Tài liệu Luận văn Vấn đề xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn hiện nay: LUẬN VĂN:
Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào
thị trường EU giai đoạn hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam,
là một trong những biện pháp quan trọng để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần
giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, muốn đẩy mạnh xuất khẩu thì việc lựa chọn mặt hàng
và thị trường xuất khẩu là hết sức quan trọng.
Ngành dệt may có vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, vừa cung cấp
hàng hóa tiêu dùng trong nước vừa tạo điều kiện mở rộng thương mại quốc tế, thu hút
nhiều lao động và là một trong những ngành thu được lượng ngoại tệ lớn thông qua xuất
khẩu. Xuất khẩu hàng dệt may của nước ta trong hơn thập kỷ qua đã thu được kết quả
đáng kể, kim ngạch xuất khẩu hàng năm ngày càng tăng, chủng loại hàng xuất đa dạng,
phong phú, thị trường được mở rộng, đặc biệt là những thị ...
116 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1114 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào
thị trường EU giai đoạn hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam,
là một trong những biện pháp quan trọng để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần
giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, muốn đẩy mạnh xuất khẩu thì việc lựa chọn mặt hàng
và thị trường xuất khẩu là hết sức quan trọng.
Ngành dệt may có vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, vừa cung cấp
hàng hóa tiêu dùng trong nước vừa tạo điều kiện mở rộng thương mại quốc tế, thu hút
nhiều lao động và là một trong những ngành thu được lượng ngoại tệ lớn thông qua xuất
khẩu. Xuất khẩu hàng dệt may của nước ta trong hơn thập kỷ qua đã thu được kết quả
đáng kể, kim ngạch xuất khẩu hàng năm ngày càng tăng, chủng loại hàng xuất đa dạng,
phong phú, thị trường được mở rộng, đặc biệt là những thị trường có tiềm năng lớn và vị
trí quan trọng trong nền kinh tế thế giới như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU).
Liên minh châu âu là một tổ chức khu vực lớn nhất thế giới hiện nay, là một
trong ba trung tâm kinh tế lớn của thế giới (Mỹ, Nhật Bản, EU), với việc kết nạp 10 thành
viên mới vào tháng 5/2004, hiện nay EU có 25 nước thành viên và trong tương lai sẽ còn
tiếp tục mở rộng.
Kể từ khi Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng đồng châu
âu ngày 22/10/1990, quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và EU không ngừng
phát triển. Chính phủ Việt Nam xác định EU là thị trường lớn và có nhiều triển vọng đối
với hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị
trường EU. Kể từ khi hai bên ký Hiệp định thương mại ngày 15/12/1992, kim ngạch xuất
khẩu hàng năm hàng dệt may nước ta sang EU tăng với tốc độ cao. Ngày 3/12/2004, Việt
Nam và EU đã ký thỏa thuận về việc tạo điều kiện cho hàng dệt may Việt Nam được xuất
khẩu tự do vào thị trường EU kể từ 1/1/2005. Thỏa thuận này sẽ tạo cho hàng dệt may
Việt Nam có được cơ hội bình đẳng với các nước thành viên WTO khi tiếp cận thị trường
EU, ngành dệt may Việt Nam có thêm điều kiện thuận lợi để phát triển, nâng cao khả
năng xuất khẩu hàng hóa sang thị trường rộng lớn này.
Mặc dù không bị hạn chế bởi hạn ngạch, nhưng hàng dệt may xuất khẩu của Việt
Nam vào thị trường EU phải cạnh tranh gay gắt với hàng của những nước khác như
Trung Quốc, ấn Độ… Mặt khác, EU là một thị trường rộng lớn nhưng hết sức khắt khe,
khó tính, đòi hỏi hàng xuất khẩu nước ta nói chung, hàng dệt may nói riêng phải đáp ứng
được những tiêu chuẩn rất cao mới có thể thâm nhập và đứng vững trên thị trường này.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất các giải
pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU trong giai
đoạn hiện nay là hết sức cần thiết. Đó cũng là lý do để tác giả chọn vấn đề "Xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn hiện nay" làm đề tài luận văn thạc
sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
ở nước ta những năm gần đây đã có một số công trình, bài viết xung quanh vấn
đề này, tiêu biểu như: PGS.TS. Vũ Chí Lộc: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam sang thị trường châu âu, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004; Bộ Thương
mại: Thị trường hàng dệt, may thế giới
và khả năng xuất khẩu của Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học, mã số
98-78-006; TS. Nguyễn Xuân Thắng: Thị trường EU và một số vấn đề đặt ra đối với
chiến lược xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: "Thị trường EU
và các yêu cầu của thị trường EU đối với xuất khẩu của Việt Nam", Trường Đại học
Ngoại thương, Hà Nội, 11/2001; ThS. Nguyễn Thu Thủy: Ngành dệt may - xuất khẩu
Việt Nam với các thách thức mới, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 3(65), 2000;
TSKH. Trần Nguyễn Tuyên: Thực trạng và triển vọng phát triển quan hệ kinh tế EU -
Việt Nam, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 6(98), 2004; Từ Thanh Thủy: Mười
năm quan hệ thương mại Việt Nam - EU, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 2(64),
2000...
Các công trình, bài viết nói trên đã tiếp cận dưới những góc độ khác nhau cả về
mặt lý luận và thực tiễn hoạt động xuất khẩu hàng hóa nói chung, xuất khẩu hàng dệt
may nói riêng. Song cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào về xuất khẩu hàng
dệt may Việt Nam vào thị trường EU dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị để đưa ra
những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
vào thị trường EU, đặc biệt trong điều kiện hàng dệt may Việt Nam được tự do xuất khẩu
vào thị trường EU kể từ 1/1/2005. Vì thế, đề tài luận văn này không trùng lặp với các
công trình, bài viết đã công bố và vẫn cần thiết, có tính thời sự cấp bách.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của đề tài
Tiếp tục làm rõ một số vấn đề lý luận và phân tích thực trạng xuất khẩu hàng dệt
may của Việt Nam vào thị trường EU, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh
xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường EU trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ của đề tài
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận - thực tiễn của việc xuất khẩu hàng dệt may vào
thị trường EU;
+ Phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường
EU trong thời gian qua;
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam vào thị trường EU đến năm 2010.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường EU được nghiên
cứu ở giác độ khoa học kinh tế chính trị, do đó luận văn không đi sâu nghiên cứu những
vấn đề thuộc về kỹ thuật, công nghệ của ngành dệt may và những vấn đề thuộc về nghiệp
vụ xuất nhập khẩu. Luận văn xuất phát từ những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật để nghiên
cứu quan hệ kinh tế - xã hội trong quá trình phát triển ngành dệt may, làm rõ các quan hệ
lợi ích kinh tế trong hoạt động xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Hàng dệt may có nhiều chủng loại. Luận văn tập trung làm rõ
việc xuất khẩu một số chủng loại hàng may mặc có kim ngạch xuất khẩu lớn vào thị
trường EU.
+ Về thời gian: Nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị
trường EU từ giai đoạn hai bên bình thường hóa quan hệ ngoại giao (1992) đến nay và đề
xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào
thị trường EU đến năm 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận trong nghiên cứu đề tài của luận văn là phép duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin. Trong quá trình thực hiện, luận
văn sử dụng tổng hợp các phương pháp: điều tra khảo sát, thu thập số liệu, tiến hành phân
tích, đánh giá để rút ra các kết luận cần thiết làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. Giá trị thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ có đóng góp nhất định cho việc nghiên cứu,
hoạch định chính sách xuất nhập khẩu và phát triển ngành dệt may Việt Nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Kết quả nghiên cứu cũng có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo ở phạm vi nhất định cho việc giảng dạy môn khoa học chuyên ngành.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
cơ sở lý luận - thực tiễn của việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị
trường EU
1.1. phát triển hàng dệt may và vai trò của xuất khẩu hàng dệt may đối với
sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam
1.1.1. Đặc điểm của phát triển hàng dệt may
Các sản phẩm dệt may gắn liền với nhu cầu tiêu dùng cá nhân, tiêu dùng xã hội,
tiêu dùng sản xuất. Trong đó tiêu dùng cá nhân - mặc là một trong những nhu cầu vật
chất thiết yếu nhất của con người, chiếm tỷ trọng cao nhất và quyết định sự phát triển
ngành dệt may. Sản phẩm của ngành dệt may là một trong những hàng hóa đầu tiên tham
gia vào mậu dịch quốc tế. Sự tồn tại và phát triển của ngành dệt may gắn liền với sự phát
triển của xã hội loài người. Xã hội càng phát triển, đời sống con người càng được cải
thiện, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa nói chung, sản phẩm dệt may nói riêng, ngày càng tăng
lên. Mặt khác, tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn tới khả năng đáp ứng ngày càng tốt hơn
những nhu cầu phong phú, đa dạng của con người cả về số lượng, chất lượng và mẫu mã
thời trang.
Ngành dệt may trên thế giới đã trải qua quá trình phát triển lâu dài- từ sản xuất
thủ công đơn chiếc đến sản xuất công nghiệp hàng loạt; từ chỗ chỉ sử dụng nguyên liệu
thô sơ là sản phẩm của nông nghiệp tới việc sử dụng nhiều nguồn nguyên liệu mới có
tính năng kỹ thuật cao. Ngày nay, phần lớn sản phẩm dệt may trên thế giới được sản xuất
theo dây chuyền công nghiệp dựa trên nguồn nguyên liệu phong phú, dồi dào.
Sản xuất và buôn bán hàng dệt, may trên thế giới hiện nay có một số đặc điểm
sau đây:
Thứ nhất: Ngành dệt may không đòi hỏi công nghệ sản xuất quá phức tạp, vốn
đầu tư không lớn, thu hồi nhanh và thu hút được nhiều lao động.
So với các ngành công nghiệp khác, đặc biệt là các ngành công nghiệp nặng thì
công nghiệp dệt may có suất đầu tư thấp hơn nhiều lần, chỉ bằng 1/10 so với ngành cơ
khí, 1/15 so với ngành điện, 1/20 so với ngành luyện kim. Chi phí đầu tư để tạo ra một
chỗ làm việc mới của ngành dệt may thấp hơn nhiều với với các ngành công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng khác. Để tạo ra một chỗ làm việc mới, công nghiệp dệt (từ khâu sợi,
dệt đến nhuộm, hoàn tất) cần đầu tư khoảng 15.000 USD, công nghiệp may cần đầu tư
khoảng 1.000 USD, trong khi con số này ở ngành giấy là 30.000 USD [24, tr. 59].
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, ngày nay công nghệ được ứng
dụng trong ngành dệt may đã có những bước phát triển to lớn so với những năm đầu thế
kỷ XX, nhiều công nghệ mới đã xuất hiện như kéo sợi không cọc, dệt không thoi, thiết
kế, tạo sơ đồ trên máy vi tính, nhiều công đoạn trong công nghiệp dệt may được thực
hiện tự động hóa. ở giai đoạn dệt, các loại máy dệt áp dụng công nghệ không thoi như
máy dệt kiếm, máy dệt hơi nước, máy dệt thổi khí... ngày càng được sử dụng nhiều. Sự
tiến bộ về khoa học công nghệ đã tạo ra những sản phẩm mới, với nhiều loại vải có
những tính năng rất đặc biệt đang được nhiều công ty dệt may lớn của thế giới nghiên
cứu để tung ra thị trường như quần áo được tráng nano với tính năng giảm thiểu các chất
bẩn và khả năng kỵ chất lỏng rất tốt hay những chất liệu vải có mùi thơm từ hương hoa,
trái cây, các chất liệu vải có khả năng chống cháy tốt…[1]. Tuy nhiên, nhìn chung công
nghệ sản xuất truyền thống của ngành dệt may là loại công nghệ không quá phức tạp,
không đòi hỏi trình độ kỹ thuật quá cao như những ngành điện tử, tin học, vũ trụ, sinh
học. Sản phẩm dệt may có nhiều chủng loại sản phẩm với phẩm cấp, chất lượng rất khác
nhau để đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú của người tiêu dùng. Do vậy, bên cạnh các
máy móc, thiết bị sử dụng công nghệ hiện đại thì trong một số khâu của ngành dệt may
vẫn có thể kết hợp sử dụng các công nghệ trung bình trong sản xuất. Đây là đặc điểm
quan trọng giúp các nước đang phát triển có cơ hội đầu tư cho ngành công nghiệp dệt
may trong điều kiện còn nhiều hạn chế về vốn, công nghệ, trình độ quản lý...
Ngành dệt may là ngành công nghiệp thu hút được nhiều lao động và lao động
của ngành dệt may đa phần thuộc loại lao động phổ thông, dễ đào tạo. Do vậy, các nước
có nguồn lao động dồi dào với giá nhân công rẻ có thể phát huy được lợi thế của mình
trong phát triển công nghiệp dệt may. Thực tiễn phát triển ngành công nghiệp dệt may ở
nhiều nước cho thấy tầm quan trọng của ngành này trong việc thu hút lao động. Theo tác
giả Dương Đình Giám [10, tr. 19-20], lao động trong ngành dệt may của Trung Quốc lên
tới
15 triệu người, của Banglades xấp xỉ 10 triệu lao động. Ngay cả ở khu vực EU - một trong
những khu vực kinh tế phát triển nhất thế giới thì ngành dệt may vẫn thu hút một lượng
đáng kể lao động. Lao động trong ngành dệt may tại EU sau khi kết nạp thêm 10 thành
viên mới vào năm 2004 là khoảng 2,7 triệu người. Phần lớn lao động trong ngành dệt
may không đòi hỏi trình độ hiểu biết cao, chỉ cần sự tinh xảo, khéo léo ở mức độ cần
thiết, do đó cũng phải được đào tạo ở một mức độ nhất định mới có thể đáp ứng được yêu
cầu sản xuất công nghiệp, nhất là trong việc điều khiển các máy móc, thiết bị hiện đại.
Một bộ phận của lao động trong ngành dệt may, tuy không cần số lượng đông nhưng đòi
hỏi trình độ chuyên môn cao về khoa học công nghệ, về thiết kế mẫu mã, về quản lý. Đội
ngũ này đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển hàng dệt may xuất khẩu.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, ngành dệt may trong tương lai sẽ
chịu tác động của những bước đột phá công nghệ cho phép giảm sự phụ thuộc vào chi phí
nhân công của lao động phổ thông. Tuy nhiên, dù có được hiện đại hóa đến mức nào, thì
trước mắt và lâu dài, ngành dệt may vẫn tồn tại những công đoạn cần tới lao động thủ
công của con người.
