Tài liệu Luận văn Vận dụng lý luận học thuyết về hình thái kinh tế xã hội Mác- Lênin vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: LUẬN VĂN:
Vận dụng lý luận học thuyết về hình
thái kinh tế xã hội Mác- Lênin vào sự
nghiệp CNH-HĐH ở Việt Nam
A/giới thiệu vấn đề.
Sau mười năm thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế, với kế hoạch 5 năm tờ
1986 đến 1995 nền kinh tế nước ta đã đạt dược nhưỡng thành tựu to lớn, có ý
nghĩa rất quan trọng.
Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông,muốn thoát khỏi nghèo nàn
lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước phát triển thì tất yếu phải
đổi mới.Do đó Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12.1986)là một mốc lịch
sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc, trong đó có sự đổi mới
về các quan điểm kinh tế. Đến các hội nghị lần thứ hai (tháng 4.1987), lần thứ
ba(8.1987) và lần thứ sáu (4.1989). Ban chấp hành Trung ương lại cụ thể hoá một
bước nhửnh quan điểm mới về kinh tế của Đảng ta đó là vấn đề công nghiệp hoá-
hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước.
Trong quá trình tìm kiếm đưa nền kinh tế phát phát triển đi lên Đảng và
Nhà nư...
16 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1241 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Vận dụng lý luận học thuyết về hình thái kinh tế xã hội Mác- Lênin vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vận dụng lý luận học thuyết về hình
thái kinh tế xã hội Mác- Lênin vào sự
nghiệp CNH-HĐH ở Việt Nam
A/giới thiệu vấn đề.
Sau mười năm thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế, với kế hoạch 5 năm tờ
1986 đến 1995 nền kinh tế nước ta đã đạt dược nhưỡng thành tựu to lớn, có ý
nghĩa rất quan trọng.
Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông,muốn thoát khỏi nghèo nàn
lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước phát triển thì tất yếu phải
đổi mới.Do đó Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12.1986)là một mốc lịch
sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc, trong đó có sự đổi mới
về các quan điểm kinh tế. Đến các hội nghị lần thứ hai (tháng 4.1987), lần thứ
ba(8.1987) và lần thứ sáu (4.1989). Ban chấp hành Trung ương lại cụ thể hoá một
bước nhửnh quan điểm mới về kinh tế của Đảng ta đó là vấn đề công nghiệp hoá-
hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước.
Trong quá trình tìm kiếm đưa nền kinh tế phát phát triển đi lên Đảng và
Nhà nước ta đã lựa chọn đường lối đổi mới, đó là lần đầu tiên diễn đàn của Đại hội
VI đã khẳng định : “ xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất kĩ thuật hiện đại cơ cấu kinh tế hợp lý,quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hộp vối
tính chất và trình độ phát triển của lục lượng sản xuất ( LLXS), đời sống vật chất
tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân dầu nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh”. Mục tiêu đó là sự cụ thể hoá hạc thuyết Mác về hình thái kinh tế
–xã hội và hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam. Nó cũng lá mục tiêu của sự
nghiệp CNH-HĐH ở nước ta.
Vấn đề CNH-HĐH là một đề tài có nội dung vô cùng phong phú và phức
tạp. Nhưng trong những trang viết náy Em xin được đề cập đến một số vấn đề
đang được quan tâm hay nói cách khác đây chính là đề tàI tiểu luận của em: “Vận
dụng lý luận học thuyết về hình thái kinh tế xã hội Mác- Lênin vào sự nghiệp
CNH-HĐH ở Việt Nam.
Bố cục tiểu luận ngoài lời mở đầu và kết luận , nội dung Em chia làm ba
phần:
I)Lý luận về hình thái kinh tế xã hội Mác –Lênin
II)Vận dụng hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp CNH-HĐH ở Việt Nam.
III)Các giải pháp và phương hướng nhằm thực hiện thắng lợi quá trình
CNH-HĐH ở nước ta.
B/ giảI quyết vấn đề
I). Lý luận về hình thái kinh tế xã hội Mác-Lênin.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch sứ,
các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật để nghiên
cứu lịch sử xã hội,đưa ra quan điểm duy vật về lịch và đã hình thành nên học
thuyết về “Hình thái kinh tế xã hội” (HTKT-XH) là một phạm trù của chủ nghĩa
duy vật lịch sử.Dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sủ nhất định, với một kiểu
quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của
LLSX và một nền kinh tế thị trường tương ứng được xây dựng trên kiểu quan hệ
sản xuất đó.
