Tài liệu Luận văn Vấn đề tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay: I.
LUẬN VĂN:
Tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách giáo
dục - đào tạo ở nước ta hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng công tác giáo dục - đào tạo
(GD-ĐT). Cùng với khoa học và công nghệ, GD-ĐT đã được Đại hội VIII của Đảng xác
định là quốc sách hàng đầu, coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Trong những
năm qua, mặc dù điều kiện đất nước và ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn, Nhà
nước vẫn dành một tỷ lệ ngân sách đáng kể để đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Với nguồn
ngân sách đó, GD-ĐT đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng vẫn còn bộc lộ
nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Để phát huy hơn nữa hiệu quả sử dụng ngân sách,
khắc phục những hạn chế còn tồn tại, một trong những vấn đề quan trọng cần phải làm
sáng tỏ thêm cả về lý luận lẫn thực tế đó là đổi mới quản lý ngân sách giáo dục- đào tạo.
Xuất phát từ thực tế trên đây, đề tài " Tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách giáo dục - đào
tạo ...
102 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1153 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I.
LUẬN VĂN:
Tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách giáo
dục - đào tạo ở nước ta hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng công tác giáo dục - đào tạo
(GD-ĐT). Cùng với khoa học và công nghệ, GD-ĐT đã được Đại hội VIII của Đảng xác
định là quốc sách hàng đầu, coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Trong những
năm qua, mặc dù điều kiện đất nước và ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn, Nhà
nước vẫn dành một tỷ lệ ngân sách đáng kể để đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Với nguồn
ngân sách đó, GD-ĐT đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng vẫn còn bộc lộ
nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Để phát huy hơn nữa hiệu quả sử dụng ngân sách,
khắc phục những hạn chế còn tồn tại, một trong những vấn đề quan trọng cần phải làm
sáng tỏ thêm cả về lý luận lẫn thực tế đó là đổi mới quản lý ngân sách giáo dục- đào tạo.
Xuất phát từ thực tế trên đây, đề tài " Tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách giáo dục - đào
tạo ở nước ta hiện nay " được lựa chọn làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành
quản lý kinh tế và hy vọng rằng sẽ đóng góp một phần nhỏ đáp ứng đòi hỏi thực tiễn
đang đặt ra hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đã có một số công trình nghiên cứu về đổi mới công tác lập kế hoạch và cơ chế
quản lý ngân sách giáo dục và đào tạo giai đoạn 1990 - 1995 như "Đổi mới và hoàn thiện
cơ chế quản lý ngân sách hệ thống giáo dục quốc dân" của TS Trần Thu Hà (năm 1993);
đề tài "Xây dựng qui trình lập kế hoạch và cơ chế điều hành ngân sách giáo dục - đào
tạo", đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tài chính (năm 1996)... Các công trình
trên đề cập đến nhiều khía cạnh về quản lý, điều hành ngân sách giáo dục - đào tạo ở tầm
vĩ mô, nặng về tổng kết thực hiện các năm trước, chưa chú trọng nghiên cứu một cách cơ
bản, hệ thống cơ chế quản lý ngân sách GD-ĐT và ít chú trọng đến các giải pháp thực
hiện, nhất là trong giai đoạn 2000- 2010. Vì vậy, đề tài được lựa chọn nghiên cứu góp
phần bổ sung, hoàn thiện thêm những vấn đề còn bỏ ngỏ, đang cần được làm rõ.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu chủ yếu về quản lý ngân sách GD-ĐT ở nước ta trong thời
gian qua, trong đó đi sâu phân tích thực trạng quản lý và công tác kế hoạch hóa ngân sách
GD-ĐT; Thực trạng công tác điều hành ngân sách GD-ĐT và việc quản lý, sử dụng các
nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước.
Trong khuôn khổ luận văn cao học và đối tượng nghiên cứu trên đây, luận văn
giới hạn trong phạm vi quản lý kế hoạch ngân sách GD-ĐT, các giải pháp chủ yếu để tiếp
tục đổi mới quản lý ngân sách GD-ĐT (không nghiên cứu kế hoạch phát triển GD-ĐT).
Các khía cạnh khác liên quan sẽ được đề cập khi cần thiết.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
+ Mục đích:
Luận văn nghiên cứu làm rõ thêm nội dung quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo;
góp phần nâng cao chất lượng GD-ĐT ở nước ta trong điều kiện cơ chế thị trường.
+ Nhiệm vụ của luận văn:
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm về lý luận vị trí của sự nghiệp GD-ĐT; Mối quan
hệ giữa GD-ĐT với sự phát triển kinh tế xã hội và nội dung quản lý ngân sách GD-ĐT.
- Phân tích tình hình và thực trạng quản lý ngân sách GD-ĐT ở nước ta, nhất là
những năm trong thời kỳ đổi mới gần đây.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách GD-ĐT ở
nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận để nghiên cứu luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử và các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan
điểm đường lối chính sách tài chính, chính sách giáo dục nước ta.
Cùng với phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử dụng các
phương pháp nghiên cứu là kết hợp nghiên cứu lý thuyết với quan sát đánh giá thực tiễn,
đồng thời sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, hệ thống hóa, phân tích, so sánh từ
đó đề ra các giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách GD-ĐT ở nước ta hiện
nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 chương, 9 tiết
Chương 1
những vấn đề cơ bản về quản lý ngân sách
ngành giáo dục - đào tạo
1.1. sự nghiệp giáo dục - đào tạo trong phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước
1.1.1. Vai trò, vị trí của sự nghiệp giáo dục - đào tạo
Giáo dục bao gồm tất cả các loại hình học tập từ mầm non, giáo dục phổ thông,
bổ túc văn hóa nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng thế hệ trẻ thành người lao động có giác
ngộ chính trị, có phẩm chất đạo đức, có sức khỏe đồng thời có trình độ văn hóa phổ
thông, làm cơ sở cho quá trình đào tạo tiếp theo. Đào tạo bao gồm các lĩnh vực từ trung
học chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng, đại học và sau đại học, đây là quá trình truyền
thụ kiến thức khoa học kỹ thuật cho người học, nhằm nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, tay nghề cho người lao động, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, giáo dục và đào tạo luôn
luôn có mối liên quan mật thiết với nhau. Giáo dục và nền tảng để phát triển đào tạo, đào
tạo là hoạt động tiếp tục của giáo dục, đào tạo có tác dụng thúc đẩy, định hướng và dẫn
dắt sự phát triển của giáo dục.
Giáo dục - Đào tạo là hoạt động không thể thiếu đối với sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia. Muốn có một nền kinh tế phát triển, một xã hội văn minh
đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực phát triển cả về thể chất lẫn trí tuệ. Sản phẩm của
GD-ĐT là con người, là yếu tố đặc biệt quan trọng trong quá trình sản xuất tạo ra của cải
vật chất cho xã hội. Trình độ thành thạo, kỹ năng của con người có tác động trực tiếp đến
năng suất lao động, việc hình thành kỹ năng nhất thiết phải thông qua giáo dục và phải
được đào tạo.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước về thực chất là nâng cao
năng suất lao động xã hội bằng cách thúc đẩy phát triển công nghiệp, sử dụng khoa học
công nghệ tiên tiến, đưa đất nước lên một trình độ phát triển mới. Nhân tố quyết định
thành công của CNH, HĐH tất yếu là nhân tố con người. Mệnh đề "con người đứng ở
trung tâm của sự phát triển", với ý nghĩa "con người vừa là mục đích, vừa là tác nhân
của sự phát triển" đã được UNESCO chính thức đề ra trong tài liệu "Hiểu để hành động",
xuất bản năm 1997 tại Paris. Quan điểm này ngày nay được nhiều nước thừa nhận và
phát triển hết sức phong phú cả về lý luận và thực tiễn như một qui luật phát triển của
thời đại. Các nước đang phát triển có thể rút ngắn thời kỳ công nghiệp hóa trên cơ sở đầu
tư phát triển mạnh nguồn lực con người. Sự đầu tư được hiểu trên cả ba mặt: chăm sóc
sức khỏe, nâng cao mức sống và phát triển sự nghiệp GD-ĐT. Trong đó đầu tư cho sự
nghiệp GD-ĐT là đầu tư có hiệu quả nhất.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở đất nước ta đặt ra mục tiêu là đến năm
2020 về cơ bản sẽ trở thành một nước công nghiệp. Nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc CNH, HĐH là nguồn lực con người Việt Nam được phát triển về số lượng và
chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Vì vậy, muốn đảm bảo tăng trưởng
về kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, giữ vững an ninh
chính trị trước hết phải chăm lo phát triển nguồn lực con người, chuẩn bị lớp người lao
động có những phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong giai
đoạn mới. Để làm được điều này ngành GD-ĐT phải nhanh chóng đổi mới, phấn đấu đưa
nền giáo dục nước nhà đạt trình độ tiên tiến so với các nước trong khu vực trong vòng
một, hai thập kỷ tới.
1.1.2. Mối quan hệ giữa giáo dục - đào tạo với sự phát triển kinh tế - xã hội
Giáo dục - đào tạo đã và đang trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp, góp
phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức đúng đắn vai
trò của GD-ĐT đã làm thay đổi thái độ của nhiều quốc gia đối với vấn đề phát triển giáo
dục. Nhiều quốc gia đã nhìn thấy nguy cơ tụt hậu của quốc gia mình, có một phần nguyên
nhân từ sự yếu kém về GD-ĐT. Vì vậy, xu hướng tăng cường phát triển GD-ĐT, coi nó
như một đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đã trở thành một xu hướng có tính
chất toàn cầu trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2.1. Giáo dục - đào tạo là động lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, lao động là yếu tố chủ thể
của quá trình sản xuất. trong đó tri thức, kỹ năng của người lao động là yếu tố quyết định
sự phát triển của lực lượng sản xuất, là động lực thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng của
khoa học công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động [1]. C.Mác đã từng chỉ ra rằng:
lao động lành nghề là bội số của lao động giản đơn. Như vậy lao động đã qua đào tạo
trong một thời gian nhất định tạo ra nhiều giá trị hơn lao động chưa qua đào tạo. Nhưng
trong thực tế không phải mọi lao động đều có trình độ nghề nghiệp như nhau, đồng thời
do tính phong phú đa dạng của nền kinh tế - xã hội tạo nên lao động có những nghề
nghiệp khác nhau và trình độ lao động của mỗi người cũng khác nhau trên cơ sở đáp ứng
yêu cầu của từng ngành, từng đơn vị và từng vị trí lao động cụ thể. Vì vậy, GD-ĐT phải
cung cấp cho các ngành của nền kinh tế xã hội lực lượng lao động không chỉ về số lượng
mà còn đảm bảo về chất lượng, về cơ cấu ngành nghề và cơ cấu trình độ lao động. Nguồn
nhân lực với số lượng và chất lượng cao sẽ là một trong những nhân tố quan trọng nhất
quyết định qui mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Sự phát triển nguồn lực thông qua GD-ĐT là nền tảng của tư tưởng giáo dục là
quốc sách hàng đầu và giáo dục là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Theo chương
trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) trong sự phát triển nguồn lực có 5 nhân tố là:
Giáo dục, sức khỏe và dinh dưỡng, môi trường, việc làm, tự do chính trị và kinh
tế. Năm nguồn này liên kết và phụ thuộc nhau, nhưng giáo dục được coi là nhân tố cơ
bản, là nhân tố thiết yếu để cải thiện sức khỏe và dinh dưỡng, để duy trì môi trường có chất
lượng cao, để mở rộng và cải thiện nguồn lao động. Chính vì thế mà hầu như mọi nước đều
nhấn mạnh đến chính sách giáo dục như là chính sách ưu tiên quốc gia trong khi xúc tiến
các kế hoạch cho sự phát triển [32, tr. 41].
Vai trò động lực đối với sự phát triển kinh tế xã hội của GD-ĐT còn được thể
hiện ở việc giáo dục nâng cao dân trí làm nền tảng cho sự phát triển của đất nước. Dân trí
được biểu hiện ở trữ lượng và trình độ học vấn của dân tộc. Giáo dục nâng cao dân trí có
nghĩa giáo dục phải nâng cao được qui mô và chất lượng về phẩm chất đạo đức, trình độ
khoa học công nghệ, thể chất và thẩm mỹ. Trình độ dân trí được coi là sức mạnh của
công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước trước mắt và lâu dài.
Khi đánh giá mặt bằng dân trí của quốc gia người ta phải chú ý cả phương diện
định tính và định lượng của dân trí. Mặt định tính của dân trí được thể hiện ở chất lượng
học vấn mà người dân đã đạt được (học vấn đó có phù hợp với trình độ tri thức chung của
thế giới hay không). Mặt định lượng của dân trí được xác định qua các chỉ số như:
Tỷ lệ người biết chữ so với tổng số dân
Tỷ lệ thanh niên, nhi đồng dưới 23 tuổi được đi học
Bình quân số năm học trung bình của một người dân
Tỷ lệ trẻ 5 tuổi học mẫu giáo trước lúc vào tiểu học
Tỷ lệ học sinh học trong độ tuổi 6- 11
Tỷ lệ học sinh trung học các cấp, các ngành ở độ tuổi 11- 16
Tỷ lệ sinh viên đại học ở độ tuổi 17- 23...
Trong các chỉ tiêu trên, chỉ tiêu về tỷ lệ người biết chữ và số năm học trung bình
của một người dân là hai chỉ tiêu quan trọng nhất để xác định mặt định lượng của dân trí
[3].
Nhìn khái quát lịch sử phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trong thế kỷ
qua cũng cho thấy vị trí quan trọng hàng đầu của sự nghiệp phát triển GD-ĐT trong phát
triển kinh tế - xã hội.
Ngay những năm 20 của thế kỷ XX, nhà kinh tế học giáo dục lỗi lạc người Nga -
X.G.Strumilin đã rút ra kết luận quan trọng: Đầu tư cho giáo dục để phát triển nhân lực 1
đồng sẽ đem lại khả năng sinh lời 4 đồng cho nền kinh tế. Những năm 60 của thế kỷ XX,
một nhà kinh tế học giáo dục người Mỹ cùng cộng sự của mình nghiên cứu và đi tới kết
luận: Trong hai nguồn vốn cơ bản cho phát triển, cho công nghiệp hóa thì "Vốn người"-
Human Capital giữ vai trò quyết định so với "vốn vật chất"- Material Capital.
Thế giới hiện đại ngày nay cũng cung cấp nhiều bằng chứng thuyết phục: Không
có quốc gia nào phát triển cao mà trình độ nhân lực, học vấn dân tộc thấp. Tương tự,
không có quốc gia nào có trình độ nhân lực thấp kém lại phát triển cao. Cạnh tranh quốc
tế ngày nay thực chất là cạnh tranh về khoa học - công nghệ, cạnh tranh về nguồn nhân
lực có trình độ cao, mà khoa học - công nghệ và trình độ nhân lực lại phụ thuộc vào sự
phát triển của GD-ĐT. Vì vậy, GD-ĐT là nền tảng của sự phát triển, đầu tư cho GD-ĐT
là đầu tư vào lĩnh vực phát triển bền vững và hiệu quả nhất.
