Luận văn Vấn đề văn hoá doanh nghiệp và vai trò công đoàn trong việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp

Tài liệu Luận văn Vấn đề văn hoá doanh nghiệp và vai trò công đoàn trong việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp: LUẬN VĂN: Văn hoá doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng Văn hoá doanh nghiệp Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước mà đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra là phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đưa nước ta thành một nước văn minh hiện đại. Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã đề ra nhiều nghị quyết nhằm phát huy nhiều nguồn lực để tăng trưởng kinh tế. Trong đó có Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ Ba, về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp Nhà nước. Nghị quyết khẳng định: “Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các nghành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế; góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, tăng thế và lực của đất nước…Doanh nghiệp Nhà nước ngày càng thích ứng với ...

pdf110 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1072 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề văn hoá doanh nghiệp và vai trò công đoàn trong việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Văn hoá doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng Văn hoá doanh nghiệp Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước mà đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra là phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đưa nước ta thành một nước văn minh hiện đại. Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã đề ra nhiều nghị quyết nhằm phát huy nhiều nguồn lực để tăng trưởng kinh tế. Trong đó có Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ Ba, về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp Nhà nước. Nghị quyết khẳng định: “Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các nghành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế; góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, tăng thế và lực của đất nước…Doanh nghiệp Nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường; năng lực sản xuất tiếp tục tăng; cơ cấu ngày càng hợp lý hơn; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên; đời sống của người lao động được cải thiện.” Tuy nhiên Nghị quyết cũng chỉ ra những mặt yếu kém của doanh nghiệp nhà nước, đó là:” Cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa, chưa tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ và người lao động trong doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh”. Như vậy, làm sao để tạo được động lực mạnh mẽ, thúc đẩy cán bộ và người lao động trong doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh? Làm sao để mọi người trong doanh nghiệp liên kết với nhau, hướng đến một mục tiêu duy nhất là luôn làm cho doanh nghiệp của mình ngày càng phát triển, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đời sống của chính mình. Thực hiện mục tiêu đó, tất yếu phải tiến hành xây dựng văn hoá doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết Trung ương Năm khoá VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “ Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.”Chúng ta phải làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống. Vì vậy văn hoá doanh nghiệp được coi là nguồn lực nội sinh, trực tiếp thúc đẩy sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp, góp phần vào thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của cả nước.. Kinh tế của thủ đô Hà Nội đã có tác động không nhỏ đến sự phát triển chung của đất nước, những năm qua Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm đặc biệt đến sự phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội. Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị đã đề ra những nhiệm vụ chiến lược đối với Hà Nội: “Trong 10 năm tới, đảm bảo xây dựng về cơ bản nền tảng vật chất kỹ thuật và xã hội của Thủ đô xã hội chủ nghĩa” và quyết tâm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô”. Thực hiện Nghị quyết trên một số doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội đã làm ăn có lãi, đứng vững trong cơ chế thị trường, đã tạo cho mình một diện mạo mới, cung cách làm ăn mới. ở những doanh nghiệp đó tổ chức Công đoàn phát huy được tinh thần sáng tạo và đóng góp của mọi thành viên trong doanh nghiệp, khẳng định vai trò của mình trong việc xây dựng Văn hoá doanh nghiêp. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn nhiều doanh nghiệp chỉ chú trọng đến lợi nhuận, coi lợi nhuận như là một “tiêu chuẩn duy nhất” để tồn tại doanh nghiệp, không quan tâm đến việc xây dựng “Văn hoá doanh nghiêp”. Từ đó dẫn đến lương tâm, phẩm giá của người lao động bị giảm sút, nạn ô nhiễm môi trường, các tệ nạn xã hội, các bệnh hiểm nghèo cũng phát triển theo. Một số doanh nghiệp khác cũng không quan tâm xây dựng VHDN nên làm ăn kém hiệu quả, chất lượng sản phẩm không đảm bảo, trình độ quản lý, kinh doanh kém, cạnh tranh không lành mạnh, không trả lương, trả thưởng cho người công nhân đúng thời hạn, không đảm bảo vệ sinh an toàn lao động, làm cho người lao động không hứng thú làm việc, không không gắn bó với doanh nghiệp. Tất cả những điều ấy cho thấy, các doanh nghiệp thiếu hẳn vai trò của văn hoá trong sản xuất kinh doanh. Hay nói một cách khác là các doanh nghiệp chưa thực sự hình thành cho mình một VHDN. Do vậy, vấn đề đặt ra cho Đề tài này là phải khảo sát thực tiễn, rút ra bài học kinh nghiệm, về xây dựng mô hình VHDN gắn với vai trò của tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội, nhằm phát huy được vai trò của DNNN trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và Hà Nội nói riêng. Về mặt lý luận và thực tiễn việc nghiên cứu VHDN ở nước ta chưa được chú ý. Hiện nay, mới có một số nhà nghiên cứu chỉ đề cập đến VHDN trên bình diện văn hoá trong kinh doanh, hoặc khai thác một vài khía cạnh của VHDN như: Tinh thần doanh nghiệp, Đạo đức kinh doanh, Triết lý kinh doanh, chưa có đề tài nào nghiên cứu VHDN trên bình diện chung. Đặc biệt chưa có đề tài nào nghiên cứu xây dựng VHDN trong các doanh nghiệp nhà nước gắn với vai trò của tổ chức Công đoàn trong doanh nghiệp nhà nước, ở Thủ đô Hà Nội nói riêng cũng như phạm vi cả nước nói chung. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “ Văn hoá doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng Văn hoá doanh nghiệp” trong các doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội là vấn đề rất cần thiết. Bởi vì, vấn đề liên quan đến định hướng kinh tế - xã hội của đất nước, liên quan đến vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp hệ Cao học chuyên ngành văn hoá học, là vấn đề rất có ý nghĩa cả về phương diện lý luận lẫn phương diện thực tiễn, trong sự nhiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Về vấn đề VHDN trên thế giới mới được nghiên cứu trong mấy thập niên gần đây. Trong cuốn sách “Văn hoá học - những bài giảng của A.A. RADGHIN, nhà xã hội học người Mỹ, E.N.Schein đưa ra định nghĩa về Văn hoá Doanh nghiệp hay Văn hoá tổ chức (E. Schein. San- Francínco. 1985). Trong cuốn “ Dự báo thế kỷ XXI” của các nhà khoa học Trung Quốc, đã đề cập đến vai trò của doanh nghiệp ở thế kỷ XXI và đưa ra lời khuyến cáo rằng: Nếu không chú ý đến văn hoá, thì doanh nghiệp không thể phát triển được; Đạo đức, lương tâm nghề nghiệp còn quan trọng hơn việc phát triển kỹ thuật mũi nhọn và cải cách thể chế của doanh nghiệp. Nhận thức được những lời khuyến cáo trên ở Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ, Đức các doanh nghiệp đã chú trọng đến yếu tố văn hoá trong sản xuất, kinh doanh và đã bắt đầu xây dựng VHDN của mình. Gần đây trong khoá học chuyên đề: Xây dựng Văn hoá doanh nghiệp của trung tâm hợp tác nguồn lực Việt Nam - Nhật Bản tháng 12 năm 2004 ở Hà nội người ta đã đưa ra một khái niệm về Văn hoá tổ chức. ở Việt Nam ta, đề cập đến mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế khá muộn. Trước đây người ta cho rằng, văn hoá và kinh tế là hai lĩnh vực hoàn toàn tách biệt nhau, không có mối quan hệ hỗ trợ, gắn bó nào. Đấy là một nhận thức sai lầm. Sau Đại hội VI của Đảng, chúng ta bắt đầu đổi mới về tư duy, nhận thức, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế. Chúng ta đã nhận thức được tầm quan trọng của văn hoá trong phát triển kinh tế. Văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát phát triển kinh tế - xã hội. Mãi đến năm 1995, tại Hà Nội, Trung tâm Khoa học xã hội - Nhân văn Quốc gia cùng với Uỷ ban Quốc gia Unesco của Việt Nam mới phối hợp tổ chức cuộc Hội thảo "Văn hoá và kinh doanh”. Trong Hội thảo này các Đại biểu quốc tế và Việt Nam đều nhất trí và khẳng định rằng, giữa văn hoá và kinh tế có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ với nhau, đồng thời chỉ ra rằng, trong kinh doanh yếu tố văn hoá đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Đến năm 2001, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin và viện Quản trị Doanh nghiệp, xuất bản cuốn sách Văn hoá và kinh doanh. Trong cuốn sách này các tác giả không đề cập đến “Văn hoá doanh nghiệp” mà chỉ nói đến văn hoá trong kinh doanh, quan hệ giữa văn hoá với kinh doanh. Đây chỉ là những ý kiến gợi mở để chúng ta có thể tham khảo, đồng thời bước đầu làm cơ sở cho việc xây dựng lý luận về hình thành VHDN. Ngoài ra, còn có một số công trình đã được nghiên cứu về VHDN và được công bố như: Văn hoá và triết lý kinh doanh của tiến sĩ Đỗ Minh Cương (Xuất bản năm 2000). Trong tác phẩm này, tiến sĩ Đỗ Minh Cương đã đưa ra định nghĩa về VHDN và cấu trúc của nó. Nhưng tiến sĩ Đỗ Minh Cương lại không đi sâu hướng nghiên cứu này, mà chỉ chọn vấn đề triết lý kinh doanh để nghiên cứu. Năm 2003, tác giả Trần Quốc Dân đã cho ra đời cuốn sách” Tinh thần doanh nghiệp giá trị định hướng của kinh doanh Việt Nam”. Tác giả xác định: Tinh thần doanh nghiệp chính là giá trị định hướng của văn hoá kinh doanh Việt Nam. Như vậy tác giả mới chỉ đi sâu nghiên cứu một yếu tố trong văn hoá doanh nghiệp đó là “Tinh thần”. Ngoài ra có nhiều bài viết liên quan đến VHDN, được đăng rãi rác trên các tạp chí khoa học. Nỗi bật hơn cả là bài: Bàn về Văn hoá và Văn hóa kinh doanh của GS -TS Hoàng Vinh, đăng trong “ Thông tin Văn hoá và phát triển” của Khoa Văn hoá XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tháng 8 năm 2004. GS -TS Hoàng Vinh đã đưa ra một quan niệm, muốn xây dựng thuật ngữ “Văn hoá kinh doanh”. Gần đây tại khoa Văn hoá XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, học viên Cao học chuyên nghành Văn hoá học, Trần Thị Thuý Vân đã bảo vệ thành công luận văn “ Xây dựng Văn hoá doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn này đã có những đóng góp nhất định về phương diện thực tiễn xây dựng VHDN nói chung ở một địa phương (Tp Hồ Chí Minh), song chưa chú ý nhiều đến VHDN của DNNN, đồng thời chưa quan tâm đến vai trò của tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp nhà nước với việc xây dựng VHDN. Tóm lại, tất cả những công trình nghiên cứu, những bài viết đã nêu ở trên, của các tác giả rất có ý nghĩa cho việc hình thành cơ sở lý luận về VHDN. Nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về VHDN ở Việt Nam nói chung và ở địa bàn Thủ Đô Hà Nội nói riêng đặc biệt trong DNNN. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài Văn hoá doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp trong doanh nghiệp nhà nước ở Thủ đô Hà Nội để nghiên cứu là nhằm muốn được góp một phần nho nhỏ vào xây dựng cơ sở lý luận về VHDN đồng thời đưa ra một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng văn hoá doanh nghiệp trong các DNNN và hoạt động Công đoàn cơ sở nhằm thúc đẩy doanh nghiệp phát triển một cách bền vững trên địa bàn thành phố Hà Nội. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1 Mục đích - Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu, các tài liệu đã có, Luận văn khái quát, hệ thống vấn đề mang tính lý luận: VHDN, cấu trúc văn hoá hoá doanh nghiệp và vai trò của văn hoá doanh nghiệp đối với sự phát triển của doanh nghiệp. - Khảo sát, tìm hiểu thực trạng xây dựng văn hoá doanh nghiệp của một số doanh nghiệp nhà nước và hoạt động Công đoàn trong việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp, ở thủ đô Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, khẳng định vai trò của công đoàn cơ sở đối việc xây dựng VHDN trong các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời đưa ra một số phương hướng và giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng và phát triển doanh nghiệp, cũng như nâng cao vai trò hoạt động của Công đoàn cơ sở để giúp doanh nghiệp phát triển một cách toàn diện và bền vững. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt dược mục đích trên, luận văn cần tập trung giải quyết những vấn đề sau: - Làm rõ khái niệm VHDN trên cơ sở phân biệt các khái niệm liên quan như Văn hoá, Văn hoá kinh tế, VHKD. Luận văn sẽ đưa ra một cách chia cấu trúc VHDN hợp lý, để nắm bắt được thực chất “Văn hoá doanh nghiệp”và mô tả đầy đủ các yếu tố của nó. Đồng thời chỉ ra vai trò đặc biệt quan trọng của VHDN trong sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. - Phân tích, đánh giá thực trạng VHDN của một số doanh nghiệp nhà nước ở thủ đô Hà Nội. Đưa ra một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả VHDN ở Thủ đô Hà Nội gắn với vai trò của tổ chức Công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp 4. Phạm vi nghiên cứu luận văn Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là một số doanh nghiệp nhà nước tiêu biểu trên địa bàn thủ đô Hà nội, trong đó có cả doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương. 5.Cơ sở lí luận, phương pháp nghiên cứu luận văn 5.1. Cơ sở lí luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng, Nhà nước và tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệp trong tình hình mới. Ngoài ra Luận văn còn tham khảo một số quan điểm lý luận trong các văn kiện của Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân thành phố Hà nội, Liên đoàn Lao động Hà nội về phát triển kinh tế Thủ đô trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời luận văn còn kế thừa các công trình nghiên cứu của tập thể và các cá nhân liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Luận văn sử dụng phương pháp biện chứng của chủ nghĩa duy vật Mác - Lênin về các mối quan hệ vật chất và ý thức, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, kinh tế và văn hoá. - Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu điều tra xã hội học, khảo sát thực tế và phỏng vấn chuyên gia và các nhà chuyên môn, cùng với phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu để nghiên cứu và trình bày các vấn đề của bản Luận văn. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Góp phần định hình khái niệm VHDN và cấu trúc của VHDN. - Góp phần nâng cao nhận thức về vấn đề xây dựng VHDN trong DNNN và khẳng định vai trò to lớn của tổ chức Công đoàn trong việc xây dựng VHDN. Qua đó khẳng định vai trò “chủ đạo” của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. - Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu cho việc nghiên cứu những vấn đề văn hoá và kinh tế, cho việc giảng dạy lĩnh vực văn hoá ở các trường đại học, đặc biệt là các trường đào tạo của hệ thống Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 Mấy vấn đề lý luận về Văn hoá Doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp 1.1. Tổng quan về văn hóa doanh nghiệp 1.1.1. Khái lược về “văn hoá” Trong lịch sử phát triển xã hội và sự hoàn thiện nhân cách con người, văn hoá đồng hành với con người trên tất cả mọi phương diện: hoạt động và sáng tạo. Hoạt động nhằm bộc lộ sức mạnh bản chất người và hoàn thiện nhân tính. Sáng tạo như một đặc trưng bản chất của con người, cái thước đo phân biệt tồn tại người với tồn tại vật, giữa ý thức tự giác của người với bản năng tự phát của động vật, giữa tất yếu và tự do. Nhờ có sáng tạo mà nhân tính mới được khẳng định và hoàn thiện, con người mới biểu hiện như một chủ thể hoạt động và sáng tạo giá trị. Văn hoá thống nhất trong đa dạng, thống nhất bao hàm bởi nhiều sự khác biệt. Nhờ nó, tự bản chất nó, văn hoá mang thuộc tính một động lưc phát triển và mang ý nghĩa của sự hoàn hảo, không ngừng vươn tới sự hoàn hảo. Bản chất văn hoá gắn liền với bản chất con người. Dưới tác động của văn hoá, đặc biệt là văn hoá đạo đức và văn hoá thẩm mỹ, con người có thể nảy nở khát vọng, nhu cầu trở nên tốt đẹp, cái mà từ lâu, Mác gọi là sự nãy nở nhân tính, làm cho hoàn cảnh có tính người ngày càng nhiều hơn. Giữa con người và văn hoá có quan hệ mật thiết với nhau. Khi nói văn hoá hay nói con người, chỉ là những phạm trù tách ra để nhận thức, chúng là những đối tượng được khu biệt trong nhận thức. Nhưng trong tính hiện thực bản thể của chúng, văn hoá và con người luôn gắn liền với nhau, biểu hiện lẫn nhau. Không có con người và hoạt động người thì không có văn hoá. Bởi không có một giá trị, một sản phẩm văn hoá nào ra đời nếu không có bàn tay và khối óc của con người tạo nên. Ngược lại không có văn hoá con người sẽ không thể tồn tại như một sinh thể xã hội. Trong đời thường, từ văn hoá dùng để đánh giá, chỉ phẩm chất ưu việt của một con người, một hiện tượng hay một sự vật nào đó. Chẳng hạn khi nói anh ấy cư xử rất văn hoá (nghĩa là có lễ độ, đúng phép lịch sự) hoặc buổi diễn thuyết hôm nay rất văn hoá (nghĩa là ý tưởng dồi dào, diễn đạt lưu loát, được đa số tán thưởng). Đã có nhiều cách giải thích từ “Văn hoá”. Tuy diễn đạt khác nhau, nhưng có một số điểm chung mà mọi người đều thừa nhận rằng: “Văn hoá” là phương thức tồn tại đặc hữu của loài người, khác cơ bản với tổ chức đời sống các quần thể sinh vật trên trái đất. Nó là cái do con người học được mà có, chứ không phải là cái bẩm sinh do di truyền. Bàn về văn hoá, Viện sĩ người Pháp Teihard de Chardin có đưa ra một nhận định, đại ý nói rằng: Trái đất hình thành và phát triển đến một lúc nào đó thì xuất hiện sự sống, ông gọi đó là sinh quyển (Bisophere). Tiếp đó là sự ra đời của tri quyển (Noosphere) gắn với sự xuất hiện của người khôn ngoan hiện đại (Hômo - Sapiens). Trí quyển là quyển về ý thức, về tinh thần do con người tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn. Đó chính là văn hoá, biểu hiện như là “ Thế giới nhân tạo” của con người. Để giải thích từ “Văn hoá”, các nhà văn hoá học phương Tây ngày nay thường chia ra làm hai trường hợp: Một là, từ “Văn hoá “ viết hoa, số ít (LaCulture) được chỉ định là một thuộc tính chỉ có ở loài người. Nó là cái dùng để phân biệt giữa loài người và loài vật. Đó là khả năng tư duy, học hỏi thích ứng và sáng tạo ra những quan niệm, biểu tượng, giá trị, làm cơ sở cho hệ thống ứng xử, để loài người có thể tồn tại và phát triển. Hai là, từ “Văn hoá” không viết hoa, số nhiều (LesCultures) chỉ những nền, “kiểu” văn hoá khác nhau, tức là lối sống của các thể cộng đồng, biểu hiện trong những quan niệm về giá trị, trong hệ thống các hành vi ứng xử, mà các cộng đồng người ấy học hỏi được và sáng tạo ra trong hoạt động sống của họ. Đó còn là những truyền thống của cộng đồng, hình thành nên trong các điều kiện xã hội - lịch sử nhất định. Quan niệm về văn hoá trên đây tương đối phù hợp với định nghĩa văn hoá do nguyên Tổng giám đốc UNESCO Fderico Mayord đưa ra, nhân dịp phát động “ Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá” (1988- 1997). Ông viết “Văn hoá là tổng thể sống động các họat động sáng tạo(của các cá nhân và cộng đồng) trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.” Xuất phát từ quan niệm trên, các nhà xã hội học chia văn hoá thành hai hình thái: văn hoá cá nhân và văn hoá cộng đồng. Văn hoá cá nhân là toàn bộ vốn tri thức, kinh nghiệm tích luỹ vào mỗi các nhân, biểu hiện ở hệ thống quan niệm và hành xử của các nhân ấy trong đời sống thực tiễn. Văn hoá cộng đồng là văn hoá của một nhóm xã hội, nó không phải là số cộng giản đơn của những văn hoá cá nhân - thành viên trong cộng đồng cộng lại. Văn hoá cộng đồng là toàn bộ tri thức, kinh nghiệm, giá trị, phương thức ứng xữ…mà cả cộng động cùng chia sẽ và chấp nhập, đã trở thành truyền thống của cộng đồng ấy. Định nghĩa văn hoá của E Mayor vừa nêu trên chính là nói về nội dung và đặc điểm của Văn hoá công đồng. ở Việt Nam, việc nghiên cứu văn hoá với tư cách là một khoa học xã hội ra đời rất muộn. Nhưng những nhận định, quan niệm về văn hoá thì có từ rất sớm, gắn với những tên tuổi các học giả như Lê Quý Đôn (1773), Phan Kế Bính (1915), Đào Duy Anh (1938), Nguyễn Văn Huyên (1944)… Nhìn chung, các công trình của các ông được các nhà văn hoá hiện nay đánh giá là viết theo hướng lịch sử văn hoá, mang tính chất miêu tả là chủ yếu, nhưng rất công phu và tỷ mỷ. Giữa thế kỷ 20 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan niệm về văn hoá mà đến nay người ta cho vẵn còn nguyên giá giá trị: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hoá nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Hiện nay, đất nước ta ngày càng đổi mới. Đảng và Nhà nước ta thực sự quan tâm đến các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, đặc biệt là đầu tư cho lĩnh vực nghiên cứu về văn hoá, giáo dục. Bởi vậy, những công trình nghiên cứu văn hoá ngày càng nhiều và mang lại hiệu quả thiết thực, phục vụ đắc lực cho công cuộc kiến thiến đất nước, nâng cao mức sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Những công trình nghiên cứu về văn hoá ấy đã giúp cho chúng ta nhận thức một cách đầy đủ hơn về văn hoá, văn minh thế giới cũng như nhận thức một cách sâu sắc hơn về văn hoá dân tộc Việt Nam. Ví dụ như công trình nghiên cứu của GS-TS Hoàng Vinh đã tóm lược và giới thiệu 12 nhóm định nghĩa về văn hoá, từ đó giúp chúng ta nhận biết về các khái niệm văn hoá một cách đầy đủ hơn sâu sắc hơn và toàn diện hơn. 12 nhóm định nghĩa bao gồm: (1) Định nghĩa mang tính chất miêu tả, tiêu biểu cho nhóm định nghĩa này là Edward Burnet Tylor; (2) Định nghĩa manh tính chất lịch sử, nhấn mạnh vào sự kế thừa di sản xã hội; (3) Định nghĩa nhấn mạnh vào nếp sống xã hội; (4) Định nghĩa nhấn mạnh vào sự thích ứng của con người với môi trường tự nhiên; (5) Định nghĩa nhấn mạnh vào tính chất di truyền xã hội, tức khả năng học tập của con người; (6) Định nghĩa nhấn mạnh vào phương thức ứng xữ; (7) Định nghĩa nhấn mạnh vào khía cạnh tư tưởng của văn hoá; (8) Định nghĩa nhấn mạnh vào phương diện giá trị của văn hoá; (9) Định nghĩa nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo trong lịch sử, nhằm hình thành nên hệ thống giá trị xã hội; (10) định nghĩa nhấn mạnh vào mô hình các thể chế xã hội; (11) Định nghĩa nhấn mạnh vào ý nghĩa biểu trưng của văn hoá; (12) Định nghĩa mang tính chất điều khiển học [52, tr.33 - 37]. Từ sự phân tích ở trên, đã giúp chúng ta có cơ sở khoa học tiếp cận những vấn đề mới, đó là VHDN, văn hoá kinh doanh, văn hoá kinh tế… tất cả đấy là những dạng, kiểu của văn hoá, mang đầy đủ trong nó những đặc điểm, đặc trưng, thuộc tính của văn hoá tổ chức cộng đồng. 1.1.2. Khái niệm “Văn hóa doanh nghiệp” Khái niệm VHDN được cấu tạo bởi bởi hai khái niệm văn hoá và doanh nghiệp. Để hiểu rõ nội hàm khái niệm VHDN, trước hết ta cần làm rõ khái niệm doanh nghiệp. 