhiều tầng trong đó có 2 tầng có giá trị công nghiệp lớn là tầng cát trắng và
tầng cát trắng sữa. Hai tầng này nằm lộ ngay trên mặt đất và phân bố khá
rộng. Cát Quan Lạn phần lớn là tinh thể thạch anh, có độ cứng vạch được
thép...”. [21, tr46]
Quan Lạn có hai bãi tắm thiên nhiên rất đẹp: bãi Sơn Hào dài 3km được
coi là đệ nhất bãi tắm và bãi Sau Làng (hay còn gọi là bãi Đầu Núi) dài 2km.
Những bãi tắm đẹp với cát trắng trải dài còn giữ nguyên được vẻ hoang sơ,
môi trường sinh thái chưa bị ô nhiễm là những địa điểm lý tưởng cho hoạt
động du lịch và nghỉ dưỡng.
Với những tiềm năng trên Quan Lạn có thể trở thành hòn đảo kết hợp
các loại hình kinh tế với du lịch văn hoá - lịch sử, sinh thái với quần thể vịnh
Hạ Long - Bái Tử Long.
1.2. Quan Lạn trong lịch sử
Theo kết quả nghiên cứu khảo cổ học - lịch sử thì đảo Quan Lạn nói trên
và quần đảo Vân Hải nói chung đã có con người cư trú từ rất sớm. Di tích
Hang Soi Nhụ với bộ xương hoá thạch của người Việt cổ cách đây 2.500 năm
đến 3000 năm đã chứng minh điều này.
Dưới sự thống trị của phong kiến phương Bắc, vùng đất Yên Quảng có
nhiều tên gọi khác nhau mà Quan Lạn là một bộ phận của vùng đất này. Dưới
thời Hán, Yên Quảng là huyện Yên Định. Đến thời Lương (552-557) là quận
Ninh Hải, Hoàng Châu. Đời Tuỳ (581-618) gọi là quận Ninh Việt. Đời Đường
(618-907) gọi là quận Ngọc Sơn, Lục Châu.
Bước vào thời kì tự chủ, thời Đinh, Tiền Lê, Yên Quảng được gọi là trấn
Triều Dương. Năm 980, ở đây có đồn Vân trấn giữ vùng biển Đông Bắc của
nhà Lê.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
11
Quan Lạn xưa vào đời nhà Lý được gọi là đảo Cảnh Cước với hai xã
Minh Châu và Quan Lạn. Trong quần đảo Cảnh Cước- Cái Bầu- Vân Hải có
tới 300 hòn đảo, đảo Bản Sen là đảo lớn nhất sau đó đến đảo Quan Lạn. Đảo
Quan Lạn rộng 115 km2 với chiều dài 25 km. Năm Thuận Thiên thứ 4 (1023),
nhà Lý đổi trấn Triều Dương thành châu Vĩnh An. Năm 1149, Lý Anh Tông -
đời vua thứ 6 của vương triều Lý, sau nhiều lần cho người khảo sát vùng biển
Đông Bắc đã quyết định thành lập trang Vân Đồn - thương cảng đầu tiên của
nước Việt. Sách Đại Việt sử kí toàn thư có chép “Kỷ tỵ (Đại Định) năm thứ
10 mùa xuân tháng 2 thuyền buôn ba nước Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La vào
cảng Hải Đông xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo gọi là
Vân Đồn để mua bán hàng hoá quý, dâng tiến sản vật địa phương”.
Sở dĩ, vua Lý Anh Tông chọn Vân Đồn là nơi xây dựng cảng vì Vân Đồn
là vùng có nhiều đảo đất, đảo đá ngang dọc chia cắt biển thành nhiều vũng,
luồng lạch sâu kín gió, thuyền bè neo đậu an toàn. Vân Đồn là của ngõ vào
vùng đồng bằng Bắc Bộ thuận tiện cho việc chuyên chở hàng hóa từ đất liền
ra. Vân Đồn cách đất liền 40km do đó tầu ngoại quốc chỉ được phép đỗ ở Vân
Đồn không thể vào đất liền dò xét tình hình quốc gia Đại Việt.
Năm 1226, nhà Trần đổi châu Vĩnh An thành lộ Hải Đông gồm 8 huyện
trong đó có Vân Đồn. Năm Thiệu Phong thứ 9 (1349), đổi trang Vân Đồn
thành trấn Vân Đồn, đặt các chức quan trấn, quan lộ và Sát hải sứ (quan kiểm
soát trên mặt biển) để quản lý trấn Vân Đồn và thương cảng Vân Đồn. Đồng
thời tổ chức bố phòng chặt chẽ hơn với nhiều đồn bốt như đồn thuyền Giấy,
đồn cụ Phó Nhòm, đồn Con Quy... Ngoài ra còn đặt một đội quân đóng giữ ở
Vân Đồn gọi là Bình Hải quân. Cũng từ đây việc buôn bán và giao lưu văn
hoá trở nên sầm uất hơn trước rất nhiều. Trong thời kỳ này người dân người
dân nơi đây đã anh dũng tham gia cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Nguyên - Mông làm nên chiến thắng Vân Đồn lẫy lừng trên dòng sông Mang
- dòng nước chảy giữa 2 đảo Vân Hải và Cái Bàn năm 1288.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
12
Từ 1407- 1427, dưới thời thuộc Minh, Quan Lạn là đất thuộc huyện Vân
Đồn, châu Tĩnh Yên, phủ Tân An.
Dưới thời Lê, Quan Lạn thuộc châu Vân Đồn, Thừa tuyên AnnBang.
Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi: Vân Đồn có 10 trang, 1 phường. Lê Thánh
Tông cho rằng, Vân Đồn là vùng đất xa xăm, mỗi khi biên cảnh có động,
quan quản tiếp ứng không kịp, cần đặt vệ quân riêng. Triều đình lập ra An
phủ ty khám xét nguời, Sát hải sứ kiểm soát thuyền bè và Đề Bạc ty kiểm soát
sụ buôn bán đi lại ở Vân Đồn. Cùng với chính sách ức thương của nhà Lê sơ,
hoạt động buôn bán ở Quan Lạn không còn nhộn nhịp như trước nữa.
Đến thời nhà Nguyễn, do biển lùi cát bồi không còn phù hợp cho tàu biển
ra vào nữa nên thương cảng được chuyển vào trong nội địa với phố Hiến và
Hội An thì vai trò của Vân Đồn sa sút hẳn.
Đầu thời Tự Đức (1848-1883) Quan Lạn thuộc huyện Nghiêu Phong,
tỉnh Quảng Yên. Đời Duy Tân (1907- 1916) thuộc tổng Vân Hải huyện
Hoành Bồ.
Đến gần cách mạng tháng Tám, Quan Lạn thuộc tổng Vân Hải, châu
Cẩm Phả, tỉnh Quảng Yên, phạm vi của xã xưa kia rất rộng, ngoài Quan Lạn
còn có các đảo Ngọc Vừng, Vạn Cảnh, Phượng Mao, Phượng Hoàng - trong
đó Quan Lạn được coi là trung tâm.
Năm 1948, huyện Cẩm Phả được thành lập tách khỏi thị xã Cẩm Phả,
trực thuộc đặc khu Hòn Gai. Năm 1994 đến nay, huyện Vân Đồn được thành
lập. Quan Lạn là một xã thuộc tuyến đảo của huyện Vân Đồn.
Cư dân đảo Quan Lạn hay còn gọi là Làng Cả hay Cái Làng trước đây
sống tại 5 xóm chính: Đông, Nam, Đoài, Bắc và xóm Ruộng. 1940 một bộ
phận xóm Đoài tách ra lập xóm mới gọi là xóm ngoài (xóm Đầu Mái). Ngoài
ra còn 3 xóm lẻ là Hải Yến, Sơn Hào, Tân Lập.
Hiện nay đảo Quan Lạn có hơn 650 hộ dân cư trú trên diện tích rộng 11
km
2
trong 8 thôn làng. Trong đó người Kinh chiếm 99,5%, người Hoa chiếm
0,5% dân số trên đảo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
13
1.3. Thành phần dân cư, dân tộc
Con người có mặt ở vùng biển Vân Đồn hơn một vạn năm trước. Vào
thời đại đá mới, đầu thời đại kim khí, Vân Đồn nằm trong khu vực phân bố
của văn hoá Soi Nhụ và văn hoá Hạ Long. Chủ nhân của những nền văn hoá
này là những bộ lạc trồng trọt, săn bắn, đánh cá, sống ở vùng ven biển và hải
đảo. Bước vào thời kì lịch sử, Quan Lạn tiếp tục là địa bàn cư trú của con
người. Ngoài cư dân bản địa sinh sống ở đây từ trước, người dân ở nhiều nơi
cũng tìm đến vùng đảo này để sinh cơ lập nghiệp.
Trong phạm vi nhỏ hẹp của đảo, thành phần các dân tộc cùng sinh sống
không có nhiều. Trong đó người Kinh chiếm số lượng đông nhất, người Hoa
chỉ chiếm 0,5% dân số trên đảo.
Người Kinh cư trú trên đảo Quan Lạn từ rất sớm. Họ thành lập các làng
sơ khai. Làng là đơn vị tụ cư đồng thời cũng là đơn vị tổ chức xã hội cơ sở
của người Việt. Mỗi làng có kiểu kiến trúc riêng, hầu hết dựa theo nguyên tắc
chung là có các thiết chế tập hợp người theo quan hệ huyết thống và quan hệ
láng giềng. Cùng với việc cư trú ổn định thành làng mạc, người Kinh cũng
xây dựng những mối quan hệ gia đình, dòng họ. Gia đình người Kinh là đơn
vị tụ cư nhỏ nhất và chặt chẽ nhất, là đơn vị sản xuất và tái sản xuất sức lao
động, duy trì giống nòi. Gia đình người Việt là gia đình nhỏ phụ quyền mà
biểu hiện chính là uy quyền của người cha với con cái, của người chồng đối
với vợ, đối với quyền thừa kế của con trai, nhất là con trai trưởng; là đơn vị di
truyền văn hoá, giáo dục đạo đức, đề cao chữ hiếu. Dòng họ là sự mở rộng
của gia đình, là hình thức tập hợp người theo quan hệ huyết thống, trong đó
trưởng họ có vai trò to lớn đối với dòng họ của mình.
Người Hoa vào Quan Lạn sinh sống một số ít là những quan lại cai trị
giàu sang từ thời nhà Hán, còn đa phần là khách buôn đến đây sinh cơ lập
nghiệp. Người Hoa sống trong những thôn xóm riêng. Trong thôn xóm đều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
14
có đền, chùa, đình, miếu thờ thành hoàng, miếu thờ thần đá núi.... Hình thức
gia đình phổ biến của người Hoa là gia đình phụ hệ, có nhiều thế hệ cùng
chung sống. Chủ hộ là đàn ông giữ vai trò gần như độc tôn trong các hoạt
động của gia đình. Bên cạnh những bản sắc văn hoá riêng của dân tộc, trong
quá trình sinh sống người Hoa đã tiếp nhận nhiều nét văn hoá của cư dân
bản địa và hoà nhập vào những sinh hoạt văn hoá cộng động trên đảo Quan
Lạn, hướng về những thế lực tự nhiên che chở và những nguời có công đối
với mảnh đất này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
15
Chương 2
VĂN HOÁ VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN ĐẢO QUAN LẠN
HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH
Thập niên bốn mươi của thế kỉ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày một
khái niệm về văn hoá “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hoá”. [13; ]. Con người sống trong mối quan hệ chặt
chẽ với tự nhiên. Cách thức ứng xử với môi trường tự nhiên là một thành tố
quan trọng hệ thống văn hoá. Việc con người tận dụng và ứng phó với môi
trường tự nhiên đã tạo nên những giá trị văn hoá vật chất và biến nó trở thành
phương tiện để thể hiện những giá trị tinh thần trong đời sống.
2.1. Ăn- ở- mặc- đi lại
Ăn uống là văn hoá, chính xác hơn đó là văn hoá tận dụng môi trường tự
nhiên. Nếu như cơ cấu bữa ăn của người dân trong nội đồng thể hiện dấu ấn
của truyền thống nông nghiệp lúa nước. Thì ở Quan Lạn cơ cấu bữa ăn có
nhiều khác biệt do điều kiện tự nhiên và đặc trưng nghề nghiệp quy định.
Cơm là món ăn phổ biến thường nhật của nguời dân Quan Lạn. Cư dân ở đây
thường ăn ba bữa chính trong ngày: sáng, trưa và tối. Các bữa ăn thường ngày
trong mỗi nhà xoay quanh các món ăn cơ bản là cá, thịt, trứng, rau... Trong
điều kiện kinh tế khó khăn, nếu người dân ở các vùng nông thôn thường nấu
cơm khoai, cơm sắn thì người dân ở đây lại thường ăn cháo, gần như thành
một tập quán. Các món cháo trong đời sống của người dân nơi đây phổ biến là
các loại cháo nấu từ đặc sản biển như cháo cá, cháo ngán, cháo hà... Các loại
cháo nấu từ hải sản không cầu kì lắm. Cần nhất là nguyên liệu phải tươi, đảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
16
bảo độ ngọt mát của cháo. Cách nấu cháo ở vùng hải đảo cũng rất riêng biệt.
