Tài liệu Luận văn Vấn đề việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá: Luận văn
VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NGOẠI
THÀNH HÀ NỘI TRONG QUÁ TRèNH ĐÔ THỊ
HOÁ
Mục lục
Lời cam đoan ..................................... i
Mục lục .......................................... i
Danh mục các chữ viết tắt ...................... iii
Danh mục các bảng ................................ v
Mở đầu ........................................... 1
Chương 1:Tạo việc làm cho người lao động ngoại
thành Hà nội trong quá trình đô thị hoá - một nhu
cầu bức xúc ...................................... 7
1.1. Đô thị hoá và tác động của nó đối với vấn
đề việc làm ..................................... 7
1.2. Tác động của quá trình đô thị hoá và sự
cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động
trong quá trình đô thị hoá ở ngoại thành Hà Nội 42
1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố về
tạo việc làm cho người lao động (trong đó có tạo
việc làm cho người lao động ngoại thành) ....... 61
Chương 2: Thực trạng tạo việc làm cho người lao
động ngoại t...
188 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 996 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NGOẠI
THÀNH HÀ NỘI TRONG QUÁ TRèNH ĐÔ THỊ
HOÁ
Mục lục
Lời cam đoan ..................................... i
Mục lục .......................................... i
Danh mục các chữ viết tắt ...................... iii
Danh mục các bảng ................................ v
Mở đầu ........................................... 1
Chương 1:Tạo việc làm cho người lao động ngoại
thành Hà nội trong quá trình đô thị hoá - một nhu
cầu bức xúc ...................................... 7
1.1. Đô thị hoá và tác động của nó đối với vấn
đề việc làm ..................................... 7
1.2. Tác động của quá trình đô thị hoá và sự
cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động
trong quá trình đô thị hoá ở ngoại thành Hà Nội 42
1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố về
tạo việc làm cho người lao động (trong đó có tạo
việc làm cho người lao động ngoại thành) ....... 61
Chương 2: Thực trạng tạo việc làm cho người lao
động ngoại thành Hà Nội ......................... 68
2.1. Những đặc điểm của thủ đô Hà Nội có ảnh
hưởng đến tạo việc làm ......................... 68
2.2. Thực trạng tạo việc làm cho người lao động
ngoại thành Hà Nội trong thời gian qua ......... 85
Chương 3: Những giải pháp cơ bản nhằm tạo việc làm
cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá
trình đô thị hoá ............................... 125
3.1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
Hà Nội với vấn đề tạo việc làm cho người lao động
ngoại thành ................................... 125
3.2. Phương hướng tạo việc làm cho người lao
động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị
hoá ........................................... 129
3.3. Giải pháp để tạo việc làm cho người lao
động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị
hoá ........................................... 130
Kết luận ....................................... 168
Danh mục tài liệu tham khảo .................... 170
Phụ lục ........................................ 177
Danh mục các chữ viết tắt
CNH, HĐH Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa
CNKT Công nhân kỹ thuật
CNNT Công nghiệp nông
thôn
DNN&V Doanh nghiệp nhỏ và
vừa
DVVL Dịch vụ việc làm
ĐBSH Đồng bằng sông Hồng
ĐTH Đô thị hoá
GDP Tổng sản phẩm quốc
nội
GQVL Giải quyết việc làm
KCN Khu công nghiệp
KH-CN Khoa học - công nghệ
LĐTBXH Lao động thương binh
xã hội
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TTDVVL Trung tâm dịch vụ
việc làm
TTLĐ Thị trường lao động
UBTVQH Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội
XKLĐ Xuất khẩu lao động
Danh mục các bảng
Bảng 2.1: Dân số trung bình của khu vực ngoại
thành ........................................... 73
Bảng 2.2: Trình độ học vấn phổ thông của LLLĐ
Hà Nội ......................................... 79
Bảng 2.3: Lao động đã được giải quyết việc làm
khu vực thành thị .............................. 86
Bảng 2.4: Tổng hợp kết quả GQVL 5 năm (2001-
2005) Thành phố Hà Nội (Khu vực ngoại thành) .... 88
Bảng 2.5: Cơ cấu lao động ngoại thành đang làm
việc chia theo nhóm ngành kinh tế .............. 95
Bảng 2.6: Cơ cấu lao động ngoại thành chia theo
thành phần kinh tế ............................. 98
Bảng 2.7: Vốn vay của Quỹ quốc gia giải quyết
việc làm ....................................... 100
1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm cho người lao động là vấn đề kinh tế-
xã hội phổ biến và luôn mang tính thời sự ở mọi quốc
gia, bởi vì đảm bảo việc làm là một trong những yếu
tố cơ bản cho sự phát triển bền vững. Đối với những
nước đang phát triển như Việt Nam thì vấn đề việc
làm cho người lao động là hết sức quan trọng và có ý
nghĩa to lớn trong tiến trình xây dựng và phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì
vậy, trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: "Giải quyết việc làm là
nhân tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn
định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp
ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của
nhân dân".
Hà Nội là trung tâm chính trị kinh tế và văn hoá
của đất nước, là địa phương nằm trong tam giác kinh tế
trọng điểm phía Bắc: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Vì vậy, trong thời gian qua Hà Nội đã thu hút được
nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào phát
triển kinh tế, tạo những bước chuyển biến quan trọng
đối với thủ đô trên nhiều lĩnh vực trong đó có giải
quyết việc làm.
Tuy nhiên, do Hà Nội đang trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xu hướng đô
thị hoá gia tăng nó đòi hỏi người lao động phải có
2
trình độ, được đào tạo phải có tác phong công nghiệp
thì mới đáp ứng được yêu cầu, lao động ở ngoại thành
hiện nay chưa thể đáp ứng được yêu cầu này do mặt
bằng trình độ thấp, tỷ lệ lao động qua đào tạo chưa
cao, lao động giản đơn là chủ yếu.v.v... không có
việc làm sẽ nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội
phức tạp vì vậy tạo việc làm cho lực lượng lao động,
đặc biệt là lực lượng lao động ở khu vực ngoại thành
bao gồm 5 huyện: Gia Lâm, Thanh Trì, Đông Anh, Sóc
Sơn, Từ Liêm là vấn đề cấp bách.
Để đánh giá lại những kết quả đã đạt được và
những tồn tại vướng mắc, trong vấn đề giải quyết
việc làm cho lao động ở ngoại thành Hà Nội. Từ đó,
đề xuất một số giải pháp hữu hiệu cho vấn đề tạo
việc làm nhằm góp phần vào sự ổn định và phát triển
của thủ đô trong những năm tới, tác giả đã chọn đề
tài: " Việc làm cho người lao động ngoại thành Hà
Nội trong quá trỡnh đô thị hoá " làm luận văn thạc
sỹ chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, đã có nhiều đề tài nghiên
cứu về việc làm và giải quyết việc làm. Có thể nêu
ra một số đề tài sau:
- TS Nguyễn Hữu Dũng: Giải quyết vấn đề lao động
và việc làm trong quá trình đô thị hoá công nghiệp
hoá nông nghiệp, nông thôn - Tạp chí Lao động - Xã
hội số 247 (từ 16- 30/9/2004). Tác giả đề cập đến
thực trạng về lao động và việc làm ở nông thôn trong
3
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị
hoá đồng thời đưa ra những phương hướng và giải pháp
cơ bản để giải quyết vấn đề lao động và việc làm
nông thôn.
- PGS,TS Nguyễn Sinh Cúc: Giải quyết việc làm ở
nông thôn và những vấn đề đặt ra, Tạp chí Con số và
sự kiện- 2003- số 8. Trong bài viết tác giả đã đề
cập những biến động của tính hình dân số ở nông thôn
và những xu hướng mới tạo việc làm ở nông thôn: từ
kinh tế trang trại, khôi phục và phát triển các làng
nghề nông thôn, tạo việc làm mới từ phát triển công
nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản theo hướng sản
xuất hàng hoá lớn, từ các chương trình dự án quốc
gia và quốc tế.
- TS Vũ Đình Thắng: Vấn đề việc làm cho lao động
ở nông thôn, Tạp chí Kinh tế và Phát triển 2002 - số
3. Trong bài viết, tác giả đánh giá tầm quan trọng
và những kết quả đã đạt được về giải quyết việc làm
đặc biệt là ở khu vực nông thôn bằng cách phát triển
các ngành phi nông nghiệp với phương châm: ly nông
bất ly hương.
- GS,TS Phạm Đức Thành: Vấn đề giải quyết việc
làm ở Việt Nam - Tạp chí Kinh tế và Phát triển 2002-
số 64. Trong bài viết, tác giả đã đánh giá hiện
trạng việc làm và thất nghiệp trên cơ sở đó đề ra
những quan điểm và biện pháp giải quyết việc làm cho
người lao động.
4
- TS Nguyễn Tiệp: Phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở nông thôn: Các giải pháp tạo thêm việc làm,
Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 309 (6/2004).
Trong bài viết, tác giả đề cập đến phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn là phù hợp với yêu cầu
của quá trình CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn. Là kết
quả của phát triển lực lượng sản xuất và phân công
lại lao động ở nông thôn. Đồng thời, phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn còn chịu sức ép
giải quyết việc làm, tăng mức cầu lao động trên địa
bàn nông thôn.
- TS Trương Văn Phúc: Thực trạng lao động việc
làm qua kết quả điều tra 1- 7- 2004, Tạp chí Lao
động - xã hội, số 251 (16- 30/11/2004). Trong bài
viết, tác giả đề cập đến tình trạng lao động và việc
làm của lực lượng lao động ở các tỉnh, thành phố
cũng như ở những vùng kinh tế trọng điểm. Nó đánh
giá một cách khái quát những kết quả đã đạt được về
giải quyết việc làm cho lực lượng lao động. Trong
đó, có đề cập đến lao động ngoại thành, một bộ phận
quan trọng cấu thành lực lượng lao động chung của xã
hội.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ về việc làm cho người lao
động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá
dưới góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
5
- Góp phần nghiên cứu và giải quyết một số vấn
đề về lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực việc làm,
tạo việc làm cho người lao động trong quá trình đô
thị hoá.
- Phân tích về thực trạng, chỉ ra phương hướng
tạo việc làm cho lao động ngoại thành Hà Nội trong
quá trình đô thị hoá hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản để tạo việc làm
trong cho lao động ngoại thành trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ bản chất của việc làm, bản chất của tạo
việc làm, nội dung của nó và sự cần thiết phải tạo
việc làm cho người lao động.
- Tập trung phân tích thực trạng tạo việc làm
cho người lao động ngoại thành: quy mô tạo việc làm
cho người lao động, quá trình tạo việc làm, những
nhân tố tác động đến quá trình tạo việc làm. Đồng
thời đánh giá những nguyên nhân, hạn chế về kết quả
tạo việc làm.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm
tạo việc làm cho lao động ngoại thành trong quá
trình đô thị hoá từ nay đến năm 2010.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn đề cập trực tiếp đến vấn đề giải
quyết việc làm cho toàn bộ lực lượng lao động nông
nghiệp đang sinh sống ở khu vực ngoại thành do Thành
phố quản lý.
6
- Luận văn tập trung vào nội dung tạo việc làm
cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá
trình đô thị hoá từ năm 2001 trở lại đây. Nhiệm vụ
này được giao cho nhiều tổ chức thực hiện nhưng luận
văn tập trung khai thác thông tin từ Sở LĐTB – XH Hà
Nội. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp cơ bản cho
vấn đề này đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn trình bày dựa trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những
quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam cùng
với những chủ trương và chính sách của Nhà nước về
vấn đề lao động việc làm.
Ngoài ra luận văn còn dựa trên kết quả nghiên
cứu, đánh giá của các công trình khoa học đã được
công bố, để nghiên cứu vấn đề việc làm và tạo việc
làm ở ngoại thành Hà Nội
- Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng
hợp, phương pháp logíc kết hợp với lịch sử, phương
pháp trừu tượng hoá khoa học. Ngoài ra luận văn còn
sử dụng phương pháp thống kê, so sánh…
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn, đã trình bày một số lý luận cơ bản về
việc làm và tạo việc làm, đã đề xuất những giải pháp
để đẩy mạnh tạo việc làm cho lao động ngoại thành Hà
Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
7
Chương 1
Tạo việc làm cho người lao động
ngoại thành Hà nội trong quá trình đô thị hoá - một
nhu cầu bức xúc
1.1. Đô thị hoá và tác động của nó đối với vấn đề việc
làm
1.1.1. Đô thị hoá - một xu thế tất yếu trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1.1.1. Tính tất yếu, nội dung và tác động của
quá trình đô thị hoá
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá
(CNH, HĐH& ĐTH) là con đường phát triển của mọi quốc
gia trên thế giới. Trong thời đại ngày nay, thời đại
khoa học- công nghệ phát triển nhanh như vũ bão,
kinh tế tri thức đang dần đi vào cuộc sống và toàn
cầu hoá là một xu thế không gì có thể cưỡng lại được
thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường giúp
các nước chậm phát triển rút ngắn thời gian so với
các nước đi trước.Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp chưa
phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, có nghĩa
là chúng ta đang chuyển từ một nền kinh tế tiền tư
bản đi lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy chúng ta phải
từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho một
xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong đó,
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chúng ta là phải
thực hiện CNH, HĐH đất nước.
8
Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng cộng sản
Việt Nam khoá VII đã nêu định nghĩa khái quát về quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã
hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ phương tiện và phương pháp
tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo
ra năng xuất lao động xã hội cao [18, tr.4].
Như vậy CNH,HĐH là một khái niệm rộng, thực hiện
CNH,HĐH trong tất cả các mặt hoạt động của đời sống
xã hội, trong đó nội dung nổi bật chính là quá trình
cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử
dụng máy móc và áp dụng kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến, hiện đại để đạt được năng suất lao động cao.
Kết quả mà quá trình này đem lại là tạo ra những
điều kiện cần thiết về vật chất - kỹ thuật về con
người và khoa học- công nghệ thúc đẩy qúa trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, huy động và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế. Một vấn đề
quan trọng trong quá trình CNH,HĐH là phải làm sao
giải quyết đồng thời mối quan hệ giữa phát triển nền
sản xuất với giải quyết được các vấn đề xã hội nảy
sinh trong quá trình CNH,HĐH như vấn đề giải phóng
việc làm và các vấn đề xã hội khác.
