Tài liệu Luận văn Vấn đề thương hiệu đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay: Lời mở đầu
Thương trường là chiến trường, các doanh nghiệp chỉ có một con đường duy nhất là cạnh tranh để tồn tại, để vươn lên hoặc là chết. Đã qua từ rất lâu rồi thời của nhu cầu ăn chắc mặc bền, càng ngày nhu cầu của con người càng nâng cao theo nấc trên của tháp nhu cầu đòi hỏi các giá trị văn hoá, thẩm mỹ, phi vật chất chiếm tỷ trọng cao hơn và đòi hỏi phải nhìn nhận khái niệm sản phẩm (product concept) ở các cấp độ cao hơn. Hơn thế, khi chất lượng đạt dần đến một độ ổn định, vấn đề cạnh tranh về chất lượng không còn là ưu tiên số một mà là cạnh tranh về thương hiệu, giá, dịch vụ hậu mãi và phân phối sản phẩm.
Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài từ lâu đã ý thức được vai trò vô cùng quan trọng của thương hiệu, đã chú trọng đầu tư, quảng bá thương hiệu và đã gặt hái được những thành công to lớn thì chỉ một hai năm trở lại đây, sau hàng loạt vụ thương hiệu Việt Nam bị xâm phạm ở trong nước cũng như nước ngoài, các doanh nghiệp mới giật mình biết đến một vấn đề cũng quan trọng khô...
104 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1066 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề thương hiệu đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Thương trường là chiến trường, các doanh nghiệp chỉ có một con đường duy nhất là cạnh tranh để tồn tại, để vươn lên hoặc là chết. Đã qua từ rất lâu rồi thời của nhu cầu ăn chắc mặc bền, càng ngày nhu cầu của con người càng nâng cao theo nấc trên của tháp nhu cầu đòi hỏi các giá trị văn hoá, thẩm mỹ, phi vật chất chiếm tỷ trọng cao hơn và đòi hỏi phải nhìn nhận khái niệm sản phẩm (product concept) ở các cấp độ cao hơn. Hơn thế, khi chất lượng đạt dần đến một độ ổn định, vấn đề cạnh tranh về chất lượng không còn là ưu tiên số một mà là cạnh tranh về thương hiệu, giá, dịch vụ hậu mãi và phân phối sản phẩm.
Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài từ lâu đã ý thức được vai trò vô cùng quan trọng của thương hiệu, đã chú trọng đầu tư, quảng bá thương hiệu và đã gặt hái được những thành công to lớn thì chỉ một hai năm trở lại đây, sau hàng loạt vụ thương hiệu Việt Nam bị xâm phạm ở trong nước cũng như nước ngoài, các doanh nghiệp mới giật mình biết đến một vấn đề cũng quan trọng không kém chất lượng, đó là thương hiệu. Vấn đề thương hiệu thật sự là vấn đề sống còn, vô cùng cấp bách và bức xúc đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Chúng ta đã chịu quá nhiêù thiệt thòi, mất mát do bỏ qua vấn đề thương hiệu và hậu quả sẽ còn trầm trọng hơn nhiều nếu ngay từ bây giờ chúng ta không nỗ lực xây dựng và bảo vệ thương hiệu. Chúng ta không thể chậm trễ thêm một phút nào nữa nếu không muốn thất bại trong cuộc cạnh tranh này càng khốc liệt trên thương trường.
Tuy nhiên đúng như một chuyên gia kinh tế đã ví von, trong cuộc chiến này, chúng ta như những anh nông dân chơi chung với các nhà quý tộc (các doanh nghiệp nước ngoài). Cả các cơ quan chức năng và các doanh nghiệp Việt Nam đứng trước bao bỡ ngỡ, khó khăn do thiếu kiến thức, kinh nghiệm, kinh phí...
Chính vì vấn đề thương hiệu trở nên bức xúc như vậy nên tôi đã chọn đề tài “Vấn đề thương hiệu đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay” để viết khoá luận tốt nghiệp nhằm đi sâu tìm hiểu về thương hiệu, về tình trạng xây dựng, quảng bá, bảo vệ thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam với những tồn tại, khó khăn cả chủ quan lẫn khách quan từ đó đề xuất một vài giải pháp cho vấn đề này. Những nội dung đó được trình bày trong ba chương:
Chương I: Lý luận chung về thương hiệu và nguồn pháp luật điều chỉnh về thương hiệu.
Chương II: Thực trạng vấn đề thương hiệu ở Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp về vấn đề thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới
Với phạm vi hạn chế của khoá luận tốt nghiệp này, tôi chỉ mong muốn được góp một tiếng nói trong phong trào xây dựng và bảo vệ thương hiệu hiện nay với hy vọng và niềm tin rằng nhận thức đúng đắn và hành động một cách hệ thống, hiệu quả, các doanh nghiệp Việt Nam dù đi sau nhưng sẽ xây dựng và bảo vệ được các thương hiệu của mình, để hàng hoá Việt Nam đứng vững và phát triển không chỉ ở thị trường trong nước mà ở cả thị trường quốc tế.
Chương I: Lí luận chung về thương hiệu và nguồn pháp luật điều chỉnh về thương hiệu
I. Lí luận chung về thương hiệu.
1.Thương hiệu là gì?
Các doanh nghiệp Việt Nam đang tiến theo đúng quy luật của các doanh nghiệp trên thế giới, đạt dần đến một độ ổn định về chất lượng. Vấn đề cạnh tranh về chất lượng không còn là ưu tiên số một mà là cạnh tranh về thương hiệu. Điều này đối với các doanh nghiệp Việt Nam dường như còn xa lạ, đặc biệt là vấn đề xây dựng và bảo vệ thương hiệu. Nhưng để tồn tại, đứng vững được trong thương trường ngày càng cạnh tranh quyết liệt, các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực tìm hiểu và xây dựng chiến lược thương hiệu hiệu quả nhất cho mình.
Trước hết cần hiểu thương hiệu là gì ?
-Thương hiệu là cảm nhận tổng thể về chất lượng, môi trường, uy tín và giá trị đằng sau một cái tên, một cái logo của doanh nghiệp .
Thương hiệu có thể được coi như là một phát ngôn viên của doanh nghiệp. Phát ngôn viên này đại diện những gì đặc trưng, tinh tuý của doanh nghiệp. Gắn với thương hiệu phải là chất lượng, là uy tín. Thương hiệu là tài sản vô cùng giá trị và lâu bền của người chủ sở hữu nó.
-Thương hiệu là kết quả các kinh nghiệm đã tích luỹ được của người tiêu dùng với một nhận thức về công ty, những con người của công ty và các sản phẩm của nó.
Như vậy rõ ràng thương hiệu không phải là một cái tên công ty, tên sản phẩm riêng lẻ mà là tổng thể tất cả các yếu tố của doanh nghiệp mà người tiêu dùng cảm nhận được và ghi nhớ.
Một thương hiệu được cấu thành từ một hỗn hợp các thành phần, bao gồm : logo hay biểu tượng, tên công ty, tên sản phẩm, màu sắc, thiết kế bao gói. Mỗi một thành phần này đóng góp cho cảm giác đó là thương hiệu của doanh nghiệp nhưng bản thân mỗi cái đó không thể tạo nên thương hiệu.
-Thương hiệu (còn gọi là nhãn hiệu hàng hoá, tiếng Anh là trademark) được định nghĩa là một sự xác định riêng biệt của một sản phẩm hay dịch vụ dưới hình thức một tên gọi, từ ngữ, chữ số, tên người, tổ hợp màu sắc, châm ngôn, biểu tượng, hình tượng, dấu hiệu mà một nhà sản xuất khắc, in, đóng dấu, kèm, cặp vào sản phẩm của mình, khiến cho nó được phân biệt với sản phẩm của người khác. Thương hiệu, hay nhãn hiệu, khác với nhãn hàng hoá (label) là phương tiện để thể hiện nhãn hiệu mà thôi. Nhãn hiệu hàng hoá cũng khác với tên thương mại (trade name). Nhãn hiệu hàng hoá để phân biệt hàng hoá, còn tên thương mại là tên của công ty, để phân biệt các công ty với nhau, do đó khi đặt tên, phải theo những tiêu chí, yêu cầu khác nhau. Một công ty có thể có nhiều mặt hàng với những nhãn hiệu khác nhau.
-Bộ luật dân sự Việt Nam định nghĩa : Nhãn hiệu hàng hoá là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hoá có thể là từ ngữ, hình ảnh, hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiệu bằng một hoặc nhiều màu sắc.
Như vậy nhãn hiệu hàng hoá được hiểu là dấu hiệu nhằm phân biệt sản phẩm của các doanh nghiệp khác nhau, qua đó làm nổi bật sản phẩm cũng như khẳng định chất lượng sản phẩm.