Thường bữa tối, người ta cho gạo vào nước, đun sôi kĩ. Khi hạt gạo chín tới
thì vớt ra ủ vào lò, thành cơm, chủ yếu dành cho người già, trẻ nhỏ, người ốm
đau và trẻ mới sinh còn nhỏ. Số còn lại nấu thành cháo bình thường. Cháo
được ăn như cơm, nghĩa là có thức ăn kèm theo có thể là thịt, cá hoặc chỉ là
rau, dưa muối. Ngoài gạo tẻ dùng làm nguyên liệu nấu ăn hàng ngày còn có
gạo nếp. Gạo nếp dùng để đồ xôi như xôi trắng, xôi gấc, xôi đậu xanh... Xôi
còn là món không thể thiếu khi sắp lễ cúng và trong mâm cỗ ngày giỗ, ngày
tết và tiệc cưới.
Phổ biến trong bữa ăn của người dân Quan Lạn là các món ăn chế biến
từ hải sản. Hình thức phơi khô được áp dụng rộng rãi cho nhiều loại hải sản.
Chế biến cá khô: người dân thường mổ phanh lưng, đem phơi khô để
dành ăn dần. Cá khô cũng như các loại hải sản khô khác có thể bảo quản dài
ngày, vận chuyển được đi xa phục vụ trao đổi, buôn bán. Gặp nắng to, ngư
dân thường phơi cá ngay trên mui thuyền. Cá tươi được nắng không cần ướp
muối nhiều là một mặt hàng đắt giá.
Mực khô: Các loại mực nang, mực ống muốn chế biến thành các loại
mực khô phải chế biến ngay khi mực còn tươi nguyên. Mực được mổ phanh,
phơi trên mui thuyền. Cứ 5 kg mực tươi chế biến được 1 kg mực khô. Người
dân thường đem mực thị trường bán hoặc cất giữ trong chum, ang để ăn dần
hoặc bán dần cho tới mùa mực năm sau. Mực Quan Lạn được coi là một loại
đặc sản có giá trị, tuy con mực không to nhưng hàm lượng đạm cao, có vị
ngọt không đâu bằng.
Sá sùng khô: Sá sùng bắt về có thể xào ăn tươi, khi đem phơi khô sẽ trở
thành một loại đặc sản. Người dân dùng một đầu đũa vót nhọn xiên từ đầu lộn
ngược lại, rửa sạch ruột, chỉ lấy mình rồi đem phơi khô. Được nắng sá sùng
trắng bóng, hơi ngả vàng. Sá sùng khô có độ đạm cao. Khi ăn, rang khô, xoa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
17
cho bụng sạch cát. Cũng có thể rán giòn trong dầu mỡ. Không phải chỉ ở
Quan Lạn mới có nghề khai thác sá sùng và sử dụng nó trong đời sống song
sá sùng được coi như một sản phẩm đặc hữu của Quan Lạn.
Cà ghim (cầu gai) là một đặc sản có nhiều ở vùng đảo Vân Hải. Người
dân trong quần đảo Vân Hải nói chung và Quan Lạn nói riêng thường chế
biến thành các món ăn như mắn cà ghim và chả cà ghim. Việc chế biến mắm
cà ghim rất công phu. Ngư dân thường dùng hai que cứng cùng xâu vào một
chỗ trên thân cà ghim, tách que về hai phía làm cho hai mảnh vỏ cà ghim rời
ra. Thịt cà ghim cho vào nước ngọt từ 30- 40 phút để ruột cà ghim tách khỏi
thân. Vớt cà ghim sang một chậu nước sạch, dùng que nứa nạo sạch màng
ruột còn bẩn, đồng thời tách riêng từng mảng thân cà ghim, vớt ra rổ để thật
ráo nước, cho muối vào. Muối từ 3- 5 tháng là ăn được. Nếu ăn ngay thì giảm
nửa lượng muối, trộn thật đều cho muối tan. Để sau 3-4 ngày đem ăn. Mắm cà
ghim thường sệt, quánh. Màu vàng nâu nhạt. Mùi vị chua, ngậy béo.
Người dân tuyến đảo Vân Đồn trong đó có Quan Lạn sử dụng nhiều
món ăn chế biến từ ốc. Ốc luộc lá bưởi, ốc xào.. là những món ăn dân dã
được ưa dùng.
Do có nhiều rạn đá, bãi cát nên các loài nhuyễn thể rất phong phú. Loài
trai ngọc là loại thực phẩm quý để nấu cháo. Ngoài ra trong bữa cơm thường
ngày của ngư dân rất phổ biến món canh nấu từ những loài nhuyễn thể đánh
bắt được từ biển như con điệp, móng tay, méo mồm, phi phi, mỏ quạ, con
quéo... có thể nấu với một loại rau củ nào đó hoặc nấu riêu chua.
Trong ngày tết, đám cưới, đám giỗ, khi ma chay các gia đình ở Quan Lạn
đều sắp cỗ. Mâm cỗ to hay nhỏ, nhiều hay ít món, món đơn giản hay cầu kì,
không chỉ phụ thuộc vào khả năng của thân chủ hay vị thế của thực khách mà
còn phụ thuộc tính chất của lễ tiết. Mâm cỗ Tết thường có rất nhiều món,
mâm cỗ đám cưới cần thể hiện đầy đủ sự sang trọng, mâm cỗ đám ma thường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
18
ít món, các món ăn không cầu kỳ... Các món ăn trong mâm cỗ ở Quan Lạn
cũng mang đầy đủ đặc trưng vùng biển đảo. Hầu hết các món ăn đều chế biến
từ hải sản như mực, tôm, ngán, cua, ốc... Song do điều kiện sống còn thấp,
phần lớn người dân lại lựa chọn cách chế biến đơn giản là luộc và nướng. Các
loại hải sâm, bào ngư của đảo cũng được sử dụng trong chế biến các món ăn
cao cấp như gà tần hải sâm, gà nấu bào ngư. Đặc biệt người dân Quan Lạn có
món chả sam, sam xào chua ngọt hoặc nấu với lá lốt.
Về đồ uống: Rượu là thức uống khá phổ biến trong cộng đồng cư dân
biển đảo. Rượu có thể tự chế biến hoặc mua bán, trao đổi với các vùng khác.
Rượu làm từ gạo nếp. Gạo nếp được đem đồ xôi, ủ cho lên men rồi cất ra. Phổ
biến là rượu trắng hoặc rượu trắng ngâm các loại thuốc như ba kích, tắc kè,
thảo dược.. khai thác từ rừng Quan Lạn. Rượu ngán đặc biệt hơn cả. Rượu
ngán là rượu trắng khi uống pha với tiết con ngán. Ngán sau khi rửa sạch,
chần qua nước sôi. Ruột ngán cho vào cốc nghiền nhuyễn, cho rượu mạnh vào
khuấy nhẹ. Tiết ngán hoà tan với rượu chuyển màu hồng tươi. Rượu ngán
uống khi nóng có mùi thơm rất đặc trưng.
Cây chè và tục uống chè cũng là một thói quen lâu đời của người dân
Quan Lạn. Họ uống chè tươi, chè khô, chè ướp hoa... Đặc biệt ở vùng đất này
nổi tiếng với đặc sản chè làng Vân.
Mặc dù làm nghề chài dưới, song do điều kiện cư trú trên đảo, nên nhà ở
vẫn là hình thức cư trú chủ yếu. Nhà ở của người dân Quan Lạn mang đặc
điểm riêng của vùng miền và quan niệm chung về mái nhà của dân tộc. Để
ứng phó với môi trường vùng biển đảo khắc nghiệt, ngôi nhà được dựng kiên
cố, cao và thoáng mát. Hướng của ngôi nhà nhất thiết phải là hướng nam để
tránh cái nóng từ phía tây, bão từ phía đông, gió lạnh thổi về vào mùa rét, lại
tận dụng được gió mát thổi về từ phía nam vào mùa nóng. Cũng do địa hình
trên đảo, nên hầu hết ngôi nhà ở Quan Lạn đều có được thế phong thuỷ đẹp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
19
“tựa sơn, đạp thuỷ”. Nhà không chia thành nhiều phòng nhỏ riêng biệt. Nhà
bao giờ cũng gắn liền với đời sống tâm linh của mỗi người. Bàn thờ tổ tiên
bao giờ cũng đặt ở nơi trang trọng nhất, chính diện của ngôi nhà. Trước bàn
thờ tổ tiên, người dân thường dành làm nơi tiếp khách. Phổ biến hơn cả là nhà
3 gian đứng (không có chái) và lợp ngói âm dương. Vật liệu xây dựng chủ
yếu là tre, gỗ. Trừ hiên rộng ở mặt nhà, bên trong nhà chia thành hai phần
theo chiều dọc, trước và sau.
Bên cạnh nhà ở trên đất đảo, ngư dân cũng xem con thuyền là phương
tiện cư trú tạm thời trong những ngày đi biển. Con thuyền tuy nhỏ hẹp nhưng
cũng được bố trí chỗ ăn, chỗ ngủ khá ngăn nắp. Khoang ở đuôi thuyền là nơi
đặt bếp để nấu ăn khi đi biển. Tiếp theo là khoang dành cho ăn uống và ngủ.
Đầu mũi thuyền để ngư cụ (công cụ đánh bắt) và đặt mâm cúng khi cúng Hà
Bá và cúng gia tiên vào chiều 30 Tết.
Không chỉ là ngôi nhà tạm trên biển, con thuyền với người dân Quan
Lạn được xem là phương tiện đi lại chủ yếu là một tài sản lớn-kế sinh nhai
của mỗi gia đình. Con thuyền của Vân Đồn nói chung và Quan Lạn nói riêng
là đan bằng tre già ngoài có trát vôi, hắc ín nhựa cây. Cư dân Quan Lạn do
ngày đêm trực tiếp với sóng gió biển khơi nên dùng chủ yếu là thuyền cóc đáy
bằng, có buồm cánh dơi để đánh giã lưới. Cánh buồm là những tấm phên đan
bằng tre hoặc nứa, vừa làm mui che nắng mưa vừa làm buồm khi gặp gió thuận
nước xuôi.
Hầu hết dân số trên đảo Quan Lạn đều là người Kinh. Trang phục của họ
về cơ bản giống với nhân dân ở trong nội đồng. Do không thể tự cung cấp
nguyên liệu may mặc, cũng như không có nghề dệt nên hầu hết trang phục
của người dân đều do trao đổi mua bán, trao đổi với các khu vực khác. Phụ nữ
để tóc dài, đội nón lá già, mặc áo cánh màu nâu, xẻ tà, cổ tròn, mở ngực. Dưới
vạt của hai thân có hai túi nhỏ. Yếm là đồ mặc đặc thù của người phụ nữ với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
20
nhiều màu sắc dùng riêng cho từng dịp khác nhau: mặc màu nâu khi đi làm
vào ngày thường, yếm hồng cho dịp lễ hội. Quần có ống rộng và thẳng, đũng
sâu, cạp quần to bản. Khi mặc người ta buộc dây thắt lưng nên gọi là quần lá
toạ. Bên ngoài cạp quần có bao tượng và thắt lưng bằng vải. Chỉ trong những
ngày hội hè, lễ tết.. phụ nữ mới mặc thêm áo dài với 2 kiểu là áo 4 thân và áo
5 thân. Đàn ông cắt tóc ngắn, mặc áo cánh nhuộm nâu. Áo cánh của nam giới
chỉ khác áo của nữ giới ở độ dài, rộng. Vào ngày lễ, nhiều người mặc áo dài
đen, quần trắng hoặc nhuộm nâu. Cả nam và nữ đều đi chân đất, ít người
mang guốc dép.
2.2. Hoạt động kinh tế
2.2.1. Kinh tế ngư nghiệp
Đảo Quan Lạn có hơn 4000 dân, sinh sống bằng nhiều nghề khác nhau
như nông nghiệp, nghề vận tải biển, khai thác lâm thuỷ sản. Trong đó có 70 %
dân số làm nghề chài lưới, đánh bắt hải sản.
Nghề đánh bắt cá biển có truyền thống từ lâu đời cách đây hàng vạn
năm kể từ khi con người sinh sống trên đảo nhưng chủ yếu là đánh bắt trong
lộng và ven biển. Tại làng Quan Lạn xưa chỉ có 10 thuyền chuyên đi đánh cá
và các chủ thuyền cũng sử dụng nhân công đi đánh bắt. Quan hệ hợp tác
giữa chủ thuyền với bạn thuyền, giữa bạn thuyền với nhau là những quan hệ
chủ yếu.
Con thuyền là phương tiện đi lại, đánh bắt cá. Nó gắn liền với cuộc sống
nghề nghiệp của mỗi người dân nơi đây. Thuyền không chỉ là thứ tài sản lớn
nhất, là kế sinh nhai mà còn là ngôi nhà thứ hai trên biển của họ. Con thuyền
của Vân Đồn nói chung và Quan Lạn nói riêng là đan bằng tre già ngoài có trát
vôi, hắc ín nhựa cây. Có được thuyền gỗ là một sự thay đổi lớn vì thuyền nan
dễ bục, rất chóng hỏng, không thể đan to. Cư dân Quan Lạn do ngày đêm trực
tiếp với sóng gió biển khơi nên dùng chủ yếu là thuyền cóc đáy bằng, có buồm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
21
cánh dơi để đánh giã lưới. Cánh buồm trước đây đối với bè mảng thuyền nan
chỉ là những tấm phên đan bằng tre hoặc nứa, vừa làm mui che nắng mưa vừa
làm buồm khi gặp gió thuận nước xuôi. Đối với thuyền gỗ do điều kiện kinh tế
quá nghèo, ngư dân phải dùng các bao tải bằng cói, bao tải đay làm buồm.
Người dân Vân Hải đã sáng tạo ra nhiều hình thức khai thác thuỷ sản với
những công cụ và phương tiện đánh bắt riêng, thúc đẩy kinh tế ngư nghiệp
phát triển:
Nghề chắn đăng đặc biệt là đăng mực, người dân lấy tre nuột để ken
đăng, lấy cây làm cọc để cắm đăng. Một thuyền thường có 45 - 50 cuộn đăng
dài 800 - 1000 m hoặc có thể dài hơn, thường đăng vào ban đêm khi nước rút.