Chúng ta biết rằng, đi kèm với việc áp dụng máy
móc, kỹ thuật vào trong sản xuất sẽ làm thay đổi
9
tính chất của quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất
chỉ sử dụng ít lao động sống và sử dụng nhiều máy
móc thay thế. Hệ quả của việc này là dư thừa lao
động: người lao động không có việc làm hoặc có việc
làm nhưng không đầy đủ. Mặt khác qúa trình CNH,HĐH
cũng làm xuất hiện những ngành kinh tế mới, có thể
thu hút được một số lượng lao động nhất định. Nhưng
nhìn chung, tình hình người lao động không có việc
làm vẫn tăng nhanh hơn tỷ lệ người lao động tìm được
việc làm.
Như vậy CNH,HĐH sẽ dẫn đến sự thay đổi to lớn về
nhiều mặt. Về mặt kinh tế, CNH, HĐH làm thay đổi
phương thức sản xuất và cơ cấu nền kinh tế, làm cho
nền kinh tế có một bước phát triển mới về chất, đó
là nền kinh tế dựa trên nền đại công nghiệp và dịch
vụ chất lượng cao. Về mặt xã hội, đó là quá trình đô
thị hoá. Trong nền kinh tế hiện đại, đô thị hoá
không chỉ đơn thuần là sự hình thành các đô thị mới
mà đó là một nấc thang tiến hoá vượt bậc của xã hội
với một trình độ văn minh mới, một phương thức hoạt
động mới. Đó là cách thức tổ chức, bố trí lực lượng
sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế. Có nhiều quan niệm
khác nhau về đô thị hoá: Đô thị hoá là quá trình
biến đổi và phân bố lại lực lượng sản xuất trong nền
kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát
triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô
thị đồng thời phát triển đô thị theo chiều rộng và
theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hoá cơ sở vật
chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số ở các đô thị. Đó
là quá trình tập trung, tăng cường, phân hoá các
10
hoạt động trong đô thị và nâng cao tỷ lệ số dân
thành thị trong các vùng, các quốc gia cũng như trên
toàn thế giới. Đồng thời, đô thị hoá cũng là quá
trình phát triển của các thành phố lớn và phổ biến
rộng rãi lối sống thành thị trong dân cư.
Theo quan niệm trên chúng tôi cho rằng: Đô thị
hoá được hiểu đó là quá trình biến đổi, chuyển biến
về nhiều mặt kinh tế- xã hội của các khu vực trước
đây là sản xuất nông nghiệp, khu vực nông thôn để
trở thành các khu đô thị, khu chế xuất, khu công
nghiệp phục vụ cho sản xuất công nghiệp và các ngành
dịch vụ. Như vậy, ta thấy về bản chất của đô thị hoá
là sự phát triển các cụm kinh tế công nghiệp, dịch
vụ, kết cấu hạ tầng cơ sở, phát triển các cụm dân cư
theo hình thức và điều kiện sống mang tính chất công
nghiệp, đô thị sầm uất. Đây là một xu thế tất yếu
xảy ra đối với tất cả các quốc gia, các thành phố
lớn khi thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và từng bước
tiếp cận với nền kinh tế tri thức, vì đô thị hoá tạo
ra cơ sở thúc đẩy sự phát triển phân công lao động
xã hội, cơ cấu lại kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Trong đó có thủ đô Hà Nội.
Khái niệm pháp quy về đô thị hoá ở Việt Nam:
Điểm dân cư được coi là đô thị hoá phải có các tiêu
chí cơ bản sau đây:
- Là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành có vai
trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội trong phạm
11
vi cả nước, một miền lãnh thổ, của một tỉnh, một
huyện hoặc một vùng trong tỉnh hay huyện.
- Có quy mô dân số nội thị nhỏ nhất là 4000
người (vùng núi có thể thấp hơn).
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp chiếm 60% trở
lên trong tổng số lao động của nội thị, là nơi sản
xuất và dịch vụ thương mại hàng hoá phát triển.
- Có kết cấu hạ tầng kỹ thuật và các công trình
công cộng phục vụ dân cư đô thị hoá từng phần hoặc
đồng bộ.
- Mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000
người/km2.
Đô thị hoá có hai hình thức biểu hiện chủ yếu:
Một là, đô thị hoá theo chiều rộng trong đó quá
trình đô thị hoá diễn ra tại các khu vực trước đây
không phải là đô thị. Đó cũng chính là quá trình mở
rộng quy mô diện tích các đô thị hiện có trên cơ sở
hình thành các khu đô thị mới, các quận, phường mới.
Với hình thức này, dân số và diện tích đô thị không
ngừng gia tăng, các hoạt động kinh tế phi nông
nghiệp và các hoạt động của kinh tế đô thị không
ngừng mở rộng; các hoạt động sản xuất kinh doanh và
điểm dân cư ngày càng tập trung. Sự hình thành các
đô thị mới được tạo ra trên cơ sở phát triển các khu
công nghiệp và trung tâm công nghiệp, thương mại,
dịch vụ ở vùng nông thôn và ngoại ô là xu hướng tất
yếu của sự phát triển là nhân tố mở đường thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển. Đô thị hoá theo chiều
12
rộng là hình thức phổ biến hiện nay ở các nước đang
phát triển trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa.
Hai là, đô thị hoá theo chiều sâu, đó là quá
trình hiện đại hoá và nâng cao trình độ của các đô
thị hiện có. Mật độ dân số có thể tiếp tục tăng cao,
phương thức và các hoạt động kinh tế ngày càng đa
dạng, thực lực khoa học kỹ thuật, công nghệ ngày
càng tăng cường; hiệu quả kinh tế - xã hội cũng ngày
càng được cải thiện và nâng cao. Đô thị hoá theo
chiều sâu là quá trình thường xuyên, là yêu cầu tất
yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển. Quá
trình đó đòi hỏi các nhà quản lý đô thị và các thành
phần kinh tế trên địa bàn đô thị thường xuyên vận
động và phải biết điều tiết, tận dụng tối đa những
tiềm năng sẵn có và hoạt động có hiệu quả cao trên
cơ sở hiện đại hoá trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã
hội ở đô thị.
Đô thị hoá là một tiến trình rất đa dạng, trong
nó có chứa đựng nhiều hiện tượng và biểu hiện khác
nhau trong quá trình phát triển. Trên quan điểm một
vùng, đô thị hoá là quá trình hình thành, phát triển
các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị.
Trên quan điểm kinh tế quốc dân, đô thị hoá là một
quá trình biến đổi về phân bố các lực lượng sản xuất
trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư những vùng
không phải đô thị thành đô thị, đồng thời phát triển
các đô thị hiện có theo chiều sâu. Đô thị hoá là quá
độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô
13
thị của các nhóm dân cư, gắn liền với những biến đổi
sâu sắc về kinh tế - xã hội của và nông thôn trên cơ
sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây
dựng, dịch vụ.v.v.. Do vậy, đô thị hoá gắn liền với
sự phát triển kinh tế - xã hội. Đô thị hoá nông thôn
là xu hướng bền vững có tính quy luật; đó là quá
trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống
thành phố cho các vùng nông thôn (cách sống, hình
thức nhà cửa, phong cách sinh hoạt…); Thực chất đó
là tăng trưởng đô thị theo xu hướng bền vững. Đô thị
hoá ngoại vi là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại
vi của thành phố do kết quả phát triển công nghiệp,
dịch vụ và kết cấu hạ tầng, tạo ra các cụm đô thị,
liên đô thị, góp phần đẩy nhanh đô thị hoá nông
thôn.
Trong quá trình CNH, HĐH sự hình thành các đô
thị hiện đại có vai trò đặc biệt quan trọng thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh nông thôn,
đô thị là hình thái quần cư cơ bản thứ hai của xã
hội loài người. Trên thế giới, đô thị ra đời rất sớm
nhưng chỉ thật sự phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ
19, đầu thế kỷ 20 và đến nay đô thị đã trở thành một
hiện tượng xã hội, một hiện tượng kinh tế có ảnh
hưởng hết sức quan trọng tới mọi lĩnh vực hoạt động
của đời sống kinh tế - xã hội.
Đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân,
có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước. Sự phát triển đô thị kích thích tăng
14
trưởng, phát triển của các vùng lãnh thổ xung quanh
và toàn bộ nền kinh tế thông qua quá trình phân bố
lại các cơ sở kinh tế, lan truyền tiến bộ công nghệ,
văn hoá, xã hội. Với sự phát triển của hệ thống các
đô thị, nhiều nước đã từng bước hình thành được
những vùng lãnh thổ phát triển, không chỉ đảm nhận
chức năng động lực, thúc đẩy sự phát triển toàn bộ
kinh tế - xã hội đất nước mà còn đảm nhận chức năng
hợp tác và hội nhập quốc tế, vừa đảm nhận vai trò
tiếp nhận thông tin, các thành tựu về phát triển khoa
học, công nghệ, kinh tế, văn hoá của thế giới rồi lan
rộng ra các vùng xung quanh (Xem phụ lục 1).
Sự hình thành các đô thị có những đóng góp hết
sức quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia:
+ Các đô thị có vai trò to lớn trong việc tạo ra
thu nhập quốc dân, tích luỹ của nền kinh tế và nguồn
thu cho ngân sách quốc gia. Chẳng hạn chỉ tính riêng
bốn thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng năm 2004 chiếm khoảng 14% dân số,
tạo ra 36,4% GDP, 45,7% giá trị sản lượng công
nghiệp và gần 50% giá trị xuất khẩu của cả nước. Các
đô thị này đã trở thành những vùng động lực có tốc
độ tăng trưởng cao và có đóng góp quan trọng vào
việc tăng quy mô của nền kinh tế, tăng giá trị công
nghiệp, dịch vụ và xuất khẩu của cả nước.
+ Với quy mô sản xuất, diện tích, dân số lớn và
không ngừng gia tăng sự tập trung lớn các năng lực
sản xuất, các đô thị cũng có khả năng cung cấp một
15
khối lượng đáng kể những sản phẩm công nghiệp và dịch
vụ với chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu của nhiều vùng
trong nước và nguồn hàng cho xuất khẩu. Số liệu sau
đây cho thấy rõ vai trò của bốn đô thị lớn nhất ở Việt
Nam ( Xem phụ lục 2).
+ Các đô thị lớn thực sự là các trung tâm chính
trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, thương mại
của các vùng và cả nước là những “đầu tàu” trong
nhiều lĩnh vực, đặc biệt là hợp tác và giao lưu quốc
tế. Các hoạt động dịch vụ quan trọng như xuất nhập
khẩu, tài chính, tiền tệ, vận tải, du lịch, khoa học
công nghệ từ các đô thị lớn bắt đầu có sức lan toả
và thúc đẩy sự phát triển chung của các lãnh thổ
trên phạm vi cả nước.
+ Các đô thị có ưu thế về nhân lực được đào tạo
chất lượng cao, có khả năng nhanh chóng tiếp cận
trình độ công nghệ tiên tiến, trên cơ sở đó tạo ra
các công nghệ và các trang thiết bị hiện đại không
chỉ phục vụ cho sự phát triển của bản thân đô thị mà
còn đáp ứng cho nhu cầu của các vùng lãnh thổ khác
trên toàn quốc.
+ Với những ưu thế về hệ thống kết cấu hạ tầng
so với các lãnh thổ khác, các đô thị từng bước bảo
đảm sự tiếp cận nhanh chóng, kịp thời các nguồn
thông tin, đặc biệt là thông tin kinh tế, thông tin
về thị trường… để lại tiếp tục cung cấp, chuyển tải
và phản hồi các thông tin này tạo điều kiện cho các
vùng cùng tham gia trao đổi thông tin và hoà nhập
16
vào sự phát triển của thị trường trong nước, khu vực
và quốc tế.
+ Sự phát triển các đô thị góp phần nâng cao
năng suất và chất lượng lao động cho toàn bộ nền
kinh tế. Chẳng hạn, tại các đô thị của Việt Nam đã
bước đầu hình thành đội ngũ lao động và cán bộ quản
lý có trình độ và tác phong lao động công nghiệp
hiện đại. Hầu hết lực lượng lao động có trình độ từ
cao đẳng và đại học trở lên của cả nước tập trung
tại các đô thị. Tay nghề của người lao động được
nâng cao cùng các kinh nghiệm quản trị kinh doanh…
được tiếp tục lan toả sang các lãnh thổ còn lại của
đất nước thông qua việc phát triển của các chi
nhánh, các cơ sở sản xuất kinh doanh đặt tại các địa
phương khác, góp phần từng bước nâng cao trình độ và
hiệu quả quản lý kinh doanh, nâng cao năng suất và
chất lượng lao động cho toàn bộ nền kinh tế nói
chung và các vùng kém phát triển nói riêng.
+ Với lợi thế về lực lượng và tiềm lực khoa học
kỹ thuật, sự tập trung số lượng lớn các cơ sở đào
tạo và khoa học trong đó có các trường đại học, các
viện nghiên cứu khoa học đầu ngành, các đô thị lớn
còn giữ vai trò đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao cho đất nước góp phần từng bước nâng cao chất
lượng nguồn lao động cho nền kinh tế.
+ Do GDP/người tăng nhanh cộng với sự phát
triển của các cơ sở công nghiệp chế biến, xuất khẩu
làm cho sức mua của các đô thị tăng nhanh, trong đó
17
phải kể đến sức mua về hàng nông lâm thuỷ sản với
chất lượng cao. Việc các đô thị trở thành nơi tiêu
thụ hàng nông sản chất lượng cao sẽ tác động đến sự
phát triển các cơ sở cung cấp nguyên liệu và dịch
vụ, góp phần chuyển đổi tập quán sản xuất truyền
thống của nhiều vùng nông thôn, mở ra khả năng nâng
cao chất lượng và giá trị nông sản, mở rộng thị
trường … Như vậy, sự phát triển các đô thị sẽ tác
động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp - nông thôn và của cả nước theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
+ Sự phát triển của các đô thị cũng được đánh
giá là đã tạo điều kiện để bổ sung nguồn vốn đầu tư
cho sự phát triển của các vùng nông thôn, vùng kém
phát triển thông qua việc các cá nhân, doanh nghiệp
và tổ chức từ các thành phố lớn chuyển vốn đầu tư
phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh công
nghiệp, du lịch, văn hoá… đến các vùng kém phát
triển. Thông qua việc thu hút lao động tới các đô
thị, một phần đáng kể trong thu nhập của người lao
động được đưa trở về các vùng nông thôn, vùng kém
phát triển để giúp đỡ gia đình xây dựng, sửa sang
nhà cửa, đường sá, phát triển kinh tế nông hộ...v.v.