Thứ hai: Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, dưới tác động của cách mạng
khoa học công nghệ, không có một quốc gia nào khép kín phát triển ngành dệt may để
đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước và quốc tế.
Sản phẩm dệt may là loại sản phẩm có yêu cầu rất phong phú, đa dạng tùy thuộc
vào đối tượng tiêu dùng. Người tiêu dùng khác nhau về văn hóa, phong tục tập quán, tôn
giáo, khác nhau về khu vực địa lý, khí hậu, về giới tính, tuổi tác... sẽ có nhu cầu rất khác
nhau về trang phục. Nhà sản xuất phải thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu
sắc, chất liệu để đáp ứng được tâm lý thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tượng của người
tiêu dùng. Chính nhu cầu đa dạng, phong phú về sản phẩm dệt may và khả năng lan tỏa
nhanh chóng của thời trang là nhân tố quan trọng thúc đẩy mạnh mẽ quá trình sản xuất và
buôn bán hàng dệt may trên phạm vi quốc tế.
Ngành công nghiệp dệt may có mối quan hệ mật thiết và phụ thuộc vào sự phát
triển của nhiều ngành kinh tế-kỹ thuật. Sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là nghề trồng
bông, trồng dâu nuôi tằm và ngành công nghiệp hóa chất là những ngành chủ yếu cung
cấp nguồn nguyên liệu cho ngành dệt. Máy móc, thiết bị của ngành dệt may là sản phẩm
của ngành cơ khí, chế tạo. Ngành sản xuất các loại phụ liệu như chỉ, khuy, mex, tấm lót
áo, khóa, nhãn mác, bao bì; sản phẩm của ngành dệt… phát triển là điều kiện để phát
triển ngành may tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt, hình thức đẹp. Công nghiệp dệt
may là tổ hợp của hai ngành chuyên môn hóa hẹp, có quan hệ hết sức khăng khít, chặt
chẽ là công nghiệp dệt và công nghiệp may, sản phẩm của công nghiệp dệt là nguồn
nguyên liệu chủ yếu của công nghiệp may. Công nghiệp dệt nếu không gắn bó với công
nghiệp may thì sản phẩm của nó sẽ không đáp ứng được mục tiêu đáp ứng nhu cầu mặc
của con người. Khi công nghiệp dệt phát triển với những chủng loại sản phẩm phong phú
sẽ giúp cho ngành may thuận lợi hơn trong lựa chọn nguồn nguyên liệu đầu vào, ngược
lại, khi công nghiệp may phát triển, mẫu mã, thời trang đa dạng sẽ làm kích thích nhu cầu
tiêu dùng và tạo điều kiện để ngành dệt giải quyết tốt sản phẩm đầu ra của mình. Để
ngành may phát triển ổn định, lâu dài thì phải chủ động được nguyên liệu đầu vào-là
thành phẩm của ngành dệt, tức là phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa ngành may với ngành
dệt và các ngành khác trong sản xuất ra các phụ liệu cho ngành may. Ngành công nghiệp
dệt may được nhiều nước đang phát triển trên thế giới chọn là ngành mũi nhọn để tập
trung đầu tư phát triển. Quốc gia nào có đủ điều kiện tự nhiên để trồng bông (hoặc phát
triển được ngành trồng dâu nuôi tằm) với chất lượng sản phẩm cao, sẽ chủ động nguồn
nguyên liệu và khi kết hợp được các nguồn lực khác như vốn, lao động, công nghệ, thì sẽ
có nhiều lợi thế trong việc hạ giá thành sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh của hàng
dệt may của nước đó, từ đó làm cho ngành dệt may phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, ngày nay không quốc gia nào chọn hình thức khép kín, phát triển tất
cả các công đoạn của ngành dệt may cũng như các ngành có mối quan hệ mật thiết, có
ảnh hưởng quan trọng đến phát triển ngành dệt may. Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế
hiện nay, dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ, hàng hóa và dịch vụ của mỗi
nước có cơ hội mạnh mẽ để phát triển trên thị trường tiêu thụ quốc tế, điều đó làm kích
thích tính chuyên môn hóa trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Xu thế chung hiện nay
là các nước phát triển tập trung vào việc sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm dệt may có
hàm lượng kỹ thuật cao, các mặt hàng cao cấp với mẫu mã, thời trang mới và các sản
phẩm phục vụ cho công nghiệp dệt may trong các ngành hóa chất, chế tạo máy móc, thiết
bị với công nghệ hiện đại. Còn các nước đang phát triển tập trung sản xuất, xuất khẩu các
sản phẩm dệt may giá rẻ, cần nhiều nhân công. Các quốc gia đều chú trọng đến việc xuất
khẩu các sản phẩm ở các công đoạn của ngành dệt may mà mình có lợi thế tuyệt đối và
tương đối trên thị trường quốc tế.
Thứ ba: Sản phẩm dệt may có tính nhạy cảm cao trong thương mại quốc tế.
Các sản phẩm dệt may lâu nay thường được các nước trên thế giới bảo hộ chặt
chẽ bằng những chính sách, thể chế đặc biệt. Việc bảo hộ đối với sản phẩm dệt may
không chỉ xuất hiện ở những nước đang phát triển tham gia xuất khẩu hàng dệt may,
thường muốn bảo hộ sản xuất trong nước, mà các nước phát triển-đóng vai trò là các
nước nhập khẩu lớn, cũng đặt ra nhiều rào cản để hạn chế việc gia tăng nhập khẩu sản
phẩm dệt may từ các nước đang phát triển. Cùng với hàng rào thuế quan, từng nước còn
đề ra những điều kiện riêng về kỹ thuật, môi trường, lao động… đối với hàng dệt may
nhập khẩu. Những rào cản đó đã gây nên những căng thẳng trong thương mại quốc tế và
ảnh hưởng lớn đến đến việc sản xuất và buôn bán hàng dệt may trên thế giới. Thực chất
của việc đặt ra các rào cản chính là do các nước phát triển muốn khống chế và chi phối
các nước đang phát triển thông qua việc hạn chế lợi thế so sánh của các nước này.
Hiệp định đa sợi (MFA) được thỏa thuận giữa hơn 40 nước thành viên của GATT
có hiệu lực chung từ năm 1974 quy định, các nước nhập khẩu có thể đơn phương thiết lập
hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may đối với từng nước xuất khẩu nếu hai bên không đạt
được thỏa thuận song phương. Trong nhiều trường hợp, các nước phát triển đã sử dụng
triệt để các quy định của MFA để hạn chế số lượng nhập khẩu hàng dệt may giá thấp từ
các nước xuất khẩu hoặc sử dụng vấn đề hạn ngạch dệt may để tạo các sức ép trong quan
hệ về kinh tế, chính trị với các nước xuất khẩu.
Vòng đàm phán urugoay của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đánh dấu
một mốc quan trọng trong sản xuất và buôn bán hàng dệt may thế giới. Hiệp định về hàng
dệt may (ATC) ra đời, thay thế cho Hiệp định đa sợi. Các quy định về sản xuất, buôn bán
hàng dệt may đã thông thoáng hơn nhiều và theo quy định của ATC, đến 1/1/2005 các
nước là thành viên của WTO không bị khống chế bởi hạn ngạch khi xuất khẩu hàng dệt
may sang các nước thành viên khác. Tuy nhiên, các hình thức bảo hộ ngành dệt may của
các nước phát triển vẫn tiếp tục diễn ra với nhiều rào cản về kỹ thuật, môi trường… đối với
các sản phẩm dệt may nhập khẩu. Thậm chí, ngay trong năm 2005, khi EU, Mỹ cho rằng
ngành dệt may của mình bị đe dọa nghiêm trọng bởi hàng dệt may xuất khẩu giá rẻ của
Trung Quốc thì các nước này đã đề ra các biện pháp hạn chế hàng dệt may xuất khẩu của
Trung Quốc, trong đó có cả biện pháp về áp dụng trở lại chế độ hạn ngạch đối với một số
mặt hàng dệt may của Trung Quốc.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển hàng dệt may ở Việt Nam
1.1.2.1. Các nhân tố quốc tế
- Tác động của quá trình toàn cầu hóa kinh tế
Bối cảnh chính trị quốc tế hiện nay đang có xu thế chung là hướng tới hợp tác và
liên kết giữa các quốc gia, các khu vực nhằm phát triển kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế hiện
nay là một xu thế chủ đạo và khách quan của kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa có ảnh hưởng
đến nền kinh tế mỗi nước với phạm vi, mức độ khác nhau và góp phần làm sâu sắc thêm
quá trình phân công và hợp tác quốc tế trên cơ sở đan xen về lợi ích giữa các quốc gia.
Công nghiệp dệt may là ngành chịu ảnh hưởng nhiều của sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trên phạm vi quốc tế, đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế hiện nay. Sự
phát triển mạnh mẽ về khoa học, kỹ thuật đã làm thay đổi về cơ cấu sản xuất của các
nước. Công nghiệp dệt may thường đóng vai trò quan trọng đối với các nước đang trong
giai đoạn công nghiệp hóa. Khi một nước trở thành nước công nghiệp phát triển có trình
độ công nghệ cao, giá nhân công cao thì nước đó thường tập trung đầu tư vào những
ngành công nghiệp khác có hàm lượng kỹ thuật cao hơn, tốn ít lao động và mang lại lợi
nhuận cao. Khi đó, công nghiệp dệt may lại phát huy vai trò của mình ở các nước khác
kém phát triển hơn. Từ cuối thế kỷ XVIII, ngành dệt may đã phát triển mạnh mẽ ở nước
Anh, sau đó đã có sự chuyển dịch sản xuất hàng dệt may từ nước Anh sang các nước
châu âu khác và khu vực Bắc Mỹ vào giữa thế kỷ XIX. Chuyển dịch sản xuất lần thứ hai
của ngành dệt may thế giới là chuyển dịch từ châu âu sang Nhật Bản vào những năm 40,
thế kỷ XX. Sau đó công nghiệp dệt may lại được chuyển dịch từ Nhật Bản sang các nền
kinh tế mới ở châu á như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và vào những năm 80 thế kỷ
XX, khi các nền kinh tế mới ở châu á có sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất, tập trung đầu tư
cho các ngành có công nghệ và kỹ thuật sản xuất cao như điện tử, ô tô thì công nghiệp
dệt may lại được chuyển dịch sang các nước kém phát triển hơn như Trung Quốc, Thái
Lan, Indonexia, Maylayxia, Bangladesh, Việt Nam… Trong tương lai, ngành dệt may sẽ
còn tiếp tục dịch chuyển tới các nước kém phát triển hơn.
Toàn cầu hóa kinh tế có tác động mạnh mẽ đến quá trình phân công chuyên môn
hóa và hợp tác trên phạm vi quốc tế đối với phát triển ngành công nghiệp dệt may. Trong
quá trình toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, ngành dệt may Việt Nam có nhiều cơ hội tận
dụng các nguồn tài chính từ bên ngoài dưới nhiều hình thức như vay vốn, kêu gọi đầu tư
trực tiếp, gián tiếp, hợp tác kinh doanh... Việc tranh thủ được nguồn vốn từ bên ngoài là
yếu tố rất quan trọng để ngành dệt may Việt Nam có thể tập trung đầu tư đổi mới trang
thiết bị, mở rộng sản xuất trong điều kiện nguồn vốn tích luỹ từ trong nước còn nhiều hạn
chế. Dưới con mắt của nhiều nhà đầu tư nước ngoài thì ngành dệt may nước ta hiện nay
còn nhiều tiềm năng phát triển và có thể mang lại những nguồn lợi lớn hơn ở những quốc
gia khác. Do vậy, thời gian tới dệt may vẫn tiếp tục là lĩnh vực có thể thu hút nhiều nhà
đầu tư nước ngoài. Bên cạnh yếu tố về vốn, ngành dệt may nước ta có điều kiện để tiếp
cận trực tiếp các công nghệ, kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý từ các nước có
trình độ phát triển hơn. Đó là những điều kiện thuận lợi mà Việt Nam cần nắm lấy và có
chiến lược kết hợp hợp lý giữa các yếu tố trong nước với các yếu tố ngoài nước để xây
dựng ngành dệt may theo hướng hiện đại, hướng về xuất khẩu, phục vụ cho quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Cạnh tranh hàng dệt may trên thị trường thế giới ngày càng trở nên gay gắt
Toàn cầu hóa kinh tế, một mặt thúc đẩy quá trình phân công và hiệp tác quốc tế,
mặt khác làm cho sự cạnh tranh trên thị trường hàng dệt may thế giới ngày càng trở nên
gay gắt và điều đó có tác động trực tiếp đến sự phát triển của ngành dệt may nước ta.
Sản phẩm dệt may là một trong những hàng hóa có mức độ trao đổi lớn giữa các
quốc gia, các khu vực trên thế giới. Nhìn chung, hầu như nước nào, khu vực nào cũng có
xuất khẩu và nhập khẩu hàng dệt may nhằm đa dạng hóa mặt hàng và để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng trong nước. Thị trường buôn bán hàng dệt may thế giới có nhiều cấp độ sản phẩm.
Mặc dù đã diễn ra nhiều lần chuyển dịch sản xuất giữa các nước, các khu vực trên thế giới,
nhưng như vậy không có nghĩa là sản xuất dệt may không còn tồn tại ở các nước phát triển
mà ở những nước này, ngành dệt may đã tiến đến giai đoạn cao hơn, sản xuất các sản phẩm
có giá trị gia tăng cao, nhất là các sản phẩm thời trang hoặc các sản phẩm sử dụng chất liệu
mới. Các nước công nghiệp phát triển là những nước có thế mạnh ở khâu thiết kế, thường
xuyên tung ra thị trường các mẫu mã thời trang và đi đầu trong ứng dụng khoa học công
nghệ để sản xuất ra các chất liệu vải có nhiều tính năng, tác dụng mới để phục vụ đời sống
con người. Đối với các nước đang phát triển có giá cả nhân công rẻ, nguồn lao động dồi dào
là lợi thế so sánh lớn nhất khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế nói chung, thị
trường dệt may thế giới nói riêng. Hàng dệt may xuất khẩu của các nước đang phát triển chủ
yếu phục vụ cho tầng lớp người tiêu dùng có thu nhập trung bình và thấp. Cùng với quá trình
toàn cầu hóa kinh tế, ngày càng có nhiều quốc gia đang phát triển đổi mới công nghệ, sản
xuất nhiều loại sản phẩm dệt may xuất khẩu có chất lượng cao tạo ra sự cạnh tranh ngày
càng tăng với sản phẩm dệt may ở các nước phát triển.