1.1.2.2. Kinh tế xã hội đảm bảo điều kiện cho phát triển giáo dục - đào tạo
Bất cứ nền giáo dục nào cũng không thể tồn tại và phát triển được nếu thiếu điều
kiện đảm bảo về kinh tế. Nếu giáo dục được coi là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã
hội thì kinh tế - xã hội là nền tảng đảm bảo điều kiện cho phát triển giáo dục. Điều này
thể hiện ở một số phương diện sau:
- Kinh tế - xã hội đảm bảo cho sự phát triển GD-ĐT thông qua việc đầu tư.
Muốn duy trì được hoạt động bình thường và phát triển GD-ĐT, nhất thiết phải
đầu tư. Nguồn đầu tư lớn nhất và có tính chất thường xuyên, ổn định là ngân sách nhà
nước. Đầu tư càng lớn thì giáo dục càng có điều kiện phát triển, tuy vậy sự đầu tư còn
phụ thuộc vào khả năng của nền kinh tế đất nước cũng như chủ trương, chính sách của
Nhà nước và sự quan tâm của xã hội đối với giáo dục. Ngược lại, nếu đầu tư ít, dẫn đến
giáo dục sẽ chậm phát triển. Giáo dục chậm phát triển thì khó đạt được các mục tiêu dân
trí, nhân lực, nhân tài, từ đó ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế.
- Kinh tế - xã hội định hướng và tạo môi trường xã hội cho sự phát triển giáo dục.
Một trong những qui luật cần lưu ý trong phát triển GD-ĐT là GD-ĐT chịu sự
chế ước của xã hội. Nội dung qui luật này thể hiện ở sự qui định của kinh tế xã hội đối
với giáo dục. Điều này có nghĩa: sự phát triển kinh tế - xã hội qui định sự phát triển giáo
dục, giáo dục mặc dù có sự vận động độc lập của một tiểu hệ thống, nhưng phải định
hướng theo sự định hướng của hệ thống lớn là kinh tế - xã hội.
Kinh tế - xã hội không chỉ định hướng, đầu tư về cơ sở vật chất và tài chính mà
còn tạo ra môi trường xã hội rộng lớn tạo điều kiện cho sự phát triển giáo dục. Môi
trường xã hội của giáo dục gồm: Môi trường gia đình, các cộng đồng dân cư, các tổ chức
xã hội... Môi trường xã hội tạo điều kiện cho sự phát triển giáo dục ở chỗ: thứ nhất, hỗ
trợ các điều kiện vật chất, tinh thần cho giáo dục; thứ hai, góp phần tác động giáo dục
đến các đối tượng giáo dục (học sinh, sinh viên...); thứ ba, sử dụng người được đào tạo.
Như vậy, để phát triển giáo dục, cần tạo ra mối quan hệ, liên hệ chặt chẽ giữa Đảng, Nhà
nước với giáo dục.
Tóm lại, giáo dục và kinh tế xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Giáo dục là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, nhưng muốn phát triển giáo
dục, cần phải có sự đảm bảo các điều kiện từ phía kinh tế - xã hội, một trong những
điều kiện đó là sự đầu tư của kinh tế - xã hội cho giáo dục.
1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục - đào tạo
Dân tộc ta có truyền thống văn hóa lâu đời, đó là truyền thống hiếu học, tôn sư
trọng đạo. Cổ nhân xưa vẫn thường dạy: "ấu bất học, Lão hà vi", điều này có thể nói rằng
không học hành thì chẳng thể làm được việc gì. Ngay từ sau Cách mạng tháng 8 năm
1945, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì
lợi ích trăm năm trồng người", Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm tới GD-ĐT, đã
có nhiều chủ trương, biện pháp thúc đẩy ngành GD-ĐT phát triển, góp phần vào sự
nghiệp kháng chiến và xây dựng đất nước của dân tộc ta. Tư tưởng chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước được thể chế bằng các văn bản có hiệu lực pháp lý cao như Hiến pháp 1946,
Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và đặc biệt Hiến pháp 1992 đã ghi rõ: "Giáo dục và Đào
tạo được xác định là quốc sách hàng đầu" (Điều 35). Đến Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) năm 1993 đã ra Nghị quyết về "Tiếp tục đổi mới sự
nghiệp giáo dục - đào tạo" với bốn quan điểm:
- Giáo dục và đào tạo là quốc sách, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản đảm
bảo việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước, phải coi
đầu tư cho giáo dục là hướng chính của đầu tư phát triển
- Mục tiêu giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
đào tạo những con người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp... Mở
rộng qui mô đào tạo, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục, gắn học
với hành, tài với đức.
- Giáo dục - đào tạo gắn với yêu cầu phát triển đất nước và phù hợp với xu thế
tiến bộ của thời đại.
- Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục.
Trong báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ
rõ: "Cùng với Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng qui
mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả " [38, tr. 107]. Đại hội lần thứ VIII Đảng
Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định "đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước". Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH phải "lấy việc phát huy nguồn lực
con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Đảng Cộng sản Việt
Nam đã chọn GD-ĐT, khoa học - công nghệ (KH-CN) làm khâu đột phát trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, chính vì vậy
Đảng ta đã có riêng Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về GD-ĐT và KH-CN. Nghị
quyết Trung ương 2 (khóa VIII) đã nhất quán với tư tưởng và mục tiêu đã nêu ở Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa VII) và Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng. Trong đó đã nêu 6
định hướng chiến lược phát triển GD-ĐT trong thời kỳ CNH, HĐH, đó là:
- Mục tiêu cơ bản của GD-ĐT là nhằm xây dựng con người có lý tưởng, đạo đức
trong sáng, biết giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực và biết
phát huy nội lực, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, kỹ
năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp và có sức khỏe để phụng sự Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
- Muốn thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, phải thực sự coi GD-ĐT,
KH - CN là nhân tố quyết định. Tiếp tục khẳng định coi GD-ĐT là quốc sách hàng đầu.
- Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân.
- Phát triển GD-ĐT gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ
KH-CN và củng cố an ninh quốc phòng. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng qui mô, nâng cao
chất lượng và phát huy hiệu quả, thực hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất,
nghiên cứu khoa học, lý thuyết với thực tiễn, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội.
- Các trường công lập phải giữ vai trò nòng cốt đi đôi với đa dạng hóa các loại
hình GD-ĐT.
- Thực hiện công bằng xã hội trong GD-ĐT
Nhận thức rõ vai trò của sự nghiệp GD-ĐT trong giai doạn hiện nay và để tăng
cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với sự nghiệp GD-ĐT, Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X (kỳ họp thứ 4) đã thông qua Luật giáo dục ngày
2/12/1998, có hiệu lực kể từ ngày 1/6/1999. Đây là văn kiện pháp lý hết sức quan trọng
liên quan tới mọi khía cạnh của lĩnh vực GD-ĐT, có tác động to lớn tới toàn xã hội, mọi
người dân Việt Nam
Quan điểm GD-ĐT là quốc sách hàng đầu đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng
định từ nhiều năm qua. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định
GD-ĐT là quốc sách hàng đầu, phát triển GD-ĐT là một động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Nghị quyết Đại hội IX cũng đã chỉ ra
phương hướng phát triển GD-ĐT trong những năm tới là:
- Tiếp tục nâng cao chất lượng toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và
học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện "chuẩn hóa, hiện đại
hóa, xã hội hóa"
- Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao
năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề. Thực hiện phương châm "học đi đôi
với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với đời sống xã
hội".
- Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng hình thức chính qui và
không chính qui, thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở thành một xã hội học
tập".
Trong những năm tới quan điểm này cần phải được quán triệt sâu sắc hơn, phải
coi là kim chỉ nam xuyên suốt quá trình chỉ đạo, quản lý hoạt động giáo dục - đào tạo
đồng thời phải làm cho mọi người dân, mọi cấp, mọi ngành nhận thức rõ và coi đây là
nhiệm vụ thường xuyên, nhiệm vụ trung tâm trên con đường CNH, HĐH đất nước.
1.2. Nội dung quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo
1.2.1. Các nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục - đào tạo
Tài chính ra đời gắn liền với sự ra đời và phát triển của Nhà nước và nền sản xuất
hàng hóa. Tài chính là những quan hệ kinh tế trong phân phối sản phẩm quốc dân. Trên
cơ sở đó các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung được hình thành và sử dụng cho tái
sản xuất xã hội, tăng trưởng kinh tế và thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của Nhà
nước. Tài chính là những quan hệ kinh tế nhưng không phải mọi quan hệ kinh tế trong
nền kinh tế xã hội
đều thuộc phạm vi tài chính. Tài chính chỉ bao gồm những quan hệ kinh tế trong phân
phối gắn liền với quá trình hình thành, sử dụng các quỹ tiền tệ. Mỗi quỹ tiền tệ được hình
thành luôn gắn liền và phản ánh mối quan hệ sở hữu về thu nhập, mỗi quỹ tiền tệ đều có
mục đích sử dụng xác định. Sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ đều được thể chế
hóa bởi hệ thống các chế độ và luật tài chính.
Tài chính luôn gắn liền với Nhà nước, là công cụ quan trọng được Nhà nước sử
dụng để quản lý vĩ mô nền kinh tế, thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của Nhà nước.
Quan hệ tài chính của các cơ sở GD-ĐT chính là quan hệ giữa thực thể nhà nước với thực
thể các cơ sở giáo dục - đào tạo với tư cách là một pháp nhân có chức năng giáo dục và
đào tạo. Khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, tài chính nói chung có ba chức
năng: chức năng tổ chức vốn; chức năng phân phối; chức năng giám đốc.
* Chức năng tổ chức vốn là sự thu hút vốn bằng nhiều hình thức từ các thành
phần kinh tế, các chủ thể, các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế như: vay mượn, đóng
góp tự nguyện... để hình thành các quỹ tiền tệ nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh
hoặc tiêu dùng và phát triển kinh tế - xã hội.
* Chức năng phân phối của tài chính là sự phân chia tổng sản phẩm quốc dân
(GNP) theo những tỷ lệ và xu hướng nhất định cho tiết kiệm và tiêu dùng nhằm tích tụ
tập trung vốn để đầu tư phát triển kinh tế và thỏa mãn các nhu cầu chung của Nhà nước,
của xã hội và cá nhân.
* Chức năng giám đốc là thuộc tính khách quan vốn có của tài chính, bắt nguồn
từ bản chất của tài chính. Chức năng giám đốc của tài chính bao gồm nhiều khía cạnh,
trong đó chủ yếu là quá trình kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính nhằm làm tốt
toàn bộ quá trình phân phối GNP.
Để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình, Nhà nước cần nắm được một
lượng của cải vật chất nhất định được hình thành chủ yếu từ các nguồn thu mà các tổ
chức dân cư có nghĩa vụ phải nộp cho Nhà nước theo qui định của pháp luật. Từ các
nguồn thu đó mà quĩ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước được hình thành và nó được
gọi là quỹ ngân sách - đó là cơ sở vật chất đảm bảo cho Nhà nước tồn tại và hoạt động.
"Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước trong dự toán đã được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm
bảo thực hiện các chức năng của Nhà nước".
Đối với GD-ĐT, tài chính có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của
hệ thống, nó vừa là phương tiện để hệ thống GD-ĐT duy trì và phát triển các hoạt động của
mình, vừa là công cụ để nhà nước và các cơ sở GD-ĐT thực hiện các chính sách, các mục
tiêu đã định.
Nước ta đang trong quá trình đổi mới theo hướng xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đối với GD-ĐT vai trò của nguồn tài chính tập trung của nhà nước
(ngân sách nhà nước) có ý nghĩa quyết định và chủ đạo. Tính chất này thể hiện ở các mặt
sau đây:
- Ngân sách nhà nước (NSNN) là nguồn tài chính chủ yếu đảm bảo hoạt động
cho các cơ sở giáo dục và đào tạo, nhằm duy trì và phát triển hệ thống giáo dục đào tạo
theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
- Đầu tư từ nguồn NSNN để xây dựng cơ sở vật chất trường lớp, mua sắm trang
thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu và ứng dụng vào lao động sản xuất, một
mặt tạo điều kiện để tăng về số lượng và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.
Mặt khác, tạo điều kiện thu hút sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân, các doanh
nghiệp, cộng đồng xã hội nhằm thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục.
- Nguồn NSNN đảm bảo ổn định và phát triển đời sống đội ngũ cán bộ giáo viên,
thông qua chế độ lương và các phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo, các chế độ và đào tạo bồi
dưỡng... Đây là đội ngũ công chức lớn trong hệ thống cơ quan hành chính sự nghiệp ở
nước ta.
- Ngân sách nhà nước đầu tư cho GD-ĐT còn giải quyết tốt các vấn đề chính
sách xã hội thông qua các chế độ về học bổng, sinh hoạt phí và các chế độ đãi ngộ vật
chất cho học sinh diện chính sách, khuyến khích học sinh tài năng, học sinh nghèo vượt
khó.
- Ngân sách nhà nước có vai trò điều tiết, phát triển các ngành học, bậc học theo
cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân lực của nền kinh tế thông qua việc phân bổ
ngân sách theo những định mức khác nhau, có phân biệt theo ngành nghề đào tạo.
Ngoài nguồn thu chủ yếu từ NSNN, các cơ sở giáo dục đào tạo còn được đầu tư
bằng nguồn ngoài ngân sách nhà nước. Với phương châm "nhà nước và nhân dân cùng
làm", Chính phủ đã có Nghị quyết về thực hiện xã hội hóa giáo dục đào tạo (Nghị quyết
90/CP ngày 21/8/1997), khẳng định sự nghiệp GD-ĐT là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn
dân; mọi cá nhân, tổ chức đều phải có trách nhiệm quan tâm đóng góp sức lực, trí tuệ,
tiền của để phát triển sự nghiệp GD-ĐT.
Xã hội hóa giáo dục (XHHGD) là một xu hướng mới xuất hiện gần đây ở các
nước phát triển và đang phát triển. Bản chất của XHHGD là đa dạng hóa các loại hình
đào tạo, là sự huy động đóng góp của mọi người, mọi tầng lớp, tổ chức và xã hội tham
gia vào giáo dục dưới sự điều tiết và giám sát của nhà nước. Hình thức XHHGD chính là
công cụ để tăng cơ hội tiếp cận với giáo dục cho mọi người, giảm gánh nặng ngân sách
nhà nước phải đầu tư vào giáo dục và thúc đẩy tiến trình tiến tới một xã hội học tập.
Trong những năm qua, chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục đào tạo có xu hướng
tăng lên, nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển ngành giáo dục đào tạo.
Chính vì vậy cần phải tích cực huy động các nguồn lực tài chính ngoài NSNN. Vai trò
của nguồn ngoài NSNN đầu tư cho giáo dục đào tạo thể hiện trên các mặt sau đây:
- Tăng nguồn đầu tư cho sự nghiệp GD-ĐT để nâng cấp cơ sở vật chất, cải thiện
đời sống cán bộ giáo viên nhằm từng bước nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo
- Khai thác các tiềm năng, sự đóng góp của các thành phần kinh tế, của cộng
đồng xã hội, trong khi nguồn NSNN còn hạn hẹp
- Tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đào tạo chủ động hơn trong việc huy động
và sử dụng có hiệu quả sự đóng góp của cộng đồng xã hội
Các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục - đào tạo bao
gồm:
- Tiền học phí, lệ phí tuyển sinh, tiền đóng góp xây dựng trường sở của học sinh
và gia đình người học. Đây là nguồn thu tương đối ổn định theo chế độ chính sách qui
định của nhà nước. Cùng với nguồn NSNN, học phí và các khoản lệ phí có thể xác định
được căn cứ vào số lượng người học và mức thu theo qui định có phân biệt đối với từng
đối tượng, vùng miền và bậc học. Nguồn thu này có thể kế hoạch hóa được trong dự
toán thu chi ngân sách toàn ngành.