Ngư dân đã tổng kết “đăng dài, chài rộng” mới mong được nhiều cá. Nghề
chắn đăng hoạt động từ tháng 2 đến tháng 9 hàng năm.
Quan Lạn có nghề đào sá sùng từ lâu đời. Sá sùng (gọi nôm là con mồi,
chữ Hán là sâu cát) chỉ sống trong môi trường bãi cát pha có nước triều lên
xuống. Với 400 hecta bãi lầy, nghề khai thác sá sùng là nghề chính đem lại
nguồn thu lớn cho người dân Quan Lạn hiện nay. Người dân chờ khi nước
thuỷ triều cạn dùng mai đào sá sùng trong cát. Sá sùng bắt về có thể xào ăn
tươi, khi đem phơi khô sẽ trở thành một loại đặc sản có giá trị để trao đổi
mua bán.
Tại Quan Lạn, từ xưa tới nay vẫn tồn tại hình thức người giàu có thuê
người nghèo khó đào sá sùng. Thông thường người chủ đưa 3 đồng vốn để
người nghèo đong gạo hàng ngày đi đào sá sùng, chiều về thu được bao nhiêu
thì nộp cho chủ. Mỗi kg sá sùng tươi, người đào thuê được thanh toán 1 hào 2.
Cứ 15 ngày hết một chu kì con nước thì người đào thuê và chủ thanh toán với
nhau. Nếu số sá sùng đào được quy đổi vượt quá số đã nhận thì người làm
thuê được thanh toán đầy đủ và được vay tiếp số tiền mới nếu có yêu cầu. Nếu
giá trị số sá sùng chưa bằng số tiền đã vay thì chủ nợ vẫn cho người đào sá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
22
sùng vay tiếp. Tất cả các khoản vay đều không tính lãi. Điều đó đã tạo ra mối
quan hệ liên kết phụ thuộc, dựa dẫm vào nhau theo kiểu hai bên cùng có lợi.
Mối quan hệ như vậy là khá bền chặt. Người thuê có cái lợi là có được cái ăn
hàng ngày, không phải lâm vào cảnh vay lãi. Còn chủ cho vay thì có nguồn
thu ổn định lâu dài, càng có nhiều vốn, càng cho được nhiều người vay thì
nguồn thu của chủ càng lớn và càng ổn định. Song đối với người quá nghèo
thì đó chính là một cái bẫy mà họ khó lòng thoát nổi, bởi vì chắc chắn suốt
đời họ sẽ phụ thuộc vào chủ cho vay. Trên thực tế lãi suất của nghề này
không cao, nhưng do mở rộng diện cho thuê để có nguồn thu chắc chắn nên
nhiều người đã trở nên giầu có. Ví dụ như các ông Châu Văn Tất, Nguyễn
Văn Sự, Vũ Văn Dũng, Phạm Văn Khu, Phạm Văn Nhân... Những người này
cho vay tiền để mua sá sùng về làm sá sùng khô bán cho người Trung Quốc.
Theo ngư dân nơi đây, vào những năm 1939-1940, một kg sá sùng tươi giá 1
hào 2 xu, cứ 4 kg tươi được 1kg khô, giá 1kg khô từ 7 đến 8 hào. Trừ các
khoản chi phí, còn lãi được 1 hào 2 xu đến 1 hào 5 xu. Như vậy bình quân
mỗi ngày đào được 2kg sá sùng tươi thì một tháng làm việc trung bình 25
ngày sẽ đào được 50 kg tươi, bằng 12 kg khô. Như vậy với 3 đồng vốn bỏ ra,
sau một tháng người chủ lãi được từ 1 đồng đến 1 đồng rưỡi, cao hơn mức
cho vay nặng lãi.
Nghề rậu cá, rậu sam dựa vào các bãi ven đảo khi nước thuỷ chiều rút trên
các bãi cạn ngư dân dùng các loại cây nhỏ dài, dài ngắn tuỳ thuộc từng nơi nước
nông hay sâu nhưng thông thường dài 1m cắm dậu cố định để bắt cá, sam. Mỗi
khi nước rút ngư dân chỉ việc ra bắt cá, bắt sam trong “chuồng”. Ngư dân
phường Gót, phường Tân Phong xã Quan Lạn là hai phường chuyên làm nghề
rậu cá, rậu sam.
Nghề truyền thống lưới rê, chuyên đánh cá mòi. Nghề rê lưới đòi hỏi có
thuyền trọng tải từ 1 tấn trở lên, 3-4 lao động trên một thuyền. Họ dùng 5 - 6
cheo lưới dài 400- 500m/cheo, cao 3-4,5m, cỡ mắt lưới từng then 2-3cm, có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
23
giềng, có phao và chì kéo cheo lưới căng ra trong nước. Khi phát hiện có cá
ngư dân rải lưới khoanh khu vực có cá, khua động cho cá mắc vào lưới. Nghề
này hoạt động theo thời gian xuất hiện của cá mòi trên vùng vịnh từ tháng 5
đến tháng 3 năm sau.
Ngư dân Sơn Hào (Quan Lạn) phổ biến nghề thả bóng mực từ tháng 11
đến tháng 3 năm sau. Bóng được đan bằng tre, giống như chiếc lờ, hình
vuông hay tròn tuỳ ý, có một hom, phải buộc đá vào bóng khi thả và phải có
mực mồi để nhử. Thả bóng vào lúc nước cạn ròng và thả vào chính giữa
luồng nước chảy. Khi nước lên, chảy mạnh, mực theo nước lọt vào bóng
không ra được.
Đánh bắt cầu gai (cà ghim) ở những nơi nước sâu của Quan Lạn. Ngư
dân dùng móc lấy cà ghim khỏi các hang, kẽ đá. Thường khai thác vào lúc
nước ròng từ tháng 4 đến tháng 7 hàng năm.
Nghề câu tay là nghề đơn giản và phổ biến của ngư dân. Nghề câu tay
tức là chỉ ngồi trên thuyền tung câu, khi cá cắn câu thì giật giây. Câu thường
thả ở những nơi có nước sâu.
Ngoài ra còn đánh bắt bào ngư, hải sâm ở những rạn đá. Bào ngư hay
còn gọi là Cửu Khổng thuộc họ trai là một loài hải sản rất có giá trị. Bào ngư
thường sống ở dưới đáy các vũng vịnh sâu 4-5 sải nước, bám chắc vào lèn đá.
Ngư dân dùng móc và các dụng cụ đập, đẽo để tách bào ngư ra khỏi các lèn
đá khi nước cạn.
Theo luật lệ xưa, tỉnh Quảng Yên mỗi người nộp bạc 1 lạng, nộp thay tiền
6 quan, rồi xét sổ thuyền hiện tại, xem dài ngang thước, tấc, tính rõ ràng từng
khoản kê khai. Về lệ đánh thuế, thời chiếc thuyền nào, cái xà ngang ở giữa lòng
thuyền từ 5 thước đến 6 thước 9 tấc chiếu lệ thuyền trinh- thuyền vẫn chịu thuế,
mà đánh thuế. Thuyền có xà ngang 7 thước trở lên chiếu lệ thuyền đại dịch-
thuyền ban năm nào vận chuyển hàng hoá của nhà nước, mà đánh thuế. [18,
tr207-208]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
24
Trong điều kiện đất đảo, kinh tế nông nghiệp gặp khó, lương thực tự sản
xuất không đủ cung cấp cho nhu cầu của người dân, vì vậy người dân Quan
Lạn phải sống nhờ vào biển. Họ đã khai thác những ưu thế mà tự nhiên đã ban
tặng cho vùng biển này bằng những phương tiện, công cụ và bằng nhiều nghề
đánh bắt mà họ đã sáng tạo ra làm cho nền kinh tế ngư nghiệp có điều kiện
phát triển thuận lợi, hoạt động kinh tế trong khu vực ngư nghiệp diễn ra sôi
nổi hơn, tấp nập và nhộn nhịp hơn. Không thể chối cãi được rằng chính biển
đã nuôi sống người dân đảo Vân Đồn. Nhờ có biển mà họ có thực phẩm để ăn
và trao đổi với các địa phương khác để lấy lương thực. Biển đã đư đến cho họ
những đặc sản quý giá làm đồ dâng tiến cho triều đình phong kiến, làm đồ
cống nạp hoặc buôn bán với bên ngoài. Cùng với kinh tế nội, ngoại thương,
kinh tế ngư nghiệp trở thành một trong những yếu tố đưa đến sự phát triển
hưng thịnh của thương cảng Vân Đồn xưa.
2.2.2. Kinh tế thương nghiệp
Ở Quan Lạn mặc dù kinh tế nông nghiệp không phát triển được (do hạn
chế của điều kiện tự nhiên), thủ công nghiệp còn nhỏ bé, chỉ có nền kinh tế
ngư nghiệp là hoạt động tương đối tấp nập và có hiệu quả, song do vị trí địa lý
nằm trên con đường thuỷ ven vịnh Bắc Bộ, án ngữ con đường giao thông và
buôn bán giữa Việt Nam và phía Bắc nên Quan Lạn vẫn có điều kiện để phát
triển nội thương và ngoại thương, trở thành bộ phận sầm uất nhất trong
thương cảng Vân Đồn.
Trên đảo Vân Hải nay thuộc xã Quan Lạn có 3 bến thuyền chính, đó là
bến Cái Làng, bến Cống Cái và bến Con Quy.
Bến Cái Làng có nhiều ưu thế khiến người ta nghĩ rằng nơi đây xưa kia
là bến thuyền chính của hệ thống thương cảng Vân Đồn. Vì ngoài yếu tố
nguồn nước ngọt của giếng Hệu (hay còn gọi là giếng Nàng Tiên) có thể cung
cấp lượng nước thường xuyên cho khách buôn, vụng Cái Làng sâu và kín gió
thuận tiện cho các thuyền buôn neo đậu lâu ngày để bốc dỡ hàng hoá.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
25
Bến Cống Cái nằm sát chân núi Vân, nay thuộc thôn Sơn Hào tuy
không được như Cái Làng nhưng cũng khá sầm uất. “Cống Cái là lạch nước
rộng chừng hai trăm mét, dài 25 km, kẹp giữa hai triền đảo Cái Bàn và Quan
Lạn”.[21, tr47]. Nguồn nước từ giếng Rùa Vàng tuôn ra quanh năm đủ cung
cấp cho các thương khách cư trú thường xuyên.
Bến Con Quy cách vụng Cái Làng khoảng 2,5km, phía bắc đảo Hải
Vân, ngang với núi Con Quy. Đây được coi là một bến tạm cho các tàu
thuyền dừng chân trước khi vào bến chính.
2.2.2.1. Nội thương
Nội thương căn bản là sự buôn bán và trao đổi sản phẩm giữa Quan
Lạn với các địa phương khác ở vùng hải đảo này, cũng như giữa Quan Lạn
với cả nước. Chợ ở Quan Lạn không giống như chợ ở các vùng nông thôn chỉ
là những bãi rộng với những dãy lều tranh, mà là những dãy nhà (của người
buôn và làm nghề phục vụ) xây dựng liền hàng trên bờ thành dãy suốt dọc các
bến: bến Cái Làng, bến Cống Cái…(gọi theo tiếng địa phương là dược nhà).
Các dược nhà này có cấu trúc thẳng hàng cao dần lên phía trên, quay mặt về
vụng. Đó là những cửa hàng buôn bán hoặc nhà kho phục vụ cho khách buôn
trong thời gian neo đậu thuyền tại bến. Đây cũng là nơi mọi người trong vùng
và cả những lái buôn ở nơi xa tới mua bán, trao đổi sản phẩm, hàng hoá. Các
cuộc khai quật khảo cổ học đã tìm thấy những dấu tích nền nhà cổ san sát,
phân bố lớp lớp từ dưới thấp lên cao tận lưng chừng núi dọc bến Cái Làng.
Tại các chợ, người dân đảo Quan Lạn đem sản phẩm của mình đánh bắt được
từ biển như cá, hải sâm, bào ngư, ngọc trai… tới để trao đổi hoặc bán cho cư
dân các đảo khác và lấy hoặc mua về những sản phẩm cần thiết phục vụ cho
đời sống như lương thực, thực phẩm, các mặt hàng thủ công, các loại hoa quả,
chè, lụa, đồ gốm… Cư dân ở đây không có nhiều đất để sản xuất nông nghiệp,
nghề nghiệp chính của họ là đi biển đánh cá, đồng thời họ đã tham gia vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
26
hoạt động nội thương bằng nghề đi thuyền vận chuyển hàng hoá phục vụ cho
việc trao đổi hàng hoá ở trong bến cảng và rất nhiều gia đình đã mở quán trọ
phục vụ khách buôn. Vì vậy bến Cái Làng luôn tấp nập kẻ mua, người bán,
thuyền bè qua lại.
Ngoài trao đổi buôn bán trong thị trường địa phương nhỏ hẹp, ở đây đã
hình thành những luồng lưu thông buôn bán rộng rãi hơn với các địa phương
khác trong cả nước. Các lái buôn trong đất liền đã đem lương thực, đồ gốm,
hồ tiêu, đường, vàng, trầm hương, diêm tiêu.. ra vùng đảo Quan Lạn nói riêng
và Vân Đồn nói chung bán cho cư dân nơi đây hoặc bán cho thương nhân
nước ngoài và đưa về các mặt hàng nổi tiếng của Quan Lạn như lâm thổ sản
(lim, táu, nghiến, các loại hương liệu), các loại hải sản (ngọc trai, bào ngư, hải
sâm, tôm, mực..). Tại vụng Cái Làng, khảo sát thấy “hàng triệu mảnh sành sứ
có niên đại khác nhau, từ Lý- Trần- Lê, nhiều nhất là thời Lý. Những lớp sành
sứ này không chỉ có độ đậm đặc mà còn có độ dày chừng 0,60m”. [40, tr155].