Ngày nay, các yếu tố cấu thành nhãn hiệu đã được mở rộng khá nhiều. Người ta cho rằng bất kỳ một đặc trưng nào của sản phẩm tác động vào giác quan của người khác cũng có thể được coi là một phần của nhãn hiệu, miễn là chúng có tính phân biệt. Như vậy, ngoài tên nhãn hiệu ( brandname), biểu tượng(logo) thì tiến xa hơn nữa sẽ là tiếng động, mùi vị ...riêng biệt của sản phẩm cũng có thể được đăng ký bản quyền, vấn đề chưa giải quyết được là việc lưu trữ, đối chiếu, kiểm tra các yếu tố này như thế nào khi có tranh chấp xảy ra mà thôi.
Có 4 loại nhãn hiệu sau :
+ Nhãn hiệu tập thể: là nhãn hiệu hàng hoá được tập thể các cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác cùng sử dụng, trong đó mỗi thành viên sử dụng một cách độc lập theo quy chế do tập thể đó quy định.(NĐ 63/CP/1996)
+Nhãn hiệu liên kết: là các nhãn hiệu hàng hoá tương tự nhau do cùng một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản phẩm, dịch vụ cùng loại, tương tự với nhau hoặc có liên quan tới nhau, và các nhãn hiệu hàng hoá trùng nhau do cùng một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản phẩm, dịch vụ tương tự nhau hoặc có liên quan tới nhau.
+Nhãn hiệu nổi tiếng: là nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng liên tục cho sản phẩm, dịch vụ có uy tín khiến cho nhãn hiệu đó được biết đến một cách rộng rãi.
+Nhãn hiệu chứng nhận: Hiệp định thương mại Việt- Mỹ quy định :”nhãn hiệu chứng nhận” thuộc nhãn hiệu hàng hoá. Có thể hiểu nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu do người chủ sở hữu cho phép người khác dùng.
-Nhãn hiệu thương mại: là một nhãn hiệu được pháp luật bảo vệ để người chủ có quyền sử dụng
2.Vai trò, vị trí cuả thương hiệu.
Sự ra đời của thương hiệu với mục đích định vị các sản phẩm đánh dấu sự phát triển không ngừng của xã hội. Cũng như tên gọi của con người, thương hiệu là tên gọi của các sản phẩm, xa hơn nữa nó là hình ảnh của cả một tổ chức- người chủ sở hữu thương hiệu đó. Hình ảnh đó được mang đi khắp nơi trên toàn thế giới mang lại lơị ích cho tất cả các đối tượng trong xã hội. Thương hiệu không chỉ là hình ảnh về một đối tượng riêng lẻ mà những thương hiệu mạnh còn là biểu tượng cho cả một nền văn hoá.
2.1 Đối với người tiêu dùng.
Người tiêu dùng là người được lợi vì trong chiến lược xây dựng thương hiệu thì nhu cầu và lợi ích của ngươì tiêu dùng là yếu tố được xem xét hàng đầu.
Người mua có thể đánh giá chất lượng hàng hoá bằng thương hiệu, đặc biệt khi họ không thể phán xét các đặc điểm của sản phẩm ngay khi mua hàng. Không có thương hiệu việc chọn sản phẩm sẽ rất khó khăn bởi người tiêu dùng không biết lấy gì để đảm bảo rằng họ đã mua đúng sản phẩm mà mình muốn . Vấn đề sẽ rất đơn giản khi đó là một thương hiệu nổi tiếng, đã có được sự tin cậy của người tiêu dùng, tức là có được sự bảo chứng. Người tiêu dùng Việt Nam rất yên tâm khi lựa chọn xe máy Honda, thậm chí ở Việt Nam, Honda đồng nghĩa với xe máy bởi thương hiệu này đã thực sự chiếm được lòng tin của người tiêu dùng Việt Nam .
Người mua được quyền lựa chọn nhiều sản phẩm vô cùng phong phú. Thương hiệu thể hiện sự khác biệt nên là điều kiện buộc các doanh nghiệp đi vào chiều sâu và mở rộng đa dạng hoá sản phẩm. Điều này mang lại lợi ích cho cả người sản xuất và người tiêu dùng vì người sản sản xuất tập trung tất cả các nguồn lực của mình vào một loại sản phẩm sẽ nâng cao chất lượng, cải tiến, đa dạng mẫu mã, phục vụ người tiêu dùng tốt hơn, đến lượt mình người tiêu dùng sẽ lựa chọn người sản xuất đó.
Tiết kiệm thời gian là một ưu điểm nữa của việc tiêu dùng hàng có thương hiệu . Người tiêu dùng thấy mệt mỏi khi phải tốn nhiều thời gian lựa chọn hàng hoá mỗi khi mua sắm. Thương hiệu giúp người mua xác định sản phẩm nào họ ưa thích, và nhanh chóng có được sản phẩm thoả mãn nhu cầu của họ.
Ngoài ra thương hiệu còn giúp giảm rủi ro cho khách hàng, giúp họ biết được xuất xứ hàng hoá. Mua hàng có thương hiệu rõ ràng đồng nghĩa với việc sản phẩm đó sẽ được bảo hành trong một thời gian, hoặc nếu không, khách hàng có thể gửi yêu cầu tới công ty khi chứng minh đựơc là hàng đã mua không đảm bảo chất lượng như người sản xuất hay người cung cấp cam kết.
Thương hiệu đồng nhất với lòng tin của khách hàng đối với một doanh nghiệp, một sản phẩm. Tuy nhiên khách hàng phải nghiêm túc đánh gía chất lượng và uy tín của một thương hiệu . Tình trạng “sùng bái” có thể tạo phản ứng trong dư luận, gây ấn tượng không tốt với hàng hoá. Đồng thời không tạo được động lực thúc đẩy qúa trình cải tiến hàng hoá.
2.2 Đối với doanh nghiệp .
Thương hiệu đã và đang trở thành thứ tài sản vô hình quan trọng và vũ khí cạnh tranh sắc bén nhất của các doanh nghiệp trên thương trường. Nhà kinh tế Kevin Lane Keller đã nói:“Càng ngày các doanh nghiệp càng nhận thấy rằng một trong những tài sản quý giá nhất của họ chính là thương hiệu ” . Thương hiệu đã thay thế yếu tố chất lượng để chiếm vị trí số một trong cạnh tranh. Thương hiệu, đó là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Thương hiệu đồng nhất với lòng tin của khách hàng. Nếu không xây dựng được một thương hiệu thì làm sao khách hàng biết tới sản phẩm của doanh nghiệp mà lựa chọn, vậy doanh nghiệp làm sao có thể có chỗ đứng trên thị trường. Đó chính là bài toán nan giải của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu. Thực tế những năm qua đã minh chứng cho điều đó rất rõ, dù một số sản phẩm của Việt Nam xuất hiện trên thị trường nhiều nước, chất lượng tốt nhưng đa số người tiêu dùng trên thế giới chưa biết đó là hàng Việt Nam . Hàng của chúng ta vẫn phải xuất khẩu dưới những tên hiệu nổi tiếng khác do vậy chúng ta đã phải chịu rất nhiều thiệt thòi: giảm doanh thu, phụ thuộc vào các công ty nước ngoài , gánh chịu hậu quả nặng nề hơn những doanh nghiệp có thương hiệu khác khi thị trường tiêu thụ khó khăn, đặc biệt về lâu dài, doanh nghiệp khó có thể mở rộng, phát triển lớn mạnh trong tương lai.
Ngựơc lại, doanh nghiệp nào có ý thức đầu tư cho việc quảng bá thương hiệu thì uy tín, hình ảnh của họ trên thị trường sản xuất được củng cố. Khi doanh nghiệp đã có được một thương hiệu mạnh, thì sức mạnh thương hiệu sẽ mang lại sự phát triển bền vững và rộng khắp cho người sở hữu nó. Sức mạnh thương hiệu luôn cần được tăng cường nhằm không ngừng củng cố vị thế cạnh tranh , đáp ứng mục tiêu tối cao của doanh nghiệp là vượt qua đối thủ chiếm lĩnh thị trường. Năng lực cạnh tranh bằng thương hiệu là danh tiếng, uy tín dựa trên tổng hợp tất cả sự khác biệt và những nét đặc trưng đã được khách hàng chấp nhận.
Lợi thế cạnh tranh bằng thương hiệu của công ty thể hiện ở:
-Tính chất độc đáo của sản phẩm có thương hiệu sẽ được pháp luật bảo hộ tránh sự sao chép bất hợp pháp.
-Giảm bớt các chi phí Marketing , vì mức độ biết đến và trung thành với nhãn hiệu đã cao.
-Ưu thế trong đàm phán với nhà phân phối, với đối thủ.