Lý luận về hình thái kinh tế xã hội nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ sở xem
xét của LLSX và QHSX (quan hệ sản xuất) , cơ sử hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng (CSHT-KTTT), tức toàn bộ các yếu tố cấu thành bộ mặt của thời đại: chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật…Do đó nó cắt nghĩa xã hội được
sáng tỏ hơn, chỉ ra căn bản và quá trình phát triển của xã hội.Loài người đã trải
qua năm hình tháI kinh tế xã hội theo trật tự từ thấp đến cao,đó là: Hình tháI kinh
tế cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ,phong kiến, tư bản chủ nghĩa và ngày
nay đang tiến lên HTKT-XH cộng sản chủ nghĩa.
1.Kết cấu của hình thái kinh tế- xă hội.
Xã hội không phải là một tổng số những hiện tượng,sự rời rạc,những cá
nhân riêng lẻ,xã hội là một chỉnh thể hữu cơ có cơ cấu phức tạp,trong đó những
mặt cơ bản nhất là LLSX,QHSX và kinh tế thị trường.Mỗi mặt đó có vai trò nhất
định và tác động đén các mặt khác,tạo nên sự vận động của toàn xã hội.
LLSX là nền tảng vật chất-kỹ thuậtcủa mỗi hình thái kinh tế xã hội. LLSX
là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,là biến trình độ chinh phục tự nhiên
của con người trong giai đoạn lịch sử nhất định.LLSX đóng vai trò quyết định
phương thức sản xuất (PTSX).LLSX phát triển qua các hình thái KT-XH nối tiếp
nhau từ thấp đến cao thể hiện tính liên tục trong sự phát triển xã hội của loài
người.
QHSX là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật
chất thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất (TLSX).Trong QHSX quan
hệ sở hữu về TLSX giữ vị trí quyết định các quan hệ khác
QHSX là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với xã hội
cụ thể khác,đồng thời tiêu biểu cho bộ mặt của xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử.
Giữa QHSX và LLSX có mối quan hệ biện chứng với nhau biểu hiện ở chỗ
xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển.
Sự thống nhất biện chứng giữa QHSX và LLSX như sự thống nhất giữa hai
mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của sản xuất xã hội.Tác động qua lại biện chứng giữa
LLSX với QHSX được Mác-Anghen khái quát thành qui luật về sự phù hợp giữa
QHSX với trình độ,tính chất của LLSX.
LLSX quyết định sự hình thành và biến đổi của QHSX. Khi không thích
ứng với tính chất và trình độ phát triển của LLSX, QHSX sẽ kìm hãm thậm chí
phá hoại sự phát triển của LLSX,mâu thuẫn của chúng tất yếu sẽ nảy sinh.Mặc dù
bị chi phối bởi LLSX nhưng với tính cách là hình thức QHSX-XH củng cố những
tác động nhất định trở lại đối với LLSX.Khi QHSX phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của LLSX,nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy,định hướng và tạo điều
kiện cho LLSX phát triển và ngược lại, nếu lạc hậu hơn so với tính chất và trình
độ phát triển của LLSX tính chất và trình độ phát triển của LLSX hay chỉ là tạm
thời so với tất yếu khách quan của cuộc sống những QHSX sẽ là xiềng xích kìm
hãm sự phát triển của LLSX.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT.
Không chỉ đặc trưng bằng QHSX mà nó còn đặc trưng bởi một KTTT xây
dựng trên những quan hệ sản xuất của chính nó.
KTTT là toàn bộ những trạng thái tâm lý và quan điểm tư tưởng xã hội,
những thiết chế xã hội tương ứng như Nhà nước, Đảng phái, giáo hội,các đoàn thể
xã hội…hình thành trên một CSHT.
KTTT được hình thành trên tổng hợp toàn bộ những QHSX hợp thành cơ
cấu kinh tế của một chế độ xã hội nhất định ngưới ta gọi là CSHT.