Tiền được lưu hành một cách rộng rãi (các cuộc khai quật khảo cổ học đã phát
hiện ở thương cảng Vân Đồn xưa rất nhiều tiền của Việt Nam) như Đoan
Khánh thông bảo, Cảnh hưng thông bảo, Cảnh Hưng thái bảo, Cảnh Hưng
tuyền bảo, Chiêu Thống thông bảo, Thái Đức thông bảo, Quang Trung thông
bảo, Quang Trung đại bảo, Minh Mạng thông bảo.. [14; 167] và đóng vai trò
quan trọng trong đời sống nhân dân.
Việc trao đổi hàng hóa giữa cư dân Quan Lạn với các địa phương khác
trong cả nước có tác dụng thúc đẩy các hoạt động kinh tế ở đây phát triển. Do
hoạt động buôn bán, trao đổi những sản phẩm của kinh tế trong vùng đã thúc
đẩy người dân thu gom và đánh bắt cũng như nâng cao chất lượng lâm thổ
sản, hải sản… nhằm đem bán ra bên ngoài và mua lại những đồ dùng cần
thiết. Qua đó thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp phát triển
thêm một bước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
27
2.2.2.2. Ngoại thương
Cảng Vân Đồn xưa ở giữa vùng đảo Vân Hải vừa xa đất liền vừa dễ
kiểm soát lại kín gió nên suốt nhiều thế kỉ nơi đây là cảng ngoại thương quan
trọng của nước ta. Đã từng là trung tâm của thương cảng cổ Vân Đồn, sầm uất
và thịnh vượng ngay từ thế kỉ 11, đảo Quan Lạn là nơi cập đỗ của rất nhiều
thuyền buôn đến từ khắp nơi trên thế giới. Theo lịch sử hàng hải đây được coi
là vùng đất cực kỳ hiểm yếu của biển Đông. Vì thế ngay từ đầu thế kỉ 19,
người Pháp đã cho xây dựng ở đây ngọn hải đăng án ngữ nhằm xác định vị trí
và toạ độ cho các tàu buôn.
Về đường vận chuyển hàng hoá: Các nguồn hàng từ đất liền theo đường
sông Bạch Đằng, sông Chanh ra biển rồi men theo bờ biển tới Cửa Lục. Tại
Cửa Lục, các thuyền bè chuẩn bị cho chặng đường mới đi vào vùng hải đảo
Vân Đồn. Các thuyền nhổ neo từ Cửa Lục đi tiếp ra bến Cống Đông- đây là
trạm dừng chân thứ nhất ngoài hải đảo.
Từ Cống Đông, thuyền có thể đi vòng phía nam đảo Dao Trao rồi ngược
lên hướng Đông Bắc để vào bến Cái Làng hoặc qua bến Cái Làng ngược lên
bến Cống Cái (thuộc đảo Quan Lạn). Ở đây các thuyền buôn Việt Nam trao
đổi hàng hoá với tàu buôn ngoại quốc và kết thúc chuyến đi, theo đường cũ
chở hàng hoá về đất liền. Hoặc đi xa hơn buôn bán với vùng Châu Khâm,
Châu Liêm, Châu Ung thuộc Quảng Tây của Trung Quốc. Trong trường hợp
đó thì đây chỉ là một bến dừng chân. Tại Quan Lạn, các thuyền buôn sẽ lấy
nước ngọt từ giếng Huệ, giếng Rùa Vàng để dự trữ.
Từ Vân Đồn, các đoàn thuyền đi buôn xa với Trung Quốc sẽ ngược sông
Mang, sông Cổng Đồn theo dải nước trong dọc đảo Ba Mùn, hướng về phía
tây qua cửa Mô để tránh sóng lớn rồi lại men theo các đảo Vạn Mặc, Vĩnh
Thực vào bến Vạn Ninh, kết thúc hành trình trên lãnh thổ Việt Nam và tiếp
tục mở đầu chặng đường đi vào nước Trung Quốc láng giềng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
28
Căn cứ vào các thư tịch cổ thì khách hàng đến buôn bán ở thương cảng
Vân Đồn mà trung tâm là đảo Quan Lạn có Trung Quốc, Trảo Oa, Lộ Lạc,
Xiêm La, Tam Phật Tề. Trong đó đối tượng buôn bán chính là Trung Quốc.
Ngoài ra còn có Nhật Bản và Tây Ban Nha (các di chỉ khảo cổ tại vụng Cái
Làng đã tìm thấy đồng tiền Tây Ban Nha và nhiều bát, đĩa, sứ của Nhật Bản).
[19, tr229]
Hàng hoá bán ra cho khách buôn nước ngoài tại thương cảng Vân Đồn là
những hàng hoá thủ công và sản phẩm thiên nhiên: ngọc trai, ngà voi, trầm
hương, gỗ lim, cá, tôm, mực, sò, tơ lụa, đường, vàng sống... Riêng về đồ gốm,
phần lớn là bát đĩa các loại, từ đồ men ngọc thời Lý, đồ men nâu thời Trần,
cho đến đồ men cao trôn thời Lê, bên cạnh đó là những đồ gốm tráng men cao
cấp của Trung Quốc và Nhật Bản.
Mặc dù sử sách không nói rõ về phương thức mua bán ở thương cảng
Vân Đồn nói chung và Quan Lạn nói riêng. Song theo tư liệu khảo cổ, rất
nhiều loại tiền, cả tiền Việt Nam và tiền các nước khác được tìm thấy trên các
bến thuyền thuộc thương cảng, đã khẳng định việc mua bán diễn ra dưới hình
thức dùng tiền để trả.
Sự khác biệt của Vân Đồn nói chung và Quan Lạn nói riêng so với các
đơn vị hành chính khác là ở chỗ, cư dân chủ yếu không làm nông mà tập
trung vào việc khai thác hải sản và tiến hành các hoạt động thương nghiệp.
Nguồn lợi và các hoạt động giao thương quốc tế không chỉ đã góp phần
khuyến khích sự tăng trưởng kinh tế trong nước mà còn mở rộng tầm kiến văn
và tư duy chính trị khu vực của Đại Việt.
Sau thời kì hưng thịnh của thương cảng Vân Đồn (từ thế kỉ XII đến thế
kỉ XV), hoạt động thương mại ở Quan Lạn trong nhiều thế kỉ (XVI- XVIII)
không có được sự sầm uất như trước nữa. Trong thời kì Pháp thuộc, nằm
trong tình hình chung của toàn tỉnh, hoạt động thương mại ở Quan Lạn chủ
yếu mang tính chất trung chuyển và dịch vụ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
29
2.2.3. Kinh tế nông nghiệp
Nông nghiệp Quan Lạn chiếm vị trị nhỏ bé trong tỷ trọng kinh tế của cư
dân, do vậy các quan hệ kinh tế phát sinh từ nông nghiệp nhìn chung là mờ
nhạt. Do địa hình đảo, nên đất có thể canh tác được rất ít (khoảng 43 mẫu)
chủ yếu là đất cát thiếu nước. Vì thế kinh tế nông nghiệp gặp nhiều khó khăn,
lương thực tự sản xuất không đủ cung cấp cho nhu cầu của người dân. Kinh tế
nông nghiệp cũng không phải là nguồn thu chủ yếu của người dân Quan Lạn.
Ngay từ cuối thời đá mới, trong các di chỉ văn hoá Hạ Long, Quan Lạn
cũng như một số đảo khác trong vịnh Hạ Long- Bái Tử Long đã mở rộng
việc khai phá ruộng đất, đời sống con người nhờ dựa vào nông nghiệp nên
đã ổn định, đã có những khu tụ cư đông đúc. Từ khi công cụ bắng sắt ra đời,
công cuộc khai hoang lấn biển bắt đầu. Song từ xa xưa, dân ở đây đã quen
với nghề đánh cá và vận tải biển, vì vậy ruộng đất được khai phá muộn với
tiến độ chậm và lẻ tẻ. Là khu vực cửa ngõ thông thương, Quan Lạn có nhiều
điều kiện để tiếp xúc với người Trung Quốc và nhiều nước khác. Qua đó tiếp
thu được một số giống cây trồng mới như đậu, kê, ngô... và kỹ thuật canh tác
như bón phân, sản xuất theo thời vụ, theo tiết âm lịch.. cùng một số nghề thủ
công khác.
Trong kinh tế nông nghiệp, trồng trọt vẫn đóng vai trò chủ yếu. Cây
trồng chính là lúa với phương thức gieo trồng theo mùa vụ căn bản giống
trong nội đồng. Bên cạnh đó, còn trồng các loại hoa màu như ngô, khoai, đậu
và các loại rau theo mùa. Nông nghiệp kém phát triển, sản phẩm tận thu trong
trrồng trọt không có do đó chăn nuôi rất hạn chế.
Trước đây Quan Lạn có 50 mẫu ruộng được khai phá chưa lâu. Toàn bộ
số ruộng đó là sở hữu tư nhân, trong đó có 20 mẫu thuộc sở hữu của 6 người.
Con đường làm giàu của họ vẫn là phát canh thu tô và cho vay nặng lãi. Nét
khác biệt của các địa chủ phát canh thu tô ở Quan Lạn là họ cho tá điền vay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
30
không lấy lãi và giao trâu cho tá điền cày. Ruộng được giao cho tá điền trồng
cấy trong một năm với số sản phẩm là 40 kg thóc trên một sào. Như vậy mức
thu tô của địa chủ Quan Lạn là 40-50%. Chỉ có điều người tá điền phải dùng
toàn bộ số thóc để nộp tô, còn bản thân họ chỉ được hưởng số khoai. Đây
cũng là nét đặc trưng của làng đảo, ít ruộng và nguồn thóc gạo hiếm hoi. Nhìn
chung việc các chủ ruộng ở Quan Lạn cho tá điền lĩnh canh trong thời hạn ít
nhất là một năm và có phần nhân nhượng họ (như việc cho vay giống không
lãi, cấp sức kéo cho họ) là do ở đây ruộng đất không phải là nguồn sống duy
nhất của dân cư. Làm ruộng chỉ là thứ nghề phụ bên cạnh nhiều nghề chính
như vận tải biển, khai thác lâm hải sản. Do vậy sự nới rộng của các chủ ruộng
là biện pháp để cột người dân vào ruộng đất. Nhìn chung quan hệ địa chủ tá
điền không mâu thuẫn gay gắt như ở nội đồng và cũng chưa phát triển đến
mức trở thành không thể điều hoà được trong cộng đồng làng xã mà phải
nhường chỗ cho mối quan hệ giữa chủ thuyền và bạn thuyền trong nghề vận
tải và nghề đánh bắt cá; giữa người đào sá sùng và người buôn sá sùng; giữa
chủ khai thác gỗ và người làm thuê trong nghề này.
2.2.4. Kinh tế lâm nghiệp
Đảo Quan Lạn có nguồn tài nguyên rừng và đất rừng rất lớn: rừng có
nhiều loại gỗ quý như lim, táu mặt quỷ, nghiến, lát hoa đặc biệt có loài gỗ quý
chưa thấy ghi trong danh mục thực vật ở các sách đã xuất bản nhưng đã quen
thuộc trong đời sống là gỗ mần lái. Bên cạnh đó, còn có nhiều loại thú quý
(như khỉ lông vàng, tắc kè, công…), nhiều cây thuốc quý (đằng đằng, ngũ bì
gia..). Vào thời kì văn hoá Soi Nhụ và văn hoá Hạ long, nơi đây là những dải
rừng nguyên sinh cây cối ngút ngàn, rừng bao trùm các đảo thuộc Vân Đồn
nói chung và Quan Lạn nói riêng. Sự phong phú về tài nguyên “tiền rừng, bạc
biển” Quan Lạn đã trở thành hai nguồn lợi chính trong đời sống của cư dân
nơi đây.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
31
Do đó hoạt động khai thác lâm sản tương đối phát triển. Dân cư khai phá
đất đai ở những nơi bằng phẳng, gần nguồn nước lập lên các điểm tụ cư trên
đảo. Rừng lùi dần nhường chỗ cho xóm làng. Hoạt động lâm nghiệp đã đóng
góp nguồn hàng đáng kể trong lưu thông hàng hoá trên thị trường nội địa
cũng như trao đổi buôn bán với bên ngoài. Từ rất sớm, lâm sản đã được khai
thác để đem đi trao đổi buôn bán, nhất là từ khi có sự hưng thịnh của thương
cảng Vân Đồn, nhiều sản vật rừng là mặt hàng có sức hấp dẫn mạnh đối với
khách buôn các nước, đến mức các triều đình phong kiến đã phải quan tâm
quản lý bảo vệ rừng. Năm 1013, Lý Thái Tổ quy định các sưu thuế về sản vật
núi rừng. Năm 1656, nhà Lê quy định thuế lâm sản. Đồng thời, nhà Lê có luật
cấm buôn bán sản vật quý khai thác từ rừng. “Nếu đem gỗ lim, vàng sống, vỏ
quế, ngọc trai, ngà voi bán cho tàu buôn các nước thì xử biếm ba tư”. [7,
tr116 ]. Năm 1720, chúa Trịnh Cương quy định thể lệ vận chuyển lâm thổ sản
nhất định phải có giấy phép.