-Tăng giá trị hàng hoá vì người tiêu dùng sẵn sàng trả nhiêù hơn để mua sản phẩm mà họ đã tin cậy hơn là lựa chọn sản phẩm mà họ chưa biết nhiều dù giá rẻ hơn.
-Thương hiệu giúp người bán thu hút một nhóm khách hàng trung thành.
-Thương hiệu giúp phân khúc thị trường.
-Với thương hiệu mạnh, quyền năng thị trường của doanh nghiệp sẽ rất lớn. Thương hiệu mạnh có khả năng điều khiển thị trường như thay đổi giá, kiểm soát kênh phân phối, đồng thời xâm nhập nhanh, sâu hơn vaò các khu vực thị trường mới. Thương hiệu mạnh có sức đề kháng cao trong cạnh tranh nên có khả năng tồn tại dẻo dai và sẽ vượt qua thời kỳ khó khăn với tổn thất thấp nhất có thể. Ngoài ra, thương hiệu là công cụ bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp. Sau khi đã đăng ký với Nhà nước, doanh nghiệp có quyền sử dụng, quảng bá và khai thác mọi lợi ích khác từ thương hiệu của mình, như sang nhượng, cho thuê, hùn vốn, cấp quyền sử dụng và được pháp luật bảo vệ chống lại mọi sự xâm phạm như hàng nhái, hàng giả, ăn cắp và sử dụng trái phép thương hiệu. Cuối cùng thương hiệu là một tài sản, thương hiệu càng nổi tiếng thì tài sản ấy càng lớn, đến mức hàng ngàn, hàng triệu lần món hàng mà nó đặt tên. Chúng ta hãy xem xét giá trị của 10 thương hiệu lớn nhất thế giới hiện nay:
Thương hiệu Gía trị (Tỷ USD)
Coca – cola 69.6
Microsoft 64.1
IBM 51.2
GE 41.3
Intel 30.9
Nokia 30.0
Disney 29.3
Mc Donald’s 26.4
Marboro 24.2
( Nguồn: Báo Sài Gòn tiếp thị số 33)
3.Vấn đề xây dựng thương hiệu.
3.1 Các nguyên tắc xây dựng thương hiệu.
Chúng ta hãy tìm hiểu những nguyên tắc cơ bản về xây dựng thương hiệu trong cuốn sách “22 nguyên tắc bất biến về xây dựng thương hiệu” của Al Ries.
Đi vào chuyên sâu, từ bỏ khuynh hướng “bách hoá tổng hợp”.
Đó là sự lựa chọn rất quan trọng để xây dựng thương hiệu của người nghèo, và đó cũng là cách tất cả những người giàu đã chọn để trở thành giàu. Chúng ta cần suy nghĩ nghiêm túc về cách đặt vấn đề này thông qua hai nguyên tắc đầu tiên.
Nguyên tắc 1: Luật cho những người thích đủ thứ.
Sức mạnh của thương hiệu tỉ lệ nghịch với sự bành trướng ra đủ thứ.
Chẳng hạn, xe hơi thương hiệu Chevrolet ở Mỹ vốn đã từng đứng đầu về sức bán tại Mỹ, riêng năm 1986 đã bán đến 1,8 triệu xe. Nhưng sau đó, do cố gắng làm tất cả các loại xe cho tất cả mọi giới nên thương hiệu Chevrolet bị suy giảm sức mạnh và kết quả là giờ đây sức bán của họ tụt xống dưới 1 triệu xe và đành phải nhường vị trí đầu bảng cho Ford.
Giờ đây, khi được hỏi chữ “Chevrolet” gợi ra điều gì trong họ, người Mỹ rất khó khăn để tìm ra một từ thích hợp, bởi Chevrolet là tất cả mọi thứ: xe lớn, xe nhỏ, xe rẻ, xe đắt.., cả xe tải!
Khi muốn gắn thương hiệu của mình lên tất cả mọi thứ, bạn sẽ làm cho sức mạnh của nó suy giảm đi.
Tại sao Chevrolet muốn làm đủ thứ xe như vậy? Đơn giản là họ muốn bán được nhiều hơn. Về ngắn hạn thì đúng nhưng về dài hạn thì chính điều này sẽ huỷ hoại dần nhận thức về thương hiệu Chevrolet trong tâm thức người tiêu dùng.
Đừng quên, ngắn hạn luôn chống lại dài hạn. Hãy tự hỏi, ta muốn mở rộng ra mọi thứ để tăng sức bán ngay trước mắt, hay tập trung lại thật sắc để “đổ bê tông” thương hiệu của ta trong lòng người tiêu dùng để tăng sức bán dài dài?
Đáng tiếc là hầu hết chúng ta chỉ tập trung cho ngắn hạn, chúng ta thường chỉ “vỗ béo” thương hiệu (để làm thịt) hơn là đổ-bê-tông để xây dựng nó bền vững. Bằng cách vỗ béo, về lâu dài, thương hiệu chúng ta chẳng còn đại diện cho một điều gì rõ ràng cả. Nó trở thành một cái gì đó rất... “ba phải”, và mọi người sẽ không còn bận tâm để nhớ về nó nữa!
Nguyên tắc 2: Luật của sự tập trung sắc lại.
Một thương hiệu sẽ mạnh lên khi nó được tập trung thật sắc.
Trong một quãng thời gian thật ngắn, Starbucks cà phê đã trở thành một trong những thương hiệu được biết đến nhiều nhất ở Mỹ. Tại sao?
Tại Mỹ, ở đâu cũng có quán cà phê gọi là coffe shop. Trong đó có bán đủ thứ: điểm tâm, bữa trưa nhẹ, bữa tối, rồi bánh ngọt, bánh mặn, kem...và dĩ nhiên là cà phê! Trong một thị trường đâu cũng na ná như thế thì Howard Schultz-người tạo ra Starbucks- đã làm gì để tạo ra một cú đột phá? Anh ta mở một quán cà phê cũng bán đủ thứ, nhưng chỉ liên quan đến cà phê. Cà phê pha 30 kiểu khác nhau! Chỉ vài năm thôi, giá trị của Starbucks đã vượt hơn 1 tỷ USD trên thị trường chứng khoán.
Cũng vậy khi Charles Lazarus mở một “siêu thị trẻ em” (Children Supermark) bán hai chủng loại chính là bàn ghế cho trẻ và đồ chơi. Rồi Charles muốn phát triển hơn. Theo lệ thường, người ta sẽ mở thêm ra: xe đạp này, tã này, rồi quần áo, thức ăn cho trẻ...Nhưng Charles làm ngược lại, anh ta bỏ bớt chứ không thêm vào. Anh ta bỏ bớt mặt hàng bàn ghế và chỉ tập trung vào đồ chơi. Và điều lạ đã xảy ra. Cửa hàng của Charles có thêm gấp đôi không gian trưng bày các loại đồ chơi giúp cho khách hàng có thêm rất nhiều chọn lựa phong phú, nó trở thành một điểm đến không thể thiếu của trẻ em Mỹ.
Cái cửa hàng cỏn con Children Supermark ấy ngày nay chính là chuỗi siêu thị đồ chơi Toys “R” us có mặt khắp nơi trên thế giới!
Thông thường, năm bước mà giới buôn bán thường áp dụng để sắc lại lần lượt như sau:
Đầu tiên, thu hẹp lại loại mặt hàng, không “bách hoá” cửa hàng của ta. Kế tiếp, nhờ vậy ta có khả năng cung cấp các chủng loại, kiểu cỡ đa dạng hơn (Toys “R” us có đến 10.000 chủng loại đồ chơi so với các cửa hàng khác tối đa chỉ có 3.000). Tiếp đó, nhờ bán lớn, họ mua hàng số lượng lớn nên mua được giá rẻ hơn (Toys “R” us kiếm được nhiều lợi nhuận nhờ vào mua hàng hơn là bán hàng). Bước thứ 4, nhờ mua rẻ sẽ bán rẻ, vừa giữ được sức bán vừa giữ được lợi nhuận. Và sau cùng, mục đích quan trọng nhất là khống chế cả thị trường. Mục tiêu quan trọng và tột cùng của sức mạnh thương hiệu là sự khống chế của nó trên thị trường đã chọn.
Khi đã là lực khống chế trên một thị trường nào đó thì lực của bạn mạnh vô cùng. Nhưng muốn khống chế thì phải tập trung chứ không phải phân tán.
Thế thì tại sao người ta hay làm ngược lại, hay “bung” ra hơn là tập trung? Bởi vì người ta thích bắt chước những công ty đã thành công, các công ty này sau đó được mở rộng ra nhiều thứ (Starbucks hiện nay bắt đầu bán đủ thứ kem và nước uống khác), làm cho người khác lầm rằng: sự thành công đó là nhờ mở rộng!