- Nguồn thu từ tài trợ của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước, bằng tiền,
hiện vật hoặc công lao động. Đây là nguồn thu không thường xuyên nhưng là nguồn đóng
góp không nhỏ đối với đầu tư cho GD-ĐT.
- Nguồn thu từ các hợp đồng nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ cho
các ngành kinh tế, thu từ các hợp đồng liên kết đào tạo.
1.2.2. Nội dung quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo
Ngân sách nhà nước là bản tổng hợp các khoản thu chi bằng tiền của Nhà nước
cho một khoảng thời gian nhất định nào đó, thường là một năm. Có thể nói, năm được
dùng làm đơn vị thời gian chuẩn cho hoạt động của NSNN. ở hầu hết các nước trên thế
giới, dự toán NSNN đều được xác định cho từng năm, các năm đó được gọi là năm ngân
sách (hay năm tài khóa). Điều khác nhau ở các nước là mốc tính năm ngân sách, tức là
thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của một năm ngân sách không hoàn toàn giống
nhau. Chẳng hạn ở Nhật mốc tính năm ngân sách là 01 tháng 4 năm nay đến 31 tháng 3
năm sau; ở Mỹ từ 1/10 năm nay đến 30/9 năm sau; ở Việt Nam, Trung Quốc và một số
nước Đông Âu lại qui định năm ngân sách trùng với năm dương lịch.
Quản lý ngân sách GD-ĐT ở nước ta là quản lý các nguồn thu (thu từ NSNN cấp và
thu ngoài NSNN) và các nhiệm vụ chi cho GD-ĐT thông qua chu trình quản lý ngân sách
sau đây:
- Xây dựng dự toán ngân sách GD-ĐT
- Chấp hành dự toán
- Kế toán và quyết toán
* Xây dựng dự toán ngân sách là khâu mở đầu của một chu trình ngân sách, là
khâu cơ sở cho các khâu tiếp theo. Nếu khâu lập dự toán được thực hiện một cách có cơ
sở khoa học sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các khâu tiếp theo nhất là khâu chấp hành ngân
sách. Dự toán ngân sách phải đảm bảo thực hiện đầy đủ và đúng đắn các quan điểm chính
sách tài chính quốc gia như: trật tự cơ cấu các nguồn thu, thứ tự, cơ cấu và nội dung chi
tiêu đồng thời phải tuân thủ các yêu cầu của Luật Ngân sách nhà nước.
* Chấp hành dự toán NSNN là khâu tiếp theo sau khâu lập ngân sách. Đó là quá
trình sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế- tài chính nhằm biến các chỉ tiêu thu chi ghi
trong kế hoạch NSNN trở thành hiện thực. Thông qua chấp hành NSNN mà tiến hành kiểm
tra việc thực hiện các chính sách chế độ, tiêu chuẩn, định mức kinh tế- tài chính của Nhà
nước.
* Quyết toán ngân sách là khâu cuối cùng của một chu trình ngân sách. Đó là
việc tổng kết lại quá trình thực hiện dự toán ngân sách sau năm ngân sách kết thúc nhằm
đánh giá toàn bộ kết quả hoạt động của một năm ngân sách. Công tác quyết toán ngân
sách thực hiện tốt sẽ có ý nghĩa hết sức thiết thực trong việc đánh giá quá trình chấp hành
ngân sách sau 1 năm, rút ra những bài học bổ ích cho công tác lập ngân sách và chấp
hành ngân sách cho những chu trình tiếp theo.
Quản lý ngân sách GD-ĐT có những đặc điểm chính sau đây:
- Hầu hết các đơn vị thuộc ngành GD-ĐT được coi là các đơn vị hành chính sự
nghiệp. Đó là các đơn vị được trang trải mọi khoản chi phí để thực hiện nhiệm vụ chính
trị của mình từ nguồn NSNN theo nguyên tắc không
bồi hoàn một cách trực tiếp. Quản lý ngân sách GD-ĐT chủ yếu là quản lý
các nguồn kinh phí từ NSNN cấp hàng năm (các nguồn thu khác chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ).
- Kế hoạch NSNN giao hàng năm cho ngành GD-ĐT được tính theo năm tài chính
(năm dương lịch), nhưng khi tính toán để xây dựng dự toán ngân sách, phân bổ, điều hành
ngân sách lại phải tính đến năm học.
- Ngành GD-ĐT bao gồm nhiều bậc học, nhiều loại hình trường lớp (công lập,
bán công, dân lập, tư thục), nhiều loại hình đào tạo (chính qui, tại chức, đào tạo không
chính qui) với các cấp độ quản lý khác nhau, mức chi khác nhau. Đặc điểm này gây nhiều
khó khăn đối với công tác quản lý ngân sách GD-ĐT.
- Xã hội hóa GD-ĐT ngày càng mở rộng, ngoài nguồn thu chủ yếu từ ngân sách
nhà nước cấp hàng năm, các cơ sở GD-ĐT còn các nguồn thu khác từ học sinh, từ cộng
đồng xã hội, từ các tổ chức quốc tế... đòi hỏi công tác quản lý ngân sách GD-ĐT phải kế
hoạch hóa được các nguồn thu khác, sử dụng một cách có hiệu quả đúng pháp luật.
Chi NSNN cho giáo dục và đào tạo bao gồm hai bộ phận:
- Chi cho giáo dục (Giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông).
- Chi cho đào tạo (Dạy nghề, THCN, Cao đẳng, Đại học, Sau đại học).
Luật Ngân sách nhà nước đã phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách
trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương như sau:
- NSTW đảm nhận những nhiệm vụ chi cho các trường Đại học quốc gia, các
trường Đại học vùng, các trường Đại học, Cao đẳng trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo
và trực thuộc các Bộ ngành khác.
- Ngân sách địa phương đảm nhận chi GD-ĐT trên địa bàn tỉnh, bao gồm các
trường Cao đẳng, Dạy nghề, THCN, các trường Đảng, đoàn thể và khối giáo dục phổ
thông, mầm non [21].
1.2.2.1. Nội dung chi NSNN cho giáo dục - đào tạo ở Trung ương
* Chi thường xuyên cho sự nghiệp đào tạo (bao gồm 4 nhóm chi là: chi cho con
người, chi hành chính quản lý, chi giảng dạy học tập, chi mua sắm sửa chữa) cho các đối
tượng:
+ Chi cho các trường Đại học, Cao đẳng thuộc Trung ương quản lý.
+ Chi cho các trường bồi dưỡng cán bộ.
+ Chi cho các trường dân tộc nội trú Trung ương.
+ Chi đào tạo lưu học sinh nước ngoài ở Việt Nam.
+ Chi đào tạo lưu học sinh Việt Nam ở nước ngoài.
+ Chi đào tạo sau đại học.
+ Chi đào tạo lại.
+ Chi cho các công việc chung của ngành: (Học sinh thi quốc tế, hội nghị, hội
thảo ngành; nộp niên liễm...)
* Chi đầu tư và chi chương trình mục tiêu:
+ Đầu tư cho các trường Đại học, Cao đẳng.
+ Tăng cường cơ sở vật chất cho các trường học, mua sắm trang thiết bị dạy và
học.
+ Đầu tư nhằm thực hiện các chương trình quốc gia (như: chống mù chữ và phổ
cập giáo dục tiểu học; hỗ trợ giáo dục miền núi; tăng cường cơ sở vật chất trường học và
bồi dưỡng giáo viên...)
1.2.2.2. Nội dung chi NSNN cho giáo dục - đào tạo ở địa phương
* Chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo (bao gồm bốn nhóm chi là:
chi cho con người, chi hành chính quản lý, chi giảng dạy học tập, chi mua sắm sửa chữa).
+ Chi cho các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và công nhân
kỹ thuật, trường dạy nghề.
+ Chi đào tạo đại học tại chức, đào tạo sơ cấp ngắn hạn.
+ Chi cho trung tâm lao động hướng nghiệp dạy nghề.
+ Chi cho trung tâm giáo dục thường xuyên, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh.
+ Chi các trường dân tộc nội trú do tỉnh trực tiếp quản lý.
+ Chi cho các trường phổ thông (Tiểu học, THCS, THPT) và BTVH.
+ Chi cho nhà trẻ, mẫu giáo.
* Chi đầu tư và chi chương trình mục tiêu:
+ Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường đại học, cao đẳng, THCN, phổ
thông, dạy nghề do tỉnh quản lý.
+ Đầu tư hỗ trợ cho các trường dân lập, bán công.
+ Đầu tư nhằm thực hiện các chương trình mục tiêu của tỉnh về GD-ĐT.
Việc phân định rõ ràng các khoản chi về GD-ĐT cho các cấp ngân sách có ý nghĩa
hết sức quan trọng nhằm tạo ra một trật tự, thứ tự ưu tiên đầu tư NSNN (gồm cả NSTW và
NSĐP) cho sự nghiệp GD-ĐT. Do tính chất phức tạp của chi đầu tư xây dựng cơ bản, nên
trong khuôn khổ luận văn này chỉ đi sâu phân tích chi thường xuyên và chi chương trình
mục tiêu.
1.2.3. Yêu cầu khách quan phải tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách giáo dục -
đào tạo
Hòa chung trong không khí đổi mới của đất nước, toàn ngành GD-ĐT đang nỗ
lực phấn đấu, quyết tâm đổi mới, khắc phục những yếu kém về chất lượng và hiệu quả
đào tạo, từng bước đầu tư tăng cường cơ sở vật chất trường học, tăng cường công tác
quản lý giáo dục, quản lý ngân sách đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
- Với đường lối phát triển kinh tế hoàn toàn đúng đắn của Đảng và Nhà nước đó
là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Ngành giáo dục - đào tạo chủ trương
tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người dân được thụ hưởng giáo dục - đào tạo, trên cơ sở
mở rộng các cơ sở giáo dục - đào tạo, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, mở rộng hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo... Điều này đòi hỏi ngành giáo dục - đào tạo
phải tiếp tục đổi mới công tác quản lý giáo dục - đào tạo nói chung, trong đó phải chú
trọng đổi mới công tác quản lý ngân sách GD-ĐT.
- Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, ngành giáo dục - đào tạo đòi
hỏi phải có sự đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật chất trường học: trang bị máy móc thí
nghiệm, dụng cụ thực hành, đồ dùng giảng dạy và học tập hiện đại phục vụ cho việc đổi
mới chương trình, nội dung giáo dục - đào tạo... Điều này cũng đòi hỏi mức độ đầu tư
ngân sách của Nhà nước tăng hơn những năm trước đây, do đó công tác quản lý ngân
sách GD-ĐT cần phải được tăng cường và đổi mới để quản lý NSNN một cách có hiệu
quả.
- Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, ngành giáo dục - đào tạo đã và
đang thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa giáo dục - đào tạo. Một nội dung quan trọng của
xã hội hóa giáo dục là huy động sự đóng góp của nhân dân nhằm tăng cường cơ sở vật chất
nhà trường, trợ giúp những học sinh nghèo vượt khó, chia sẻ trách nhiệm với Nhà nước
trong việc xây dựng, phát triển giáo dục. Để sử dụng một cách có hiệu quả hơn nữa nguồn
kinh phí đầu tư cho giáo dục - đào tạo, thì tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách là tất yếu
khách quan.
1.3. Kinh nghiệm quản lý ngân sách giáo dục- đào tạo ở một số quốc gia
trong khu vực
Đầu tư cho giáo dục- đào tạo là đầu tư cho phát triển, đầu tư cho tương lai, đó là
quan điểm của hầu hết các nước trên thế giới. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn kinh phí
đầu tư cho giáo dục - đào tạo không phải chỉ từ khu vực Nhà nước mà còn từ các khu vực
khác (doanh nghiệp, tư nhân, khu vực liên doanh với nước ngoài...). Do vậy, lập kế hoạch
cấp phát và quản lý ngân sách cho GD-ĐT dựa trên các nguồn kinh phí đầu tư của toàn xã
hội, tỷ lệ đầu tư cho GD-ĐT ở các nước phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, khả năng NSNN,
trình độ dân trí, yêu cầu cải cách giáo dục... Bảng dưới đây cho thấy mức độ đầu tư cho
GD-ĐT ở một số nước trên thế giới qua số liệu công bố của UNDP:
Bảng 1.2: Đầu tư cho GD-ĐT ở một số quốc gia
Các nước Tỷ lệ chi Tổng chi Chi công
Dân
số
(triệu
người)
1998
GNP
(Tỷ
USD)
1998
GNP/đầ
u người
(USD)
1998
công cộng
cho GD-ĐT
trong GNP
(%) 1995-
1997
công cộng
cho GD-ĐT
(tỷ USD)
cộng cho
GD-ĐT
trên đầu
người dân
(USD)
Trung
Quốc
1.220 923,6 750 2,3 21,2 17
Hàn Quốc 46,1 398,8 8.600 3,7 14,7 320
Thái Lan 60,3 131,9 2.160 4,8 19,1 288
Malaysia 21,4 81,3 3.670 4,9 4,0 186
Nhật 126,3 4.089,1 32.350 3,6 147,2 1.165
Mỹ 274 7.903 29.240 5,4 426,7 1.557
Anh 58,6 1.264,3 21.410 5,3 67 1.143
Canada 30,6 580,9 19.170 6,9 40 1.309
úc 18,5 387 20.640 5,5 21,2 1.150
Nga 147,4 331 2.260 3,5 11,6 78,5
Nguồn: Human Development Report 2000(UNDP).
ở nước ta, cùng thời gian trên theo thống kê của Bộ Tài chính thì tỷ lệ chi cho
giáo dục - đào tạo từ ngân sách nhà nước so GNP như sau: năm 1996 là 3,2%, năm 1997
là 3,4%, năm 1998 là 3,46%, năm 1999 là 3,21%, năm 2000 là 3,24%. Như vậy so với
một số nước trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia thì tỷ lệ chi
NSNN cho giáo dục trong GNP của nước ta đạt mức trung bình, Nhưng do GNP của
nước ta còn ở mức quá thấp nên tổng chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo về số tuyệt đối
còn hết sức nhỏ bé.
- Hàn Quốc
Ngay từ cuối thập kỷ 60, Hàn Quốc đã xác định phương châm: "Giáo dục - đào
tạo là chìa khóa mở cửa tiến vào tương lai" nên đất nước này đã thi hành một loạt các
biện pháp và chính sách có hiệu lực để thúc đẩy giáo dục- đào tạo, đẩy nhanh tốc độ ứng
dụng khoa học kỹ thuật và bồi dưỡng nhân tài. Chính vì vậy, nền kinh tế liên tục tăng
trưởng với tốc độ cao, thu nhập bình quân đầu người khá.
Để đạt được những thành quả về tăng trưởng kinh tế, một trong những biện pháp
được Chính phủ sử dụng là cải cách hệ thống giáo dục, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, bồi dưỡng nhân tài phát triển các ngành sản xuất với khoa học kỹ thuật cao, do đó
họ không ngừng tăng đầu tư cho giáo dục và nghiên cứu khoa học. Từ giữa thập kỷ 60,
trong nhiều năm liền tốc độ tăng của ngân sách giáo dục đã vượt quá tốc độ tăng của
GDP. Căn cứ vào thống kê của Ngân hàng thế giới, tỷ lệ kinh phí giáo dục trong tổng chi
ngân sách của Chính phủ Hàn Quốc năm 1985 đứng ở vị trí 11 trong số 91 nước và khu
vực mà Ngân hàng thế giới đã tiến hành điều tra [29, 25].