Từ vùng rừng núi, cư dân khai thác gỗ, tre, nứa để làm nhà, đóng thuyền,
đan buồm, làm củi đun trong sinh hoạt hàng ngày hoặc thông qua hoạt động
vận tải biển đem gỗ bán cho các chủ lò than ở đất liền hoặc bán cho dân đất
liền xây nhà cửa. Thu hái các cây thuốc, đánh bắt các loài thú đem đi trao đổi
buôn bán, mua về các mặt hàng cần thiết khác cho đời sống. Cư dân đã được
sử dụng gỗ mần lái làm cột đình Quan Lạn. Đây là thứ lâm sản đặc hữu mà
không nơi nào khác có được. Hàng trăm năm nay, ngôi đình nơi đầu sóng
ngọn gió vẫn bền vững. Xưa thiếu sắt, ngư dân còn dùng chạc cây mần lái
làm mỏ neo thuyền. Cùng với các loài hải sản, nguồn lâm sản quý khai thác
được cũng là những sản vật địa phương có giá trị dâng tiến cho triều đình
phong kiến.
2.2.5. Nghề vận tải biển
Bên cạnh hoạt động trao đổi buôn bán hàng hoá, Quan Lạn còn nhộn
nhịp bởi hoạt động vận chuyển, lưu thông hàng hoá bởi đây là trạm trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
32
chuyển, điểm dừng của hàng hoá từ nước ngoài đưa vào nội địa và từ nội địa
xuất cảng ra bên ngoài. Nghề vận tải biển ở Quan Lạn, trước Cách mạng
tháng Tám có một số người giàu là chủ của những con thuyền có trọng tải lớn
như Lưu Văn Tần, Bùi Văn Đạm, Vũ Thị Cát, Hoàng Văn Đĩnh... “Họ chuyên
cho người làng thuê với giá 30 đồng một tháng để đi mua củi bán hoặc chở
thuê. Thông thường cứ 10 người tập hợp lại với nhau thuê một thuyền gồm
một thuyền trưởng cầm lái và 9 bạn thuyền”. [36, tr55]
Họ đến những vùng rừng núi đang được khai thác để mua gỗ bán cho các
chủ lò than ở đất liền hoặc bán cho dân đất liền xây nhà cửa. Mỗi chuyến đi
dù lãi hay lỗ mọi người cùng chịu. Nếu để hỏng thuyền mọi người cùng chịu
phí tổn sửa chữa. Tại đây tính cộng đồng và hợp tác giữa những người bạn
thuyền biểu hiện khá rõ nét. Còn giữa những người bạn thuyền với chủ thuyền
là quan hệ thuê mướn.
Ngoài những chủ thuyền lớn, đa số những chiếc thuyền ở Quan Lạn đều
là thuyền nhỏ, trọng tải từ 2 đến 10 tấn. Các chủ thuyền loại này ít cho thuê
mà thường tự đem thuyền đi buôn hoặc chở thuê. Tuy nhiên mỗi chuyến họ
thường mời thêm bạn thuyền cùng đi. Lãi của mỗi chuyến đi được chia đều
cho mỗi thành viên sau khi đã trừ hết các khoản chi phí theo nguyên tắc người
có vốn, có thuyền được hưởng một tỷ lệ riêng: Người chủ thuyền tham gia
chuyến đi thì được hưởng 1,2 định suất bằng với mức mà người lái thuyền
được hưởng, những người bạn thuyền được hưởng 1 phần (1 định suất).
Trong quá trình vận chuyển, nếu trường vốn hoặc có người góp vốn, thì họ có
thể mua hàng về bán cho dân. Sau khi trả cho những người làm công một nửa
số lãi của chuyến đi, nửa còn lại chia làm 2 phần, một phần cho chủ thuyền,
phần kia chi cho những người hùn vốn theo tỷ lệ vốn mà họ đã bỏ ra.
Đội thuyền buôn Quan Lạn là một trong những đội thuyền buôn chuyên
nghiệp ở Quảng Ninh. Cũng giống như các đội thuyền buôn Trà Cổ, Tiền An,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
33
đường vận chuyển của đội thuyền buôn Quan Lạn chủ yếu đi từ Hải Phòng
đến Quảng Yên- Hạ Long- Mũi Chùa- Vạn Ninh- Đông Hưng và ngược lại.
Dần dần tuyến đường của họ đi sâu vào phía nam như Nghệ An, Huế và
ngược dòng lên vùng trung du và miền núi như Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai.
Các mặt hàng được chuyển đi là đặc sản rừng, đặc sản biển như gỗ quý, cá
mực khô, nước mắm... Về sau cùng với sự suy tàn của thương cảng Vân Đồn,
hoạt động vận tải biển ở Quan Lạn cũng bị hạn chế chỉ giới hạn trong dịch vụ
vận chuyển hàng hoá, hoạt động buôn bán kèm theo hầu như không có.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
34
Chương 3
VĂN HOÁ TINH THẦN CỦA CƯ DÂN ĐẢO QUAN LẠN
HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH
3.1 Các tục lệ chủ yếu trong đời sống
Theo từ điển tiếng Việt (nxb KHXH tr913) tục lệ có nghĩa là những điều
quy định có từ lâu đời đã trở thành thói quen trong đời sống xã hội. Trên bình
diện tục lệ của ngư dân Quan Lạn nói riêng và phong tục tập quán nói chung
vừa mang đầy đủ những đặc điểm chung thống nhất với văn hóa phong tục
của cư dân Quảng Ninh nói chung vừa lưu giữ được nhưng sắc thái riêng của
ngư dân vùng đất này.
Tục lệ rất phong phú có trong mọi lĩnh vực của xã hội song trong phạm
vi luận văn, chúng tôi chỉ nêu lên những phong tục tập quán cơ bản nhất gắn
liền với vòng đời của mỗi thế hệ người chủ yếu là: việc sinh đẻ, hôn nhân,
tang ma và lễ tết.
3.1.1. Sinh đẻ
Việc sinh con được ngư dân Quan Lạn rất coi trọng. Đây là lễ thức đầu
tiên trong vòng tiến triển của một đời người.
Vợ chồng lấy nhau không có con được xem là trường hợp đặc biệt, tục lệ
- quan điểm của xã hội phụ quyền xưa tồn tại thiết chế cổ truyền trên đảo rất
nghiêm khắc và cực đoan chỉ lên án người phụ nữ - người vợ cho đó là tội
nặng một trong bảy tội không thể tha thứ. Trong trường hợp này, người ta coi
đó là duyên số, duyên phận của hai người hoặc do phúc đức của hai bên phối
ngẫu hoặc do quả báo từ kiếp trước theo thuyết luân hồi của Phật giáo. Nếu
điều này xảy ra ngư dân phải cầu cúng, lễ bái tại đình chùa, miếu, phải tích
đức thiện để chuộc tội, giải oan nghiệp của kiếp trước. Hoặc nếu tin do ma tà
ám ảnh gây nên cảnh “hữu sinh vô dưỡng” thì phải cúng bái những hồn người
đã khuất về quấy nhiễu hoặc cúng hà bá, thủy thần. Cũng có trường hợp khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
35
cho rằng tuổi của hai người xung khắc thì phải nuôi con nuôi. Dù trong
trường hợp nào mọi điều tiếng mọi phiền muộn người vợ không sinh đẻ phải
gánh chịu.
Khi có thai người phụ nữ phải kiêng cữ rất nhiều. Việc kiêng cữ tập
trung ở các mặt: ăn uống, cử động và giao tiếp.
Về ăn uống, tránh ăn thức ăn quá bổ sợ thai to khó sinh, kiêng ăn sú, ốc
để tránh cho con bị rãi rớt, không ăn cua để tránh con nói ngang, không ăn
mực vì sợ con tăm tối, không ăn những lễ vật, đồ cúng tế tại những đám tang,
đám cưới để tránh bệnh sài.
Về cử động, tránh mọi cử động mạnh trong lúc mang thai, không chèo
thuyền, không tiễn người ra biển. Người phụ nữ cũng phải tránh xa những
cảnh tượng hãi hùng hoặc đau đớn, tránh mọi hoạt động gian tà, không kêu
gào la hét. Tuy nhiên người phụ nữ mang thai cũng càn phải có những việc
làm, cử động chân tay nhẹ nhàng để sinh nở được dễ dàng. Mặc dù không ra
biển đánh bắt nhưng họ cũng tham gia các hoạt động ngư nghiệp khác như
đào sá sùng, đánh bắt cầu gai.
Về giao tiếp, người mang thai phải ăn nói dịu dàng, cử chỉ khoan thai,
tươi cười, giữ cho tâm hồn trong sáng.
Thông thường người ta mong sinh con trai đẻ nối dõi tông đường nhưng
ngư dân Quan Lạn có tư tưởng bình đẳng nam nữ khá sâu sắc nên trong cộng
đồng ngư dân truyền nhau câu nói “có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ” hoặc
khẳng định:
“ Trai mà chi, gái mà chi
Sinh con có nghĩa, có nghì là hơn”
Sau khi sinh con người phụ nữ phải ở cữ ba ngày theo quan niệm mỗi
người có ba hồn, và bảy ngày sau nếu là con trai (nam giới có bảy vía), hoặc
chín ngày nếu là bé gái (nữ có chín vía).[36, tr500]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
36
Hết ba ngày đầu thì gia đình làm lễ cúng thần Dưỡng bà. Hết cữ gia đình
phải làm lễ đầy cữ để trả cho công lao của các bà mụ. Vì ngư dân có quan
niệm mỗi bà mụ chịu trách nhiệm nặn một bộ phận cơ thể. Lễ cúng mụ được
ngư dân Quan Lạn tuân thủ rất nghiêm túc, không một đứa trẻ nào được sinh
ra mà không có lễ cúng mụ. Lễ vật dâng cúng mụ gồm 12 suất, chia thật bằng
nhau tất cả các loại thức cúng, để mỗi bà một phần. Họ quan niệm rằng nếu
không thực hiện sự công bằng đó sẽ tạo ra sự ghanh tị giữa các bà mụ ảnh
hưởng xấu đến đứa trẻ.
Sau lễ đầy cữ là lễ đầy tháng. Với quan niệm “dương sao âm vậy” nên
khi sinh con nhất là sinh con trai, gia đình thường phải làm lễ cúng gia tiên tại
nhà và lễ cúng tại từ đường của dòng họ để trình tổ tiên báo tin mừng rằng nòi
giống họ tộc đã thêm chồi, để tổ tiên phù hộ cho đứa trẻ khỏe mạnh. Trong lễ
đầy tháng, ông bà, người thân đến mừng cháu bằng quà tặng hoặc những lời
chúc tốt đẹp. Với ngư dân nơi đây quà tặng thường là một hai chục ngán, một
vài con cá bớp…toàn những thứ quen thuộc của địa phương nhưng cần thiết
để sản phụ bồi bổ sức khỏe.[36, tr500]
Nếu dân nội đồng cùng với việc cúng gia tiên là việc cáo trình thổ công
“đệ nhất gia chi chủ” để ngài che chở cho đứa trẻ, thì ngư dân Quan Lạn lại
làm lễ cúng thủy thần tại miếu hoặc dọc bờ biển để yết trình về tên tuổi, gia
tộc của đứa trẻ để thủy thần nhận mặt, che chở cho đứa trẻ như một con dân
sẽ sinh sống khai thác trên địa phận mà thủy thần cai quản. Ngoài ra nếu gia
đình nào có điều kiện hơn, tâm linh hơn thì làm lễ cúng tại đình, đền, miếu để
các vị thần linh trong làng ban phúc cho đứa trẻ.
Nếu là bé trai thì vào ngày 11/6 Âm lịch mỗi gia đình phải có một lễ xôi
gà trình lên miếu Đức Ông để tổ chức cai đám cho đứa trẻ như báo cáo có một
nhân đinh mới sau này sẽ làm nghĩa vụ với làng. Đến đây nghi lễ đầu tiên với
một đứa trẻ mới chào đời mới thật sự hoàn tất, và chúng thực sự được công
nhận là thành viên của họ tộc làng xóm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
37
3.1.2. Cưới xin
Việc cưới xin gọi là giá thú (giá lấy chồng; thú lấy vợ). Người dân gọi đó
là việc “dựng vợ gả chồng”, “việc trăm năm”. Đây được coi là một trong ba
việc lớn của đời người: sinh đẻ (ra đời), lễ cưới (thành hôn), lễ tang (chết).
Trước khi bàn tính chuyện hôn nhân, các chàng trai phải làm lễ thành
đinh để đóng góp với làng, từ nay sẽ gánh vác việc làng cũng là mốc đánh dấu
đến tuổi tìm hiểu, giao duyên.
Trong những lần hội làng, những cuộc hát hội, hát ví giữa các thuyền, hát
đối trong đám cưới, trai gái có cơ hội giao duyên. Nhưng mọi chuyện chỉ dừng
lại ở tình yêu. Muốn thành đôi phải có cưới xin theo “lệ làng phép nước”.
Ngư dân Quan Lạn theo chế độ phụ quyền, hôn nhân cư trú bên nhà
chồng. Nhà trai cậy người mai mối, tìm vợ cho con trai mình. Ông mối (hay
bà mối) là người ăn nói hoạt bát, hiểu biết, vui vẻ, trung thực. Người mối đến
nhà gái thăm hỏi tìm hiểu gia thế, đặc biệt là về cô gái (tuổi, sức khỏe, vóc
dáng, tính tình). Sau đó giới thiệu với nhà gái về lai lịch chàng trai cả hai bên
ưng thuận việc thành thân cho đôi trẻ.
