Luận văn Văn hoá đảo quan lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh trong lịch sử

Tài liệu Luận văn Văn hoá đảo quan lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh trong lịch sử: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ───────────── NGUYỄN THANH THUỶ VĂN HOÁ ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH TRONG LỊCH SỬ LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM Thái Nguyên - năm 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ───────────── NGUYỄN THANH THUỶ VĂN HOÁ ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH TRONG LỊCH SỬ Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐÀM THỊ UYÊN Thái Nguyên - năm 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH .................................................................................... 8 1.1. Vị trí địa ...

pdf103 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1127 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Văn hoá đảo quan lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh trong lịch sử, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ───────────── NGUYỄN THANH THUỶ VĂN HOÁ ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH TRONG LỊCH SỬ LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM Thái Nguyên - năm 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ───────────── NGUYỄN THANH THUỶ VĂN HOÁ ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH TRONG LỊCH SỬ Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐÀM THỊ UYÊN Thái Nguyên - năm 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH .................................................................................... 8 1.1. Vị trí địa lý - Điều kiện tự nhiên ...................................................... 8 1.2. Quan Lạn trong lịch sử ................................................................... 10 1.3. Thành phần dân cư, dân tộc ........................................................... 13 Chương 2: VĂN HOÁ VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH ................................................. 15 2.1. Ăn- ở- mặc- đi lại ........................................................................... 15 2.2. Hoạt động kinh tế ........................................................................... 20 2.2.1. Kinh tế ngư nghiệp ................................................................... 20 2.2.2. Kinh tế thương nghiệp .............................................................. 24 2.2.3. Kinh tế nông nghiệp ................................................................. 29 2.2.4. Kinh tế lâm nghiệp ................................................................... 30 2.2.5. Nghề vận tải biển ...................................................................... 31 Chương 3: VĂN HOÁ TINH THẦN CỦA CƯ DÂN ĐẢO QUAN LẠN ... 34 HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH ................................................. 34 3.1 Các tục lệ chủ yếu trong đời sống ................................................... 34 3.1.1. Sinh đẻ ..................................................................................... 34 3.1.2. Cưới xin ................................................................................... 37 3.1.3. Tang ma ................................................................................... 45 3.1.4. Một số lễ tết và lễ hội trong năm ............................................. 48 3.1.5. Những biến đổi ngày nay.......................................................... 54 3.2. Tín ngưỡng- tôn giáo ..................................................................... 56 3.2.1 Tín ngưỡng dân gian ................................................................. 57 3.2.2. Những ảnh hưởng của tam giáo trong đời sống ngư dân Quan Lạn ....................................................................................................... 69 3.3. Văn học dân gian ........................................................................... 72 3.4. Mối quan hệ và ảnh hưởng giữa văn hoá tinh thần của ngư dân Quan Lạn với ngư dân và cư dân Quảng Ninh. .................................................. 85 KẾT LUẬN ................................................................................................. 88 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 91 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Văn hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Nếu văn hoá vật chất cung cấp cho con người mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội thì văn hoá tinh thần lại thực hiện chức năng gắn kết cộng đồng, điều chỉnh xã hội, định hướng các chuẩn mực làm động lực cho sự phát triển. Văn hoá Việt Nam là thành quả kết tinh những tinh hoa có phong cách riêng biệt của nhiều cộng đồng dân cư. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, trong lao động sản xuất, mỗi cộng đồng dân cư trên các vùng lãnh thổ khác nhau vừa sáng tạo ra truyền thống văn hoá riêng cho mình, vừa giao lưu tác động lẫn nhau làm cho nền văn hoá vật chất, tinh thần Việt Nam phong phú đa dạng. Bản sắc văn hoá Việt Nam có ý nghĩa thiêng liêng cao quý là linh hồn của núi sông là biểu hiện sự trường tồn của giống nòi, là sợi dây kết nối giữa các thế hệ. Mỗi giá trị văn hóa đều được biểu hiện trong cuộc sống thường nhật, được lưu giữ trong trí nhớ, chữ viết, tồn tại trong lối sống, kí ức, tâm thức của mỗi con người. Những giá trị văn hoá đặc biệt là văn hoá tinh thần với những sinh hoạt cộng đồng có tính bền vững lâu dài song đang đứng trước nguy cơ thất truyền mai một rất cao, nhất là khi các điều kiện của đời sống đang từng bước được cải thiện cùng với sự hấp dẫn của những loại hình giải trí hiện đại. Do đó cần hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống không chỉ là bảo tồn mô hình mà phải làm cho những giá trị văn hoá đó đi vào đời sống cộng đồng một cách tự nhiên, trở thành lối sinh hoạt có văn hóa của mỗi người dân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 2 Vị trí cách biệt với đất liền, sự giao lưu với các khu vực xung quanh cũng như trình độ phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội còn nhiều hạn chế đã làm cho những giá trị văn hoá truyền thống của ngư dân đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh trở nên vô cùng quan trọng trong đời sống của cư dân nơi đây. Những giá trị văn hoá được vun đắp trong hàng ngàn năm lịch sử vừa là kết quả của sự giao lưu tình cảm văn hoá giữa các cộng đồng ngư dân, vừa là sản phẩm của sự hòa nhập trong truyền thống của ngư dân Quan Lạn- hoà nhập để cùng nhau kiên cường đứng trước biển nơi đầu sóng ngọn gió, hoà nhập để tạo nên sức mạnh đập tan âm mưu xâm lược của các thế lực ngoại xâm, gìn gữi từng tấc đất biên cương của tổ quốc, hoà nhập để cùng “chung lưng đấu cật” cần cù làm ăn và phát triển. Hơn nữa được quy định bởi tính chất ngư nghiệp, quan niệm tâm linh cũng như những tục lệ trong đời sống văn hoá tinh thần của ngư dân nơi đây có nhiều nét đặc trưng riêng và tiến bộ đơn giản mà ý nghĩa, đa dạng mà thống nhất. Đặc biệt hơn, những hoạt động tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội ở Quan Lạn đã và đang trở thành một trong những tiềm năng quan trọng để phát triển loại hình kinh tế du lịch văn hoá - lịch sử - sinh thái trên đảo. Dựa trên nghị quyết hội nghị lần thứ X Ban chấp hành trung ương Đảng khoá 9 đã xác định “tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng đạo đức lối sống và đời sống văn hoá lành mạnh trong xã hội ", với mục đích bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc trong văn hoá của ngư dân đảo Quan Lạn, được sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của PGS TS. Đàm Thị Uyên, cùng các thầy cô giáo trong tổ bộ môn lịch sử Việt Nam và Ban chủ nhiệm khoa lịch sử ĐHSP - ĐHTN, nên em chọn “Văn hoá đảo Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh trong lịch sử” làm đề tài luận văn. Đề tài góp phần làm rõ một số nội dung và hình thức biểu hiện, chỉ ra những nét đặc sắc mang tính truyền thống trong văn hoá của ngư dân đảo Quan Lạn. Qua đó góp phần giáo dục Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 3 thế hệ trẻ trên đảo có ý thức trách nhiệm giữ gìn bảo vệ những giá trị văn hoá truyền thống. Từ việc phát huy bảo tồn các yếu tố văn hoá sẽ thúc đẩy hơn nữa sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Văn hoá với hai bộ phận là văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần đã được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau trong các tác phẩm mang tính lý luận như: - Cuốn “Nguồn gốc của văn hoá và tôn giáo” của FREUD do Lương Văn Kế dịch (NXB Đại học Quốc gia năm 2000). - Cuốn “Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đăng Duy do NXB Văn hoá thông tin xuất bản năm 2001 đã trình bày khá đầy đủ về khái luận về tín ngưỡng tôn giáo, nguồn gốc, nội dung của các hình thái tín ngưỡng dân gian, đặc trưng riêng ở một số vùng miền, một số dân tộc ít người, trình bày nguồn gốc và những giáo lý cơ bản của các loại hình tôn giáo trong đời sống hiện nay. - Cuốn “Lí luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của Đặng Nghiêm Vạn do NXB Chính trị quốc gia xuất bản năm 2001 đã nêu lên những khái niệm chung về tôn giáo, xu thế của tôn giáo, đời sống tôn giáo trong nhân dân. - Cuốn “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam” (cách nhìn hệ thống và loại hình) của Trần Ngọc Thêm do NXB thành phố Hồ Chí Minh xuất bản (1997) đã tiến hành phân loại các hình thái tín ngưỡng, những nét đặc trưng trong phong tục được quy định bởi văn hoá truyền thống, phân tích sự giao lưu ảnh hưởng giữa các nền văn hoá Đông- Tây được biểu hiện trong văn hoá Việt Nam. - Cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm do NXB Giáo dục xuất bản năm 2000 đã trình bày khái niệm văn hoá, tiến trình văn hoá Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 4 Việt Nam và những nét nổi bật trong văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, sự giao lưu văn hoá giữa Việt Nam với các khu vực văn hoá khác. Vân Đồn với hoạt động kinh tế thương nghiệp đã được phản ánh trong nhiều tác phẩm nghiên cứu lịch sử. Nhiều tác phẩm như “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, “Đại Việt sử kí toàn thư” của Ngô Sĩ Liên, “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, “Đại Nam thực lực” của Quốc sử quán triều Nguyễn... đã ghi chép tóm tắt về thời gian thành lập và vị trí thuận lợi của thương cảng Vân Đồn. Cuốn “Thương cảng Vân Đồn” của Đỗ Văn Ninh với nguồn tư liệu khảo cổ phong phú đã cho chúng ta có cái nhìn đầy đủ về đô thị cổ Vân Đồn với một hệ thống các bến thuyền cổ, hoạt động buôn bán và phương thức buôn bán tại thương cảng xưa. Bên cạnh đó, các tài liệu chuyên khảo về hoạt động kinh tế và phong tục, tín ngưỡng tôn giáo của cư dân ở Quảng Ninh nói chung trong cuốn “Địa chí Quảng Ninh” đề cập đến một số phong tục tiêu biểu như cưới xin, ma chay, lễ tết trong năm, đặc trưng tín ngưỡng dân gian và tình hình sinh hoạt tôn giáo của cư dân trên địa bàn tỉnh. Trong đó có đề cập đến một số đặc trưng của cư dân biển song rất sơ lược. Hiện nay chưa có tài liệu nào đi sâu nghiên cứu tổng thể văn hoá của cư dân đảo Quan Lạn dưới sự tác động của hoạt động ngư nghiệp. Song qua những tài liệu trên, chúng tôi có cái nhìn khái quát về văn hoá với những nội dung của nó, hình dung được vị trí của Quan Lạn trong thương cảng Vân Đồn xưa cũng như hoạt động kinh tế thương nghiệp của cư dân nơi đây, đồng thời cung cấp những tư liệu chính xác, đáng tin cậy gợi mở những nội dung cụ thể giúp chúng tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài - Mục đích đề tài: Nghiên cứu văn hoá của cư dân đảo Quan Lạn, đề tài nhằm hệ thống hoá những phương thức ứng xử với tự nhiên và xã hội của cư Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 5 dân trên đảo Quan Lạn, từ đó góp phần nhận thức rõ hơn về văn hoá ngư dân ở Quảng Ninh nói chung và Quan Lạn nói riêng. - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là những thành tố trong văn hoá vật chất và tinh thần như cách thức sinh hoạt, hoạt động kinh tế, một số tục lệ, tín ngưỡng tôn giáo và văn học dân gian của cư dân đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. - Phạm vi nghiên cứu: Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Song do khả năng và thời gian có hạn, đề tài luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu ở góc độ hẹp bao gồm các nét nổi bật trong ăn, ở, mặc, đi lại, hoạt động kinh tế cũng như tục lệ và tín ngưỡng tôn giáo, văn học dân gian của cư dân đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh nhằm làm rõ những đặc trưng trong văn hoá truyền thống mang tính địa phương. 