Xin hãy tự hỏi câu này trước khi lạc lối: ta có thể trở nên giàu nhờ làm theo kiểu người giàu làm không? Không, chắc chắn là không. Nếu bạn muốn giàu hãy làm theo cách người giàu làm khi họ chưa giàu.
Và như thường thấy, tập trung thật sắc là cách mà người giàu làm khi họ chưa giàu!
Đừng sợ thiếu ngân sách cho quảng cáo thì không xây dựng được thương hiệu.
Thấy Coca-Cola hay Pepsi Cola quảng cáo mà ngợp! Ba mươi giây quảng cáo trên truyền hình là 1500 USD (hơn 20 triệu đồng Việt Nam). Vèo một cái là xong, vậy mà họ cứ làm ngaỳ này qua tháng khác. Ta làm sao làm cho nổi! Vậy hãy xem thương hiệu được hình thành như thế nào và vai trò của quảng cáo ra sao.
Nguyên tắc 3: Luật của thông tin (publicity)
Sự khai sinh của một thương hiệu đạt được là nhờ thông tin chứ không phải nhờ quảng cáo.
Hỏi bất cứ một công ty có quảng cáo nào bạn cũng có thể thấy rằng họ rất tin vào việc xây dựng một thương hiệu thông qua một chiến dịch quảng cáo rầm rộ. Nhưng thực ra đó là sự nhầm lẫn giữa việc xây dựng một thương hiệu với việc duy trì nó.
Anita Roddick đã xây dựng chuỗi cửa hàng Body Shop chuyên về chăm sóc sắc đẹp phụ nữ trở thành một nhãn hiệu toàn cầu mà không cần quảng cáo gì cả. Cô ta tin vào quan điểm dùng những mỹ phẩm làm từ nguyên liệu thiên nhiên của mình và đi khắp nơi để truyền bá cho cái quan điểm bảo vệ được cả con người lẫn môi trường sống ấy. Quan điểm này qúa hay và mới mẻ đến nỗi không biết cơ man nào là bài báo, phỏng vấn truyền hình đã nói về cô và Body Shop. Thương hiệu này ra đời từ các “publicity” như thế.
Cà phê Starbucks cũng vậy. Họ dùng rất ít quảng cáo để xây dựng thương hiệu, trong vòng 10 năm, họ chỉ chi 10 triệu USD cho quảng cáo để tạo ra một thương hiệu trị giá 1.000 triệu USD.
Trong khi đó, hãng bia Miller rất nổi tiếng đã bỏ ra 50 triệu để xây dựng một thương hiệu bia mới Miller Regular không gây đưọc một sự chú ý nào của công chúng, nó không có gì mới, không có gì hấp dẫn...nói tóm lại không có tiềm năng tạo ra “publicity”. Chiến dịch xây dựng thương hiệu này hoàn toàn thất bại dù các nhà quảng cáo đã sáng tạo bao nhiêu là thiết kế, phim quảng cáo tuyệt hay cho nó!
Như thế, rõ ràng chúng ta ngay từ đầu phải chọn đầu tư vào những sản phẩm hay dịch vụ đủ mới, đủ độc đáo để có tiềm năng thông tin, hoặc phải đưa vào sản phẩm cũ những yếu tố mới dù nhỏ hay lớn nhưng đủ bất ngờ để tạo cho nó một vóc dáng mới hệ thống thì mới có khả năng tạo ra được một thương hiệu, còn gia công, nhái lại hoặc làm theo thì không có được ưu thế của một sản phẩm có tiềm năng thông tin.
Trong qúa khứ, quảng cáo có thể đã từng là một yếu tố quan trọng để xây dựng thương hiệu, nhưng những gì đúng với quá khứ chưa hẳn đúng với thực tại. Ngày nay, chúng ta sống trong một xã hội quá tải về thông tin, nên những gì không mới khó gây được sự chú ý. Có thể nói, ngày nay thương hiệu phải được sinh ra chứ không phải được tạo ra. Nó phải là kết quả tự nhiên của những điều phù hợp với thời đại và nhu cầu thì sẽ đâm chồi nảy lộc. Chỉ có thương hiệu nào đạt được điếu đó thì mới có khả năng kích hoạt “publicity’ trong công luận, bằng không, nó không có một cơ hội nào trên thị trường cả.
Nguyên tắc 4: Luật về quảng cáo.
Khi đã được khai sinh, một thương hiệu cần quảng cáo để tồn tại.
“Publicity” là một công cụ tuyệt hảo, nhưng sớm muộn gì thương hiệu của ta cũng trở nên “có tuổi” hơn, không còn gây chú ý một cách tự nhiên nữa, nó đã không còn tiềm năng tự nhiên gây ra “Publicity” nữa. Đến lúc đó chúng ta cần đến quảng cáo.
Chi phí cho quảng cáo cũng giống như chi phí quốc phòng của một quốc gia vậy, nếu tiền mà quốc phòng dùng để mua sắm vũ khí, quân trang, quân dụng, nuôi quân... chỉ nhằm để bảo vệ lãnh thổ quốc gia, thì chi phí cho quảng cáo chính là để giữ cho thị phần cuả chúng ta không bị mất đi. (Đến đây ta đã giải đáp được mối băn khuăn về quảng cáo của hai hãng Cola nêu trên).
Năm 1959, hãng Xerox lần đầu tiên chế tạo ra máy photocopy như một đột phá kỹ thuật kì diệu, hàng trăm tờ báo viết về việc này, lãnh đạo Xerox xuất hiện liên tục trên truyền hình để trả lời phỏng vấn. Giờ đây, khi đã qua giai đoạn có “tiềm năng thông tin” ấy, Xerox phải chi rất nhiều cho quảng cáo để duy trì chỗ đứng của mình.
Công thức của quy trình ngắn gọn như sau: đầu tiên là thông tin, sau đó là quảng cáo (first publicity, then advertising).
Cần nhớ, việc gia tăng chi phí quảng cáo là nhằm gây khó khăn cho đối thủ cạnh tranh không gặm vào thị phần của mình, cho nên nhà quản lý không nên nghĩ phí quảng cáo là một đầu tư sinh lợi, mà cần xem nó như một loại bảo hiểm thì đúng hơn.
Làm gì tiếp sau khi đã khởi phát được một thương hiệu?
Phaỉ hết sức cẩn thận sau khi đã chọn được một sản phẩm có tiềm năng thông tin, phải tập trung thật sắc và bắt đầu được chú ý đến...
Nguyên tắc 5: Luật một từ.
Một thương hiệu nên cố gắng chỉ sở hữu “một từ” trong tâm thức người tiêu dùng mà thôi.
Cái gì xuất hiện ngay trong đầu bạn khi bạn nghĩ về chữ Mercedes? Sang trọng, chắc chắn phải là từ này khi nghĩ về xe Mercedes mà thôi! Dĩ nhiên ngay sau đó bạn có thể nói thêm, nào là xe đắt tiền, xe Đức, xe rất tốt..., nhưng trước tiên, bao giờ cũng chỉ một từ: (Mercedes) là sang trọng!
Thử nhớ lại xem có xe nào chiếm được từ này của Mercedes không: Lamboghinis, đắt tiền; Honda, tốt; Toyota, bền bỉ...
Muốn xây dựng một thương hiệu phải ráng làm như vậy, phải phấn đấu bền bỉ, tập trung để thương hiệu của ta sở hữu một từ thôi trong đầu của mọi người. Một từ mà không ai khác có thể gợi ra nổi ngoài ta.
Một khi, thương hiệu nào đó đã đạt đến mức sở hữu được một từ thì hầu như không có người cạnh tranh nào tranh đoạt được từ ấy nữa, họ chỉ có nước xây dựng và sở hữu một chữ khác (dĩ nhiên, trừ trường hợp ta tự đánh mất chữ của ta). BMW cũng có thể làm ra xe sang trọng không kém Mercedes, nhưng họ không thể dành được chữ này của Mercedes, nên họ phải xây dựng một chữ khác, BMW là một cỗ máy tuyệt hảo để chạy, nghĩ đến BMW là nghĩ ngay đến “tuyệt hảo” chẳng hạn.
Vậy, khi nào thì ta biết được thương hiệu của mình sở hữu được một từ? Đó là khi người ta nói đến chúng ta như một danh từ chung (như chiếc Honda đã được người Việt gắn luôn vào chiếc xe gắn máy hai bánh chẳng hạn).
Vậy làm sao vươn lên qua mặt được đối thủ? Thật ra không quá nan giải đến thế đâu, tất cả các thương hiệu đạt được mức này đều là vì họ là người đầu tiên trong chủng loại của họ, họ lại chọn một hướng đi rõ ràng, đơn giản và không tự gây nhầm lẫn.