Đô thị tượng trưng cho thành quả kinh tế, văn
hoá, xã hội của mỗi quốc gia, là sản phẩm mang tính
kế thừa của nhiều thế hệ cả về cơ sở vật chất kỹ
thuật và văn hoá. Sự phát triển của các đô thị có
vai trò quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
18
hội của cả nước. Nhiều đô thị đã và đang chuyển dần
từ chức năng hành chính thuần tuý sang cả chức năng
kinh tế, đồng thời tùy theo các cấp độ khác nhau mà
đảm nhận các chức năng trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hoá. Tác động lan toả của các đô thị được mở
rộng cả về phạm vi không gian và biến đổi về chất.
Nhiều đô thị đã thực sự trở thành các hạt nhân động
lực cho sự phát triển của nhiều vùng.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi đối với
sản xuất và đời sống con người, sự phát triển nhanh
chóng của các đô thị cũng là nguyên nhân chính gây
ảnh hưởng đáng kể đến môi trường và tài nguyên thiên
nhiên, đến cân bằng sinh thái do tài nguyên đất bị
khai thác triệt để cho xây dựng đô thị, khối lượng
khai thác và sử dụng nước sạch tăng, ô nhiễm các
chất thải công nghiệp và sinh hoạt, giảm diện tích
cây xanh và mặt nước, bùng nổ giao thông cơ giới.
Ngoài ra, sự gia tăng dòng người di dân từ nông
thôn ra đô thị cũng gây nên những áp lực đáng kể về
nhà ở và vệ sinh môi trường, hình thành các khu nhà
“ổ chuột” và khu nghèo đô thị, gây nên những khó
khăn cho công tác quản lý đô thị do sự phức tạp về
mặt tổ chức đời sống và sản xuất v.v… Do đó, khi quy
hoạch đô thị, cần phải tính đến các biện pháp ngăn
chặn và hạn chế những hiện tượng không có lợi đó.
19
1.1.1.2. Đô thị hoá trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói
riêng
Đối với nước ta, từ một nền kinh tế nông nghiệp
truyền thống muốn trở thành nước có nền công nghiệp
hiện đại thì phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước và đó là con đường để sớm đưa nước ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân. Cũng như ở nhiều
nước khác công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
cũng tất yếu kéo theo quá trình đô thị hoá. Tốc độ
công nghiệp hoá càng nhanh trình độ đô thị hoá sẽ
càng cao. Đô thị hoá là hệ quả tất yếu của CNH, HĐH.
Đô thị hoá và sự hình thành các đô thị hiện đại là
một trong những chỉ tiêu cơ bản phản ánh trình độ
CNH, HĐH. Về thực chất CNH, HĐH và đô thị hoá là quá
trình cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển
mạnh khu vực công nghiệp, dịch vụ và chuyển dịch cơ
cấu lao động đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, tăng
nhanh lao động làm công nghiệp và dịch vụ, giảm mạnh
lao động làm nông nghiệp. CNH diễn ra đồng thời với
phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, khu kinh tế
mở, khu công nghiệp tập trung, các trung tâm dịch vụ
lớn, cùng với nó là quá trình mở rộng các khu đô
thị, các thị trấn, thị tứ… Điều đó dẫn đến dân số
thành thị cũng sẽ tăng lên. Và như vậy, một phần lớn
lao động nông thôn làm nông nghiệp sẽ phải chuyển
20
sang làm phi nông nghiệp, dân sống ở nông thôn trở
thành dân thành thị.
Quá trình CNH, HĐH tác động trên hai mặt, một
mặt quá trình đô thị hoá cũng là một trong những
nhân tố chủ yếu góp phần tạo thêm việc làm mới,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, nhất là đối
với những nước mà tỷ lệ lao động trong nông nghiệp
chiếm tới 57,9% lực lượng lao động của cả nước.
Theo tính toán của các nhà kinh tế, nếu 1 ha đất
nông nghiệp ở nước ta hiện nay mới chỉ tạo ra 22,5
triệu đồng/ một năm (năm 2004) và sử dụng 3-5 lao
động thì khi chuyển sang xây dựng khu công nghiệp
có thể thu hút 50- 100 lao động và tạo ra giá trị
từ 500 triệu đến hàng tỷ đồng/năm. Hơn nữa, thu
nhập của người lao động trong công nghiệp sẽ cao
hơn trong nông nghiệp gấp nhiều lần. Đô thị hoá
cũng góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động và việc
làm ở nước ta. Nhờ chuyển đổi cơ cấu mà một bộ phận
không nhỏ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp
chuyển sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, đi
cùng với đó là việc hình thành các khu đô thị cũng
góp phần tạo ra một khối lượng việc làm mới cho lao
động tại đây. Do đó, làm giảm đáng kể lao động nông
nhàn ở nông thôn. Chỉ riêng 4 thành phố lớn là Hà
Nội, TP.HCM, Đà Nẵng và Hải Phòng trong năm 2004 đã
giải quyết việc làm cho khoảng 363.000 lao động
ngoài ra còn chưa kể số lao động là các công việc
21
phi chính thức, làm vệ tinh cho các khu đô thị, khu
công nghiệp này.
Mặt khác, quá trình đô thị hoá sẽ dẫn đến tình
trạng: xuất hiện những ngành nghề đang có sự phát
triển mạnh và để áp dụng máy móc, kỹ thuật hiện đại,
phục vụ cho sản xuất lớn đòi hỏi người lao động phải
có trình độ, được đào tạo về một ngành, nghề chuyên
môn nhất định, có tác phong lao động công nghiệp…
cũng như là xuất hiện ngành sử dụng nhiều lao động,
sản xuất hướng vào chế biến và xuất khẩu. Trong khi
đó, lao động ở khu vực này lại ít được đào tạo nghề.
Năm 2002 tỷ lệ công nhân kỹ thuật, cao đẳng, đại học
trở lên ở khu vực nông thôn chỉ chiếm 5,74%, nếu kể
từ những người có chứng chỉ nghề trở lên là 11,95%.
Nguồn nhân lực trình độ thấp trở thành lực cản cho
việc thúc đẩy sự phát triển các ngành nghề công
nghiệp, dịch vụ có năng suất cao cũng như các nghề
truyền thống nhằm tạo việc làm cho lao động nông
thôn trong quá trình đô thị hoá.
Để có thể hình thành những nhà máy, xưởng chế
biến, sản xuất, hạ tầng đô thị đòi hỏi phải hình
thành các khu công nghiệp, khu chế xuất với diện tích
lớn tới vài trăm hécta, điều này khiến cho diện tích
đất nông nghiệp bị thu hẹp. Việc hình thành các khu
đô thị lớn, phát triển các trung tâm dịch vụ lớn sẽ
ảnh hưởng rất nhiều mặt đến đời sống của người dân ở
khu vực ngoại thành, nhất là khi những người lao động
ở khu vực ngoại thành chủ yếu dựa vào ruộng đất để
22
sản xuất. Khi tư liệu sản xuất là ruộng đất không còn
thì có sự tách rời giữa tư liệu sản xuất và sức lao
động, sẽ có một bộ phận dân cư trước đây sinh sống
chủ yếu bằng nông nghiệp nay chuyển sang làm ngành,
nghề khác khiến cho tỷ trọng và lao động trong ngành
công nghiệp, dịch vụ tăng dần còn tỷ trọng và lao
động trong ngành nông nghiệp ngày càng giảm đi. Nhiều
vấn đề kinh tế- xã hội sẽ nảy sinh, trong đó nóng
bỏng nhất là vấn đề phải làm sao tạo được nhiều việc
làm nông dân mất đất. Theo nhiều kết quả nghiên cứu,
ở những nơi thu hồi đất thì trung bình mỗi hộ có 1,5
lao động rơi vào tình trạng không có việc làm và mỗi
ha đất nông nghiệp bị thu hồi có tới 13 lao động mất
việc làm. Theo số liệu của Bộ Tài nguyên - Môi
trường, giai đoạn 2000- 2004 diện tích đất nông
nghiệp đã được chuyển đổi mục đích sử dụng là gần
157.000 ha và có tới 20,41 vạn lao động nông nghiệp
phải chuyển đổi nghề nghiệp, nhiều người trong số đó
hiện nay chưa có việc làm [52, tr. 41, 42]
1.1.2. Tác động của đô thị hoá đối với việc làm
cho người lao động ở ngoại thành nói chung (trong đó
có ngoại thành Hà Nội)
Việc đô thị hoá tác động trên các mặt sau đây:
1.1.2.1. Tác động đến cung về sức lao động
Cung về lao động biểu hiện khối lượng lao động
sống (số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động) tham
gia vào thị trường lao động trong một thời gian nhất
định.
23
Thông thường khi nói đến cung về lao động, người
ta thường phân biệt rõ thành hai phạm trù: cung thực
tế và cung tiềm năng.
Cung thực tế về lao động: bao gồm tất cả những
người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc và những
người thất nghiệp.
Cung tiềm năng về lao động: bao gồm những người
đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc, những người thất
nghiệp, những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động nhưng đang đi học, đang làm công việc
nội trợ hoặc không có nhu cầu làm việc.
Cung về lao động phụ thuộc vào quy mô và tốc độ
tăng nguồn lao động, sự biến đối động của cầu về lao
động, trình độ giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề...
Năm 2004 dân số nước ta là 82 triệu người, số
người trong độ tuổi lao động là 40.792.571 người,
chiếm 50% dân số. Trong đó, số lượng lao động đã qua
đào tạo là 22,57% còn số lao động chưa qua đào tạo
chiếm tới 77,43% [2, tr.8]. Về trình độ văn hoá, đặc
biệt là số lượng lao động ở khu vực nông thôn trong
độ tuổi lao động là 30.651.890 người, số người chưa
biết chữ là 5,4%, chưa tốt nghiệp tiểu học là
15,91%, đã tốt nghiệp tiểu học là 32,11%, đã tốt
nghiệp trung học cơ sở là 34,12% và đã tốt nghiệp
phổ thông trung học là 12,46% [2, tr.6]. Qua số liệu
trên, chúng ta có thể thấy đây là một lực lượng lao
động đông đảo, nhưng nó cũng là gánh nặng hết sức
lớn cho chính quyền của các tỉnh, thành phố. Đặc
24
biệt, là các tỉnh thuần nông có tỷ lệ lao động trong
nông nghiệp cao, bởi vì :
Một là, do tác động của đô thị hoá làm cho diện
tích đất bị thu hồi phần lớn tập trung vào đất nông
nghiệp, đất khu đông dân cư và vào một số xã nhất là
ở ven các đô thị lớn (khoảng 70-80%), có xã thậm chí
phải thu hồi 100% diện tích đất sản xuất. Do đó, lực
lượng lao động trước đây làm việc trong nông nghiệp
thì nay không có việc làm. Vì thế, làm tăng nguồn
cung lao động cho thị trường. Trong giai đoạn 2001-
2005, tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích đất thu hồi là
1.200 ha đã làm cho khoảng 8.000 lao động ở khu vực
nông nghiệp mất việc; Thành phố Đà Nẵng là 854,4 ha
với 20.000 lao động bị mất việc… [52, tr. 42].
Trong thời gian 13 năm, từ năm 1990 đến năm 2003
Nhà nước ta đã thu hồi 697.410 ha đất phục vụ cho
việc xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Đặc biệt, ở
một số tỉnh có tốc độ đô thị hoá nhanh là: Lào Cai,
Hà Nội, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Đà
Nẵng, Hà Tây, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh
Hoà, Lâm Đồng, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh,
Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Long An, Đồng Tháp và Cần
Thơ. Trong giai đoạn 2001- 2005, các địa phương này
đã thu hồi 44.720 ha mà chủ yếu là đất nông nghiệp
[52, tr.31, 32, 33].
Hai là, do quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế
trong quá trình CNH,HĐH theo hướng giảm dần tỷ trọng
25
nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch
vụ nên tỷ trọng về cơ cấu lao động trong các ngành
kinh tế cũng biến đổi. Những người trước đây sống
dựa vào nguồn thu nhập từ nông nghiệp thì nay không
còn hoặc bị giảm sút về thu nhập . Muốn nuôi sống
được bản thân phải tìm việc làm. Cung lao động vì
thế cũng tăng lên. Theo thống kê lao động nông
nghiệp đã giảm từ 62,6% năm 2000 xuống còn 56,8% năm
2005, trong khi lao động công nghiệp và xây dựng
tăng từ 13,10% lên 17,9% còn lao động dịch vụ tăng
tương ứng từ 24,30% lên 25.3% . Đô thị hoá thúc đẩy
chuyển dịch lao động nông thôn sang làm các công
việc phi nông nghiệp với các hoạt động rất đa dạng
tại các vùng trung tâm, thị trấn, thị tứ, các vùng
nông thôn ven các thành phố, thị xã hình thành thị
trường lao động khá sôi động.
Ba là, khu vực ngoại thành thường là khu vực có
tỷ lệ gia tăng dân số cao, lực lượng lao động trẻ
nhiều, do đó cũng tác động đến cung lao động trên
thị trường. Một số lượng lớn lao động bước vào độ
tuổi lao động thiếu việc làm đã tham gia vào thị
trường lao động. Năm 2005, quy mô lực lượng lao động
ở khu vực nông thôn, ngoại thành là 33.313.874 người
chiếm 75,06%, trong số đó lực lượng lao động trẻ
chiếm tỷ lệ lớn. Đặc biệt, tỷ lệ thất nghiệp của lao
động trẻ từ 15- 24 tuổi chiếm 13,44% và cao gấp 2,5
lần tỷ lệ thất nghiệp chung [2, tr.5].
26
Bốn là, theo kết quả của cuộc Điều tra lao động
và việc làm được công bố ngày 1/7/2005, cho biết tỷ
lệ thời gian nhàn rỗi, không có việc làm ở nông thôn
Việt Nam là 19,3%, tương đương với khoảng 6,42 triệu
lao động [2, tr.13]. Đây cũng là một tác động không
nhỏ có ảnh hưởng đến cung lao động.
Cần lưu ý rằng, đô thị hoá và di chuyển lao động
nông thôn ra thành thị trở thành xu thế không thể
cưỡng nổi. Nó có tác dụng giảm sức ép căng thẳng về
việc làm tại các vùng nông thôn và cung ứng lao động
cho thị trường lao động ở các thành phố lớn, các khu
công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu du lịch.