CSHT bao gồm những quan hệ sản xuất đang giữ địa vị thống trị nền kinh
tế, nhóm những QHSX vị thống trị nền kinh tế nhóm những QHSX tàn dư và
những QHSX mới là quan hệ mầm mống của xã hội sau.
a)Triết học Mác quan niệm rằng CSHT quyết định KTTT nghĩa là cơ sở kinh tế xã
hội nào thì sẽ có hình thái tư tưởng chính trị, đạo dức phù hợp. Vai trò quyết định
của CSHT với KTTT được thể hiện ở một số mặt:
Khi CSHT phát triển đến một mức độ giới hạn nào đó gọi là điểm nút, thĩ nó đòi
hỏi phải kéo theo sự thay đổi về KTTT. Quá trình này không chỉ đơn thuần là sự
biến đổi một hay nhiều bộ phận mà là sự chuyển đổi cả một hình thái kinh tế chính
trị và hình thái kinh tế chính trị ưu thế sẽ chiếm giữ giai đoạn lịch sử này: trong
giai đoạn hình thái kinh tế chính trị đó chiếm giữ thì CSHT và KTTT có sự dung
hoà với nhau hay đạt được giới hạn độ.Tại đây CSHT và KTTT tác động biện
chứng với nhau theo cách thức bắt đầu sự thay đổi tuần tự về CSHT nhưng tại đây
KTTT chưa có sự thay đổi.
b)KTTT tác động trở lại CSHT.
KTTT bị chi phối nhưng độc lập tương đối thể hiện ở chỗ chúng có thể thúc đẩy
CSHT phát triển.Vai trò của KTTT đối với CSHT được thể hiện trên các mặt sau .
Chức năng xã hội của KTTT là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển CSHT sinh
ra nó ,đấu tranh xoá bỏ CSHT và KTTT cũ. KTTT chính là công cụ của giai cấp
thống trị, các bộ phận khác của KTTT cũng có tác dụng mạnh mẽ đối vối CSHT
nhưng thường những tác dụng ấy phải thông qua hệ thống chính trị, pháp luật hay
thể chế tương ứng khác.
Trong điều kiện ngày nay vai trò của KTTT không giảm đi mà ngược lại tăng
lên và tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử.
Trái lại KTTT xã hội chủ nghĩa bảo vệ CSHT xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng
xã hội mới, chính mục địch đó quyết định tính tích cực càng tăng của KTTT xã hội
chủ nghĩa.
Tác động của KTTT đến CSHT dược thể hiện trong hai trường hợp trái ngược
nhau nếu KTTT phù hợp với quan hệ kinh tế tiến bộ thì sẽ thúc đẩy sự phát triển
của xã hội. Ngược lại, nếu KTTT là cơ sở của những quan hệ kinh tế lỗi thời thì sẽ
kìm hãm sự phát triển của kinh tế xã hội, nhưng sự tác động kìm hãm đó chỉ là tạm
thời thì sớm muộn cũng được khắc phục về cơ bản,bản chất giứaCHT và KTTT
chính là bản chất giữa kinh tế và chính trị trong đó kinh tế đóng vai trò quyết định
còn chính trị là biện pháp tập chungcủa kinh tế và có tác dụng ngược trở lại
II).Sự vận dụng hình thái kinh tế và sự nghiệp CNH-HĐH ở Vệt Nam 1. Cơ
sở khách quan của các quan điểm mới về CNH-HĐH.
Từ cuối những năm 70 đất nước đẫ lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã
hội với những khó knăn gay gắt lạm phát phi mã (năm 1986 là 174,7%)
Khi đó tư duy lý luận bị lạc hậu, giữa lý luận và thực tiễn có khoảng cách
quá xa tư duy cũ về Chủ Nghĩa Xã Hội theo mô hình tập chung quan liêu bao cấp
đã cản trở sự phát triển của thực tiễn sản xuất, chế độ bao cấp dẫn đến tình trạng
trì trệ trong công việc. Kết quả dẫn đến trong công tác hành chính thì bảo thủ,
quan liêu, đặc biệt là ở địa phương tình trạng lợi dụng cơ sở để mưu lợi cá nhân và
lợi ích cục bộ( đục nước béo cò).
Trên cơ sở phân tích sâu sắc, toàn diện thực trạng đất nước, Đại hội VIII
của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã quyết định đưa đất nước bước vào thời kỳ phát
triển mới. Đẩy mạnh CNH-NĐH Đất nước. Đại hội cũng xác dịnh những quan
điểm cơ bản làm cơ sở định hướng cho việc xây dựng nội dung, phương pháp,
biện pháp, bước đi…cho quá trình CNH-HĐH Đất nước.Những quan điểm cơ bản
đó là:
a).Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ đói ngoại.