Việc lập kế hoạch cấp phát NSNN cho GD-ĐT theo một quy trình khá chặt chẽ,
được tính toán chi tiết trên cơ sở cân đối tất cả nguồn thu và các khoản chi. Bộ Tài chính
và Bộ Giáo dục chịu trách nhiệm lập kế hoạch chi và giám sát tài chính đối với mọi nội
dung đầu tư của giáo dục - đào tạo. Thông thường Bộ Tài chính ra một văn kiện quan
trọng, trong đó nêu ra các mục tiêu giới hạn, thứ tự ưu tiên dựa trên chiến lược phát triển
giáo dục - đào tạo, đồng thời đưa ra các giải pháp làm tăng nguồn lực... Chấp hành ngân
sách có sự hợp tác của nhiều cơ quan và các cấp chính quyền. Việc cấp phát kinh phí
cũng được thực hiện ở cơ quan ngân khố thuộc ngân hàng Chính phủ.
Việc quản lý ngân sách giáo dục được thực hiện bằng một cơ quan giám sát và
kiểm tra của Chính phủ với các công cụ pháp lý khá đầy đủ là các đạo luật. Ngày
1/12/1980, Quốc hội Hàn quốc đã thông qua đạo luật là Luật thuế giáo dục, theo luật định
thì phải tiến hành thu thuế để đảm bảo cung cấp cho nhu cầu của kinh phí giáo dục- đào
tạo. Cùng với việc cải cách giáo dục, cải cách bộ máy hành chính, ngân sách giáo dục -
đào tạo được quản lý theo một đầu mối thống nhất là Cơ quan quản lý giáo dục trực
thuộc Chính phủ.
- Philippin
Hàng năm Bộ tài chính đưa ra khung (Số kiểm tra) cùng các hướng dẫn xây dựng
kế hoạch chi ngân sách giáo dục - đào tạo. Các quá trình ngân sách được tiến hành rất
công phu, xác định đầy đủ cơ cấu nguồn tài chính cho GD-ĐT. Cấp phát kinh phí được
tiến hành theo từng quý, đồng thời có cơ quan kiểm toán độc lập có trách nhiệm kiểm tra
và thẩm định các báo cáo chi tiêu nguồn NSNN cho giáo dục - đào tạo. Về cơ bản qui
trình quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo giống Việt Nam.
- SINGAPORE
Bắt đầu từ cuối thập kỷ 60, Singapore bước vào thời kỳ cất cánh. Trong hơn 20
năm, để hiện đại hóa nền kinh tế quốc gia, Singapore đã ra sức phát triển giáo dục mang bản
sắc dân tộc. Chính phủ coi trọng phổ cập giáo dục nâng cao trình độ dân trí, ở các cấp tiểu
học không thu học phí, ở cấp trung học tuy có thu học phí nhưng mức thu rất thấp. Coi trọng
giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp.
Chính phủ lập Quỹ phát triển tài năng nhằm khuyến khích các xí nghiệp và các
ngành nghề tiến hành đào tạo bồi dưỡng công nhân viên kỹ thuật còn yếu kém thuộc xí
nghiệp ngành nghề mình quản lý. Chính phủ cũng phối hợp với các công ty xuyên quốc
gia định kỳ mở những trung tâm huấn luyện nhằm bồi dưỡng cho những cán bộ cốt cán,
kỹ thuật chuyên ngành. Chính vì vậy kế hoạch NSNN dành cho giáo dục - đào tạo được
thực hiện phối hợp giữa các cơ quan quản lý giáo dục.
Để phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, Chính phủ Singapore không ngừng
tăng đầu tư cho giáo dục - đào tạo, tốc độ tăng này vượt quá tốc độ tăng của tổng sản
phẩm quốc dân. Trong thời gian từ 1960 tới 1990, tổng sản phẩm quốc dân từ 2189 triệu
đô la Singapore tăng lên đến 35168 triệu (tăng 15,6 lần). Trong thu chi của Chính phủ, chi
cho giáo dục bình quân hàng năm trong thập kỷ 70 là 12,7% đến năm 1980 là 15,8%,
năm 1985 tăng đến 22,3%, đến nay khoảng 22,9%. Kinh phí giáo dục tính theo đầu người
năm 1960 là 69 đô la Singapore, năm 1990 là 335,3. Hiện nay trong chi NSNN thì kinh
phí cho giáo dục - đào tạo chiếm vị trí thứ 2 chỉ sau kinh phí cho quốc phòng [8, tr. 11-
14].
- Thái lan
Các cơ quan quản lý giáo dục của Thái Lan gồm:
- Bộ Giáo dục chịu trách nhiệm chính về giáo dục tiểu học, giáo dục trung học và
đào tạo giáo viên và dạy nghề kỹ thuật đồng thời chịu trách nhiệm các vấn đề liên quan
đến tôn giáo văn hóa.
- Bộ Đại học quản lý các trường đại học, học viện, trường cao đẳng của Nhà
nước cũng như tư nhân.
- Các trường y tế và các học viện quân sự thuộc sự quản lý của Bộ Y tế và Bộ
Quốc phòng.
- ủy ban giáo dục quốc gia trực thuộc Phủ Thủ tướng và giải quyết toàn bộ các
chính sách, kế hoạch dài hạn cho tất cả các cấp giáo dục. Trên cơ sở kế hoạch này, cơ
quan tài chính lập kế hoạch cấp phát ngân sách cho giáo dục.
Để tạo cơ hội học tập cho người nghèo, chính phủ đã mở rộng độ tuổi đi học bắt
buộc từ 6- 9 tuổi, đồng thời thông qua một kế hoạch đầu tư khá lớn cho lĩnh vực giáo dục
- đào tạo. Chính phủ khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư cho hệ thống giáo dục - đào
tạo như xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trang thiết bị dạy học. Mới đây Nội các Chính
phủ đã thông qua việc xây dựng một quỹ 20 tỷ Bạt để trợ cấp theo lãi suất ưu đãi cho các
nhà đầu tư muốn xây thêm trường học (nhất là ở những vùng xa xôi). Chính phủ sẵn sàng
cấp đất với giá thấp và miễn giảm thuế cho các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng giáo
dục - đào tạo. Các trường tư cũng được Chính phủ giảm thuế, các vật tư thiết bị phục vụ
cho xây dựng các công trình ấy nếu phải nhập khẩu thì được miễn thuế.
Về phần mình, các trường phải tuân thủ triệt để các tiêu chuẩn về giáo dục - đào
tạo của Nhà nước như: môn học, chương trình giảng dạy, nội dung dạy và số lượng học
sinh (phải có ít nhất 80% là người Thái), phải cấp học bổng cho 5% tổng số học sinh...
Người ta hy vọng các trường tư sẽ đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động hơn là
hệ thống trường công do Nhà nước bao cấp.
Về dạy nghề, Chính phủ sẵn sàng thưởng một khoản tiền không nhỏ cho những
chương trình đào tạo dạy nghề cho người lao động mới đến tuổi lao động. Các cơ sở tư
nhân phát triển nâng cao tay nghề sẽ không phải đóng thuế và nhập khẩu thiết bị phục vụ
đào tạo cũng được miễn thuế.
Những biện pháp về cải cách giáo dục và sử dụng các công cụ tài chính linh hoạt
có hiệu quả ở Thái Lan đã tạo cơ hội tốt không những cho tất cả người dân mà còn cho
những người nghèo có cơ may học tập. Người học được vay trước một khoản tiền đủ để
trả học phí, mua sách vở, học cụ và các chi phí khác liên quan tới học tập, lượng vay đủ
để trang trải cho 7 năm: 3 năm trung học và 4 năm cao đẳng, đại học. Sau khi tốt nghiệp
2 năm họ bắt đầu phải hoàn trả số tiền vay gốc cộng 1% lãi hàng năm trong vòng 15 năm.
- Các nước thuộc khối OECD (Organization for Economic Cooperation and
Development): Việc lập kế hoạch chi tiêu dựa trên các thông tin cơ sở theo một hệ thống
thống nhất được gọi là hệ thống chi tiêu công cộng (Public expenditure System - PES).
Hệ thống này kết hợp các yếu tố vào một chu trình ngân sách hàng năm nhằm bổ sung
cho quy trình lập kế hoạch và cung cấp dữ liệu cho việc thảo luận NSNN nói chung và
NSGD-ĐT nói riêng. Dự báo chi tiêu vẫn là một nhân tố quan trọng trong quản lý chi, các
số liệu thống kê và kế hoạch phân bổ được thực hiện tương quan theo một quy trình cho
phép kiểm tra bao quát. Hầu hết các nước khối OECD dự báo và lập kế hoạch tài chính
nhiều năm, dùng làm cơ sở tính toán dự kiến hàng năm. Những kế hoạch tài chính trung
hạn giúp đạt được những mục tiêu tài chính nhanh chóng và có hiệu quả. Các Bộ có một ưu
thế tương đối đối với NS, song quyền lực vẫn tập trung ở Bộ Tài chính, trong xu thế dẫn
tới một nguyên tắc quản lý tài chính mạnh mẽ thì quyền hạn của Bộ Tài chính không chỉ
trong khuôn khổ vĩ mô mà liên quan đến mọi chi phí có tính chất bao trùm các hoạt động
kinh tế xã hội.
Để giảm bớt gánh nặng NSNN và phát huy vai trò xã hội đối với giáo dục - đào
tạo, các Chính phủ đã tiến hành cải cách giáo dục bằng các biện pháp như:
- Tăng cường giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp, cải cách cơ cấu giáo dục phổ thông,
lấy học nghề làm mục tiêu chính, đào tạo học sinh cấp 3 giỏi về khoa học kỹ thuật để
tuyển vào các trường đại học và đào tạo nhân tài.
- Kết hợp giữa học tập với sản xuất, các trường dạy nghề và doanh nghiệp ký hợp
đồng với nhau. Trong thời gian học tập ở trường theo định kỳ học sinh phải đến doanh
nghiệp thực tập vừa để ứng dụng kiến thức đã học vừa có thêm thu nhập, nâng cao chất
lượng đào tạo. Doanh nghiệp phải cung cấp kinh phí cần thiết cho nhà trường, học sinh
tốt nghiệp được doanh nghiệp lựa chọn để làm việc hoặc cho đi học tiếp ở các trường đại
học cùng chuyên môn để khi ra trường trở lại phục vụ cho doanh nghiệp [40, tr. 45].
Một số nhận xét về quản lý, cấp phát NSNN cho giáo dục - đào tạo ở các
nước.
Mỗi nước có những cách thức cấp phát NSNN khác nhau cho giáo dục - đào tạo
tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, trình độ dân trí, văn hóa truyền thống... Tỷ trọng chi cho
giáo dục - đào tạo ở các nước cũng khác nhau song nhìn chung các nước đều có những
biện pháp hữu hiệu để đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo. Cụ thể là:
- Cải cách hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng thị trường là yêu cầu cấp bách
ở hầu hết các nước. Miễn phí cho cấp giáo dục tiểu học, mầm non, vì đây là cấp học bắt
buộc đối với mọi người dân. Xã hội hóa triệt để các nguồn kinh phí cho giáo dục - đào
tạo. Phân loại học sinh và phân loại trường lớp để có cơ sở cho đầu tư NSNN.
- Kế hoạch chi ngân sách giáo dục - đào tạo được lập rõ ràng, chi tiết, có thể do
cơ quan chuyên trách tiến hành hoặc được thực hiện phối hợp giữa các cơ quan của chính
phủ. Tùy thuộc vào thể chế hành chính của mỗi nước có những cách thức lập kế hoạch
ngân sách nói chung và kế hoạch ngân sách giáo dục nói riêng có những điểm khác nhau
nhưng hoàn toàn không bị hành chính hóa, lập kế hoạch theo những trọng tâm trọng
điểm, không tập trung chia đều, ưu tiên phổ cập giáo dục cấp 1 và những vùng có khó
khăn.
- Đầu tư từ NSNN cho giáo dục - đào tạo ưu tiên tập trung theo chương trình mục
tiêu, không dàn trải.
- Phân định rõ ràng giữa cấp phát của ngân sách Trung ương và ngân sách địa
phương. Các đơn vị thụ hưởng phải chịu trách nhiệm quản lý và sử dụng có hiệu quả các
nguồn vốn tài chính từ NSNN.
- Một số nước xây dựng quỹ phát triển giáo dục - đào tạo nhằm khuyến khích các
doanh nghiệp, tổ chức đầu tư cho giáo dục - đào tạo. Phối hợp với các công ty, tập đoàn
lớn trong nước và quốc tế để có chương trình đầu tư ứng dụng những thành quả của giáo
dục - đào tạo.
- Chính sách rõ ràng, quản lý chặt chẽ, minh bạch là một trong những điểm đáng
chú ý cần nghiên cứu và vận dụng trong quản lý ngân sách GD-ĐT ở nước ta.
Chương 2
Thực trạng quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo
ở nước ta trong những năm qua
2.1. Khái quát về tình hình GD- đT trong những năm qua
2.1.1. Về hệ thống giáo dục quốc dân
Hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta, gồm: (Sơ đồ 2.1)
- Giáo dục mầm non - Giáo dục phổ thông
- Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục đại học và sau đại học
Cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân được thể hiện qua sơ đồ sau:
Đào tạo Tiến sĩ
(4 năm)
ĐT Thạc
sĩ
(2 năm)
Đào tạo Đại học
(4- 6 năm)
ĐT Cao đẳng
(3 năm)
Trung học chuyên
nghiệp
(3- 4 năm)
Dạy nghề dài hạn
(1- 3 năm) Dạy nghề
ngắn hạn
(< 1 năm)
Trung học phổ thông (3
năm)
Trung học cơ sở (4 năm)
Tiểu học (5 năm)
Mẫu giáo
Nhà trẻ
Trẻ dưới 6 tuổi
G
i
á
o
d
ụ
c
k
h
ô
n
g
c
h
í
n
h
q
u
i
Sơ đồ 2.1: Hệ thống giáo dục Việt Nam
2.1.2. Về qui mô giáo dục - đào tạo
Qui mô giáo dục - đào tạo không ngừng tăng lên, mạng lưới trường lớp được mở
rộng:
Đầu năm học 2001 - 2002, tổng số học sinh, sinh viên trong cả nước là gần 23
triệu, tăng khoảng 24% so với năm học 1995 - 1996. Trong đó, học sinh mầm non:
gần 2,5 triệu; học sinh phổ thông: gần 18 triệu; học sinh trung học chuyên nghiệp: 271
nghìn (hơn 76 nghìn trong các trường đại học, cao đẳng); sinh viên đại học, cao đẳng:
gần 1 triệu; học sinh học nghề: gần 800 nghìn và học sinh học tập theo phương thức
không chính quy (gồm học sinh sau xóa mù chữ, bổ túc văn hóa, giáo dục và đào tạo
từ xa): hơn 400 nghìn [5, tr. 1].