Ta không thể trở nên một danh từ chung bằng cách tranh đoạt một thương hiệu đang dẫn đầu nào đó. Bạn chỉ có thể trở nên một danh từ chung phổ quát khi bạn là ngươì thiết lập ra một chủng loaị riêng của mình và là thương hiệu dẫn đầu ở đó.
Nguyên tắc 6: Luật của sự bảo chứng.
Yếu tố quyết định trong thành công của bất cứ một thương hiệu nào chính là nó có bảo chứng hay không.
Người tiêu dùng thường khá đa nghi. Họ chưa tin ngay những đặc tính mà một sản phẩm rêu rao về mình, nào là nhanh nhất, ngon nhất, lớn nhất, nhỏ nhất, rẻ nhất...Nhưng họ có thể chấp nhận các quảng cáo này nếu bạn xây dựng được và thuyết phục họ được về một điều: thương hiệu bạn là thứ thiệt, là duy nhất, là hàng đầu trong chủng loại này. (Chẳng hạn, khi bạn nói “Tiệm A bán bánh mì thịt ngon, sạch, rẻ...chưa chắc đã thuyết phục được ai. Nhưng nếu bạn nói “ Tiệm Như Lan bán bánh mì thịt ngon, sạch, rẻ...” thì người ta đồng tình. Như Lan sau nhiều chục năm xây dựng thương hiệu của mình trong thị trường bánh mì kẹp thịt của TP Hồ Chí Minh, đã tạo được sự bảo chứng cần thiết cho mình).
Khả năng bảo chứng là vật thế chấp mà bạn ký quỹ để đảm bảo cho mọi thứ liên quan đến chất lượng của thương hiệu mình. Khi bạn đã có bảo chứng rồi, khách hàng có thể tin hầu như tất cả những gì bạn nói về mình. Dẫn đầu trong thị trường mình chọn chính là cách duy nhất để có được bảo chứng cho thương hiệu. Hãng phim Polaroid là số một và là thương hiệu có bảo chứng trong thị trường phim chụp lấy ngay (instant film). Tưởng là mình đủ mạnh, họ tiến vào thị trường phim thông thường và đã thất bại nặng nề. Nguyên nhân rất đơn giản là, người ta chỉ nghĩ đến Polaroid khi cần phim chụp lấy ngay và nghĩ đến Kodak khi cần phim thông thường. Bảo chứng trong thị trường này nằm trong tay Kodak chứ không phải Polaroid.
Có những điều đừng nhầm lẫn để tránh rủi ro.
Trong thực tiễn kinh doanh, đặc biệt là xây dựng thương hiệu cho cơ ngơi của mình, nhiều lúc chúng ta ra một quyết định về sự thay đổi, hay chọn một định hướng để phát triển, thậm chí quyết định đặt một cái tên...mà sau này có thể ta sẽ ân hận mãi. Nếu biết trước được một số việc, có thể chúng ta sẽ ít nao núng hơn, sẽ không ra những quyết định như thế...
Nguyên tắc 7: Luật của chất lượng.
Chất lượng là quan trọng, nhưng thương hiệu không được hình thành bởi một mình chất lượng.
Rolex là một nhãn hiệu đồng hồ hàng đầu thế giới. Rolex có phải là một sản phẩm có chất lượng cao không? Đương nhiên, nhưng nhiều hãng đồng hồ khác cũng làm được sản phẩm chất lượng cao kia mà. Vậy thì chất lượng có lẽ không phải là yếu tố duy nhất...
Vậy chất lượng là gì? Ai cũng nghĩ rằng mình dễ dàng trả lời câu hỏi này. Nhưng sự thật không phải dễ như vậy, bởi bạn có chắc là Rolex chạy đúng giờ hơn Seiko không? Bạn có chắc là máy ảnh Leica cho hình đẹp hơn Pentax không? Bạn có chắc là Mercedes ít hư hỏng hơn Cadilac không? Khó mà chắc được điều này lắm bởi ngày nay sản phẩm thường rất ít chênh nhau về chất lượng. (Khi bạn ra cửa hàng để tìm mua một chiếc xe gắn máy, bạn cảm nhận về chất lượng như thế nào? Có người chỉ thích Honda, nhưng vài người trung niên thì cứ đinh ninh Vespa là tốt nhất, bạn trẻ lại nghĩ xe “xì-po” như Suzuki, Yamaha mới là số một, người công nhân thì xe máy Long Cin Trung Quốc cũng tốt rồi...Xe nào cũng có thể chạy tốt cả, thực tế đã chứng minh như thế. Cho nên, chất lượng hay đúng hơn nhận thức về chất lượng là một việc rất chủ quan nằm trong chính tâm thức của người tiêu dùng).
Nên, muốn xây dựng một thương hiệu mạnh thì thay vì chỉ dồn sức làm cho chất lượng thật tốt nhưng lại quên mất việc cho người ta biết mình tốt và tốt nghĩa là thế nào, ta phải xây dựng bằng được cảm nhận về chất lượng trong đầu người tiêu dùng thì hơn. Bằng không, có khả năng ta đang xây một lâu đài thật kiên cố trên một nến cát yếu ớt, và cũng như vậy, đỉnh cao chất lượng ấy chẳng bao giờ biến thành thành công trên thị trường cả.
Nguyên tắc 8: Luật của một cái tên.
Về lâu dài, một thương hiệu chẳng là cái gì khác ngoài một cái tên.
Một trong những việc quan trọng nhất để xây dựng thương hiệu mà bạn phải làm đầu tiên là đặt một cái tên cho sản phẩm hay dịch vụ của mình, bởi về lâu dài, một thương hiệu chẳng là cái gì khác ngoài một cái tên mà thôi.
Đừng lầm tưởng rằng, những yếu tố giúp một thương hiệu thành công sẽ làm nó thành công mãi mãi.
Trong ngắn hạn, ta đã biết rằng, một thương hiệu cần một ý tưởng độc đáo để phát khởi, nó phải là duy nhất trong một thị trường mới, nó cần sở hữu một chữ trong tâm thức người tiêu dùng...Nhưng trong dài hạn, sự độc đáo của ý tưởng khởi phát sẽ không còn nữa, nhiều hãng cạnh tranh cũng sẽ làm được sản phẩm hay dịch vụ y như bạn, vậy thì, điều duy nhất còn lại để phân biệt sự khác nhau chính là cái tên của bạn và tên của đối thủ của bạn.
Sự khác nhau của các thương hiệu rồi ra không phải là sản phẩm mà là tên sản phẩm, hay nói cách khác là nhận thức của người tiêu dùng về cái tên đó.
Nguyên tắc 9: Luật của tính nhất quán, kiên định.
Thương hiệu không phải là một phép lạ được tạo ra trong một đêm. Nó cần tính nhất quán, kiên định và độ chín tính theo thập niên.
Tính nhất quán, kiên định là điều bị vi phạm dữ dội nhất trong xây dựng thương hiệu.
Một thương hiệu đi vào lòng người vì nó đại diện cho sự rõ ràng và trước sau như một. Nhưng thông thường, khi đã bắt đầu nhen lên được chút gì đó, và đặc biệt khi gặp một giai đoạn khó khăn, nhà kinh doanh thường có xu hướng xoay xở, tìm cách thay đổi các đặc tính vừa xây dựng được thương hiệu.
Cần nhớ rằng, thị trường có thể thay đổi, nhưng thương hiệu và những đặc tính nó đại diện thì không. Nên, khi gặp giai đoạn khó khăn, bạn có hai lựa chọn, hoặc theo thời thượng để phá bỏ thương hiệu, hoặc kiên trì để chờ vận hội quay lại. Theo kinh nghiệm của nhiều doanh nghiệp, kiên trì là lựa chọn khôn ngoan nhất.
ở thị trường rượu Mỹ, người ta có một kinh nghiệm sau: Tanqueray là một thương hiệu rượu gin hảo hạng (một loại rượu trắng có hương hoa bưởi), sau đó, hai hãng Absolut và Stolichnaya đã làm ra hai loại vodka ngon, người uống rượu trắng chuyển dần qua uống Vodka làm thu hẹp một phần thị phần gin, Thiếu kiên định, Tanqueray vội vã nhảy vào thị trường Vodka với nhãn hiệu Tanqueray Vodka. Kết quả là họ vừa không vào được thị trường mới mà còn làm suy giảm hình ảnh của một Tanqueray hàng đầu về gin.
Nói theo luật của sự kiên định, Tanqueray đáng ra phải kiên trì tiếp tục xây dựng gin và chờ hoặc tác động cho thị trường đổi hướng trở lại.
Cũng vậy, bọn trẻ thích uống Coca-Cola nhưng rồi chúng sẽ lớn dần lên, có thể chúng sẽ thích một thức uống khác của người lớn, một lon bia chẳng hạn, điều này làm cho thị trường thiếu niên của Coke thay đổi, nhưng không lẽ Coke sẽ chạy theo thị trường ấy và sản xuất bia Coca-Cola sao? Nếu gỉa sử có một loại bia tên Coca-Cola thì thương hiệu này chắc chắn sẽ bị sói mòn.