Trước khi cưới phải xem tuổi, chọn ngày tốt. Thông thường, đám cưới
tiến hành theo các bước:
- Lễ dạm (lễ chạm ngõ) còn gọi là dấp ngõ. Đại diện nhà trai cùng người
mai mối đem cau ngon đến nhà gái, chính thức trình bày ý định của mình.
Nhà gái nhận cau tức là đã ưng thuận.
- Lễ ăn hỏi: Ngư dân đảo Quan Lạn gọi là đưa trầu. Nhà trai chọn ngày
tốt mang trầu cau sang nhà gái, chính thức đặt vấn đề kết hôn giữa đôi trai gái
với hai họ. Ngư dân thường đem 100 quả cau, 100 lá trầu không và đem thêm
một số cau lẻ 1- 3- 5- 7 hoặc 9 quả. Số cau thường được lấy nguyên từ một
buồng. Ngoài ra còn có rượu, chè. Tất cả được xếp trong các quả cưới sơn son
thiếp vàng, cử các nam thanh nữ tú đội cùng các ông bà chú bác sang nhà
gái.[36, tr502]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
38
Đại diện nhà trai thường là người diện mạo đàng hoàng biết ăn nói có lời
thưa với nhà gái, đặt lễ để bố cô gái làm lễ gia tiên. Lễ xong, nhà gái khai hộp
xem lễ vật và công khai với hai họ, rồi lại lễ cho nhà trai một phần, số còn lại
chia cho anh em họ hàng, làng xóm để thông báo về việc con gái mình đã có
nơi có chốn.
Sau lễ ăn hỏi, đôi trai gái được coi như vợ chồng, hiện tượng trả lại trầu
cau rất ít xảy ra. Song nếu vì lý do nào đó, cô gái và gia đình nhà gái không
muốn tiếp tục hôn nhân thì phải trả lại trầu cau cùng toàn bộ số lễ vật mà nhà
trai mang sang. Còn nếu nhà trai chối hôn phải nói lại với nhà gái.
Cũng sau lễ ăn hỏi, người con trai phải sêu tết, tức biếu bố mẹ vợ những
thức ăn quý đầu mùa. Sêu là nghĩa vụ gần như bắt buộc. Với ngư dân Quan
Lạn, chàng rể phải sêu tết từ 2 - 3 năm mới được cưới. Trong thời gian đó,
chàng rể còn phải giúp công việc nhà cửa, làm ăn, đánh bắt cho bố mẹ vợ
tương lai.
- Lễ cưới:
Ngày cưới được gia đình, họ hàng hai bên ấn định vào một ngày tốt.
Đám cưới thường được tổ chức vào những ngày giữa tháng âm lịch trong mùa
cưới từ tháng 8 năm trước đến tháng 3 năm sau. Đó là những đêm giữa tháng
trăng sáng cá ăn tãi, dân chài thường nghỉ đánh bắt, cũng là những đêm non
nước lung linh kì ảo.
Trước ngày cưới, nhà gái phải nộp cheo cho làng, nhà trai phải nộp lễ vật
cho nhà gái. Nộp cheo cho làng thực chất là khoản tiền mà nhà trai nộp thay
cho nhà gái để được dân làng công nhận cuộc hôn nhân của đôi trai gái. Lễ
vật cho nhà gái gọi là tục thách cưới, tuỳ theo đòi hỏi của nhà gái. Song nhìn
chung gồm có: Lễ tổ thường là xôi, thủ lợn, rượu gồm 3 lễ cho ngành trưởng
của bố cô dâu, gia đình mẹ cô gái, lễ cúng gia tiên; Hiện vật cho tiệc cưới của
nhà gái gồm trầu cau, gạo nếp, gạo tẻ, rượu, chè, thuốc; Tiền cọcđể đền bù
công nuôi dưỡng của người mẹ cô dâu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
39
Ngày cưới, cả hai bên nhà trai gái đều làm cỗ mời họ hàng bạn bè làng
xóm. Nhà trai thường đón dâu bằng vài ba thuyền lớn. Sau bữa cơm chiều
đoàn thuyền nhà trai xuất hành. Dẫn đầu nhà trai là một vị cao niên trong họ
gọi là chánh sứ.
Trong đám cưới của ngư dân Quan Lạn có tục hát đám cưới. Kiểu hát
này gọi là hát cưới trên thuyền - kiểu hát có đĩa hoa, nhà trai, nhà gái lần lượt
xướng họa. Đây là lối hát điển hình trong cộng đồng dân chài ở vùng đảo Vân
Đồn.
Cuộc hát bắt đầu từ hát dậy gánh. Chánh sứ hát:
“ Bây giờ đã đến giờ thân
Nào trai nào gái nhanh chân xuống thuyền”
Hoặc gia chủ hát:
“Bây giờ đã đến giờ mùi
Xin mời chánh sứ, xin mời bù đa”.
Bù đa là ông mối hoặc bà mối. Dọc đường đi, các chàng trai vui vẻ hát
chúc mừng chú rể nhưng chủ yếu là để luyện giọng sắp xếp đội hình, dự tính
tình huống để quyết thắng trong cuộc hát đấu với nhà gái.
Thấy thuyền nhà trai tới, nhà gái thường chủ động hát hỏi:
“ Thuyền nào mà đến bến ta
Mua tơ mua lụa hay là mua duyên
Thuyền quan thì đậu bến quan
Thuyền buôn thuyền bán đậu sang bến người”
Nhà trai phải trả lời cho phải lẽ. Chẳng hạn:
“ Không dưng thuyền đến bến này
Vì tình vì nghĩa vì dây tơ hồng” [36, tr305]
Cũng có khi nhà gái hát chào trước song lại bịa ra rất nhiều lí do để gây
khó dễ bắt nhà trai phải chờ đợi. Nhà trai nài nỉ kêu mỏi gối chồn chân, ngựa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
40
đói người khát. Nhà gái cám cảnh thương tình mới hát “mở ngõ khách” mời
nhà trai vào. “Mở ngõ khách” tức là tháo bỏ dải lụa treo cao nhất và bắc cầu
nối hai họ nhà:
“ Cầu này cầu trúc cầu mai
Cầu ân cầu ái nối hai họ nhà”
“Mở ngõ khách” chỉ để mời các ông già bà cả. Sau khi mở ngõ khách
nhà gái hát mời trầu, mời nước ông chánh sứ và các vị cao tuổi nhà trai tiếp
đó hát “mở ngõ cheo” để mời chú bác cô dì - các vị trung niên.
Nhà trai hát:
“ Đường này thăm thẳm neo thông
Vì cây dây quấn nhọc lòng đến đây
Cớ sao chỉ mở ngõ ngoài
Đường quan lại gặp chông gai chặn đường
Đã là giao hết thông thương
Cớ sao rào giậu chắn đường nhà trai”
Nhà gái đáp lại
“ Xin đừng ăn nói đơn sai
Nhà quan cửa đóng then cài thâm nghiêm
Phải đâu suồng sã buông tuồng
Phải đâu bãi sú trăm đường vào ra”
Cuối cùng nhà gái cũng cởi dải lụa thứ hai- “mở ngõ cheo”. Nếu không
hát đối đáp nổi thì các vị trung niên họ nhà trai phải đưa tiền phong bao thay
lời hát cho nhà gái và hát tượng trưng:
“ Ngày vui bác cũng mừng cho
Một trăm nén bạc, mươi bồ gạo thơm
Dì cho mười mẫu ruộng liền
Một trăm sải lưới, một thuyền gỗ lim”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
41
Hát đám cưới hay nhất vẫn là hát ngõ hoa. Nhà trai là khách mua hoa,
nhà gái là người bán hoa. Ẩn sau những lời hỏi giá và mặc cả giằng co là
tình yêu đôi lứa tha thiết đằm thắm đậm tính nhân văn. Chẳng hạn các chàng
trai hát:
“ Hỡi nàng thấp thoáng ngõ hoa
Hoa còn tươi tốt hay là hoa ôi?
Mua hoa xin hỏi thực thà
Hoa còn phong nhuỵ hay là ong châm?
Mấy cơn gió bắc mưa dầm
Hoa tàn nhị rữa mấy lần hỡi hoa?
Hoa còn tươi tốt trên cây
Hay là hoa đã vào tay ai cầm?
Mua hoa những sợ mua nhầm
Tiếc công lại phí tiền trăm người cười! ”
Bên nhà gái, cô dâu hoặc bạn bè hát đáp lại, khiêm nhường mà cứng rắn:
“Cũng thân cỏ nội hoa đồng
Liệu chàng có kén một bông hoa hèn?
Hoa thơm thoang thoảng mà bền
Còn hơn xanh đỏ tím vàng mà hôi
Hoa này ngan ngát chàng ơi
Hoa bền còn ở tay người cắm hoa!
Cho dù bão táp mưa sa
Che mưa che nắng biết là mấy công
Cho dù ong bướm lượn vòng
Nhuỵ còn phong kín ở trong hoa này!
Hoa thơm hái tự vườn nhà
Xin đừng chuộng rẻ mua hoa giữa đường” [36, tr306-307]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
42
Trong hát ngõ hoa thường có hát đố hát giảng. Bắt đầu là hỏi về các loại
hoa, cách trồng hoa rồi miên man dẫn đến hỏi nhà, hỏi họ hàng, hỏi về thuyền
cá, về nghề trên cạn dưới nước, về kiến thức thiên văn địa lí, về lịch sử văn
chương về truyện Kiều và truyện thơ. Những câu hát đố rất giàu chất trí tuệ
nếu không biết trước hoặc được bày cách thì rất dễ thua.
“ Đến đây hỏi khách tương phùng
Con gì một cánh bay cùng nước non”
Lời giải là
“ Tương phùng nhắn bạn tương tri
Con thuyền một cánh buồm đi tít trời”
Và hỏi lại:
“ Nơi nào mà cao tít trời
Mà sâu hơn biển mà dài hơn tơ”
Lời giải là:
“ Trán người thì cao hơn trời
Lòng sâu hơn biển, đường dài hơn tơ” [42, 5]
Say sưa đối đáp trắng đêm, cuộc hát lại quay về chuyện mua hoa, bán
hoa. Nhà trai là người mua hoa. Nhà gái là người bán hoa. Ẩn giấu trong
những lời ca tiếng hát mặc cả giằng co là tình yêu đôi lứa tha thiết, mặn mà
mang đậm tính nhân văn. Một cô gái bưng ra một mâm hoa tươi, đủ loại hoa
trong vườn trên rừng. Một cô gái khác dùng đũa dài bằng gỗ mần lái gắp từng
bông hoa bỏ vào vạt áo dài chàng trai và hát:
“ Chàng nâng vạt áo chàng ơi
Hoa rầu hoa rập tủi người bán hoa...”
Hoặc, các cô gái lần lượt bán hoa cho từng người, mỗi bông hoa kèm
theo một câu hát:
“ Hoa này đẹp cửa đẹp nhà
Hoa này thơm cả đường ra lối vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
43
Hoa này chàng hãm chè Tàu
Hoa này chàng cắm bên lầu ngâm thơ”
“ Hoa này giữ trọn lời thề
Thuỷ chung chỉ quyết một bề thuỷ chung”
“ Hoa này nên nghĩa vợ chồng
Nên tình nên nghĩa ở trong hoa này”[36, tr307]
Tiếp đó là hát than hoa. Lời hát than hoa muôn vẻ thường bắt đầu bằng
câu: “hoa hời hoa hỡi là hoa” và gửi vào đó niềm xót xa phải xa mẹ xa cha
bước sang nhà người, lênh đênh vô định. Đây là phần hát cảm động nhất:
“ Hoa hời hoa hỡi là hoa
Tiếc công hôm sớm mẹ cha vun trồng
Từ đây vườn trống nhà không
Hoa trôi hoa giạt hãi hùng nắng mưa...”
Hay:
“ Hoa hời hoa hỡi là hoa
Từ đây hoa có còn là tốt tươi
Hoa thơm trong vạt áo người
Rồi ra héo hắt rã rời cánh hoa
Mai ngày hương sắc phôi pha
Hoa tàn nhị rữa kiếp hoa lìa cành
Phải tay vùi dập phũ phàng
Ong chê bướm chán bẽ bàng đời hoa...”
Hoặc:
“ Hoa hời hoa hỡi là hoa
Hôm nay chàng quý mai là còn yêu
Hôm ngay ngon ngọt trăm điều
Mai ngày hoa khác làm xiêu lòng chàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
44
Hôm nay tay đón tay nâng
Mai ngày chàng giẫm bên đường chàng đi” [36, tr307]
Trước những lời đắn đo xúc động day dứt ấy, chàng rể hoặc phù rể đáp
lại an ủi lòng cô gái bằng những lời thề nguyện chân thành, tốt đẹp:
“ Trăm năm một cuộc tình duyên
Phải đâu thăm ván bán thuyền cho qua
Một lời đã nói cùng ta
Đâu như bãi sú vào ra trăm đường
Đã thương thì một lòng thương
Nào như tép lẫn vãi đường vịt ăn”
Hoặc:
“ Đã thề thắm thiết với hoa
Bể sâu núi dựng với là trăng soi
Yêu mình lắm lắm mình ơi
Đôi ta ra lộng vào khơi chung tình” [36, tr308]
Bên cạnh hát mua hoa, cá biệt ở một số đám cưới còn hát mua chim để
mong loan phượng có đôi, mong chim được nuôi gạo trắng nước trong. Và
cũng như hát than hoa, cuối đám cưới là hát than cá chậu chim lồng.
Nhiều cuộc hát đám cưới kéo dài tròn ba đêm mới đón cô dâu về. Trước
khi sang thuyền nhà trai, cô dâu bao giờ cũng hát lạy ông bà cha me, từ biệt
người thân bằng giọng than xúc động.