Đây là nguồn cung cấp dồi dào về lao động cho sự
phát triển của các khu đô thị. Nhưng ở khía cạnh nào
đó, nó cũng trở thành sức ép do lao động giản đơn là
chủ yếu cũng như sức ép do hệ thống hạ tầng cơ sở
không đáp ứng được số lượng lao động gia tăng qúa
nhanh. Từ đó dẫn đến tính trạng quá tải, gây biến
động lớn về các vấn đề kinh tế - xã hội của khu vực
thành thị. Theo tính toán hàng năm số lao động từ
khu vực nông thôn, ngoại thành chuyển sang thành
người dân ở khu vực thành thị tăng giảm khoảng
0,52%, chưa kể đến số lao động nhàn rỗi di chuyển ra
khu vực thành thị tìm kiếm việc làm cũng chiếm số
lượng không nhỏ.
1.1.2.2. Tác động đến cầu sức lao động
Có nhiều quan niệm khác nhau về cầu lao động,
nhưng theo hai tác giả Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu
27
Trung trong cuốn “Về chính sách giải quyết việc làm
ở Việt Nam ” thì: Cầu về lao động là khả năng thuê
mướn lao động trên thị trường lao động.
Cũng có quan niệm phân tích một cách rõ ràng hơn
cầu về sức lao động: là nhu cầu về sức lao động của
một quốc gia, một địa phương một ngành hay một doanh
nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định, nhu cầu
này thể hiện qua khả năng thuê mướn lao động trên
thị trường lao động. Như vậy, theo khái niệm thì đó
chính là nhu cầu mà những người thuê lao động cần sử
dụng một số lượng nhất định về lao động để kết hợp
với tư liệu sản xuất đã có.
Theo lý thuyết, cầu về lao động cũng được phân
chia thành hai loại: cầu thực tế và cầu tiềm năng.
Cầu thực tế về lao động: là nhu cầu thực tế về
lao động cần sử dụng tại một thời điểm nhất định,
thể hiện qua số lượng những chỗ làm việc trống và
chỗ làm viịc mới.
Cầu tiềm năng về lao động: là nhu cầu về lao
động cho tổng số chỗ làm việc có thể có được, sau
khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng
tạo việc làm trong tương lai như vốn, đất đai, tư
liệu sản xuất, công nghệ và cả những điều kiện khác
như chính trị, xã hội v.v..
Cầu về lao động bao gồm hai mặt:
Thứ nhất, là cầu về chất lượng lao động.
Thứ hai, là cầu về số lượng lao động.
28
Xét từ góc độ số lượng, trong điều kiện năng
suất lao động không biến đổi cầu về sức lao động xã
hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc độ sản xuất. Nếu
quy mô sản xuất không đổi, cầu về sức lao động tỷ
lệ nghịch với năng suất lao động.
Còn xét từ góc độ chất lượng, việc nâng cao năng
suất lao động, mở rộng quy mô, tiền vốn, tri thức
của doanh nghiệp, ngày càng đòi hỏi cầu về chất
lượng sức lao động phải tăng lên trong tổng số lao
động được sử dụng.
Khi xảy ra quá trình đô thị hoá, tất yếu nó đòi
hỏi không chỉ người sử dụng lao động mà cả người lao
động cũng có nhu cầu, đòi hỏi chính đáng cần được
giải quyết đó chính là vấn đề việc làm. Bởi vì:
- Do quá trình CNH,HĐH thúc đẩy chuyển đổi cơ
cấu kinh tế làm xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới,
nhiều mô hình sản xuất kinh doanh mới. Chính vì vậy,
các nhà tuyển dụng có nhu cầu tuyển thêm lao động.
Hàng loạt những ngành mới như công nghệ thông tin;
viễn thông; thương mại điện tử.. hay sự xuất hiện
của những làng nghề mới có nhu cầu tuyển dụng lao
động mới từ đó có tác động đến cầu về lao động
- Việc mở rộng sản xuất kinh doanh cũng có tác
động đến cầu về lao động. Trong quá trình CNH,HĐH
luôn luôn có sự tái sản xuất mở rộng. Một phần thu
nhập quốc dân được tích luỹ lại để mở rộng sản xuất
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về các sản phẩm cho
cả tiêu dùng và sản xuất. Các nhà sản xuất, phải
29
luôn tìm cách mở rộng quy mô sản xuất của mình.ở
Việt Nam, trong thời gian 2001- 2005 vốn đầu tư toàn
xã hội đã tăng 1,76 lần so với 5 năm 1996- 2000. Vốn
đầu tư của người dân cũng tăng. Tỷ lệ vốn đầu tư
phát triển so với GDP tăng từ 34% năm 2001 lên 36,5%
năm 2005, trong đó lĩnh vực kinh tế chiếm gần 71%
tổng vốn đầu tư xã hội (nông, lâm, ngư nghiệp chiếm
trên 13%, công nghiệp và xây dựng chiếm gần 44%,
giao thông và bưu điện gần 14%).
Trong cầu về lao động có hai điều cần chú ý:
Một là, cầu về lao động có chất lượng, đã qua
đào tạo cũng ngay một tăng theo để đáp ứng nhu cầu
cho nền sản xuất hiện đại. Trong điều kiện nền sản
xuất của thế giới đang phát triển mạnh mẽ, do tác
động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại, những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao đang
dần chiếm tỷ trọng lớn, nền sản xuất xã hội đang
hướng tới nền kinh tế tri thức thì nhu cầu về đội
ngũ lao động được đào tạo lành nghề có trình độ cũng
như một đội ngũ những nhà khoa học, nhà quản lý tầm
cỡ có khả năng thích ứng với sự biến động của nền
kinh tế thế giới hay chính là đội ngũ lao động đã
được tri thức hoá ngày càng cao. Chính yêu cầu này
nó tác động mạnh mẽ tới cầu lao động về mặt chất
lượng.
Hai là, những người lao động trong ngành nông
nghiệp, luôn có nhu cầu được tham gia vào lực lượng
lao động để đóng góp cho xã hội và nuôi sống bản
30
thân. Chính điều này cũng làm ảnh hưởng đến cầu về
lao động. Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là
một bộ phận cấu thành trong lực lượng lao động của
một quốc gia. ở những nước phát triển thì lực lượng
lao động này chiếm một tỷ lệ nhỏ Mỹ khoảng 2%, Hàn
Quốc khoảng 10%... nhưng lại có những đóng góp
không nhỏ vào sự phát triển về kinh tế của quốc gia
đó. Trong khi đó, ở những quốc gia đang phát triển
như Việt Nam lực lượng lao động nông nghiệp vẫn
chiếm một tỷ lệ rất cao trong lực lượng lao động xã
hội và có những đóng góp vào sự phát triển của đất
nước. Năm 2004, Việt Nam đứng thứ 2 trên thế giới
về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su,
thứ 2 về điều, thứ nhất về hạt tiêu. Nhưng do tác
động của quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ
cấu lao động lao động theo hướng công nghiệp, nó
đặt ra yêu cầu là phải giảm lao động trong nông
nghiệp xuống, tăng lao động trong công nghiệp và
dịch vụ lên. Vì vậy, nó làm cho cầu về số lượng lao
động trong nông nghiệp giảm, số lao động dư thừa
này buộc phải chuyển sang các ngành công nghiệp và
dịch vụ. Theo con số thống kê, tỷ lệ thất nghiệp
của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động của
cả nước năm 2001 của khu vực thành thị là 6,3% và
nông thôn là 1,78% và năm 2004 con số này tương ứng
là 5,6% và 1,1%. Đáng lưu ý là số lao động dư thừa
này có chất lượng thấp [7, tr.13].
31
1.1.2.3. Việc làm, thất nghiệp và tạo việc làm cho
người lao động trong quá trình đô thị hoá
Từ sự phân tích cung cầu về lao động ở trên
chúng ta thấy rằng, khi có sự cân bằng giữa cung -
cầu trên thị trường lao động thì khi đó vấn đề việc
làm đã được giải quyết.
* Việc làm và thất nghiệp là những vấn đề có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với không chỉ chính phủ
của các quốc gia mà còn là vấn đề quan tâm hàng đầu
của mọi người lao động trong xã hội. Đặc biệt đối
với đang phát triển như Việt Nam, nơi mà tốc độ gia
tăng dân số, nguồn lao động khá cao trong khi tốc độ
tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm bị hạn chế do khả
năng về vốn, tư liệu sản xuất còn nhiều khó khăn.
- Việc làm:
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đưa
ra khái niệm việc làm với nhiều khía cạnh, nhiều
chiều khác nhau.
Tại điều 13, chương II (Việc làm) Bộ luật Lao
động của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam nêu rõ: "Mọi
hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm" [10,
tr.163].
Từ khái niệm được cụ thể hoá thành ba dạng hoạt
động sau:
* Làm các công việc để người lao động được nhân
tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc bằng hiện
vật từ người sử dụng lao động.
32
* Làm các công việc để tự đem lại thu nhập cho
bản thân thông qua các hoạt động kinh tế mà bản thân
người lao động làm chủ.
* Làm công việc đem lại thu nhập cho hộ gia
đình mà bản thân người thực hiện công việc đó là
thành viên của hộ gia đình, do gia đình quản lý.
Như vậy, một hoạt động được xem xét có phải là
việc làm hay không phải là việc làm chủ yếu dựa trên
tính hợp pháp của hoạt động đó.
Từ khái niệm trên một hoạt động được coi là việc
làm cần thoả mãn hai điều kiện:
Thứ nhất, hoạt động đó phải có ích và đem lại
thu nhập cho người lao động và cho các thành viên
trong gia đình.
Thứ hai, đó là các hoạt động không bị pháp luật
ngăn cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm.
Mọi người lao động, có quyền tự tìm kiếm cho mình
những công việc phù hợp với khả năng hoặc cũng có
thể tạo việc làm cho người khác, trong khuôn khổ
pháp luật. Như vậy, quan niệm về việc làm khác hẳn
so với trước đây. Trước đây, chúng ta chỉ coi những
người làm trong biên chế nhà nước mới là có việc
làm.
Hai điều kiện này có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, là điều kiện cần và đủ cho một hoạt động được
thừa nhận là việc làm. Còn tất cả những hoạt động
khác, có tạo ra thu nhập nhưng không được thừa nhận
về mặt pháp lý thì không thể được gọi là việc làm.
33
Ngược lại, có những hoạt động có ích dù là hợp pháp
nhưng không đem lại thu nhập cũng không được thừa
nhận là việc làm.
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO): Việc làm là
những hoạt động lao động được trả công bằng tiền và
bằng hiện vật.
Theo giáo trình Kinh tế lao động của trường
ĐHKTQD do Phạm Đức Thành và Mai Quốc Chánh chủ biên
thì quan niệm việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái
phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần
thiết (vốn, tư liệu sản xuất,công nghệ...) để sử
dụng sức lao động đó.
Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan
hệ tỷ lệ giữa chi phí ban đầu (C) như nhà xưởng, máy
móc thiết bị, nguyên vật liệu...và chi phí về sức lao
động (V). Có thể biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ này bằng
phương trình sau:
VL = C V
Quan hệ tỷ lệ biểu hiện sự kết hợp giữa C và V
phải phù hợp với trình độ công nghệ của sản xuất.
Khi trình độ kỹ thuật công nghệ thay đổi thì sự kết
hợp đó cũng thay đổi theo, có thể công nghệ sử dụng
nhiều vốn hoặc công nghệ sử dụng nhiều sức lao động.
Do đó, tuỳ từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn
phương án phù hợp để tạo việc làm cho người lao
động.
Từ quan niệm này ta thấy, để đảm bảo cho người
lao động có việc làm cần thiết phải có những điều
34
kiện quan trọng để đảm bảo cho sự kết hợp giữa sức
lao động và tư liệu sản xuất. Đồng thời quan niệm
này cũng cho thấy rằng quan hệ tỷ lệ này luôn luôn
thay đổi. Vì vậy, đối với mỗi quốc gia phải căn cứ
vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế của mình để lựa
chọn những chiến lược phát triển phù hợp nhưng vẫn
giải quyết tốt vấn đề việc làm. Chỉ có như vậy mới
tránh được tình trạng lãng phí nguồn lực, đặc biệt
là nguồn lực con người.
* Về thất nghiệp:
Đây là một hiện tượng gắn liền với sự phát triển
của nền kinh tế hiện đại. Tỷ lệ thất nghiệp cao hay
thấp là tiêu chí quan trọng để đánh giá sự thành công
hay không thành công trong chính sách phát triển kinh
tế của một quốc gia, một chính phủ đưa ra trong quá
trình triển khai các chính sách kinh tế của mình.
Có nhiều các khái niệm khác nhau được đưa ra để
nói đến thất nghiệp nhưng nội dung cơ bản của vấn
đề: thất nghiệp là khái niệm dùng để chỉ những người
trong lực lượng lao động chính là những người có khả
năng lao động, có sức khỏe và muốn lao động để kiếm
sống (thể hiện qua những cố gắng tìm kiếm công ăn
việc làm hoặc đang chờ để trở lại nơi làm việc cũ),
nhưng hiện đang không có việc làm trong một khoảng
thời gian xác định.
Theo quan niệm của ILO: thất nghiệp là tình
trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao
động muốn làm việc, nhưng không thể tìm được việc
làm ở mức tiền công thịnh hành.
35
Thất nghiệp có nhiều loại:
Thất nghiệp cơ cấu: là thất nghiệp xuất hiện khi
không có sự đồng bộ giữa kỹ năng, trình độ của người
lao động với việc làm do cầu lao động và sản xuất
thay đổi.
Thất nghiệp do chuyển đổi: Đây là một dạng của
thất nghiệp cơ cấu, nó xảy ra do có sự chuyển đổi
chính sách kinh tế làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế và
thay đổi nhu cầu sản xuất và tiêu thụ một số loại
sản phẩm nào đó. Vì vậy, một số ngành kinh tế truyền
thống bị giảm sút và có sự xuất hiện của một ngành
kinh tế mới. Sự xuất hiện của các ngành sản xuất tạo
ra sự thay đổi trong kỹ năng, thao tác cũng như tay
nghề của người lao động nên số lao động cũ phải thôi
việc vì không đáp ứng được yêu cầu của công việc
hoặc phải mất một thời gian nhất định để tham gia
các lớp đào tạo lại kỹ năng, tay nghề. Loại thất
nghiệp này xảy ra ở những quốc gia có nền kinh tế
chuyển đổi, nhất là ở các quốc gia đang phát triển
hơn nữa do sự biến đổi sâu sắc cơ cấu kinh tế- xã hội
của các quốc gia này nên thất nghiệp do chuyển đổi có
quy mô lớn hơn và trầm trọng hơn so với thất nghiệp
do thay đổi cơ cấu của các nước phát triển.