Tính chất gay gắt trong cạnh tranh hàng dệt may xuất khẩu ngày nay chủ yếu là
giữa các nước đang phát triển. Với việc xóa bỏ hạn ngạch hàng dệt may giữa các nước
thành viên của WTO vào ngày 1/1/2005, các chuyên gia kinh tế trên thế giới dự đoán sẽ
có sự gia tăng to lớn về lượng hàng xuất khẩu may mặc sang các thị trường nhập khẩu
lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, giá cả hàng dệt may sẽ giảm và nhiều nước xuất khẩu hàng
dệt may sẽ khó đứng vững trong cuộc cạnh tranh mang tính chất toàn cầu này. Nhiều
nước sẽ phải đương đầu với sức ép cạnh tranh vô cùng lớn từ những nước có tiềm lực
mạnh về phát triển hàng may mặc xuất khẩu giá rẻ, điển hình là Trung Quốc. Nghiên cứu
của Ngân hàng thế giới dự đoán rằng thị phần của Trung Quốc trong sản xuất hàng may
mặc trên thế giới sẽ tăng lên trên 50% vào năm 2010. Sau Trung Quốc thì ấn Độ,
Bănglades, Pakistan cũng được đánh giá là những nước có khả năng nâng cao vị thế của
mình trong thị trường dệt may thế giới.
Để duy trì và phát triển hàng dệt may xuất khẩu, đòi hỏi các nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam phải nhanh chóng đề ra các chiến lược, chính sách và biện pháp
thích hợp về sản xuất, công nghệ, marketing… nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
hàng dệt may nước mình trên thị trường thế giới.
1.1.2.2. Các nhân tố của Việt Nam
- Đổi mới kinh tế, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế quốc tế và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là nhân tố đầu tiên để phát triển công nghiệp dệt may
Việt Nam theo hướng hiện đại
Đường lối đổi mới kinh tế được Đảng ta đề ra và lãnh đạo đất nước thực hiện gần
20 năm qua đã đem lại những kết quả hết sức to lớn. Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương
đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế được thực hiện sâu rộng, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của nhiều ngành
kinh tế, trong đó có ngành dệt may.
Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, ngành công nghiệp dệt may ở các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam đều hướng mạnh về xuất khẩu. Thị trường nước ngoài có một vị
trí rất quan trọng trong phát triển ngành dệt may Việt Nam. Do vậy, quan hệ đối ngoại giữa
Việt Nam với các nước, các khu vực trên thế giới có tác động to lớn đến phát triển kinh tế
quốc dân nói chung, ngành dệt may nói riêng. Nếu quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các
nước, các khu vực trên thế giới không được mở rộng thì Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn
cả trong việc tìm kiếm thị trường đầu vào (vốn, nguyên liệu, công nghệ) và thị trường đầu
ra - xuất khẩu hàng hóa nói chung, hàng dệt may nói riêng. Trong lịch sử ngành công
nghiệp dệt may nước ta, đã có thời kỳ hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu theo kế hoạch của các
nước thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế (thập kỷ 70, 80 thế kỷ XX). Các doanh nghiệp
sản xuất hàng dệt may không được tiếp cận thị trường thế giới, ngành dệt may không có
điều kiện phát triển mạnh mẽ.
Khi nước ta thực hiện đường lối mở cửa nền kinh tế, đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ kinh tế đối ngoại thì ngành công nghiệp dệt may có nhiều cơ hội tiếp nhận
các nguồn lực từ bên ngoài như vốn, công nghệ, trình độ quản lý. Việc kết hợp giữa
nguồn nội lực- đóng vai trò quyết định - với các nguồn ngoại lực, là nhân tố quan trọng
để ngành công nghiệp dệt may phát triển mạnh mẽ theo hướng hiện đại, hội nhập với
kinh tế quốc tế. Quan hệ kinh tế đối ngoại giữa Việt Nam với các nước được mở rộng tạo
điều kiện để các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may có cơ hội tiếp cận mọi thị trường để
tìm kiếm nguồn cung cấp hợp lý về công nghệ, nguyên liệu, phụ liệu và các yếu tố đầu
vào khác phục vụ cho sản xuất. Đồng thời, các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may có
điều kiện tìm kiếm và mở rộng quan hệ với các đối tác trên thị trường đầu ra, nâng cao
khả năng xuất khẩu, thu ngoại tệ để nhập khẩu trở lại những yếu tố cần thiết phục vụ cho
sự phát triển của bản thân ngành dệt may cũng như nền kinh tế đất nước. Việt Nam hiện
nay là thành viên của ASEAN, APEC và đang trong tiến trình đàm phán để gia nhập
WTO trong thời gian tới, Việt Nam cũng đã ký kết các Hiệp định quan trọng với các đối
tác lớn trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, tham gia vào diễn đàn á - Âu (ASEM).
Việt Nam đang trở thành đối tác tin cậy với các nước. Đó là những điều kiện quan trọng
để mở rộng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam nói chung, hàng dệt may nói riêng tới các
nước, các khu vực trên thế giới.
- Những nhân tố nội sinh để Việt Nam phát triển hàng dệt may.
+ Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý:
Việt Nam là một nước có nhiều lợi thế tự nhiên để phát triển nguồn nguyên liệu
cho ngành dệt may. Quỹ đất phù hợp cho cây bông ở nước ta vào khoảng 200 nghìn ha,
diện tích dâu tằm của Việt Nam hiện nay vào khoảng 25.000 ha (đứng thứ hai trên thế
giới - chỉ sau Trung Quốc), nhiều địa phương có truyền thống trồng bông và trồng dâu
nuôi tằm. Tuy nhiên, thời gian qua, do đầu tư không đồng bộ nên những lợi thế về tài
nguyên đó chưa được khai thác tốt. Hàng năm, nước ta phải chi khoảng 100 triệu USD
cho nhập khẩu nguyên liệu bông và vẫn phải nhập tơ sống từ Trung Quốc để xe tơ và dệt
lụa với số lượng lên đến trên 200 tấn/năm. Nghịch lý này còn cho thấy chúng ta chưa
thực hiện tốt việc phân công, hiệp tác giữa các ngành để phát triển ngành dệt may. Ngành
trồng bông, trồng dâu chưa được chú trọng đầu tư đúng mức về vốn, về công nghệ, đời
sống người lao động trong các ngành này chưa được đảm bảo. Trong những năm qua,
việc chủ động trong nguyên phụ liệu nước ta là chưa cao, làm ảnh hưởng không nhỏ đến
sự phát triển của ngành dệt may nước ta.
Nước ta cũng có điều kiện thuận lợi về mặt địa lý để phát triển ngành dệt may.
Nằm ở phía đông bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam á, Việt Nam ở trong
khu vực châu á - Thái Bình Dương là khu vực năng động của thế giới. Với diện tích
330.363 km2 đất liền và phần biển rộng lớn chạy suốt theo chiều dài biên giới 3.260 km
đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may trong vận chuyển hàng hóa xuất
khẩu bằng đường biển, giúp giảm chi phí vận chuyển, tạo lợi thế trong cạnh tranh về giá
với sản phẩm dệt may các nước khác.
+ Đội ngũ lao động:
Sự dồi dào về nguồn lao động và mức tiền lương thấp ở các nước đang phát triển
là điều kiện quan trọng để các nước này đi vào phát triển ngành công nghiệp dệt may.
Việt Nam là nước có dân số đông và trẻ trong khu vực và trên thế giới. Dân số Việt Nam
hiện nay có trên 80 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động khoảng 45 triệu
người. Trong hơn thập kỷ qua, chất lượng nguồn nhân lực của nước ta đã có những
chuyển biến tích cực, được minh chứng rõ nét qua sự tăng lên về sức khỏe, trình độ văn
hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật. Lực lượng lao động dồi dào và được đánh giá là khéo
tay, nhanh nhẹn, thích hợp với những công việc tỷ mỷ, đó là lợi thế lớn của Việt Nam
trong phát triển ngành dệt may. Tuy nhiên, để phát triển ngành công nghiệp dệt may theo
hướng hiện đại, đòi hỏi phải có chính sách đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực này một cách
hợp lý và có hiệu quả. Chú trọng đúng mức đến việc tổ chức, giáo dục, đào tạo dưới
nhiều hình thức để nâng cao trình độ, tay nghề của đội ngũ lao động trong ngành dệt may,
kể cả lao động phổ thông và lao động ở những công đoạn đòi hỏi khả năng sáng tạo như
thiết kế, tạo mẫu; xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi về khoa học công nghệ và quản lý
kinh tế.
+ Về công nghệ:
Giống như các ngành sản xuất công nghiệp khác, trình độ công nghệ có ảnh
hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng và tốc độ phát triển của ngành dệt may. Việc
chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ có ảnh hưởng lớn đến việc tạo ra các sản phẩm có
sức cạnh tranh cao trên thị trường dệt may thế giới. ở tất cả các nước, muốn đẩy mạnh sự
phát triển ngành công nghiệp dệt may thì nhất thiết phải chú trọng đầu tư, đổi mới công
nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động.
Công nghệ của ngành công nghiệp dệt may ở nước ta chủ yếu dựa vào nhập
khẩu, chuyển giao từ nước ngoài. Quá trình chuyển giao và du nhập này lại chậm hơn và
công nghệ thấp hơn so với xu hướng chung của thế giới và các nước trong khu vực. Đặc
biệt, công nghệ trong ngành dệt nước ta hiện nay còn rất lạc hậu, thiếu sự đồng bộ và
chưa tương xứng với trang thiết bị của ngành may. Theo một kết quả nghiên cứu có sự hỗ
trợ của các chuyên gia Nhật Bản, do công nghệ dệt nước ta lạc hậu hàng chục năm so với
thế giới, nên khi sử dụng phải dùng nhiều hóa chất độc hại và độ tiêu hao nguyên liệu
lớn, chất lượng lại không đảm bảo…Do vậy để ngành dệt may Việt Nam phát triển vững
chắc thì trong thời gian tới, việc đầu tư cho đổi mới công nghệ là một yêu cầu tất yếu, có
tầm quan trọng hàng đầu.
+ Khả năng về vốn:
So với một số ngành công nghiệp khác như ngành điện, ngành luyện kim, ngành
giấy… thì đầu tư tạo chỗ làm việc trong công nghiệp dệt may nhỏ hơn, nên nhiều nước
đang phát triển trên thế giới ưu tiên đầu tư phát triển ngành dệt may của nước mình nhiều
hơn so với đầu tư vào các ngành công nghiệp khác để thu hút lực lượng lao động phổ
thông dồi dào. Tuy vậy, để xây dựng và phát triển ngành công nghiệp dệt may hiện đại thì
lượng vốn đầu tư cũng không phải là nhỏ, đặc biệt là đối với các nước đang trong giai đoạn
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với cơ sở vật chất còn rất lạc hậu như Việt Nam
hiện nay.
Không những chỉ có các nước đang phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu
mới chú trọng đến việc đầu tư vốn để nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh hàng dệt
may mà việc đầu tư vốn cho phát triển công nghiệp dệt may cũng là vấn đề được quan tâm
ở nhiều nước đã có ngành công nghiệp dệt may phát triển. Trong năm 1995, Hàn Quốc đã
đầu tư cho ngành dệt 3 tỷ USD, tăng 58,1% so với năm 1994. Để nâng cao năng lực cạnh
tranh của sản phẩm hàng dệt may trên thị trường thế giới, Hiệp hội các nhà may mặc Thổ
Nhĩ Kỳ ước tính phải đầu tư 6 tỷ USD để hiện đại hóa máy móc và đổi mới công nghệ
trong giai đoạn 2000-2005 [10, tr. 33].
Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam hiện nay xác định mục tiêu đến
năm 2010 xuất khẩu hàng dệt may đạt kim ngạch 8 tỷ đến 9 tỷ USD, tỷ lệ giá trị nguyên
phụ liệu nội địa trên sản phẩm dệt may xuất khẩu đạt trên 70% đến năm 2010… Để đạt
được mục tiêu, Chiến lược cũng xác định tổng vốn đầu tư phát triển ngành dệt may Việt
Nam cho giai đoạn 2001-2005 vào khoảng 35.000 tỷ đồng; tổng vốn đầu tư cho giai đoạn
2006-2010 khoảng 30.000 tỷ đồng. Đây là khoản vốn rất lớn trong điều kiện nước ta hiện
nay, đòi hỏi phải huy động từ nhiều nguồn mới có thể đáp ứng được yêu cầu.
- Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với phát triển công nghiệp dệt may
Để ngành công nghiệp dệt may phát triển cần rất nhiều nhân tố tác động cả từ
bên trong và bên ngoài nền kinh tế. Giao lưu quốc tế mở rộng tác động mạnh mẽ đến nhu
cầu tiêu dùng các sản phẩm dệt may, dẫn đến kích thích sản xuất phát triển. Trình độ phát
triển kinh tế và các lợi thế so sánh của một nước, bao gồm trình độ công nghệ, nguồn
nhân lực, khả năng cung ứng nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu là những nhân tố quan trọng
chi phối vị trí của công nghiệp dệt may trong nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, vị trí của
các ngành công nghiệp nói chung, ngành dệt may nói riêng không phải là bất di bất dịch
trong nền kinh tế quốc dân của mỗi nước, mà nó phải phù hợp với điều kiện và chủ
trương phát triển kinh tế của đất nước trong từng giai đoạn. Một ngành kinh tế có thể từ
vị trí mũi nhọn trở thành một ngành kém phát triển hơn các ngành khác, và ngược lại nếu
có những cơ chế, chính sách hỗ trợ kịp thời, hữu hiệu của nhà nước thì một ngành ở vị trí
thứ yếu lại có thể trở thành một ngành rất quan trọng trong nền kinh tế quốc gia.
Từ khi nước ta thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, ngành dệt may có điều kiện
phát triển mạnh mẽ, phù hợp với định hướng ưu tiên trong chiến lược đầu tư của Nhà
nước đối với sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần và việc mở rộng quyền xuất khẩu trực tiếp cho các doanh nghiệp đã tạo ra
môi trường sản xuất, kinh doanh thuận lợi đối với ngành dệt may, thu hút được nhiều
doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào phát triển công nghiệp dệt may và các
ngành phụ trợ. Bên cạnh việc khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân và các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất, thì việc đổi mới, sắp xếp lại
tổ chức đối với các doanh nghiệp dệt may Nhà nước thời gian qua là bước đi quan trọng
trong việc xóa bỏ tình trạng phân tán, manh mún của ngành dệt may. Quyết định số
253/TTg ngày 29/4/1995 của Thủ tướng Chính phủ thành lập Tổng công ty Dệt May Việt
Nam tạo điều kiện tăng cường tính liên kết, tập trung sức mạnh của các doanh nghiệp dệt
may nhà nước trong việc đầu tư, đổi mới thiết bị, công nghệ, cơ cấu lại sản xuất nhằm
nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới.