Trên đường đón dâu về hai họ vẫn hát đối đáp.
Đến nhà trai, đại diện nhà trai vào nhà trước, nhà gái theo sau. Nhà trai cử
hai người phụ nữ có chồng con, khoẻ mạnh, biết làm ăn ra đón. Mẹ chồng
không bao giờ ra đón con dâu. Chú rể và cô dâu làm lễ trước bàn thờ gia tiên,
rồi thực hiện lễ tế tơ hồng. Một người đàn ông khỏe mạnh, song tuyền, đông
con cháu đặt một mâm cỗ giữa sân cỗ gồm: gà, xôi, 100 miếng cau. Hai vợ
chồng quỳ trước bàn thờ. Người đàn ông làm chủ lễ đọc văn tế. Tế xong người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
45
chồng bưng chén rượu mời vợ uống, vợ bưng đĩa cau mời chồng, còn lễ vật thì
biếu người tế tơ hồng.
Sau lễ tế tơ hồng là tiệc mừng của nhà trai. Họ hàng và khách mời của
nhà trai lại hát chúc gia chủ, chúc đôi vợ chồng trẻ trăm năm hạnh phúc.
Có thể thấy tục hát cưới trong đám cưới của ngư dân Quan Lạn có tính
chất như tục hát giao duyên. Hát cưới không chỉ để chúc mừng cô dâu, chú rể
mà còn là nơi gặp gỡ, giao lưu của trai gái trong cộng đồng. Qua những câu
hát, lời đối đáp thử tài nhau mà trai gái nên duyên vợ chồng.
3.1.3. Tang ma
Ở bất kỳ cộng đồng người nào, hoạt động tang ma cũng đóng vai trò rất
quan trọng trong đời sống tín ngưỡng của tộc người. Quan sát hoạt động tang
ma ta có thể nhìn nhận nội dung ý thức tâm linh của con người. Là ngư dân
song ở Quan Lạn do đặc điểm cư trú trên đất đảo rộng lớn, hơn nữa từ sớm đã
có sự giao lưu văn hoá với đất liền nên hoạt động tang ma của ngư dân ở đây
không đặc trưng như các làng vạn chài sống lênh đênh trên thuyền khi chết
gửi xác trên đảo hoang lễ tang chỉ diễn ra trong phạm vi dòng tộc thậm chí chỉ
có những người trong gia đình. Song về cơ bản một đám ma của ngư dân
Quan Lạn cũng tuân theo các bước của nhân dân nội đồng. Cụ thể là:
- Lúc hấp hối: Với quan niệm hoà quyện âm dương, lên lúc hấp hối, con
cháu kiêng ra gian giữa, đầu quay về hướng Đông để đón sinh khí từ phía mặt
trời cho người chết. Sau khi tắc thở, con cháu đặt thi thể người chết xuống
chiếu trải dưới đất từ 2 - 3 phút xong lại đặt lên giường để tiếp sinh khí cho
người chết, rồi đậy mặt kín đáo.
- Gọi vía cho người chết thường là con trai trưởng gọi. Việc gọi vía của
ngư dân rất đơn giản, không có vai trò của thầy cúng.
- Gội và lau thi thể bằng nước nóng, cắt hết móng chân móng tay, móng
chân móng tay phải gói riêng khi nhập quan thì phải để đúng theo thứ tự phải trái.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
46
- Lễ phạm hàm: Ngư dân quan niệm người chết ai cùng bị hành tội dưới
âm phủ nếu không chịu đựng được mà nói sai thì làm hại người sống, cũng là
để người chết trả tiền thuyền đò trên đường sang thế giới bên kia, nên người
cháu đặt một đồng tiền đã mài sáng rửa sạch cùng hạt gạo đã vo để khô (nam
7 hạt, nữ 9 hạt) vào mồm người chết.
- Liệm: Thường xem chọn giờ tốt để liệm. Vải tốt hay xấu tuỳ từng điều
kiện gia đình.
- Lễ nhập quan: Sau khi liệm xong thì tiến hành nhập quan, sau nhập
quan con cháu khiêng linh cữu ra đặt ở gian giữa đầu quay vào trong nhà.
- Về phát tang: Con cháu làm lễ thành phục (mặc áo tang). Con trai đội
rế trên đầu, buộc đai bằng dây chuối ở ngang lưng đứng phục tang. Nếu
không có con trai thì con rể phải đứng phục tang nhưng không chống gậy. Sau
lễ phát tang, tang chủ cùng gia tộc cử người am hiểu lễ nghi làm chủ lễ, chủ
trì công việc hộ tang cử người tiếp khách đến phúng viếng. Con cháu của
người quá cố phải ngậm khăn tang vào mồm theo sau người vào phúng viếng.
- Lễ đưa đám: (Lễ phát dẫn) Việc đào huyệt cho người chết phải do
người trong dòng họ đảm nhiệm, còn việc khiêng linh cữu người chết do 8
người trong xóm làm cùng có thêm hai người rước trống và đánh trống.
Trước khi đưa đám, tang chủ và gia tộc phải rước ảnh người quá cố sang
nhà thờ họ cáo yết tổ tiên, sau lễ an táng rước về làm lễ 3 ngày. Việc này gây
tốn kém nhiều về sau vì khi có người chết mọi người trong xóm đều tự giác
đến hộ tang do đó chôn chất xong tang chủ bắt buộc phải làm cơm mời mọi
người trong xóm. Ở Quan Lạn có hai phường lo việc hiếu. Từ xưa, khi có
người chết thì xóm gốc của người đó lo tang. Về sau, có những người giàu đã
mời làng đi đưa tang để được tiếng. Làng ở đây là các vị tân cựu, chức sắc,
chức dịch dần dần hình thành một hội tư văn để lo tang lễ cho những người
giàu có hoặc những người có địa vị trong làng. Tất nhiên người ta vẫn mời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
47
xóm đi đưa tang. Cung cách như vậy đã tạo ra sự cách biệt thậm chí đối lập
với người nghèo. Đầu thế kỉ XX, Hội nghĩa hợp đã được tổ chức gồm những
người nghèo không có chức vị gì trong làng tập hợp nhau lại để làm việc
nghĩa. Hội có hội trưởng là người phải trên 40 tuổi, am hiểu phong tục, biết tổ
chức và có uy tín với mọi người. Hội trưởng mỗi năm bầu một lần vào ngày 6
tháng Giêng. Mỗi hội viên tham gia hội phải đóng tiền chân là một đồng,
hằng năm đóng phí táng là một hào. Tất cả số tiền này đều do hội truởng giữ
và cho vay lãi. Hội trưởng cùng với xóm trưởng đứng ra tổ chức tang lễ.
Sau lễ 3 ngày là lễ tuần đầu, 100 ngày, giỗ đầu và cải táng (có thể từ 3 -
5 năm), ngư dân Quan Lạn không tổ chức 49 ngày.[36, tr506]
Đó là với trường hợp chết bình thường ( người chết ốm, hay già chết),
còn những người chết mất xác hay chết đuối trên biển thì phải chiêu hồn lập
mộ. Những đám ma này thường phức tạp hơn ở phần nghi lễ nhưng so với
dân nội đồng thì tiến bộ hơn nhiều vì không có vai trò của thầy phù thuỷ, thầy
cúng. Trước hết gia quyến của người xấu số phải làm lễ cúng ngoài biển để
cầu xin thần biển, vua hà bá bao bọc lấy thân xác người thân của họ (với
trường hợp chết mất xác), và thả hồn người chết để họ trở về với người thân.
Sau đó gia quyến phải làm lễ gọi hồn, bắc cầu cho người chết trở về.
Đối với người chết đuối mà tìm thấy xác thì khi nhập quan với quan
niệm "sét đánh không có lá thiên, chết đuối không có lá địa" quan tài của
người chết đuối không có lá địa mà thay bằng tấm lót ken ở sàn bằng tre, nứa.
Đặc biệt với người chết mất xác thì gia quyến phải tạo ra một hình người giả
xương bằng thân cây dâu, đầu bằng vỏ dừa, dài khoảng 2 thước (80 cm) đặt
trong quan tài gỗ, lấy máu của con hoặc anh em người quá cố phết vào hình
giả, gọi hồn rồi đem chôn, lập mộ giả.
Như vậy hoạt động tang ma của ngư dân đảo Quan Lạn không có sự
rườm rà, mê tín của các hoạt động đồng bóng, phù thuỷ, không mời thầy cúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
48
và không có người làm thầy cúng. Đây là một đặc điểm rất tiến bộ trong văn
hoá tâm linh của ngư dân vùng đất này.
3.1.4. Một số lễ tết và lễ hội trong năm
Nếu như hoạt động nông nghiệp lúa nước mang tính thời vụ cao, thời
gian nông nhàn kéo dài và liên tục nên cư dân nông nghiệp có nhiều lễ tết hội
hè. Ngược lại, do khí hậu nhiệt đới cho phép khai thác vùng biển quanh năm
và đặc trưng của nghề đánh bắt phụ thuộc vào con nước, nên thời gian rỗi
trong ngư dân không nhiều và ít cố định vì vậy số lượng lễ tiết của ngư dân
cũng ít hơn và đơn giản hơn.
- Tết Nguyên Đán là tết to nhất trong năm, vì nó kết thúc một năm âm
lịch theo sự biến chuyển của thời tiết, “bốn mùa xuân lại đông qua”. Ở nhiều
nơi Tết được bắt đầu bằng tết ông Táo, còn ở Quan Lạn ngư dân không ăn tết
ông Táo. Chiều 30 Tết, các gia đình làm lễ đón gia tiên về ăn tết cùng con
cháu. Mỗi gia đình làm từ 2 - 4 chiếc thuyền không mui bằng bẹ chuối. Trên
mỗi thuyền cắm 6 lá cờ đuôi nheo bằng giấy xanh đỏ. Trên mặt thuyền trải
một tờ giấy đỏ, đặt một dúm gạo, cắm ba nén hương, tổ chức cúng gia tiên
tiễn biệt năm cũ, đón năm mới. Đến mùng 4 hoặc mùng 6, tuỳ từng gia đình
làm lễ hoá vàng đưa tổ tiên về thế giới bên kia.
Sáng mồng 1 Tết, các gia đình làm lễ gia tiên. Sau bữa cơm đầu năm,
mọi người đi chúc tết anh em họ tộc, xóm làng, bạn bè thân quen và đi lễ bái
cầu lộc ở cửa đình, chùa, miếu, đền.
Trong ba ngày Tết, ngư dân có một số kiêng kị bắt buộc: Người có tang
từ một năm trở lên cũng phải đi thăm hỏi chúc Tết những người cần thiết
trong ngày 30 Tết, hầu hết ngư dân kiêng tiếp người có tang trong 3 ngày Tết.
Không đánh mắng trẻ con, không nói tục, không to tiếng với nhau. Đặc biệt
người dân chài tuân thủ nghiêm túc việc kiêng xin lửa, dầu, nước mắm, muối,
không vay gạo vay tiền của nhau. Tục kiêng này cũng được thực hiện vào
ngày đầu con nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
49
- Ngư dân Quan Lạn không có tục ăn Tết mồng 3 tháng 3. Thay vào đó,
tổ chức tảo mộ, giỗ tổ được tiến hành vào đầu tháng Chạp.
- Rằm tháng 7, rằm tháng 8, 10 - 10 ngư dân ít tổ chức ăn uống. Chỉ có
Tết 5 - 5 là được chú ý. Ngư dân đi hái các loại lá đun nấu uống nước để trừ
“viêm nhiệt”, ăn các loại quả (mận, đào, lê) gọi là “giết sâu bọ”. Trẻ con
nhuộm móng tay móng chân bằng lá đỏ từ đêm mồng 4. Sáng ngày mồng 5,
trẻ con phải đeo phù - một vòng cổ gồm các hạt long não, hạt cườm luồn vào
một sợi chỉ ngũ sắc, khoảng 9h sáng ra biển tắm trong khoảng một tiếng đồng
hồ rồi thả phù cũ xuống biển về nhà đeo phù mới. Làm như vậy trẻ con sẽ
không bị quỷ thần quấy rầy. [42, 8]
- Lễ hội cầu gió hay được gọi là lễ đăng quang, lễ thành tâm diễn ra vào
ngày 14, 15 tháng 3 âm lịch, là một trong những lễ hội đặc trưng của ngư dân
Quan Lạn.
Theo truyền thuyết trong ngư dân kể lại vào năm 1225 nhà Lý mất ngôi,
chuyển sang nhà Trần. Trần Thủ Độ đã tìm mọi cách dùng thủ đoạn để tiêu
diệt nhà Lý phòng hậu hoạ về sau. Để tránh nạn diệt thân, mong tìm đường
khôi phục vương triều cũ, Lý Long Tường - một trong ba tam công của nhà
Lý đã đem đồ tế cúng của tổ tiên và tuỳ tùng đến thương cảng Vân Đồn để ra
nước ngoài.[423, 2]
Lúc này nhà Trần mới nắm quyền, một số vùng biên đảo xa xôi chưa thể
quản lý hết trong đó có Vân Đồn. Hơn nữa, Vân Đồn lại la mảnh đất mang ân
công của nhà Lý- triều đại đã lập ra thương cảng đẩu tiên của đất Việt ở nơi
đây, đem lại cho mảnh đất này sự sầm uất. Do đó, Vân Đồn được coi là mảnh
đất hết sức an toàn cho nhà Lý. Lý Long Tường đã cho người đóng thuyền
theo kiều Nam Tống, treo cờ Nam Tống giăng buồm ra nước ngoài lánh nạn.