Thất nghiệp theo mùa vụ: Là loại hình thất
nghiệp xảy có tính định kỳ trong một khoảng thời
gian nhất định do tính mùa vụ của quá trình sản xuất
kinh doanh gây ra.
Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp xảy
ra khi người lao động bỏ việc do muốn tìm một công
36
việc khác tốt hơn hoặc chưa tìm được việc làm phù
hợp với nguyện vọng.
Thất nghiệp không tự nguyện: Đây là loại thất
nghiệp mà ở đó người lao động chấp nhận những điều
kiện làm việc và mức lương thực tế nhưng vẫn không
được tuyển dụng hoặc không có việc làm.
Trong điều tra thực trạng lao động và việc làm
của Bộ LĐTB - XH, người bị coi là thất nghiệp ở nước
ta được hiểu: là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm
dân số hoạt động kinh tế hiện tại đang:
- Có hoạt động đi tìm việc làm trong 4 tuần qua
hoặc không có hoạt động đi tìm việc làm vì lý do
không biết tìm việc ở đâu hoặc tìm nhưng chưa tìm
được.
- Trong tuần lễ trước đó (tính từ thời điểm điều
tra) có tổng số giờ là việc dưới 8 giờ, có mong muốn
và sẵn sàng làm thêm giờ nhưng không tìm được việc.
Dù vậy, chúng ta cũng có sự phân biệt cho những
người từ 15 tuổi trở lên nhưng thuộc những đối tượng
sau đây không nằm trong số những người thất nghiệp
và không nằm trong lực lượng lao động: người đang đi
học; người không có khả năng lao động; người không
có nhu cầu tìm việc làm; người làm công việc nội trợ
ở gia đình.
Mặc dù những tiêu chí đưa ra để xác định người
có việc, người thất nghiệp chỉ mang tính chất tương
đối, nhưng nó góp phần quan trọng để chính phủ đưa
ra những chính sách ở tầm vĩ mô. Qua đó chống thất
nghiệp, phát triển kinh tế mạnh mẽ để tạo nhiều việc
làm cho người lao động góp phần vào sự phát triển ổn
định và bền vững của quốc gia. Ngược lại, nếu không
37
có sự nghiên cứu những cơ sở này thì chúng ta sẽ
không đưa ra được những chính sách phù hợp, chính
xác và khoa học. Từ đó, sẽ làm lãng phí nguồn lực
không tạo ra động lực cho sự phát triển đất nước.
* Tạo việc làm cho người lao động:
Từ phân tích trên ta thấy, việc làm cho người
lao động được tạo ra khi có sự gặp nhau giữa cung và
cầu lao động, nó được thể hiện thông qua phạm trù
tiền lương. Có nghĩa là khi người lao động và người
sử dụng lao động phải gặp nhau thì việc làm mới sẽ
được tạo ra.
Tạo việc làm cho người lao động chính là việc sử
dụng một cách hợp lý nhất nguồn lực con người, nguồn
lực về tài nguyên thiên nhiên để tạo ra của cải cho
đất nước và tạo ra nguồn thu nhập một cách chính
đáng, tương xứng với đóng góp của người lao động
cũng như người sử dụng lao động.
Tạo việc làm cho người lao động là quá trình tạo
ra số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng
chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế -
xã hội khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao
động.
Theo quan niệm như trên thì tạo việc làm cho
người lao động đòi hỏi phải có những yếu tố cơ bản:
tư liệu sản xuất với số lượng và chất lượng đầy đủ-
yếu tố này muốn có được trong nền kinh tế đòi hỏi
phải có sự có mặt của phía doanh nghiệp; sức lao
động đáp ứng số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất
đã được tạo ra- điều này muốn có được phải phụ thuộc
về phía người lao động. Tuy nhiên, để có được sự kết
38
hợp của hai yếu tố này đòi hỏi cần phải có những
điều kiện kinh tế - xã hội khác. Những điều kiện này
có được một phần chủ yếu là thông qua vai trò to lớn
của nhà nước.
Muốn giải quyết việc làm, cần có sự nỗ lực từ
hai phía: người lao động với năng lực của mình phải
tự tìm kiếm công việc phù hợp, người sử dụng lao
động phải tìm được người lao động đáp ứng nhu cầu
của doanh nghiệp mình. Điều này muốn có được đòi hỏi
phải có nhưng thông tin về thị trường lao động, bao
gồm cầu và cung về lao động. Trên có sở này người
lao động và người sử dụng lao động mới có thể gặp
nhau được. Để có được những thông tin này, hay nói
rộng ra chính là môi trường để có được sự kết hợp
giữa yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất cần
phải có cơ chế, chính sách phù hợp cùng với vai trò
của nhà nước.
Về phía người sử dụng lao động là toàn bộ các
doanh nghiệp cả trong và ngoài nước, có vai trò là
tạo ra chỗ làm mới và duy trì chỗ làm hiện có. Để
đảm nhận vai trò đó người sử dụng lao động cần phải
có những điều kiện: có vốn, có công nghệ, có kiến
thức và kinh nghiệm tổ chức quản lý và phải tìm được
thị trường tiêu thụ hàng hoá. Mặt khác, người sử
dụng lao động còn phải đến thị trường lao động để
thuê lao động. Chỉ khi nào người sử dụng lao động
tìm được sức lao động phù hợp với nhu cầu của mình
cả về chất lượng và số lượng thì khi đó việc làm mới
được hình thành.
39
Về phía người lao động: Người lao động muốn có
việc làm phải có sức khoẻ, có trình độ cũng như
những kỹ năng cần thiết đáp ứng được yêu cầu của
công việc. Vì vậy, họ phải không ngừng hoàn thiện
bản thân trên các mặt này. Khi đã có đủ những điều
kiện trên, người lao động còn phải chủ động nắm bắt
những cơ hội về việc làm.
Trên thực tế người lao động luôn di chuyển đến
những nơi có điều kiện sống, điều kiện làm việc tốt
hơn cũng như có nhiều có hội về việc làm, đặc biệt
là lao động ở khu vực nông thôn luôn có xu hướng
vận động ra thành thị. Bởi tại đây có điều kiện
sống và điều kiện làm việc tốt hơn, mặt khác ở nông
thôn họ cũng không sử dụng hết thời gian lao động
của họ. ở các nước đang phát triển lao động nông
thôn chiếm tỷ lệ cao (khoảng 40%). Trong khi đó,
điều kiện sống và làm việc ở nông thôn thì thấp hơn
nhiều so với khu vực thành thị nên người lao động
có xu hướng chuyển ra thành thị. Chính điều này lại
tạo thành sức ép đối với lao động và việc làm cho
khu vực thành thị, vốn tỷ lệ thất nghiệp đã khá
cao. Do vậy, để từng bước giải quyết vấn đề này
phải quan tâm tới tạo việc làm cho người lao động
ngay ở khu vực nông thôn.
Về phía Nhà nước: Nhà nước có vai trò quan trọng
trong tạo việc làm. Vai trò của nhà nước được thể
hiện trong việc tạo môi trường thuận lợi cho việc
làm hình thành và phát triển việc làm. Tạo môi
trường thuận lợi cho người lao động cũng như người
sử dụng lao động, phát huy được khả năng của họ, đưa
40
ra những chính sách liên quan tới người lao động,
người sử dụng lao động. Đối với người lao động, Nhà
nước tạo điều kiện cho họ được tiếp cận với hệ thống
giáo dục, đào tạo nghề, trung tâm dịch vụ việc
làm... và đặc biệt là tạo cơ sở pháp lý để phát
triển thị trường lao động. Còn đối với người sử dụng
lao động, Nhà nước có sự hướng dẫn về mặt pháp lý để
họ được tự do, bình đẳng trong kinh doanh, có nhiều
chính sách ưu đãi, hỗ trợ về vốn, thông tin đào tạo
nâng cao kiến thức quản lý của các doanh nghiệp...
để khuyến khích họ phát triển sản xuất, kinh doanh.
Qua đó, thu hút thêm nhiều lao động vào làm việc
trực tiếp hoặc gián tiếp.
Tóm lại, để tạo việc làm cho người lao động thì
không chỉ là sự đảm bảo về phía người sử dụng lao
động, người lao động mà còn có cả sự đảm bảo từ phía
Nhà nước. Có như vậy việc làm mới được tạo ra và được
đảm bảo ổn định.
* Một số mô hình tạo việc làm cho người lao
người lao động:
- Mô hình lựa chọn công nghệ phù hợp, khuyến khích
giá, tạo việc làm:
Theo mô hình này, trong quá trình sản xuất để
tạo ra một lượng sản phẩm như mong muốn chủ các
doanh nghiệp sẽ phải lựa chọn: Một là để mua các
yếu tố của quá trình sản xuất như sức lao động,
nguyên vật liệu... thì có nhiều mức giá khác nhau,
do đó họ phải lựa chọn mức giá nào cho phù hợp để
có chi phí sản xuất là thấp nhất. Hai là: để đạt
được lợi nhuận tối đa các nhà sản xuất sẽ phải lựa
41
chọn một loại công nghệ phù hợp. Đó có thể là công
nghệ hiện đại nhưng sẽ phải bỏ ra nhiều vốn trong
trường hợp chi phí về lao động cao hoặc công nghệ ở
một mức độ để sử dụng được nhiều lao động trong
trường hợp giá lao động thấp. Việc áp dụng mô hình
này ở các nước đang phát triển sẽ tạo được nhiều
việc làm cho người lao động, vì có lợi thế và lực
lượng lao động dồi dào nhưng lại bị giới hạn về
nguồn vốn. Do đó, họ thường áp dụng công nghệ sử
dụng nhiều lao động. Tuy nhiên, để đạt được điều
này phải có vai trò của Nhà nước trong việc đưa ra
những chính sách nhằm điều chỉnh lại giá cả sức lao
động.
- Mô hình lý thuyết tăng việc làm bằng gia tăng
sản lượng quốc dân:
Mô hình này chỉ ra rằng: ở các nước đang phát
triển có lợi thế về lực lượng lao động dồi dào, giá
nhân công rẻ. Do đó, để tăng việc làm họ thường tìm
cách đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng GDP qua đó sẽ thu
hút được nhiều lao động vào làm việc. Theo tính
toán của mô hình này thì hiệu quả của tăng trưởng
kinh tế là kết quả tổng hợp của tăng sản lượng và
việc làm chứ không chỉ có tăng năng suất lao động.
Điều này đòi hỏi các chính sách vĩ mô của Nhà nước
phải hướng mạnh vào tăng cầu lao động, qua đó sẽ
tăng việc làm.
- Mô hình thu nhập dự kiến về sự di cư nông thôn -
thành thị (Harris - Todaro):
42
Theo tác giả của mô hình thì quá trình CNH,HĐH
sẽ kéo theo quá trình đô thị hoá. Vì vậy, sẽ xảy ra
tình trạng di chuyển của dân cư từ khu vực nông thôn
vào khu vực thành thị. Khi đó, người lao động sẽ
phải so sánh mức thu nhập dự kiến có được từ việc di
cư trong một khoảng thời gian nhất định với mức thu
nhập trung bình đang có ở nông thôn. Nếu thu nhập dự
kiến cao hơn thu nhập thực tế hiện có thì họ sẽ di
cư. Thu nhập dự kiến thu được của người lao động di
chuyển, tuỳ thuộc vào khả năng có thể tìm được việc
làm, mức lương và độ tuổi của người di cư. Do đó,
lúc này tác giả đề xuất với chính phủ giảm mức lương
ở thành thị, xoá bỏ những nhân tố ảnh hưởng đến giá
cả của các nhân tố sản xuất, tăng việc làm ở nông
thôn, áp dụng công nghệ và có chính sách phù hợp sẽ
là biện pháp tạo thêm việc làm.
1.2. Tác động của quá trình đô thị hoá và sự cần thiết
phải tạo việc làm cho người lao động trong quá trình đô thị
hoá ở ngoại thành Hà Nội
Khi đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại nó sẽ kéo
theo quá trình đô thị hoá mạnh mẽ. Khi đó người lao
động đang sinh sống và làm việc ở khu vực ngoại
thành sẽ tìm cách di chuyển vào khu vực thành thị để
tìm việc làm, tăng thu nhập và tiếp cận với đời sống
hiện đại. Điều này sẽ trở thành sức ép đối với khu
vực thành thị, gây ra sự bất ổn về kinh tế - xã hội
43
của khu vực ngoại thành. Để giải quyết được tận gốc
vấn đề này, phải tìm mọi cách tạo việc làm cho người
lao động tại khu vực ngoại thành bị ảnh hưởng của quá
trình đô thị hoá.
1.2.1. Mâu thuẫn giữa cung - cầu lao động do quá
trình đô thị hoá và hệ quả của nó về các mặt kinh tế
- xã hội của ngoại thành
* Mâu thuẫn giữa cung - cầu lao động trong quá
trình đô thị hoá ngoại thành:
ở nước ta, mức cung lao động luôn luôn lớn hơn
so với mức cầu về lao động. Theo số liệu điều tra
năm 2004, lực lượng lao động ở nước ta khoảng 43,242
triệu người, tăng 22,9% so với năm 1996. Trong giai
đoạn 2000 - 2004, bình quân mỗi năm lực lượng lao
động cả nước tăng thêm 1,02 triệu người (tăng
2,5%/năm). Mức tăng lao động khá cao tạo nên sức ép
trên thị trường lao động đối với cầu lao động, thể
hiện ở tỷ lệ thất nghiệp của năm 2004 là 5,6 %.
Trong khi đó, lao động ở khu vực nông thôn vẫn chiếm
một tỷ lệ lớn. Năm 2004, lực lượng lao động nông
thôn có 32,7 triệu người, chiếm tỷ lệ 75,58% lực
lượng lao động cả nước. Năm 2005, lực lượng lao động
cả nước là 44,385 triệu người, tăng so với năm 2004
là 2,64%. Tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi
lao động có giảm nhưng vẫn chiếm 5,3%. Tuy tỷ lệ lao
động ở khu vực nông thôn có giảm so với năm 2004 là
0,54%, nhưng tỷ lệ vẫn cao chiếm 75,06% tương đương
với 33,318 triệu người. [ 2, tr.5, 12 ]
44
Khi quá trình đô thị hoá ngoại thành diễn ra sẽ
dẫn đến các hiện tượng sau đây khiến cho cung - cầu
về lao động càng mất cân đối:
Một là, do tác động của quá trình đô thị hoá quá
trình phân công lại lao động diễn ra mạnh mẽ, làm
cho một bộ phận rất lớn lao động sống dựa vào nông
nghiệp bị ảnh hưởng do bị mất tư liệu sản xuất chủ
yếu là đất đai. Do đó, tạo ra sức ép là phải giải
quyết việc làm cho lực lượng lao động dôi dư này. Từ
đây, nó gây ra sự mất cân đối về cung - cầu lao động
trên thị trường lao động. Mặc dù cầu có tăng nhưng
tỷ lệ tăng của nó vẫn không tương ứng với mức tăng
của cung. Chính mâu thuẫn này, làm cho vấn đề giải
quyết việc làm gặp nhiều khó khăn.