1.1.2.1. Khái niệm về “Doanh nghiệp” Theo đại Từ điển tiếng Việt, doanh nghiệp là: “tổ chức hoạt động kinh doanh của những chủ sở hữu có tư cách pháp nhân, nhằm mục đích kiếm lời ở một hoặc nhiều ngành". Như vậy, thuật ngữ “ doanh nghiệp” mang hai nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng: Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ sở, có chức năng sản xuất - kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, một cách hợp pháp theo nhu cầu của thị trường, nhằm đạt lợi nhuận hoặc hiệu quả kinh tế tối đa. Nghĩa là, doanh nghiệp bao gồm tất cả các cơ sở sản xuất - kinh doanh, từ các Tổng Công ty, các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia… đến các hộ gia đình kinh doanh cá thể nhỏ lẻ. Theo nghĩa hẹp: Doanh nghiệp chỉ bao gồm các cơ sở thuộc khu vực chính thức, có đăng ký tư cách pháp nhân theo các Luật Doanh nghiệp và kinh doanh hiện hành. Theo Khoản 1, Điều 3 Luật Doanh nghiệp đã đưa ra khái niệm doanh nghiệp như sau; “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở, giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. ở Việt Nam chúng ta hiện nay, tuỳ theo đặc điểm về hình thức sở hữu, về lĩnh vực sản xuất, về quy mô tổ chức sản xuất, người ta có thể phân ra các loại hình doanh nghiệp theo hình thức sở hữu như sau: Doanh nghiệp nhà nước: Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hửu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức Công ty Nhà nước, Công ty Cổ phần, Công ty Trách nhiệm hữu hạn. Doanh nghiệp nhà nước được tổ chức theo những loại hình sau: Công ty nhà nước, là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp nhà nước. Công ty nhà nước có hai loại: Công ty Nhà nước độc lập và Tổng Công ty Nhà nước. Công ty Cổ phần nhà nước là Công ty Cổ phần, mà toàn bộ cổ đông là các công ty Nhà nước hoặc tổ chức được Nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Công ty Trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên là Công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, được tổ chức quản lý và đăng ký hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Công ty Trách nhiệm hữu hạn nhà nước có hai thành viên trở lên là Công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó có tất cả các thành viên đều là Công ty Nhà nước hoặc có thành viên là Công ty Nhà nước và thành viên khác là tổ chức được Nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước là doanh nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ. Nhà nước giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó. Doanh nghiệp có một phần vốn Nhà nước là doanh nghiệp mà phần vốn góp của Nhà nước trong vốn điều lệ chiếm từ 50% trở xuống. Công ty Nhà nước giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác là Công ty sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp khác, giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó. Công ty Nhà nước độc lập là Công ty Nhà nước không thuộc cơ cấu tổ chức của Tổng công ty Nhà nước. Vốn điều lệ của Công ty Nhà nước là số vốn Nhà nước đầu tư vào Công ty và ghi tại Điều lệ Công ty. 1.1.2.2. Quy mô và cơ cấu của doanh nghiệp Trong những năm đổi mới, trong chiến lược phát triển kinh tế của Đảng ta, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy thế mạnh và khai thác mọi tiềm năng, nguồn lực của đất nước. Đặc biệt Nhà nước ban hành các luật về đăng ký kinh doanh như; Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật đầu tư nước ngoài, Luật Doanh nghiệp làm hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng trở nên sôi động và có hiệu quả. Số lượng doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế của đất nước ngày càng tăng nhanh. Nếu tính từ năm 2000 tổng số doanh nghiệp là 42.288 đơn vị thì đến năm 2003 tổng số doanh nghiệp lên tới 62.908 đơn vị. - Xét theo quy mô lao động Qua kết quả điều tra của Tổng cục thông kê, các doanh nghiệp Việt Nam xét theo quy mô lao động phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tại thời điểm năm 2002, doanh nghiệp có số lao động từ 1000 CNLĐ trở lên chiếm tỷ trọng rất nhỏ (1,08%) trong tổng số các doanh nghiệp hiện có. Ngược lại, doanh nghiệp có số lao động nhỏ chiếm tỷ trọng khá lớn cụ thể như sau: Doanh nghiệp - có từ 5 đến 9 lao động chiếm 28,3% trong tổng số 62.9 doanh nghiệp Doanh nghiệp có 10 đến 49 lao động chiếm 32,94% Doanh nghiệp có 50 đến 199 lao động chiếm 11,99% Doanh nghiệp có 200 đến 299 lao động chiếm 2,15 % Như vậy, số doanh nghiệp có quy mô lao động vừa và nhỏ hiện nay ở Việt Nam vẫn chiếm phần lớn trong tổng số doanh nghiệp, điều đó phản ánh nguồn vốn, công nghệ, trình độ quản lý của doanh nghiệp chưa cao. Nhưng với việc phát triển các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ đã giải quyết một phần rất lớn lao động cho xã hội và đóng góp vào nền kinh tế quốc dân một phần ngân sách không nhỏ. - Xét theo quy mô vốn Tại thời điểm 31/12/2002 tổng số vốn doanh nghiệp là 1.441 nghìn tỷ đồng, số vốn này gấp 7 lần tại thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 1995 và gấp 1,3 lần cùng thời điểm năm 2000. Từ số liệu trên chúng ta thấy, lượng vốn đầu tư vào phát triển sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng tăng lên, góp phần mở rộng quy mô sản xuất, thay đổi dây chuyền công nghệ, tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội. Trong tổng số vốn của doanh nghiệp hiện có, doanh nghiệp nhà nước, (DNNN) chiếm 62,1% tổng số vốn doanh nghiệp (895 nghìn tỷ đồng), doanh nghiệp ngoài quốc doanh, (DNNQD) chiếm 16,5% (237 nghìn tỷ đồng) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) chiếm 21,4% (308 nghìn tỷ đồng). Hiện tại và trong thời gian tiếp theo, vốn của doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn của doanh nghiệp nói chung. Mặc dù đã có chủ trương chuyển đổi cơ cấu, sắp xếp, tổ chức lại và đổi mới phương thức quản lý, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là thực hiện cổ phần hoá DNNN. Đến năm 2005 Chính phủ quy định sẽ có 40% số lượng DNNN sẽ được cổ phần hoá, nhưng vốn của các doanh nghiệp này chỉ chiếm 16% trong tổng nguồn vốn của DNNN. Vì vậy, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn về vốn. Bảng 1.1: Doanh nghiệp phân theo quy mô vốn Đơn vị: Doanh nghiệp Doanh nghiệp 2000 2001 2002 Tổng số doanh nghiệp 42288 51680 62908 Doanh nghiệp có dưới 0,5 tỷ đồng 16267 18326 18591 doanh nghiệp có từ 0,5 đến dưới 1 tỷ đồng 6534 8403 10994 doanh nghiệp có từ 1 đến dưới 5 tỷ đồng 10759 14556 20141 doanh nghiệp có từ 5 đến dưới 10 tỷ đồng 2745 3385 4490 doanh nghiệp có từ 10 đến dưới 50 tỷ đồng 3957 4623 5711 doanh nghiệp có từ 50 đến dưới 200 tỷ đồng 1515 1781 2160 doanh nghiệp có từ 200 đến 500 tỷ đồng 312 383 501 doanh nghiệp có từ 500 tỷ đồng trở lên 199 223 260 Nguồn: Tổng cục Thống kê (2004). Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001, 2002, 2003 [tr.59]. Từ số liệu trên, có thể nói rằng các loại hình doanh nghiệp có quy mô, vốn, đặc điểm, cơ chế hoạt động khác nhau. 1.1.2.3. Các quan niệm văn hóa doanh nghiệp Như chúng ta đã biết, doanh nghiệp tồn tại là để sản xuất của cải vật chất, kinh doanh và phục vụ nhu cầu của xã hội. Những hoạt động sản xuất này được thể hiện trên một dây chuyền công nghệ nhất định. Để vận hành tất cả các khâu của dây chuyền này, trong doanh nghiệp có hệ thống hành chính hoặc hệ thống quản lý mà trong đó mọi người đều phải thực hiện các chức năng của mình hoặc là lãnh đạo cấp trên hoặc là nhân viên cấp dưới. Hoạt động của doanh nghiệp chỉ thực hiện được trên cơ sở có kỹ thuật công nghệ và có kỷ cương gắn với các cấp độ quản lý. Hoạt động trong các doanh nghiệp, các tổ chức là những con người. Điều này có nghĩa là trong hoạt động của mình, họ tuân theo những quy định cụ thể nào đó và thực hiện những nghi thức nhất định… Theo ý nghĩa này, mỗi doanh nghiệp là một cộng đồng xã hội hoặc một không gian văn hoá cụ thể. Mỗi doanh nghiệp được thành lập để thực hiện mục đích do nhà kinh doanh đặt ra. Phương thức thực hiện mục đích kinh doanh trong doanh nghiệp đã tạo cho doanh nghiệp một sắc thái riêng, một màu sắc riêng, một vị thế riêng. Xét từ góc độ ấy, chúng ta có thể xác định VHDN như một hệ thống đặc thù, đặc trưng cho tổ chức đó, một hệ thống các mối liên hệ, các hành động, các tác động qua lại và các mối quan hệ được thực hiện trong khuôn khổ một hoạt động kinh doanh cụ thể. Nhà xã hội học người Mỹ E.N.Schein cho rằng: Văn hóa doanh nghiệp hoặc Văn hoá tổ chức là tổng thể những thủ pháp và quy tắc giải quyết vấn đề thích ứng bên ngoài và thích ứng bên trong các nhân viên, những quy tắc đã tỏ ra hữu hiệu trong quá khứ và vẫn cấp thiết trong hiện tại. Những quy tắc và những thủ pháp này là yếu tố khởi nguồn trong việc các nhân viên lựa chọn phương thức hành động, phân tích và ra quyết định thích hợp. Các thành viên của tổ chức không đắn đo suy nghĩ về ý nghĩa của những quy tắc và thủ pháp ấy, mà coi chúng là đúng đắn ngay từ đầu [1, tr.150]. Còn nhà xã hội học Pháp N.Đemetr cho rằng: Văn hóa doanh nghiệp đó là hệ thống quan niệm, những biểu tượng, những giá trị và mẫu hành vi được tất cả các thành viên chia sẻ. Điều đó có nghĩa là trong doanh nghiệp, tất cả các thành viên đó đều gắn bó vơí nhau bởi quan điểm chung về những vấn đề như doanh nghiệp đó là gì, vai trò kinh tế và xã hội của nó như thế nào, nó chiếm vị trí ra sao đối với những doanh nghiệp cạnh tranh với nó, những nghĩa vụ của nó đối với khách hàng là gì…Chức năng văn hoá tổ chức là tạo ra cảm giác thống nhất của mọi thành viên, tạo ra hình ảnh cái “chúng tôi” tập thể [1, tr.151]. ở Việt Nam theo tiến sĩ Đỗ Minh Cương trong cuốn sách: "Văn hoá và triết lý kinh doanh" Xuất bản năm 2000, Ông đã đưa ra một khái niệm VHDN như sau: “Văn hoá kinh doanh là việc sử dung các nhân tố văn hoá vào trong hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hoá mà các chủ thể tạo ra trong quá trình kinh doanh, hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của nó.” Còn theo tiến sĩ Lê Đăng Doanh chuyên gia cao cấp của Ban sắp xếp doanh nghiệp Chính phủ thì cho rằng "Văn hóa doanh nghiệp (Văn hoá trong kinh doanh) trước tiên là tôn trọng pháp luật, tôn trọng nhân phẩm con người, phải giữ chử tín và điều này đòi hỏi người lãnh đạo doanh nghiệp phải có một bản lĩnh đổi mới…”. Từ những quan niệm về VHDN trên chúng ta thấy VHDN bao gồm các yếu tố, thủ pháp, nguyên tắc, hệ thống quan niệm, biểu tượng, giá trị hành vi của một cộng đồng doanh nghiệp có chức năng tổ chức, thống nhất mọi thành viên của doanh nghiệp hướng tới mục tiêu chung vì sự phát triển của doanh nghiệp. Với ý nghĩa đó, chúng tôi xin hệ thống lại và đưa ra một quan niệm về VHDN như sau: Văn hóa doanh nghiệp là một dạng của Văn hoá cộng đồng, bao gồm những hệ thống triết lý, đạo lý kinh doanh, thông qua hệ thống tổ chức, công nghệ, mối quan hệ ứng xử hài hòa bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, nhằm đạt mục đích đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển. Như vậy, VHDN có tính ổn định và bền vững, bất chấp sự thay đổi thường xuyên của các cá nhân kể cả những người sáng lập và lãnh đạo doanh nghiệp. Nó tác động sâu sắc tới động cơ hành động của doanh nghiệp, tạo thành định hướng có tính chất chiến lược cho bản thân doanh nghiệp. VHDN luôn đóng vai trò như một lực lượng hướng dẫn, như một sức mạnh cố hữu trong doanh nghiệp là ý chí thống nhất toàn thể lãnh đạo và nhân viên của doanh nghiệp. Văn hoá càng mạnh và càng giữ vai trò định hướng hoạt động của doanh nghiệp mạnh bao nhiêu, thì doanh nghiệp càng ít chỉ thị, mệnh lệnh, càng giảm bớt bộ máy tổ chức và những điều lệnh bấy nhiêu. Một VHDN mạnh sẽ tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp. 1.1.3. Cơ cấu của Văn hóa doanh nghiệp Có thể nói rằng, hiện tại ở Việt Nam chúng ta có khá nhiều quan niệm, khái niệm về VHDN. ở mỗi người nghiên cứu, ở từng góc độ khác nhau lại có một khái niệm và một cơ cấu văn hoá tương ứng. ở đây chúng tôi nghiên cứu cơ cấu VHDN là dựa vào những thành tố cấu thành của VHDN đã được nêu ở trên. Vậy, cơ cấu VHDN được bao gồm các thành tố sau: 1.1.3.1. Đạo lý, triết lý kinh doanh Việc đưa “đạo đức” vào hoạt động kinh doanh không phải là điều mới mẻ. Về phương diện lịch sử, các nhà doanh nghiệp Mỹ là những người đầu tiên quan tâm đến đạo đức. Ngay từ năm 1913, doanh nghiệp Penny Company đã có một “Bộ luật” về đạo đức. Các tín đồ giáo phái Quây-cơ là những người đầu tiên thực hiện đầu tư theo tiêu chuẩn đạo đức bằng cách khước từ đầu tư vào các doanh nghiệp sản xuất vũ khí và thuốc lá. Xu hướng này đã lan rộng ra toàn xã hội trong những năm 50, các Hiến chương về đạo đức liên tiếp được đưa ra. Các ấn phẩm văn hoá về đạo đức ngày càng phong phú, đã có nhiều Tạp chí đề cập đến lĩnh vực này như: “Nhật báo về đạo đức trong kinh doanh, Nhật báo về đạo đức trong kinh doanh và nghề nghiệp”. Ngay từ lúc mới thành lập, Trường Đại học Harvard đã đưa vào giảng dạy môn “ Luân lý trong thương mại”. Nội dung chính của môn học này nhằm giải quyết những vấn đề nan giải về luân lý mà các nhà quản lý thường gặp. Tại thị trường chứng khoán New york, các tín đồ Dòng Tên đã mở một trung tâm nghiên cứu về luân lý phục vụ các chủ ngân hàng và các nhà lãnh đạo Cơ đốc giáo. Business ethics là lý thuyết cơ bản về đạo đức kinh doanh ở Hoa Kỳ. Lý thuyết này bắt nguồn từ một lôgích thực dụng, kết hợp luân lý, pháp luật và khế ước. ở Pháp, đạo đức trong kinh doanh trở thành đối tượng nghiên cứu ở nhiều Hiệp hội, nhiều học giả từ những năm 60. Cũng chính trong những năm đó, Trung tâm giới chủ Cơ đốc giáo của Pháp (CFPC), Hiệp hội cán bộ lãnh đạo (AcaDi) đã cho xuất bản nhiều ấn phẩm, tổ chức nhiều Hội thảo về chủ đề này. O. Geliner (1991), Chủ tịch danh dự của Cegos, là người đầu tiên đã xuất bản một cuốn sách về đạo đức trong kinh doanh với tựa đề: "Đạo đức trong kinh doanh, chú ý kẻo chệch hướng”. Sau khi cuốn sách ra đời đã được độc giả và các nhà quản lý doanh nghiệp đón nhận nhiệt liệt [31, tr.30]. Như vậy, một điều khẳng định rằng các doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến các quy luật kinh tế mà phải quan tâm đến phạm trù đạo đức trong kinh doanh. Căn cứ vào các quan niệm chung về thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, nghĩa vụ và danh dự… có tính bền vững và truyền thống mà dư luận xã hội (khách hàng) sẽ đánh giá hành vi và phẩm giá của các nhà kinh doanh thông qua sự thôi thúc của lương tâm và sự kiểm soát, bình giá của dư luận xã hội. Đạo đức kinh doanh đòi