Cần chú ý đến một diễn biến tâm lý thường gặp, là xây dựng thương hiệu là một công việc nhiều lúc gây nhàm chán, người quản lý phải kiên trì với một mục tiêu, một khẩu hiệu trong một thời gian rất dài tính đến hàng chục năm. Volvo liên tục 35 năm xây dựng thương hiệu của mình gắn với chữ “an toàn”, BMW mất 25 năm gắn với chiếc xe cực kì hoàn hảo...Và khi cứ phải làm một công việc lâu dài như thế người ta có một tâm lý muốn thay đổi. ở Volvo đã xuất hiện tâm lý đó, người ta kêu lên:“ Tại sao chúng ta cứ tự giới hạn mình trong mỗi một kiểu xe an toàn nhưng nhàm chán đến thế? Tại sao chúng ta không mở rộng ra thị trường xe thể thao cho sôi động lên?” Và thể là gần đây họ tung ra một loạt xe thể thao, rồi cả xe mui trần...Sự thay đổi này cuối cùng không đem đến điều gì mới cho Volvo mà còn bắt đầu làm mai một hai chữ “an toàn” mà nó mất 35 năm để xây dựng!
Cho nên, cần phải bật đèn đỏ ngay khi một ai đó bắt đầu tán thán một câu đại loại: “Tại sao ta lại tự giới hạn mình...?”
Bạn dứt khoát phải tự giới hạn mình. Đó là điều cốt tử của việc xây dựng thương hiệu. Hãy luôn tự nhắc lại: thương hiệu của bạn phải đại diện vừa đơn giản vừa thật sắc trong lòng công chúng.
Tự giơí hạn, kết hợp với tính nhất quán và sự kiên trì (tính theo chục năm chứ không phải vài năm) là điêù kiện để sinh ra một thương hiệu.
Nếu thành Rome không được xây dựng trong một ngày thì loại phô-mai Romano đặc thù của nó cũng thế!
3.2 Các xu hướng tiêu dùng ảnh hưởng đến xây dựng thương hiệu.
Chỉ khi nào một sản phẩm hoặc một dịch vụ khơi dậy được cảm xúc của khách hàng thì nó mới trở thành sản phẩm quen thuộc trong tâm tưởng và trí nhớ của họ, trở thành cái tên đầu tiên mà khách hàng chọn lựa khi mua sắm.
Theo Marc Gobé, một nhà sáng tạo và nghiên cứu về thương hiệu, có mười xu hướng về tiêu dùng sẽ ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng thương hiệu cho một doanh nghiệp trong thế kỷ 21.
Từ người tiêu dùng đến người bình thường (consummers => people)
Người tiêu dùng thì mua hàng, còn người bình thường thì tận hưởng cuộc sống của họ, trong đó có việc mua hàng. Nói cách khác người tiêu dùng ngày nay cần được hiểu từ góc độ con người hết sức đời thường, thay vì chỉ hiểu như những người xa lạ qua những con số thống kê. Nhà doanh nghiệp cần hiểu tận tường khách hàng từ những yêu ghét, nhu cầu, thói quen mua sắm, sinh hoạt hàng ngày cho đến ước muốn được thoả mãn của họ. Có như thế mới đáp ứng kịp với những đổi thay nhanh chóng và liên tục trong thị trường hiện nay.
Từ sản phẩm đến trải nghiệm toàn diện (Products => total experience)
Một sản phẩm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của khách hàng, trong khi một trải nghiệm toàn diện đáp ứng ước vọng và khát khao sâu xa của mỗi con người. ứng dụng khái niệm này, các trung tâm được tổ chức để trở thành vừa là nơi mua sắm vừa là nơi giải trí. Các cửa hàng đầu tư nhiều hơn vào việc trang trí không gian mua sắm, từ ánh sáng, màu sắc cho đến cách trưng bày, đón tiếp; các siêu thị xây dựng những khu vui chơi; các nhà sách có gian để khách vừa đọc sách vừa nhấm nháp ly cà phê... Tất cả nhằm tạo cho khách cảm giác trọn vẹn, hoàn hảo và sự thoải mái.
Từ trung thực đến tin tưởng (honesty => trust)
Hơn cả sự trung thực, khách hàng còn đòi hỏi ở thương hiệu một sự tin tưởng toàn diện như một yếu tố mẫu chốt dẫn đến sự trung thành trong tiêu dùng của họ. Một cửa hàng với chính sách “Sau khi mua và dùng thử, khách hàng không hài lòng có thể trả lại, nhân viên bán hàng miễn thắc mắc” là một cố gắng lớn để tạo cho khách hàng sự tin tưởng tuyệt đối vào chất lượng của sản phẩm cũng như uy tín của thương hiệu.
Từ chất lượng đến ưa chuộng (quality => preference)
Chất lượng tốt và ổn định của một sản phẩm là yếu tố đương nhiên cho sự tồn tại của sản phẩm và thương hiệu đó trên thị trường. Tuy nhiên, do sự tiến bộ không ngừng của công nghệ sản xuất, chất lượng sản phẩm ngày càng gần nhau hơn, ưu thế cạnh tranh về chất lượng, giá cả sẽ bị mất dần, và để được khách hàng chọn lựa giữa một rừng sản phẩm thì một thương hiệu thành công và được ưa chuộng cần được kết nối được về mặt tinh thần với người tiêu dùng; phải tạo được sự thân quen, gần gũi, đi liền với cái độc đáo rất riêng của thương hiệu đó.
Từ sự nổi tiếng đến niềm ước ao (notoriety => aspiration)
Một thương hiệu được biết đến rộng rãi chưa có nghĩa là thương hiệu đó được mọi người ưa chuộng, ước ao. Để làm được điều này, thương hiệu ấy cần phải “đánh trúng” tâm lý khách hàng, thoả mãn được nỗi mong mỏi, ước mơ sâu kín nơi họ. Những sản phẩm trò chơi vi tính mang thương hiệu Nintendo đã bán được rất nhiều là do đáp ứng được nhu cầu tưởng tượng và nỗi ước ao được làm anh hùng, làm kẻ thắng trận của thanh thiếu niên. Nintendo đã mời những thanh thiếu niên giỏi về lập trình đến làm việc cho mình và tự sáng tạo những trò chơi theo sức tưởng tượng và mơ ước của thanh thiếu niên.
Từ tên tuổi đến tính cách (identity => personality)
Tên, logo của một thương hiệu được sử dụng để tạo sự nhận biết và phân biệt giữa các đối thủ cạnh tranh. Nhưng chỉ nhận diện thương hiệu không thôi thì chưa đủ. Chính tính cách của thương hiệu đó mới là yếu tố quan trọng tạo tình cảm giữa khách hàng và sản phẩm, dẫn đến một đáp ứng thiên về tình cảm hơn là về phán đoán từ phía khách hàng. Một trong những cách hữu hiệu để tạo tính cách là xây dựng một hình tượng đại diện cho thương hiệu ( nhân cách hoá), ví dụ hình tượng ông già râu bạc Sander của gà rán Kentucky, hoặc hình tượng chú hề của hamburger McDonnald’s, hình tượng bé Bino của tã giấy Bino...
Từ chức năng đến cảm nhận (function => feeling)
Các chức năng của một sản phẩm đáp ứng những yêu cầu về vật chất của người sử dụng, còn những yếu tố thiên về cảm xúc sẽ bổ sung cho các chức năng căn bản và đem lại cho khách hàng một cảm nhận toàn diện về sản phẩm và thương hiệu đó. Để xây dựng được một cảm nhận đặc biệt khi nhìn thấy, cầm lấy hoặc sử dụng sản phẩm, công ty Apple phối hợp với những chức năng tiên tiến của máy vi tính trong một thiết kế kiểu dáng rất bắt mắt, màu sắc nổi bật. Cũng vậy, giày thể thao của hãng Nike không chỉ đạt chất lượng tốt, đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật cao mà còn được thiết kế rất ấn tượng, hợp thời trang.
Từ có mặt khắp nơi đến hữu hiệu trong cảm nhận (ubiquity => emotional presence)
Để chiến thắng trong cuộc chiến thương hiệu, sản phẩm phải có trong tầm tay của khách hàng qua mạng lươí phân phối rộng rãi. Nhưng, hơn thế nữa, sản phẩm đó còn phải hiện hữu trong tâm tưởng và cảm nhận của họ, để khi đứng trước một rừng sản phẩm, người tiêu dùng sẽ chọn ngay thương hiệu đã thân thuộc. Muốn vậy, phải có đối thoại thường xuyên với khách hàng qua việc quảng cáo trên các kênh truyền thông, các tờ bướm hay qua lời giới thiệu trực tiếp của người bán hàng.