Cùng với việc tăng quy mô, mạng lưới trường lớp và các loại hình đào tạo tiếp
tục được củng cố, phát triển rộng khắp trong cả nước kể cả ở vùng sâu, vùng xa, miền
núi, hải đảo và vùng dân tộc, góp phần đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của con em nhân
C¬ cÊu HS,SV n¨ m hä c 1995 - 1996
10229000
1932000
59000
414000
170000
1020000
4313000
0 2000000 4000000 6000000 8000000 10000000 12000000
MN
THCS
CNKT
C§ , §H
C¬ cÊu HS,SV n¨ m h ä c 2001 - 2002
6254000
2334000
195000
974000
800000
2488000
9337000
0 2000000 4000000 6000000 8000000 10000000 12000000
MN
THCS
CNKT
C§ , §H
dân. Hiện nay, cả nước có 35.239 trường học, bao gồm 9.530 trường mầm non, mẫu giáo;
13.934 trường tiểu học, 9.362 trường trung học cơ sở, 1.966 trường trung học phổ thông,
252 trường trung học chuyên nghiệp, 114 trường cao đẳng, 109 trường đại học.
Sè t r - ê ng n¨ m hä c 95-96 v µ 01-02
7993
1345
9362
1966
1168512275
9530
13934
0
5000
10000
15000
MN TH THCS THPT
N¨ m 95-96
N¨ m 01-02
Sè t r - ê ng §H, C§ n¨ m hä c 95-96 vµ 01-02
135
223
0
50
100
150
200
250
N¨ m 95-96
N¨ m 01-02
Nguồn: Trung tâm thông tin quản lý giáo dục, Văn phòng Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
2.1.3 Về chất lượng giáo dục - đào tạo
Trong những năm qua, chất lượng giáo dục - đào tạo đã có những chuyển biến
tích cực.
Tỷ lệ lưu ban, bỏ học giảm dần (ở tiểu học, giảm từ 4,81% và 7,16% xuống
2,29% và 3,67%; ở trung học cơ sở giảm từ 2,37% và 9,42% xuống 1,48% và 7,30%;
ở trung học phổ thông giảm từ 1,39% và 8,97% xuống 1,18% và 6,35%).
Tû l Ö bá h ä c n¨ m h ä c 1995-1996 v µ 2000-2001
8.97%
9.42%
7.16%
6.35%
7.30%
3.67%
0.00%
3.00%
6.00%
9.00%
12.00%
TiÓu häc THCS THPT
N¨m 95-96
N¨m 00-01
Tû l Ö l - u ban n¨ m hä c 1995-1996 v µ 2000-2001
1.39%
2.37%
4.81%
1.18%
1.48%
2.29%
0.00%
2.00%
4.00%
6.00%
TiÓu häc THCS THPT
N¨m 95-96
N¨m 00-01
Nguồn: Trung tâm thông tin quản lý giáo dục, Văn phòng Bộ GD-ĐT.
Hệ thống trường chuyên được duy trì, phát triển và đạt chất lượng cao trong
giảng dạy, học tập. Nhiều học sinh đoạt giải cao trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc
gia và quốc tế. Tính đến năm 2001 tổng số học sinh dự các kỳ thi quốc tế ở các môn:
toán, lý, hóa, sinh, tin học, tiếng Nga là 354, tổng số đạt giải các loại là 280, đạt tỷ lệ khá
cao - trên 75%. Riêng kỳ thi học sinh giỏi quốc gia lớp 12 năm 2002, với 4686 học sinh
dự thi đã có 2193 học sinh đạt giải các loại, chiếm 47%. Các kỳ thi tốt nghiệp phổ thông
được tổ chức ngày càng nghiêm túc [5, tr. 5].
* Các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục: (bao gồm đội ngũ giáo viên, giảng
viên; cơ sở vật chất kỹ thuật, trường lớp, thiết bị dạy học) không ngừng được củng cố,
tăng cường và ngày càng hoàn thiện.
Hiện nay, tổng số giáo viên, giảng viên toàn ngành là 865.485, tăng 24% so với
năm học 1995 - 1996. Trong đó, số giáo viên mầm non và phổ thông là 823.091, tăng
32%. Số giáo viên trung học chuyên nghiệp là 10.189 người, tăng 15%. Số giảng viên đại
học, cao đẳng là 32.205 người, tăng 45%.
So s¸ nh sè g i ¸ o v iª n , g i¶ng v iª n
n ¨ m h ä c 2001-2002 vµ n¨ m hä c 1995-1996
100%
132.00%
115%
145%
50%
100%
150%
95-96 01-02
GVMN, PT GV THCN GV §H, C§
Nguồn: Trung tâm thông tin quản lý giáo dục, Văn phòng Bộ Giáo dục và Đào
tạo
Sè g i ¸ o v i ª n n¨ m hä c 95-96 v µ 01-02
243130
39398
154416
298407
129587
81549
144247
353804
0
100000
200000
300000
400000
MN TH THCS THPT
N¨m 95-96
N¨m 01-02
Sè CBGD ë g d §H n¨ m h ä c 95-96 v µ 01-02
21142
32205
0
10000
20000
30000
40000
95-96 01 - 02
Nguồn: Trung tâm thông tin quản lý giáo dục, Văn phòng Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
Đến đầu năm học 2001 - 2002, tổng số phòng học của các trường phổ thông là
436.281, tăng 18.451 phòng so với năm học trước. Trong đó, số phòng học cấp 4 và kiên
cố là 363.417, tăng 27.625 phòng. Tỷ lệ phòng học cấp 4 và kiên cố tính chung toàn quốc
ở các bậc học đều trên 80%. Số phòng học 3 ca ở giáo dục phổ thông là 1072 phòng,
giảm 381 phòng so với cùng thời gian này năm học trước. Những vùng còn nhiều phòng
học 3 ca là đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên. Số phòng học tranh
tre, nứa lá vẫn còn trên 7.000 phòng, chủ yếu tập trung ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa
trên địa bàn toàn quốc.
Mặc dầu cơ sở vật chất kỹ thuật đã được cải thiện, nhưng nhìn chung, giáo
dục nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Cơ sở vật chất trường,
lớp ở nhiều địa phương vẫn rất thiếu thốn do tác động của thiên tai. Trang thiết bị,
phòng thí nghiệm phục vụ giảng dạy và học tập mới đáp ứng khoảng 20% yêu cầu.
Tình trạng dạy chay còn phổ biến. Việc chuẩn hóa, hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ
thuật vẫn đang là một thách thức lớn, cần có sự chỉ đạo của ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố. Để giải quyết, cần tiếp tục cải tiến công tác kế hoạch và tài chính, xây
dựng hệ thống tiêu chí và định mức, nâng cao hiệu quả đầu tư, thực hiện công khai,
minh bạch về tài chính, xác định cơ chế quản lý đối với nguồn đầu tư do nhân dân
đóng góp, nhất là việc quản lý tài chính ở các trường ngoài công lập [5, tr. 8- 9].
2.1.4 Về đầu tư cho GD-ĐT những năm qua
Với quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu, Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Bộ
Tài chính đã giúp Chính phủ tăng ngân sách cho giáo dục, bảo đảm yêu cầu định mức
do Nghị quyết TW2 đề ra. Năm 1996, phần ngân sách nhà nước chi cho giáo dục
chiếm 11%, đến năm 2000, chiếm 15%. Về con số tuyệt đối, phần ngân sách nhà nước
chi cho giáo dục năm 2000 so với năm 1996 gấp 1,6 lần (Tính theo tỷ giá hối đoái
chuyển đổi ra USD thì gấp 1,14 lần).
Bảng 1.1: Ngân sách chi thường xuyên cho giáo dục từ năm 1996- 2000
(Không kể XDCB)
Đơn vị: tỷ đồng
Năm Tổng chi NSNN Ngân sách chi cho sự
nghiệp GD-ĐT
Tỷ lệ % so với tổng
chi NSNN
1996 71.550 6.935 9,69%
1997 76.640 7.856 10,25%
1998 89.976 10.153 11,28%
1999 91.457 10.060 11,00%
2000 94.535 10.956 11,59%
Nguồn: Vụ Kế hoạch và Tài chính- Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trong điều kiện nguồn kinh phí còn hạn hẹp, các địa phương đã có nhiều cố gắng
cải tiến việc phân bổ, điều hành ngân sách; đầu tư thêm cho giáo dục từ nguồn ngân sách
địa phương (khoảng 20 - 30% ngân sách địa phương); đồng thời huy động sự đóng góp
của nhân dân để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường, nâng cao chất lượng dạy
và học. Đặc biệt là các trường dạy nghề, THCN, CĐ, ĐH đã thông qua con đường lao
động sản xuất, dịch vụ tư vấn, ứng dụng và chuyển giao công nghệ đã tự xây dựng được
nguồn vốn tự có; nguồn vốn này đã góp phần kinh phí đầu tư xây dựng nhà trường và cải
thiện đời sống cho cán bộ giáo viên.
2.1.5. Về tình hình thực hiện xã hội hóa GD-ĐT
Trong những năm qua, chủ trương xã hội hóa giáo dục đã phát huy tác dụng và
đã góp phần quan trọng làm cho giáo dục thực sự trở thành sự nghiệp của toàn dân, toàn
Đảng.
Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, một nội dung quan trọng của xã
hội hóa giáo dục là huy động sự đóng góp của nhân dân nhằm tăng cường cơ sở vật chất nhà
trường, trợ giúp những học sinh nghèo vượt khó, chia sẻ trách nhiệm với Nhà nước trong
việc xây dựng, phát triển giáo dục. Ước tính, phần kinh phí do nhân dân đầu tư, trang trải cho
các hoạt động giáo dục trong một vài năm gần đây chiếm khoảng 30 - 35% và ngày càng
tăng, riêng năm 2001 vào khoảng hơn 600 tỷ đồng. Các nguồn lực được huy động thông qua
con đường xã hội hóa, cùng với nguồn lực của Nhà nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp thúc
đẩy sự nghiệp giáo dục - đào tạo, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và
nhu cầu học tập của các tầng lớp nhân dân [12, tr. 14].
Trong quá trình thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục, các loại hình trường
lớp cũng được đa dạng hóa. Các trường ngoài công lập phát triển, tạo điều kiện phát triển
quy mô giáo dục một cách hợp lý, giảm bớt sức ép đối với các trường công lập, góp phần
quan trọng để điều chỉnh mối quan hệ giữa quy mô và các điều kiện bảo đảm chất lượng,
tạo thêm cơ hội học tập cho thế hệ trẻ. Đến nay, số trường mầm non, mẫu giáo ngoài
công lập là 5.995 (chiếm 62%); số trường tiểu học ngoài công lập là 77 (chiếm 0,5 %); số
trường trung học cơ sở ngoài công lập là 246 (chiếm 2,7%), số trường trung học phổ
thông ngoài công lập là 514 (chiếm 33%).
Tû l Ö t r - ê ng c « ng l Ëp v µ ng oµ i c « ng l Ëp ë GDPT
n¨ m hä c 2001-2002
67%97.30%
38.00% 99.50%
33%2.70%0.50%62.00%
0.0%
20.0%
40.0%
60.0%
80.0%
100.0%
MN TH THCS THPT
Ngoµi c«ng lËp
C«ng lËp
Tû l Ö t r - ê ng c« ng l Ëp vµ ngoµ i c « ng l Ëp ë GDcN vµ GD-§H
n¨ m hä c 2001-2002
89.20%95.60%
4.40%
10.80%
0.0%
100.0%
THCN C§ , §H
Ngoµi c«ng lËp
C«ng lËp
Nguồ
n: Trung tâm thông tin quản lý giáo dục, Văn phòng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Cả nước có 23 trường đại học và cao đẳng ngoài công lập (18 trường dân lập, 5
trường bán công) với gần 100.000 sinh viên chiếm khoảng 11% tổng số sinh viên trong
cả nước. Một số trường ngoài công lập (có cả dân lập, tư thục và bán công) hoạt động có
nề nếp, đào tạo có chất lượng, được xã hội đánh giá tốt.
Về quy mô, tỷ lệ học sinh ngoài công lập so với tổng số học sinh tăng lên đáng
kể, ở mẫu giáo: năm học 1996 - 1997 là 41%; năm học 2001 - 2002 gần 60%; ở trung học
phổ thông: năm học 1996 - 1997 là 25%; năm học 2001 - 2002 là 34%; trung học chuyên
nghiệp, năm học 1995 - 1996 chưa có, đến năm 2000 đã có gần 5000 học sinh; ở đại học
và cao đẳng, năm học 1995 - 1996 là 3,6%, năm 2000 tăng lên gần 11,35%
Tû l Ö HS c « ng l Ëp v µ ng oµ i c « ng l Ëp ë GDPT
n¨ m h ä c 2001-2002
66%97.30%38.00% 99.70%
34%2.70%0.30%62.00%
0.0%
100.0%
MN TH THCS THPT
Ngoµi c«ng lËp
C«ng lËp
Nguồn: Trung tâm thông tin quản lý giáo dục, Văn phòng Bộ Giáo dục và Đào
tạo
Những đổi mới và phát triển của hệ thống GD-ĐT ở nước ta trong những năm
qua đã và đang đòi hỏi sự đổi mới tương ứng trong quản lý ngân sách GD-ĐT, đảm bảo
phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trường.
2.2 Thực trạng quản lý Ngân sách giáo dục - đào tạo ở nước ta trong những
năm qua
2.2.1. Thực trạng công tác xây dựng dự toán ngân sách GD-ĐT
2.2.1.1. Những căn cứ xây dựng dự toán NS GD-ĐT
- Căn cứ thứ nhất: Định hướng phát triển kinh tế xã hội dài hạn và trung hạn của
đất nước. Đây là những định hướng lớn nhằm thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục -
đào tạo theo hướng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những chỉ tiêu phát triển giáo dục và đào
tạo được xây dựng dựa trên cơ sở của tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, tốc độ
tăng sản lượng của ngành, quy mô giáo dục - đào tạo... tương quan với các chỉ tiêu khác
trong nền kinh tế quốc dân.
- Căn cứ thứ hai: Căn cứ vào chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo, vào yêu
cầu, mục tiêu và nhiệm vụ phát triển giáo dục - đào tạo ở từng giai đoạn. Những năm gần
đây thực tế cho thấy cơ cấu đầu tư của ngành giáo dục - đào tạo được bố trí chưa hợp lý,
mạng lưới trường lớp còn phân tán, chưa được qui hoạch, đặc biệt là đầu tư phát triển dạy
nghề, dẫn đến tình trạng "thừa thày, thiếu thợ".
- Căn cứ thứ ba: Căn cứ vào kế hoạch phát triển giáo dục - đào tạo hàng năm, đây
là căn cứ quan trọng nhất đối với ngành giáo dục - đào tạo. Kế hoạch phát triển giáo dục
được xây dựng nhằm giúp các nhà quản lý, các cơ quan giáo dục, tài chính cũng như các
cấp chính quyền xác định được mục tiêu, tiến độ, qui mô phát triển của hệ thống giáo dục
trong phạm vi đơn vị quản lý. Công tác kế hoạch giúp cho hệ thống quản lý nắm được sự
biến động về học sinh, cơ cấu học sinh và phân bổ học sinh theo lớp, trường, địa điểm
theo từng năm học. Căn cứ vào các số liệu về học sinh, công tác kế hoạch phải dự báo
được số học sinh sẽ nhập học trong năm học mới, các yêu cầu cần thiết để đáp ứng qui
mô học sinh như số lượng trường, lớp, số phòng học, trang thiết bị, cũng như nhu cầu về
cán bộ, giáo viên.