hỏi việc kinh doanh phải thực hiện đúng đạo lý dân tộc và phù hợp với các quy chuẩn về cái thiện, cái tốt và cái đẹp. Sở dĩ nghề kinh doanh cần coi trọng tiêu chuẩn đạo đức vì sản phẩm và dịch vụ mà nhà kinh doanh bán ra thị trường liên quan trực tiếp tới sức khoẻ và đời sống của mọi người. Khách hàng thường không thể tự kiểm tra mọi thông tin về chất lượng, tính năng, tác động về sản phẩm mà nhà kinh doanh đã công bố, quảng cáo, tức là khách hàng hoàn toàn tin vào tính trung thực của của nhà kinh doanh. Nếu những thông tin này thiếu trung thực hoặc bị cắt xén, cố ý gian dối để vụ lợi cá nhân, thì hậu quả mà nhà kinh doanh gây ra cho khách hàng và xã hội rất tại hại và khôn lường. Có thể quan niệm rằng: Đạo đức kinh doanh là một loại hình đạo đức, có tác động và chi phối hành vi của các chủ thể hoạt động kinh doanh, nhằm mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao cho doanh nghiệp. Từ sự phân tích ở trên, chúng tôi có thể khái quát một số tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức trong kinh doanh như sau: Một là, tính trung thực: Thể hiện trong sự nhất quán giữa nói và làm, tức là danh và thực. Không được dùng những thủ đoạn lừa dối, xảo trá để kiếm tiền, không được quảng cáo sai sự thật. Thật sự coi trọng tính công bằng, chính đáng và đạo lý trong sáng trong kinh doanh. Hai là, tôn trọng khách hàng: Coi trọng những nhu cầu, sở thích và tâm lý của khách hàng. Tôn trọng và đánh giá cao những sáng tạo, đóng góp của nhân viên trong doanh nghiệp. Coi trọng chữ tín trong giao tiếp, buôn bán và hoạt động kinh doanh. Ba là, luôn vươn tới sự hoàn hảo: Không ngừng tu dưỡng bản thân, luôn luôn lắng nghe ý kiến khách hàng, luôn nỗ lực vươn lên, không cho phép tự thoả mãn với những gì mình đã đạt được. Phải có hoài bảo lớn, không chịu khuất phục trước thách thức, quyết tâm vươn lên để thành đạt trong kinh doanh. Bốn là, phải biết đương đầu với thử thách: Không ngại khó khăn gian khổ, biết lường trước những tình huống có thể xảy ra mà nghề kinh doanh thường gặp phải. Năm là, coi trọng hiệu quả gắn liền với trách nhiệm xã hội, hiệu quả kinh tế là thước đo thành công, thành đạt trong kinh doanh. Muốn tiếp tục phát triển, doanh nghiệp không những nâng cao hiệu quả, hiệu suất trong hoạt động kinh doanh mà còn phải làm tốt công tác xã hội, gắn trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội. Còn một yếu tố quan trọng trong hệ thống tổ chức - công nghệ để từ đó hình thành VHDN, đó là vấn đề ứng xử với môi trường xã hội và môi trường tự nhiên. ứng xử hài hoà với tự nhiên, bảo vệ môi trường tự nhiên là nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam. Nhưng hiện nay trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh nghiệt ngã, nhiều doanh nghiệp vì mục đích lợi nhuận đã không quan tâm đến sự bảo vệ mội trường tự nhiên. Nạn phá rừng khắp cả nước, những bải rác thải để không đúng chổ trong các thành phố lớn, đã dẫn đến sự ô nhiễm không khí, lụt lội tàn phá mùa màng, những trận sạt lở đất ở Hà giang, Quảng Ninh, Yên Bái gần đây nhất, đã làm hàng chục người thiệt mạng. Qua đây chúng ta thấy rằng, một trong những thành tố để xây dựng VHDN đó là bảo vệ mội trường quan trọng biết nhường nào. 1.1.3.2. Hệ thống tổ chức - công nghệ Tổ chức là bố trí, sắp xếp công việc làm sao cho thật hợp lý để đạt hiệu quả cao nhất. Ví dụ bố trí sắp xếp cán bộ trong cơ quan, doanh nghiệp, đặt mọi người thật đúng vị trí công việc để ai cũng có thể phát huy hết năng lực, trí tuệ của mình, góp phần xây dựng cơ quan, doanh nghiệp ngày càng phát triển. Như vậy, việc bố trí sắp xếp cán bộ cũng như sắp xếp các dây chuyền sản sản xuất công nghệ trong doanh nghiệp là một yếu tố thực sự quan trọng, nó góp phần quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Công nghệ là một tập hợp bao gồm các quy trình, phương pháp, kỹ năng, bí quyết, phương tiện, công cụ, con người để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm phục vụ xã hội và mang về lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nó được thể hiện bằng những yếu tố cơ bản sau: Con người - bao gồm kiến thức chuyên môn cơ bản, kỹ năng, kỹ xảo, trình độ tay nghề, kinh nghiệm, thói quen nghề nghiệp. Công cụ - bao gồm máy móc, trang thiết bị, nhà xưởng, khí cụ, đường sá, giao thông, bến bãi… Thông tin - bao gồm quy trình, phương pháp, dữ liệu, thiết kế và các bí quyết nghề nghiệp. Như vậy, tổ chức - công nghệ là một thành tố vô cùng quan trọng của VHDN, nó sẽ quyết định sự thành công hay thất bại trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như đã phân tích ở trên, kinh nghiệm trong việc tổ chức, sắp xếp, quản lý nguồn nhân lực là một yếu tố tổ chức - công nghệ của VHDN. Sắp xếp như thế nào cho hợp lý, quản lý như thế nào cho tốt, để mọi thành viên trong doanh nghiệp đều có thể cống hiến hết mình, phát huy mọi năng lực, trí tuệ, kỹ năng, kỹ xão, kinh nghiệm thực tiễn của mỗi các nhân, tất cả đều hướng đến một mục tiêu là doanh nghiệp phát triển. Làm được như vậy gọi là kỹ năng quản lý, và như vậy đã vận dụng thành công các yếu tố của văn hoá vào sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong quá trình vận hành của doanh nghiệp còn phải thực hiện những nguyên tắc, những quy định, những chuẩn mực về cách ứng xử cũng là một trong những yếu tố của hệ thống tổ chức- công nghệ. Hệ thống này sẽ giúp doanh nghiệp vận hành có trật tự, quy cũ, nền nếp và tất nhiên sẽ làm cho doanh nghiệp hoạt động ngày càng có hiệu quả. Bởi vì những chuẩn mực ấy, những nguyên tắc ấy, những quy định ấy vừa là ý thức, nhưng vừa là trách nhiệm tạo động lực thúc đẩy, động viên các thành viên trong doanh nghiệp hướng tới mục tiêu cao cả vì sự phát triển, phồn thịnh của doanh nghiệp, vì lợi ích của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội. Bên cạnh đó, ngoài những quy tắc, quy định mà doanh nghiệp đề ra để quản lý đơn vị, doanh nghiệp còn phải chịu trách nhiệm trước một số quy định của cộng đồng. ở Việt Nam chúng ta nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng, có nhiều doanh nghiệp đang phấn đấu thực hiện các phương thức quản lý tiên tiến như: ISO 9000, ISO 9002, ISO 14.000, và tiêu chuẩn SA 8000. Theo như các chuyên gia nghiên cứu của Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế TW, SA 8000 là một hệ thống tiêu chuẩn quy định về điều kiện làm việc của người lao động, được xem như một giải pháp khẳng định về giá trị đạo đức của sản phẩm. Cụ thể nó quy định rõ về trách nhiệm xã hội, liên quan đến lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, sức khoẻ của người lao động, môi trường sản xuất, tính phân biệt đối xử và kỷ luật về giờ giấc lao động vv…Tóm lai tạo môi trường lao động tốt, có kỷ luật, nhưng phải đảm bảo yếu tố nhân đạo trong quản lý lao động. Còn ISO 9000 và ISO 9002 quy định về chất lượng sản phẩm, còn ISO 14.000 là quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường tự nhiên… Như vậy, với ý nghĩa hệ thống tổ chức - công nghệ như là một yếu tố quan trọng tác động tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thì máy móc, dây chuyền sản xuất hiện đại, cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ, sẽ tạo ra một môi trường sản xuất, kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng suất lao động, sản phẩm đạt chất lượng cao. Tuy nhiên trong thực tế nhiều người chưa hiểu, họ cho rằng đấy là yếu tố đơn thuần về vật chất, không liên quan gì đến VHDN. Song ở đây, chúng ta xét những yếu tố đó với tư cách là một trong những yếu tố cơ bản thuộc VHDN. Bởi vì, đây là sự kết tinh của tri thức, là trình độ, là nghệ thuật vận hành dây chuyền sản xuất, là tay nghề, kinh nghiệm, kỹ thuật, kỹ năng, kỷ xão trong lĩnh vực sử dụng máy móc và các thiết bị khoa học công nghệ dãn đến chất lượng sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp. Yếu tố tổ chức - công nghệ trong VHDN còn bao gồm các yếu tố như: Marketing, quảng cáo. Đây là con đường ngắn nhất để đưa sản phẩm của doanh nghiệp đến với người tiêu dùng đồng thời tìm kiếm đối tác trong làm ăn. Nhưng quảng cáo như thế nào đây để vừa hấp dẫn, mang đậm yếu tố văn hoá là một điều hơi khó đối với các doanh nghiệp. Hiện nay trên đường phố Hà nội có nhiều biển quảng cáo loè loẹt, thiếu văn hoá mà báo chí, Đài truyền hình nhắc đến nhiều. Trong Marketing và quảng cáo nếu thiếu đi yếu tố văn hoá thì không những không có hiệu quả mà còn bị phản tác dụng. Do vậy, doanh nghiệp muốn cho khách hàng hiểu được sản phẩm của mình thông qua quảng cáo, Marketing nhất thiết không thể thiếu được yếu tố văn hoá trong quá trình thực hiện và sản xuất. 1.1.3.3. Hệ thống biểu hiện, thương hiệu doanh nghiệp Hệ thống biểu hiện, thương hiệu trong VHDN giống như “ bộ mặt” của chính doanh nghiệp. Những biểu hiện ấy bao gồm: lôgô, huy hiệu, thương hiệu, trang phục, biểu tượng, lễ hội, nghi thức, tiếp khách, biểu diễn văn nghệ… Tất cả các thứ đó không phải là những cái ngẫu nhiên, sẵn có mà doanh nghiệp phải trải qua một quá trình dài tìm tòi, lựa chọn, sáng tạo, làm sao cho các biểu tượng ấy phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của doanh nghiệp và phải mang bản sắc riêng của doanh nghiệp mình. Ví dụ khi vào một Công ty người ta nhìn vào đồng phục của những nhân viên đang mặc, người ta biết ngay đó là doanh nghiệp nào. Quan trọng nhất trong hệ thống này là thương hiệu của doanh nghiệp. Vậy thương hiệu là gì? Trong cuốn sách “ Xây dựng thương hiệu mạnh và thành công” Nhà xuất bản Thống kê (9/2004) của nhà nghiên cứu người Mỹ JAMES R.GREGORY, sau 13 năm nghiên cứu, sau khi khảo sát 10.000 doanh nghiệp của 40 ngành công nghiệp ở Mỹ, ông đã đưa ra khái niệm về thương hiệu như sau: “Thương hiệu là một tài sản Doanh nghiệp, có thể - và phải - được quản lý qua thời gian giống như một tài sản doanh nghiệp khác” [31, tr.12]. Đây là tài sản được kết tinh các yếu tố vật chất và tinh thần của doanh nghiệp, được cả cộng đồng xây đắp và chi sẻ, giữ gìn và trao truyền từ thế này sang thế hệ khác tạo nên. Như vậy, thương hiệu là tài sản của doanh nghiệp, đã là tài sản, tất yếu thương hiệu sẽ mang về các lợi ích cho doanh nghiệp. Trước tiên nó làm cho việc tiếp thị của doanh nghiệp có hiệu quả hơn. Nó có thể làm chậm hoặc ngưng sự xói mòn của thị phần. Nó giúp doanh nghiệp dễ dàng tuyển mộ nhân lực có tài năng hơn, đồng thời nó tăng sức lôi cuốn của doanh nghiệp đối với các thị trường nhà đầu tư và tài chính. Chúng ta có thể thấy thương hiệu sẽ mang về các lợi cho Công ty có thương hiệu mạnh: 1. Dẫn đến các kết quả kinh doanh tốt hơn: doanh thu, tiền lời và luồng tiền mặt. 2. Dẫn đến nguồn tài chính tốt hơn. 3. Có thể hưởng một giá cao hơn mức bình thường. 4. Xây dựng được lòng trung thành của khách hàng. 5. Tạo cho tiếp thị hiệu quả hơn. 6. Tạo sự phân biệt giữa các nhà cạnh tranh. 7. Giúp Công ty tuyển dụng và giữ được người tài năng hơn. 8. Có thể đứng vững và vượt qua các cuộc khủng hoảng dễ dàng hơn. 9. Làm chậm hay ngăn chặn sự xói mòn của thị phần. 10. Giảm thiểu các trận chiến sống còn của Công ty, do mọi người đang làm việc trên các mục tiêu chung. 11. Lôi cuốn các thị trường nhà đầu tư và tài chính. 12. Giúp định hình các quyết định phức tạp của những nhà điều tiết [31, tr.32]. Hiện nay ở Việt Nam các công ty đang từng bước xây dựng thương hiệu của mình. Như Công ty May 10, Công ty giày Thượng Đình ở Hà Nội, Công ty Tàu biển Nam Triệu ở Hải phòng, Hãng Hàng không Việt Nam Airlines Công ty Chiếu sáng và thiết bị đô thị Hà Nội…Tuy nhiên điều quan trọng khi mỗi doanh nghiệp xây dựng cho mình một thương hiệu mang bản sắc riêng thì phải đăng ký quyền bảo hộ thương hiệu, đồng thời phải đưa hình ảnh của doanh nghiệp đến với quần chúng rộng rãi để quảng bá cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, VHDN còn được thể hiện qua các Lễ hội truyền thống, kỷ niệm sự ra đời của Công ty hay giỗ tổ nghề hoặc giao lưu văn hoá vv… để nâng cao uy tín và vị thế của doanh nghiệp trong xã hội. 1.1.3.4. Nhân cách của nhà doanh nghiệp Trong doanh nghiệp nguồn lực con người là yếu tố quan trọng nhất, đồng thời cũng là thành tố quan trọng của VHDN. Các yếu tố như: đạo đức, tài năng, khả năng quản lý, điều hành doanh nghiệp của mỗi thành viên trong doanh nghiệp là nguồn lực cơ bản, ổn định và bền vững của doanh nghiệp. Làm thế nào để phát huy được mọi tiềm năng sẵn có ở mỗi con người, thì doanh nghiệp phải có những chiến lược định hướng cụ thể. Một trong những định hướng quan trọng là rèn luyện nhân cách của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Điều này thể hiện đến việc xây dựng môi trường nhân văn, nhân bản của Công ty. Bởi vì mọi thành viên trong doanh nghiệp sống và làm việc trong bầu không khí hoà thuận, vui tươi, đoàn kết giúp đở lẫn nhau chắc rằng hiệu suất công tác sẽ được nâng lên rõ rệt. Ngược lại, nếu nội bộ doanh nghiệp lục đục, mất đoàn kết, thiếu sự cộng tác trong quá trình tổ chức sản xuất, kinh doanh, chắc chắn không những hiệu quả lao động sẽ giảm xuống, mà uy tín của doanh nghiệp cũng bị mất đi. Mỗi một thành viên trong doanh nghiệp phải biết tự rèn luyện mình cả đức lẫn tài. Muốn doanh nghiệp ngày càng phát triển thì nhất thiết mỗi thành viên phải có tinh thần sáng tạo, cống hiến, làm việc hết khả năng của mình vì mục tiêu chung của doanh nghiệp. Tất nhiên, bên cạnh đó doanh nghiệp luôn luôn tạo mọi điều kiện cho mọi thành viên được thể hiện vai trò cá nhân của mình, được trau dồi tay nghề, nâng cao kiến thức chuyên môn, phát huy được nhiều sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nhằm đưa năng suất lao động ngày một lên cao, tạo ra những sản phẩm mới, đẹp về kiểu dáng, đa dạng về mẫu mã, chất lượng đảm bảo, làm vừa lòng khách hàng. Song, điều đặc biệt quan trọng là nhân cách của nhà quản lý, nhà điều hành doanh nghiệp, hay còn gọi là người đứng đầu của doanh nghiệp. Bởi vì họ là hạt nhân trong việc xây dựng VHDN, đồng thời là tấm gương phản ánh VHDN. Sự thành bại của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào vai trò cá nhân của người đứng đầu doanh nghiệp. Như Lênin đã thường nói” Vai trò của lãnh tụ là vai trò quyết định.” Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “ Công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay xấu”. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh cán bộ tốt ở đây là cán bộ vừa có đức vừa có tài Như vậy, nhân cách của người đúng đầu một đơn vị quan trọng biết nhường nào. ở nhiều nước trên thế giới, đã hình thành những tiêu chuẩn cơ bản dể lựa chọn người lãnh đạo doanh nghiệp. Giới quản lý Mỹ đã đưa ra 6 tiêu chuẩn đối với nhà lãnh đạo doanh nghiệp: Một là, làm việc có hiêụ quả cao, chủ động tiến thủ. Hai là, có năng lực tư duy lôgic, năng lực khái niệm hoá, năng lực phán đoán. Ba là, quan tâm, giúp đỡ, mọi người bằng hành động tích cực, khéo gây ảnh hưởng đến mọi người. Bốn là, lãnh đạo tập thể, sử dụng đúng quyền lực. Năm là, cá tính, tâm lý chín muồi, biết tự kiềm chế, khách quan, cố gắng, tự chủ. Sáu là, có tri thức phong phú. ở Nhật Bản, đối với một doanh nhân người ta đã khái quát thành 4 tiêu chuẩn: 1. Độ lượng, khoan dung. 2. Hiểu rõ nghề nghiệp, quyết đoán. 3. Dám chịu trách nhiệm. 4. Công bằng. ở Trung Quốc, người tiêu biểu trong cuộc đời mưu sinh bằng buôn bán đó là Phạm Lãi, ông đã đúc kết thành 16 nguyên tắc kinh doanh căn bản, trong đó có 5 nguyên tắc cơ bản cho mọi người chủ kinh doanh đó là: 1. Trước hết người làm ăn buôn bán phải luôn siêng năng, tích cực, năng động và nắm được mọi thời cơ. 2. Phải biết tiết kiệm, không xa hoa lãng phí. 3. Phải biết chọn người giúp việc ngay thẳng, không có tính tham lam, giữ chữ tín. 4. Phải tích cực, có tinh thần trách nhiệm, có lòng say mê kinh doanh. 5. Luôn sáng suốt, bình tỉnh trong mọi tình huống, không phiêu lưu mạo hiểm, cần lấy sự chắc chắn, an toàn làm đầu [58, tr.21]. ở Việt Nam, việc xây dựng nhân cách Văn hoá doanh nhân chưa được quan tâm nhiều, chưa đúc kết thành những tiêu chuẩn cơ bản trong kinh doanh. Nhưng rãi rác trong một số quyển sách có một vài tác giả đã đề cập đến vấn đề này. “Trong cuốn sách Văn hoá và phát triển ở Việt Nam”của Nhà xuất bản lý luận chính trị (Năm 2004), GS - TS Hoàng Vinh đã nêu ra một số yêu cầu đối với nhân cách nhà doanh nhân như sau: Một là, có tinh thần hợp tác. Có ham thích làm việc với người khác và được người khác hợp tác với mình dựa trên tinh thần tự nguyện. Hai là, có khả năng quyết đoán. mỗi khi đưa ra quyết sách phải dựa vào những dữ kiện thật, không dựa vào sức tưởng tượng chủ quan. Có kả năng nhìn xa trông rộng. Ba là, có năng lực tổ chức, nghĩa là có thể phát huy tài năng của những người dưới quyền mình, biết tổ chức tốt về nhân lực, tài lực và vật lực. Bốn là, có thái độ tin cậy khi giao nhiệm vụ cho người khác. Nắm chắc việc lớn, giao các việc nhỏ cho cấp dưới. Năm là, giám chịu trách nhiệm. Có ý thức trách nhiệm với cấp trên, cấp dưới, với khách hàng và toàn xã hội. Sáu là, ứng biến linh hoạt. Có thể thích ứng với mọi hoàn cảnh, cơ động, linh hoạt, không khư khư ôm lấy sai lầm, không cố chấp bảo thủ. Bảy là, dám đổi mới. Dám chấp nhận những rủi ro do tình hình xấu tạo ra, có ý chí và lòng tin để thay đổi tình thế, tạo ra diện mạo mới cho doanh nghiệp. Tám là, tôn trọng người khác, sẵn sàng tiếp thu ý kiến người khác, không võ đoán kiêu ngạo. Chín là, nêu gương về nếp sống đạo đức. Có phẩm chất tốt, được cộng đồng doanh nghiệp và xã hội thừa nhận. Từ những tiêu chuẩn nêu trên về đạo đức, nhân cách trong kinh doanh, chúng ta có thể khẳng định rằng, để trở thành một người chủ doanh nghiệp có đầy đủ bản lĩnh, giám làm, giám chịu trách nhiệm, dám đổi mới vì sự phát triển của doanh nghiệp, hoàn toàn không dễ một chút nào. Để đạt được điều đó người chủ doanh nghiệp phải thường xuyên rèn luyện đạo đức, tích lũy kinh nghiệm, học tập nâng cao kiến thức chuyên môn, biết láng nghe và luôn luôn trong sự tỉnh táo, biết điều chỉnh các mối quan hệ bên trong, bên ngoài, để làm lợi cho công việc kinh doanh của mình một cách trong sáng. Như vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế toàn cầu, các chủ doanh nghiệp, các doanh nhân Việt Nam cần học học hỏi được nhiều kinh nghiệm bổ ích trong công tác quản lý, điều hành doanh nghiệp làm ăn ngày có lãi, góp phần quan trọng vào sự phồn thịnh của đất nước. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn thấy VHDN được phân chia theo các mối quan hệ ứng xử trong doanh nghiệp. Nếu xem văn hoá là là sự thể hiện trình độ Người trong các quan hệ xã hội, thì VHDN được biểu hiện trong hai mối quan hệ cơ bản, đó là mối quan hệ bên trong và mối quan hệ bên ngoài. 1. Mối quan hệ bên ngoài, đó là mối quan hệ giữa chủ thể doanh nghiệp với khách thể. Trong mối quan hệ này chủ thể phải ứng xử với đối tác cạnh tranh, khách hàng tiêu dùng đối với toàn xã hội và với môi trường tự nhiên. 2. Mối quan hệ bên trong, đó là mối quan hệ giữa chủ thể doanh nghiệp với các thành viên trong doanh nghiệp, mối quan hệ giữa các thành viên với nhau, mối quan hệ giữa các thành viên lãnh đạo doanh nghiệp. Đối với mối quan hệ bên ngoài, thông qua mối ứng xữ này chúng ta có thể hiểu được bản chất cũng như nhân cách đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp. Nhân cách ấy thể hiện trong việc tương trợ giúp đở lẫn nhau, trong sản xuất kinh doanh cùng nhau tồn tại và phát triển. Hay ngược lại chèn ép nhau, cạnh tranh bằng mọi giá, cá lớn nuốt cá bé. Trên thực tế đối với các nước tư bản chủ nghĩa kinh tế thị trường là chiến trường, cạnh tranh một mất một còn. Đối với Việt Nam chúng ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau một cách lành mạnh, tôn trọng lẫn nhau và bình đẵng trước pháp luật. Trong mối quan hệ bên ngoài, doanh nghiệp cần phải giữ mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng. Cha ông ta thường nói: “ Quen mặt thì đắt hàng”. Có nghĩa rằng trong quá trình làm ăn buôn bán đã thực sự tin tưởng lẫn nhau. Những người khách đã quá hiểu chất lượng sản phẩm, giá cả cũng như phương thức thanh toán của doanh nghiệp. Do vậy, khách thường xuyên đến mua hàng một nơi. Nếu doanh nghiệp thường xuyên coi trọng khách hàng, quan tâm đến nhu cầu của khách hàng, thường xuyên thay đổi mẫu mã, thì khách hàng sẽ gắn bó mật thiết với sự đi lên của doanh nghiệp, làm cho uy tín của doanh nghiệp ngày một nâng cao trong xã hội. Mối ứng xử quan trọng nhất đối với doanh nghiệp đó là mối quan hệ bên trong của nội bộ doanh nghiệp. Trong mối quan hệ này, người chủ doanh nghiệp phải đối xử làm sao thật công bằng đối với các thành viên trong Công ty. Đồng thời phải giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa các thành viên với nhau, cũng như các thành viên trong ban quản lý doanh nghiệp. Tất các những mối quan hệ đó người chủ doanh nghiệp phải rất thông hiểu và xữ lý một cách có lý có tình. Có như vậy, tập thể những thành viên trong doanh nghiệp mới đoàn kết, thương yêu nhau, sẵn sàng phát huy mọi năng lực sẵn có để cống hiến thật nhiều cho doanh nghiệp. Bởi trong họ hình tượng người chủ doanh nghiệp luôn luôn là tấm gương sáng về đạo đức, lối sống, là lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp, luôn luôn cùng với họ để đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển. 1.2. Vai trò của văn hóa doanh nghiệp trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 1.2.1. Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế đất nước Thực tiễn đã chứng minh rằng, trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, nếu không phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã để xây dựng hậu phương vững mạnh, giải quyết hậu cần tại chổ thì không thể huy động được tổng lực của dân tộc chi viện cho tiền tuyến để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Sau khi thống nhất đất nước, nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi chính sách bao vây cấm vận triệt để của Mỹ, sự duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, trong điều kiện xây dựng hoà bình và sau đó là sự tan rã của hệ thống XHCN. Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Từ đó đến nay, chúng ta kiên trì chủ trương này, nền kinh tế nước ta đã phát triển với tốc độ khá cao trong nhiều năm, thoát khỏi khủng hoảng, đảm bảo được những cân đối lớn, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, xã hội tạo ra thế và lực mới để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đi lên. Nếu nhìn từ hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật và những đóng góp của doanh nghiệp nhà nước hiện nay, rõ ràng là DNNN đang có vai trò hết sức to lớn, quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Thể hiện trên những mặt chủ yếu sau đây: Doanh nghiệp Nhà nước đang nắm giữ những ngành, những lĩnh vưc then chốt, hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật quan trọng nhất cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nắm giữ toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có tính huyết mạch; hầu hết các doanh nghiệp lớn là DNNN trong các ngành: Xây dựng (về giao thông, thuỷ lợi, công nghiệp, dân dụng) cơ khí chế tạo, luyện kim, xi măng, điện tử, hoá chất, dầu khí, than, phát dẫn điện, thông tin liên lạc, vận tải đường sắt, đường biển, đường không, ô tô…, sản xuất hàng công nghiệp tiêu dùng, chế biến nông, thuỷ hải sản; nắm giữ tỷ lệ quan trọng trong hầu hết trong ngành kinh doanh dịch vụ, thương mại, xuất nhập khẩu; chiếm thị phần áp đảo trong huy động vốn và cho vay. Cụ thể tỷ trọng phần DNNN trong một số ngành như: 80% công nghiệp khai thác, trên 60 % công nghiệp chế biến. 99% công nghiệp điện - gaz - dầu khí - cung cấp nước, trên 82% vận chuyển hàng hoá, 50 % vận chuyển hành khách, chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong sản xuất phân bón hoá học 99,8%, thuốc trừ sâu 93,6%, Axitsulfuric100%, xút 100%, lốp ô tô 100%, lốp xe đạp 80%, pin 100%, chế tạo động cơ diesel loại nhỏ 100%, 88% năng lực kéo sợi, 50% năng lực dệt thoi, 30% năng lực dệt kim và khoảng trên dưới 50% năng lực may mặc; giày dép. Bán buôn chiếm tỷ trọng 70% và 20% bán lẻ. Hệ thống các ngân hàng thương mại Quốc doanh chiếm thị phần áp đảo trong huy động vốn tới 80% thị phần và cho vay 74% thị phần đối với nền kinh tế [3, tr.20]. Có thể khẳng định rằng, doanh nghiệp nhà nước đã góp phần quan trọng vào việc điều tiết quan hệ cung cầu, ổn định giá cả, chống lạm phát, ổn định tỷ giá, khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường. Doanh nghiệp Nhà nước chiếm một phần quan trọng trong xuất nhập khẩu; trong đó DNNN giữ tỷ trọng tuyệt đối trong hoạt động xuất khẩu; riêng công nghiệp năm 1999 đã xuất khẩu được 6,17 tỷ USD (chủ yếu do các DNNN) chiếm gần 54 tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế. Tổng công ty Lương thực miền Nam xuất khẩu gạo chiếm tỷ trọng 60-70 % so với cả nước. Bên cạnh đó DNNN đóng góp nguồn thu tập trung lớn và ổn định cho Ngân sách Nhà nước. Năm 1999 phần thu thuế DNNN (VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp và tiền thu sử dụng vốn) chiếm 39,25%; riêng 17 TCT 91 năm 1999 nộp ngân sách 23.487 tỷ, tăng 20,7% so với năm 1998. Trong khi Nhà nước không đủ vốn ngân sách cấp vốn lưu động cho kinh doanh của DNNN theo quy định, thì nhiều Doanh nghiệp đã tiết kiệm hình thành vốn tự bổ sung, năng động tìm nguồn vốn bên