4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tư liệu Luận văn của chúng tôi dựa trên cơ sở tham khảo các nguồn tài liệu sau: + Nguồn tài liệu thành văn - Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. - Các tác phẩm mang tính lí luận chung và chuyên khảo về văn hoá như “Văn hoá một số vấn đề lý luận” của Trương Lưu, “Tín ngưỡng Việt Nam” của Toan Ánh, “Cơ sở văn hoá Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm, và một số bản dịch sắc phong còn lưu trong đình Quan Lạn. + Nguồn tư liệu khảo sát, điền dã Thông qua việc tiếp xúc với các nhân chứng của lịch sử, quan sát đời sống sinh hoạt cũng như của các hoạt động văn hoá tinh thần của ngư dân địa phương, chúng tôi được nghe những điệu hò biển khỏe khoắn, chứng kiến lễ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 6 hội Vân Đồn, lễ cầu bình, lễ tháp ấn, các phong tục và kinh nghiệm trong lao động sản xuất của ngư dân. Qua đó chúng tôi có được những tư liệu cần thiết mang tính thực tiễn về văn hoá đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh để hoàn thành tốt đề tài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic Phương pháp điền dã Phương pháp miêu thuật Phương pháp hồi cố Phương pháp văn hoá học Phương pháp phân tích, so sánh đối chiếu các nguồn tài liệu. Bên cạnh đó, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu của đề tài trong mối quan hệ chung với sinh hoạt văn hoá của cộng đồng dân cư tỉnh Quảng Ninh để thấy nét tương đồng giao thoa và những nét đặc trưng riêng có do hoạt động ngư nghiệp quy định trong văn hoá truyền thống của ngư dân Quan Lạn. 5. Đóng góp của luận văn - Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống toàn diện về những đặc trưng trong văn hoá vật chất cũng như văn hoá tinh thần của ngư dân đảo Quan Lạn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh trong lịch sử chỉ ra và đề cao những nét đặc thù, những tinh hoa dưới góc độ di sản văn hoá. Từ đó giúp cơ quan chức năng đánh giá toàn diện có kế hoạch trong công tác bảo tồn và phát triển những giá trị trong văn hoá truyền thống của ngư dân Quan Lạn. - Từ nội dung đó, luận văn góp phần vào việc hình thành ý thức tôn trọng phát huy và xây dựng “một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” không chỉ cho ngư dân trên đảo nói riêng mà còn cho cả thế hệ trẻ nói chung. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 7 6. Cấu trúc luận văn Luận văn gồm 94 trang, ngoài phần mở đầu phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục. Nội dung chính chia làm 3 chương: Chương I: Khái quát về đảo Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh. Chương II: Văn hoá vật chất của cư dân đảo Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh. Chương III: Văn hoá tinh thần của cư dân đảo Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 8 Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH 1.1. Vị trí địa lý - Điều kiện tự nhiên Vân Đồn là một huyện đảo có toạ độ từ 20040‟ đến 21012‟ vĩ độ bắc và từ 107019‟ đến 107042‟ kinh độ đông. Huyện lỵ là thị trấn Cái Rồng trên đảo Cái Bầu cách thành phố Hạ Long gần 50 km, cách Cửa Ông 7 km. Phía bắc giáp vùng biển huyện Tiên Yên và huyện Đầm Hà. Phía tây giáp thị xã Cẩm Phả, ranh giới là lạch biển Cửa Ông và sông Voi Lớn. Phía đông giáp vùng biển huyện Cô Tô. Phía nam giáp vịnh Hạ Long và vùng biển Cát Bà thuộc Hải Phòng. Huyện Vân Đồn có diện tích đất tự nhiên là 59.676 ha, gồm 600 hòn đảo lớn nhỏ trong đó có hơn 20 hòn đảo có người ở lớn nhất là đảo Cái Bầu. Đảo Vân Đồn xưa thuộc huyện Nghiêu Phong cách trung tâm huyện 125 dặm về phía đông, “ở giữa biển cả đứng sững ở không trung hai ngọn đối nhau, một dòng nước thông ở giữa, dựng sách gỗ, đặt cửa quan, nhân dân ở dăng hai bên bờ đời Lý, đời Trần, thuyền buôn các nước phần nhiều đậu ở đây”.[ 12; 11]. Đảo Quan Lạn (đúng là Quang Lạn có nghĩa là quang đãng, sáng đẹp) ngày nay nằm trong quần đảo Vân Hải thuộc huyện Vân Đồn cách trung tâm huyện 40 km. Đảo có diện tích là 11 km2 gồm dân cư của 2 xã Quan Lạn và Minh Châu cư trú trong 8 xóm (5 xóm chính và 3 xóm lẻ). Đảo Quan Lạn thuộc vùng vịnh Bái Tử Long, đây là tuyến đảo phía ngoài cùng của vịnh Bắc Bộ. Đảo Quan Lạn tương đối cách biệt với đất liền, nằm ở vị trí tiền tiêu đối mặt với biển Đông, trở thành bức bình phong vững vàng ngăn sóng biển che chắn cho Vân Đồn biến Vân Đồn thành nơi neo đậu thuận tiện an toàn. Kể từ đại dương đi vào bến đầu tiên của thương cảng Vân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 9 Đồn là Cái Làng nằm sát dưới chân núi Man thuộc đảo Quan Lạn. Quan Lạn nằm trên tuyến đường giao thông hàng hải quan trọng nối liền từ Trung Quốc, Nhât Bản, Thái Lan, Philipin... với Việt Nam, do vậy nó đã từng là trung tâm thương cảng Vân Đồn sầm uất và thịnh vượng. Quan Lạn là một dải đất đẹp, trải dài theo hướng Đông Bắc- Tây Nam, từ chân dãy núi Vân Đồn tới núi Gót, với những dãy núi cao ở phía Đông, phía trước có 3 đỉnh núi, phía sau có 5 đỉnh núi tạo ra sự yên bình cho mảnh đất này trước bão tố đại dương. Đảo Quan Lạn có hình củ lạc cùng với đảo Ngọc Vừng có hình lưỡi kiếm, đảo Thừa Cống có hình ngôi sao bao quanh đảo Cái Bàn trung tâm của thương cảng Vân Đồn xưa có hình chiếc thuyền rộng lòng. Do địa hình đảo, nên đất có thể canh tác được rất ít (khoảng 43 mẫu) chủ yếu là đất cát thiếu nước. Tuy nhiên, Quan Lạn có nguồn tài nguyên khá phong phú: Trước hết là một ngư trường kín gió, nước sâu, ít lắng đọng. Trong “Đại Nam nhất thống chí” về vùng đất Quảng Yên mục thổ sản có ghi lại những tư liệu cho biết vùng Vân Đồn có nhiều hải sản phong phú về loài, số lượng [18, tr47 - 49] như: Tôm he, mực, sá sùng, bào ngư, tôm rồng, hải sâm. Quan Lạn nói riêng và Vân Đồn còn nổi tiếng với nguồn ngọc trai phong phú “ Trong biển Vân Đồn, châu Tĩnh Yên có hạt châu... năm nào đêm trung thu có trăng thì năm ấy có hạt châu”. [18, tr.20] Bên cạnh đó đảo có nguồn tài nguyên rừng và đất rất lớn: rừng có nhiều loại gỗ quý như lim, táu, nghiến đặc biệt là gỗ mần lái làm đình Quan Lạn là thứ lâm sản đặc hữu ở đây mà không nơi nào khác có được và nhiều loại thú quý như khỉ lông vàng, tắc kè, công… Ngoài ra đảo Quan Lạn còn có nhiều bãi sú vẹt, có mỏ cát Vân Hải với hàm lượng silíc cao 95%. Mỏ cát Vân Hải nằm ở đảo Cái Bàn giữa hai xã Minh Châu và Quan Lạn trên diện tích 28 km2, có trữ lượng lớn trên 13 triệu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 10 tấn, sản lượng khai thác hàng năm khoảng 20 ngàn tấn/ năm. “Cát Quan Lạn có nhiều tầng trong đó có 2 tầng có giá trị công nghiệp lớn là tầng cát trắng và tầng cát trắng sữa. Hai tầng này nằm lộ ngay trên mặt đất và phân bố khá rộng. Cát Quan Lạn phần lớn là tinh thể thạch anh, có độ cứng vạch được thép...”. [21, tr46] Quan Lạn có hai bãi tắm thiên nhiên rất đẹp: bãi Sơn Hào dài 3km được coi là đệ nhất bãi tắm và bãi Sau Làng (hay còn gọi là bãi Đầu Núi) dài 2km. Những bãi tắm đẹp với cát trắng trải dài còn giữ nguyên được vẻ hoang sơ, môi trường sinh thái chưa bị ô nhiễm là những địa điểm lý tưởng cho hoạt động du lịch và nghỉ dưỡng. Với những tiềm năng trên Quan Lạn có thể trở thành hòn đảo kết hợp các loại hình kinh tế với du lịch văn hoá - lịch sử, sinh thái với quần thể vịnh Hạ Long - Bái Tử Long. 1.2. Quan Lạn trong lịch sử Theo kết quả nghiên cứu khảo cổ học - lịch sử thì đảo Quan Lạn nói trên và quần đảo Vân Hải nói chung đã có con người cư trú từ rất sớm. Di tích Hang Soi Nhụ với bộ xương hoá thạch của người Việt cổ cách đây 2.500 năm đến 3000 năm đã chứng minh điều này. Dưới sự thống trị của phong kiến phương Bắc, vùng đất Yên Quảng có nhiều tên gọi khác nhau mà Quan Lạn là một bộ phận của vùng đất này. Dưới thời Hán, Yên Quảng là huyện Yên Định. Đến thời Lương (552-557) là quận Ninh Hải, Hoàng Châu. Đời Tuỳ (581-618) gọi là quận Ninh Việt. Đời Đường (618-907) gọi là quận Ngọc Sơn, Lục Châu. Bước vào thời kì tự chủ, thời Đinh, Tiền Lê, Yên Quảng được gọi là trấn Triều Dương. Năm 980, ở đây có đồn Vân trấn giữ vùng biển Đông Bắc của nhà Lê. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 11 Quan Lạn xưa vào đời nhà Lý được gọi là đảo Cảnh Cước với hai xã Minh Châu và Quan Lạn. Trong quần đảo Cảnh Cước- Cái Bầu- Vân Hải có tới 300 hòn đảo, đảo Bản Sen là đảo lớn nhất sau đó đến đảo Quan Lạn. Đảo Quan Lạn rộng 115 km2 với chiều dài 25 km. Năm Thuận Thiên thứ 4 (1023), nhà Lý đổi trấn Triều Dương thành châu Vĩnh An. Năm 1149, Lý Anh Tông - đời vua thứ 6 của vương triều Lý, sau nhiều lần cho người khảo sát vùng biển Đông Bắc đã quyết định thành lập trang Vân Đồn - thương cảng đầu tiên của nước Việt. Sách Đại Việt sử kí toàn thư có chép “Kỷ tỵ (Đại Định) năm thứ 10 mùa xuân tháng 2 thuyền buôn ba nước Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La vào cảng Hải Đông xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo gọi là Vân Đồn để mua bán hàng hoá quý, dâng tiến sản vật địa phương”. Sở dĩ, vua Lý Anh Tông chọn Vân Đồn là nơi xây dựng cảng vì Vân Đồn là vùng có nhiều đảo đất, đảo đá ngang dọc chia cắt biển thành nhiều vũng, luồng lạch sâu kín gió, thuyền bè neo đậu an toàn. Vân Đồn là của ngõ vào vùng đồng bằng Bắc Bộ thuận tiện cho việc chuyên chở hàng hóa từ đất liền ra. Vân Đồn cách đất liền 40km do đó tầu ngoại quốc chỉ được phép đỗ ở Vân Đồn không thể vào đất liền dò xét tình hình quốc gia Đại Việt. Năm 1226, nhà Trần đổi châu Vĩnh An thành lộ Hải Đông gồm 8 huyện trong đó có Vân Đồn. Năm Thiệu Phong thứ 9 (1349), đổi trang Vân Đồn thành trấn Vân Đồn, đặt các chức quan trấn, quan lộ và Sát hải sứ (quan kiểm soát trên mặt biển) để quản lý trấn Vân Đồn và thương cảng Vân Đồn. Đồng thời tổ chức bố phòng chặt chẽ hơn với nhiều đồn bốt như đồn thuyền Giấy, đồn cụ Phó Nhòm, đồn Con Quy... Ngoài ra còn đặt một đội quân đóng giữ ở Vân Đồn gọi là Bình Hải quân. Cũng từ đây việc buôn bán và giao lưu văn hoá trở nên sầm uất hơn trước rất nhiều. Trong thời kỳ này người dân người dân nơi đây đã anh dũng tham gia cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông làm nên chiến thắng Vân Đồn lẫy lừng trên dòng sông Mang - dòng nước chảy giữa 2 đảo Vân Hải và Cái Bàn năm 1288. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 12 Từ 1407- 1427, dưới thời thuộc Minh, Quan Lạn là đất thuộc huyện Vân Đồn, châu Tĩnh Yên, phủ Tân An. Dưới thời Lê, Quan Lạn thuộc châu Vân Đồn, Thừa tuyên AnnBang. Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi: Vân Đồn có 10 trang, 1 phường. Lê Thánh Tông cho rằng, Vân Đồn là vùng đất xa xăm, mỗi khi biên cảnh có động, quan quản tiếp ứng không kịp, cần đặt vệ quân riêng. Triều đình lập ra An phủ ty khám xét nguời, Sát hải sứ kiểm soát thuyền bè và Đề Bạc ty kiểm soát sụ buôn bán đi lại ở Vân Đồn. Cùng với chính sách ức thương của nhà Lê sơ, hoạt động buôn bán ở Quan Lạn không còn nhộn nhịp như trước nữa. Đến thời nhà Nguyễn, do biển lùi cát bồi không còn phù hợp cho tàu biển ra vào nữa nên thương cảng được chuyển vào trong nội địa với phố Hiến và Hội An thì vai trò của Vân Đồn sa sút hẳn. Đầu thời Tự Đức (1848-1883) Quan Lạn thuộc huyện Nghiêu Phong, tỉnh Quảng Yên. Đời Duy Tân (1907- 1916) thuộc tổng Vân Hải huyện Hoành Bồ. Đến gần cách mạng tháng Tám, Quan Lạn thuộc tổng Vân Hải, châu Cẩm Phả, tỉnh Quảng Yên, phạm vi của xã xưa kia rất rộng, ngoài Quan Lạn còn có các đảo Ngọc Vừng, Vạn Cảnh, Phượng Mao, Phượng Hoàng - trong đó Quan Lạn được coi là trung tâm. Năm 1948, huyện Cẩm Phả được thành lập tách khỏi thị xã Cẩm Phả, trực thuộc đặc khu Hòn Gai. Năm 1994 đến nay, huyện Vân Đồn được thành lập. Quan Lạn là một xã thuộc tuyến đảo của huyện Vân Đồn. Cư dân đảo Quan Lạn hay còn gọi là Làng Cả hay Cái Làng trước đây sống tại 5 xóm chính: Đông, Nam, Đoài, Bắc và xóm Ruộng. 1940 một bộ phận xóm Đoài tách ra lập xóm mới gọi là xóm ngoài (xóm Đầu Mái). Ngoài ra còn 3 xóm lẻ là Hải Yến, Sơn Hào, Tân Lập. Hiện nay đảo Quan Lạn có hơn 650 hộ dân cư trú trên diện tích rộng 11 km 2 trong 8 thôn làng. Trong đó người Kinh chiếm 99,5%, người Hoa chiếm 0,5% dân số trên đảo. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 13 1.3. Thành phần dân cư, dân tộc Con người có mặt ở vùng biển Vân Đồn hơn một vạn năm trước. Vào thời đại đá mới, đầu thời đại kim khí, Vân Đồn nằm trong khu vực phân bố của văn hoá Soi Nhụ và văn hoá Hạ Long. Chủ nhân của những nền văn hoá này là những bộ lạc trồng trọt, săn bắn, đánh cá, sống ở vùng ven biển và hải đảo. Bước vào thời kì lịch sử, Quan Lạn tiếp tục là địa bàn cư trú của con người. Ngoài cư dân bản địa sinh sống ở đây từ trước, người dân ở nhiều nơi cũng tìm đến vùng đảo này để sinh cơ lập nghiệp. Trong phạm vi nhỏ hẹp của đảo, thành phần các dân tộc cùng sinh sống không có nhiều. Trong đó người Kinh chiếm số lượng đông nhất, người Hoa chỉ chiếm 0,5% dân số trên đảo. Người Kinh cư trú trên đảo Quan Lạn từ rất sớm. Họ thành lập các làng sơ khai. Làng là đơn vị tụ cư đồng thời cũng là đơn vị tổ chức xã hội cơ sở của người Việt. Mỗi làng có kiểu kiến trúc riêng, hầu hết dựa theo nguyên tắc chung là có các thiết chế tập hợp người theo quan hệ huyết thống và quan hệ láng giềng. Cùng với việc cư trú ổn định thành làng mạc, người Kinh cũng xây dựng những mối quan hệ gia đình, dòng họ. Gia đình người Kinh là đơn vị tụ cư nhỏ nhất và chặt chẽ nhất, là đơn vị sản xuất và tái sản xuất sức lao động, duy trì giống nòi. Gia đình người Việt là gia đình nhỏ phụ quyền mà biểu hiện chính là uy quyền của người cha với con cái, của người chồng đối với vợ, đối với quyền thừa kế của con trai, nhất là con trai trưởng; là đơn vị di truyền văn hoá, giáo dục đạo đức, đề cao chữ hiếu. Dòng họ là sự mở rộng của gia đình, là hình thức tập hợp người theo quan hệ huyết thống, trong đó trưởng họ có vai trò to lớn đối với dòng họ của mình. Người Hoa vào Quan Lạn sinh sống một số ít là những quan lại cai trị giàu sang từ thời nhà Hán, còn đa phần là khách buôn đến đây sinh cơ lập nghiệp. Người Hoa sống trong những thôn xóm riêng. Trong thôn xóm đều Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 14 có đền, chùa, đình, miếu thờ thành hoàng, miếu thờ thần đá núi.... Hình thức gia đình phổ biến của người Hoa là gia đình phụ hệ, có nhiều thế hệ cùng chung sống. Chủ hộ là đàn ông giữ vai trò gần như độc tôn trong các hoạt động của gia đình. Bên cạnh những bản sắc văn hoá riêng của dân tộc, trong quá trình sinh sống người Hoa đã tiếp nhận nhiều nét văn hoá của cư dân bản địa và hoà nhập vào những sinh hoạt văn hoá cộng động trên đảo Quan Lạn, hướng về những thế lực tự nhiên che chở và những nguời có công đối với mảnh đất này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 15 Chương 2 VĂN HOÁ VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH Thập niên bốn mươi của thế kỉ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày một khái niệm về văn hoá “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá”. [13; ]. Con người sống trong mối quan hệ chặt chẽ với tự nhiên. Cách thức ứng xử với môi trường tự nhiên là một thành tố quan trọng hệ thống văn hoá. Việc con người tận dụng và ứng phó với môi trường tự nhiên đã tạo nên những giá trị văn hoá vật chất và biến nó trở thành phương tiện để thể hiện những giá trị tinh thần trong đời sống. 2.1. Ăn- ở- mặc- đi lại Ăn uống là văn hoá, chính xác hơn đó là văn hoá tận dụng môi trường tự nhiên. Nếu như cơ cấu bữa ăn của người dân trong nội đồng thể hiện dấu ấn của truyền thống nông nghiệp lúa nước. Thì ở Quan Lạn cơ cấu bữa ăn có nhiều khác biệt do điều kiện tự nhiên và đặc trưng nghề nghiệp quy định. Cơm là món ăn phổ biến thường nhật của nguời dân Quan Lạn. Cư dân ở đây thường ăn ba bữa chính trong ngày: sáng, trưa và tối. Các bữa ăn thường ngày trong mỗi nhà xoay quanh các món ăn cơ bản là cá, thịt, trứng, rau... Trong điều kiện kinh tế khó khăn, nếu người dân ở các vùng nông thôn thường nấu cơm khoai, cơm sắn thì người dân ở đây lại thường ăn cháo, gần như thành một tập quán. Các món cháo trong đời sống của người dân nơi đây phổ biến là các loại cháo nấu từ đặc sản biển như cháo cá, cháo ngán, cháo hà... Các loại cháo nấu từ hải sản không cầu kì lắm. Cần nhất là nguyên liệu phải tươi, đảm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 16 bảo độ ngọt mát của cháo. Cách nấu cháo ở vùng hải đảo cũng rất riêng biệt. Thường bữa tối, người ta cho gạo vào nước, đun sôi kĩ. Khi hạt gạo chín tới thì vớt ra ủ vào lò, thành cơm, chủ yếu dành cho người già, trẻ nhỏ, người ốm đau và trẻ mới sinh còn nhỏ. Số còn lại nấu thành cháo bình thường. Cháo được ăn như cơm, nghĩa là có thức ăn kèm theo có thể là thịt, cá hoặc chỉ là rau, dưa muối. Ngoài gạo tẻ dùng làm nguyên liệu nấu ăn hàng ngày còn có gạo nếp. Gạo nếp dùng để đồ xôi như xôi trắng, xôi gấc, xôi đậu xanh... Xôi còn là món không thể thiếu khi sắp lễ cúng và trong mâm cỗ ngày giỗ, ngày tết và tiệc cưới. Phổ biến trong bữa ăn của người dân Quan Lạn là các món ăn chế biến từ hải sản. Hình thức phơi khô được áp dụng rộng rãi cho nhiều loại hải sản. Chế biến cá khô: người dân thường mổ phanh lưng, đem phơi khô để dành ăn dần. Cá khô cũng như các loại hải sản khô khác có thể bảo quản dài ngày, vận chuyển được đi xa phục vụ trao đổi, buôn bán. Gặp nắng to, ngư dân thường phơi cá ngay trên mui thuyền. Cá tươi được nắng không cần ướp muối nhiều là một mặt hàng đắt giá. Mực khô: Các loại mực nang, mực ống muốn chế biến thành các loại mực khô phải chế biến ngay khi mực còn tươi nguyên. Mực được mổ phanh, phơi trên mui thuyền. Cứ 5 kg mực tươi chế biến được 1 kg mực khô. Người dân thường đem mực thị trường bán hoặc cất giữ trong chum, ang để ăn dần hoặc bán dần cho tới mùa mực năm sau. Mực Quan Lạn được coi là một loại đặc sản có giá trị, tuy con mực không to nhưng hàm lượng đạm cao, có vị ngọt không đâu bằng. Sá sùng khô: Sá sùng bắt về có thể xào ăn tươi, khi đem phơi khô sẽ trở thành một loại đặc sản. Người dân dùng một đầu đũa vót nhọn xiên từ đầu lộn ngược lại, rửa sạch ruột, chỉ lấy mình rồi đem phơi khô. Được nắng sá sùng trắng bóng, hơi ngả vàng. Sá sùng khô có độ đạm cao. Khi ăn, rang khô, xoa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 17 cho bụng sạch cát. Cũng có thể rán giòn trong dầu mỡ. Không phải chỉ ở Quan Lạn mới có nghề khai thác sá sùng và sử dụng nó trong đời sống song sá sùng được coi như một sản phẩm đặc hữu của Quan Lạn. Cà ghim (cầu gai) là một đặc sản có nhiều ở vùng đảo Vân Hải. Người dân trong quần đảo Vân Hải nói chung và Quan Lạn nói riêng thường chế biến thành các món ăn như mắn cà ghim và chả cà ghim. Việc chế biến mắm cà ghim rất công phu. Ngư dân thường dùng hai que cứng cùng xâu vào một chỗ trên thân cà ghim, tách que về hai phía làm cho hai mảnh vỏ cà ghim rời ra. Thịt cà ghim cho vào nước ngọt từ 30- 40 phút để ruột cà ghim tách khỏi thân. Vớt cà ghim sang một chậu nước sạch, dùng que nứa nạo sạch màng ruột còn bẩn, đồng thời tách riêng từng mảng thân cà ghim, vớt ra rổ để thật ráo nước, cho muối vào. Muối từ 3- 5 tháng là ăn được. Nếu ăn ngay thì giảm nửa lượng muối, trộn thật đều cho muối tan. Để sau 3-4 ngày đem ăn. Mắm cà ghim thường sệt, quánh. Màu vàng nâu nhạt. Mùi vị chua, ngậy béo. Người dân tuyến đảo Vân Đồn trong đó có Quan Lạn sử dụng nhiều món ăn chế biến từ ốc. Ốc luộc lá bưởi, ốc xào.. là những món ăn dân dã được ưa dùng. Do có nhiều rạn đá, bãi cát nên các loài nhuyễn thể rất phong phú. Loài trai ngọc là loại thực phẩm quý để nấu cháo. Ngoài ra trong bữa cơm thường ngày của ngư dân rất phổ biến món canh nấu từ những loài nhuyễn thể đánh bắt được từ biển như con điệp, móng tay, méo mồm, phi phi, mỏ quạ, con quéo... có thể nấu với một loại rau củ nào đó hoặc nấu riêu chua. Trong ngày tết, đám cưới, đám giỗ, khi ma chay các gia đình ở Quan Lạn đều sắp cỗ. Mâm cỗ to hay nhỏ, nhiều hay ít món, món đơn giản hay cầu kì, không chỉ phụ thuộc vào khả năng của thân chủ hay vị thế của thực khách mà còn phụ thuộc tính chất của lễ tiết. Mâm cỗ Tết thường có rất nhiều món, mâm cỗ đám cưới cần thể hiện đầy đủ sự sang trọng, mâm cỗ đám ma thường Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 18 ít món, các món ăn không cầu kỳ... Các món ăn trong mâm cỗ ở Quan Lạn cũng mang đầy đủ đặc trưng vùng biển đảo. Hầu hết các món ăn đều chế biến từ hải sản như mực, tôm, ngán, cua, ốc... Song do điều kiện sống còn thấp, phần lớn người dân lại lựa chọn cách chế biến đơn giản là luộc và nướng. Các loại hải sâm, bào ngư của đảo cũng được sử dụng trong chế biến các món ăn cao cấp như gà tần hải sâm, gà nấu bào ngư. Đặc biệt người dân Quan Lạn có món chả sam, sam xào chua ngọt hoặc nấu với lá lốt. Về đồ uống: Rượu là thức uống khá phổ biến trong cộng đồng cư dân biển đảo. Rượu có thể tự chế biến hoặc mua bán, trao đổi với các vùng khác. Rượu làm từ gạo nếp. Gạo nếp được đem đồ xôi, ủ cho lên men rồi cất ra. Phổ biến là rượu trắng hoặc rượu trắng ngâm các loại thuốc như ba kích, tắc kè, thảo dược.. khai thác từ rừng Quan Lạn. Rượu ngán đặc biệt hơn cả. Rượu ngán là rượu trắng khi uống pha với tiết con ngán. Ngán sau khi rửa sạch, chần qua nước sôi. Ruột ngán cho vào cốc nghiền nhuyễn, cho rượu mạnh vào khuấy nhẹ. Tiết ngán hoà tan với rượu chuyển màu hồng tươi. Rượu ngán uống khi nóng có mùi thơm rất đặc trưng. Cây chè và tục uống chè cũng là một thói quen lâu đời của người dân Quan Lạn. Họ uống chè tươi, chè khô, chè ướp hoa... Đặc biệt ở vùng đất này nổi tiếng với đặc sản chè làng Vân. Mặc dù làm nghề chài dưới, song do điều kiện cư trú trên đảo, nên nhà ở vẫn là hình thức cư trú chủ yếu. Nhà ở của người dân Quan Lạn mang đặc điểm riêng của vùng miền và quan niệm chung về mái nhà của dân tộc. Để ứng phó với môi trường vùng biển đảo khắc nghiệt, ngôi nhà được dựng kiên cố, cao và thoáng mát. Hướng của ngôi nhà nhất thiết phải là hướng nam để tránh cái nóng từ phía tây, bão từ phía đông, gió lạnh thổi về vào mùa rét, lại tận dụng được gió mát thổi về từ phía nam vào mùa nóng. Cũng do địa hình trên đảo, nên hầu hết ngôi nhà ở Quan Lạn đều có được thế phong thuỷ đẹp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 19 “tựa sơn, đạp thuỷ”. Nhà không chia thành nhiều phòng nhỏ riêng biệt. Nhà bao giờ cũng gắn liền với đời sống tâm linh của mỗi người. Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt ở nơi trang trọng nhất, chính diện của ngôi nhà. Trước bàn thờ tổ tiên, người dân thường dành làm nơi tiếp khách. Phổ biến hơn cả là nhà 3 gian đứng (không có chái) và lợp ngói âm dương. Vật liệu xây dựng chủ yếu là tre, gỗ. Trừ hiên rộng ở mặt nhà, bên trong nhà chia thành hai phần theo chiều dọc, trước và sau. Bên cạnh nhà ở trên đất đảo, ngư dân cũng xem con thuyền là phương tiện cư trú tạm thời trong những ngày đi biển. Con thuyền tuy nhỏ hẹp nhưng cũng được bố trí chỗ ăn, chỗ ngủ khá ngăn nắp. Khoang ở đuôi thuyền là nơi đặt bếp để nấu ăn khi đi biển. Tiếp theo là khoang dành cho ăn uống và ngủ. Đầu mũi thuyền để ngư cụ (công cụ đánh bắt) và đặt mâm cúng khi cúng Hà Bá và cúng gia tiên vào chiều 30 Tết. Không chỉ là ngôi nhà tạm trên biển, con thuyền với người dân Quan Lạn được xem là phương tiện đi lại chủ yếu là một tài sản lớn-kế sinh nhai của mỗi gia đình. Con thuyền của Vân Đồn nói chung và Quan Lạn nói riêng là đan bằng tre già ngoài có trát vôi, hắc ín nhựa cây. Cư dân Quan Lạn do ngày đêm trực tiếp với sóng gió biển khơi nên dùng chủ yếu là thuyền cóc đáy bằng, có buồm cánh dơi để đánh giã lưới. Cánh buồm là những tấm phên đan bằng tre hoặc nứa, vừa làm mui che nắng mưa vừa làm buồm khi gặp gió thuận nước xuôi. Hầu hết dân số trên đảo Quan Lạn đều là người Kinh. Trang phục của họ về cơ bản giống với nhân dân ở trong nội đồng. Do không thể tự cung cấp nguyên liệu may mặc, cũng như không có nghề dệt nên hầu hết trang phục của người dân đều do trao đổi mua bán, trao đổi với các khu vực khác. Phụ nữ để tóc dài, đội nón lá già, mặc áo cánh màu nâu, xẻ tà, cổ tròn, mở ngực. Dưới vạt của hai thân có hai túi nhỏ. Yếm là đồ mặc đặc thù của người phụ nữ với Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 20 nhiều màu sắc dùng riêng cho từng dịp khác nhau: mặc màu nâu khi đi làm vào ngày thường, yếm hồng cho dịp lễ hội. Quần có ống rộng và thẳng, đũng sâu, cạp quần to bản. Khi mặc người ta buộc dây thắt lưng nên gọi là quần lá toạ. Bên ngoài cạp quần có bao tượng và thắt lưng bằng vải. Chỉ trong những ngày hội hè, lễ tết.. phụ nữ mới mặc thêm áo dài với 2 kiểu là áo 4 thân