Mặt khác, bằng việc củng cố và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước, các
khu vực trên thế giới, Đảng và Nhà nước đã tạo tiền đề quan trọng để mở rộng thị trường
xuất khẩu cho hàng dệt may Việt Nam, góp phần thúc đẩy ngành dệt may đổi mới và phát
triển.
Trong định hướng phát triển kinh tế đất nước hiện nay, công nghiệp dệt may tiếp
tục được Đảng và Nhà nước ta xác định là một trong những ngành trọng điểm trong cơ
cấu ngành công nghiệp và có vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-1010
xác định định hướng phát triển các ngành, trong đó nêu rõ: "Phát triển nhanh các ngành
công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước
và đẩy mạnh xuất khẩu, như chế biến nông, lâm, thủy sản, may mặc, da -giày, điện tử, tin
học, một số sản phẩm cơ khí và hàng tiêu dùng…" [8, tr. 173]. Từ chủ trương đó, Chiến
lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 được xây dựng và Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt.
1.1.3. Vai trò của xuất khẩu hàng dệt may đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội ở nước ta
Hiện nay, ngành dệt may đã trở thành một trong những ngành có tốc độ phát triển
cao, dệt may là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu hàng
năm hiện đứng thứ hai (sau dầu thô). Xuất khẩu hàng dệt may có vai trò to lớn đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, thể hiện ở những điểm sau:
- Phát triển xuất khẩu hàng dệt may có tác động trực tiếp đến công nghiệp dệt
may Việt Nam
Từ nhiều thập kỷ qua, ngành công nghiệp dệt may luôn có một vị trí quan trọng
trong nền kinh tế Việt Nam. Đó là ngành công nghiệp tạo nhiều việc làm cho người lao
động và đảm bảo nhu cầu may mặc tối thiểu cho nhân dân. Từ khi Đảng và Nhà nước ta
tiến hành công cuộc cải cách kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân, nhưng đã có sự thay đổi sâu sắc và nhanh chóng trong mục tiêu và định
hướng phát triển. Cũng như các nước đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nền kinh tế, ngành dệt may nước ta hiện nay là ngành kinh tế hướng về xuất khẩu, lấy
việc xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường nước ngoài là yếu tố sống còn. Do vậy, mặc dù
sản phẩm của ngành dệt may vẫn rất cần thiết cho việc phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong
nước nhưng yếu tố trực tiếp quyết định đến khả năng phát triển ngành công nghiệp dệt
may nước ta hiện nay chính là việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may.
Xuất khẩu hàng dệt may được đẩy mạnh giúp tạo nhiều công ăn việc làm, cải
thiện đời sống cho người lao động trong ngành dệt may và các ngành phụ trợ. Ngành dệt
may ở nước ta hiện nay là một ngành sử dụng nhiều lao động, phần lớn là lao động phổ
thông. Hiện nay, có khoảng 2 triệu lao động làm việc trong ngành công nghiệp dệt may,
chưa kể lực lượng lao động tham gia trong các lĩnh vực phát triển cây bông và trồng dâu
nuôi tằm (ước tính hiện nay khoảng 70.000 người). Theo chiến lược tăng tốc phát triển
ngành dệt may, đến năm 2010 ngành dệt may phải đáp ứng được nhiệm vụ là tạo công ăn
việc làm cho khoảng 4 triệu người (chiếm 5% dân số Việt Nam). Để đạt được mục tiêu
đó thì ngành dệt may phải thực hiện tốt nhiệm vụ đầu tư phát triển sản xuất hợp lý và đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu. Khi sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may phát triển sẽ giải
quyết phần nào tình trạng thất nghiệp, nâng cao thu nhập cho người lao động, thông qua
đó góp phần làm ổn định chính trị xã hội và phát triển kinh tế đất nước.
Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may giúp các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may
có điều kiện tích lũy vốn để đầu tư mở rộng sản xuất. Thông qua hoạt động xuất khẩu
hàng dệt may, các doanh nghiệp thu được nguồn ngoại tệ để nhập khẩu trở lại các yếu tố
đầu vào phục vụ cho sản xuất hàng dệt may mà nước ta còn hạn chế như sợi, vải, hóa
chất nhuộm… Đồng thời, các doanh nghiệp có điều kiện để nhập khẩu máy móc, thiết bị,
công nghệ phục vụ cho quá trình hiện đại hóa ngành dệt may.
- Phát triển xuất khẩu hàng dệt may có tác động liên ngành trong nền kinh tế và
góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế xã hội Việt Nam
Ngành dệt may là một bộ phận quan trọng của nền công nghiệp Việt Nam và có
vai trò to lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Khi xuất khẩu hàng dệt may được đẩy mạnh
sẽ tạo điều kiện thúc đẩy các ngành kinh tế, kỹ thuật khác phát triển như công nghiệp
hóa chất, cơ khí, nông nghiệp. Ngành công nghiệp hóa chất là một trong những ngành
chủ yếu cung cấp nguyên, vật liệu cho ngành công nghiệp dệt may. Phần lớn các loại
nguyên liệu chủ yếu của các sản phẩm dệt may như xơ, sợi tổng hợp, các loại hóa chất,
thuốc nhuộm, các loại phụ gia… đều là sản phẩm của công nghiệp hóa chất. Do vậy,
khi công nghiệp hóa chất phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành dệt may phát
triển. Ngược lại, khi ngành dệt may phát triển sẽ có nhu cầu lớn đối với nguồn nguyên
liệu và đó là một trong những điều kiện để ngành công nghiệp hóa chất phát triển, đặc
biệt trong xu thế phải tăng cường tỷ lệ nội địa hóa đối với nguyên phụ liệu hàng dệt
may để nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng dệt may nước ta hiện nay. Xuất khẩu hàng
dệt may phát triển cũng đem lại những cơ hội to lớn cho ngành công nghiệp cơ khí, chế
tạo để sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng được nhu cầu đầu tư, đổi mới trang thiết bị
của ngành dệt may.
Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may tạo điều kiện để ngành nông nghiệp phát triển
và có tác động tích cực tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng kinh tế của Việt
Nam. Sản xuất nông nghiệp, cụ thể là nghề trồng dâu và nuôi tằm chịu ảnh hưởng lớn của
phát triển ngành công nghiệp dệt may. Các sản phẩm có nguồn gốc từ bông và tơ tằm
đang và sẽ vẫn tiếp tục chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu sản phẩm dệt may thế giới. Để việc
xuất khẩu hàng dệt may tăng trưởng ổn định và bền vững thì điều quan trọng đặt ra là
phải phát triển nguồn nguyên liệu nội địa. Khi đó phải có sự đầu tư lớn để tạo điều kiện
cho ngành trồng bông và trồng dâu phát triển mạnh mẽ.
Sự phát triển của công nghiệp dệt may có tác động tích cực đến sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế các vùng. Vùng có ngành dệt may phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của
các ngành sản xuất phụ trợ cho ngành dệt may, từ đó tăng tỷ trọng công nghiệp trong cơ
cấu nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế các vùng sẽ kéo theo hàng loạt các thay đổi
về mặt kinh tế xã hội như tạo công ăn việc làm cho người lao động, phát triển các ngành
kinh tế mũi nhọn, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
- Xuất khẩu hàng dệt may góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và là một
nguồn thu ngoại tệ quan trọng, đóng góp to lớn vào quá trình tích lũy vốn phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, xuất khẩu hàng hóa có vai trò rất quan trọng.
Với những đặc trưng của mình, ngành dệt may Việt Nam thời gian qua đã vươn lên là
một trong những ngành xuất khẩu chủ lực. Hàng dệt may Việt Nam đã được xuất khẩu đến
nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới. Xuất khẩu dệt may phát triển tạo cơ hội mở rộng
các mối quan hệ thương mại nói riêng, quan hệ kinh tế đối ngoại nói chung của Việt Nam
với khu vực và thế giới. Hàng dệt may xuất khẩu nước ta ngày càng được người tiêu
dùng ở nhiều nước trên thế giới biết đến đã tạo ảnh hưởng tốt đến uy tín của hàng hóa
Việt Nam xuất khẩu nói chung và do vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho các mặt hàng khác
xâm nhập vào các thị trường mà hàng dệt may Việt Nam đã có chỗ đứng.
Với vị trí là ngành hàng xuất khẩu mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, ngành dệt may nước ta đã đóng góp đáng kể vào quá trình tích lũy vốn
để phát triển kinh tế. Phát triển xuất khẩu hàng dệt may giúp Nhà nước thu được một
lượng thuế không nhỏ và thông qua hoạt động xuất khẩu, ngành dệt may đã đóng góp một
lượng ngoại tệ đáng kể cho ngân sách quốc gia, tạo đà phát triển cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong những năm qua, xuất khẩu hàng dệt may đã đạt được những kết quả to lớn.
Tốc độ tăng trưởng của ngành dệt may luôn ở mức cao với giá trị xuất khẩu tăng nhanh
và tương đối ổn định. Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành dệt may năm 2003 chiếm
bình quân 9% toàn ngành công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 15% tổng
kim ngạch xuất khẩu cả nước và 41% kim ngạch xuất khẩu của công nghiệp chế biến.
Dệt may hiện tại là ngành công nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn. Kim ngạch xuất khẩu
năm 2003 là 3,7 tỷ USD, năm 2004 là 4,3 tỷ USD. Hàng dệt may Việt Nam đã được đẩy
mạnh xuất khẩu sang nhiều nước và khu vực trên thế giới như Nhật Bản, EU, Mỹ, Đài
Loan, Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc...
Có thể khẳng định rằng ngành dệt may Việt Nam có một vai trò to lớn đối với
quá trình phát triển của đất nước, thể hiện ở những đóng góp của ngành cho nền kinh tế
trong hiện tại cũng như tương lai. Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch
vụ thời kỳ 2001 - 2010 xác định mục tiêu xuất khẩu hàng may mặc nước ta năm 2005 là 5
tỷ USD và đến năm 2010 là 7,5 tỷ USD. Chiến lược cũng xác định một trong những khâu
then chốt để thực hiện mục tiêu là mở rộng và đa dạng hóa thị trường và trọng điểm là
các thị trường có sức mua lớn. EU được xác định là một trong những thị trường xuất
khẩu trọng điểm của Việt Nam. Thị trường EU luôn là một trong những thị trường có tầm
quan trọng đặc biệt, luôn được tính đến đầu tiên trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam.
1.2. Thị trường hàng dệt may ở EU; những điều kiện đảm bảo đẩy mạnh xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
1.2.1. Thị trường hàng dệt may ở EU
1.2.1.1. Vị thế liên minh châu Âu (EU) trong nền kinh tế thế giới
Liên minh châu Âu (The European Union, viết tắt là EU), trước 1/11/1993 gọi là
Cộng đồng châu Âu (The European Communities - EC). Quá trình thành lập EU được
đánh dấu bằng việc 6 nước: Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg ký Hiệp ước Pari
thành lập Cộng đồng than thép châu Âu (ECSC) vào năm 1951. Năm 1957, các nước này
ký Hiệp ước Roma thành lập Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu âu (EURATOM) và
Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC). Từ năm 1965, cơ quan điều hành các cộng đồng trên
được hợp nhất và gọi là Cộng đồng châu Âu (EC). Việc hợp nhất này xác nhận một cấp
độ nhất thể hóa kinh tế cao hơn giữa các quốc gia EC, thể hiện việc thành lập một thị
trường thống nhất; trong đó, ngoài việc hàng hóa, lao động và vốn đầu tư được tự do di
chuyển, hàng rào thuế quan và phi thuế quan cũng được dỡ bỏ, hệ thống thuế quan và
chính sách thương mại chung được thành lập, một số chính sách đối với các lĩnh vực kinh
tế khác cũng được thống nhất để tăng sức cạnh tranh với các khối kinh tế bên ngoài, tiến
tới một liên minh chặt chẽ về chính trị. Hiệp ước Maastricht thành lập Liên minh châu Âu
(EU) được ký ngày 7/2/1992 tại Maastricht - Hà Lan, với sự nhất trí hoàn toàn của 12 nước
thành viên EC lúc đó. Với những quy định tại Hiệp ước Maastricht, EU đã được bổ sung
thêm các nội dung liên kết mới về các mặt an ninh, chính trị, đối ngoại; tiến tới hợp nhất
về kinh tế thông qua việc tạo ra một khu vực kinh tế rộng lớn, một khu vực thị trường tự
do, thống nhất, tạo điều kiện cho việc thống nhất về chính trị và hài hòa về xã hội trong
liên minh.
Trong lịch sử phát triển của mình, EU đã có 5 lần mở rộng thông qua việc kết
nạp thêm các nước châu Âu. Lần mở rộng thứ năm vào 1/5/2004 đã kết nạp thêm 10
thành viên mới, là các quốc gia thuộc Đông và Trung Âu: Séc, Hunggaria, Ba Lan,
Slovakia, Slovenia, Litva, Latvia, Estonia, Malta và Síp. Đây là lần kết nạp đông nhất từ
trước đến nay và đưa số thành viên hiện nay của EU lên 25 nước thành viên với diện tích
4 triệu km2, dân số 455 triệu người. Việc mở rộng lần này cũng giống như những lần
trước ở chỗ là tạo thêm sức mạnh, sự gắn kết và tạo thêm ảnh hưởng của Liên minh trên
trường quốc tế, giúp EU có vị trí vững chắc hơn để đối phó với những thách thức của quá
trình toàn cầu hóa. Với lần mở rộng này, EU trở thành khối liên kết kinh tế lớn và là thị
trường tiềm năng nhất thế giới. EU sẽ có một diện mạo mới và cả một tầm vóc mới cả về
kinh tế, chính trị trên trường quốc tế.
Liên minh châu Âu (EU) là một trong ba trung tâm kinh tế lớn của thế giới (Mỹ,
Nhật Bản, EU). GDP của EU năm 1998 đạt 8.482 tỷ USD, năm 2000 đạt 9.004 tỷ USD,
năm 2001 đạt 9.135 tỷ USD, với mức tăng trưởng bình quân hàng năm thời kỳ 1995-
2000 là gần 2,2% [21, tr. 73]. Đây là khu vực kinh tế đạt trình độ cao về kỹ thuật, công
nghệ, thiết bị, máy móc; đặc biệt là về cơ khí, năng lượng, nguyên tử, dầu khí, hóa chất,
điện tử, công nghiệp vũ trụ và vũ khí.