Khi cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên hay nguồn lực tài chính có thể thỏa mãn
được yêu cầu, qui mô phát triển giáo dục thì việc xây dựng kế hoạch phát triển tương đối
dễ dàng. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay của Việt Nam, khi mà hệ thống giáo dục
đang phải chịu một sức ép rất lớn của dân số, trong khi các cơ sở giáo dục chưa đáp ứng
được đầy đủ các yêu cầu về cơ sở vật chất, nhân sự, thì công tác kế hoạch phải đảm bảo
cân đối các yêu cầu về phát triển qui mô với năng lực thực tế của các cơ sở giáo dục
nhằm đảm bảo thỏa mãn tới mức tối đa nhu cầu học tập của nhân dân.
Công tác kế hoạch dự báo và cung cấp các thông số cơ bản cần thiết để các cơ
quan quản lý, các cấp chính quyền có thể tính toán được nhu cầu về nguồn lực. Trong
trường hợp "khả năng" không đáp ứng được "nhu cầu" thì công tác kế hoạch cần xác định
được các mục tiêu ưu tiên và các giải pháp nhằm sắp xếp và phân bổ nguồn lực một cách
hợp lý, có hiệu quả.
Theo các quy định hiện hành (tuy có thể khác nhau theo địa phương) việc lập kế
hoạch được tiến hành tuần tự từ dưới lên trong hệ thống quản lý giáo dục. Việc lập kế
hoạch được thực hiện cho năm học (tháng chín năm nay sang tháng chín năm sau). Trước
hết các trường sẽ căn cứ vào thực tế thực hiện kế hoạch năm học hiện tại, căn cứ vào các
dự báo về quy mô nhập học và chỉ tiêu kế hoạch hướng dẫn của cấp trên để tính toán quy
mô tuyển sinh cho năm học sắp tới. Trên cơ sở dự báo quy mô nhập học, căn cứ vào số
lượng giáo viên và cán bộ nhân viên thực có, các trường sẽ tính toán nhu cầu về giáo
viên, bố trí giáo viên giảng dạy theo khối lớp. Căn cứ thực trạng cơ sở vật chất để xác
định các yêu cầu cụ thể về cơ sở vật chất đáp ứng cho giảng dạy và học tập như: số
phòng học cần có, yêu cầu sửa chữa, xây mới các phòng học và trang thiết bị dạy học,
sách giáo khoa, tài liệu tham khảo phục vụ giáo viên và học sinh của trường.
- Căn cứ thứ tư: căn cứ vào khả năng NSNN năm kế hoạch; Chế độ và định mức
chi cho giáo dục- đào tạo. NSNN càng tăng thì tỷ lệ đáp ứng nhu cầu chi GD-ĐT càng
nhiều. Trong giai đoạn nước ta phải giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế cao và bền vững, khả năng NSNN phải đáp ứng nhu cầu chi ngày càng nhiều. Nghĩa là
sức ép tăng chi luôn đe dọa thâm thủng NSNN, vì vậy, khi xây dựng kế hoạch ngân sách
GD-ĐT không thể không tính đến NSNN.
2.2.1.2. Lập, thẩm tra và phê duyệt dự toán ngân sách GD-ĐT
* Qui trình xây dựng dự toán, thẩm tra, phê duyệt:
- Hàng năm căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội và dự toán NSNN, Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn
các Bộ, ngành và địa phương về yêu cầu, nội dung, trình tự và thời gian xây dựng dự toán
thu, chi ngân sách.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, văn bản
hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính), định
mức chi ngân sách và căn cứ vào đặc điểm riêng của ngành, ban hành văn bản hướng dẫn
các Bộ, ngành trung ương và các Sở Giáo dục - Đào tạo của các tỉnh lập kế hoạch ngân
sách giáo dục - đào tạo hàng năm.
- Các trường, các cơ sở giáo dục - đào tạo do các Bộ, ngành trung ương quản lý
lập dự toán thu, chi ngân sách của đơn vị mình gửi Bộ chủ quản tổng hợp vào dự toán
thu, chi của Bộ đồng thời gửi Bộ Giáo dục- Đào tạo tổng hợp xây dựng dự toán thu - chi
ngân sách toàn ngành.
Sở Giáo dục - Đào tạo có nhiệm vụ chủ động phối hợp với Sở Tài chính - Vật
giá và Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh xây dựng dự toán thu, chi ngân sách giáo dục - đào
tạo trong tỉnh gửi Sở Tài chính - Vật giá và Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh tổng hợp vào
dự toán ngân sách địa phương. Sau khi được ủy ban Nhân dân tỉnh phê duyệt, Sở Giáo
dục- Đào tạo gửi dự toán này lên Bộ giáo dục và Đào tạo để tổng hợp xây dựng dự
toán ngân sách toàn ngành.
Đối với các Chương trình mục tiêu quốc gia về GD-ĐT, Sở Giáo dục - Đào tạo
lập dự toán chung và danh mục các đơn vị thực hiện với nội dung công việc cụ thể cho
từng chương trình mục tiêu trên địa bàn tỉnh, thống nhất với Sở Tài chính - Vật giá trình
ủy ban nhân dân tỉnh duyệt sau đó gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo để xét duyệt và tổng hợp
dự toán chi toàn ngành gửi Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Bộ Giáo dục và Đào tạo căn cứ vào dự toán thu, chi ngân sách Giáo dục - đào tạo
của các tỉnh và các Bộ chủ quản tổng hợp thành Dự toán toàn ngành giáo dục và đào tạo.
- Vào khoảng tháng 9 hàng năm, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức
thảo luận với các Bộ, ngành và địa phương về dự toán thu, chi ngân sách năm kế hoạch:
+ Bộ Tài chính chủ trì thảo luận về dự toán chi thường xuyên
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thảo luận về dự toán chi XDCB và
Chương trình mục tiêu quốc gia
Sau khi nhận được báo cáo và làm việc với các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố:
Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp cân đối chung, đồng thời
soát xét lại các mục tiêu nhiệm vụ cần được thực hiện trong kỳ kế hoạch đã được đề ra,
dự kiến bố trí NSNN để lựa chọn phương án cân đối NSNN tối ưu nhất trình Chính phủ
xem xét quyết định trước khi báo cáo ủy ban Kinh tế Ngân sách Quốc hội, báo cáo
Thường vụ Quốc hội phê duyệt tại kỳ họp vào tháng 10 hàng năm.
* Nội dung dự toán ngân sách GD-ĐT:
Tại Chỉ thị số 287/CT ngày 9/8/1992 của Thủ tướng Chính phủ đã nêu rõ: Giao
cho Bộ Giáo dục - Đào tạo quản lý việc sử dụng phần NSNN dành cho sự nghiệp giáo
dục - đào tạo và quản lý trực tiếp phần dành cho các chương trình mục tiêu của toàn
ngành. Đối với phần dành cho giáo dục đào tạo ở địa phương, UBND các tỉnh và thành
phố giao cho Sở Giáo dục - đào tạo trực tiếp quản lý. Như vậy Bộ Giáo dục - Đào tạo có
nhiệm vụ quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo toàn ngành và công tác lập kế hoạch ngân
sách GD-ĐT là kế hoạch hóa toàn ngành. Kế hoạch ngân sách GD-ĐT bao gồm 2 nội
dung cơ bản: kế hoạch thu và kế hoạch chi.
- Kế hoạch thu: bao gồm các nguồn từ NSNN và ngoài NSNN như học phí, kết
quả lao động sản xuất hợp đồng nghiên cứu khoa học, hợp tác viện trợ quốc tế và vay
nước ngoài để đầu tư cho GD-ĐT.
- Kế hoạch chi: kế hoạch sử dụng nguồn tài chính nhằm thực hiện những nhiệm
vụ chiến lược và sách lược của ngành, thực hiện những chương trình mục tiêu quốc gia,
bảo đảm những nội dung chi thường xuyên cho giảng dạy học tập và những khoản chi để
duy trì bảo dưỡng cơ sở vật chất kỹ thuật trường lớp.
- Kế hoạch chi ngân sách GD-ĐT mang tính điều tiết vĩ mô, định hướng khuyến
khích các cấp học, ngành cần thiết cho nền kinh tế xã hội (như giáo dục tiểu học, đào tạo
công nhân) và hạn chế những ngành nghề chưa cần thiết phát triển hoặc những cấp học
cần huy động tối đa sự đóng góp của nhân dân (như nhà trẻ, mẫu giáo...), tăng cường đầu
tư cho giáo dục vùng núi cao xa xôi hẻo lánh, hải đảo, vùng dân tộc ít người.
Kế hoạch chi ngân sách GD-ĐT được xây dựng theo 2 nội dung:
- Chi thường xuyên: như tiền lương, phụ cấp, trợ cấp, chi giảng dạy học tập, chi
mua sắm thiết bị đồ dùng dạy học, công vụ, công tác phí.
- Chi đầu tư xây dựng cơ bản: chi sửa chữa lớn trường lớp, chi xây dựng mới...
Nhận xét về công tác xây dựng dự toán ngân sách:
- Công tác lập kế hoạch phát triển và kế hoạch ngân sách giáo dục - đào tạo được
thực hiện từ cơ sở, căn cứ vào nhiệm vụ của ngành giáo dục với các tiêu thức cơ bản như:
số lượng học sinh, sinh viên, giáo viên, các vùng địa lý khó khăn, tình trạng cơ sở vật
chất... sau đó được tập hợp theo ngành, cấp từ địa phương lên trung ương, cuối cùng
được thông qua Quốc hội. Nhìn chung yêu cầu của công tác lập kế hoạch này đã đáp ứng
được nhiệm vụ của ngành giáo dục, song trên thực tế còn tồn tại nhiều hạn chế.
- Việc lập dự toán, ngay từ đầu chưa hoàn toàn xuất phát từ yêu cầu thực tế của
ngành giáo dục mà lại dàn trải, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là phụ thuộc vào
nguồn thu của ngân sách nhà nước (Khả năng ngân sách Nhà nước).
- Trong thực tế công tác kế hoạch hóa ngân sách GD-ĐT được thực hiện với
những yêu cầu và quy trình thực hiện hết sức phức tạp mà thực chất lại không chặt chẽ.
Cơ sở của việc lập kế hoạch chưa vững chắc, thiếu căn cứ chính xác, định mức chưa phù
hợp (các định mức hiện đang áp dụng đã quá cũ như: định mức giáo viên/lớp qui định tại
Quyết định 243/CP ngày 28/6/1979 của Hội đồng Chính phủ: định mức học sinh/lớp qui
định tại Thông tư liên Bộ số 27/TT- LB ngày 27/8/1988 liên Bộ GD- UBKHNN; mức
chi/học sinh ban hành tại Công văn số 562 TC/HCSN ngày 3/3/1998 của Bộ Tài chính...)
trong khi đó chế độ tài chính thay đổi nhiều trong thời gian qua như: tăng lương tối thiểu,
tăng phụ cấp cho giáo viên trực tiếp giảng dạy, phụ cấp cho giáo viên vùng khó khăn
(Nghị định 35/2001/NĐ- CP của Chính phủ về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản
lý giáo dục công tác ở các trường chuyên biệt ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt
khó khăn) dẫn đến việc phải điều chỉnh kế hoạch thường xuyên.
- Kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục hiện nay vẫn bị chia cắt theo cấp quản
lý hành chính và chưa gắn với kế hoạch tài chính, có cả những cơ quan hành chính cũng
tham gia chỉ đạo hướng dẫn lập kế hoạch, làm cho công tác lập kế hoạch bị hành chính
hóa không sát với thực tiễn, lập kế hoạch ngân sách theo kiểu chia đều gây tình trạng ỷ
lại vào ngân sách Trung ương, hạn chế tính chủ động sáng tạo trong việc khai thác triệt
để nguồn lực tại chỗ của địa phương.
Các cơ quan quản lý giáo dục (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục - Đào tạo,
Phòng Giáo dục - Đào tạo) và các trường học có lập kế hoạch tài chính thì chỉ lập kế
hoạch chi để đề nghị cấp phát từ NSNN (kế hoạch chi cao, kế hoạch thu thấp), thông
thường bỏ qua kế hoạch thu (thu học phí, thu đóng góp xây dựng trường sở, thu khác...)
- Bên cạnh kế hoạch hàng năm, hầu hết các cơ sở giáo dục - đào tạo và các cấp
quản lý giáo dục đều lập kế hoạch trung hạn và dài hạn (5 và 10 năm). Tuy nhiên do tính
chất phức tạp của công tác kế hoạch cũng như các biến đổi nhanh chóng về kinh tế - xã
hội, chế độ chính sách của các địa phương nên các kế hoạch dài hạn thường thiếu tính
khả thi.
2.2.1.3. Phân bổ và giao dự toán ngân sách
- Sau khi dự toán NSNN được Quốc hội quyết định, Bộ Giáo dục và Đào tạo
phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư lập phương án phân bổ ngân sách
giáo dục - đào tạo cho các Bộ, cơ quan Nhà nước và các địa phương (Bao gồm chi
thường xuyên, Chi XDCB và chi chương trình mục tiêu) trình Chính phủ, trình ủy ban
Thường vụ Quốc hội quyết định:
- NSTW chi cho các trường đào tạo chuyên nghiệp do Trung ương quản lý và các
chương trình mục tiêu quốc gia do các Bộ trực tiếp thực hiện.
- NSĐP chi cho các trường đào tạo chuyên nghiệp do địa phương quản lý (chủ
yếu là các trường trung học và dạy nghề), chi đảm bảo hoạt động cho các trường giáo dục
phổ thông và một phần giáo dục Mầm non, chi các chương trình quốc gia do địa phương
trực tiếp thực hiện.
- Sau khi được ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định, Thủ tướng chính phủ giao
nhiệm vụ thu, chi NSNN trong đó có ngân sách giáo dục cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ
và các địa phương. Đồng thời Bộ tài chính thông báo cho Bộ Giáo dục và đào tạo về chỉ
tiêu ngân sách giáo dục- đào tạo của các Bộ, ngành và địa phương.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ chủ quản tiếp tục giao nhiệm vụ chi ngân
sách giáo dục - đào tạo cho các đơn vị trực thuộc khớp đúng với chỉ tiêu mà Thủ tướng
Chính phủ đã giao cho Bộ.
- ở địa phương: căn cứ vào dự toán ngân sách được giao, Sở Giáo dục - Đào tạo
phối hợp với Sở tài chính Vật giá và Sở Kế hoạch và đầu tư phân bổ dự toán chi ngân
sách giáo dục - đào tạo trình UBND tỉnh quyết định giao cho các đơn vị thuộc địa
phương quản lý.
Nhận xét về công tác phân bổ và giao kế hoạch ngân sách:
* Sau khi thảo luận về thu chi ngân sách đối với các tỉnh, thành phố, trong đó có
ngân sách chi cho ngành giáo dục - đào tạo; Bộ Tài chính trực tiếp trình Chính phủ và
giao chỉ tiêu ngân sách giáo dục - đào tạo cho các địa phương, cho các Bộ ngành có
trường mà không trao đổi lại với Bộ Giáo dục và Đào tạo.