và áo 5 thân. Đàn ông cắt tóc ngắn, mặc áo cánh nhuộm nâu. Áo cánh của nam giới chỉ khác áo của nữ giới ở độ dài, rộng. Vào ngày lễ, nhiều người mặc áo dài đen, quần trắng hoặc nhuộm nâu. Cả nam và nữ đều đi chân đất, ít người mang guốc dép. 2.2. Hoạt động kinh tế 2.2.1. Kinh tế ngư nghiệp Đảo Quan Lạn có hơn 4000 dân, sinh sống bằng nhiều nghề khác nhau như nông nghiệp, nghề vận tải biển, khai thác lâm thuỷ sản. Trong đó có 70 % dân số làm nghề chài lưới, đánh bắt hải sản. Nghề đánh bắt cá biển có truyền thống từ lâu đời cách đây hàng vạn năm kể từ khi con người sinh sống trên đảo nhưng chủ yếu là đánh bắt trong lộng và ven biển. Tại làng Quan Lạn xưa chỉ có 10 thuyền chuyên đi đánh cá và các chủ thuyền cũng sử dụng nhân công đi đánh bắt. Quan hệ hợp tác giữa chủ thuyền với bạn thuyền, giữa bạn thuyền với nhau là những quan hệ chủ yếu. Con thuyền là phương tiện đi lại, đánh bắt cá. Nó gắn liền với cuộc sống nghề nghiệp của mỗi người dân nơi đây. Thuyền không chỉ là thứ tài sản lớn nhất, là kế sinh nhai mà còn là ngôi nhà thứ hai trên biển của họ. Con thuyền của Vân Đồn nói chung và Quan Lạn nói riêng là đan bằng tre già ngoài có trát vôi, hắc ín nhựa cây. Có được thuyền gỗ là một sự thay đổi lớn vì thuyền nan dễ bục, rất chóng hỏng, không thể đan to. Cư dân Quan Lạn do ngày đêm trực tiếp với sóng gió biển khơi nên dùng chủ yếu là thuyền cóc đáy bằng, có buồm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 21 cánh dơi để đánh giã lưới. Cánh buồm trước đây đối với bè mảng thuyền nan chỉ là những tấm phên đan bằng tre hoặc nứa, vừa làm mui che nắng mưa vừa làm buồm khi gặp gió thuận nước xuôi. Đối với thuyền gỗ do điều kiện kinh tế quá nghèo, ngư dân phải dùng các bao tải bằng cói, bao tải đay làm buồm. Người dân Vân Hải đã sáng tạo ra nhiều hình thức khai thác thuỷ sản với những công cụ và phương tiện đánh bắt riêng, thúc đẩy kinh tế ngư nghiệp phát triển: Nghề chắn đăng đặc biệt là đăng mực, người dân lấy tre nuột để ken đăng, lấy cây làm cọc để cắm đăng. Một thuyền thường có 45 - 50 cuộn đăng dài 800 - 1000 m hoặc có thể dài hơn, thường đăng vào ban đêm khi nước rút. Ngư dân đã tổng kết “đăng dài, chài rộng” mới mong được nhiều cá. Nghề chắn đăng hoạt động từ tháng 2 đến tháng 9 hàng năm. Quan Lạn có nghề đào sá sùng từ lâu đời. Sá sùng (gọi nôm là con mồi, chữ Hán là sâu cát) chỉ sống trong môi trường bãi cát pha có nước triều lên xuống. Với 400 hecta bãi lầy, nghề khai thác sá sùng là nghề chính đem lại nguồn thu lớn cho người dân Quan Lạn hiện nay. Người dân chờ khi nước thuỷ triều cạn dùng mai đào sá sùng trong cát. Sá sùng bắt về có thể xào ăn tươi, khi đem phơi khô sẽ trở thành một loại đặc sản có giá trị để trao đổi mua bán. Tại Quan Lạn, từ xưa tới nay vẫn tồn tại hình thức người giàu có thuê người nghèo khó đào sá sùng. Thông thường người chủ đưa 3 đồng vốn để người nghèo đong gạo hàng ngày đi đào sá sùng, chiều về thu được bao nhiêu thì nộp cho chủ. Mỗi kg sá sùng tươi, người đào thuê được thanh toán 1 hào 2. Cứ 15 ngày hết một chu kì con nước thì người đào thuê và chủ thanh toán với nhau. Nếu số sá sùng đào được quy đổi vượt quá số đã nhận thì người làm thuê được thanh toán đầy đủ và được vay tiếp số tiền mới nếu có yêu cầu. Nếu giá trị số sá sùng chưa bằng số tiền đã vay thì chủ nợ vẫn cho người đào sá Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 22 sùng vay tiếp. Tất cả các khoản vay đều không tính lãi. Điều đó đã tạo ra mối quan hệ liên kết phụ thuộc, dựa dẫm vào nhau theo kiểu hai bên cùng có lợi. Mối quan hệ như vậy là khá bền chặt. Người thuê có cái lợi là có được cái ăn hàng ngày, không phải lâm vào cảnh vay lãi. Còn chủ cho vay thì có nguồn thu ổn định lâu dài, càng có nhiều vốn, càng cho được nhiều người vay thì nguồn thu của chủ càng lớn và càng ổn định. Song đối với người quá nghèo thì đó chính là một cái bẫy mà họ khó lòng thoát nổi, bởi vì chắc chắn suốt đời họ sẽ phụ thuộc vào chủ cho vay. Trên thực tế lãi suất của nghề này không cao, nhưng do mở rộng diện cho thuê để có nguồn thu chắc chắn nên nhiều người đã trở nên giầu có. Ví dụ như các ông Châu Văn Tất, Nguyễn Văn Sự, Vũ Văn Dũng, Phạm Văn Khu, Phạm Văn Nhân... Những người này cho vay tiền để mua sá sùng về làm sá sùng khô bán cho người Trung Quốc. Theo ngư dân nơi đây, vào những năm 1939-1940, một kg sá sùng tươi giá 1 hào 2 xu, cứ 4 kg tươi được 1kg khô, giá 1kg khô từ 7 đến 8 hào. Trừ các khoản chi phí, còn lãi được 1 hào 2 xu đến 1 hào 5 xu. Như vậy bình quân mỗi ngày đào được 2kg sá sùng tươi thì một tháng làm việc trung bình 25 ngày sẽ đào được 50 kg tươi, bằng 12 kg khô. Như vậy với 3 đồng vốn bỏ ra, sau một tháng người chủ lãi được từ 1 đồng đến 1 đồng rưỡi, cao hơn mức cho vay nặng lãi. Nghề rậu cá, rậu sam dựa vào các bãi ven đảo khi nước thuỷ chiều rút trên các bãi cạn ngư dân dùng các loại cây nhỏ dài, dài ngắn tuỳ thuộc từng nơi nước nông hay sâu nhưng thông thường dài 1m cắm dậu cố định để bắt cá, sam. Mỗi khi nước rút ngư dân chỉ việc ra bắt cá, bắt sam trong “chuồng”. Ngư dân phường Gót, phường Tân Phong xã Quan Lạn là hai phường chuyên làm nghề rậu cá, rậu sam. Nghề truyền thống lưới rê, chuyên đánh cá mòi. Nghề rê lưới đòi hỏi có thuyền trọng tải từ 1 tấn trở lên, 3-4 lao động trên một thuyền. Họ dùng 5 - 6 cheo lưới dài 400- 500m/cheo, cao 3-4,5m, cỡ mắt lưới từng then 2-3cm, có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 23 giềng, có phao và chì kéo cheo lưới căng ra trong nước. Khi phát hiện có cá ngư dân rải lưới khoanh khu vực có cá, khua động cho cá mắc vào lưới. Nghề này hoạt động theo thời gian xuất hiện của cá mòi trên vùng vịnh từ tháng 5 đến tháng 3 năm sau. Ngư dân Sơn Hào (Quan Lạn) phổ biến nghề thả bóng mực từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Bóng được đan bằng tre, giống như chiếc lờ, hình vuông hay tròn tuỳ ý, có một hom, phải buộc đá vào bóng khi thả và phải có mực mồi để nhử. Thả bóng vào lúc nước cạn ròng và thả vào chính giữa luồng nước chảy. Khi nước lên, chảy mạnh, mực theo nước lọt vào bóng không ra được. Đánh bắt cầu gai (cà ghim) ở những nơi nước sâu của Quan Lạn. Ngư dân dùng móc lấy cà ghim khỏi các hang, kẽ đá. Thường khai thác vào lúc nước ròng từ tháng 4 đến tháng 7 hàng năm. Nghề câu tay là nghề đơn giản và phổ biến của ngư dân. Nghề câu tay tức là chỉ ngồi trên thuyền tung câu, khi cá cắn câu thì giật giây. Câu thường thả ở những nơi có nước sâu. Ngoài ra còn đánh bắt bào ngư, hải sâm ở những rạn đá. Bào ngư hay còn gọi là Cửu Khổng thuộc họ trai là một loài hải sản rất có giá trị. Bào ngư thường sống ở dưới đáy các vũng vịnh sâu 4-5 sải nước, bám chắc vào lèn đá. Ngư dân dùng móc và các dụng cụ đập, đẽo để tách bào ngư ra khỏi các lèn đá khi nước cạn. Theo luật lệ xưa, tỉnh Quảng Yên mỗi người nộp bạc 1 lạng, nộp thay tiền 6 quan, rồi xét sổ thuyền hiện tại, xem dài ngang thước, tấc, tính rõ ràng từng khoản kê khai. Về lệ đánh thuế, thời chiếc thuyền nào, cái xà ngang ở giữa lòng thuyền từ 5 thước đến 6 thước 9 tấc chiếu lệ thuyền trinh- thuyền vẫn chịu thuế, mà đánh thuế. Thuyền có xà ngang 7 thước trở lên chiếu lệ thuyền đại dịch- thuyền ban năm nào vận chuyển hàng hoá của nhà nước, mà đánh thuế. [18, tr207-208] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 24 Trong điều kiện đất đảo, kinh tế nông nghiệp gặp khó, lương thực tự sản xuất không đủ cung cấp cho nhu cầu của người dân, vì vậy người dân Quan Lạn phải sống nhờ vào biển. Họ đã khai thác những ưu thế mà tự nhiên đã ban tặng cho vùng biển này bằng những phương tiện, công cụ và bằng nhiều nghề đánh bắt mà họ đã sáng tạo ra làm cho nền kinh tế ngư nghiệp có điều kiện phát triển thuận lợi, hoạt động kinh tế trong khu vực ngư nghiệp diễn ra sôi nổi hơn, tấp nập và nhộn nhịp hơn. Không thể chối cãi được rằng chính biển đã nuôi sống người dân đảo Vân Đồn. Nhờ có biển mà họ có thực phẩm để ăn và trao đổi với các địa phương khác để lấy lương thực. Biển đã đư đến cho họ những đặc sản quý giá làm đồ dâng tiến cho triều đình phong kiến, làm đồ cống nạp hoặc buôn bán với bên ngoài. Cùng với kinh tế nội, ngoại thương, kinh tế ngư nghiệp trở thành một trong những yếu tố đưa đến sự phát triển hưng thịnh của thương cảng Vân Đồn xưa. 2.2.2. Kinh tế thương nghiệp Ở Quan Lạn mặc dù kinh tế nông nghiệp không phát triển được (do hạn chế của điều kiện tự nhiên), thủ công nghiệp còn nhỏ bé, chỉ có nền kinh tế ngư nghiệp là hoạt động tương đối tấp nập và có hiệu quả, song do vị trí địa lý nằm trên con đường thuỷ ven vịnh Bắc Bộ, án ngữ con đường giao thông và buôn bán giữa Việt Nam và phía Bắc nên Quan Lạn vẫn có điều kiện để phát triển nội thương và ngoại thương, trở thành bộ phận sầm uất nhất trong thương cảng Vân Đồn. Trên đảo Vân Hải nay thuộc xã Quan Lạn có 3 bến thuyền chính, đó là bến Cái Làng, bến Cống Cái và bến Con Quy. Bến Cái Làng có nhiều ưu thế khiến người ta nghĩ rằng nơi đây xưa kia là bến thuyền chính của hệ thống thương cảng Vân Đồn. Vì ngoài yếu tố nguồn nước ngọt của giếng Hệu (hay còn gọi là giếng Nàng Tiên) có thể cung cấp lượng nước thường xuyên cho khách buôn, vụng Cái Làng sâu và kín gió thuận tiện cho các thuyền buôn neo đậu lâu ngày để bốc dỡ hàng hoá. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 25 Bến Cống Cái nằm sát chân núi Vân, nay thuộc thôn Sơn Hào tuy không được như Cái Làng nhưng cũng khá sầm uất. “Cống Cái là lạch nước rộng chừng hai trăm mét, dài 25 km, kẹp giữa hai triền đảo Cái Bàn và Quan Lạn”.[21, tr47]. Nguồn nước từ giếng Rùa Vàng tuôn ra quanh năm đủ cung cấp cho các thương khách cư trú thường xuyên. Bến Con Quy cách vụng Cái Làng khoảng 2,5km, phía bắc đảo Hải Vân, ngang với núi Con Quy. Đây được coi là một bến tạm cho các tàu thuyền dừng chân trước khi vào bến chính. 2.2.2.1. Nội thương Nội thương căn bản là sự buôn bán và trao đổi sản phẩm giữa Quan Lạn với các địa phương khác ở vùng hải đảo này, cũng như giữa Quan Lạn với cả nước. Chợ ở Quan Lạn không giống như chợ ở các vùng nông thôn chỉ là những bãi rộng với những dãy lều tranh, mà là những dãy nhà (của người buôn và làm nghề phục vụ) xây dựng liền hàng trên bờ thành dãy suốt dọc các bến: bến Cái Làng, bến Cống Cái…(gọi theo tiếng địa phương là dược nhà). Các dược nhà này có cấu trúc thẳng hàng cao dần lên phía trên, quay mặt về vụng. Đó là những cửa hàng buôn bán hoặc nhà kho phục vụ cho khách buôn trong thời gian neo đậu thuyền tại bến. Đây cũng là nơi mọi người trong vùng và cả những lái buôn ở nơi xa tới mua bán, trao đổi sản phẩm, hàng hoá. Các cuộc khai quật khảo cổ học đã tìm thấy những dấu tích nền nhà cổ san sát, phân bố lớp lớp từ dưới thấp lên cao tận lưng chừng núi dọc bến Cái Làng. Tại các chợ, người dân đảo Quan Lạn đem sản phẩm của mình đánh bắt được từ biển như cá, hải sâm, bào ngư, ngọc trai… tới để trao đổi hoặc bán cho cư dân các đảo khác và lấy hoặc mua về những sản phẩm cần thiết phục vụ cho đời sống như lương thực, thực phẩm, các mặt hàng thủ công, các loại hoa quả, chè, lụa, đồ gốm… Cư dân ở đây không có nhiều đất để sản xuất nông nghiệp, nghề nghiệp chính của họ là đi biển đánh cá, đồng thời họ đã tham gia vào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 26 hoạt động nội thương bằng nghề đi thuyền vận chuyển hàng hoá phục vụ cho việc trao đổi hàng hoá ở trong bến cảng và rất nhiều gia đình đã mở quán trọ phục vụ khách buôn. Vì vậy bến Cái Làng luôn tấp nập kẻ mua, người bán, thuyền bè qua lại. Ngoài trao đổi buôn bán trong thị trường địa phương nhỏ hẹp, ở đây đã hình thành những luồng lưu thông buôn bán rộng rãi hơn với các địa phương khác trong cả nước. Các lái buôn trong đất liền đã đem lương thực, đồ gốm, hồ tiêu, đường, vàng, trầm hương, diêm tiêu.. ra vùng đảo Quan Lạn nói riêng và Vân Đồn nói chung bán cho cư dân nơi đây hoặc bán cho thương nhân nước ngoài và đưa về các mặt hàng nổi tiếng của Quan Lạn như lâm thổ sản (lim, táu, nghiến, các loại hương liệu), các loại hải sản (ngọc trai, bào ngư, hải sâm, tôm, mực..). Tại vụng Cái Làng, khảo sát thấy “hàng triệu mảnh sành sứ có niên đại khác nhau, từ Lý- Trần- Lê, nhiều nhất là thời Lý. Những lớp sành sứ này không chỉ có độ đậm đặc mà còn có độ dày chừng 0,60m”. [40, tr155]. Tiền được lưu hành một cách rộng rãi (các cuộc khai quật khảo cổ học đã phát hiện ở thương cảng Vân Đồn xưa rất nhiều tiền của Việt Nam) như Đoan Khánh thông bảo, Cảnh hưng thông bảo, Cảnh Hưng thái bảo, Cảnh Hưng tuyền bảo, Chiêu Thống thông bảo, Thái Đức thông bảo, Quang Trung thông bảo, Quang Trung đại bảo, Minh Mạng thông bảo.. [14; 167] và đóng vai trò quan trọng trong đời sống nhân dân. Việc trao đổi hàng hóa giữa cư dân Quan Lạn với các địa phương khác trong cả nước có tác dụng thúc đẩy các hoạt động kinh tế ở đây phát triển. Do hoạt động buôn bán, trao đổi những sản phẩm của kinh tế trong vùng đã thúc đẩy người dân thu gom và đánh bắt cũng như nâng cao chất lượng lâm thổ sản, hải sản… nhằm đem bán ra bên ngoài và mua lại những đồ dùng cần thiết. Qua đó thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp phát triển thêm một bước. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 27 2.2.2.2. Ngoại thương Cảng Vân Đồn xưa ở giữa vùng đảo Vân Hải vừa xa đất liền vừa dễ kiểm soát lại kín gió nên suốt nhiều thế kỉ nơi đây là cảng ngoại thương quan trọng của nước ta. Đã từng là trung tâm của thương cảng cổ Vân Đồn, sầm uất và thịnh vượng ngay từ thế kỉ 11, đảo Quan Lạn là nơi cập đỗ của rất nhiều thuyền buôn đến từ khắp nơi trên thế giới. Theo lịch sử hàng hải đây được coi là vùng đất cực kỳ hiểm yếu của biển Đông. Vì thế ngay từ đầu thế kỉ 19, người Pháp đã cho xây dựng ở đây ngọn hải đăng án ngữ nhằm xác định vị trí và toạ độ cho các tàu buôn. Về đường vận chuyển hàng hoá: Các nguồn hàng từ đất liền theo đường sông Bạch Đằng, sông Chanh ra biển rồi men theo bờ biển tới Cửa Lục. Tại Cửa Lục, các thuyền bè chuẩn bị cho chặng đường mới đi vào vùng hải đảo Vân Đồn. Các thuyền nhổ neo từ Cửa Lục đi tiếp ra bến Cống Đông- đây là trạm dừng chân thứ nhất ngoài hải đảo. Từ Cống Đông, thuyền có thể đi vòng phía nam đảo Dao Trao rồi ngược lên hướng Đông Bắc để vào bến Cái Làng hoặc qua bến Cái Làng ngược lên bến Cống Cái (thuộc đảo Quan Lạn). Ở đây các thuyền buôn Việt Nam trao đổi hàng hoá với tàu buôn ngoại quốc và kết thúc chuyến đi, theo đường cũ chở hàng hoá về đất liền. Hoặc đi xa hơn buôn bán với vùng Châu Khâm, Châu Liêm, Châu Ung thuộc Quảng Tây của Trung Quốc. Trong trường hợp đó thì đây chỉ là một bến dừng chân. Tại Quan Lạn, các thuyền buôn sẽ lấy nước ngọt từ giếng Huệ, giếng Rùa Vàng để dự trữ. Từ Vân Đồn, các đoàn thuyền đi buôn xa với Trung Quốc sẽ ngược sông Mang, sông Cổng Đồn theo dải nước trong dọc đảo Ba Mùn, hướng về phía tây qua cửa Mô để tránh sóng lớn rồi lại men theo các đảo Vạn Mặc, Vĩnh Thực vào bến Vạn Ninh, kết thúc hành trình trên lãnh thổ Việt Nam và tiếp tục mở đầu chặng đường đi vào nước Trung Quốc láng giềng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 28 Căn cứ vào các thư tịch cổ thì khách hàng đến buôn bán ở thương cảng Vân Đồn mà trung tâm là đảo Quan Lạn có Trung Quốc, Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La, Tam Phật Tề. Trong đó đối tượng buôn bán chính là Trung Quốc. Ngoài ra còn có Nhật Bản và Tây Ban Nha (các di chỉ khảo cổ tại vụng Cái Làng đã tìm thấy đồng tiền Tây Ban Nha và nhiều bát, đĩa, sứ của Nhật Bản). [19, tr229] Hàng hoá bán ra cho khách buôn nước ngoài tại thương cảng Vân Đồn là những hàng hoá thủ công và sản phẩm thiên nhiên: ngọc trai, ngà voi, trầm hương, gỗ lim, cá, tôm, mực, sò, tơ lụa, đường, vàng sống... Riêng về đồ gốm, phần lớn là bát đĩa các loại, từ đồ men ngọc thời Lý, đồ men nâu thời Trần, cho đến đồ men cao trôn thời Lê, bên cạnh đó là những đồ gốm tráng men cao cấp của Trung Quốc và Nhật Bản. Mặc dù sử sách không nói rõ về phương thức mua bán ở thương cảng Vân Đồn nói chung và Quan Lạn nói riêng. Song theo tư liệu khảo cổ, rất nhiều loại tiền, cả tiền Việt Nam và tiền các nước khác được tìm thấy trên các bến thuyền thuộc thương cảng, đã khẳng định việc mua bán diễn ra dưới hình thức dùng tiền để trả. Sự khác biệt của Vân Đồn nói chung và Quan Lạn nói riêng so với các đơn vị hành chính khác là ở chỗ, cư dân chủ yếu không làm nông mà tập trung vào việc khai thác hải sản và tiến hành các hoạt động thương nghiệp. Nguồn lợi và các hoạt động giao thương quốc tế không chỉ đã góp phần khuyến khích sự tăng trưởng kinh tế trong nước mà còn mở rộng tầm kiến văn và tư duy chính trị khu vực của Đại Việt. Sau thời kì hưng thịnh của thương cảng Vân Đồn (từ thế kỉ XII đến thế kỉ XV), hoạt động thương mại ở Quan Lạn trong nhiều thế kỉ (XVI- XVIII) không có được sự sầm uất như trước nữa. Trong thời kì Pháp thuộc, nằm trong tình hình chung của toàn tỉnh, hoạt động thương mại ở Quan Lạn chủ yếu mang tính chất trung chuyển và dịch vụ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 29 2.2.3. Kinh tế nông nghiệp Nông nghiệp Quan Lạn chiếm vị trị nhỏ bé trong tỷ trọng kinh tế của cư dân, do vậy các quan hệ kinh tế phát sinh từ nông nghiệp nhìn chung là mờ nhạt. Do địa hình đảo, nên đất có thể canh tác được rất ít (khoảng 43 mẫu) chủ yếu là đất cát thiếu nước. Vì thế kinh tế nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, lương thực tự sản xuất không đủ cung cấp cho nhu cầu của người dân. Kinh tế nông nghiệp cũng không phải là nguồn thu chủ yếu của người dân Quan Lạn. Ngay từ cuối thời đá mới, trong các di chỉ văn hoá Hạ Long, Quan Lạn cũng như một số đảo khác trong vịnh Hạ Long- Bái Tử Long đã mở rộng việc khai phá ruộng đất, đời sống con người nhờ dựa vào nông nghiệp nên đã ổn định, đã có những khu tụ cư đông đúc. Từ khi công cụ bắng sắt ra đời, công cuộc khai hoang lấn biển bắt đầu. Song từ xa xưa, dân ở đây đã quen với nghề đánh cá và vận tải biển, vì vậy ruộng đất được khai phá muộn với tiến độ chậm và lẻ tẻ. Là khu vực cửa ngõ thông thương, Quan Lạn có nhiều điều kiện để tiếp xúc với người Trung Quốc và nhiều nước khác. Qua đó tiếp thu được một số giống cây trồng mới như đậu, kê, ngô... và kỹ thuật canh tác như bón phân, sản xuất theo thời vụ, theo tiết âm lịch.. cùng một số nghề thủ công khác. Trong kinh tế nông nghiệp, trồng trọt vẫn đóng vai trò chủ yếu. Cây trồng chính là lúa với phương thức gieo trồng theo mùa vụ căn bản giống trong nội đồng. Bên cạnh đó, còn trồng các loại hoa màu như ngô, khoai, đậu và các loại rau theo mùa. Nông nghiệp kém phát triển, sản phẩm tận thu trong trrồng trọt không có do đó chăn nuôi rất hạn chế. Trước đây Quan Lạn có 50 mẫu ruộng được khai phá chưa lâu. Toàn bộ số ruộng đó là sở hữu tư nhân, trong đó có 20 mẫu thuộc sở hữu của 6 người. Con đường làm giàu của họ vẫn là phát canh thu tô và cho vay nặng lãi. Nét khác biệt của các địa chủ phát canh thu tô ở Quan Lạn là họ cho tá điền vay Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 30 không lấy lãi và giao trâu cho tá điền cày. Ruộng được giao cho tá điền trồng cấy trong một năm với số sản phẩm là 40 kg thóc trên một sào. Như vậy mức thu tô của địa chủ Quan Lạn là 40-50%. Chỉ có điều người tá điền phải dùng toàn bộ số thóc để nộp tô, còn bản thân họ chỉ được hưởng số khoai. Đây cũng là nét đặc trưng của làng đảo, ít ruộng và nguồn thóc gạo hiếm hoi. Nhìn chung việc các chủ ruộng ở Quan Lạn cho tá điền lĩnh canh trong thời hạn ít nhất là một năm và có phần nhân nhượng họ (như việc cho vay giống không lãi, cấp sức kéo cho họ) là do ở đây ruộng đất không phải là nguồn sống duy nhất của dân cư. Làm ruộng chỉ là thứ nghề phụ bên cạnh nhiều nghề chính như vận tải biển, khai thác lâm hải sản. Do vậy sự nới rộng của các chủ ruộng là biện pháp để cột người dân vào ruộng đất. Nhìn chung quan hệ địa chủ tá điền không mâu thuẫn gay gắt như ở nội đồng và cũng chưa phát triển đến mức trở thành không thể điều hoà được trong cộng đồng làng xã mà phải nhường chỗ cho mối quan hệ giữa chủ thuyền và bạn thuyền trong nghề vận tải và nghề đánh bắt cá; giữa người đào sá sùng và người buôn sá sùng; giữa chủ khai thác gỗ và người làm thuê trong nghề này. 2.2.4. Kinh tế lâm nghiệp Đảo Quan Lạn có nguồn tài nguyên rừng và đất rừng rất lớn: rừng có nhiều loại gỗ quý như lim, táu mặt quỷ, nghiến, lát hoa đặc biệt có loài gỗ quý chưa thấy ghi trong danh mục thực vật ở các sách đã xuất bản nhưng đã quen thuộc trong đời sống là gỗ mần lái. Bên cạnh đó, còn có nhiều loại thú quý (như khỉ lông vàng, tắc kè, công…), nhiều cây thuốc quý (đằng đằng, ngũ bì gia..). Vào thời kì văn hoá Soi Nhụ và văn hoá Hạ long, nơi đây là những dải rừng nguyên sinh cây cối ngút ngàn, rừng bao trùm các đảo thuộc Vân Đồn nói chung và Quan Lạn nói riêng. Sự phong phú về tài nguyên “tiền rừng, bạc biển” Quan Lạn đã trở thành hai nguồn lợi chính trong đời sống của cư dân nơi đây. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 31 Do đó hoạt động khai thác lâm sản tương đối phát triển. Dân cư khai phá đất đai ở những nơi bằng phẳng, gần nguồn nước lập lên các điểm tụ cư trên đảo. Rừng lùi dần nhường chỗ cho xóm làng. Hoạt động lâm nghiệp đã đóng góp nguồn hàng đáng kể trong lưu thông hàng hoá trên thị trường nội địa cũng như trao đổi buôn bán với bên ngoài. Từ rất sớm, lâm sản đã được khai thác để đem đi trao đổi buôn bán, nhất là từ khi có sự hưng thịnh của thương cảng Vân Đồn, nhiều sản vật rừng là mặt hàng có sức hấp dẫn mạnh đối với khách buôn các nước, đến mức các triều đình phong kiến đã phải quan tâm quản lý bảo vệ rừng. Năm 1013, Lý Thái Tổ quy định các sưu thuế về sản vật núi rừng. Năm 1656, nhà Lê quy định thuế lâm sản. Đồng thời, nhà Lê có luật cấm buôn bán sản vật quý khai thác từ rừng. “Nếu đem gỗ lim, vàng sống, vỏ quế, ngọc trai, ngà voi bán cho tàu buôn các nước thì xử biếm ba tư”. [7, tr116 ]. Năm 1720, chúa Trịnh Cương quy định thể lệ vận chuyển lâm thổ sản nhất định phải có giấy phép. Từ vùng rừng núi, cư dân khai thác gỗ, tre, nứa để làm nhà, đóng thuyền, đan buồm, làm củi đun trong sinh hoạt hàng ngày hoặc thông qua hoạt động vận tải biển đem gỗ bán cho các chủ lò than ở đất liền hoặc bán cho dân đất liền xây nhà cửa. Thu hái các cây thuốc, đánh bắt các loài thú đem đi trao đổi buôn bán, mua về các mặt hàng cần thiết khác cho đời sống. Cư dân đã được sử dụng gỗ mần lái làm cột đình Quan Lạn. Đây là thứ lâm sản đặc hữu mà không nơi nào khác có được. Hàng trăm năm nay, ngôi đình nơi đầu sóng ngọn gió vẫn bền vững. Xưa thiếu sắt, ngư dân còn dùng chạc cây mần lái làm mỏ neo thuyền. Cùng với các loài hải sản, nguồn lâm sản quý khai thác được cũng là những sản vật địa phương có giá trị dâng tiến cho triều đình phong kiến. 2.2.5. Nghề vận tải biển Bên cạnh hoạt động trao đổi buôn bán hàng hoá, Quan Lạn còn nhộn nhịp bởi hoạt động vận chuyển, lưu thông hàng hoá bởi đây là trạm trung Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 32 chuyển, điểm dừng của hàng hoá từ nước ngoài đưa vào nội địa và từ nội địa xuất cảng ra bên ngoài. Nghề vận tải biển ở Quan Lạn, trước Cách mạng tháng Tám có một số người giàu là chủ của những con thuyền có trọng tải lớn như Lưu Văn Tần, Bùi Văn Đạm, Vũ Thị Cát, Hoàng Văn Đĩnh... “Họ chuyên cho người làng thuê với giá 30 đồng một tháng để đi mua củi bán hoặc chở thuê. Thông thường cứ 10 người tập hợp lại với nhau thuê một thuyền gồm một thuyền trưởng cầm lái và 9 bạn thuyền”. [36, tr55] Họ đến những vùng rừng núi đang được khai thác để mua gỗ bán cho các chủ lò than ở đất liền hoặc bán cho dân đất liền xây nhà cửa. Mỗi chuyến đi dù lãi hay lỗ mọi người cùng chịu. Nếu để hỏng thuyền mọi người cùng chịu phí tổn sửa chữa. Tại đây tính cộng đồng và hợp tác giữa những người bạn thuyền biểu hiện khá rõ nét. Còn giữa những người bạn thuyền với chủ thuyền là quan hệ thuê mướn. Ngoài những chủ thuyền lớn, đa số những chiếc thuyền ở Quan Lạn đều là thuyền nhỏ, trọng tải từ 2 đến 10 tấn. Các chủ thuyền loại này ít cho thuê mà thường tự đem thuyền đi buôn hoặc chở thuê. Tuy nhiên mỗi chuyến họ thường mời thêm bạn thuyền cùng đi. Lãi của mỗi chuyến đi được chia đều cho mỗi thành viên sau khi đã trừ hết các khoản chi phí theo nguyên tắc người có vốn, có thuyền được hưởng một tỷ lệ riêng: Người chủ thuyền tham gia chuyến đi thì được hưởng 1,2 định suất bằng với mức mà người lái thuyền được hưởng, những người bạn thuyền được hưởng 1 phần (1 định suất). Trong quá trình vận chuyển, nếu trường vốn hoặc có người góp vốn, thì họ có thể mua hàng về bán cho dân. Sau khi trả cho những người làm công một nửa số lãi của chuyến đi, nửa còn lại chia làm 2 phần, một phần cho chủ thuyền, phần kia chi cho những người hùn vốn theo tỷ lệ vốn mà họ đã bỏ ra. Đội thuyền buôn Quan Lạn là một trong những đội thuyền buôn chuyên nghiệp ở Quảng Ninh. Cũng giống như các đội thuyền buôn Trà Cổ, Tiền An, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 33 đường vận chuyển của đội thuyền buôn Quan Lạn chủ yếu đi từ Hải Phòng đến Quảng Yên- Hạ Long- Mũi Chùa- Vạn Ninh- Đông Hưng và ngược lại. Dần dần tuyến đường của họ đi sâu vào phía nam như Nghệ An, Huế và ngược dòng lên vùng trung du và miền núi như Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai. Các mặt hàng được chuyển đi là đặc sản rừng, đặc sản biển như gỗ quý, cá mực khô, nước mắm... Về sau cùng với sự suy tàn của thương cảng Vân Đồn, hoạt động vận tải biển ở Quan Lạn cũng bị hạn chế chỉ giới hạn trong dịch vụ vận chuyển hàng hoá, hoạt động buôn bán kèm theo hầu như không có. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 34 Chương 3 VĂN HOÁ TINH THẦN CỦA CƯ DÂN ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH 3.1 Các tục lệ chủ yếu trong đời sống Theo từ điển tiếng Việt (nxb KHXH tr913) tục lệ có nghĩa là những điều quy định có từ lâu đời đã trở thành thói quen trong đời sống xã hội. Trên bình diện tục lệ của ngư dân Quan Lạn nói riêng và phong tục tập quán nói chung vừa mang đầy đủ những đặc điểm chung thống nhất với văn hóa phong tục của cư dân Quảng Ninh nói chung vừa lưu giữ được nhưng sắc thái riêng của ngư dân vùng đất này. Tục lệ rất phong phú có trong mọi lĩnh vực của xã hội song trong phạm vi luận văn, chúng tôi chỉ nêu lên những phong tục tập quán cơ bản nhất gắn liền với vòng đời của mỗi thế hệ người chủ yếu là: việc sinh đẻ, hôn nhân, tang ma và lễ tết. 3.1.1. Sinh đẻ Việc sinh con được ngư dân Quan Lạn rất coi trọng. Đây là lễ thức đầu tiên trong vòng tiến triển của một đời người. Vợ chồng lấy nhau không có con được xem là trường hợp đặc biệt, tục lệ - quan điểm của xã hội phụ quyền xưa tồn tại thiết chế cổ truyền trên đảo rất nghiêm khắc và cực đoan chỉ lên án người phụ nữ - người vợ cho đó là tội nặng một trong bảy tội không thể tha thứ. Trong trường hợp này, người ta coi đó là duyên số, duyên phận của hai người hoặc do phúc đức của hai bên phối ngẫu hoặc do quả báo từ kiếp trước theo thuyết luân hồi của Phật giáo. Nếu điều này xảy ra ngư dân phải cầu cúng, lễ bái tại đình chùa, miếu, phải tích đức thiện để chuộc tội, giải oan nghiệp của kiếp trước. Hoặc nếu tin do ma tà ám ảnh gây nên cảnh “hữu sinh vô dưỡng” thì phải cúng bái những hồn người đã khuất về quấy nhiễu hoặc cúng hà bá, thủy thần. Cũng có trường hợp khi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 35 cho rằng tuổi của hai người xung khắc thì phải nuôi con nuôi. Dù trong trường hợp nào mọi điều tiếng mọi phiền muộn người vợ không sinh đẻ phải gánh chịu. Khi có thai người phụ nữ phải kiêng cữ rất nhiều. Việc kiêng cữ tập trung ở các mặt: ăn uống, cử động và giao tiếp. Về ăn uống, tránh ăn thức ăn quá bổ sợ thai to khó sinh, kiêng ăn sú, ốc để tránh cho con bị rãi rớt, không ăn cua để tránh con nói ngang, không ăn mực vì sợ con tăm tối, không ăn những lễ vật, đồ cúng tế tại những đám tang, đám cưới để tránh bệnh sài. Về cử động, tránh mọi cử động mạnh trong lúc mang thai, không chèo thuyền, không tiễn người ra biển. Người phụ nữ cũng phải tránh xa những cảnh tượng hãi hùng hoặc đau đớn, tránh mọi hoạt động gian tà, không kêu gào la hét. Tuy nhiên người phụ nữ mang thai cũng càn phải có những việc làm, cử động chân tay nhẹ nhàng để sinh nở được dễ dàng. Mặc dù không ra biển đánh bắt nhưng họ cũng tham gia các hoạt động ngư nghiệp khác như đào sá sùng, đánh bắt cầu gai. Về giao tiếp, người mang thai phải ăn nói dịu dàng, cử chỉ khoan thai, tươi cười, giữ cho tâm hồn trong sáng. Thông thường người ta mong sinh con trai đẻ nối dõi tông đường nhưng ngư dân Quan Lạn có tư tưởng bình đẳng nam nữ khá sâu sắc nên trong cộng đồng ngư dân truyền nhau câu nói “có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ” hoặc khẳng định: “ Trai mà chi, gái mà chi Sinh con có nghĩa, có nghì là hơn” Sau khi sinh con người phụ nữ phải ở cữ ba ngày theo quan niệm mỗi người có ba hồn, và bảy ngày sau nếu là con trai (nam giới có bảy vía), hoặc chín ngày nếu là bé gái (nữ có chín vía).[36, tr500] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 36 Hết ba ngày đầu thì gia đình làm lễ cúng thần Dưỡng bà. Hết cữ gia đình phải làm lễ đầy cữ để trả cho công lao của các bà mụ. Vì ngư dân có quan niệm mỗi bà mụ chịu trách nhiệm nặn một bộ phận cơ thể. Lễ cúng mụ được ngư dân Quan Lạn tuân thủ rất nghiêm túc, không một đứa trẻ nào được sinh ra mà không có lễ cúng mụ. Lễ vật dâng cúng mụ gồm 12 suất, chia thật bằng nhau tất cả các loại thức cúng, để mỗi bà một phần. Họ quan niệm rằng nếu không thực hiện sự công bằng đó sẽ tạo ra sự ghanh tị giữa các bà mụ ảnh hưởng xấu đến đứa trẻ. Sau lễ đầy cữ là lễ đầy tháng. Với quan niệm “dương sao âm vậy” nên khi sinh con nhất là sinh con trai, gia đình thường phải làm lễ cúng gia tiên tại nhà và lễ cúng tại từ đường của dòng họ để trình tổ tiên báo tin mừng rằng nòi giống họ tộc đã thêm chồi, để tổ tiên phù hộ cho đứa trẻ khỏe mạnh. Trong lễ đầy tháng, ông bà, người thân đến mừng cháu bằng quà tặng hoặc những lời chúc tốt đẹp. Với ngư dân nơi đây quà tặng thường là một hai chục ngán, một vài con cá bớp…toàn những thứ quen thuộc của địa phương nhưng cần thiết để sản phụ bồi bổ sức khỏe.[36, tr500] Nếu dân nội đồng cùng với việc cúng gia tiên là việc cáo trình thổ công “đệ nhất gia chi chủ” để ngài che chở cho đứa trẻ, thì ngư dân Quan Lạn lại làm lễ cúng thủy thần tại miếu hoặc dọc bờ biển để yết trình về tên tuổi, gia tộc của đứa trẻ để thủy thần nhận mặt, che chở cho đứa trẻ như một con dân sẽ sinh sống khai thác trên địa phận mà thủy thần cai quản. Ngoài ra nếu gia đình nào có điều kiện hơn, tâm linh hơn thì làm lễ cúng tại đình, đền, miếu để các vị thần linh trong làng ban phúc cho đứa trẻ. Nếu là bé trai thì vào ngày 11/6 Âm lịch mỗi gia đình phải có một lễ xôi gà trình lên miếu Đức Ông để tổ chức cai đám cho đứa trẻ như báo cáo có một nhân đinh mới sau này sẽ làm nghĩa vụ với làng. Đến đây nghi lễ đầu tiên với một đứa trẻ mới chào đời mới thật sự hoàn tất, và chúng thực sự được công nhận là thành viên của họ tộc làng xóm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 37 3.1.2. Cưới xin Việc cưới xin gọi là giá thú (giá lấy chồng; thú lấy vợ). Người dân gọi đó là việc “dựng vợ gả chồng”, “việc trăm năm”. Đây được coi là một trong ba việc lớn của đời người: sinh đẻ (ra đời), lễ cưới (thành hôn), lễ tang (chết). Trước khi bàn tính chuyện hôn nhân, các chàng trai phải làm lễ thành đinh để đóng góp với làng, từ nay sẽ gánh vác việc làng cũng là mốc đánh dấu đến tuổi tìm hiểu, giao duyên. Trong những lần hội làng, những cuộc hát hội, hát ví giữa các thuyền, hát đối trong đám cưới, trai gái có cơ hội giao duyên. Nhưng mọi chuyện chỉ dừng lại ở tình yêu. Muốn thành đôi phải có cưới xin theo “lệ làng phép nước”. Ngư dân Quan Lạn theo chế độ phụ quyền, hôn nhân cư trú bên nhà chồng. Nhà trai cậy người mai mối, tìm vợ cho con trai mình. Ông mối (hay bà mối) là người ăn nói hoạt bát, hiểu biết, vui vẻ, trung thực. Người mối đến nhà gái thăm hỏi tìm hiểu gia thế, đặc biệt là về cô gái (tuổi, sức khỏe, vóc dáng, tính tình). Sau đó giới thiệu với nhà gái về lai lịch chàng trai cả hai bên ưng thuận việc thành thân cho đôi trẻ. Trước khi cưới phải xem tuổi, chọn ngày tốt. Thông thường, đám cưới tiến hành theo các bước: - Lễ dạm (lễ chạm ngõ) còn gọi là dấp ngõ. Đại diện nhà trai cùng người mai mối đem cau ngon đến nhà gái, chính thức trình bày ý định của mình. Nhà gái nhận cau tức là đã ưng thuận. - Lễ ăn hỏi: Ngư dân đảo Quan Lạn gọi là đưa trầu. Nhà trai chọn ngày tốt mang trầu cau sang nhà gái, chính thức đặt vấn đề kết hôn giữa đôi trai gái với hai họ. Ngư dân thường đem 100 quả cau, 100 lá trầu không và đem thêm một số cau lẻ 1- 3- 5- 7 hoặc 9 quả. Số cau thường được lấy nguyên từ một buồng. Ngoài ra còn có rượu, chè. Tất cả được xếp trong các quả cưới sơn son thiếp vàng, cử các nam thanh nữ tú đội cùng các ông bà chú bác sang nhà gái.[36, tr502] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 38 Đại diện nhà trai thường là người diện mạo đàng hoàng biết ăn nói có lời thưa với nhà gái, đặt lễ để bố cô gái làm lễ gia tiên. Lễ xong, nhà gái khai hộp xem lễ vật và công khai với hai họ, rồi lại lễ cho nhà trai một phần, số còn lại chia cho anh em họ hàng, làng xóm để thông báo về việc con gái mình đã có nơi có chốn. Sau lễ ăn hỏi, đôi trai gái được coi như vợ chồng, hiện tượng trả lại trầu cau rất ít xảy ra. Song nếu vì lý do nào đó, cô gái và gia đình nhà gái không muốn tiếp tục hôn nhân thì phải trả lại trầu cau cùng toàn bộ số lễ vật mà nhà trai mang sang. Còn nếu nhà trai chối hôn phải nói lại với nhà gái. Cũng sau lễ ăn hỏi, người con trai phải sêu tết, tức biếu bố mẹ vợ những thức ăn quý đầu mùa. Sêu là nghĩa vụ gần như bắt buộc. Với ngư dân Quan Lạn, chàng rể phải sêu tết từ 2 - 3 năm mới được cưới. Trong thời gian đó, chàng rể còn phải giúp công việc nhà cửa, làm ăn, đánh bắt cho bố mẹ vợ tương lai. - Lễ cưới: Ngày cưới được gia đình, họ hàng hai bên ấn định vào một ngày tốt. Đám cưới thường được tổ chức vào những ngày giữa tháng âm lịch trong mùa cưới từ tháng 8 năm trước đến tháng 3 năm sau. Đó là những đêm giữa tháng trăng sáng cá ăn tãi, dân chài thường nghỉ đánh bắt, cũng là những đêm non nước lung linh kì ảo. Trước ngày cưới, nhà gái phải nộp cheo cho làng, nhà trai phải nộp lễ vật cho nhà gái. Nộp cheo cho làng thực chất là khoản tiền mà nhà trai nộp thay cho nhà gái để được dân làng công nhận cuộc hôn nhân của đôi trai gái. Lễ vật cho nhà gái gọi là tục thách cưới, tuỳ theo đòi hỏi của nhà gái. Song nhìn chung gồm có: Lễ tổ thường là xôi, thủ lợn, rượu gồm 3 lễ cho ngành trưởng của bố cô dâu, gia đình mẹ cô gái, lễ cúng gia tiên; Hiện vật cho tiệc cưới của nhà gái gồm trầu cau, gạo nếp, gạo tẻ, rượu, chè, thuốc; Tiền cọcđể đền bù công nuôi dưỡng của người mẹ cô dâu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 39 Ngày cưới, cả hai bên nhà trai gái đều làm cỗ mời họ hàng bạn bè làng xóm. Nhà trai thường đón dâu bằng vài ba thuyền lớn. Sau bữa cơm chiều đoàn thuyền nhà trai xuất hành. Dẫn đầu nhà trai là một vị cao niên trong họ gọi là chánh sứ. Trong đám cưới của ngư dân Quan Lạn có tục hát đám cưới. Kiểu hát này gọi là hát cưới trên thuyền - kiểu hát có đĩa hoa, nhà trai, nhà gái lần lượt xướng họa. Đây là lối hát điển hình trong cộng đồng dân chài ở vùng đảo Vân Đồn. Cuộc hát bắt đầu từ hát dậy gánh. Chánh sứ hát: “ Bây giờ đã đến giờ thân Nào trai nào gái nhanh chân xuống thuyền” Hoặc gia chủ hát: “Bây giờ đã đến giờ mùi Xin mời chánh sứ, xin mời bù đa”. Bù đa là ông mối hoặc bà mối. Dọc đường đi, các chàng trai vui vẻ hát chúc mừng chú rể nhưng chủ yếu là để luyện giọng sắp xếp đội hình, dự tính tình huống để quyết thắng trong cuộc hát đấu với nhà gái. Thấy thuyền nhà trai tới, nhà gái thường chủ động hát hỏi: “ Thuyền nào mà đến bến ta Mua tơ mua lụa hay là mua duyên Thuyền quan thì đậu bến quan Thuyền buôn thuyền bán đậu sang bến người” Nhà trai phải trả lời cho phải lẽ. Chẳng hạn: “ Không dưng thuyền đến bến này Vì tình vì nghĩa vì dây tơ hồng” [36, tr305] Cũng có khi nhà gái hát chào trước song lại bịa ra rất nhiều lí do để gây khó dễ bắt nhà trai phải chờ đợi. Nhà trai nài nỉ kêu mỏi gối chồn chân, ngựa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 40 đói người khát. Nhà gái cám cảnh thương tình mới hát “mở ngõ khách” mời nhà trai vào. “Mở ngõ khách” tức là tháo bỏ dải lụa treo cao nhất và bắc cầu nối hai họ nhà: “ Cầu này cầu trúc cầu mai Cầu ân cầu ái nối hai họ nhà” “Mở ngõ khách” chỉ để mời các ông già bà cả. Sau khi mở ngõ khách nhà gái hát mời trầu, mời nước ông chánh sứ và các vị cao tuổi nhà trai tiếp đó hát “mở ngõ cheo” để mời chú bác cô dì - các vị trung niên. Nhà trai hát: “ Đường này thăm thẳm neo thông Vì cây dây quấn nhọc lòng đến đây Cớ sao chỉ mở ngõ ngoài Đường quan lại gặp chông gai chặn đường Đã là giao hết thông thương Cớ sao rào giậu chắn đường nhà trai” Nhà gái đáp lại “ Xin đừng ăn nói đơn sai Nhà quan cửa đóng then cài thâm nghiêm Phải đâu suồng sã buông tuồng Phải đâu bãi sú trăm đường vào ra” Cuối cùng nhà gái cũng cởi dải lụa thứ hai- “mở ngõ cheo”. Nếu không hát đối đáp nổi thì các vị trung niên họ nhà trai phải đưa tiền phong bao thay lời hát cho nhà gái và hát tượng trưng: “ Ngày vui bác cũng mừng cho Một trăm nén bạc, mươi bồ gạo thơm Dì cho mười mẫu ruộng liền