Hai là, quá trình CNH,HĐH sẽ kéo theo xu thế đô
thị hoá nhanh chóng các khu vực trước đây thuộc nông
thôn, sẽ ảnh hưởng đến những ngành nghề truyền thống
ở nông thôn. Do tình trạng di dân từ khu vực nông
thôn vào khu vực thành thị để tìm kiếm việc làm, khi
đó ở một mặt nào đó nó sẽ làm cho cung về lao động ở
khu vực nông thôn cũng bị thiếu hụt (chủ yếu là là
cung về lao động giản đơn làm việc trong các làng
nghề thủ công) trong khi cung về lao động ở khu vực
thành thị lại bị dư thừa (chủ yếu là lao động giản
đơn, lao động chưa qua đào tạo).
Ba là, tình trạng dư thừa lao động giản đơn rất
trầm trọng. Dù chiếm một số lượng đông đảo trong lực
lượng lao động xã hội, nhưng lao động trong lĩnh vực
45
nông nghiệp của Việt Nam phần nhiều là lao động giản
đơn, chưa qua đào tạo còn lao động qua đào tạo, lao
động có trình độ chuyên môn cao chỉ chiếm một con số
rất nhỏ. Năm 2004, trong tổng cơ cấu lực lượng lao
động cả nước thì khu vực thành thị có số lao động
qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật là 46,05%. Còn ở
nông thôn, con số này chỉ là 14,99%, số lao động
chưa qua đào tạo chiếm 85,01%. Vì thế, giải quyết
việc làm cho số lao động này càng trở lên khó khăn
[6, tr.28].
Bốn là, do yêu cầu của việc mở rộng sản xuất, áp
dụng công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất trong
quá trình CNH,HĐH thì cầu về lao động chuyên môn kỹ
thuật, lao động qua đào tạo luôn gia tăng nhưng cung
về lao động có chất lượng, nhất là ở khu vực nông
thôn lại không đáp ứng được cũng như không đủ mặc dù
có nhiều tiến bộ. Theo số liệu năm 2004, lực lượng
lao động được đào tạo ở khu vực nông thôn mới chỉ là
14,99 %. Điều đó đang trở ngại cho việc phát triển
một số ngành nghề mới trong khu vực nông thôn, gây
khó khăn cho việc giải quyết việc làm cho người lao
động ở khu vực nông thôn, ngoại thành.
Năm là, thông tin trên thị trường lao động còn
chưa chính xác, đầy đủ và kịp thời nên cung và cầu
trên thị trường lao động không gặp được nhau, người
có nhu cầu tìm việc và người có nhu cầu sử dụng sức
lao động vẫn chưa gặp nhau. Đây là một nội dung cần
được chú trọng phát triển, vì phải có thông tin thì
46
người muốn được tuyển dụng, người lao động - bên cung
và người chủ thuê lao động, doanh nghiệp cần tuyển
dụng lao động - bên cầu mới có thể gặp nhau. Khi đó,
mới hình thành việc làm và góp phần tạo việc làm cho
người lao động.
Từ tất cả những điều trên, làm cho mâu thuẫn
giữa cung - cầu về lao động trong quá trình đô thị
hoá trở nên gay gắt hơn bao giờ hết và gây ra những
hệ quả xấu về kinh tế - xã hội đối với khu vực ngoại
thành.
* Hệ quả của mâu thuẫn giữa cung - cầu về lao
động trong quá trình đô thị hoá ngoại thành:
Thứ nhất, gây lãng phí nguồn lực lao động. Trong
khi tỷ lệ lao động ở khu vực thành thị cũng đang
thất nghiệp cao chưa giải quyết được thì lại phải
giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động đông
đảo từ khu vực ngoại thành di chuyển vào. Thành thị
trở thành nơi tập trung lao động quá đông dẫn đến
lãng phí nguồn lực lao động “ nguồn lực của mọi
nguồn lực”.
Thứ hai, gây ra mâu thuẫn về lợi ích mà đặc biệt
là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa khu vực thành
thị với khu vực nông thôn. Điều này được thể hiện,
trong khi mức sống và điều kiện đảm bảo cho cuộc
sống như giao thông, dịch vụ … của lao động ở khu
vực thành thị luôn được đáp ứng thì thu nhập và
những điều kiện này của người lao động khu vực ngoại
thành, nông thôn lại rất thiếu thốn. Do đó, tiềm ẩn
47
nguy cơ có thể nảy sinh những xung đột về lợi ích
kinh tế nếu không sớm được giải quyết.
Thứ ba, nảy sinh những vấn đề xã hội nhức nhối
do nạn thất nghiệp tăng cao. Những người trước đây
lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, do tác động của
quá trình đô thị hoá, quá trình chuyển đổi mục đích
sử dụng đất nông nghiệp lên bị mất việc làm cũng như
thiếu việc làm, buộc phải chuyển sang các lĩnh vực
công nghiệp và dịch vụ nhưng không đáp ứng được yêu
cầu. Do đó, họ không có việc làm và thời gian nhàn
rỗi nhiều lại không có thu nhập để nuôi sống bản
thân và gia đình nên dễ nảy sinh các tệ nạn xã hội
như ma tuý, mại dâm, cờ bạc… làm ảnh hưởng đến sự
phát triển ổn định và bền vững của thủ đô nói chung
và khu vực ngoại thành nói riêng.
Thứ tư, tình trạng không có việc làm tăng cao,
người dân gặp nhiều khó khăn trong đời sống sẽ dẫn
đến lòng tin vào chính quyền bị giảm sút, rất dễ xảy
ra tình trạng không ổn định trong xã hội. Gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quá trình thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà trước hết là ở
lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông thôn.
1.2.2. Sự cần thiết phải tạo việc làm và những
nhân tố tác động đến quá trình tạo việc làm cho
người lao động ngoại thành Hà Nội
48
1.2.2.1. Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người
lao động ngoại thành Hà Nội
Thấy được tầm quan trọng của việc tạo việc làm
cho người lao động ở khu vực nông thôn, nên trong
thời gian qua ở nhiều tỉnh và thành phố đã có nhiều
hoạt động nhằm tạo việc làm để giải quyết lao động
dư thừa ở khu vực nông nghiệp, nông thôn bằng nhiều
hình thức khác nhau như: tạo việc làm mới từ kinh tế
trang trại; từ việc khôi phục và phát triển làng
nghề nông thôn; tạo việc làm mới từ phát triển công
nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản theo hướng sản
xuất hàng hoá lớn cũng như tạo việc làm mới từ các
chương trình, dự án quốc gia và quốc tế. Điều này
cho thấy sự quan tâm đặc biệt của các cấp, các ngành
đối với vấn đề việc làm cho lao động nông thôn,
ngoại thành.
Thủ đô Hà Nội cũng không phải là một ngoại lệ.
Chúng ta nhận thức, giải quyết việc làm là vô cùng
quan trọng, nó có tác động to lớn đến nhiều mặt,
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt là tạo
việc làm cho người lao động ở khu vực ngoại thành
nói chung và ngoại thành Hà Nội nói riêng là vô cùng
cần thiết. Vì:
- Con người là mục tiêu, động lực của sự phát
triển kinh tế, xã hội. Chúng ta luôn khẳng định mục
tiêu phát triển con người, làm cho người lao động có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và được chăm sóc
một cánh đầy đủ về đời sống vật chất, tinh thần là
mục tiêu cao nhất, có ý nghĩa nhất. Muốn đạt được
49
điều này một trong những nhiệm vụ ưu tiên quan trọng
hàng đầu đó là phải làm cho người lao động có việc
làm.
- Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là
một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự
phát triển của đất nước nói chung và với thủ đô Hà
Nội nói riêng. Chính vì vậy sự ổn định, phát triển
của khu vực này sẽ góp phần to lớn vào sự phát triển
của đất nước. Do đó đặt trong mục tiêu đẩy mạnh
CNH,HĐH đất nước của cả nước nói chung và của thủ đô
nói riêng đều đặt nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trước
mắt đó là đẩy mạnh CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn.
- Nông nghiệp, nông thôn là khu vực quan trọng
của Thành phố. Nó chính là vùng đệm cho sự mở rộng
của Thành phố sau này, là nơi cung cấp lao động,
cung cấp những sản phẩm cần thiết cho công nghiệp
chế biến cũng như cho cuộc sống của người dân ở khu
vực thành thị, là thị trường tiêu thụ những sản
phẩm của các ngành công nghiệp, dịch vụ từ khu vực
nội thành. Do đó, tạo ra sự ổn định ở khu vực này
sẽ góp phần tạo ra sự ổn định cho cả thành phố.
- Đối với những người lao động ở ngoại thành chỉ
có tạo việc làm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản
thân họ và gia đình tại chỗ thì mới đảm bảo được sự
ổn định, đồng thời giảm bớt được tình trạng người
dân ở khu vực này di chuyển vào trong nội thành gây
ra sức ép trên nhiều mặt.
50
1.2.2.2. Những nhân tố tác động đến quá trình tạo
việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội
* Nhân tố về điều kiện tự nhiên:
Nhân tố này, được thể hiện trên một số nội dung:
tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý…
Để quá trình sản xuất có thể diễn ra được đòi hỏi
phải có những yếu tố cơ bản của quá trình lao động:
sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Đối tượng lao động của ngành nông nghiệp là điều
kiện tự nhiên, bao gồm đất đai và những tài nguyên
thiên nhiên khác. Nếu nơi nào tài nguyên thiên nhiên
càng phong phú và đa dạng, thì càng dễ dàng cho
người lao động có những cơ sở, điều kiện tự tạo việc
làm cho mình. Ngược lại, nếu nơi nào tài nguyên
thiên nhiên ít và kém đa dạng, thì sẽ rất khó khăn
cho người lao động tìm việc làm cũng như tự tạo việc
làm cho mình.( ở những vùng có nhiều núi đá người
lao động có thể tự tạo việc làm cho mình thông qua
các hoạt động liên quan đến khai thác nguồn tài
nguyên này như: khai thác đá, nung vôi…). Cùng với
đó, ở những nơi mà tài nguyên thiên nhiên càng phong
phú, đa dạng thì cơ cấu ngành, nghề ở nơi đó cũng
được rất đa dạng khi đó càng thuận tiện cho người lao
động trong việc tìm kiếm việc làm cũng như tạo việc
làm cho chính bản thân mình. Đặc biệt, tài nguyên
thiên nhiên còn là lợi thế trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Những nước có điều kiện thiên nhiên
và vị trí địa lý thuận lợi, sẽ có lợi thế để thu hút
51
được các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài
tham gia bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh, chuyển giao
công nghệ. Do đó, sẽ rất thuận lợi trong giải quyết
việc làm cho những người lao động.
Hà Nội là thủ đô của cả nước, là một trung tâm
chính trị, kinh tế và văn hoá hàng năm thu hút rất
nhiều các nhà đầu tư. Ngoại thành Hà Nội với diện
tích rộng, vừa có đồng bằng vừa có miền núi, thiên
nhiên đa dạng với nhiều tiềm năng đang là lợi thế
lớn trong giải quyết việc làm.
* Nhân tố liên quan đến chính sách vĩ mô của Nhà
nước:
Đây cũng là một nhân tố có những ảnh hưởng lớn
đến nhiệm vụ giải quyết việc làm cho người lao động
nói chung và cho lao động ở khu vực ngoại thành nói
riêng.
Những chính sách vĩ mô của nhà nước như: chính
sách về vốn; chính sách về phát triển khoa học công
nghệ; chính sách hỗ trợ cho người lao động trong quá
trình chuyển đổi công việc; chính sách phát triển
kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn và hướng tới
mục tiêu ổn định xã hội; chính sách về phát triển
giáo dục; chính sách chăm sóc sức khoẻ cho người
dân.. có thể nói, đây là những chính sách hết sức
quan trọng và có ý nghĩa lâu dài trong chiến lược
phát triển của đất nước nói chung và chiến lược giải
quyết việc làm nói riêng.
52
Nhờ sự đúng đắn của những chính sách này mà nền
kinh tế từng bước được phát triển ổn định, tạo lập
được môi trường kinh doanh và đầu tư thuận lợi. Nhờ
vậy, có thể kêu gọi được các nhà đầu tư tham gia tổ
chức sản xuất kinh doanh, khi đó sẽ góp phần to lớn
vào giải quyết việc làm. Ngược lại, nếu những chính
sách này của Nhà nước không phù hợp cũng có thể kìm
hãm sự phát triển của đất nước, gây khó khăn trong
việc kêu gọi các nguồn lực cho phát triển kinh tế,
làm sản xuất bị đình trệ khi đó sẽ dẫn đến sự giảm
sút của việc làm.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta
khẳng định: “giải quyết việc làm là một chính sách
xã hội cơ bản”, với những phương hướng chính là:
Bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều chỗ làm mới, tăng
quỹ thời gian lao động được sử dụng, nhất là trong
nông nghiệp và nông thôn. Các thành phần kinh tế mở
mang các ngành nghề, các cơ sở sản xuất, dịch vụ có
khả năng sử dụng nhiều lao động, chăm lo cải thiện
điều kiện làm việc, đảm bảo an toàn về sinh lao
động, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, phòng chống
thiên tai và bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
Khôi phục và phát triển các làng nghề. Tổ chức quản
lý chặt chẽ hoạt động xuất khẩu lao động và bảo vệ
quyền lợi của người lao động ở nước ngoài. Khẩn
trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh
xã hội, xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm
53
đối với người lao động thất nghiệp. [20, tr.104 -
105]
Thời gian qua, chúng ta đã thực hiện một số
chính sách có tác động trực tiếp đến việc làm và
nâng cao thu nhập của người dân nhờ vậy đã đạt được
những thành tựu đáng kể, trong đó có thành tựu về
giải quyết việc làm. Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
5 năm 2001 - 2005 tăng bình quân gần 7,51%/ năm. Năm
2005, GDP đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người
đạt 10 triệu đồng, tương đương khoảng 640USD. Tỷ
trọng lao động của các ngành công nghiệp và xây dựng
trong tổng số lao động xã hội tăng từ 12,1% năm 2000
lên gần 17,9% năm 2005; lao động trong các ngành
dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3% năm 2005; lao động
trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và thuỷ sản đã
giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%. Tỷ trọng lao động đã
qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2005
[21, tr 142,146].