CNH-HĐH theo quan điểm trên dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi
đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mới hội nhập
với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu
bằng những sản phẩm trong nước xây dựng có hiệu quả để đẩy mạnh sự tăng
trưởng kinh tế và hiện đại hoá đất nước.
b).CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước là chủ đạo.
Quan điểm này xuất phát từ nghuyên lý: “Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng” CNH-HĐH là sự nghiệp Cách mạng trọng đại của nhân dân ta, đất nước ta
nhằm mục đích “ dân giầu, nước mạnh, xã họi công bằng, văn minh”. Vì vậy nó
không phải là công việc riêng của một bộ phận, một giai cấp mà là sự nghiệp của
toàn dân, do dân thực hiện. Cũng như các sự nghiệp cách mạng khác nhân dân là
người quyết định sự thành công của quá trình CNH-HĐH Đất nước.
CNH-HĐH Đất nước thực hiện trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhièu
thành phần. Trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước “làm
đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”
c).CNH-HĐH là nền kinh tế lấy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
nghiệp phát triển nhanh và bèn vững.
Xã hội luôn luôn vận động và phát triển không ngừng,do đó ở nước ta khi
tiến hành CNH-HĐH cũng phải đặt trong quy luật vận động đó, muốn tạp ra
những chuyển biến tích cực của nền kinh tế nước ta đòi hỏi các nội dung của CNH
cũng như phải thường xuyên thay đổi và bổ xung…
Trong quá trình tiến hành cần phải đưa con người lên vị trí trung tâm. Con
người vừa là mục đích vừa là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội nhanh và
bền vững. Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định để tạo ra công nghệ hiện đại và sử
dụng chúng để tạo ra của cải cho xã hội ,là yếu tố quyết định để thực hiện chuyển
giao công nghệ trong quá trình CNH -HĐH đất nước.
d).Khoa học và cônh nghệ là động lực của CNH -HĐH kết hợp công nghệ truyền
thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết
định.
Quá trình CNH-HĐH phải coi khoa học công nghệ là động lực,coi năng lực
nội sinh về khoa học-công nghệ là nền tảng của CNH-HĐH, cải tiến công nghệ,
biến công nghệ nhập thành của mình tiến tới tự tạo ra công nghệ. Quan điểm chỉ
đạo về nội dung CNH-HĐH nền kinh tế là cơ khí hoá,hoá học hoá, tự động hoá.
Bước đầu phát triển một số lĩnh vực công nghệ cao về điện tử thônh tin, sinh học,
vật liệu mới và tự động hoá.
CNH-HĐH đòi hỏi phải kết hợp cong nghệ truyền thống với công nghệ
hiện đại,phải tranh thủ đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những khâu quyết định.
Điều đó cho phép kết hợp tuần tự với nhảy vọt, khai thác có hiệu các công nghệ cổ
truyền vừa nhanh chóng HĐH ở các khâu quyết định.Sự kết hợp đó phải phù hợp
với điều kiện của đất nước và cho phép thực hiện CNH “Rút ngắn”.Đồng thời
chống lại tư tưởng bảo thủ, trì trệ và nóng vội chủ quan duy ý trí…
Luôn luôn đề cao vai trò thực tiễn không coi nhẹ lý luận. Phải luôn xây
dựng lấy Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng
của đảng làm kim chỉ nam cho công nghiệp nước ta, cho cách mạng ta, cho dân
tộc phát triển đổi mới kinh tế tư duy ở nước ta đưa nước ta lên con đường XHCN.
e).Lấy hiệu quả kinh tế -xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát
triển,lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ.
Quan điểm mới về CNH-HĐH đòi hỏi khi xác định các phương án phát
triển, lựa chọn đầu tư và công nghệ, xác định quy mô, bố trí và phân phối các
nguồn lực ở các địa bàn,phải lấy hiệu quả kinh tế-xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để
xem xét.
f).Kết hợp kinh tế với quốc phòng -an ninh.