Về thương mại: EU là trung tâm thương mại lớn thứ hai trên thế giới, sau Hoa
Kỳ. Năm 2002, giá trị xuất khẩu hàng hóa của EU đạt 2.441,2 tỷ USD, trong đó xuất
khẩu hàng hóa nội khối đạt 1.502,2 tỷ USD, xuất khẩu hàng hóa ra bên ngoài khối đạt
939 tỷ USD. Các nước EU xuất khẩu ra thế giới chủ yếu là các sản phẩm chế tạo và dịch
vụ. Đồng thời, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của các nước EU cũng không ngừng gia
tăng, từ 622,48 tỷ USD năm 1994 lên tới 2.437 tỷ USD năm 2002, trong đó nhập khẩu
giữa các nước trong khối đạt 1.506 tỷ USD và nhập khẩu từ ngoài khối đạt 931 tỷ USD.
Các thị trường nhập khẩu chính bên ngoài khối hiện nay của EU là Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Trung Quốc, khối Hiệp định tự do mậu dịch Bắc Mỹ (NAFTA), Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam á (ASEAN), Tổ chức các quốc gia xuất khẩu dầu lửa (OPEC). Châu á ngày
càng có vị trí quan trọng trong chiến lược đối ngoại của EU hiện nay. Ngày 13/7/1994,
EU công bố "Chiến lược mới đối với châu á" như một tổng thể các biện pháp trong chính
sách của Liên minh, đồng thời cũng là định hướng cho chính sách của mỗi nước thành
viên đối với khu vực châu á. Đặc biệt các cuộc gặp gỡ á - âu (ASEM), đã đóng vai trò
quan trọng trong việc nâng cao sự hợp tác nhiều mặt giữa hai khu vực.
Trong những năm qua, sự lớn mạnh về kinh tế qua quá trình nhất thể hóa và
những bước tiến tới một liên minh chính trị đã và đang đem lại cho EU một sức mạnh
kinh tế và chính trị rất lớn trên thế giới. Với chiến lược "mạnh hơn và mở rộng hơn" được
thực hiện trong những năm đầu của thế kỷ XXI, EU ngày càng khẳng định vị thế của
mình trong đời sống kinh tế và chính trị thế giới như một siêu cường.
1.2.1.2. Đặc điểm của thị trường hàng dệt may ở EU
Trong hoạt động xuất nhập khẩu của các nước EU, hàng dệt may là một trong
những mặt hàng có giá trị buôn bán, trao đổi tương đối lớn. Năm 2003, kim ngạch buôn
bán hàng dệt may của các nước EU đạt hơn 100 tỷ Euro, trong đó kim ngạch nhập khẩu
khoảng 70 tỷ Euro - chiếm gần 20% tổng kim ngạch buôn bán hàng dệt may trên thế giới.
Dệt may cũng là ngành hàng nhạy cảm trong định hướng chính sách kinh tế đối ngoại của
EU trong thời gian qua. Thị trường hàng dệt may ở EU có những đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất: Nhu cầu hàng dệt may trên thị trường EU
Với dân số hiện nay vào khoảng 455 triệu người có mức sống trung bình vào loại
cao trên thế giới, EU25 hiện nay, cũng như EU15 trước khi mở rộng, có nhu cầu tiêu thụ
về hàng dệt may rất lớn. Mức tiêu thụ hàng may mặc bình quân đầu người ở thị trường
này vào loại cao nhất trên thế giới, trung bình một năm một người dân chi tiêu 500 USD
cho quần áo. Một năm, trung bình một người dân EU tiêu dùng 17 kg vải, trong khi đó ở
các nước khác, mức tiêu thụ vải trên đầu người một năm là 2,8kg ở Thái Lan, 2,0 kg ở
Indonexia; 11,9 kg ở Hồng Kông; 14,3 kg ở Hàn Quốc và ở Việt Nam, con số này chỉ là
0,84 kg. Trên thị trường hàng dệt may EU có rất nhiều chủng loại hàng hóa từ các nước
xuất khẩu khác nhau như Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan…
EU là một trung tâm văn minh lâu đời của nhân loại. Tập quán, thị hiếu tiêu dùng
của người dân các nước EU rất phong phú, đa dạng. Người dân các nước EU có những
yêu cầu rất khắt khe về chất lượng và an toàn vệ sinh của sản phẩm. Sở thích và thói quen
tiêu dùng trên thị trường này đang thay đổi rất nhanh cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học công nghệ và sự thay đổi nhanh chóng của thời trang. Người dân EU hiện nay
có xu hướng dùng những sản phẩm may mặc sản xuất từ nguồn nguyên liệu tự nhiên (sợi
gai, bông…).
Người dân trong khối EU có mức sống tương đối cao, nên vấn đề họ quan tâm
hàng đầu đối với hàng may mặc là chất lượng, mẫu mã, chủng loại, còn vấn đề về giá cả
được xếp ở mức độ kém quan trọng hơn so với các yếu tố trên. Người tiêu dùng EU có sở
thích và thói quen dùng sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới dù vẫn biết sản
phẩm đó đắt hơn rất nhiều so với những nhãn hiệu bình thường. Họ cho rằng, những nhãn
hiệu nổi tiếng sẽ gắn với chất lượng sản phẩm và uy tín lâu đời, cho nên khi dùng sản
phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất an tâm về chất lượng và an toàn cho người sử
dụng. Vì vậy, những sản phẩm có nhãn hiệu mới, ít nổi tiếng thì thường phải mất thời
gian nhất định mới có thể đứng vững trên thị trường EU, sau khi đã được người tiêu dùng
kiểm nghiệm về chất lượng.
Cũng như thị trường các quốc gia, thị trường EU bao gồm nhiều nhóm người có
mức tiêu dùng khác nhau. Trên lĩnh vực tiêu dùng hàng may mặc ở thị trường EU, có thể
chia thành ba nhóm người tiêu dùng: Nhóm có khả năng thanh toán ở mức cao - chiếm
gần 20% dân số của EU, dùng hàng có chất lượng tốt nhất hoặc những mặt hàng hiếm và
độc đáo và giá cả cũng thuộc loại đắt nhất; khoảng 68% dân số EU thuộc nhóm có khả
năng thanh toán ở mức trung bình, sử dụng chủng loại hàng có chất lượng kém hơn một
chút so với nhóm trên và giá cả cũng rẻ hơn; nhóm có khả năng thanh toán ở mức thấp,
chiếm hơn 10% dân số, tiêu dùng những loại hàng có chất lượng thấp hơn hoặc ít có danh
tiếng hơn so với hai nhóm trên và mức giá thấp hơn. Đối tượng tiêu dùng hàng may mặc
xuất khẩu của Việt Nam thuộc nhóm hai và ba, đây cũng là nhóm khách hàng được hàng
dệt may xuất khẩu giá rẻ của nhiều nước hướng tới. Do vậy, cạnh tranh giữa hàng dệt
may xuất khẩu của các nước đang phát triển trên thị trường EU là hết sức gay gắt.
Mặc dù EU là một khối kinh tế có mức độ liên kết cao, nhưng các nước thành
viên vẫn có những đặc điểm riêng về văn hóa, tập quán, thị hiếu tiêu dùng. Trên thực tế,
có những loại hàng hóa rất được ưa chuộng ở quốc gia này, nhưng lại kém sức hấp dẫn ở
quốc gia khác. Ví dụ, ở các thị trường như Đức, Hà Lan, người tiêu dùng thường chú ý
nhiều đến tính hiệu dụng của quần áo, ưa các màu nhã nhặn như màu kem hay xám nhạt,
còn ở thị trường Italia, tiêu chuẩn đầu tiên phải là hình thức đẹp và người tiêu dùng
thường thích các màu tươi sáng… Mức sống của người dân ở các quốc gia EU cũng
không hoàn toàn đồng nhất, có chênh lệch lớn giữa mức sống người dân ở các nước
thành viên cũ và mới của EU. Do vậy, việc tìm hiểu kỹ đặc điểm của từng thị trường nhỏ
trong EU là hết sức quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện chiến lược xuất khẩu
hàng hóa vào thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng này.
Thứ hai: Khả năng sản xuất và nhập khẩu hàng dệt may ở EU để đáp ứng nhu
cầu.
Ngành dệt may ở các nước châu Âu nói chung, EU nói riêng có lịch sử phát triển
lâu đời. Đây là khu vực có ngành công nghiệp dệt may phát triển sớm nhất trên thế giới
và nổi trội về kỹ thuật sản xuất các sản phẩm may mặc truyền thống, cũng như các loại
sợi thiên nhiên, len và tơ tằm. Những nước có ngành công nghiệp dệt, may phát triển nhất
là Đức, Italia, Pháp và Anh. EU là khu vực hàng đầu về chế tạo mẫu mốt hàng dệt may
với các trung tâm mốt thời trang nổi tiếng trên toàn thế giới như Paris (Pháp), Luân Đôn
(Anh), Milan (Italia), có nhiều công ty tạo mốt thời trang với các sản phẩm cao cấp như
GFT hay Fendi (Italia), Aguesb (Pháp), CEO of Girmes Gmtt (Đức)… Có thể nói, trung
tâm thời trang châu Âu có vị trí định hướng, chi phối xu hướng thời trang toàn cầu.
Lĩnh vực dệt may hiện nay chiếm một phần quan trọng trong ngành công nghiệp
của EU. Doanh số năm 2003 của ngành dệt may EU vào khoảng 200 tỷ euro, có gần
177.000 doanh nghiệp, sử dụng trên 2 triệu lao động. Khi EU mở rộng thành EU 25 từ
1/5/2004, lao động trong ngành dệt may lên tới 2,7 triệu người. Trình độ thiết bị, công
nghệ trong ngành công nghiệp dệt may EU hiện nay được xếp vào loại hàng đầu thế giới.
Ngành công nghiệp dệt may của EU rất có thế mạnh trong ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật để sản xuất các sản phẩm dệt may cao cấp. EU cũng là khu vực hàng đầu thế giới
trong sản xuất và xuất khẩu sản phẩm hóa chất và các loại máy móc, thiết bị hiện đại của
ngành dệt may. Nhiều quốc gia ở EU nổi tiếng thế giới về sản xuất và xuất khẩu máy
móc, thiết bị, công nghệ hiện đại trong ngành dệt may như Đức, Pháp, Anh, Italia…
Trong những năm qua, ngành dệt may ở EU đã có một loạt biến đổi căn bản do
sự kết hợp của nhiều yếu tố như: những thay đổi về công nghệ, chi phí sản xuất tăng và
tính chất cạnh tranh gay gắt trên thị trường dệt may thế giới với sự xuất hiện của nhiều
đối thủ lớn như Trung Quốc, ấn Độ. Ngành công nghiệp dệt may EU đã thực hiện quá
trình cơ cấu lại, hiện đại hóa và áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Các doanh nghiệp dệt may EU nâng cao tính cạnh tranh bằng cách giảm mạnh hoặc
ngừng sản xuất hàng loạt các mặt hàng mốt đơn giản, để tập trung vào nhiều chủng loại
sản phẩm cao cấp, có giá trị gia tăng cao như những loại sợi có độ bền cao thay cho sản
phẩm sợi bông truyền thống, các sản phẩm dệt kỹ thuật hay những sản phẩm may mặc
thời trang cao cấp có hàm lượng sáng tạo lớn. Lợi thế cạnh tranh của các ngành công
nghiệp dệt may EU ngày nay phần lớn nằm ở chất lượng, tính sáng tạo, sự tìm tòi, đổi
mới và việc đào tạo nghề thích hợp. EU đang triển khai nhiều chương trình đào tạo nghề-
điển hình như chương trình đào tạo nghề Leonardo da Vinci II, giai đoạn 2000 - 2006,
nhằm tạo ra nguồn nhân lực thích ứng trình độ công nghệ cao của ngành dệt may EU.
Ngành công nghiệp dệt may EU trong hơn thập kỷ qua có xu hướng mở rộng các
hoạt động đầu tư sản xuất ra nước ngoài, chủ yếu hướng đến các nước Trung và Đông Âu
vì ở các khu vực này, chi phí đầu vào thấp hơn ở các nước EU và khoảng cách địa lý gần.
Nhiều hãng, tập đoàn dệt may của Đức, Pháp... đã ký hợp đồng để sản xuất sản phẩm của
họ tại Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô cũ. Các nước EU xuất khẩu vốn, nguyên liệu,
công nghệ, máy móc, thiết bị sang khu vực Trung và Đông Âu để sản xuất rồi tái nhập
hàng hóa hoàn chỉnh để tiêu thụ trên thị trường EU. Việc kết nạp thêm 10 thành viên mới
trong lần mở rộng EU lần thứ 5 có tác động mạnh đến quá trình cơ cấu lại ngành dệt may
EU và làm tăng cường khả năng đầu tư của các doanh nghiệp thuộc các nước thành viên
cũ tới các nước thành viên mới.
EU là một trong những khu vực có kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đứng hàng
đầu thế giới. Cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu của EU tập trung chủ yếu vào hàng dệt và
các sản phẩm may mặc cao cấp, có tính năng kỹ thuật nổi trội hoặc những sản phẩm thời
trang. Xuất khẩu hàng dệt của EU chiếm tỉ trọng lớn và tương đối ổn định trong tổng giá
trị xuất khẩu hàng dệt của thế giới. Từ năm 2000 - 2003, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm
dệt hàng năm của EU khoảng trên dưới 26 tỷ Euro. Khoảng 1/5 khối lượng hàng dệt xuất
khẩu của EU là để gia công hàng may mặc ở nước ngoài. Cũng trong giai đoạn 2000 -
2003, kim ngạch xuất khẩu hàng quần áo của EU ra ngoài khối đạt xấp xỉ 16 tỷ
Euro/năm, chủ yếu là các mặt hàng cao cấp và sản phẩm thời trang.