ngoài, bao gồm vốn vay của các tổ chức tín dụng và CNVC- LĐ trong doanh nghiệp. Trong lúc các thành phần kinh tế khác chưa vươn lên được thì DNNN là đối tác chính trong liên doanh, liên kết với bên ngoài chiếm 96% dự án và 99% phần vốn góp của Nhà nước ở các đợn vị liên doanh nước ngoài; đồng thời DNNN cũng thực hiện các hạ tầng kỹ thuật cần thiết để thu hút các doanh nghiệp có vốn trong nước và nước ngoài vào đầu tư. Doanh nghiệp Nhà nước đã tạo ra điều kiện vật chất, kỹ thuật, là một trong những nhân tố có tầm quan trọng quyết định đối với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp hàng hoá, chuyển từ thiếu sang đáp ứng được nhu cầu cơ bản nông sản, thực phẩm chất lượng ngày một cao của nhân dân và có phần xuất khẩu, chủ yếu thông qua việc xây dựng các công trình thuỷ lợi lớn, cung cấp điện, xây dựng các đường giao thông huyết mạch, cung cấp giống cây, con, chuyển giao kỹ thuật và bước đầu phát triển công nghiệp chế biến. Một số nông, lâm trường đã phát huy được vai trò là trung tâm kinh tế, văn hoá, chuyển giao công nghệ trên địa bàn. Doanh nghiệp Nhà nước trong nhiều năm qua cũng là nơi tập trung và đào luyện một bộ phận nhân lực quan trọng trong đội ngũ giai cấp công nhân và cung cấp nhiều cán bộ lãnh đạo ưu tú, trung kiên cho Đảng, Nhà nước và quân đội ta. Doanh nghiệp Nhà nước cũng thực sự đi đầu trong việc thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước “ Uống nước, nhớ nguồn”, “ Xoá đói giảm nghèo”, khắc phục hậu quả ở những vùng bị thiên tai, cứu trợ xã hội, tham gia các hoạt động từ thiện có hiệu quả cao, được xã hội thừa nhận. Để nâng cao hơn nữa vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, Đại hội VIII của Đảng đã yêu cầu phải “ Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế Nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo”… “Tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế Nhà nước trong những ngành và lĩnh vực trọng yếu”. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị Trung ương lần thứ Ba (Khoá IX) của Đảng về việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đã đề ra mục tiêu 10 năm từ năm 2001 đến 2010 như sau: Sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của Doanh nghiệp Nhà nước góp phần quan trọng đảm bảo các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của quốc phòng, an ninh, là lực lượng nòng cốt để đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa [23, tr.14]. Để thực hiện được mục tiêu trên, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp, các ngành đối với việc sắp xếp, đổi mới nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng, phát huy quyền làm chủ của người lao động và vai trò của các đoàn thể trong doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là việc xây dựng VHDN trong các doanh nghiệp nhà nước. 1.2.2. Văn hóa doanh nghiệp là nguồn lực nội sinh, quyết định sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước Hiện nay, các chuyên gia kinh tế và các nhà văn hoá học đều cho rằng, VHDN là nguồn lực nội sinh cực kỳ quan trọng, quyết định sự phát triển của doanh nghiệp. Bởi vì văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế- xã hội. Do đó khai thác triệt để yếu tố nội sinh (văn hoá) và phát huy vai trò của nó để phát triển doanh nghiệp là một điều hết sức cần thiết. Nhưng, để tạo nên được sức mạnh nội sinh không phải là điều dễ dàng đối với doanh nghiệp. Trên thực tế nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Quy mô sản xuất kinh doanh, thời gian, bản lĩnh, kinh nghiệm của người chủ doanh nghiệp, cộng với tinh thần đoàn kết, nhất quán của CNLĐ trong công ty. Thực tiễn đã chứng minh rằng, nhiều doanh nghiệp đã xây dựng được cho mình một bản sắc văn hoá riêng, có tác động tích cực và mang lại hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Trong hệ thống biểu hiện của của VHDN, như chúng tôi đã trình bày ở phần trên, thì thương hiệu là vấn đề quan trọng nhất. Bởi vì thương hiệu là tài sản của doanh nghiệp. Thương hiệu mang về nhiều nguồn lợi lớn cho doanh nghiệp. Vì vậy, phải tạo một nền tảng văn hoá để xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp. Một Công ty xây dựng thương hiệu nổi bật, khi mọi nhân viên không những hiểu rõ thương hiệu là gì, mà còn hiểu rõ vai trò của nó là gì trong việc thông tin, tuyên truyền cho thương hiệu của mình. Nhưng việc tạo một thương hiệu đòi hỏi có sự thống nhất từ Ban lãnh đạo đến các thành viên trong toàn Công ty. Thực tế cần có ngân sách, thời gian và sự nỗ lực, phấn đấu cao của toàn Công ty, đặc biệt là tinh thần sáng tạo, ý chí quyết tâm của cả doanh nghiệp. Trên thế giới người ta đã đúc kết thành 12 cách hay nhất trong tiến trình xây dựng thương hiệu Công ty. 1. Có tầm nhìn xa. 2. Tạo một mối ràng buộc cảm xúc với khách hàng. 3. Sống cùng thương hiệu. 4. Tạo một nền văn hoá công ty bảo vệ và đánh bóng thương hiệu công ty của bạn. 5. Liên kết thương hiệu với doanh nghiệp 6. Hãy táo bạo. 7. Hãy nhất quán. 8. Ttruyền thông thương hiệu công ty 360 độ. 9. Sở hữu các sáng kiến trong ngành công nghiệp của bạn 10. Biết chọn người lãnh đạo doanh nghiệp và người kế vị lãnh đạo. 11. Hãy quý trọng nhân viên. 12. Xây dựng một thương hiệu biết dựa trên một ngân sách. Từ sự phân tích và những lý luận được đúc kết từ thực tiễn, chúng ta thấy rằng VHDN đã có tác động vô cùng to lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp. Bởi vì, VHDN là nguồn lực nội sinh để phát triển doanh nghiệp. VHDN sẽ gắn kết mọi thành viên trong doanh nghiệp, tạo nên sự thống nhất trong tư tưởng và hành động của toàn doanh nghiệp, từ đó tạo ra sức ra sức mạnh tổng hợp, toàn diện đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển. Tuy nhiên hiện nay trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần căn cứ vào tình hình cụ thể, những điều kiện thích hợp, để có kế hoạch xây dựng VHDN của mình mang tính khả thi ngày càng cao. Như chúng ta đều biết, chỉ có yếu tố văn hoá tác động đến hoạt động sống của con người, thì mới làm cho cuộc sống của con người ngày càng cao đẹp hơn, ý nghĩa hơn. Vì vậy môi trường sống vô cùng quan trọng. Nếu con người sống trong một môi trường xã hội đầy tính nhân văn, mọi người luôn luôn quan tâm đến nhau, giúp đỡ nhau lúc khó khăn hoạn nạn, lãnh đạo luôn lắng nghe ý kiến của nhau, chắc chắn rằng nơi đó mọi người sẽ phấn đấu tốt, rèn luyện tốt. VHDN chính là môi trường đầy lý tưởng và cơ hội để cho mọi thành viên trong công ty được rèn luyện và thử thách tài năng của mình. Sự chan hoà trong tình đồng đội, cộng với sự quan tâm đến đời sống CNVC-LĐ của tập thể lãnh đạo công ty, sẽ trở thành động lực mạnh mẽ, lôi cuốn mọi người gắn bó với nhau hơn và cống hiến được nhiều cho công ty hơn. Đồng thời VHDN sẽ giúp mọi người phải vứt bỏ thói quen làm việc lề mề, đi muộn về sớm, vô ý thức kỷ luật lao động. Ngược lại nó giúp mọi người có tác phong lao động công nghiệp, nhanh nhẹn, tháo vát, năng động, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm. Những ngày lễ hội truyền thống của công ty, mọi người đều mặc chiếc áo đồng phục có biểu tượng của công ty; được nghe lãnh đạo của Công ty ôn lại truyền thống vẻ vang của đơn vị trong những ngày tháng qua mà trong đó có sự đóng góp của mình; chắc rằng mọi thành viên đều có cảm tưởng rằng, mình là “con một nhà”, bởi không khí nồng ấm của toàn đơn vị đã lan toả đến mọi thành viên. Đạt được điều đó chính là do tác động của VHDN. Nhưng ngược lại mọi người sống trong một môi trường xã hội thiếu tính nhân văn, nội bộ lục đục, mất đoàn kết, lãnh đạo Công ty không quan tâm đến lợi ích vật chất cũng như tinh thần của CNVC- LĐ thì tất yếu sẽ đi đến kết quả, mọi người sẽ không giữ vững kỷ luật lao động, chây lười, năng suất lao động sẽ giảm và không muốn gắn bó với công ty, điều đó sẽ đưa Công ty đến thất bại. Từ sự phân tích ở trên chúng ta khẳng định rằng, VHDN đóng vai trò quan trong việc phát triển của doanh nghiệp. Bởi vì VHDN sẽ giúp cho Công ty làm ăn ngày càng có hiệu quả. Thông qua những sản phẩm đạt chất lượng cao, mẫu mã đẹp, thái độ phục vụ khách hàng tốt, niềm nở, tôn trọng chử tín. Đồng thời, với các hoạt động bảo vệ môi trường và xã hội như: đền ơn đáp nghĩa, trở về cội nguồn, góp tay làm dịu nỗi đau chất độc xa cam, xóa đói giảm nghèo…đã giúp cho doanh nghiệp có vị thế trong xã hội, tạo được dấu ấn với khách hàng cũng như các đối tác trong kinh doanh. Và cũng chính vì thế mà doanh nghiệp ngày càng ổn định và phát triển. 1.2.3. Vai trò Công đoàn trong văn hóa doanh nghiệp ở doanh nghiệp nhà nước Công đoàn trong các doanh nghiệp nhà nước, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng VHDN. Bởi vì, doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu Nhà nước mà CNLĐ thay mặt Nhà nước quản lý doanh nghiệp đó. Công đoàn đại diện cho CNLĐ tập hợp người lao động và người lãnh đạo trong các doanh nghiệp NN vào tổ chức của mình. Do vậy, Công đoàn tác động đến cả chủ thể quản lý, cả đối tượng quả lý trong các DNNN, tham gia vào các mối quan hệ bên trong và cả quan hệ bên ngoài của DNNN. Đồng thời tác động tới tất cả các yếu tố cấu thành nên VHDN của các doanh nghiệp nhà nước. Điều đó đã được thực tiễn phong trào Công đoàn chứng minh. Để thấy được vai trò của Công đoàn trong xây dựng VHDN ở Hà Nội hiện nay chúng ta cần hiểu sự ra đời và vị trí, vai trò, chức năng của tổ chức Công đoàn Việt Nam. 1.2.3.1. Sự ra đời của tổ chức Công đoàn Việt Nam Sự ra đời của tổ chức Công đoàn Việt Nam gắn liền với tên tuổi và cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, Nhân danh văn hoá kiệt xuất của thế giới. Ngay từ những năm tháng xa Tổ quốc, bôn ba hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú ý đến việc thành lập tổ chức Công đoàn ở Việt Nam (lúc bấy gờ gọi là Công hội). Trong tác phẩm “ Đường cách mệnh” xuất bản năm 1927, Người viết” Tổ chức Công hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sữa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới” và Người đã khẳng định “Công hội là cơ quan của công nhân để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa”. Những lý luận về việc thành lập tổ chức Công đoàn cách mạng của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc được các hội viên Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản, truyền bá rộng rãi trong phong trào công nhân, nhiều tổ chức Công hội bí mật được thnàh lập. Đặc biệt, từ năm 1928, Thanh niên cách mạng đồng chí Hội phát động phong trào” Vô sản hoá” thì phong trào đấu tranh của công nhân Việt Nam càng sôi nỗi, đã thúc đẩy sự phát triển của của tổ chức Công hội lên một bước mới. Để đẩy mạnh hơn nữa công tác vận động công nhân và tăng cường sức mạnh cho tổ chức Công hội, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng quyết định triệu tập Đại hội thành lập Tổng Công hội Đỏ miền Bắc Việt Nam vào ngày 28 - 7 - 1929. Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng, phụ trách công tác vận động công nhân của Đảng, đã trình bày Báo cáo chung trước Đại hội, trong đó nhấn mạnh đặc điểm, tình hình phong trào công nhân nước ta và đề ra những nhiệm vụ thiết yếu của giai cấp công nhân, Công hội trong giai đoạn sắp tới. Từ sau Đại hội này, Tổng Công hội Đỏ miền Bắc Việt Nam, một tổ chức được Đảng Cộng sản thành lập, đã trở thành tổ chức Công đoàn cách mạng, tiêu biểu của giai cấp công nhân Việt Nam. Nó là kết quả tất yếu của phong trào công nhân vận động với sự truyền bá lý luận Công đoàn cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn ái Quốc và các đảng viện cộng sản vào phong trào Công đoàn nước ta. Từ đó đến nay, trải qua 76 năm xây dựng và trưởng thành, Tổ chức Công đoàn Việt Nam đã trải qua 9 kỳ đại hội, có 64 Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, 20 Công đoàn ngành Trung ương, 2 Công đoàn Tổng công ty trực thuộc, với trên 4 triệu đoàn viên Công đoàn ngày đêm hoạt động trong 5.278 công đoàn cơ sở khắp toàn quốc. (Số liệu tính đến 31 tháng 12 năm 2004 của Tổng Liên đoàn). 