Xây dựng và bảo vệ tổ quốc luôn luôn là hai nhiệm vụ chiến lược có sự tác
động lẫn nhau. Quá trình CNH-HĐH kết quả cũng là quá trình tăng cường khả
năng quốc phòng -an ninh của đát nước. Quan điển trên đòi hỏi trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn chặt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ tổ quốc.
Ngoài những quan điểm đó chúng ta cần phải biết xây dựng cư cấu kinh tế hợp
lý, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, đồng thời
phải bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bản sắc dân tộc.
Những quan điểm đó là một thể thống nhất và quan hệ chặt chẽ với nhau biểu
hiện rõ trong việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ CNH-HĐH đát nước,ở việc xác
định rõ động lực, nguồn lực của tiến trình CNH -HĐH, ở vệc xác định phương
hướng, biện pháp cơ bản của CNH-HĐH ơ nước ta,và biểu hiện ở tiêu chuẩn để
xác định các phương án, đánh giá kết quả. để làm sáng tỏ các vấn đề đó chắc chắn
phải vừa vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh vừa đổi mới trong thực tiễn, tiễn hành tổng kết tổng kết trong thực tiễn,
khắc phục các khuynh hướng sai lầm như giáo điều, xét lại,chủ quan duy ý trí…
Đó cũng tức là phải vận dụng sáng tạo quán triệt hơn nữa phép biện chứng
Mácxit trong quá trình đổi mới.
2.Thực chất của công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở nước ta.
Thực chất của công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở nước ta hiện nay như Đại
hội Đảng toàn quốc lần VIII đã khẳng định là: “Xây dụng nước ta thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, QHSX tiến
bộ, phù hợp với trính độ phát triển của LLSX,đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng an ninh vững chắc dân giầu, nước mạnh, xã hội, công bằng, văn minh,
và nước ta đã chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH-
HĐH đây là nhận định rất quan trọng đối với những bước đi tiếp theo trong sự
nghiệp đổi mới.
Thuộc phạm trù LLSX và vận động bên ngoài biện chứng nội tại của
phương thức sản xuất vấn đề CNH ngày nay gắn chặt với HĐH trước hết phải
được xem xét từ tư duy triết học Mácxit chứ không phải từ tư duy kinh tế hay tư
duy nào khác. Công nghiệp hoá là quá trình nhằm đưa nước ta từ một nước công
nghiệp lạc hậu thành một nước cônh nghiệp hiện đại. Hiện đại hoá là mục tiêu cơ
bản của văn minh hiện đại, thể hiện xu hướng lịch sử, tiến bộ, phát triển.
Đó là nhiệm vụ quan trọng có tầm cỡ to lớn, đòi hỏi phải đi tư cái cụ thể
đến cái tổng thể. Trước hết cần phải hiểu rõ những thực trạng và những định
hướng chung của Việt Nam trình độ LLSX ở mức thấp, quá độ lên CNXH lại
không phải từ Chủ nghĩa Tư bản mà từ bước quá độ lên CNXH bỏ qua Chủ nghĩa
Tư bản với tư cách là một chế độ xã hội.
Vì vậy cần phải nhận thức đầy đủ và sáng tạo các quy luật khách quan
trong đó quy luật sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX là quy
luậtcơ bản nhất nhằm cải tạo các thành phần kinh tế. Khai thác mọi tiềm năng xã
hội. Phát huy tính chủ động sáng tạo của chủ thể các thành phần kinh tế trong nền
kinh tế nhiều thành phần kinh tế quốc doanh phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả để
thực sự có tác dụng chủ đạo với các thành phần kinh tế khác.
III). Các giải pháp và phương hướng nhằm thực hiện thắng lợi quá trình
Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá.
Để thực hiện CNH-HĐH thắng lợi phải tiến hành đồng bộ các giải pháp để
khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong và ngoài nước. Trong tổng thể các giải
pháp và phương hướng để khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong và ngoài
nước thì các giải pháp và phương hướng cơ bản nhất là:
1.Các giải pháp về kinh tế và chính trị.
Như chúng ta đã biết, chính trị là sản phẩm của xã hội có giai cấp, xã hội
cộng sản nguyên thuỷ chưa có giai cấp nên chưa có chính trị. Chính trị xuất hiện
khi có quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên xét cho cùng, bản thân
vấn đề chính trị hoàn toàn là do kinh tế quyết định vì ngay cả các vấn đề giai cấp,
đấu tranh giai cấp Nhà nước cũng đều có nguồn gốc từ vấn đề kinh tế. Chính trị
không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện thực hiện mục đích kinh tế , như
F.Enghen đã viết: “Bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế mới là mục
đích…Để thoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng
làm phương tiện đơn thuần”.