Để đáp ứng nhu cầu thị trường đối với các nhóm sản phẩm không được chú trọng
sản xuất trong ngành công nghiệp dệt may của khối, các nước EU tăng cường nhập khẩu
từ các nước ngoài khối. Các nước EU đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt may,
phần lớn là các sản phẩm may mặc phổ thông có giá rẻ, mẫu mã đơn giản, chất lượng
trung bình. Trong số 15 nước nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới có 10 nước EU,
đứng đầu là Đức, Pháp, Anh. Trong giai đoạn 2000-2003, trung bình một năm EU nhập
khẩu khoảng 19 tỷ Euro hàng dệt và trên 50 tỷ Euro hàng may mặc. Trong cơ cấu mậu
dịch để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thì khoảng 43% giá trị hàng dệt may được trao đổi
trong nội bộ các nước EU, 17% giá trị được nhập khẩu từ các nước châu á, chủ yếu là từ
Trung Quốc và một số ít từ các nước châu á khác như Thái Lan, Indonesia, Việt Nam…
còn lại 40% từ các khu vực khác. Kể từ thời điểm 1/1/2005, sau khi chế độ hạn ngạch dệt
may được bãi bỏ, khối lượng quần áo của Trung Quốc xuất khẩu vào thị trường EU tăng
vọt. Theo số liệu của ủy ban châu Âu, các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc trong 6
tháng đầu năm 2005 tăng 187% đối với mặt hàng T-shirt và 56% đối với mặt hàng sợi vải
lanh so với cùng kỳ năm 2004. ủy ban châu Âu đang xem xét để hạn chế hàng dệt may
nhập khẩu từ Trung Quốc, không loại trừ khả năng áp dụng trở lại chế độ hạn ngạch đối
với một số mặt hàng có mức tăng trưởng đột biến khi xuất khẩu vào EU.
Thứ ba: Hệ thống phân phối của EU đối với hàng dệt may.
Hệ thống phân phối của EU về cơ bản cũng giống như hệ thống phân phối của
một quốc gia, gồm mạng lưới bán buôn và mạng lưới bán lẻ. Tham gia vào hệ thống phân
phối hàng dệt may của EU có rất nhiều đơn vị khác nhau nhưng liên kết với nhau rất chặt
chẽ: các Công ty xuyên quốc gia, hệ thống các cửa hàng, siêu thị, các công ty bán lẻ độc
lập... Trong hệ thống phân phối của EU thì các công ty xuyên quốc gia (Transnational
Corporations - TNCs) có vai trò rất quan trọng.
Các TNCs ở EU là các tập đoàn lớn gồm rất nhiều công ty con, thường phát triển
theo mô hình chiều ngang gồm các ngành: ngân hàng hoặc công ty tài chính, nhà máy,
công ty thương mại, siêu thị, hệ thống cửa hàng. Các TNCs tổ chức mạng lưới tiêu thụ
của mình rất chặt chẽ, chú trọng từ khâu đầu tư sản xuất hoặc mua hàng cho đến khâu
phân phối hàng cho mạng lưới bán lẻ. Hiện nay, nhiều công ty xuyên quốc gia ở EU đang
tổ chức lại hoạt động của mình bằng việc chuyển phần lớn hoạt động từ lĩnh vực sản xuất
sang lĩnh vực tiếp thị tiêu dùng. Việc duy trì vừa đủ sản xuất trong nước cho phép họ có
khả năng phản ứng nhanh với những thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng. Đồng thời việc
đầu tư sản xuất ra nước ngoài giúp họ có thể tận dụng được lao động rẻ ở nước ngoài để
cung cấp sản phẩm với giá cạnh tranh. Chính vì vậy mà EU nhập rất nhiều hàng hóa có tỷ
trọng lao động sống cao như may mặc, da giày... từ các nước và trong những năm gần
đây, châu á là nơi cung cấp nhiều những hàng hóa này cho EU.
Các công ty xuyên quốc gia ở EU có quan hệ gắn bó lâu dài với các nhà xuất khẩu ở
nước ngoài để đảm bảo nguồn cung cấp hàng ổn định và giữ uy tín với mạng lưới bán lẻ.
Với sự hiện diện của các TNCs, hệ thống phân phối của EU có sự liên kết rất chặt chẽ.
Hai hình thức tổ chức phổ biến nhất của các kênh phân phối trên thị trường EU là theo tập
đoàn và không theo tập đoàn.
Hình thức kênh phân phối theo tập đoàn là các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu
của một tập đoàn chỉ cung cấp hàng hóa cho hệ thống các cửa hàng và siêu thị của tập
đoàn này mà không cung cấp hàng cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác. Còn ở hình
thức kênh phân phối không theo tập đoàn thì các nhà sản xuất và nhập khẩu của một tập
đoàn ngoài việc cung cấp hàng hóa cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn mình còn có thể
đồng thời cung cấp hàng hóa cho hệ thống bán lẻ của các tập đoàn khác và các công ty
bán lẻ độc lập. Rất ít trường hợp các siêu thị lớn hoặc các công ty bán lẻ độc lập mua
hàng trực tiếp từ các nhà xuất khẩu nước ngoài. Mối quan hệ bạn hàng giữa các nhà bán
buôn và bán lẻ trên thị trường EU phần lớn là do có quan hệ tín dụng và mua cổ phần
của nhau. Các nhà bán buôn và bán lẻ trong hệ thống phân phối của EU thường có quan
hệ làm ăn lâu đời. Họ liên kết với nhau chặt chẽ thành một chuỗi mắt xích trong kinh
doanh bằng các hợp đồng kinh tế. Các cam kết trong hợp đồng được giám sát nghiêm
ngặt bởi các chế tài của luật kinh tế. Việc đổ bể hợp đồng nhập khẩu sẽ kéo theo sự đổ
bể của các hợp đồng cung ứng nội địa. Vì vậy mà các nhà nhập khẩu của EU yêu cầu
rất cao các đối tác xuất khẩu về việc tuân thủ chặt chẽ các điều khoản của hợp đồng,
đặc biệt là chất lượng và thời gian giao hàng. Hệ thống phân phối của EU đã hình thành
một tổ hợp rất chặt chẽ và có nguồn gốc lâu đời. Tiếp cận được hệ thống phân phối này
không phải là việc dễ đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam hiện nay.
Thứ tư: Chính sách bảo vệ người tiêu dùng và các rào cản kỹ thuật đối với hàng
nhập khẩu.
Một đặc điểm nổi bật trên thị trường EU là quyền lợi của người tiêu dùng được
bảo vệ nghiêm ngặt. EU là một thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), có
chế độ quản lý nhập khẩu chủ yếu dựa trên các nguyên tắc của tổ chức này. Mặc dù thuế
nhập khẩu của EU thấp hơn so với các cường quốc kinh tế lớn, nhưng EU vẫn là một thị
trường bảo hộ rất chặt chẽ bởi rào cản kỹ thuật rất nghiêm ngặt. Rào cản kỹ thuật chính là
quy chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của EU,
được cụ thể hóa ở 5 tiêu chuẩn của sản phẩm: tiêu chuẩn chất lượng theo hệ thống quản
lý ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất
khẩu sang EU; tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm; tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng; tiêu
chuẩn bảo vệ môi trường - yêu cầu các nhà sản xuất phải đảm bảo tuân thủ hệ thống quản
lý môi trường ISO 14000 và tiêu chuẩn về lao động - cấm nhập khẩu những hàng hóa mà
quá trình sản xuất sử dụng bất kỳ một hình thức lao động cưỡng bức nào như lao động tù
nhân, lao động trẻ em…
Để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng, EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm
ngay từ nơi sản xuất và có các hệ thống báo động giữa các nước thành viên, đồng thời bãi
bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. EU đã thông qua những quy định bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng về độ an toàn chung của các sản phẩm được bán ra, các
hợp đồng quảng cáo, bán hàng tận nhà, nhãn hiệu... Các tổ chức chuyên nghiên cứu đại
diện cho giới tiêu dùng sẽ đưa ra các quy chế định chuẩn quốc gia hoặc châu Âu. Hiện
nay ở EU có ba tổ chức định chuẩn: ủy ban châu Âu về Định chuẩn, ủy ban châu Âu về
Định chuẩn điện tử, Viện Định chuẩn Viễn thông châu Âu. Tất cả các sản phẩm chỉ có
thể bán được ở thị trường EU với điều kiện phải bảo đảm tiêu chuẩn an toàn chung của
EU.
Trong lĩnh vực nhập khẩu hàng dệt may, đối với các loại vải lụa, EU lập ra một
hệ thống thống nhất về mã hiệu cho biết các loại sợi cấu thành nên loại vải hay lụa được
bán ra trên thị trường EU. Bất cứ loại vải hay lụa nào được sản xuất ra trên cơ sở hai hay
nhiều loại sợi mà một trong các loại ấy chiếm tối thiểu 85% tổng trọng lượng thì trên mã
hiệu có thể đề tên loại sợi đó kèm theo tỷ lệ về trọng lượng, hoặc đề tên của loại sợi đó
kèm tỷ lệ tối thiểu 85%, hoặc ghi cấu thành chi tiết của sản phẩm. Nếu sản phẩm gồm hai
hoặc nhiều loại sợi mà không loại sợi nào đạt tỷ lệ 85% tổng trọng lượng thì trên mã hiệu
ít nhất cũng phải ghi tỷ lệ của hai loại sợi quan trọng nhất, kèm theo tên các loại sợi khác
đã được sử dụng. Những sản phẩm dệt may nào không thực hiện đúng quy định như vậy
thì không được bán trên thị trường EU. EU cũng tích cực tham gia chống nạn hàng giả
bằng cách không cho nhập khẩu những sản phẩm đánh cắp bản quyền, chống các hành vi
gian lận thương mại như giả mạo xuất xứ hàng hóa để được hưởng thuế nhập khẩu thấp.
Khi phát hiện ra hành vi gian lận thương mại của người xuất khẩu, EU có các biện pháp
xử lý rất nghiêm, chủ yếu là bằng việc áp mức thuế nhập khẩu cao đối với các chủng loại
sản phẩm nhập khẩu có gian lận thương mại.
- Thứ năm: Chính sách ngoại thương của EU và hàng rào hạn ngạch đối với
hàng dệt may.
EU ngày nay được xem như một quốc gia lớn ở châu Âu. Chính sách thương mại
chung của EU cũng giống như chính sách thương mại của một quốc gia, bao gồm chính
sách nội thương và chính sách ngoại thương. Các nước thành viên EU áp dụng một chính
sách ngoại thương chung đối với các nước ngoài khối. ủy ban châu Âu là người đại diện
duy nhất cho liên minh trong đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại và dàn xếp
tranh chấp trong lĩnh vực này. Chính sách ngoại thương của EU được xây dựng dựa trên
các nguyên tắc không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng.
Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan, hạn ngạch, hàng
rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu. EU đang thực hiện chương trình mở
rộng hàng hóa, đẩy mạnh tự do hóa thương mại, giảm dần thuế quan đánh vào hàng hóa
xuất nhập khẩu.
Luật pháp EU quy định việc xác lập các quan hệ thương mại với các nước ngoài
khối theo các hình thức khác nhau. EU thường áp dụng hình thức ký kết các hiệp định
thương mại mang tính liên kết, ưu đãi hoặc là các hiệp định khung. Thông qua các hiệp
định này, EU có thể tạo ra một khu vực mậu dịch tự do hoặc một dạng liên minh thuế
quan với các nước có nhiều khả năng là thành viên của EU trong tương lai; hoặc miễn
thuế quan đối với một số sản phẩm nhập khẩu (như công ước Lomé - nay là Hiệp định
Cotonou) hiện đang giành cho 70 nước ở châu Phi, vùng Caribê và Thái Bình Dương. EU
còn sử dụng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) như một biện pháp để đẩy mạnh
quan hệ thương mại với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Hàng hóa của
những nước được hưởng GSP của EU, khi xuất khẩu vào thị trường này sẽ được hưởng
mức thuế suất thấp hơn thuế suất thông thường, mức độ thấp hơn bao nhiêu phụ thuộc
vào từng loại hàng hóa. Bằng cách này, EU tạo điều kiện cho hàng hóa các nước đang
phát triển có thêm khả năng xuất khẩu vào thị trường EU. Hàng xuất khẩu vào thị trường
EU của các nước muốn được hưởng GSP thì phải tuân thủ các quy định của EU về xuất
xứ hàng hóa và phải xuất trình giấy chứng nhận xuất xứ mẫu A do cơ quan có thẩm
quyền của nước được hưởng GSP cấp [21, tr. 84]. Hiện nay, các nước EU áp dụng những
ưu đãi thuế quan theo chế độ GSP mới có hiệu lực từ 1/4/2005.
Trước thời điểm 1/1/2005, hàng dệt may xuất khẩu của các nước vào thị trường
EU phải chịu chế độ hạn ngạch. Theo quy định của Hiệp định về hàng dệt may (ATC) từ
1/1/2005 các nước là thành viên của WTO không bị khống chế bởi hạn ngạch khi xuất
khẩu hàng dệt may sang các nước thành viên khác. Do vậy, từ 1/1/2005, EU bãi bỏ chế
độ quản lý nhập khẩu hàng dệt may bằng hạn ngạch đối với các nước thành viên của
WTO và sau một thời gian đàm phán, Việt Nam cũng đã được EU dỡ bỏ hoàn toàn hạn
ngạch dệt may kể từ năm 2005, mặc dù Việt Nam chưa là thành viên của WTO.
1.2.2. Những điều kiện đảm bảo đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
vào thị trường EU
Từ những đặc điểm của thị trường hàng dệt may EU như đã phân tích trên đây
cho thấy EU là một thị trường đầy tiềm năng đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt
Nam, nhưng để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may nước ta vào thị trường này thì không
hề đơn giản. Thị trường EU là thị trường không chỉ người mua yêu cầu khắt khe, mà còn
là nơi diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước ngoài EU xuất khẩu hàng dệt may vào
thị trường này. Để hàng dệt may Việt Nam có thể thâm nhập, đứng vững và gia tăng hiệu
quả xuất khẩu tại thị trường EU, đòi hỏi phải đáp ứng được các điều kiện sau đây:
Thứ nhất: Hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam phải phù hợp với nhu cầu và thị
hiếu của người dân EU, đáp ứng được các yêu cầu về hàng rào kỹ thuật của thị trường
EU.