Từ đối thoại đến trò chuyện (communication => dialogue)
ở một bước cao hơn sự đối thoại, quan hệ giữa khách hàng và người bán hàng phải tiến đến như quan hệ thân thiết của người bạn, của một nhà tư vấn về mua sắm. Qua đó, mọi hình thức đối thoại biến thành một cuộc trò chuyện chân tình, đầy tin cậy và có tính thuyết phục. Đường dây điện thoại nóng của một công ty là một hình thức đến gần khách hàng hơn qua những cuộc nói chuyện tìm hiểu và lắng nghe những khó khăn của người tiêu dùng.
Từ phục vụ đến quan hệ thân thuộc (service => relationship).
Từ quan hệ phục vụ, một thương hiệu cần phải xây dựng được một quan hệ mật thiết với khách hàng. Điều này có nghĩa nhà kinh doanh phải thuộc nằm lòng những thông tin về khách hàng cốt lõi của mình từ tên họ, địa chỉ, ngày sinh cho đến ý thích, thói quen mua sắm. Amazon. Com – một website bán sách và hàng hoá lớn trên mạng Internet - đã tận dụng được hệ thống xử lý thông tin để hiểu rõ và nhớ được tất cả thói quen mua sắm của khách hàng mỗi lần vào mạng. Do vậy, mỗi khi khách hàng trở lại đều được chào đón bằng tên họ của mình cũng như được giới thiệu thêm những món hàng theo sở thích của khách.
ii. Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ sở hữu công nghiệp (SHCN) tại Việt Nam.
1. Nguồn trong nước:
Việt Nam cũng như đa số các quốc gia trên thế giới chưa có đạo luật riêng về tư pháp quốc tế. Các quy phạm điều chỉnh những quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được chứa đựng trong nhiều văn bản khác nhau, các văn bản đó cũng đồng thời là nguồn của các ngành luật khác.
Nguồn trong nước điều chỉnh quan hệ về SHCN bao gồm các văn bản luật và dưới luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự do pháp luật quy định, chứa đựng các quy phạm điều chỉnh các quan hệ về SHCN.
*Cũng như hệ thống luật Việt Nam nói chung, pháp luật về SHCN của Việt Nam đã có sự phát triển, hoàn thiện phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của đất nước, có thể đánh giá như sau:
-Giai đoạn từ 1954 đến 1975: Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền với các chế độ khác nhau, ở miền Bắc chưa có pháp luật bảo hộ quyền SHCN, ở miền Nam một số đối tượng SHCN được bảo hộ như sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá (theo luật số 12/57 ngày 01.08.1957 và luật số 13/57 ngày 01.08.1957 của nguỵ quyền Sài Gòn). Ngoaì ra nguỵ quyền Sài Gòn còn có luật số 14/59 ngày 11.06.1959 về chống sản xuất hàng giả.
-Giai đoạn từ 1975 đến 1981: Sau giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước việc bảo hộ pháp lý quyền SHCN tạm thời bị gián đoạn cho đến năm 1981.
-Giai đoạn từ 1981 đến 1989: Các đối tượng SHCN như sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích lần lượt được bảo hộ. Tuy nhiên việc bảo hộ các đối tượng SHCN nói trên mới chỉ dựa trên các văn bản pháp lý do Chính phủ ban hành.
-Giai đoạn từ 1989 đến nay với pháp lệnh bảo hộ SHCN được công bố theo Lệnh số 13 LCT/HĐNN ngày 11.02.1989 đã mở ra một giai đoạn mới trong lĩnh vực bảo hộ SHCN tại Việt Nam. Việc bảo hộ SHCN được thực hiện trên cơ sở văn bản pháp luật do cơ quan thường trực của bộ máy lập pháp ban hành với những thay đổi lớn về chế độ bảo hộ như Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu cá nhân đối với các đối tượng SHCN khác.
*Hệ thống các văn bản pháp luật đã ban hành về SHCN theo hiệu lực, thẩm quyền ban hành bao gồm:
-Hiến pháp nước Cộng hoà xã hộ chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 11, thông qua ngày 15 tháng 4 năm 1992 có hiệu lực từ 18.4.1992 (Công bố theo Lệnh số 68LCT/HĐNN ngày 09.11.1995 của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam). Hiến pháp năm 1992 là nguồn quan trọng nhất.
-Các đạo luật do quốc hội ban hành:
Bộ luật dân sự nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 8, thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995 có hiệu lực từ 01.07.1996 (Công bố theo Lệnh số 44L/CTL ngày 09.11.1995 của chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam). Bộ luật dân sự là văn bản mới ban hành có phần 6 quy định về quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) và chuyển giao công nghệ, và một phần quy định việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (phần 7) trong đó chứa đựng các nguyên tắc, định nghĩa, và các qui phạm xung đột (Điều 827) áp dụng pháp luật dân sự CHXHCN Việt Nam, điều ước quốc tế, tập quán quốc tế và pháp luật nước ngoài..
Một số văn bản pháp luật khác cũng chứa đựng các quan hệ SHCN. Ví dụ như Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã có những quy định về tội phạm và hình phạt cũng đã quy định những tội danh như tội làm lộ bí mật công tác, tội sản xuất và tiêu thụ hàng giả, tội gián điệp...cũng thể hiện mục tiêu bảo vệ các quan hệ SHCN được Nhà nước bảo hộ..
-Các pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội như: Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN (Công bố theo lệnh số 13-LCT/HĐNN ngày 11.02.1989 của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước-nay là uỷ ban thường vụ Quốc hội-đã hết hiệu lực từ 01.07.1996). Các pháp lệnh khác như pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính có các quy định về xử phạt hành chính các hành vi xâm phạm quyền SHCN...
-Các nghị định của Chính phủ ban hành kèm theo các điều lệ như:
+Điều lệ về nhãn hiệu hàng hoá (Ban hành kèm theo Nghị định số 197-HĐBT ngày 14.12.1982, được sửa đổi bổ sung theo Nghị định số 84-HĐBT ngày 20.03.1990 của HĐBT).
+Điều lệ về mua bán quyền sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá và bí quyết kỹ thuật (gọi tắt là điều lệ mua bán lixăng-Ban hành kèm theo nghị định số 201-HĐBT ngày 28.12.1988 của HĐBT).
-Thông tư của các Bộ (Do Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ban hành hoặc phối hợp với các Bộ khác ban hành) như:
+Thông tư số 173 SC ngày 17.10.1991 của Uỷ ban khoa học Nhà nước hướng dẫn thi hành Nghị định số 84-HĐBT ngày 20.03.1990 của Hội đồng bộ trưởng)
+Thông tư số 437/SC ngày 22.07.1989 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn xét xử một số tranh chấp về quyền SHCN.
+Thông tư số 437/SC ngày 19.03.1993 của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường hướng dẫn bổ sung về việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.
-Nhiều văn bản pháp quy về trình tự, thủ tục đăng ký bảo hộ các đối tượng SHCN do Cục SHCN ban hành.
Với một vấn đề vô cùng quan trọng và phức tạp như quyền SHCN thì hệ thống các quy phạm pháp luật trong các văn bản nói trên là không thể đầy đủ, chưa đáp ứng được các nhu cầu thực tế điều chỉnh pháp lý các quan hệ SHCN; đó là chưa nói đến một số văn bản đã hết hiệu lực như Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN, dẫn tới việc các văn bản pháp quy ban hành trên cơ sở Pháp lệnh này về nguyên tắc hiện nay cũng đã đương nhiên mất hiệu lực thi hành. Riêng Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết về SHCN nhằm hướng dẫn thi hành các quy định tại chương II Phần thứ 6 của Bộ luật dân sự là văn bản mới được ban hành.
-Nghị định 06/2001/NĐ-Chính phủ ngày 1/2/2001 sửa đổi bổ sung Nghị định63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ.
Ngoài ra vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá còn được đề cập đến trong các văn bản pháp luật hiện hành khác như: Luật đầu tư nước ngoài năm 2000, Luật thương mại Nhà nước năm 1997...
Các quy định pháp luật hiện hành:
a, Đối tượng bảo hộ:
Nhãn hiệu hàng hoá: phải được tạo thành từ một, một số hoặc một tổng thể những yếu tố độc đáo, dễ nhận biết; không trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đã được bảo hộ.
Những đối tượng SHCN khác.
Những dấu hiệu không được Nhà nước Việt Nam bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu hàng hoá là những dấu hiệu không có khả năng phân biệt (hình hoạ đơn giản, âm thanh mùi vị...); là dấu hiệu biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của hàng hoá thuộc bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi. Điều 6 trong nghị định 63/Chính phủ cũng quy định tương tự Điều 6ter trong công ước Paris về việc không cho phép đăng ký những dấu hiệu giống hoặc tương tự hình quốc kỳ, quốc huy của Việt Nam và của các nước .
b, Chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá.