Quyền lực chính trị là công cụ mạnh nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Đấu
tranh giai cấp thực chất là đấu tranh về lợi ích kinh tế, được thực hiện thông qua
đấu tranh chính trị. Điều nay được Enghen khẳng định: “Bất cứ cuộc đấu tranh
giai cấp nào cũng là đấu tranh chính trị, xét đến cùng xoay quanh vấn đề giải
phóng kinh tế.” Vai trò của chính trị. VI.Lê Nin nói “ Chính trị không thể không
chiếm vai trò hàng đầu so với kinh tế”.
Mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa kinh tế và chính trị dựa trên nền
tảng là phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung và giải
quyết các vấn đề của việc CNH-HĐH đất nước. Vì vậy sự ổn định về chính trị cho
phép mở rộng các quan hệ đối ngoại, tranh thủ sự giúp đỡ Quốc tế, thu hút được
vốn và công nghệ nước ngoài.
Trước hết, công nghiệp hoá đòi hỏi phải có nguồn vốn to lớn, nó được xem
là một trong những điều kiện cơ bản nhất. Vì vậy, vấn đề tạo ra nguồn vốn và
phân bổ sử dụng vốn hợp lý, có hiệu quả là điều kiện hàng đầu. Vốn có thể huy
động từ trong và ngoài nước.
Thứ hai, công nghiệp hoá chỉ có thể tiến hành được trên một cơ sở hạ tầng
phát triển đến một trình độ nhất định. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng không dễ dàng
đối với các nước đang phát triển bởi vì nó đòi hỏi chi phí rất lớn.
Thứ ba, công nghiệp hoá đòi hỏi phải có hệ thống các chính sách kinh tế
phù hợp: chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách tài chính tiền tệ, chính sách đầu tư
…và phải có chiến lược kinh tế xã hội đúng đắn. Mục tiêu mà Đại hội Đảng lần
VIII đã đề ra chính là sự cụ thể hoá hợp thống nhất về hình thức kinh tế-xã hội vào
hoàn cảnh cụ thể của xã hội chủ nghĩa. Ta phải luôn nhận thức vận động đúng đắn
sáng tạo hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ bản chất LLSX và QHSX quan hệ giữa
CSHT và KTTT.
2. Những phương hướng chủ yếu để phát triển CNH- HĐH.
Ưu tiên phát triển chế biến lương thực,thực phẩm. Sự phát triển của ngành
này trực tiếp đáp ứng nhu cầu nông nghiệp, nâng cao hiệu quả của sản xuất nông
nghiệp. Mặt khác sự phát triển của sự phát triển của ngành công nghiệp này phù
hợp với khả năng của chúng ta vrrf vốn liếng, trình độ khoa học, công nghệ .
Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đất nước ta có
nguồn lao động dồi dào người lao động của ta cần cù, khéo tay, có tiềm năng nhất
định về một số tài nguyên do đó đẩy mạnh sản xuất những mặt hàng tiêu dùng
thông dụng như may mặc, da, thủ công mỹ nghệ, để tiêu dùng và xuất khẩu sẽ phát
huy được các tiềm nằn sẵn có. Hơn nữa những ngành này đòi hỏi về khoa học,
công nghệ, vốn không cao, đồng vốn quay vòng nhanh, sử dụng được nhiều lao
động, góp phần giải quyết việc làm, một vấn đề xã hội rất quan trọng .
Phát triển công nghệ điện tử, công nghệ thông tin. Đây lầ ngành kinh tế có
hàm lượng khoa học cao.
Phát triển có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng (khai thác, chế biến
dầu, sản xuất điện, vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, luyện kim, hoá chất…) Đây
là những ngành kinh tế góp phần quyết định nâng cao sức mạnh kinh tế, khả năng
độc lập tự chủ về kinh tế quốc phòng của đất nước, phát triển những ngành này rất
cần thiết nhưng đòi hỏi vốn lớn, trình độ khoa học công nghệ cao…Do vậy, đầu tư
phát triển công nghiệp nặng phải cân nhắc chọn lọc…phù hợp với nhu cầu tăng
trưởng và khả năng của nền kinh tế trong từng giai đoạn.