Nhu cầu hàng dệt may tại thị trường EU rất đa dạng, phong phú. Người dân các
nước EU cũng như các khu vực phát triển khác trên thế giới rất chú ý đến yêu cầu về mẫu
mã, thời trang. Hàng dệt may có vòng đời sản phẩm ngắn và phụ thuộc nhiều vào yếu tố
văn hóa của các dân tộc. Thị trường EU là một thị trường thống nhất nếu xét trên phương
diện thể chế, chính sách, nhưng khi xét trên giác độ văn hóa và tập quán, thị hiếu thì EU
lại là thị trường rất đa dạng, mang nhiều nét đặc thù của các quốc gia khác nhau. Để đẩy
mạnh hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam vào thị trường EU, thì điều kiện đầu tiên là phải
nắm vững yêu cầu của thị trường từng quốc gia, để từ đó có chiến lược sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm cho phù hợp. Thị trường EU bao gồm nhiều cấp độ sản phẩm, ứng với các
loại khách hàng khác nhau, do đó việc xác định nhóm khách hàng phù hợp với sản phẩm
dệt may xuất khẩu của Việt Nam là hết sức quan trọng.
Thị trường EU là một thị trường lớn, có yêu cầu cao về chất lượng, được quản lý
chặt chẽ trong việc nhập khẩu hàng hóa với những hàng rào kỹ thuật rất khắt khe. Trong
lĩnh vực hàng dệt may, việc tuân thủ các tiêu chuẩn về chất lượng, về môi trường, tiêu
chuẩn an toàn cho người sử dụng và tiêu chuẩn về lao động là rất quan trọng khi xuất
khẩu vào EU. Người tiêu dùng không chỉ đòi hỏi những sản phẩm chất lượng cao mà còn
đặc biệt quan tâm tới những giá trị mới của sản phẩm thể hiện qua các yếu tố về bảo đảm
môi trường, các chuẩn mực về đạo đức, nhất là điều kiện làm việc của người lao động.
Có lưu ý tới những yếu tố mới này, sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt Nam mới có
thể đứng vững trên thị trường EU vốn nổi tiếng là kỹ tính.
Thứ hai: Các doanh nghiệp dệt may phải có chiến lược sản phẩm đúng đắn trong
việc thâm nhập thị trường EU.
Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU, đòi hỏi các doanh
nghiệp phải xây dựng cho mình chiến lược sản phẩm. Chiến lược sản phẩm là tổng thể
các biện pháp từ nghiên cứu nắm bắt nhu cầu thị trường đến tổ chức sản xuất, chuẩn bị
hàng hóa, xuất bán theo yêu cầu của khách hàng và các hoạt động sau bán hàng. Chiến
lược sản phẩm được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu dung lượng thị trường, đánh giá khả
năng của mình và các đối thủ cạnh tranh chính, để từ đó xác định được cho mình ngách
thị trường phù hợp. Các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa phải xác định
được thực chất khả năng, vị trí của mình trong các vấn đề: thị phần tại từng thị trường tiêu
thụ và đối thủ cạnh tranh; năng lực cạnh tranh hàng hóa của mình và nhu cầu của khách
hàng; các yếu tố môi trường kinh doanh, văn hóa, chính trị, xã hội có liên quan trực tiếp
và gián tiếp đến hàng hóa của mình, để từ đó sử dụng các chiến lược cạnh tranh khác
nhau đối với từng thị trường nhỏ trong khối EU.
Hệ thống phân phối trong thị trường EU có vai trò quan trọng trong việc đưa
hàng dệt may nhập khẩu đến tay người tiêu dùng. Để việc xuất khẩu hàng dệt may vào thị
trường EU phát triển một cách vững chắc, thì việc tiếp cận các kênh phân phối của thị
trường này là rất cần thiết. Trong chiến lược sản phẩm của mình, các doanh nghiệp Việt
Nam cần hết sức chú ý đến điều kiện này. Phải kết hợp nhiều hình thức xuất khẩu, nhưng
nhìn về lâu dài, xuất khẩu trực tiếp hàng hóa sang thị trường EU phải được đẩy mạnh,
thay cho hình thức gia công xuất khẩu qua trung gian. Thực hiện được điều này sẽ giúp
hàng dệt may Việt Nam đến tay người tiêu dùng cuối cùng với giá thành thấp hơn, nâng
cao hiệu quả xuất khẩu hàng dệt may, đồng thời giúp quảng bá mạnh mẽ hơn nhãn hiệu
hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới.
Trong xây dựng chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU,
cần phải kết hợp với chiến lược xuất khẩu vào các thị trường khác để tạo sức mạnh tổng
hợp của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. Đồng thời, phải kết hợp tốt giữa đẩy mạnh
xuất khẩu với đáp ứng nhu cầu của thị trường nội địa.
Thứ ba: Hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam phải có sức cạnh tranh cao.
Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa là điều kiện không thể thiếu để đẩy mạnh
xuất khẩu hàng dệt may ra thị trường thế giới nói chung, thị trường EU nói riêng. Đối với
thị trường hàng dệt may ở EU, cạnh tranh của hàng Việt Nam với hàng dệt may xuất
khẩu của các nước khác có cơ cấu sản phẩm gần giống hàng Việt Nam, là hết sức gay
gắt. Do vậy, để đứng được trên thị trường này thì hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam
phải có sức cạnh tranh cao. Sức cạnh tranh của hàng hóa được thể hiện trên nhiều tiêu
chí: Cạnh tranh về giá, cạnh tranh về chất lượng, kiểu dáng mẫu mã, cạnh tranh về dịch
vụ trước, trong và sau bán hàng…
Để sản phẩm dệt may xuất khẩu Việt Nam đứng vững trên thị trường EU, trước
tiên các doanh nghiệp phải hết sức chú trọng đến việc nâng cao giá trị sử dụng của sản
phẩm thông qua chất lượng, kiểu dáng, thời trang…. Đối với thị trường hàng dệt may
EU, chất lượng hàng hóa được xem là yếu tố số một, do vậy việc đáp ứng yêu cầu chất
lượng là rất quan trọng. Để thực hiện được điều này, các doanh nghiệp sản xuất phải chú
trọng đầu tư công nghệ sản xuất tiên tiến, đảm bảo chất lượng của nguyên phụ liệu, xây
dựng lực lượng lao động lành nghề và đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, có trách nhiệm.
Giá cả thấp cũng là yếu tố quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt
may Việt Nam. Thị trường hàng dệt may EU có nhiều nhà cung cấp với những chủng loại
hàng hóa tương tự nhau, chất lượng cũng khá đồng đều, do vậy, cạnh tranh về giá giữa
các nước xuất khẩu ngày càng gay gắt. Hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam trong những
năm qua có lợi thế so với nhiều nước khác ở chỗ giá nhân công rẻ. Đây là một lợi thế
quan trọng làm giảm chi phí sản xuất. Tuy nhiên lợi thế về nguồn lực lao động sẽ dần mất
đi vì giá nhân công sẽ tăng lên và cùng với việc đổi mới, hiện đại hóa thiết bị thì sản
phẩm dệt may sẽ ít phụ thuộc hơn vào lao động sống. Mặt khác, trong xu thế chuyển dịch
sản xuất trên phạm vi toàn thế giới thì tương lai ngành công nghiệp dệt may cũng sẽ được
phát triển ở các nước kém phát triển hơn Việt Nam, khi đó lợi thế về giá nhân công rẻ của
nước ta sẽ mất đi. Do vậy, trong chiến lược phát triển lâu dài, để giảm giá hàng xuất khẩu
thì phải tìm cách hạ thấp chi phí cho nguyên phụ liệu và áp dụng công nghệ tiên tiến
trong sản xuất hàng dệt may. Phát triển sản xuất nguyên, phụ liệu để dần dần thay thế
được việc nhập khẩu cả về số lượng và chất lượng là yếu tố cơ bản nhất để giảm chi phí sản
xuất, nâng cao sức cạnh tranh về giá đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam trên thị
trường thế giới, trong đó có thị trường EU. Để chủ động được nguồn nguyên, phụ liệu cho
sản xuất hàng dệt may xuất khẩu, đòi hỏi phải có sự liên kết chặt chẽ, phân công hiệp tác tốt
giữa các ngành trồng bông, kéo sợi, dệt vải, nhuộm. áp dụng công nghệ tiên tiến, đổi mới
máy móc, thiết bị và nâng cao trình độ lao động cũng là những nhân tố tác động trực tiếp
đến việc nâng cao năng suất lao động trong ngành dệt may và làm tăng khả năng cạnh
tranh về giá của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam trên thị trường EU.
Thực hiện tốt sự liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may là một điều
kiện quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. Sản
xuất hàng dệt may phù hợp với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, trong nhiều
trường hợp một doanh nghiệp không thể đáp ứng được việc cung ứng cho các đơn hàng
lớn của người nhập khẩu, khi đó phải phát huy tối đa khả năng hợp tác với các doanh
nghiệp khác để khai thác đơn hàng. Như vậy, việc phân công, hiệp tác chặt chẽ vừa tạo
điều kiện đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp, vừa góp phần đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt
may vào thị trường thế giới.
Thứ tư: Sự hỗ trợ của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào
thị trường EU.
Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU không thể
thiếu vai trò của Nhà nước. EU là một đối tác quan trọng trong chính sách đối ngoại của
Nhà nước ta, việc thúc đẩy quan hệ ngoại giao sẽ giúp cho quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và EU được mở rộng. Chính sách ngoại thương của EU phụ thuộc rất nhiều vào mối
quan hệ chính trị với từng đối tác cụ thể. Để có được những quy định của EU về chính
sách thuế GSP hoặc quy định về xuất xứ có lợi cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam thì
phải thực hiện thông qua các hoạt động đàm phán cấp nhà nước giữa Việt Nam và EU. Các
hoạt động ngoại giao song phương của Nhà nước với các nước thành viên EU là cầu nối
quan trọng cho các doanh nghiệp hai bên. Thông qua các hoạt động ngoại giao, mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại của Nhà nước, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội để thâm
nhập vào các thị trường mới và phát triển các thị trường đã có, đồng thời các doanh
nghiệp nước ngoài có thêm thông tin để tìm kiếm đối tác và cơ hội làm ăn từ phía Việt
Nam.
Vai trò của Nhà nước trong hỗ trợ hoạt động xuất khẩu nói chung, xuất khẩu
hàng dệt may vào thị trường EU nói riêng được thể hiện ở việc xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - kỹ thuật, quy hoạch các ngành kinh tế; hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế
chính sách và các yếu tố thể chế tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp tham
gia xuất khẩu. Sự hỗ trợ của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị
trường EU còn được thể hiện ở việc đề ra chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài
trong ngành công nghiệp dệt may, đặc biệt là những lĩnh vực ngành dệt may Việt Nam
hiện còn rất hạn chế như sản xuất nguyên, phụ liệu, đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết
bị ngành dệt, công nghiệp hóa chất phục vụ cho ngành dệt may…
Nhà nước thực hiện nhiều hình thức để hỗ trợ tài chính, tín dụng cho doanh
nghiệp xuất khẩu hàng dệt may, đề ra các chính sách phát triển khoa học kỹ thuật và chuyển
giao công nghệ trong ngành dệt may, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho việc xuất khẩu nói
chung, xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU nói riêng. Thông qua các cơ quan đại
diện tại EU, Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc nắm thông tin thị trường và
thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm quảng bá hàng dệt may Việt Nam trên
thị trường EU.
Kết luận chương 1
Ngành dệt may có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nhiều quốc gia trên thế giới.
Việt Nam là nước có nhiều tiềm năng trong phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng dệt
may. Đối với Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may có vai trò rất to lớn trong phát triển kinh
tế, xã hội, đặc biệt trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế
đất nước hiện nay. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sẽ giúp giải quyết nhiều công ăn
việc làm cho người lao động, tạo điều kiện cho nhiều ngành kinh tế phát triển, thu hút
ngoại tệ, tích lũy vốn cho nền kinh tế đất nước.
EU là thị trường lớn với những đặc điểm riêng có đối với hàng dệt may và là một
thị trường thu hút hàng dệt may xuất khẩu của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Muốn đứng vững và phát triển trên thị trường hấp dẫn nhưng cũng rất khắt khe,
khó tính này, thì việc tìm hiểu những đặc điểm của thị trường dệt may EU và xác định
các điều kiện để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU là rất
cần thiết.
Với những cơ sở lý luận, thực tiễn đã được làm rõ ở trên cho thấy muốn đẩy
mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU, phải có sự phân tích, đánh
giá về thực trạng hoạt động xuất khẩu dệt may của nước ta vào EU thời gian qua, tìm ra
những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả xuất khẩu để đề xuất các giải pháp cho phù
hợp.
Chương 2
Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
vào thị trường EU thời gian qua
2.1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU từ 1992
đến nay
2.1.1. Khái quát hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường
EU
Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và EU chính thức được thiết lập từ
22/10/1990. Hiệp định dệt may được ký kết năm 1992 đặt dấu mốc cho quan hệ thương
mại giữa hai bên phát triển và từ năm 1995, khi hiệp định khung hợp tác được ký kết,
quan hệ thương mại giữa hai bên có những bước tiến đáng kể. Kim ngạch xuất nhập khẩu
hàng hóa giữa hai bên tăng nhanh, đặc biệt là kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị
trường EU. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU năm 2004 đã đạt 4,97
tỷ USD, tăng gấp 13 lần so với năm 1994. Năm 2004, EU đã trở thành thị trường lớn nhất
của hàng xuất khẩu Việt Nam.
Tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu hàng từ Việt Nam trong tổng kim ngạch hàng
nhập khẩu của EU cũng có xu hướng tăng lên trong những năm qua. Cụ thể là năm 1995,
tỷ trọng này là 0,10%, năm 1998: 0,26%, năm 2001 là 0,33%, năm 2004 là 0,48%. Khả
năng tăng thị phần hàng xuất của Việt Nam vào thị trường của EU còn rất lớn nếu hàng
hóa Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của thị trường đầy tiềm năng này.
Qua số liệu hàng năm cũng cho thấy, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị
trường EU tăng nhanh, nhưng tốc độ tăng không đều và thiếu ổn định. Việc tỷ lệ tăng
không ổn định do nhiều nguyên nhân, như giá cả của một số mặt hàng phụ thuộc nhiều
vào thị trường thế giới như cà phê, hạt tiêu, bông, giá gia công may mặc… và hầu hết các
mặt hàng thế mạnh của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU đều phải đối mặt với sự
cạnh tranh gay gắt từ các nước xuất khẩu khác (ví dụ như Trung Quốc, Thái Lan đối với
hàng nông sản, dệt may), cùng với cơ chế quản lý nhập khẩu chặt chẽ của thị trường EU.
Trong nhiều trường hợp, sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào EU còn
rất thấp, biểu hiện ở chỗ không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, số lượng, điều kiện
giao hàng của nhà nhập khẩu EU.