Trong 5 năm (2001- 2005), chúng ta đã giải quyết
việc làm cho 7,5 triệu lao động. Bình quân mỗi năm,
giải quyết việc làm cho 1,5 triệu lao động. Thời
gian sử dụng lao động ở nông thôn, từ 74,37% năm
2001 lên 80% năm 2005, tăng 5,63%; thất nghiệp ở khu
vực thành thị từ 6,28% năm 2001 xuống còn 5,4% năm
2005, giảm 0,88%.[21, tr.156]
* Nhân tố liên quan đến giáo dục- đào tạo và
khoa học - công nghệ:
+ Sự phát triển của hệ thống giáo dục- đào tạo:
54
Đây là yếu tố liên quan đến trình độ của người
lao động, nó có vai trò quyết định đến chất lượng và
số lượng của lao động.
Một quốc gia được đánh giá là nước phát triển
nếu đảm bảo những yêu cầu về con người: những chuyên
gia giỏi, những nhà quản lý giỏi, có đội ngũ công
nhân kỹ thuật lành nghề để có thể có những phát minh
hoặc sử dụng được những công nghệ hiện đại được
chuyển giao từ nước ngoài. Điều này cho ta thấy tầm
quan trọng có ý nghĩa quyết định của giáo dục- đào
tạo đối với sự phát triển của đất nước.
Giáo dục- đào tạo giúp cho người lao động có đủ
tri thức, năng lực sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của
công việc. Nhờ có giáo dục- đào tạo, mà người lao
động luôn luôn đón nhận được cơ hội để được sắp xếp
vào những công việc phù hợp với trình độ chuyên môn,
tay nghề được đào tạo và cơ hội để được tham gia và
quá trình phân công lao động xã hội.
Thấy được điều này, trong nhiều năm qua Đảng và
Nhà nước ta đã không ngừng chăm lo cho sự nghiệp
giáo dục và đào tạo. Đảng ta khẳng định: cùng với
khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, cũng như hoạch định Chiến
lược Phát triển giáo dục- đào tạo giai đoạn 2001-
2010, để từng bước đưa giáo dục Việt Nam hoà nhịp
vào nền giáo dục của thế giới. Đáp ứng được những
đòi hỏi, yêu cầu bức xúc về nguồn nhân lực có chất
lượng cao.
55
Chăm lo đầu tư cho giáo dục- đào tạo là chăm lo
cho tương lai, đầu tư cho tương lai, đầu tư cho sự
phát triển. Chỉ có như vậy, mới góp phần to lớn vào
giải quyết việc làm, tăng thu nhập cũng như tạo việc
làm mới cho người lao động. Đáp ứng được những thay
đổi của nền sản xuất do sự tác động của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Nhờ đầu tư cho giáo dục- đào tạo mà chúng ta
từng bước có được một đội ngũ những người lao động
có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có tay nghề cao, có
kỹ năng trong quản lý và vận hành nền kinh tế hiệu
quả, đáp ứng yêu cầu cả về chất lượng và số lượng
lao động cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá
đất nước.
+ Tiến bộ KH - CN:
Đây cũng là một nhân tố quan trọng, ảnh hưởng
đến chất lượng cũng như số lượng của lao động.
Việc phát triển nhân tố này là một đòi hỏi bức
thiết cho tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, khi phát
triển nhân tố này sẽ gặp phải sự mâu thuẫn: nếu một
quốc gia sử dụng công nghệ hiện đại, máy móc tự
động, thì sẽ sử dụng lao động có chất lượng, được
đào tạo về trình độ chuyên môn kỹ thuật với số
lượng ít và không sử dụng lao động giản đơn. Khi
đó, sẽ có một bộ phận lao động bị gạt khỏi quá
trình sản xuất. Ngược lại, nếu một quốc gia sử dụng
công nghệ trung bình, thì sẽ sử dụng lao động qua
đào tạo những không cần ở trình độ cao và đặc biệt
56
là, sử dụng nhiều lao động giản đơn, sẽ có nhiều
chỗ làm, nhưng khả năng cạnh tranh của sản phẩm và
của nền kinh tế sẽ giảm sút. Mâu thuẫn này đòi hỏi
các quốc gia, nhất là những nước đang phát triển
phải có những lựa chọn công nghệ sao cho phù hợp để
vừa đảm bảo phát triển sản xuất, phát triển kinh tế
phải vừa giải quyết được việc làm cho người lao
động.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay thì ở nhiều
nước nhất là những nước đang phát triển sẽ phải đảm
bảo phát triển khoa học công nghệ trong một số
ngành, lĩnh vực để đáp ứng yêu cầu cao cho sự phát
triển. Nhưng mặt khác, cũng phải hiện đại hoá một số
khâu của các ngành nghề thủ công truyền thống để vừa
giảm bớt khó khăn trong sản xuất, vừa không làm ảnh
hưởng đến việc làm của đội ngũ lao động.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan
tâm đến kết hợp hài hoà phát triển khoa học- công
nghệ với việc chú trọng phát triển những cơ sở sử
dụng nhiều lao động. Điều này đã góp phần to lớn cho
việc vừa phát triển khoa học- kỹ thuật vừa giải
quyết việc làm, tạo dựng được một đội ngũ những nhà
khoa học có trình độ chuyên môn cao, đội ngũ lao
động được tri thức hoá… đáp ứng được những yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
* Nhân tố dân số:
57
Sự biến động về dân số cũng có những ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển bền vững của một quốc
gia, đặc biệt là sự biến động về số lượng và chất
lượng của lao động. Nếu mức tăng trưởng dân số với
tốc độ và quy mô hợp lý, sẽ cung cấp một cách đầy đủ
nguồn lực có ý nghĩa quyết định nhất cho sự phát
triển của sản xuất cũng như sự phát triển của xã
hội- nguồn lực con người. Ngược lại, chính nhân tố
này cũng trở thành sức ép, trở thành gánh nặng đối
với sự phát triển của một quốc gia, nhất là sức ép
về việc làm cho người lao động. Điều này thường xảy
đến đối với những quốc gia đang phát triển, trong đó
Việt Nam.
Khi xem xét tác động của nhân tố dân số đến việc
làm, phải xem xét tới cơ cấu dân số, chất lượng dân
số và tình hình phân bố dân cư…chỉ có như thế mới
tạo cho chúng ta có một cái nhìn tổng quan về những
ảnh hưởng của việc nhân tố này tới vấn đề giải quyết
việc làm và tạo việc làm mới. Nếu cơ cấu dân số trẻ,
sẽ là một áp lực rất lớn về việc làm nhưng ngược lại
nếu cơ cấu dân số già thì trong tương lai sẽ lại là
lực cản cho sự phát triển, khi số người tham gia vào
lao động tạo ra của cải ít hơn so với số người ra
khỏi độ tuổi lao động được hưởng trợ cấp xã hội. ở
Việt Nam hiện nay, có cơ cấu dân số trẻ, nhóm dân số
dưới 15 tuổi chiếm tỷ lệ khá cao nhưng có xu hướng
giảm rõ rệt, từ 33,1% năm 1999 giảm xuống còn 26,16%
năm 2004, giảm 6,94%, bình quân mỗi năm giảm 1,39%;
58
ngược lại dân số từ 15 tuổi trở lên tăng tương ứng
từ 66,9% năm 1999 lên 73,8% năm 2004, tăng 6,94%,
bình quân mỗi năm tăng 1,39% [16, tr.81]. Điều này
cho thấy, tháp dân số đang chuyển dần từ dân số trẻ
sang dân số trưởng thành, có lợi về mặt kinh tế, góp
phần làm giảm tỷ lệ phụ thuộc kinh tế song cũng sẽ
làm tăng tổng cung lao động, tăng hơn nữa sức ép về
việc làm trong tương lai.
Nếu chất lượng lao động ở trình độ cao, sử dụng
công nghệ hiện đại sẽ tạo ra nhiều của cải cho xã
hội và họ sẽ dễ dàng tìm được những công việc phù
hợp. Cho nên vấn đề việc làm được giải quyết. Nhưng
ở những nước đang phát triển thì lực lượng lao động
được qua đào tạo còn thấp, lao động giản đơn vẫn là
chủ yếu. Vì thế, ngoài những đóng góp cho xã hội
thấp do năng suất lao động thấp thì họ sẽ gặp nhiều
khó khăn trong quá trình tìm một công việc phù hợp
với khả năng của bản thân, làm cho số lượng lao động
dư thừa tăng lên. Điều này lại trở thành sức ép đối
với các quốc gia, trong tạo việc làm cho người lao
động.
Việt Nam là nước đang trong quá trình công
nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp, hiện đại. Vì vậy, cơ cấu lao động cũng
từng bước chuyển dịch từ lao động thủ công, lao
động nông nghiệp là chính sang lao động sử dụng mày
móc, lao động công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên,
hiện nay số lao động được qua đào tạo còn thấp,
59
nhất là lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Đứng trước thực trạng này, Đảng và Nhà nước ta đã
có Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 -
2010, Pháp lệnh dân số… để hướng tới mục tiêu: Đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao
rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hưóng hiện đại.
Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế và quốc
phòng, an ninh được tăng cường…
* Thị trường lao động và sự phát triển của nó:
Thị trường lao động (thực chất là thị trường
sức lao động) là một trong những thị trường quan
trọng và cơ bản của nền kinh tế thị trường. Phát
triển thị trường lao động là một tất yếu khách quan
nhằm phân bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực
theo cung - cầu và giá cả lao động của thị trường,
thu hút đầu tư, tạo việc làm thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
TTLĐ theo nghĩa rộng, là nơi mua bán sức lao
động diễn ra giữa người lao động (cung lao động) và
người sử dụng lao động (cầu lao động).
TTLĐ theo nghĩa hẹp, chỉ giới hạn trong khu vực
có quan hệ lao động được hiểu là nơi diễn ra sự
trao đổi theo nguyên tắc thoả thuận về các quan hệ
lao động (việc làm, tiền công và các điều kiện là
việc khác), giữa người lao động và người sử dụng
60
lao động bằng hình thức hợp đồng lao động
[14, tr.79 - 83, 90].
Trên thị trường lao động nếu cung và cầu về lao
động gặp nhau, nghĩa là người lao động muốn bán sức
lao động của mình phải gặp được người cần mua sức
lao động và người sử dụng lao động cũng mua được
loại hàng hoá sức lao động từ người lao động, thì
có nghĩa là việc làm đã được hình thành, người lao
động được coi là người có việc làm. Thị trường lao
động có một chức năng hết sức quan trọng đó là chức
năng thông tin: thông qua thị trường này, người lao
động có nhu cầu tìm việc sẽ tìm kiếm cho mình một
công việc phù hợp với khả năng, tay nghề cũng như
chuyên môn được đào tạo thông qua những yêu cầu mà
nhà tuyển dụng đưa ra. Ngược lại, nhà tuyển dụng
cũng có thể có được thông tin về chất lượng, số
lượng những người cần việc làm để có thể lựa chọn
được những người lao động đáp ứng được yêu cầu của
mình. Như vậy, để việc làm được tạo ra nhiều hơn
đòi hỏi phải có sự đồng ý và nhất trí giữa người
lao động - bên cung lao động và người sử dụng lao
động - bên cầu lao động. Muốn vậy, cần phải có sự
phát triển mạnh mẽ của thị trường lao động.
Để phát triển thị trường lao động cần có nhiều
yếu tố:
- Cơ chế, chính sách của nhà nước qui định về
thuê mướn, sử dụng lao động...để đảm bảo có sự xuất
hiện của quan hệ cung - cầu lao động
61
- Các trung tâm dịch vụ việc làm.
- Các tổ chức để bảo vệ quyền lợi cho người lao
động.
1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố về tạo việc
làm cho người lao động (trong đó có tạo việc làm cho người
lao động ngoại thành)
1.3.1. Kinh nghiệm tỉnh Hải Dương
Hải Dương là tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng, nằm
trong vùng trọng điểm kinh tế phía Bắc, có diện tích
là 1.661 km2. Trong đó, đất nông nghiệp chiếm
63,15%; đất lâm nghiệp chiếm 5,48%; đất chuyên dùng
17%; đất ở là 6,87%; đất chưa sử dụng là 7,47%. Dân
số là 1.696.230 người (vào thời điểm 31/12/2003).
Dân số khu vực thành thị tăng nhanh, năm 2003 dân số
thành thị tăng gần gấp đôi so với năm 1996. Tuy
nhiên, dân số ở nông thôn vẫn chiếm tới 86% [47,
tr.41]. Là tỉnh đang chịu những tác động lớn về
nhiều mặt kinh tế- xã hội của qúa trình đô thị hoá,
do sự hình thành nhiều khu công nghiệp để kêu gọi
các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như chuyển
đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp.
Tình trạng thất nghiệp của tỉnh vẫn còn cao, dù
có giảm trong vài năm gần đây. Giai đoạn từ năm 2001
đến năm 2004, tỷ lệ thất nghiệp từ 6,03% xuống còn
5,69%, giảm 0,34%. Tạo việc làm cho 94.023 lao động;
thời gian sử dụng lao động ở nông thôn từ 78,40% lên
78,85%, tăng 0,45% [ 47, tr.56, 61, 64]. Như vậy ở
62
nông thôn vẫn còn khoảng trên 20% thời gian nhàn rỗi
chưa huy động được vào sản xuất.
Nhằm khắc phục những tồn tại, khó khăn trên về
vấn đề giải quyết việc làm, Hải Dương đã có nhiều
quyết sách để đạt mục tiêu trong giai đoạn 2006 –
2010 là: mỗi năm phải tạo việc làm mới cho 2,5 vạn
lao động trở lên; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt
38,4%; tỷ lệ thất nghiệp thành thị giảm xuống còn
4,5%, nâng thời gian lao động ở nông thôn lên 82%-
83%. [47, tr 75], thông qua một số giải pháp:
+ Tạo việc làm, thông qua nguồn vốn vay quỹ Quốc
gia về giải quyết việc làm. Nguồn vốn này, được tập
trung chủ yếu cho phát triển dịch vụ nông nghiệp,
hình thành các cơ sở sản xuất tư nhân và phục vụ cho
phát triển công nghiệp truyền thống để tạo thêm việc
làm cho người lao động nông thôn.