Lúc bấy giờ là tháng 3 âm lịch, theo quan niệm của ngư dân là tháng
gió ma gió quỷ không thuận lợi cho việc ra khơi, vượt biển về phía Bắc. Để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
50
đền đáp công ơn nhà Lý, ngư dân đã cùng nhau họp bàn, lập đền thờ để cầu
gió Tây Nam, cầu đủ gió để căng buồm cho Lý Long Tường đi phương Bắc
an toàn.
Cứ mỗi năm, đến ngày tổ chức lễ hội, ngư dân Quan Lạn lại đắp những
ngôi sao to bằng đất như Thần Vũ, Nhật Định- những ngôi sao mang dấu hiệu
của gió Tây Nam như mong muốn của ngư dân. Công việc này được làm vào
ngày 14 tháng 3 âm lịch. Đảm đương công việc này là những trai tráng vạm
vỡ, khỏe mạnh đại diện cho xóm, thôn trong vùng đất thương cảng Vân Đồn
xưa. Tất cả mọi người cùng chung sức làm chung ngôi sao không có bất cứ sự
phân chia nào. điều đó thể hiện sự biết ơn của cả cộng đồng ngư dân ở đây đối
với nhà Lý.
Sáng ngày 15 tháng 3 âm lịch thì làm lễ tế. Người chủ trì lễ tế trước đây
thường do các trưởng giáp tiến hành. Đàn tế lập quay về hướng Nam - nơi
ngọn nguồn của cơn gió. Đặc biệt trong nghi lễ tế, có hình ảnh một người con
gái vừa khóc, vừa đốt gạo đốt muối cầu xin trời đất sự bình an. Theo quan
niệm của ngư dân, thì hình ảnh người con gái đó là mối tình của Lý Long
Tường, khóc tiễn biệt lúc ông ra đi. Mối tình đấy gắn liền với giếng Hệu -
giếng ngọc và nước mắt, nơi diễn ra sự chia li, cũng là nơi chứng kiến nỗi sầu
khổ của cô gái.[42; 2]
Sau lễ tế và nghi thức xuất thuyền, là phần hội được tổ chức với nhiều
trò chơi diễn tả lại quá trình Lý Long Tường chuẩn bị cho sự ra đi phương
Bắc của mình như thi ghép ván thuyền, thi giăng buồm nhanh...giữa các xóm,
và các hoạt động văn nghệ khác cũng được tổ chức.
- Lễ hội Vân Đồn
Lễ hội truyền thống Vân Đồn có nguồn gốc từ hội làng của người dân
đảo Quan Lạn. Lễ hội vừa để cầu mùa cho ngư dân vùng biển, vừa để kỉ niệm
chiến thắng lừng lẫy trên sông Mang lịch sử năm 1288 đánh thắng giặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
51
Nguyên- Mông của danh tướng Trần Khánh Dư. Chiến thắng lừng lẫy đó diễn
ra vào tháng 2 năm 1288 song lễ hội được tổ chức vào ngày 16 đến 18/6 âm
lịch hàng năm. Vì ngư dân nơi đây lấy ngày vua ban thưởng sau khi trận Bạch
Đằng kết thúc, là ngày kỉ niệm chiến thắng.
Xã đảo Quan Lạn có quần thể di tích, đình, chùa, miếu, nghè tồn tại rất
lâu đời. Các di tích này gắn liền với lễ hội Vân Đồn, riêng ngôi đình là nơi
trung tâm để tổ chức lễ hội và đua thuyền ở vùng biển trước cửa đình.
Theo các cụ già kể lại, hội làng trước kia bắt đầu từ ngày 10/6 âm lịch là
ngày lễ khoá làng. Từ ngày hôm đó dân trong làng nội bất xuất ngoại bất
nhập, không được đi hải sản và làm ăn ở xa. Còn người con đi xa quê hương
và khách thập phương được vào làng dự lễ hội.
Tư ngày 11/6 âm lịch các giáp tổ chức cai đám cho các bé trai sinh ra từ
hội năm ngoái đến hội năm nay. Mỗi bé trai phải có một lễ xôi gà trình ở miếu
Đức ông. Sau đó về làng hưởng lộc.
Ngày 13/6 các giáp Đông Nam Văn, Đoài Bắc Võ tổ chức họp bàn đám
trình làng, thống kê lại các xuất đinh của từng giáp. Mỗi xuất đinh phải chuẩn
bị một ván xôi gà. Ông giáp chính trong năm phải chuẩn bị lễ vật: một con
lợn nặng 80 kg, một mâm xôi gà có chiếc thủ lợn dâng lên cúng tại miếu Đức
Ông. Sau khi nghi thức xong từng giáp, mời chức sắc trong làng đến thụ lộc.
Ngày 16/6 nhân dân, quân tướng của 2 giáp tập trung tại đình rước kiệu
Long Đình về làng, rước bài vị của Trần Khánh Dư - được nhân dân tôn làm
Thành Hoàng làng từ nghè về đình dự hội. Chủ tế dâng lên bàn thờ mẫu gồm:
rượu, xôi, gà, hoa quả, vàng hương làm lễ cầu an cầu phúc cho dân làng. Khi
làm lễ xong xin đài âm dương.
Ngày 17/6, tổ chức lễ hội và tế lễ truyền thống tại miếu họ Phạm.
Ngày 18/6 là ngày lễ hội chính. Từ 8h sáng hai bên giáp văn, giáp võ cả
tướng sĩ xếp hàng chỉnh tề tiến về phía miếu Đức Ông. Tướng 2 giáp vào làm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
52
lễ xin chân nhang, nhận thuyền rồng, binh khí, quần áo, lọng che và mái chèo.
Sau đó đưa quân về trại bản doanh, làm lễ tân binh, sắp xếp vị trí trên chiến
thuyền đua và nghệ thuật chiến lược đua để thắng, cho nghỉ ngơi bồi dưỡng
quân tướng đủ sức chuẩn bị cho cuộc đua của 2 giáp vào buổi chiều.
Đến 15-16 giờ chiều khi nước thuỷ triều lên tới cửa đình, hai bên văn võ
với trang phục quân tướng nghiêm trang chạy 3 vòng từ đại bản doanh ra miếu,
từ miếu về đại bản doanh tượng trưng cho 3 lần đánh thắng quân Nguyên
Mông. Tướng có lọng che, đầu độ mũ cánh chuồn, cầm kiếm trận. Quân lính
bên võ mặc áo trắng quần xanh, chân quấn xà cạp xanh. Lính bên võ mặc quần
áo xám hoặc đen, đầu chít khăn. Hai bên vác mái chèo chạy trong cờ giong,
trống giục, gặp nhau tại miếu, sau đó xếp thành 4 hàng trước cửa miếu chuẩn bị
nghi thức lễ hội.
Tuỳ theo con nước sớm hay muộn để nghi thức lễ hội sớm khai mạc. Sau
nghi thức lễ hội chèo bơi truyền thống sẽ bắt đầu. Ông Công, hương trưởng
cùng 2 tướng bên văn, bên võ vào miếu Đức Ông làm lễ xuất quân. Khi hiệu
lệnh trống nổi lên, tướng quân 2 bên tiến về thuyền của mình, bơi diễu 3 lần
tại vùng biển trước cửa đình, sau đó về chầu tại cửa đình làm nghi thức rao
hịch trước khi vào cuộc đua.
Nghi thức rao hịch là nghi thức uy linh nhất trong hội chèo bơi của lễ hội
Vân Đồn. Lời rao hịch của tướng bên văn bên võ khác nhau, do ban tổ chức
phân công. Ví dụ bên văn nói: “ Bớ trai Vân Đồn ta kia, ở đây là non sông đất
Việt nhé, sương nắng ngàn năm oai hùng nhé, ta đứng đây đất đảo anh hùng
ôn lại chiến công oai hùng nhé.”
Bên võ nói: “ Núi Liễu Mai trống thúc quân reo nhé, sông Mang xưa nổi
sóng cuồn cuộn...”[42, 1]
Lời rao và ngữ điệu của 2 bên văn võ thường khác nhau. Bên văn thường
thể hiện chiều sâu lịch sử, ngữ điệu mềm mại. Ngược lại lời rao hịch của bên
võ thường rắn chắc, rõ ràng và khoẻ khoắn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
53
Cũng có lúc lời rao hịch còn là tiếng nói tri ân tôn vinh công lao của
những người đi trước: “bờ giáp Đông Nam Văn ta kia, năm nay có 12 tháng
(năm nhuận thì có 13 tháng). Trên thì đông đám thờ thần ngũ vị đại vương
nhé. Người đã cho dân làng ta sức khoẻ để trẻ già bình an, dân làng cường
thịnh”. [32, tr107]
Dứt lời rao hịch, hai chiếc thuyền đua của 2 bên văn võ về điểm xuất
phát. Thuyền đua là thuyền đi biển trọng tải 5 - 6 tấn rộng và sâu lòng, hạ
buồm trang trí đầu vồng ở mũi thuyền chạy đua vòng 1,5 km, tại đích có 2 cây
cờ hội và một dây vải đỏ căng ngang. Khi phát lệnh đua, thuyền của 2 giáp thi
nhau phất cờ, đánh chiêng trống, tiếng còi, tiếng hò hét của tướng quân, tiếng
mái chèo khua làm vang động cả vùng biển đảo Cái Làng.
Ngày 19/6 là ngày nghỉ ngơi của các tướng Giáp Văn, Giáp Võ, chuẩn bị
lễ vật cho hôm sau và khao quân.
Ngày 20/6 là ngày làm lễ cầu bình yên cho tướng quân 2 bên. Họ chuẩn
bị mâm cỗ, đưa thuyền rồng bằng giấy ra đình làm nghi thức tâm linh, rồi
mang về cuối làng hoá vàng với mục đích dâng thuyền rồng cho quân tướng
nhà Trần năm xưa.
Cuối cùng ngư dân làm lễ rước bài vị thành hoàng làng trở về nghè, kết
thúc lễ hội.
Thông qua tiến trình lễ hội truyền thống Vân Đồn, ta thấy: đây là một lễ
hội truyền thống diễn lại hình tượng một trận đánh vẻ vang trong lịch sử, có
tình tiết, diễn biến, có tướng quân, có sự sắp xếp chiến lược giống như chiến
trận năm xưa. Tất cả đều đậm chất lịch sử. Nó hoà quyện trong quan điểm
tâm linh của ngư dân nơi đây, đó là truyền thống uống nước nhớ nguồn, đồng
thời thể hiện sự cường tráng, tính cách phóng khoáng của những con người
sống giữa biển đảo. Lễ hội không chỉ là sản phẩm tinh thần của riêng ngư dân
Quan Lạn mà thu hút rất nhiều du khách thập phương đến tham dự.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
54
Lễ hội Vân Đồn là lễ hội mang đậm hào khí Đông A, thể hiện tinh thần
thượng võ của dân tộc, mang đặc trưng của ngư dân vùng biển, là dịp để tôn
vinh văn hoá gắn liền với lịch sử, đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán và ý
thức tâm linh dân Quan Lạn.
Do sự thăng trầm biến thiên của lịch sử, các lễ hội truyền thống của ngư
dân Quan Lạn cũng có lúc bị gián đoạn mai một. Song hiện nay với sự quan
tâm của chính quyền địa phương các cấp việc phục hồi và phát huy giá trị
trong lễ hội của Quan Lạn được thực hiện với kết quả cao. Các lễ hội đặc biệt
là lễ hội chèo bơi Quan Lạn được khôi phục với quy mô ngày càng lớn. Nó
không chỉ là một hoạt động văn hoá cộng đồng của ngư dân, mà còn là nguồn
lực to lớn góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế xã hội địa phương.
3.1.5. Những biến đổi ngày nay
Văn hoá phong tục của ngư dân Quan Lạn được hình thành trong quá
trình phát triển lâu dài của cộng đồng. Bên cạnh tính phổ biến và ổn định, văn
hoá phong tục cũng vận động và phát triển không ngừng cho phù hợp với thời
đại mới, điều kiện mới.
Một phần do hoàn cảnh chiến tranh trước đó, một phần do điều kiện đời
sống nâng cao, thêm vào đó là sự xuất hiện của nhiều loại hình sinh hoạt văn
hoá mới đã làm cho việc cưới xin được đơn giản hoá nhiều. Đám cưới ngày
nay chỉ giữ lại những nghi thức chính căn bản như dạm ngõ, ăn hỏi, lễ cưới
song cũng được sơ giản rất nhiều về mặt thủ tục. Việc thách cưới, tiền cheo
hay việc nhà trai đem hiện vật cho tiệc cưới của nhà gái chỉ mang tính chất
tượng trưng thể hiện sự đền đáp của chàng rể đối với công ơn nuôi dưỡng của
cha mẹ cô gái, chứ không nặng nề như trước. Thời gian thử thách từ sau lễ ăn
hỏi đến lễ cưới chính thức rút ngắn, thường được cử hành ngày sau khi ăn hỏi,
chứ không còn kéo dài trong 2 - 3 năm như trước.
Tục hát cưới qua ba lần mở ngõ và hát mua hoa, bán hoa, mua chim
không còn phổ biến nữa. Vào những năm 50, kiểu hát có đĩa hoa nhà trai nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
55
gái lần lượt xướng hoạ chỉ thấy ở vùng đảo Vân Đồn nhất là ở cộng đồng dân
chài. Đến nay, loại hình nghệ thuật dân gian này bị đẩy vào quên lãng, chỉ có
một số cụ già xưa là “cây hát”, “thợ hát” mới có thể hát được những bài hát
cưới theo lối giao duyên này. Theo chủ trương xây dựng đời sống mới gắn
liền với quá trình tôn trọng và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- VĂN HOÁ ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH TRONG LỊCH SỬ.pdf