Bảng 2.1: Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU
thời kỳ 1994-2004
Nội dung
Năm
Kim ngạch XK của
VN (tỷ USD)
Tỷ trọng %
(2) trong (1)
Tổng kim
ngạch nhập
khẩu của EU
(tỷ USD)*
Tỷ trọng %
(2) trong (4) Tổng kim
ngạch
XK
XK vào
thị trường
EU
1 2 3 4 5
1994 4,054 0,383 9,5 622,489 0,06
1995 5,448 0,720 13,2 713,252 0,10
1996 7,255 0,90 12,4 738,505 0,12
1997 9,185 1,608 17,5 757,852 0,21
1998 9,361 2,125 22,7 806,569 0,26
1999 11,135 2,506 22,5 864,539 0,29
2000 14,455 2,847 19,7 923,241 0,31
2001 15,027 3,003 19,6 914,000 0,33
2002 16,706 3,150 18,9 941,989 0,34
2003 20,176 3,852 19,1 940,504 0,41
2004 26,003 4,970 19,2 1.027,9 0,48
Kế hoạch
2005
31,000 6,200 20 - -
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo hàng năm của Bộ Thương mại; Tổng cục Hải quan.
* Nguồn số liệu cột 4: EUROSTAT.
Hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU có hàng trăm loại, nhưng kim
ngạch xuất khẩu tập trung vào 9 mặt hàng là giày dép, dệt may, cà phê, hải sản, gạo, cao
su, than đá, điều nhân và rau quả. Kim ngạch xuất khẩu 9 mặt hàng này chiếm trên 75%
tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị trường EU. Hàng xuất khẩu của
Việt Nam vào thị trường EU phần lớn là của các ngành công nghiệp nhẹ và tiêu dùng, sử
dụng nhiều lao động hoặc là hàng có mức độ gia công chế biến thấp, nguyên nhiên liệu
và nông sản. Hàng công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng trên 70%, hàng nông sản chiếm
20% và khoáng chất, nguyên liệu thô chiếm 10% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam vào EU.
Xét theo thị trường thành viên EU thì các nước Đức, Anh, Pháp, Hà Lan luôn là
những thị trường có sức mua lớn nhất những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Các thị
trường này có tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu hàng Việt Nam hàng chục phần
trăm mỗi năm. Những nước như Thụy Điển, áo, Ai Len, Bồ Đào Nha là những thị trường
nhỏ, có sức tiêu thụ hàng hóa của ta thấp. Những nước như Tây Ban Nha, Hy Lạp là
những thị trường mới đối với hàng của ta nhưng là những thị trường có nhiều hứa hẹn vì
mức tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu hàng Việt Nam hàng năm rất cao. Kim ngạch xuất
khẩu của ta năm 2002 sang Tây Ban Nha tăng gần 3 lần và sang Hy Lạp tăng gần 6 lần so
với năm 1997.
Hoạt động nhập khẩu của Việt Nam đối với hàng hóa các nước EU cũng được
mở rộng trong thời gian qua, tuy nhiên không phát triển mạnh bằng hoạt động xuất
khẩu. Kim ngạch hàng hóa Việt Nam nhập khẩu từ EU trong mấy năm vừa qua tương đối
ổn định, trung bình khoảng 1,5 tỷ USD/năm. Việt Nam nhập khẩu hàng hóa từ hầu hết
các thành viên EU, nhưng kim ngạch nhập khẩu lớn nhất vẫn là từ các nước Đức, Pháp,
I-ta-lia, Anh và Hà Lan. Kim ngạch nhập khẩu có tốc độ tăng hàng năm không lớn cũng
như không có sự thay đổi đột biến về kim ngạch giữa thị trường các nước thành viên
EU. Một số thị trường nhỏ, tuy tốc độ tăng trưởng thương mại hai chiều với Việt Nam
lớn nhưng giá trị tuyệt đối còn rất hạn chế. Hàng nhập khẩu từ EU chủ yếu là các mặt
hàng chế tạo có hàm lượng công nghệ cao, sản phẩm của các ngành công nghiệp nặng.
Các mặt hàng nhập khẩu chính là máy bay, ô tô, phụ tùng, linh kiện ô tô, máy và thiết
bị điện, máy công cụ và máy chế biến, hóa chất, chất dẻo, tơ sợi tổng hợp, sắt thép đặc
chủng, phân bón, dược phẩm. Kể từ năm 1999 trở lại đây, Việt Nam nhập khẩu nhiều
máy móc thiết bị công nghệ nguồn trực tiếp từ các nước EU. Trước đó, những mặt
hàng này Việt Nam nhập từ các nước Đông Nam á là chủ yếu. Trong nhiều trường
hợp các máy móc này do các chi nhánh hoặc cơ sở sản xuất của các công ty EU tại
Đông Nam á sản xuất nhưng chất lượng không đảm bảo như hàng cùng loại được sản
xuất tại các nước EU. Nguyên phụ liệu dệt may, da và tân dược cũng được các nhà sản
xuất của chúng ta quan tâm nhập khẩu trực tiếp từ các nước EU vì chất lượng và uy
tín của sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực này.
Trong quan hệ thương mại những năm vừa qua, theo thống kê của phía EU thì
kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU lớn hơn nhiều so với thống kê
của Tổng cục Hải quan Việt Nam. Nguyên nhân là Việt Nam đã xuất khẩu một lượng
lớn hàng hóa sang EU thông qua các đối tác trung gian ở Hồng Kông, Singgapo, Thái
Lan,... Ví dụ, năm 2002, theo thống kê của phía EU thì kim ngạch hàng Việt Nam xuất
sang EU không phải là 3,1 tỷ euro mà là 4,4 tỷ euro, trong đó gần 2 tỷ euro là giày dép
và khoảng gần 0,7 tỷ euro là hàng may mặc ta xuất sang EU thông qua trung gian hoặc
là gia công qua đối tác nước thứ ba. Đây là một thiệt thòi lớn cho Việt Nam vì hàng
Việt Nam lưu thông trên thị trường EU nhưng dưới nhãn mác các nước khác. EU cũng
luôn đề cập đến vấn đề Việt Nam xuất siêu sang EU và đề nghị Việt Nam mở cửa thị
trường, hạ thuế suất nhập khẩu để hàng hóa và dịch vụ của EU thâm nhập vào Việt
Nam nhằm cân bằng cán cân thanh toán thương mại giữa hai bên. Trong những năm
gần đây, tỷ trọng hàng tiêu dùng của EU xuất khẩu vào Việt Nam có chiều hướng tăng,
phần lớn là hóa mỹ phẩm và các loại rượu, bia.
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam với 10 nước thành viên mới của EU trong
những năm qua có những chuyển biến tích cực. Trong số 10 nước thành viên mới của
EU thì có 7 nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa trước đây: Estônia, Lit-va và Lat-via (là ba
nước thuộc Liên Xô cũ), Ba Lan, Hunggari, Sec và Slôvakia (Sec và Slô-va-kia tách ra
từ nước Tiệp Khắc). Từ 1990 trở về trước, quan hệ hợp tác kinh tế giữa nước ta với các
nước nguyên là thành viên trong Hội đồng tương trợ kinh tế rất chặt chẽ, đặc biệt là với
Liên Xô, Ba Lan, Hunggari và Tiệp Khắc. Trong những năm đầu thập kỷ 90, thế kỷ XX,
do tình hình chính trị biến động nên quan hệ kinh tế, thương mại của Việt Nam với một
số nước nay là thành viên mới của EU bị chững lại. Nhưng từ năm 1995 trở lại đây,
quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam với các nước này đã bắt đầu khởi sắc trở lại
mặc dù mức độ buôn bán giữa hai bên còn rất hạn chế. Hàng hóa trao đổi giữa hai bên
chủ yếu vẫn là các mặt hàng truyền thống. Việt Nam cung cấp các mặt hàng nông sản
chế biến, hàng công nghiệp nhẹ (may mặc, giày dép), hàng thủ công mỹ nghệ, linh kiện
điện tử và nhập các loại hàng như máy móc thiết bị, phụ tùng máy, hóa chất và các sản
phẩm hóa chất, vật liệu sắt thép, tân dược và các chế phẩm, thực phẩm và nguyên liệu
(sữa bột, nguyên liệu bia, bánh kẹo,...). Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang 10
nước thành viên mới của EU chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, chưa đầy 1% tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam. Các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ khu vực
này phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ, họ chỉ nhập những lô hàng nhỏ với trị giá thấp
mà chủ yếu là nhập trực tiếp từ nhà xuất khẩu của khu vực, cũng có nhập qua các doanh
nghiệp lớn từ một nước thứ ba (Đức, Singapore,...) nhưng số lượng không nhiều và
không thường xuyên.
2.1.2. Kết quả xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU những
năm qua
- Về kim ngạch xuất khẩu:
Hiệp định về hàng dệt may giữa Việt Nam với Cộng đồng Châu Âu (EC) ký
tháng 12/1992, có hiệu lực từ năm 1993, đã đánh dấu bước phát triển quan trọng của
hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam ra thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói
riêng. Từ chỗ kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam ra thế giới mới chỉ tính đến
con số triệu USD vào đầu những năm 1990, đến nay ngành công nghiệp dệt may nước ta
đã có sự lớn mạnh không ngừng. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành dệt may từ
năm 1992 đến nay là khoảng 11%/ năm và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trên 20%/ năm
đã góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế Việt Nam, đặc biệt khi quá trình toàn cầu hóa,
khu vực hóa đang diễn ra ngày càng sâu sắc trên thế giới. Quy mô và chất lượng sản
phẩm được nâng cao, mẫu mã hàng hóa đa dạng, thị trường xuất khẩu được mở rộng.
Đến năm 2004, cả nước ta đã có trên 1000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực dệt may, trong đó có 231 doanh nghiệp nhà nước, 449 doanh nghiệp ngoài quốc
doanh và số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 354 doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp ngành dệt may đã tạo ra chỗ làm cho gần hai triệu lao động, cùng với đó là hàng
chục vạn lao động làm dịch vụ, phụ trợ như trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, thêu đan, sản
xuất bao bì, phụ liệu… Thị trường xuất khẩu hàng dệt may của nước ta đã vươn ra được
trên 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong đó có những thị trường lớn như Mỹ,
EU, Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may từ chỗ chỉ đạt 211 triệu USD, chiếm
8,2 % tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước năm 1992, thì đến năm 2004 đã đạt 4,319 tỷ
USD, chiếm 16,6 % kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may hàng năm của Việt Nam từ 1992 đến 2004
được thể hiện ở bảng 2.2.
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam những năm qua
Đơn vị: Triệu USD
Năm Tổng kim ngạch Xuất khẩu hàng dệt may
xuất khẩu Kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may
Tỷ lệ so với tổng
kim ngạch xuất khẩu
(%)
1992 2.581 211 8,2
1993 2.985 350 11,7
1994 4.054 550 13,6
1995 5.448 750 13,8
1996 7.255 1.150 15,8
1997 9.185 1.349 14,7
1998 9.361 1.450 15,5
1999 11.135 1.682 15,1
2000 14.455 1.892 13,1
2001 15.027 1.975 13,1
2002 16.706 2.752 16,5
2003 20.176 3.687 18,3
2004 26.003 4.319 16,6
Kế hoạch
2005
31.000 5.193 16,8
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo hàng năm của Bộ Thương mại; Tổng công ty Dệt
May Việt Nam.
Bảng 2.2 cho thấy, từ năm 1992 đến 2004, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam ra thị trường thế giới tăng liên tục. Xuất khẩu hàng dệt may chiếm vị trí quan
trọng trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may của Việt Nam hiện nay đứng hàng thứ hai trong cơ cấu xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam.
Trong các thị trường nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam thì EU có một vị trí đặc
biệt. EU là một trong những thị trường lớn của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. Thị
trường EU còn đóng vai trò như là cầu nối để hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam đi vào
thị trường hàng dệt may thế giới, bởi vì thị trường EU được đánh giá như nơi kiểm định
nghiêm ngặt đối với hàng dệt may xuất khẩu của các nước, do vậy nếu hàng dệt may
nước nào thâm nhập và đứng vững được trên thị trường này thì khả năng phát triển tại
các thị trường khác trên thế giới là rất lớn. Mặc dù trước khi ký Hiệp định dệt may với
EU thì ngành may mặc Việt Nam đã có sản phẩm xuất khẩu, nhưng thị trường và sản
phẩm xuất khẩu rất nhỏ bé, chủ yếu chỉ là những sản phẩm đơn giản, sản xuất thủ công,
xuất khẩu sang thị trường các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Hàng dệt may xuất khẩu
của Việt Nam chỉ thực sự phát triển mạnh kể từ khi Hiệp định dệt may được ký kết giữa
Việt Nam và EU. Sau này, khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết cũng tạo
điều kiện để hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn do
thâm nhập được vào Hoa Kỳ - một thị trường nhập khẩu hàng dệt may rất lớn.
Cho đến trước thời điểm 1/1/2005, việc xuất khẩu hàng dệt may nước ta vào
thị trường EU thực hiện theo chế độ hạn ngạch. Theo Hiệp định dệt may Việt Nam -
EU năm 1992, Việt Nam được phép xuất khẩu sang EU 151 chủng loại mặt hàng (cat)
trong đó có 46 loại không bị hạn ngạch. Tổng số hạn ngạch theo hiệp định này là
21.298 tấn với kim ngạch khoảng 450 triệu USD. Cho đến trước thời điểm EU đồng ý
không áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam (1/1/2005) thì
Hiệp định này đã qua 4 lần sửa đổi theo hướng tăng hạn ngạch cho hàng dệt may xuất
khẩu của Việt Nam vào thị trường EU. Thỏa thuận sửa đổi Hiệp định Dệt may và mở
cửa thị trường giữa Việt Nam và EU được tiến hành gần đây nhất là vào giữa tháng
2/2003. Theo thỏa thuận sửa đổi này, EU tăng hạn ngạch dệt may cho Việt Nam mỗi
năm lên khoảng 20%, đặc biệt một số nhóm hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt
Nam (cat nóng), có mức tăng từ 50 đến 75%. Đây là một bước tiến đáng kể đối với
ngành dệt may Việt Nam trong quan hệ với EU trong thời kỳ quá độ tiến tới tự do hóa
hoàn toàn việc xuất khẩu hàng dệt may vào EU. Đổi lại, Việt Nam sẽ mở cửa thêm thị
trường cho một số lĩnh vực như bảo hiểm, rượu, xe máy, dược phẩm, dịch vụ vận tải
biển cũng như giảm thuế nhập khẩu hàng dệt may và nguyên liệu nhập kh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN-Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn hiện.pdf