* Khi giao ngân sách cho các địa phương, Bộ Tài chính thông báo tổng chỉ tiêu
chi cho giáo dục - đào tạo của từng địa phương, mà không giao riêng ngân sách giáo dục
và ngân sách đào tạo theo đề nghị của Bộ Giáo dục và Đào tạo; điều này có mặt thuận lợi
là tạo điều kiện để các địa phương tự cân đối và quyết định ngân sách chi cho giáo dục và
chi cho đào tạo của địa phương mình, tuy nhiên một số địa phương rất lúng túng trong
việc phân bổ kinh phí và điều hành ngân sách giáo dục - đào tạo, cá biệt có địa phương
bố trí chi ngân sách đào tạo không đúng đối tượng.
* Khi phân bổ và giao kế hoạch chi ngân sách cho các địa phương, Bộ Tài chính
tính toán và phân bổ ngân sách giáo dục - đào tạo theo dân số. Trong khi đó phân bổ và
giao kế hoạch cho khối Trung ương thì tính theo đầu học sinh. Việc phân bổ ngân sách
giáo dục theo đầu dân với ý tưởng tạo sự công bằng, bình đẳng trong sự phát triển giáo
dục giữa các vùng khác nhau: đông dân, sẽ có nhiều người đi học, được phân bổ nhiều
ngân sách để tạo điều kiện phát triển giáo dục hơn.
Tuy nhiên trong thực tế lại nảy sinh bất hợp lý:
- Do tình trạng di dân tự do, số liệu về dân số của từng tỉnh, từng vùng vốn đã là
số ước lệ lại càng mất tính chính xác, có nơi tưởng là ít dân lại trở nên đông đúc, nhưng
lại không nằm trong số dân dự báo của tỉnh nên không được phân bổ ngân sách giáo dục,
học sinh theo cha mẹ di chuyển đến không có nguồn kinh phí đào tạo; nơi dân đi lại
không phải cắt giảm ngân sách; tình trạng này làm mất tính công bằng mà ý tưởng ban
đầu đặt ra.
- Tỷ lệ tăng dân số thường không tỷ lệ thuận với tỷ lệ học sinh đến trường, dẫn
đến chi thực tế giữa các cơ sở giáo dục theo quy mô học sinh càng bất hợp lý: những tỉnh
có tỷ lệ tăng dân số cao nhưng huy động trẻ đến trường lại thấp thì lại được phân bổ ngân
sách cao, những tỉnh thực hiện kế hóa gia đình tốt, dân số giảm nhưng lại huy động được
nhiều học sinh đến trường thì mức phân bổ ngân sách thấp, như vậy làm giảm động lực
phát triển giáo dục và thực hiện kế hoạch hóa phát triển dân số.
- Sự bất hợp lý ngày càng tăng giữa việc phân bổ ngân sách, việc sử dụng ngân
sách của từng cơ sở giáo dục, việc quyết toán sau khi chi tiêu, các nghiệp vụ này không
cùng tiêu thức so sánh, không đảm bảo tính thống nhất trong quản lý và không có cơ sở
để kiểm tra.
* Chưa có phương án phân bổ ngân sách giáo dục - đào tạo hợp lý, đối với
những tỉnh thành phố có điều kiện phát triển KTXH tốt hơn và do vậy có khả năng
thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục, cần mạnh dạn giao chỉ tiêu thu từ gia đình và xã hội,
ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ. Dành phần ngân sách chủ yếu để đầu tư cho những
tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng khó khăn, vùng thường xuyên gặp thiên tai... từng bước
tạo sự công bằng trong hưởng thụ giáo dục.
* Việc phân bổ, quản lý và điều hành ngân sách giáo dục của các địa phương
hiện nay rất đa dạng và khó có thể nói được áp dụng mô hình nào là đơn giản và hiệu
quả nhất. Tuy nhiên theo hướng phân cấp ngân sách về cho các huyện như đã triển
khai tại một số nơi hiện nay thì các cơ quan quản lý giáo dục đang mất đi vai trò quyết
định trong điều hành, chỉ đạo cấp dưới thông qua công cụ tài chính. Tại một số địa
phương triển khai phân cấp đã gây không ít lúng túng cho cả cơ quan được ủy quyền
(UBND và phòng Tài chính) cũng như cơ quan quản lý giáo dục. Sự đa dạng của các
mô hình phân cấp đã dẫn đến sự khác biệt về điều hành ngân sách giáo dục ngay trên
cùng một địa bàn tỉnh.
* Chỉ tiêu ngân sách được giao nói chung chưa bao giờ đạt mức dự toán chi
ngân sách hàng năm do các cơ sở giáo dục xây dựng, mặc dầu các cơ sở giáo dục đều
có số dự toán rất khiêm tốn. Ví dụ như Năm 2000, các trường chỉ được phân bổ bằng
khoảng trên dưới 90% so với dự toán, năm 2001 con số này chỉ là 88%. Bậc tiểu học
thường được đáp ứng khá hơn so với THCS.
* Ngay từ đầu năm, sau khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính giao
quyết định thu chi ngân sách cho các địa phương; UBND tỉnh, thành phố báo cáo
HĐND thông qua dự toán thu chi cho các ngành, trong đó có nhiệm vụ chi cho giáo
dục - đào tạo trên địa bàn toàn tỉnh (theo quy định của Luật Ngân sách); Liên Sở Tài
chính - Giáo dục và Đào tạo và các Sở chuyên ngành có trách nhiệm phối hợp giao
nhiệm vụ chi cho giáo dục của các trường thuộc tỉnh quản lý và chi cho giáo dục
từng huyện, quận, thị xã. Bảng kế hoạch phân bổ ngân sách hàng năm được gửi tới
các cơ quan quản lý chuyên ngành, các cơ quan tài chính và kho bạc để phối hợp tổ
chức thực hiện.
* Như phần 1 đã nêu các căn cứ và tiêu chí cơ bản làm cơ sở cho việc lập dự toán
chưa được xem như là căn cứ khoa học để sử dụng, thì khâu phân bổ ngân sách cũng vậy.
Khâu phân bổ ngân sách diễn ra từ cấp trung ương xuống đến cấp cơ sở và số tiền được
phân bổ phụ thuộc vào chỉ tiêu ngân sách được cấp trên giao. Các đơn vị trực tiếp chi tiêu
hầu như thụ động tiếp nhận số ngân sách được phân bổ hàng năm.
* Mức ngân sách được phân bổ hàng năm không đảm bảo được cơ cấu chi 70%
ngân sách chi cho lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương (Nhóm 1) và 30% ngân
sách chi cho các hoạt động giảng dạy, học tập, mua sắm, sửa chữa, hành chính quản lý...
(Nhóm 2). Đa số các địa phương đạt tỷ lệ ở mức 85% chi Nhóm 1 và 15% chi cho Nhóm
2, cá biệt có những tỉnh do thiếu giáo viên, phải thanh toán tiền dạy thay, vượt giờ nhiều
nên tỷ lệ chi cho Nhóm 1 tới 90% còn lại chi Nhóm 2, do đó chưa thể đáp ứng được yêu
cầu về tăng qui mô và chất lượng giáo dục và đào tạo.
* Như phần kế hoạch phát triển nêu trên, thì ở khâu dự toán cũng chưa có sự phê
duyệt của các cơ quan tài chính và cơ quan quản lý giáo dục. Việc phê duyệt dự toán
chính là căn cứ để giao chỉ tiêu ngân sách cho các cơ sở giáo dục; Đồng thời qua việc phê
duyệt dự toán và giao chỉ tiêu ngân sách đã giúp các cơ sở giáo dục chủ động trong sử
dụng, điều hành việc thu chi ở cơ sở hoặc có những kiến nghị đề xuất với cơ quan quản lý
chuyên ngành và cơ quan tài chính.
Một vấn đề rất cần được quan tâm nghiên cứu trong khâu phân bổ ngân sách là
phương thức phân bổ: Phân bổ "trọn gói"? Phân bổ theo nhóm chi? Phân bổ theo mục lục
ngân sách? Để tạo quyền chủ động cho cơ sở trường học trong điều hành, sử dụng ngân
sách giáo dục, cần đặc biệt quan tâm tới phương thức phân bổ "trọn gói" (trước mắt là 1
năm và tới đây sẽ là 3 năm), góp phần sử dụng tiết kiệm và hợp lý các nguồn lực đồng
thời nâng cao tính trách nhiệm của các cơ sở giáo dục.
2.2.1.4. Một số ưu, nhược điểm của công tác xây dựng dự toán ngân sách giáo
dục - đào tạo toàn ngành hiện nay
* Ưu điểm:
- Qui trình lập dự toán đơn giản, đáp ứng được các thông tin cần thiết để tổng
hợp và xây dựng dự toán.
- Các đơn vị cơ sở chủ động lập dự toán của đơn vị mình.
- Tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong quá trình lập dự toán.
- Kết hợp được việc quản lý theo lĩnh vực, ngành và vùng lãnh thổ.
* Nhược điểm:
- Chưa xây dựng được kế hoạch trung hạn và dài hạn nên việc xác định nhiệm vụ
và dự toán ngân sách hàng năm chưa theo định hướng, mục tiêu cụ thể dẫn đến hiệu quả
hiện thực chưa cao.
- Định mức chi giáo dục- đào tạo chưa được nghiên cứu đầy đủ, khoa học,
chưa có sức thuyết phục: định mức chi giáo dục tính theo đầu dân chỉ có tác dụng
phân bổ ngân sách, không dùng làm căn cứ cấp phát ngân sách cho các đơn vị được.
Mặt khác, do ngân sách đầu tư cho giáo dục - đào tạo tuy đã được ưu tiên, nhưng còn
rất hạn hẹp nên định mức chi chưa được xác định theo yêu cầu thực tế mà còn ép buộc
theo khả năng ngân sách nhà nước nên việc phân bổ ngân sách giáo dục- đào tạo gặp
khó khăn, hầu hết các trường chỉ đủ kinh phí duy trì hoạt động ở mức tối thiểu, chưa
có điều kiện trang bị phương tiện hiện đại cho dạy và học để nâng cao chất lượng giáo
dục - đào tạo.
- Dự toán chi ngân sách được lập quá chi tiết theo Mục lục Ngân sách nhà
nước mà không căn cứ vào kết quả "đầu ra" của giáo dục - đào tạo, nên việc kiểm tra,
kiểm soát chi gặp nhiều khó khăn, hiệu quả sử dụng kinh phí chưa cao và còn xảy ra
tình trạng chi tiêu không đúng mục đích, lãng phí.
- Việc phân công trách nhiệm trong khâu lập dự toán chưa rõ ràng, chưa tập
trung vào một đầu mối, còn chồng chéo dẫn đến thủ tục hành chính rườm rà, gây khó
khăn cho các Bộ, địa phương phải làm việc với nhiều cơ quan (Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Giáo dục - Đào tạo); Mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan
tổng hợp trong việc xây dựng dự toán chi giáo dục - đào tạo chưa thường xuyên nên
đôi khi còn xảy ra tình trạng sai lệch giữa chỉ tiêu giá trị và chỉ tiêu hiện vật, xảy ra
tình trạng không thống nhất về quan điểm, mục tiêu đã làm cho chất lượng kế hoạch
bị hạn chế.
- Theo cơ chế phân cấp ngân sách hiện nay chưa tạo điều kiện cho các địa
phương chủ động bố trí ngân sách cấp mình để thực hiện nhiệm vụ được giao.
2.2.2. Thực trạng công tác chấp hành ngân sách GD-ĐT
2.2.2.1. Qui trình cấp phát NS GD-ĐT
* ở Trung ương: Căn cứ vào Dự toán ngân sách được duyệt hàng năm có chia
theo quí, Bộ Tài chính cấp phát "Hạn mức kinh phí" cho Bộ Giáo dục và Đào tạo và các
Bộ có trường trực thuộc (Bộ Y tế: Trường Đại học Y; Bộ Công An: trường Đại học Cảnh
sát, trường Đại học An Ninh; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: trường Đại học
Lâm nghiệp, trường Đại học Thủy lợi...) qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, theo các Mục
chi đã được qui định trong Mục lục Ngân sách nhà nước (Ban hành kèm theo Quyết định
số 280 TC/QĐ/NSNN ngày 15/4/1997 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và các Thông tư sửa
đổi, bổ sung); Với các Mục chi thông thường sau đây: Tiền lương (M100), Tiền công
(M101), Phụ cấp lương (M102), Học bổng học sinh, sinh viên (M103), Tiền thưởng
(M104), Phúc lợi tập thể (M105), Các khoản đóng góp (M106), Thanh toán dịch vụ công
cộng (M109), Vật tư văn phòng (M110), Thông tin tuyên truyền liên lạc (M111), Hội
nghị (M112), Công tác phí (M113), Sửa chữa thường xuyên TSCĐ(M117), Sửa chữa lớn
TSCĐ (M118), Chi phí nghiệp vụ chuyên môn (M119), Chi khác (M134)...
- Căn cứ vào Dự toán hàng năm có chia theo quí của các trường và các đơn vị
trực thuộc, Bộ Giáo dục và Đào tạo (cũng như các Bộ có trường khác) cấp Hạn mức kinh
phí hàng quí cho các trường thụ hưởng qua hệ thống Kho bạc Nhà nước theo các Mục chi
tương đương như trên.
- Các trường và các đơn vị trực thuộc làm các thủ tục thanh toán và chi tiêu qua
Kho bạc nhà nước - nơi trường mở Tài khoản giao dịch.
* ở địa phương:
Từ năm 1990 đến nay, qui trình cấp phát và quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo
tại địa phương đã nhiều lần thay đổi với các mô hình quản lý khác nhau tùy theo điều
kiện cụ thể của mỗi tỉnh, thành phố. Hiện nay phổ biến nhất là 3 mô hình cấp phát và
quản lý sau đây:
* Mô hình thứ nhất:
Sở Giáo dục và Đào tạo quản lý toàn bộ ngân sách cho sự nghiệp giáo dục - đào
tạo của tỉnh (trừ phần ngân sách đầu tư cho xây dựng cơ bản). Hàng quí, sau khi nhận
được Hạn mức kinh phí do Sở Tài chính Vật giá cấp, Sở Giáo dục - Đào tạo trực tiếp cấp
hạn mức kinh phí cho:
- Các trường và các đơn vị trực thuộc Sở: Các trường Trung học phổ thông,
Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung tâm lao động hướng nghiệp, các Trường bồi
dưỡng nghiệp vụ...
- Các Phòng Giáo dục - Đào tạo ở các Quận Huyện, để các Phòng Giáo dục - Đào
tạo tiếp tục cấp cho các trường Trung học cơ sở, các trường Tiểu học và các trường Mầm
non.
* Mô hình thứ hai: áp dụng cho một số tỉnh có nhiều huyện miền núi, vùng sâu,
vùng xa;
- Sở Giáo dục Đào tạo trực tiếp cấp hạn mức kinh phí cho: Các trường và các đơn
vị trực thuộc Sở: Các trường Trung học phổ thông, Trung tâm giáo dục thường xuyên,
Trung tâm lao động hướng nghiệp, các Trường bồi dưỡng nghiệp vụ...
- Sở Tài chính Vật giá cấp thẳng kinh phí cho các Phòng Giáo dục - Đào tạo ở
các Huyện khó khăn, để các Phòng Giáo dục - Đào tạo tiếp tục cấp cho các trường Trung
học cơ sở, các trường Tiểu học và các trường Mầm non (không thông qua Sở GD-ĐT)
Theo loại hình này Sở Giáo dục - Đào tạo chưa thực sự điều hành ngân sách giáo
dục và đào tạo toàn tỉnh.