1.2.3.2. Vị trí của Công đoàn Việt Nam Vị trí của Công đoàn Việt Nam đã được xác định rõ từ đại hội III, IV, V, VI, VII, VIII, và được phát triển ở đại hội IX Công đoàn Việt Nam. Công đoàn Việt Nam nằm trong hệ thống chính trị của Nhà nước, là trung tâm tập hợp, đoàn kết, giáo dục rèn luyện, xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân lao động. Công đoàn Việt Nam là chổ dựa vững chắc của Đảng, là sợi dây nối liền Đảng với người lao động. Mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng với Công đoàn, trong đó Đảng giữ vai trò lanh đạo, còn Công đoàn mang tính độc lập tương đối về mặt tổ chức. Dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Công đoàn và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là mối quan hệ phối hợp. Nhà nước cùng Công đoàn tạo điều kiện cho nhau hoạt động có hiệu quả. Công đoàn là cơ quan đại diện quyền lợi của giai cấp công nhân và người lao động để tham gia, đề xuất với Nhà nước về những vấn đề không chỉ Công đoàn mà cả Nhà nước quan tâm. Nhà nước giúp đỡ, tạo điều kiện về vật chất và pháp lý cho Công đoàn hoạt động. Công đoàn vận động công nhân lao động xây dựng và bảo vệ chính quyền Nhà nước. 1.2.3.3. Vai trò của Công đoàn Việt Nam Dưới chủ nghĩa tư bản, Công đoàn có vai trò là trường học đấu tranh giai cấp. Công đoàn vận động, tổ chức công nhân lao động đấu tranh chống lại giai cấp tư sản bảo vệ quyền lợi của công nhân lao động, vai trò này ngày càng tăng dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh ngày càng gay gắt, nó biểu hiện từ đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính trị mà mục đích là lật đổ chế độ tư bản, xoá bỏ chế độ người bóc lột người. Sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga vĩ đại, vai trò của Công đoàn đã được mở rộng. Như V.I. Lênin đã đúc kết: Công đoàn có vai trò là trường học quản lý, trường học kinh tế, trường học chủ nghĩa cộng sản. Là trường học quản lý, Công đoàn dạy cho CNLĐ biết quản lý xí nghiệp cũng như quản lý các công việc xã hội trên cơ sở bước đầu thu hút họ tham gia quản lý. Là trường học kinh tế, Công đoàn dạy cho CNLĐ biết sản xuất kinh doanh, biết hoạt động kinh tế. Công đoàn tham gia tích cực vào việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, hoàn thiện các chính sách kinh tế, để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Công doàn dạy cho người lao động biết nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn, nghiêp vụ, có ý thức phấn đấu để dạt hiệu quả kinh tế, có tinh thần trách nhiệm cao trong học tập và công tác. Là trường học chủ nghĩa Cộng sản, Công đoàn giáo dục CNLĐ phải có phong cách lao động công nghiệp, nhanh nhẹn, năng động, ý thức kỷ luật cao, luôn tìm cách hoàn thành nhiệm vụ của mình. Ngày nay dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, Công đoàn tiến hành giáo dục chính tị tư tưởng cho CNLĐ, học tập chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chấp hành đường lôí chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó Công đoàn phải giáo dục cho CNLĐ về văn hoá, văn học nghệ thuật, hoạt động thể dục thể thao để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, hình thần nhân sinh quan, thế giới quan khoa học cho CNLĐ. 1.2.3.4. Chức năng của Công đoàn Chức năng của Công đoàn được biểu hiện bằng những phương hướng, những mặt hoạt động chủ yếu để thực hiện bản chất và vai trò của Công đoàn trong xã hội. Như vậy, chức năng của Công đoàn mang tính chất khách quan, nó tồn tại không phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng của cá nhân. Nó được xác định bởi tính chất, vị trí vai trò của của Công đoàn trong từng giai đoạn cách mạng. ở từng thời kỳ lịch sử, chức năng của Công đoàn kế thừa, phát triển thêm nội dung mới có ý nghĩa hơn. Dưới chủ nghĩa tư bản, Công đoàn tập hợp công nhân đấu tranh chống lại sự áp bức bốc lột của giai cấp tư sản, để bảo vệ lợi ích của công nhân lao động. Vì vậy, chức năng bảo vệ lợi ích cho công nhân lao động là chức năng bẩm sinh của Công đoàn, nghĩa là vì nó mà Công đoàn hình thành và khi ra đời Công đoàn sẽ làm chức năng đó. Song, muốn bảo vệ lợi ích cho CNLĐ, Công đoàn không thể không tập hợp, vận động, giáo dục để họ tiến hành đấu tranh bảo vệ lợi ích. Và vì vậy giáo dục đã phát triển thành chức năng của Công đoàn. Hai chức năng đó của Công đoàn có mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại thúc đẩy lẫn nhau Dưới Xã hội chủ nghĩa, Vị trí của giai cấp công nhân đã thay đổi, từ người làm thuê trở thành người làm chủ. Vì vậy chức năng của Công đoàn khắc hẳn so với chức năng của Công đoàn dưới chủ nghĩa tư bản. Dưới đây là 3 chức năng cơ bản của Công đoàn Việt Nam dưới CNXH. a. Chức năng bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của CNLĐ “Công đoàn đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, có trách nhiệm tham gia với Nhà nước phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động” [37, tr.6]. b. Chức năng tham gia quản lý nhà nước “ Công đoàn đại diện và tổ chức người lao động tham gia quản lý cơ quan đơn vị, tổ chức, quản lý kinh tế xã hội, quản lý Nhà nước, trong phạm vi của mình, thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan, đơn vị, tổ chức theo quy định của pháp luật” [37, tr.6]. c. Chức năng tuyên truyền, giáo dục CNLĐ “Công đoàn có trách nhiệm tổ chức, tuyên truyền, giáo dục, động viên người lao động phát huy vai trò làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [37, tr.6]. Chức năng của Công đoàn là một chỉnh thể thống nhất, đan xen tác động qua lại lẫn nhau, chức năng này làm tiền đề cho chức năng kia. Cả 3 chức năng này đều quan trọng như nhau. Nhưng hiện nay trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các nhà đầu tư vào nhiều, những khu công nghiệp, những khu chế xuất phát triển, giám đốc điều hành là người nước ngoài, vì vậy việc tranh chấp lao động ngày càng găy gắt, các cuộc đình công nỗ ra liên tiếp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn. Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp cho người lao động, Đại hội VIII Công đoàn Việt Nam đã khẳng định, chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động trở thành chức năng trung tâm, xuyên suốt trong họat động của tổ chức Công đoàn Việt Nam. Trong những năm qua, Công đoàn trong các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội đã phát huy vai trò và làm tốt chức năng của mình trong việc xây dựng VHDN. Từ việc tổ chức cho CNVC- LĐ tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước trong doanh nghiệp như: Phong trào thi đua sản xuất, phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, phong trào học tập nâng cao trình độ văn hoá, phong trào luyện tay nghề thi thợ giỏi, phong trào đền ơn đáp nghĩa, phong trào thể dục thể thao, văn hoá, văn nghệ, phong trào xanh - sạch - đẹp, bảo vệ cảnh quan môi trường … vv. đến việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho CNVC - LĐ, đều do Công đoàn của doanh nghiệp đảm nhận. Tất cả những việc làm của Công đoàn đã góp phần quyết định cho việc thành công hay thất bại của doanh nghiệp Bởi vì, một doanh nghiệp làm ăn phát đạt, CNLĐ phấn khởi tất nhiên họ sẽ tham gia tốt các phong trào trên, sẽ tạo ra một không khí vui tươi, tràn đầy sức sống trong doanh nghiệp. Đồng thời tổ chức tốt các phong trào trên, nghĩa là đã góp phần xây dựng thành công VHDN. Bởi vì, chỉ có VHDN mới tạo ra động lực mới, thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phát triển, tạo ra mối qua hệ hài hoà giữa mọi thành viên trong doanh nghiệp, gắn kết họ với nhau tạo nên sức mạnh nội sinh, làm cho doanh nghiệp ngày càng ổn định, phát triển và hưng thịnh. Trong xây dựng VHDN không thể thiếu vai trò của Công đoàn. Vì Công đoàn là người đại diện bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động. Công đoàn là người trực tiếp vận động CNLĐ tham gia vào các phong trào trong doanh nghiệp. Người lao động chỉ tham gia vào các phong trào khi họ thấy rằng các phong trào đó mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân họ và cho doanh nghiệp. Như vậy, việc tham gia vào các phong trào thi đua của CNLĐ trong doanh nghiệp, chính là tham gia xây dựng VHDN. Một thực tế cho thấy ở Việt Nam chúng ta nói chung và trên địa bàn Hà Nội nói riêng hoạt động Công đoàn trong việc xây dựng VHDN chủ yếu là Công đoàn trong các doanh nghiệp nhà nước. Điều đó được chứng minh rằng, tại “Hội nghị Tổng kết 5 năm (2000 - 2005) xây dựng đời sống văn hoá cơ sở trong CNVC- LĐ toàn quốc” ngày 14 tháng 9 năm 2005 vừa qua tại Hà Nội, do Tổng Liên đoàn - Bộ Văn hoá - Thông tin - Uỷ Ban Thể dục thể thao Việt Nam đồng tổ chức, đã trao thưởng: 40 cờ và 101 bằng khen cho các đợn vị có thành tích xuất sắc trong phong trào xây dựng đời sống văn hoá cơ sở trong đó 98% là Công đoàn trong các doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời Báo cáo tổng kết của Hội nghị đã khẳng định rằng: kết quả của phong trào xây dựng đời sống văn hoá cơ sở trong công nhân, viên chức, lao động 5 năm qua, đã góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế của đất nước, ổn định an ninh, quốc phòng và trật tự xã hội, đồng thời góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tóm lại: Trên cơ sở tham khảo, nghiên cứu và kế thừa các tài liệu trong và ngoài nước đã đề cập đến VHDN, chúng tôi đã mạnh dạn hệ thống khái quát thành lý luận về VHDN và vai trò của VHDN đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Tất nhiên chúng tôi nghĩ rằng, vẫn còn thiếu và chưa đầy đủ, nhưng bước đầu giúp chúng tôi có cơ sở khoa học để khảo sát thực trạng VHDN và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng VHDN ở thủ đô Hà Nội trong một số doanh nghiệp nhà nước tiêu biểu. Từ đó chúng tôi đưa ra phương hướng và những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả hoạt động Công đoàn trong việc xây dựng VHDN, làm cho doanh nghiệp nhà nước ngày càng vững mạnh, thực sự là vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của đất nước, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nước ta thành một nước “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” Chương 2 Hoạt động của Công đoàn trong việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội 2.1. Một số đặc điểm cơ bản về thủ đô Hà Nội và việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà Nội Hà Nội- mảnh đất có truyền thống nghìn năm văn hiến và lừng lẫy chiến công đánh giặc, nơi định đô của các vương triều phong kiến tự chủ Việt Nam. Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị của Nhà nước dân chủ nhân dân dầu tiên ở Đông Nam á, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngay từ buổi đầu cách mạng, Hà Nội đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hà Nội là trái tim của đất nước. Hà Nội là trung tâm kinh tế văn hoá, chính trị - xã hội của Việt Nam. Hà Nội hội tụ các cơ quan lãnh đạo của Trung ương Đảng, Quốc Hội, Chính phủ, các đoàn thể chính trị- xã hội. Thủ đô Hà nội cũng là nơi diễn ra các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc; các kỳ họp Quốc hội, từ đó đưa ra các Nghị quyết, đường lối, sách lược đối nội và đối ngoại cho từng giai đoạn cách mạng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hà Nội cũng là nơi đặt trụ sở của nhiều sứ quán các nước. Mọi hoạt động ngoại giao, thăm viếng, trình quốc thư, hội đàm, ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác đều được tiến hành tại đây. - Vị trí. Hà Nội nằm hai bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ trù phú. Với vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi, đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam. Hà Nội nằm ở: 20, 53 đến 21, 23 Vĩ độ Bắc, 105,44 đến 106,02 Kinh độ Đông. Hà Nội giáp với 5 tỉnh. Phía Bắc giáp Thái Nguyên. Phía đông và Đông Nam giáp Bắc Ninh và Hưng Yên. Phía Nam và phía Tây giáp Hà Tây và Vĩnh Phúc. Hà Nội với diện tích tự nhiên là 920, 97 km2. Chiều dài từ bắc xuống nam hơn 50 km. Chỗ rộng nhất từ Tây sang Đông là 30 km. Chỗ cao nhất là núi Chân Chim: 462 m (huyện Sóc Sơn). Nơi thấp nhất thuộc xã Gia Thuỵ (huyện Gia Lâm) 12 m so với mực nước biển. - Dân cư. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2003 Hà Nội có khoảng 3.055.300 người, trong đó dân số nội thành chiếm 53%, dân số ngoại thành chiếm 47 %. Dân cư Hà Nội phân bổ không đều giữa các lãnh thổ hành chính và giữa các vùng sinh thái. Mật độ dân số trung bình của Hà Nội là 2.881 người/Km2 (Mật độ trung bình ở nội thành là 19.163 người/Km2 riêng quận Hoàn Kiếm là 37.265 người/Km2, ở ngoại thành là 1.721 người/Km2). Mật độ này cao gấp gần 12 lần so với mức trung bình của cảc nước, gần gấp đôi mật độ dân số của đồng bằng sông Hồng và Hà Nội là thành phố có mật độ cao nhất nước. - Các đơn vị hành chính. Hà Nội tính tới nay gồm 9 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành. 9 quận nội thành đó là: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Đống Đa, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai. 5 huyện ngoại thành đó là: Đông Anh, Gia Lâm, Sóc Sơn, Thanh Trì, và Từ Liêm. - Kinh tế. Tính đến năm 2002, GDP Hà Nội đạt 20.280 tỷ đồng chiếm 7,8% tổng sản phẩm quốc nội của cả nước với mưc độ tăng trưởng 10,37% so với năm 2001. Trong đó tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm 2,4%; ngành công nghiệp và xây dựng cơ bản chiếm 38,8% và ngành dịch vụ chiếm 58,8%. Tốc đọ tăng trưởng kinh tế những năm 2000 - 2002 của Hà Nội đều tăng hơn 10% mỗi năm. - Văn hoá. Các cơ quan thông tấn báo chí, xuất bản cấp quốc gia đều đóng trên địa bàn Hà Nội. Đài Truyền hình, Đài Tiếng nói Việt Nam cũng đóng tại Hà Nội, hàng ngày đều phát tin tức đi đến mọi vùng lãnh thổ trên khắp cả nước. Hà Nội có riêng một Đài phát thanh và Truyền hình Hà Nội, một tờ báo ra hàng ngày là tiếng nói của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thủ đô: tờ” Hà Nội Mới”. Ngoài ra còn có hàng chục nhà xuất bản của Trung ương và địa phương, hàng trăm tờ báo ra hàng này, hàng tuần và hàng tháng. Hà Nội có rất nhiều nhà Bảo tàng, Thư viện, Nhà văn hoá, Câu lạc bộ, Rạp hát, Rạp chiếu bóng, Hiệu sách…. Hà Nội có đến 521 di tích lịch sử văn hoá, kiên trúc đã được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng. Hà Nội là một trong những địa phương đi đầu trong cả nước về xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa mới. - Giáo dục và đào tạo. Hà Nội có Văn Miếu - Quốc Tử Giám, trường đầu tiên của nước ta. Hiện nay Hà Nội là nơi hội tụ của 44 trường đại học và cao đẳng của đất nước với 330 nghìn sinh viên, 25 trường trung học chuyên nghiệp với 15 nghìn học sinh. - Khoa học Hà Nội với hơn một trăm Viện nghiên cứu ở hai Trung tâm Khoa học tự nhiên công nghệ và Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia và ở các bộ nghành. Hà Nội thực sự là nơi hội tụ nhân tài của đất nước. Có thể nói phần lớn các chuyên gia khoa học đầu ngành đều công tác, nghiên cứu giảng dạy ở Thủ đô. Hàng năm, Hà Nội tổ chức một số lượng lớn các cuộc hội thảo, hội nghị với các tổ chức quốc tế song phương và đa phương. Hà Nội cũng là nơi đào tạo nhân tài cho cảc nước. Nơi đây đã có biết bao cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư trưởng thành, đã và đang có mặt khắp mọi miền của Tổ quốc, phấn đấu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp sức làm cho dân giàu nước mạnh. Hà Nội mảnh đất đầy tự hào, cái nôi rèn luyện và tạo dựng các thế hệ trí thức của thời đại mới. Các thế hệ danh nhân đó đã bồi đắp trở lại cho Hà Nội ngày càng thực sự tiêu biểu cho nền văn hoá Việt Nam. 2.1.2. Tổng quan các doanh nghiệp nhà nước và tổ chức Công đoàn trên địa bàn Hà Nội 2.1.2.1. Các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội hiện nay. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2004, trên địa bàn thành phố Hà Nội có 717 doanh nghiệp nhà nước. Trong đó doanh nghiệp Trung ương có 526 và Hà Nội có 191 doanh nghiệp. Hiện tại, kinh tế nhà nước chiếm 39,1% GDP, vượt xa so với tỷ trọng 7,5% của kinh tế tập thể, 8,2% của kinh tế tư nhân, 30,7% của kinh tế cả nước và 14,55% của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp Nhà nước chiếm 39,1% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, cao hơn nhiều so với tỷ trọng 0,6 của kinh tế tập thể, 12,7% của kinh tế tư nhân và cũng cao hơn tỷ trọng 36% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực kinh tế Nhà nước chiếm 56% tổng vốn đầu tư phát triển, cao hơn tỷ trọng 26,9% của khu vực ngoài quốc doanh và 17,1% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Từ số liệu trên ta thấy, xét riêng về khu vực doanh nghiệp thì vị trí của doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng rất nhỏ về số lượng doanh nghiệp, nhưng lại chiếm tỷ trọng khá cao về các chỉ tiêu khác. So với toàn bộ doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 6,7% về số lượng đơn vị, nhưng đã chiếm 43,7% về số lượng lao động, 58,7% về nguồn vốn, 50,8% về giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn, 46,5% về doanh thu, 46% về nộp ngân sách Nhà nước, chiếm khoảng 55% GDP do các doanh nghiệp tạo ra. Theo khảo sát điều tra của Viện Công nhân & Công đoàn, tính đến ngày 30 tháng 12 năm 2004, trên địa bàn Hà Nội có khoảng 717 doanh nghiệp nhà nước. Trong đó doanh nghiệp Trung ương có 526 doanh nghiệp, doanh nghiệp Hà Nội có 191 doanh nghiệp. Bảng 2.1: Số doanh nghiệp Trung ương và Hà Nội trên địa bàn Hà Nội (tính theo ngành) Đơn vị tính: doanh nghiệp Ngành Trung ương Hà Nội Tổng Công nghiệp 159 55 214 Xây dựng cơ bản 155 38 193 TN, DV, Du lịch 183 76 259 GT, Bưu điện 24 9 33 Nông, Lâm, Ngư 5 13 18 Tổng 526 191 717 Nguồn: Tổng cục thống kê (năm 2003). Bảng 2.2: Số doanh nghiệp Trung ương và Hà Nội trên địa bàn Hà Nội (tính theo lao động) Đơn vị tính: doanh nghiệp Ngành Trung ương Hà Nội Tổng Công nghiệp 94238 28226 122464 Xây dựng cơ bản 122154 22100 144254 TN, DV, Du lịch 45863 14285 60148 GT, Bưu điện 16203 6553 22756 Nông, Lâm, Ngư 689 2369 3058 Tổng 279174 73533 352680 Nguồn: Tổng cục thống kê (năm 2003). Bình quân 1 doanh nghiệp nhà nước có 466,4% lao động, cao hơn nhiều so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh (331,8 người) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (325,6 người). Nguồn vốn bình quân 1 DNNN đạt 207 tỷ đồng. Trong khi đó nguồn vốn của 1 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ đạt mức 139,7 tỷ đồng. Giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn bình quân 1 lao động DNNN đạt 143 triệu đồng, cao hơn mức 50 triệu đồng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh và thấp hơn mức 224 triệu đồng của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thu nhập bình quân 1 lao động của DNNN đạt 1.495 nghìn đồng 1 tháng, cao hơn mức 1.046 nghìn đồng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh và thấp hơn mức 1774 nghìn đồng của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Báo Lao động Thủ đô số 28 - thứ ba - ra ngày 12/7/2005). 2.1.2.2. Tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội Liên Đoàn Lao động thành phố Hà Nội, có trụ sở đặt tại số 51 phố Lý Thái Tổ, ngay trung tâm Thành phố. Hiện tại, biên chế của cơ quan Liên đoàn có 43 người, 1 đồng chí Chủ tịch, 3 đồng chí phó Chủ tịch với 7 Ban chuyên đề gồm: Ban Tổ chức, Ban Tuyên giáo, Ban Kinh tế chính sách xã hội, Ban Nữ công, Ban Tài chính, Uỷ Ban kiểm tra và Văn phòng. LĐLĐ thành phố Hà Nội, quản lý trên 200 Công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp nhà nước với 5.278 Công đoàn cơ sở và cấp trên cơ sở, với trên 450. 000 đoàn viên Công đoàn. Công đoàn trong các doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội trong những năm qua đã hoạt động có hiệu quả, vận động CNVC- LĐ tham gia thi đua lao động sản xuất, kinh doanh, góp phần tăng trưởng kinh tế và giữ vững an nin trật tự của Thủ đô. Đặc biệt Công đoàn trong các doanh nghiệp nhà nước đi đầu trong phong trào xây dựng “Nếp sống văn hóa công nghiệp” do Liên đoàn Lao động Thành phố phát động. Điển hình là các Công đoàn như: Công đoàn Công ty thông tin di động Hà Nội, Công đoàn Công ty Chiếu sáng và thiết bị đô thị, Xí nghiệp Môi trường đô thị Số 1 - Hà Nội, Công ty giầy Thượng Đình... Họ đã góp phần xứng đáng vào việc phát triển Thủ đô trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, Công đoàn trong các doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội đã vận động CNVC- LĐ của mình tham gia vào công tác từ thiện, xã hội như đóng góp hàng trăm tỷ đồng để xây dựng nhà tình thương, tình nghĩa, ủng hộ nạn nhân chất độc da cam hoặc giúp đở những gia đình công nhân còn khó khăn trong cuộc sống, chăm sóc nuôi dưỡng hàng trăm Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Tất cả những hoạt động nêu trên của Công đoàn trong các doanh nghiệp nhà nước ở thủ đô Hà Nội đều không ngoài nhiệm vụ xây dựng VHDN, góp phần to lớn vào sự phát triển của doanh nghiệp, xứng đáng là vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế của đất nước. 2.1.2.3. Đóng góp của công nhân, viên chức, lao động và vai trò Công đoàn trong việc thực hiện nhiệm vụ xã hội trong doanh nghiệp của thủ đô Hà Nội Trong những năm qua, phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn, CNVC-LĐ Thủ đô đã có những đóng góp to lớn vào thành tựu kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội. Tổng sản phẩm xã hội (GDP) hàng năm tăng 10%, giá trị sản xuất công nghiệp, thương mại dịch vụ, xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, nông nghiệp có mức tăng khá. Xây dựng kết cấu hạ tầng và đô thị có tiến bộ, chính sách xã hội ổn định, năng lực sản xuất được tăng cường, đời sống vật chất cũng như tinh thần của CNVC- LĐ của Thủ đô ngày càng được nâng lên. Do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, đội ngũ CNVC- LĐ của Thủ đô đã và đang có sự phát triển về số lượng, nâng cao về chất lượng và chuyển dịch về cơ cấu. Lực lượng lao động trong các cơ quan hành chính đang từng bước nâng lên về chất đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính. * Về cơ cấu: Tính đến thời điểm cuối năm 2004, CNVC- LĐ Thủ đô có khoảng 60 vạn người. Do nhu cầu sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước, nên số lượng CNLĐ địa phương giảm 14% (từ 6, 28 vạn còn 5,4 vạn người). Số lượng CNLĐ khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 27 % (từ 10,2 vạn lên 13 vạn). CNLĐ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng 7% (từ 2, 2 vạn lên 2,8 vạn). Trong khi đó lực lượng lao động khực hành chính sự nghiệp chỉ tăng 3,7% (từ 13, 5 vạn lên 14 vạn). * Về chất lượng: Số CNVC - LĐ có trình độ học vấn phổ thông trung học trở lên chiếm khỏảng 76%. CNVC- LĐ có trình độ trung cấp nghiệp vụ chiếm khoảng 9,1%, CNVC-LĐ có trình độ đại học chiếm khoảng 19,3%. Công nhân có tay nghề bậc 4- 5 chiếm 29%, công nhân có tay nghề bậc 6 - 7 chiếm khoảng 9,4 %. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần yêu nước, đoàn kết, năng động sáng tạo, vượt lên thử thách, CNVC- LĐ Thủ đô trong những năm qua đã góp phần xứng đáng vào những thành tựu phát triển kinh tế của Thủ đô Hà Nội, làm cho diện mạo của Thủ đô ngày càng tươi đẹp, xứng đáng với cía tên Thủ đô anh hùng, nghìn năm văn hiến. Bên cạnh đó CNVC- LĐ Thủ đô đã tích cực tham gia vào các hoạt động xã hôị, từ thiện như xây dựng nhà tình nghĩa, xoá đói giảm nghèo, ủng hội nạn nhân chất đốc màu da cam, chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ, chăm sóc phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng vv… Đặc biệt, Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội là một trong những đơn vị đi đầu, tuyên tuyền vận động CNVC-LĐ hưởng ứng các phong trào trên và mang lại hiệu quả rất lớn. CNVC- LĐ đã đóng góp hơn 5 tỷ đồng, nhân dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long- Hà nội, đã hoàn thành chỉ tiêu do Thành phố giao, góp phần xây dựng sửa chữa 990 nhà tình nghĩa của Thành phố. Các cấp Công đoàn Thủ đô đã duy trì, phát triển Quỷ trợ cấp khó khăn đặc biệt để trợ giúp những CNVC- LĐ có hoàn cảnh khó khăn; số dư hàng năm của của ở cấp cơ sở từ 2- đến 3 tỷ đồng. Năm 2005 cấc cấp Công đoàn của thủ đô Hà Nội đã phối hợp cùng chính quyền tổ chức đi thăm hỏi và tặng quà cho 1360 gia đình CNVC-LĐ có hoàn cảnh khó khăn với số tiền trên 1 tỷ đồng. Tóm lại, Công đoàn với vai trò, chức năng của mình, cần tuyên truyền giáo dục cho CNVC- LĐ trong doanh nghiệp thấy được ý nghĩa sâu sắc của việc tham gia đóng góp vào công tác xã hội. Có làm tốt công tác xã hội thì doanh nghiệp mới có uy tín, mới gây dựng được sự hổ trợ của xã hội, mới đững vững trong lòng tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp cũng như trong cộng đồng và xã hội. 2.2. Tình hình xây dựng văn hóa doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong các doanh nghiệp nhà nước ở Thủ Đô Hà Nội trong những năm qua Thủ đô Hà Nội là một thị trường rộng lớn và sôi động, với sự có mặt của của nhiều loại hình doanh nghiệp. Trong đó doanh nghiệp nhà nước có khoảng 717 doanh nghiệp, (bao gồm 526 doanh nghiệp Trung ương và 191 doanh nghiệp địa phương). Với số lượng doanh nghiệp lớn như vậy, chúng tôi không thể nào khảo sát hết được. Chúng tôi đã chọn ngẫu nhiên 3 doanh nghiệp, trong đó có 2 doanh nghiệp địa phương. Đó là: Công ty giày Thượng Đình, Công ty Thiết bị chiếu sáng đô thị Hà Nội, 1 doanh nghiệp Trung ương đó là: Công ty IN Công đoàn Việt Nam. Trong số này có đơn vị đã có bề dày văn hoá 60 năm như Công ty In Công đoàn Việt Nam, nhưng cũng có đơn vị mới xây dựng được gần 20 năm như Công ty chiếu sáng và thiết bị đô thị Hà Nội. Ngoài ra còn có một số doanh nghiệp khác như Công ty Rượu - bia Thăng Long, Công ty Nước sạch Hà Nội, Công ty Xe lửa Gia Lâm, Công ty thuốc lá Thăng Long, Công ty Du lịch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Văn hoá doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng Văn hoá doanh nghiệp 3.pdf
Tài liệu liên quan