+ Tạo việc làm bằng cách phát huy vai trò của
tất cả các thành phần kinh tế. Nhờ vậy, thu hút thêm
nhiều người lao động tham gia vào các hoạt động kinh
tế. Qua đó, từng bước giải quyết được vấn đề lao
động - việc làm.
+ Tạo việc làm qua giáo dục - đào tạo, đặc biệt
là hệ thống đào tạo nghề và hướng nghiệp cho lao
động nông thôn. Trong đó, chú trọng đến các lớp dạy
nghề ngắn hạn để trang bị tay nghề cho người lao
động nhờ đó họ có thể tìm cho mình một công việc phù
hợp. Tỉnh đã có nhiều biện pháp, khuyến khích giải
quyết việc làm như: các nhà đầu tư vào địa bàn tỉnh
63
sẽ được cung cấp lao động đã qua đào tạo hay doanh
nghiệp có nhu cầu riêng sẽ được cấp kinh phí hỗ trợ
đào tạo từ ngân sách của tỉnh.
+ Tạo việc làm thông qua phát triển các làng
nghề truyền thống để thu hút lao động. Nhờ vậy,
người lao động đã có thêm việc làm, giảm thời gian
nông nhàn và tăng thêm thu nhập cho bản thân.
+ Tạo việc làm thông qua việc đẩy mạnh xuất
khẩu lao động ra các thị trường. Chú trọng đến lao
động ở khu vực nông thôn, khu vực bị tác động của
quá trình đô thị hoá trên cơ sở trang bị cho họ một
trình độ nhất định về tay nghề, chuyên môn kỹ thuật.
1.3.2. Kinh nghiệm của Thành phố Đà Nẵng
Năm 1997, Đà Nẵng trở thành đơn vị hành
chính trực thuộc Trung ương và đến cuối năm 2003
được Chính phủ xếp hạng là đô thị loại I cấp quốc
gia. Dân số của thành phố đến cuối năm 2002, là
747.000 người. Do tác động của quá trình đô thị hoá,
quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng:
tăng dần lao động ngành công nghiệp - xây dựng và
dịch vụ, đồng thời giảm dần lao động nông nghiệp, đã
làm cho dân số đô thị của Đà Nẵng tăng mạnh với
587.000 người. [ 31, tr.16,17 ]
Bên cạnh những kết quả to lớn mà quá trình đô
thị hoá mang lại thì cũng phát sinh những khó khăn,
bất cập như: Số lao động nông nghiệp bị mất việc làm
và thiếu việc làm tăng mạnh, một bộ phận lớn lao
động phải chuyển sang nghề các khác đòi hỏi phải
64
được đào tạo. Hơn nữa, số lao động bước vào độ tuổi
lao động ở đây đang có xu hướng tăng lên, trong khi
trình độ văn hoá thấp, không được đào tạo về tay
nghề đang trở thành những bức xúc đòi hỏi thành phố
phải giải quyết. Đứng trước tình hình này, thành phố
đã có nhiều giải pháp để tạo việc làm cho người lao
động, đặc biệt là lao động ngoại thành như:
- Tiếp tục thực hiện đầy đủ các chính sách bồi
thường thiệt hại, hỗ trợ và tái định cư cho người
dân khi nhà nước thu hồi đất bên cạnh đó thường
xuyên rà soát, bổ sung điều chỉnh chính sách cho phù
hợp.
- Cho vay vốn để sản xuất kinh doanh từ nguồn
vốn vay của Ngân hàng Chính sách xã hội, quỹ Quốc
gia giải quyết việc làm. Bổ sung nguồn vốn quỹ Quốc
gia giải quyết việc làm từ ngân sách địa phương đồng
thời cho vay ưu đãi theo hướng cấp bù lãi suất để
đảm bảo nguồn cho vay chuyển đổi ngành nghề, tạo
việc làm cho đối tượng chịu tác động của quá trình
đô thị hoá.
- Miễn thuế, giảm thuế sản xuất kinh doanh đối
với những hộ nông dân chịu ảnh hưởng của quá trình
đô thị hoá buộc phải chuyển qua sản xuất kinh doanh
ở những ngành nghề khác.
- Tăng đầu tư ngân sách và mở rộng hoạt động dạy
nghề, đặc biệt tăng chỉ tiêu dạy nghề dài hạn bằng
ngân sách để từng bước tăng nhanh đội ngũ công nhân
lành nghề cho thành phố, tiếp tục duy trì chỉ tiêu
dạy nghề ngắn hạn do ngân sách đài thọ. Tổ chức các
65
lớp học nghề miễn phí, có chú trọng đến những đối
tượng bị buộc phải chuyển đổi ngành nghề.
- Đối với những nông dân không còn đất sản xuất
nhưng thật sự không có điều kiện chuyển đổi nghề,
thành phố vận động họ lập trang trại để hình thành
vùng chuyên canh sản phẩm nông nghiệp hoặc thuê mặt
nước để nuôi trồng thuỷ sản, tự tạo việc làm cho
mình và cho người khác. Đẩy mạnh hoạt động khuyến
nông, khuyến ngư, tăng cường chuyển giao kỹ thuật,
mở các lớp huấn luyện kỹ thuật, bồi dưỡng và bổ túc
nghề cho họ.
- Có văn bản quy định đối với các doanh nghiệp
được giao đất tại các khu công nghiệp trên địa bàn,
phải có trách nhiệm tiếp nhận người lao động trong
diện chịu ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá vào làm
việc tại doanh nghiệp.
Nhờ đó, Đà Nẵng đã thu được một số kết quả:
trong giai đoạn 1997 - 2004 đã giải quyết việc làm
cho 144.380 lao động, tỷ lệ thất nghiệp giảm còn
5,4%, tỷ lệ sử dụng quỹ thời gian lao động ở nông
thôn được nâng lên 82% vào cuối năm 2004. Nhìn
chung, cơ cấu lao động đã chuyển dịch phù hợp với cơ
cấu phát triển của thành phố theo hướng công nghiệp -
du lịch- dịch vụ làm mũi nhọn. Tỷ lệ lao động qua đào
tạo tăng lên 35%, trong đó lao động qua đào tạo nghề
đạt 22,5% vào cuối năm 2004. Thành phố đã hình thành
được hệ thống DVVL bao gồm 5 trung tâm thuộc các đơn
vị Nhà nước, Hội, Đoàn thể và một công ty tư vấn.
Hàng năm hệ thống này đã tư vấn, giới thiệu, cung ứng
66
cho 12.000 lao động cho các ngành kinh tế [30, tr.13,
14].
Trên đây, là một số kinh nghiệm tạo việc làm cho
lao động nông thôn ngoại thành bị tác động của quá
trình đô thị hoá. Đây là những kiến thức thực tiễn
rất có ý nghĩa để chúng ta học tập, vận dụng một
cách sáng tạo vào thực tiễn ở ngoại thành Hà Nội
trong những năm tới khi mà tốc độ đô thị hoá của
thành phố ngày càng diễn ra nhanh hơn và mạnh mẽ
hơn.
Những vấn đề được rút ra:
+ Muốn tạo được việc làm cho người lao động phải
tập trung phát triển kinh tế bao gồm tất cả các
ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Trong đó có trú
trọng đến đặc điểm của các ngành kinh tế ở khu vực
nông thôn, ngoại thành.
+ Phải có chính sách đào tạo nghề, nâng cao
trình độ chuyên môn cho người lao động. Từ đó, giúp
cho người lao động dễ dàng tìm được một công việc
phù hợp hoặc tự tạo cho mình một nghề nghiệp chính
đáng.
+ Tạo thêm việc làm thông qua các chính sách
khuyến khích, ưu đãi của nhà nước: ưu đãi về thuế,
chính sách tín dụng cho người nghèo, thông qua Quỹ
quốc gia giải quyết việc làm hoặc thông qua nguồn
vốn của các tổ chức quốc tế.
+ Tập trung vào hoạt động xuất khẩu lao động để
tạo thêm việc làm cho người lao động. Có các chính
67
sách ưu đãi, khuyến khích của nhà nước đối với những
lao động có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài.
68
Chương 2
Thực trạng tạo việc làm
cho người lao động ngoại thành Hà Nội
2.1. Những đặc điểm của thủ đô Hà Nội có ảnh hưởng đến
tạo việc làm
2.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên - lịch sử
Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm Đồng bằng Bắc bộ,
từ 20054’ đến 200 22’ vĩ độ bắc, 1050 42’ đến 1060
00’ kinh độ đông. Phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc,
tỉnh Thái Nguyên; phía Nam giáp tỉnh Hà Tây, Hưng
Yên; phía Đông giáp tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên; phía
Tây giáp tỉnh Hà Tây.
Hà Nội nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía
Bắc, là một trong 3 cạnh của tam giác kinh tế Hà
Nội - Hải Phòng- Quảng Ninh, đang được Chính phủ
quan tâm đầu tư để phát triển tương xứng với tiềm
năng của Thủ đô, giữ vị trí đầu não về chính trị,
kinh tế và văn hoá của cả nước. Sự phát triển của
Hà Nội cũng làm cho các vùng lân cận trong tam
giác kinh tế được phát triển, trở thành vệ tinh
đảm bảo cho sự phát triển mạnh mẽ của cả vùng kinh
tế.
Hà Nội có tổng diện tích là 920,97 km2, khoảng
cách từ Bắc xuống Nam dài trên 50 km, từ Tây sang
Đông gần 30 km. Hà Nội, có 9 quận nội thành là: Ba
Đình, Hoàn Kiếm, Tây Hồ, Long Biên, Cầu Giấy, Đống
Đa, Hai Bà Trưng, Hoàng Mai và Thanh Xuân với 128
69
phường, diện tích nội thành là 178,78 km2 chiếm
19,41% diện tích toàn thành phố. Khu vực ngoại
thành bao gồm 5 huyện là: Sóc Sơn, Đông Anh, Gia
Lâm, Từ Liêm, Thanh Trì với 98 xã và 6 thị trấn,
diện tích là 742,19 km2 chiếm 80,59% diện tích
toàn Thành phố. Mật độ dân số bình quân của toàn
thành phố là 3.515 người/km2 tuy nhiên, sự phân bố
dân cư của khu vực nội thành và ngoại thành lại
không đồng đều. ở khu vực nội thành, với mật độ
dân số trung bình là 11.314 người/ km2, trong đó
cao nhất là quận Đống Đa và Hoàn Kiếm với 37.631
người/km2 và 33.856 người/km2, còn thấp nhất là
quận Tây Hồ và Long Biên với 4.550 người/km2 và
3.205 người/km2. Mật độ dân số trung bình ở khu
vực ngoại thành chỉ là 1.643 người/km2, cao nhất
là huyện Từ Liêm với 3.569 người/km2 và thấp nhất
là huyện Sóc Sơn với 875 người/km2 [13, tr.9].
Thủ đô Hà Nội có hệ thống giao thông thuận lợi,
nối liền với nhiều địa phương trong nước và quốc
tế về cả đường bộ, đường không và đường sắt. Hà
Nội có sân bay quốc tế Nội Bài (thuộc huyện Sóc
Sơn) với khả năng phục vụ trên nhiều triệu lượt
khách trong nước và quốc tế mỗi năm.
Về đất đai, Hà Nội cũng có nhiều thuận lợi cho
sự đa dạng hoá sinh học. Trong đó, vùng đồi núi
chiếm khoảng 10% diện tích tự nhiên, tập trung chủ
yếu ở phía Tây Bắc huyện Sóc Sơn. Vùng đồng bằng
chiếm khoảng 90% diện tích tự nhiên, trong đó phía
70
nam huyện Sóc Sơn và phần lớn huyện Đông Anh là
đất bạc màu, còn lại là đất phì nhiêu, màu mỡ
thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi.
Theo số liệu của Cục Thống kê Thành phố, diện tích
đất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản của Hà Nội năm 2005
là 47.025 ha. Trong đó, đất nông nghiệp chiếm
38.414 hécta, diện tích mặt nước nuôi thuỷ sản là
3.057 héc ta, đất lâm nghiệp chiếm 5.432 hécta và
diện tích đất nông, lâm nghiệp - thuỷ sản khác là
122 hécta [13, tr 167].
Như vậy, tài nguyên đất phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp và diện tích mặt nước phục
vụ nuôi trồng thuỷ sản của thành phố còn rất lớn.
Thủ đô Hà Nội còn rất thuận lợi trong việc phát
triển các ngành dịch vụ, đặc biệt là ngành du
lịch. Với lịch sử gần 1000 năm tuổi của mình, Hà
Nội mang trong mình những giá trị văn hoá và tinh
thần hết sức to lớn. Bên cạnh đó, Hà Nội còn lưu
giữ những công trình có giá trị lịch sử quan trọng
như khu Quảng trường Ba Đình, Lăng Chủ tịch Hồ Chí
Minh nơi gìn giữ thi hài của Người và nhiều công
trình lịch sử khác, rất thuận lợi cho việc phát
triển các hoạt động tham quan du lịch về nguồn, du
lịch lịch sử, văn hoá.
Với thuận lợi nêu trên, Thành phố có điều kiện
để đề ra những chính sách phù hợp nhắm từng bước
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Nhờ đó, phát triển mạnh các ngành công nghiệp chế
71
biến và dịch vụ, du lịch cũng như từng bước hoàn
thiện các vùng sản xuất nông sản, thực phẩm… để
từng bước tạo nhiều việc làm cho người lao động
của thành phố.
2.1.2. Những đặc điểm của lao động ngoại thành
Hà Nội ảnh hưởng đến tạo việc làm
Trong giai đoạn hiện nay cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của đất nước, Hà Nội đang từng bước vươn
lên xứng đáng là trung tâm văn hoá, khoa học, giáo
dục và kinh tế của cả nước. Thành phố đã đạt được
những kết quả nhất định trong nhiều lĩnh vực: giá
trị các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh;
cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch mạnh theo xu thế
hiện đại, cơ cấu kinh tế dịch vụ - công nghiệp -
nông nghiệp đã hình thành rõ nét; tỷ trọng các
ngành kinh tế trong GDP là dịch vụ 57,5% - công
nghiệp 40,5% và nông nghiệp 2%. Nhờ đó đã đẩy
nhanh sự chuyển dịch cơ cấu lao động làm cho lao
động nông nghiệp còn 20,04, lao động công nghiệp
đạt 28,37% và lao động dịch vụ là 51,59%.
So với cả nước, Hà Nội luôn là một trong những
địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Trong 20 năm qua, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
hàng năm đã tăng lên:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NGOẠI THÀNH HÀ NỘI TRONG QUÁ TRèNH ĐÔ THỊ HOÁ.pdf