* Mô hình thứ ba: Sở Giáo dục - Đào tạo quản lý ngân sách chi của Văn phòng
Sở và các trường trực thuộc; Phòng Tài chính huyện quản lý ngân sách giáo dục các
trường trên địa bàn huyện.
Như vậy, ba loại hình quản lý ngân sách giáo dục và đào tạo nêu trên phần nào
đã phù hợp với hoàn cảnh của từng địa phương, bước đầu đã thực hiện được nguyên tắc
quản lý tập trung thống nhất ngân sách giáo dục - đào tạo trên toàn huyện, tỉnh.
Ưu điểm chính của việc Sở GD-ĐT trực tiếp quản lý và điều hành NSGD-ĐT là:
- Sở Giáo dục - Đào tạo nắm được toàn bộ các hoạt động giáo dục và đội ngũ
giáo viên trong toàn tỉnh do đó thuận tiện cho việc lập kế hoạch và điều hành ngân sách.
Cũng từ đó chấm dứt tình trạng thiếu, nợ, chậm lương của giáo viên, từ đó làm cho đội
ngũ giáo viên yên tâm, phấn khởi, gắn bó với nhà trường.
- Sở Giáo dục- Đào tạo quản lý và điều hành ngân sách nên đã đáp ứng được
kinh phí cho các hoạt động của ngành theo tiến độ của năm học, hiệu quả của các hoạt
động nghiệp vụ được nâng cao.
- Thông qua quản lý ngân sách toàn diện, các Sở Giáo dục - Đào tạo đã thực
hiện được việc sắp xếp lại đội ngũ giáo viên, chủ động giải quyết chế độ nghỉ giảng
dạy đối với những giáo viên không đạt chuẩn theo hướng dẫn của Bộ.
- Sở Giáo dục và Đào tạo trực tiếp quản lý kế hoạch ngân sách nên đã nắm được
các nguồn tài chính chi cho giáo dục và đào tạo trong toàn tỉnh, chủ động sắp xếp kinh
phí để thực hiện các chương trình mục tiêu.
Tuy nhiên các mô hình cấp phát và quản lý nói trên mới phù hợp được đối với
khối Giáo dục của các địa phương. Đối với khối các trường đào tạo hiện nay vẫn còn
phân tán do các Bộ, các ngành và các địa phương quản lý, mà chưa có phương thức quản
lý chi ngân sách GD-ĐT thật hữu hiệu.
2.2.2.2. Cấp phát kinh phí chi thường xuyên
Trong những năm qua, ngân sách chi cho giáo dục- đào tạo được tăng dần qua
các năm cả về tỷ trọng và số tuyệt đối, thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 2.1: Ngân sách chi thường xuyên cho giáo dục từ năm 1996- 2000
(Không kể XDCB)
Đơn vị: tỷ đồng
Năm Tổng chi NSNN
Ngân sách chi cho sự
nghiệp GD-ĐT
Tỷ lệ % so với tổng
chi NSNN
1996 71.550 6.935 9,69%
1997 76.640 7.856 10,25%
1998 89.976 10.153 11,28%
1999 91.457 10.060 11,00%
2000 94.535 10.956 11,59%
Nguồn: Vụ Kế hoạch và Tài chính Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Mặc dầu vậy, ngân sách nhà nước chỉ mới đáp ứng khoảng 70% nhu cầu tối thiểu
của giáo dục. Phần lớn ngân sách dùng để trả lương và các khoản phụ cấp theo lương (có
nơi tới 90%).
Ng©n s¸ ch ch i c h o gd §T
t r o ng n¨ m n¨ m qua (§ /V: t û ®å ng )
922410230
10956
13249
17311
0
10000
20000
1998 1999 2000 2001 2002
(a)
t û l Ö Ng©n s¸ c h c h i c h o gd § T
t r o ng n¨ m n¨ m qua
15.50%15.30%15.00%14.10%13.70%
0.00%
10.00%
20.00%
1998 1999 2000 2001 2002
(b)
Nguồn: Vụ Kế hoạch và Tài chính Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Hình 2.1: NS GD-ĐT và tỷ lệ cho NS GD-ĐT 1999- 2002
Điều đáng quan tâm ở đây là căn cứ để phân bổ và điều hành chi thường xuyên,
đó là các tiêu chuẩn, định mức chi cho giáo dục - đào tạo.
Trong thời gian qua, các chế độ về định mức thay đổi liên tục, không thống nhất,
không ổn định qua các thời kỳ, có lúc định mức theo đầu học sinh, lúc theo đầu dân, có
lúc lại theo cả đầu học sinh và đầu dân. Ta có thể điểm qua tình hình ban hành và sử dụng
định mức chi giáo dục - đào tạo trong thời gian qua như sau:
Năm 1990, áp dụng định mức chi theo đầu học sinh, trong các khâu lập kế hoạch,
cấp phát ngân sách, trong đó qui định mức tối thiểu và mức tối đa, cụ thể là:
Bảng 2.2: Mức chi cho giáo dục phổ thông năm 1990
Đối tượng Đơn vị tính Tối thiểu Tối đa
Nhà trẻ thị xã, quận
Nhà trẻ huyện
Lớp mẫu giáo quận, thành
phố
Lớp mẫu giáo huyện
Chi giáo dục phổ thông
+Tiểu học
+Trung học cơ sở
+Trung học phổ thông
đ/cháu/tháng
đ/cháu/tháng
đ/cháu/tháng
đ/cháu/tháng
đ/hs/năm
6.000
5.500
5.500
5.200
26.000
28.000
36.000
7.000
6.500
6.500
6.200
28.000
30.000
40.000
Nguồn: Vụ Kế hoạch và Tài chính- Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Năm 1991, đối với khối giáo dục, Bộ Tài chính đã ban hành và áp dụng định mức
chi theo đầu học sinh, trong các khâu lập kế hoạch, cấp phát ngân sách, trong đó có phân
biệt mức chi theo vùng miền, cụ thể là:
Bảng 2.3: Mức chi cho giáo dục phổ thông năm 1991
Đối tượng Đơn vị tính Thành
phố
Miền núi Đồng bằng, trung
du
Nhà trẻ
Mẫu giáo
đ/cháu/năm
đ/cháu/năm
60.000
50.000
50.000
70.000
50.000
40.000
Chi giáo dục phổ thông
+Tiểu học
+Trung học cơ sở
+Trung học phổ thông
Xóa mù chữ
Bổ túc văn hóa tại chức
Bổ túc văn hóa tập trung
đ/cháu/năm
đ/hv/năm
38.000
50.000
80.000
15.000
15.000
50.000
60.000
55.000
90.000
60.000
20.000
70.000
32.000
45.000
75.000
50.000
15.000
60.000
(Nguồn: Vụ Kế hoạch và Tài chính- Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Đối với khối đào tạo áp dụng định mức chi theo đầu học sinh, có phân biệt ngành
nghề đào tạo và bậc đào tạo như sau:
Bảng 2.4: Mức chi cho khối đào tạo năm 1991
Đơn vị: 1000đ/học sinh/năm
Định mức chi đào tạo theo
ngành học
Đại học, cao
đẳng
THCN Dạy nghề
A- Mức chi tổng hợp
B- Mức chi theo ngành học
1- Khối khoa học KT
2- Khối tổng hợp, sư phạm
3- Khối nông, lâm, ngư, y tế
4- Khối kinh tế, pháp lý
5- Văn hóa, nghệ thuật, TDTT
6- Cao đẳng sư phạm địa phương
7- Sơ cấp sư phạm, nhà trẻ
1.000
1.000
1.500
1.000
950
1.250
750
700
700
730
680
650
850
600
720
700
700
900
(Nguồn: Vụ Kế hoạch và Tài chính- Bộ Giáo dục và Đào tạo).
Ngày 9/3/1992 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) có Quyết định số
76/HĐBT quy định "Bộ Tài chính quy định lại chế độ cấp kinh phí cho giáo dục và y tế,
bỏ chế độ cấp kinh phí theo đầu học sinh và số giường bệnh, chuyển sang chế độ cấp
kinh phí theo đầu người dân, có hệ số thích hợp cho những vùng gặp khó khăn". Từ năm
1993, Bộ Tài chính thực hiện phân bổ ngân sách cho sự nghiệp giáo dục tại các địa
phương theo đầu dân có tính đến yếu tố vùng miền (phân biệt 4 vùng) và phân bổ cho đào
tạo theo đầu học sinh, cụ thể như sau:
Mức chi cho giáo dục:
+Vùng thành phố 24.100 đ/người dân/năm
+ Vùng đồng bằng 16.100 đ/người dân/năm
+ Vùng trung du miền núi thấp 20.900 đ/người dân/năm
+ Vùng cao, vùng sâu, hải đảo, 32.200 đ/người dân/năm
căn cứ kháng chiến cũ
Mức chi cho đào tạo:
Bảng 2.5: Mức chi cho khối đào tạo năm 1993
Đơn vị: 1.000 đ/hs/năm
Định mức chi đào tạo
theo ngành học
Đại học,
Cao đẳng
THCN Dạy nghề
A- Mức chi tổng hợp
B- Mức chi theo ngành học
1- Khối khoa học KT
2- Khối tổng hợp, sư phạm
3- Khối nông, lâm, ngư, y tế
4- Khối kinh tế, pháp lý
3.000
3.000
3.200
3.100
2.600
1.800
1.800
1.900
1.600
1.500
2.000
2.000
1.800
5- Văn hóa, nghệ thuật, TDTT
6- Cao đẳng sư phạm địa phương
7- Sơ cấp sư phạm, nhà trẻ
3.600
2.200
2.000
1.500
2.200
(Nguồn: Vụ Kế hoạch và Tài chính- Bộ Giáo dục và Đào tạo).
Đến năm 1995, Bộ Tài chính sửa lại mức chi ngân sách giáo dục phân chia theo
đầu dân thành 5 vùng để phù hợp với tình hình thực tế của các địa phương, cụ thể như
sau:
Mức chi cho giáo dục:
+Vùng thành phố: 57.960 đ/người dân/năm
+Vùng đồng bằng: 41.400 đ/người dân/năm
+ Vùng trung du: 49.680 đ/người dân/năm
+ Vùng sâu, núi thấp: 53.820 đ/người dân/năm
+ Vùng núi cao: 70.380đ/người dân/năm
Mức chi cho đào tạo:
Bảng 2.6: Mức chi cho khối đào tạo năm 1996
Đơn vị: 1.000 đ/học sinh/năm
Định mức chi đào tạo
theo ngành học
Đại học, cao
đẳng
THCN Dạy nghề
A- Mức chi tổng hợp
B- Mức chi theo ngành học
1- Khối nghệ thuật - TDTT
2- Khối tổng hợp, sư phạm
3- Khối thăm dò địa chất, thủy văn,
kỹ thuật mỏ
5.000
6.000
5.500
5.400
3.000
4.800
3.500
3.400
3.600
4.500
4- Khối hàng hải
5- Khối nông lâm, thủy sản
6- Khối y tế, dược
7- Khối công nghệ, lương thực,
thực phẩm
8- Khối cơ khí, luyện kim, kỹ thuật
nhiệt và điện, kỹ thuật xây dựng
9- Khối bảo quản và vật tư hh
10- Khối kỹ thuật điện tử và bưu
chính viễn thông
11- Đào tạo lại 2,8 triệu/ suất
5.300
4.900
5.000
4.700
4.900
4.600
4.400
4.500
4.300
3.300
2.950
3.000
2.800
2.900
2.450
2.650
2.700
2.600
3.900
3.750
3.250
3.600
3.450
3.300
3.370
(Nguồn: Vụ Kế hoạch và Tài chính- Bộ Giáo dục và Đào tạo).
Từ năm 1998 đến nay, Bộ Tài chính vẫn duy trì mức phân bổ ngân sách cho các
địa phương theo đầu dân số, phân bổ ngân sách chi đào tạo theo đầu học sinh, tuy nhiên
có ban hành mức chi cho giáo dục phổ thông để các địa phương xem xét vận dụng, cụ thể
như sau:
Mức chi cho giáo dục:
Bảng 2.7: Mức chi cho giáo dục năm 1998
Đơn vị: 1000 đ/học sinh/năm
Cấp học
Bình
quân
Thành
phố
Đồng
bằng
Trung du
Duyên
hải
Vùng
sâu núi
thấp
Núi
cao
1. GD Mầm non
- Nhà trẻ
- Mẫu giáo
1. Tiểu học
3. Trung học cơ sở
4. Trung học phổ thông
5. Trường năng khiếu
6. TT giáo dục KTTH
7. TT giáo dục TX
8. Giáo dục trẻ khuyết tật
9. Trường DTNT
- Huyện (cấp 1,2)
- Tỉnh (cấp 3)
- Trung ương(Dự bị ĐH)
10. Xóa mù chữ
490
411
290
390
450
800
80
85
800
2.200
2.700
3.000
70
390
290
220
320
380
710
120
180
800
2.200
2.700
3.000
60
429
319
242
352
418
781
132
198
800
2.200
2.700
3.000
66
507
377
286
416
494
923
156
234
800
2.200
2.700
3.000
78
585
435
330
480
570
1.065
180
270
800
2.200
2.700
3.000
90
780
580
440
640
760
1.420
240
360
800
2.200
2.700
3.000
120
(Nguồn: Vụ Kế hoạch và Tài chính- Bộ Giáo dục và Đào tạo).
Mức chi cho đào tạo:
Bảng 2.8: Mức chi cho khối đào tạo năm 1998
Đơn vị: 1000đ/học sinh/năm
Ngành đào tạo Đào tạo
Đại học Trung
học
Dạy nghề
Dài hạn Tại chức
- Nghệ thuật, TDTT
- Tổng hợp, Sư phạm
- Địa chất, Thủy văn, Khí tượng
- Hàng hải
- Nông Lâm Thủy sản
- Y tế, Dược
- Công nghệ, lương thực, Thực phẩm
- Cơ khí, Luyện kim, Kỹ thuật, Nhiệt,
Điện, Xây dựng
- Kỹ thuật bảo quản và Vật tư hàng
hóa
- Kỹ thuật điện tử, Bưu chính viễn
thông
- Văn hóa thông tin, Du lịch
- Nghiệp vụ quản lý kinh tế, nghiệp vụ
kinh doanh cơ sở, hành chính, pháp lý
8.000
6.300
6.500
6.400
5.900
6.000
5.600
5.900
5.500
5.300
5.400
5.200
2.000
1.570
1.620
1.600
1.470
1.500
1.400
1.470
1.370
2.300
1.350
1.300
6.500
4.000
4.100
4.000
3.540
3.600
3.400
3.500
3.000
3.200
3.200
3.100
5.400
4.700
4.500
4.200
4.300
4.100
3.900
4.000
(Nguồn: Vụ Kế hoạch và Tài chính- Bộ Giáo dục và Đào tạo).
- Chi Nghiên cứu sinh:
.Tập trung: 5.500.000đ/hs/năm
.Tại chức: 4.400.000đ/hs/năm
- Cao học:
.Tập trung: 4.000.000đ/hs/năm
.Tại chức: 2.600.000đ/hs/năm
- Đào tạo lại: 3.000.000đ/hs/năm
- Kinh phí chi thường xuyên được cơ quan tài chính cấp theo quí (có chia chi tiết
theo tháng) và chi tiết theo các mục chi đã được phê duyệt trong dự toán của đơn vị. Đây
là một khó khăn lớn đối với các đơn vị trực tiếp chi tiêu, khi cần phải điều chỉnh Mục chi,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay.pdf