Một trăm sải lưới, một thuyền gỗ lim” Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 41 Hát đám cưới hay nhất vẫn là hát ngõ hoa. Nhà trai là khách mua hoa, nhà gái là người bán hoa. Ẩn sau những lời hỏi giá và mặc cả giằng co là tình yêu đôi lứa tha thiết đằm thắm đậm tính nhân văn. Chẳng hạn các chàng trai hát: “ Hỡi nàng thấp thoáng ngõ hoa Hoa còn tươi tốt hay là hoa ôi? Mua hoa xin hỏi thực thà Hoa còn phong nhuỵ hay là ong châm? Mấy cơn gió bắc mưa dầm Hoa tàn nhị rữa mấy lần hỡi hoa? Hoa còn tươi tốt trên cây Hay là hoa đã vào tay ai cầm? Mua hoa những sợ mua nhầm Tiếc công lại phí tiền trăm người cười! ” Bên nhà gái, cô dâu hoặc bạn bè hát đáp lại, khiêm nhường mà cứng rắn: “Cũng thân cỏ nội hoa đồng Liệu chàng có kén một bông hoa hèn? Hoa thơm thoang thoảng mà bền Còn hơn xanh đỏ tím vàng mà hôi Hoa này ngan ngát chàng ơi Hoa bền còn ở tay người cắm hoa! Cho dù bão táp mưa sa Che mưa che nắng biết là mấy công Cho dù ong bướm lượn vòng Nhuỵ còn phong kín ở trong hoa này! Hoa thơm hái tự vườn nhà Xin đừng chuộng rẻ mua hoa giữa đường” [36, tr306-307] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 42 Trong hát ngõ hoa thường có hát đố hát giảng. Bắt đầu là hỏi về các loại hoa, cách trồng hoa rồi miên man dẫn đến hỏi nhà, hỏi họ hàng, hỏi về thuyền cá, về nghề trên cạn dưới nước, về kiến thức thiên văn địa lí, về lịch sử văn chương về truyện Kiều và truyện thơ. Những câu hát đố rất giàu chất trí tuệ nếu không biết trước hoặc được bày cách thì rất dễ thua. “ Đến đây hỏi khách tương phùng Con gì một cánh bay cùng nước non” Lời giải là “ Tương phùng nhắn bạn tương tri Con thuyền một cánh buồm đi tít trời” Và hỏi lại: “ Nơi nào mà cao tít trời Mà sâu hơn biển mà dài hơn tơ” Lời giải là: “ Trán người thì cao hơn trời Lòng sâu hơn biển, đường dài hơn tơ” [42, 5] Say sưa đối đáp trắng đêm, cuộc hát lại quay về chuyện mua hoa, bán hoa. Nhà trai là người mua hoa. Nhà gái là người bán hoa. Ẩn giấu trong những lời ca tiếng hát mặc cả giằng co là tình yêu đôi lứa tha thiết, mặn mà mang đậm tính nhân văn. Một cô gái bưng ra một mâm hoa tươi, đủ loại hoa trong vườn trên rừng. Một cô gái khác dùng đũa dài bằng gỗ mần lái gắp từng bông hoa bỏ vào vạt áo dài chàng trai và hát: “ Chàng nâng vạt áo chàng ơi Hoa rầu hoa rập tủi người bán hoa...” Hoặc, các cô gái lần lượt bán hoa cho từng người, mỗi bông hoa kèm theo một câu hát: “ Hoa này đẹp cửa đẹp nhà Hoa này thơm cả đường ra lối vào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 43 Hoa này chàng hãm chè Tàu Hoa này chàng cắm bên lầu ngâm thơ” “ Hoa này giữ trọn lời thề Thuỷ chung chỉ quyết một bề thuỷ chung” “ Hoa này nên nghĩa vợ chồng Nên tình nên nghĩa ở trong hoa này”[36, tr307] Tiếp đó là hát than hoa. Lời hát than hoa muôn vẻ thường bắt đầu bằng câu: “hoa hời hoa hỡi là hoa” và gửi vào đó niềm xót xa phải xa mẹ xa cha bước sang nhà người, lênh đênh vô định. Đây là phần hát cảm động nhất: “ Hoa hời hoa hỡi là hoa Tiếc công hôm sớm mẹ cha vun trồng Từ đây vườn trống nhà không Hoa trôi hoa giạt hãi hùng nắng mưa...” Hay: “ Hoa hời hoa hỡi là hoa Từ đây hoa có còn là tốt tươi Hoa thơm trong vạt áo người Rồi ra héo hắt rã rời cánh hoa Mai ngày hương sắc phôi pha Hoa tàn nhị rữa kiếp hoa lìa cành Phải tay vùi dập phũ phàng Ong chê bướm chán bẽ bàng đời hoa...” Hoặc: “ Hoa hời hoa hỡi là hoa Hôm nay chàng quý mai là còn yêu Hôm ngay ngon ngọt trăm điều Mai ngày hoa khác làm xiêu lòng chàng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 44 Hôm nay tay đón tay nâng Mai ngày chàng giẫm bên đường chàng đi” [36, tr307] Trước những lời đắn đo xúc động day dứt ấy, chàng rể hoặc phù rể đáp lại an ủi lòng cô gái bằng những lời thề nguyện chân thành, tốt đẹp: “ Trăm năm một cuộc tình duyên Phải đâu thăm ván bán thuyền cho qua Một lời đã nói cùng ta Đâu như bãi sú vào ra trăm đường Đã thương thì một lòng thương Nào như tép lẫn vãi đường vịt ăn” Hoặc: “ Đã thề thắm thiết với hoa Bể sâu núi dựng với là trăng soi Yêu mình lắm lắm mình ơi Đôi ta ra lộng vào khơi chung tình” [36, tr308] Bên cạnh hát mua hoa, cá biệt ở một số đám cưới còn hát mua chim để mong loan phượng có đôi, mong chim được nuôi gạo trắng nước trong. Và cũng như hát than hoa, cuối đám cưới là hát than cá chậu chim lồng. Nhiều cuộc hát đám cưới kéo dài tròn ba đêm mới đón cô dâu về. Trước khi sang thuyền nhà trai, cô dâu bao giờ cũng hát lạy ông bà cha me, từ biệt người thân bằng giọng than xúc động. Trên đường đón dâu về hai họ vẫn hát đối đáp. Đến nhà trai, đại diện nhà trai vào nhà trước, nhà gái theo sau. Nhà trai cử hai người phụ nữ có chồng con, khoẻ mạnh, biết làm ăn ra đón. Mẹ chồng không bao giờ ra đón con dâu. Chú rể và cô dâu làm lễ trước bàn thờ gia tiên, rồi thực hiện lễ tế tơ hồng. Một người đàn ông khỏe mạnh, song tuyền, đông con cháu đặt một mâm cỗ giữa sân cỗ gồm: gà, xôi, 100 miếng cau. Hai vợ chồng quỳ trước bàn thờ. Người đàn ông làm chủ lễ đọc văn tế. Tế xong người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 45 chồng bưng chén rượu mời vợ uống, vợ bưng đĩa cau mời chồng, còn lễ vật thì biếu người tế tơ hồng. Sau lễ tế tơ hồng là tiệc mừng của nhà trai. Họ hàng và khách mời của nhà trai lại hát chúc gia chủ, chúc đôi vợ chồng trẻ trăm năm hạnh phúc. Có thể thấy tục hát cưới trong đám cưới của ngư dân Quan Lạn có tính chất như tục hát giao duyên. Hát cưới không chỉ để chúc mừng cô dâu, chú rể mà còn là nơi gặp gỡ, giao lưu của trai gái trong cộng đồng. Qua những câu hát, lời đối đáp thử tài nhau mà trai gái nên duyên vợ chồng. 3.1.3. Tang ma Ở bất kỳ cộng đồng người nào, hoạt động tang ma cũng đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống tín ngưỡng của tộc người. Quan sát hoạt động tang ma ta có thể nhìn nhận nội dung ý thức tâm linh của con người. Là ngư dân song ở Quan Lạn do đặc điểm cư trú trên đất đảo rộng lớn, hơn nữa từ sớm đã có sự giao lưu văn hoá với đất liền nên hoạt động tang ma của ngư dân ở đây không đặc trưng như các làng vạn chài sống lênh đênh trên thuyền khi chết gửi xác trên đảo hoang lễ tang chỉ diễn ra trong phạm vi dòng tộc thậm chí chỉ có những người trong gia đình. Song về cơ bản một đám ma của ngư dân Quan Lạn cũng tuân theo các bước của nhân dân nội đồng. Cụ thể là: - Lúc hấp hối: Với quan niệm hoà quyện âm dương, lên lúc hấp hối, con cháu kiêng ra gian giữa, đầu quay về hướng Đông để đón sinh khí từ phía mặt trời cho người chết. Sau khi tắc thở, con cháu đặt thi thể người chết xuống chiếu trải dưới đất từ 2 - 3 phút xong lại đặt lên giường để tiếp sinh khí cho người chết, rồi đậy mặt kín đáo. - Gọi vía cho người chết thường là con trai trưởng gọi. Việc gọi vía của ngư dân rất đơn giản, không có vai trò của thầy cúng. - Gội và lau thi thể bằng nước nóng, cắt hết móng chân móng tay, móng chân móng tay phải gói riêng khi nhập quan thì phải để đúng theo thứ tự phải trái. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 46 - Lễ phạm hàm: Ngư dân quan niệm người chết ai cùng bị hành tội dưới âm phủ nếu không chịu đựng được mà nói sai thì làm hại người sống, cũng là để người chết trả tiền thuyền đò trên đường sang thế giới bên kia, nên người cháu đặt một đồng tiền đã mài sáng rửa sạch cùng hạt gạo đã vo để khô (nam 7 hạt, nữ 9 hạt) vào mồm người chết. - Liệm: Thường xem chọn giờ tốt để liệm. Vải tốt hay xấu tuỳ từng điều kiện gia đình. - Lễ nhập quan: Sau khi liệm xong thì tiến hành nhập quan, sau nhập quan con cháu khiêng linh cữu ra đặt ở gian giữa đầu quay vào trong nhà. - Về phát tang: Con cháu làm lễ thành phục (mặc áo tang). Con trai đội rế trên đầu, buộc đai bằng dây chuối ở ngang lưng đứng phục tang. Nếu không có con trai thì con rể phải đứng phục tang nhưng không chống gậy. Sau lễ phát tang, tang chủ cùng gia tộc cử người am hiểu lễ nghi làm chủ lễ, chủ trì công việc hộ tang cử người tiếp khách đến phúng viếng. Con cháu của người quá cố phải ngậm khăn tang vào mồm theo sau người vào phúng viếng. - Lễ đưa đám: (Lễ phát dẫn) Việc đào huyệt cho người chết phải do người trong dòng họ đảm nhiệm, còn việc khiêng linh cữu người chết do 8 người trong xóm làm cùng có thêm hai người rước trống và đánh trống. Trước khi đưa đám, tang chủ và gia tộc phải rước ảnh người quá cố sang nhà thờ họ cáo yết tổ tiên, sau lễ an táng rước về làm lễ 3 ngày. Việc này gây tốn kém nhiều về sau vì khi có người chết mọi người trong xóm đều tự giác đến hộ tang do đó chôn chất xong tang chủ bắt buộc phải làm cơm mời mọi người trong xóm. Ở Quan Lạn có hai phường lo việc hiếu. Từ xưa, khi có người chết thì xóm gốc của người đó lo tang. Về sau, có những người giàu đã mời làng đi đưa tang để được tiếng. Làng ở đây là các vị tân cựu, chức sắc, chức dịch dần dần hình thành một hội tư văn để lo tang lễ cho những người giàu có hoặc những người có địa vị trong làng. Tất nhiên người ta vẫn mời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 47 xóm đi đưa tang. Cung cách như vậy đã tạo ra sự cách biệt thậm chí đối lập với người nghèo. Đầu thế kỉ XX, Hội nghĩa hợp đã được tổ chức gồm những người nghèo không có chức vị gì trong làng tập hợp nhau lại để làm việc nghĩa. Hội có hội trưởng là người phải trên 40 tuổi, am hiểu phong tục, biết tổ chức và có uy tín với mọi người. Hội trưởng mỗi năm bầu một lần vào ngày 6 tháng Giêng. Mỗi hội viên tham gia hội phải đóng tiền chân là một đồng, hằng năm đóng phí táng là một hào. Tất cả số tiền này đều do hội truởng giữ và cho vay lãi. Hội trưởng cùng với xóm trưởng đứng ra tổ chức tang lễ. Sau lễ 3 ngày là lễ tuần đầu, 100 ngày, giỗ đầu và cải táng (có thể từ 3 - 5 năm), ngư dân Quan Lạn không tổ chức 49 ngày.[36, tr506] Đó là với trường hợp chết bình thường ( người chết ốm, hay già chết), còn những người chết mất xác hay chết đuối trên biển thì phải chiêu hồn lập mộ. Những đám ma này thường phức tạp hơn ở phần nghi lễ nhưng so với dân nội đồng thì tiến bộ hơn nhiều vì không có vai trò của thầy phù thuỷ, thầy cúng. Trước hết gia quyến của người xấu số phải làm lễ cúng ngoài biển để cầu xin thần biển, vua hà bá bao bọc lấy thân xác người thân của họ (với trường hợp chết mất xác), và thả hồn người chết để họ trở về với người thân. Sau đó gia quyến phải làm lễ gọi hồn, bắc cầu cho người chết trở về. Đối với người chết đuối mà tìm thấy xác thì khi nhập quan với quan niệm "sét đánh không có lá thiên, chết đuối không có lá địa" quan tài của người chết đuối không có lá địa mà thay bằng tấm lót ken ở sàn bằng tre, nứa. Đặc biệt với người chết mất xác thì gia quyến phải tạo ra một hình người giả xương bằng thân cây dâu, đầu bằng vỏ dừa, dài khoảng 2 thước (80 cm) đặt trong quan tài gỗ, lấy máu của con hoặc anh em người quá cố phết vào hình giả, gọi hồn rồi đem chôn, lập mộ giả. Như vậy hoạt động tang ma của ngư dân đảo Quan Lạn không có sự rườm rà, mê tín của các hoạt động đồng bóng, phù thuỷ, không mời thầy cúng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 48 và không có người làm thầy cúng. Đây là một đặc điểm rất tiến bộ trong văn hoá tâm linh của ngư dân vùng đất này. 3.1.4. Một số lễ tết và lễ hội trong năm Nếu như hoạt động nông nghiệp lúa nước mang tính thời vụ cao, thời gian nông nhàn kéo dài và liên tục nên cư dân nông nghiệp có nhiều lễ tết hội hè. Ngược lại, do khí hậu nhiệt đới cho phép khai thác vùng biển quanh năm và đặc trưng của nghề đánh bắt phụ thuộc vào con nước, nên thời gian rỗi trong ngư dân không nhiều và ít cố định vì vậy số lượng lễ tiết của ngư dân cũng ít hơn và đơn giản hơn. - Tết Nguyên Đán là tết to nhất trong năm, vì nó kết thúc một năm âm lịch theo sự biến chuyển của thời tiết, “bốn mùa xuân lại đông qua”. Ở nhiều nơi Tết được bắt đầu bằng tết ông Táo, còn ở Quan Lạn ngư dân không ăn tết ông Táo. Chiều 30 Tết, các gia đình làm lễ đón gia tiên về ăn tết cùng con cháu. Mỗi gia đình làm từ 2 - 4 chiếc thuyền không mui bằng bẹ chuối. Trên mỗi thuyền cắm 6 lá cờ đuôi nheo bằng giấy xanh đỏ. Trên mặt thuyền trải một tờ giấy đỏ, đặt một dúm gạo, cắm ba nén hương, tổ chức cúng gia tiên tiễn biệt năm cũ, đón năm mới. Đến mùng 4 hoặc mùng 6, tuỳ từng gia đình làm lễ hoá vàng đưa tổ tiên về thế giới bên kia. Sáng mồng 1 Tết, các gia đình làm lễ gia tiên. Sau bữa cơm đầu năm, mọi người đi chúc tết anh em họ tộc, xóm làng, bạn bè thân quen và đi lễ bái cầu lộc ở cửa đình, chùa, miếu, đền. Trong ba ngày Tết, ngư dân có một số kiêng kị bắt buộc: Người có tang từ một năm trở lên cũng phải đi thăm hỏi chúc Tết những người cần thiết trong ngày 30 Tết, hầu hết ngư dân kiêng tiếp người có tang trong 3 ngày Tết. Không đánh mắng trẻ con, không nói tục, không to tiếng với nhau. Đặc biệt người dân chài tuân thủ nghiêm túc việc kiêng xin lửa, dầu, nước mắm, muối, không vay gạo vay tiền của nhau. Tục kiêng này cũng được thực hiện vào ngày đầu con nước. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 49 - Ngư dân Quan Lạn không có tục ăn Tết mồng 3 tháng 3. Thay vào đó, tổ chức tảo mộ, giỗ tổ được tiến hành vào đầu tháng Chạp. - Rằm tháng 7, rằm tháng 8, 10 - 10 ngư dân ít tổ chức ăn uống. Chỉ có Tết 5 - 5 là được chú ý. Ngư dân đi hái các loại lá đun nấu uống nước để trừ “viêm nhiệt”, ăn các loại quả (mận, đào, lê) gọi là “giết sâu bọ”. Trẻ con nhuộm móng tay móng chân bằng lá đỏ từ đêm mồng 4. Sáng ngày mồng 5, trẻ con phải đeo phù - một vòng cổ gồm các hạt long não, hạt cườm luồn vào một sợi chỉ ngũ sắc, khoảng 9h sáng ra biển tắm trong khoảng một tiếng đồng hồ rồi thả phù cũ xuống biển về nhà đeo phù mới. Làm như vậy trẻ con sẽ không bị quỷ thần quấy rầy. [42, 8] - Lễ hội cầu gió hay được gọi là lễ đăng quang, lễ thành tâm diễn ra vào ngày 14, 15 tháng 3 âm lịch, là một trong những lễ hội đặc trưng của ngư dân Quan Lạn. Theo truyền thuyết trong ngư dân kể lại vào năm 1225 nhà Lý mất ngôi, chuyển sang nhà Trần. Trần Thủ Độ đã tìm mọi cách dùng thủ đoạn để tiêu diệt nhà Lý phòng hậu hoạ về sau. Để tránh nạn diệt thân, mong tìm đường khôi phục vương triều cũ, Lý Long Tường - một trong ba tam công của nhà Lý đã đem đồ tế cúng của tổ tiên và tuỳ tùng đến thương cảng Vân Đồn để ra nước ngoài.[423, 2] Lúc này nhà Trần mới nắm quyền, một số vùng biên đảo xa xôi chưa thể quản lý hết trong đó có Vân Đồn. Hơn nữa, Vân Đồn lại la mảnh đất mang ân công của nhà Lý- triều đại đã lập ra thương cảng đẩu tiên của đất Việt ở nơi đây, đem lại cho mảnh đất này sự sầm uất. Do đó, Vân Đồn được coi là mảnh đất hết sức an toàn cho nhà Lý. Lý Long Tường đã cho người đóng thuyền theo kiều Nam Tống, treo cờ Nam Tống giăng buồm ra nước ngoài lánh nạn. Lúc bấy giờ là tháng 3 âm lịch, theo quan niệm của ngư dân là tháng gió ma gió quỷ không thuận lợi cho việc ra khơi, vượt biển về phía Bắc. Để Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 50 đền đáp công ơn nhà Lý, ngư dân đã cùng nhau họp bàn, lập đền thờ để cầu gió Tây Nam, cầu đủ gió để căng buồm cho Lý Long Tường đi phương Bắc an toàn. Cứ mỗi năm, đến ngày tổ chức lễ hội, ngư dân Quan Lạn lại đắp những ngôi sao to bằng đất như Thần Vũ, Nhật Định- những ngôi sao mang dấu hiệu của gió Tây Nam như mong muốn của ngư dân. Công việc này được làm vào ngày 14 tháng 3 âm lịch. Đảm đương công việc này là những trai tráng vạm vỡ, khỏe mạnh đại diện cho xóm, thôn trong vùng đất thương cảng Vân Đồn xưa. Tất cả mọi người cùng chung sức làm chung ngôi sao không có bất cứ sự phân chia nào. điều đó thể hiện sự biết ơn của cả cộng đồng ngư dân ở đây đối với nhà Lý. Sáng ngày 15 tháng 3 âm lịch thì làm lễ tế. Người chủ trì lễ tế trước đây thường do các trưởng giáp tiến hành. Đàn tế lập quay về hướng Nam - nơi ngọn nguồn của cơn gió. Đặc biệt trong nghi lễ tế, có hình ảnh một người con gái vừa khóc, vừa đốt gạo đốt muối cầu xin trời đất sự bình an. Theo quan niệm của ngư dân, thì hình ảnh người con gái đó là mối tình của Lý Long Tường, khóc tiễn biệt lúc ông ra đi. Mối tình đấy gắn liền với giếng Hệu - giếng ngọc và nước mắt, nơi diễn ra sự chia li, cũng là nơi chứng kiến nỗi sầu khổ của cô gái.[42; 2] Sau lễ tế và nghi thức xuất thuyền, là phần hội được tổ chức với nhiều trò chơi diễn tả lại quá trình Lý Long Tường chuẩn bị cho sự ra đi phương Bắc của mình như thi ghép ván thuyền, thi giăng buồm nhanh...giữa các xóm, và các hoạt động văn nghệ khác cũng được tổ chức. - Lễ hội Vân Đồn Lễ hội truyền thống Vân Đồn có nguồn gốc từ hội làng của người dân đảo Quan Lạn. Lễ hội vừa để cầu mùa cho ngư dân vùng biển, vừa để kỉ niệm chiến thắng lừng lẫy trên sông Mang lịch sử năm 1288 đánh thắng giặc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 51 Nguyên- Mông của danh tướng Trần Khánh Dư. Chiến thắng lừng lẫy đó diễn ra vào tháng 2 năm 1288 song lễ hội được tổ chức vào ngày 16 đến 18/6 âm lịch hàng năm. Vì ngư dân nơi đây lấy ngày vua ban thưởng sau khi trận Bạch Đằng kết thúc, là ngày kỉ niệm chiến thắng. Xã đảo Quan Lạn có quần thể di tích, đình, chùa, miếu, nghè tồn tại rất lâu đời. Các di tích này gắn liền với lễ hội Vân Đồn, riêng ngôi đình là nơi trung tâm để tổ chức lễ hội và đua thuyền ở vùng biển trước cửa đình. Theo các cụ già kể lại, hội làng trước kia bắt đầu từ ngày 10/6 âm lịch là ngày lễ khoá làng. Từ ngày hôm đó dân trong làng nội bất xuất ngoại bất nhập, không được đi hải sản và làm ăn ở xa. Còn người con đi xa quê hương và khách thập phương được vào làng dự lễ hội. Tư ngày 11/6 âm lịch các giáp tổ chức cai đám cho các bé trai sinh ra từ hội năm ngoái đến hội năm nay. Mỗi bé trai phải có một lễ xôi gà trình ở miếu Đức ông. Sau đó về làng hưởng lộc. Ngày 13/6 các giáp Đông Nam Văn, Đoài Bắc Võ tổ chức họp bàn đám trình làng, thống kê lại các xuất đinh của từng giáp. Mỗi xuất đinh phải chuẩn bị một ván xôi gà. Ông giáp chính trong năm phải chuẩn bị lễ vật: một con lợn nặng 80 kg, một mâm xôi gà có chiếc thủ lợn dâng lên cúng tại miếu Đức Ông. Sau khi nghi thức xong từng giáp, mời chức sắc trong làng đến thụ lộc. Ngày 16/6 nhân dân, quân tướng của 2 giáp tập trung tại đình rước kiệu Long Đình về làng, rước bài vị của Trần Khánh Dư - được nhân dân tôn làm Thành Hoàng làng từ nghè về đình dự hội. Chủ tế dâng lên bàn thờ mẫu gồm: rượu, xôi, gà, hoa quả, vàng hương làm lễ cầu an cầu phúc cho dân làng. Khi làm lễ xong xin đài âm dương. Ngày 17/6, tổ chức lễ hội và tế lễ truyền thống tại miếu họ Phạm. Ngày 18/6 là ngày lễ hội chính. Từ 8h sáng hai bên giáp văn, giáp võ cả tướng sĩ xếp hàng chỉnh tề tiến về phía miếu Đức Ông. Tướng 2 giáp vào làm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 52 lễ xin chân nhang, nhận thuyền rồng, binh khí, quần áo, lọng che và mái chèo. Sau đó đưa quân về trại bản doanh, làm lễ tân binh, sắp xếp vị trí trên chiến thuyền đua và nghệ thuật chiến lược đua để thắng, cho nghỉ ngơi bồi dưỡng quân tướng đủ sức chuẩn bị cho cuộc đua của 2 giáp vào buổi chiều. Đến 15-16 giờ chiều khi nước thuỷ triều lên tới cửa đình, hai bên văn võ với trang phục quân tướng nghiêm trang chạy 3 vòng từ đại bản doanh ra miếu, từ miếu về đại bản doanh tượng trưng cho 3 lần đánh thắng quân Nguyên Mông. Tướng có lọng che, đầu độ mũ cánh chuồn, cầm kiếm trận. Quân lính bên võ mặc áo trắng quần xanh, chân quấn xà cạp xanh. Lính bên võ mặc quần áo xám hoặc đen, đầu chít khăn. Hai bên vác mái chèo chạy trong cờ giong, trống giục, gặp nhau tại miếu, sau đó xếp thành 4 hàng trước cửa miếu chuẩn bị nghi thức lễ hội. Tuỳ theo con nước sớm hay muộn để nghi thức lễ hội sớm khai mạc. Sau nghi thức lễ hội chèo bơi truyền thống sẽ bắt đầu. Ông Công, hương trưởng cùng 2 tướng bên văn, bên võ vào miếu Đức Ông làm lễ xuất quân. Khi hiệu lệnh trống nổi lên, tướng quân 2 bên tiến về thuyền của mình, bơi diễu 3 lần tại vùng biển trước cửa đình, sau đó về chầu tại cửa đình làm nghi thức rao hịch trước khi vào cuộc đua. Nghi thức rao hịch là nghi thức uy linh nhất trong hội chèo bơi của lễ hội Vân Đồn. Lời rao hịch của tướng bên văn bên võ khác nhau, do ban tổ chức phân công. Ví dụ bên văn nói: “ Bớ trai Vân Đồn ta kia, ở đây là non sông đất Việt nhé, sương nắng ngàn năm oai hùng nhé, ta đứng đây đất đảo anh hùng ôn lại chiến công oai hùng nhé.” Bên võ nói: “ Núi Liễu Mai trống thúc quân reo nhé, sông Mang xưa nổi sóng cuồn cuộn...”[42, 1] Lời rao và ngữ điệu của 2 bên văn võ thường khác nhau. Bên văn thường thể hiện chiều sâu lịch sử, ngữ điệu mềm mại. Ngược lại lời rao hịch của bên võ thường rắn chắc, rõ ràng và khoẻ khoắn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 53 Cũng có lúc lời rao hịch còn là tiếng nói tri ân tôn vinh công lao của những người đi trước: “bờ giáp Đông Nam Văn ta kia, năm nay có 12 tháng (năm nhuận thì có 13 tháng). Trên thì đông đám thờ thần ngũ vị đại vương nhé. Người đã cho dân làng ta sức khoẻ để trẻ già bình an, dân làng cường thịnh”. [32, tr107] Dứt lời rao hịch, hai chiếc thuyền đua của 2 bên văn võ về điểm xuất phát. Thuyền đua là thuyền đi biển trọng tải 5 - 6 tấn rộng và sâu lòng, hạ buồm trang trí đầu vồng ở mũi thuyền chạy đua vòng 1,5 km, tại đích có 2 cây cờ hội và một dây vải đỏ căng ngang. Khi phát lệnh đua, thuyền của 2 giáp thi nhau phất cờ, đánh chiêng trống, tiếng còi, tiếng hò hét của tướng quân, tiếng mái chèo khua làm vang động cả vùng biển đảo Cái Làng. Ngày 19/6 là ngày nghỉ ngơi của các tướng Giáp Văn, Giáp Võ, chuẩn bị lễ vật cho hôm sau và khao quân. Ngày 20/6 là ngày làm lễ cầu bình yên cho tướng quân 2 bên. Họ chuẩn bị mâm cỗ, đưa thuyền rồng bằng giấy ra đình làm nghi thức tâm linh, rồi mang về cuối làng hoá vàng với mục đích dâng thuyền rồng cho quân tướng nhà Trần năm xưa. Cuối cùng ngư dân làm lễ rước bài vị thành hoàng làng trở về nghè, kết thúc lễ hội. Thông qua tiến trình lễ hội truyền thống Vân Đồn, ta thấy: đây là một lễ hội truyền thống diễn lại hình tượng một trận đánh vẻ vang trong lịch sử, có tình tiết, diễn biến, có tướng quân, có sự sắp xếp chiến lược giống như chiến trận năm xưa. Tất cả đều đậm chất lịch sử. Nó hoà quyện trong quan điểm tâm linh của ngư dân nơi đây, đó là truyền thống uống nước nhớ nguồn, đồng thời thể hiện sự cường tráng, tính cách phóng khoáng của những con người sống giữa biển đảo. Lễ hội không chỉ là sản phẩm tinh thần của riêng ngư dân Quan Lạn mà thu hút rất nhiều du khách thập phương đến tham dự. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 54 Lễ hội Vân Đồn là lễ hội mang đậm hào khí Đông A, thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc, mang đặc trưng của ngư dân vùng biển, là dịp để tôn vinh văn hoá gắn liền với lịch sử, đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán và ý thức tâm linh dân Quan Lạn. Do sự thăng trầm biến thiên của lịch sử, các lễ hội truyền thống của ngư dân Quan Lạn cũng có lúc bị gián đoạn mai một. Song hiện nay với sự quan tâm của chính quyền địa phương các cấp việc phục hồi và phát huy giá trị trong lễ hội của Quan Lạn được thực hiện với kết quả cao. Các lễ hội đặc biệt là lễ hội chèo bơi Quan Lạn được khôi phục với quy mô ngày càng lớn. Nó không chỉ là một hoạt động văn hoá cộng đồng của ngư dân, mà còn là nguồn lực to lớn góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế xã hội địa phương. 3.1.5. Những biến đổi ngày nay Văn hoá phong tục của ngư dân Quan Lạn được hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của cộng đồng. Bên cạnh tính phổ biến và ổn định, văn hoá phong tục cũng vận động và phát triển không ngừng cho phù hợp với thời đại mới, điều kiện mới. Một phần do hoàn cảnh chiến tranh trước đó, một phần do điều kiện đời sống nâng cao, thêm vào đó là sự xuất hiện của nhiều loại hình sinh hoạt văn hoá mới đã làm cho việc cưới xin được đơn giản hoá nhiều. Đám cưới ngày nay chỉ giữ lại những nghi thức chính căn bản như dạm ngõ, ăn hỏi, lễ cưới song cũng được sơ giản rất nhiều về mặt thủ tục. Việc thách cưới, tiền cheo hay việc nhà trai đem hiện vật cho tiệc cưới của nhà gái chỉ mang tính chất tượng trưng thể hiện sự đền đáp của chàng rể đối với công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ cô gái, chứ không nặng nề như trước. Thời gian thử thách từ sau lễ ăn hỏi đến lễ cưới chính thức rút ngắn, thường được cử hành ngày sau khi ăn hỏi, chứ không còn kéo dài trong 2 - 3 năm như trước. Tục hát cưới qua ba lần mở ngõ và hát mua hoa, bán hoa, mua chim không còn phổ biến nữa. Vào những năm 50, kiểu hát có đĩa hoa nhà trai nhà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 55 gái lần lượt xướng hoạ chỉ thấy ở vùng đảo Vân Đồn nhất là ở cộng đồng dân chài. Đến nay, loại hình nghệ thuật dân gian này bị đẩy vào quên lãng, chỉ có một số cụ già xưa là “cây hát”, “thợ hát” mới có thể hát được những bài hát cưới theo lối giao duyên này. Theo chủ trương xây dựng đời sống mới gắn liền với quá trình tôn trọng và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- VĂN HOÁ ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH TRONG LỊCH SỬ.pdf
Tài liệu liên quan