Ngoài ra, cần nâng cao năng lực và trình độ hiện đại các ngành dịch vụ kỹ
thuật, ngân hàng, bưu chính viễn thông.các dịch vụ về hàng hải và hang không có
triển vọng to lớn, chúng ta cần chú trọng phát triển cụ thể như các dịch vụ vận tải
biển, dịch vụ thương mại quá cảnh.
Phát triển CNH-HĐH là đòi hỏi khách quan, là điều kiện quan trọng đảm
bảo cho nền kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh và bền vững. Sự phát triển đó là
nhân tố quyết định sự chuyển dụch của nền kinh tế từ trạng thái nghèo nàn, lạc hậu
thu nhập thấp sang trạng thái phát triển, thu nhập cao. Do đó, phát triển CNH-
HĐH là nhiệm vụ trung tâm của các quốc gia đang phát triển.
C/. Kết thúc vấn đề.
Để thực hiện mục tiêu của đảng đã đề ra làm cho dân giầu nước mạnh xã
hội công bằng văn minh, đất nước chuyển mình lên chủ nghĩa xã hội thì đi đôi với
việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất chúng ta nhất thiết phải phát triển lực
lượng sản xuất, vì không có lực lượng sản xuất hùng hậu với năng xuất cao thì
không thể nói đến công nghiệp xã hội. Mà muốn có lực lượng sản xuất hùng hậu
và năng xuất lao động cao thì không chỉ dựa vào nông nghiệp, sử dụng lao động
thủ công mà phải phát triển mạnh công nghiệp đi lên đối với việc đổi mới công
nghệ ngày càng hiện đại tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh hiệu quả và sự
phát triển bền vững toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nói cách khác là phải tiến hành
CNH-HĐH đất nước,xây dựng quan hệ phù hợp giữa công nghiệp và các ngành
kinh tế khác, tạo điều kiện cho các ngành và toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng và
phát triển.
Mục tiêu mà công nghiệp hoá nhằm tới không chỉ là những tiến bộ kinh tế
mà cả những tiến bộ xã hội . Trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia và
sự thay đổi của điều kiện quốc tế, công nghiệp hoá còn cần được bổ sung những
quan điểm mới về nội dung và những giải pháp cùng phương hướng nhằm thực
hiện thắng lợi quá trình đó. ở Viêt nam, công nghiệp hoá với tư cách là: “ Nhiệm
vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH”. Nhằm những mục tiêu là: “
Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại,cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng-an ninh vững
chắc, xã hội công bằng, văn minh”. Đảng ta đã sáng suốt đề ra và bước đầu thực
hiện tốt sự nghiệp CNH-HĐH vận dụng sáng tạo, bám sát lý luận Hình thái kinh
tế-Xã hội Mác-Lênin. Em tin chắc rằng với nhận thức đúng đắn, sáng tạo của mình
cùng với sự đồng lòng nhất trí, gia sức phấn đấu của toàn đảng, toàn dân, toàn
quân, đảng ta nhất định lãnh đạo công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi hoàn toàn,
dưới đà phát triển của sự nghiệp cách mạnh hiện nay, công cuộc đổi mới đảng lãnh
đạo nhất định sẽ đưa nước ta lên ngang tầm với các nước phát triến trong khu vực
và trên thế giới .
Là một Sinh viên, một công dân của nước Cộng hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt
Nam đã và đang được hưởng những thành quả tốt đẹp của công cuộc đổi mới,
Tài liệu tham khảo.
1.Giáo trình triết học trường Đại học quản lý –Kinh doanh Hà nội.
2.Tạp chí triết học
3.Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ V,VI,VII,VIII, Nhà chính trị xuất bản
quốc gia
4.Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản (Lê Nin Toàn tập,
trang 36 Nhà xuất bản tiến bộ Matxcơva).
5.Suy nghĩ về công gnhiệp hoá-hiện đại hoá ở nước ta, Nhà xuất bản chính trị
quốc gia, Hà nội 1996.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Vận dụng lý luận học thuyết về hình thái kinh tế xã hội Mác- Lênin vào sự nghiệp CNH-HĐH ở Việt Nam.pdf