Các chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá ở Việt Nam là:
-Chủ thể được cấp bằng bảo hộ.
-Chủ sở hữu đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá theo thoả ước Madrid đã được chấp nhận bảo hộ ở Việt Nam.
-Cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác được chuyển giao một cách hợp pháp quyền sở hữu đối với nhãn hiệu hàng hoá.
c, Các quyền được cấp đối với chủ sở hữu hàng hoá đã đăng ký.
-Quyền nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá dùng cho hàng hoá và dịch vụ mình đã hoặc sẽ hoặc cung cấp.
-Quyền ưu tiên nộp đơn trong vòng 6 tháng kể từ đơn nộp đầu tiên. Tuy nhiên, người nộp đơn cũng có quyền rút quyền ưu tiên nhằm trì hoãn việc công bố đơn yêu cầu cấp bằng baỏ hộ.
Quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá nhằm mục đích kinh doanh.
-Quyền chuyển giao một phần hoặc toàn bộ quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá qua hợp đồng lixăng, hợp đồng này cũng phải đăng ký tại Cục SHCN (Điều 35 Nghị định 63/Chính phủ sửa đổi).
Quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý hoặc khởi kiện tại Toà án có thẩm quyền những người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá của mình.
-Quyền thừa kế, từ bỏ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá (Điều 37 Nghị định 63/Chính phủ sửa đổi)
d, Nhãn hiệu nổi tiếng.
Vấn đề nhãn hiệu nổi tiếng mới được quy định tại nghị định 63/Chính phủ sửa đổi. Theo đó, nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được sử dụng liên tục cho sản phẩm, dịch vụ có uy tín khiến cho nhãn hiệu đó được biết tới rộng rãi. (Điều 2.8 B nghị định 63/CP sửa đổi)
Tuy nhiên, định nghĩa nêu trên về nhãn hiệu nổi tiếng còn chưa rõ ràng bởi nghị định cũng không quy định rõ căn cứ để xác định khái niệm “biết đến rộng rãi”.
e, Đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, đăng ký để duy trì đăng ký, thời hạn bảo hộ.
Cá nhân, pháp nhân Việt Nam muốn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá có thể nộp đơn tại:
-Cục SHCN Việt Nam tại Hà Nội, hoặc
-Uỷ quyền cho tổ chức dịch vụ đại diện SHCN các tỉnh.
-Cá nhân, pháp nhân nước ngoài có thể đăng ký qua 2 cơ quan trên hoặc nộp đơn qua văn phòng quốc tế của WIPO trong đó có chỉ định Việt Nam .
f, Xử lý vi phạm.
Việt Nam cũng có những quy định về xử lý hành vi vi phạm độc quyền nhãn hiệu hàng hoá, khiếu nại về việc cấp giấy phép nhãn hiệu hàng hoá ...Theo đó các quyết định liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá của Cục SHCN có thể được khiếu nại với Bộ Khoa học Công nghệ Môi trường hoặc bị kiện ở Toà.
2. Nguồn quốc tế:
Quyền SHTT mang tính lãnh thổ quốc gia tuyệt đối, thể hiện ở chỗ quyền SHCN là do luật quốc gia quy định và chỉ có ảnh hưởng trong lãnh thổ quốc gia luật đó có hiệu lực.
Hiện nay, thế giới của chúng ta trở nên nhỏ hẹp và vai trò của thương mại quốc tế càng ngày càng lớn. Và tính chất lãnh thổ quốc gia của SHCN bị coi là một sự hạn chế, gây cản trở cho phát triển kinh tế trên toàn thế giới.
2.1 Những điều ước quốc tế Việt Nam đã tham gia.
* Công ước Paris (1883) về bảo hộ quyền SHCN (Việt Nam đã tham gia từ năm 1981)
Hơn một trăm năm trước đây con người đã cố gắng để loại bỏ hạn chế do tính chất lãnh thổ quốc gia tuyệt đối của quyền SHCN đem lại, đi đầu là Công ước Paris về SHCN năm 1883. Công ước này được ký kết năm 1883, được hoàn thành bởi một nghị định thư ở Madrid năm 1891, được sửa đổi tại Brussel năm 1900, tại Washington năm 1911, tại Hague năm 1967, được bổ sung năm 1979. Công ước không hạn chế với tất cả các nước trên thế giới.
Theo văn bản mới nhất, Công ước Paris quy định hai nguyên tắc cơ bản:
Nguyên tắc thứ nhất-Nguyên tắc đãi ngộ quốc dân: Công dân của các nước tham gia Công ước được hưởng chế độ đãi ngộ quốc dân trên lãnh thổ của các nước này. Công dân của các nước không ký kết Công ước này cũng được Công ước bảo vệ nếu họ thường trú tại một trong những nước ký kết hoặc có cơ sở công nghiệp hiệu quả và thực thụ hoặc sự thiết lập tài chính có hiệu quả trong một nước ký kết. Điều đó cũng có nghĩa rằng các đơn đăng ký quyền SHCN được nộp phù hợp với Công ước của tất cả cư dân của các nước thành viên đều được các nước thành viên Công ước đối xử công bằng, không phân biệt đối xử.
Nguyên tắc thứ hai - Nguyên tắc công nhận quyền ưu tiên: Công ước trao quyền ưu tiên cho bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá-dịch vụ, kiểu dáng công nghiệp. Quyền ưu tiên có nghĩa là đơn đăng ký quyền SHCN tại bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng có ngày được chấp nhận để làm ngày tính quyền ưu tiên, tức là các đơn nộp ở các quốc gia khác cũng có quyền lợi tương tự nếu chúng được nộp trong một thời hạn nhất định: 1 năm đối với bằng sáng chế và hữu ích, 6 tháng cho kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hoá thương mại đăng ký. Cụ thể là trên cơ sở đơn trình đầu tiên theo đúng thủ tục, tại một nước ký kết, người nộp đơn có thể áp dụng sự bảo vệ trong bất cứ một nước ký kết khác trong một giai đoạn nào đó; những Đơn trình sau đó của người nộp Đơn sẽ được xem xét như các Đơn trình cùng ngày với Đơn trình đầu tiên, hay nói một cách khác, những đơn trình sau này sẽ có đặc quyền hơn những Đơn trình trong cùng giai đoạn bởi những người khác cho cùng một sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ, và kiểu dáng công nghiệp. Hơn nữa, những Đơn trình sau đó được dựa trên cơ sở Đơn trình đầu tiên sẽ không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ sự kiện nào có thể xảy ra, ví dụ như bất kỳ một sự công bố của sự sáng chế hoặc bán sản phẩm có nhãn hiệu hoặc hợp tác kiểu dáng công nghiệp. Một trong những thuận lợi lớn nhất của điều khoản này là khi một người nộp Đơn muốn sự bảo vệ trong một vài nước, người đó sẽ không buộc phải trình tất cả Đơn xin trong cùng một thời điểm nhưng có 6 hoặc 12 tháng được tuỳ ý quyết định chọn quốc gia nào người đó muốn sự bảo vệ.
Công ước xác nhận một vài nguyên tắc chung cho tất cả các nước ký kết phải tuân thủ:
+Đối với nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ: Công ước quy định không được thật rõ ràng về nhãn hiệu hàng hoá. Các đăng ký cho việc trình và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ được quy định trong mỗi nước ký kết bởi luật trong nước. Nếu nhãn hiệu hàng hoá được đăng ký tại một quốc gia thì chúng không thể bị từ chối đăng ký tại một quốc gia khác trừ một số trường hợp ngoại lệ. Vì vậy không một Đơn đăng ký nhãn hiệu của một công dân của một nước ký kết có thể bị từ chối hoặc bị mất hiệu lực chỉ do việc trình và đăng ký không được thực hiện trong một nước xuất xứ. Khi một Đơn đăng ký được chấp nhận một lần ở một nước ký kết, đăng ký đó là độc lập với các nước khác, kể cả nước xuất xứ; vì vậy sự mất hiệu lực hay sự huỷ bỏ một đăng ký nhãn hiệu trong một nước ký kết này sẽ không ảnh hưởng đến gía trị của đăng ký trong một nước ký kết khác. Khi một nhãn hiệu được đăng ký đầy đủ trong một quốc gia gốc, nó phải được chấp nhận đơn trình và phải được bảo vệ theo nguyên bản của nó trong một nước ký kết.. Tuy nhiên, sự đăng ký có thể bị từ chối trong một vài trường hợp được xác định rõ, ví dụ: nhãn hiệu đăng ký xâm phạm quyền lợi trước đó tại quốc gia đó, hoặc không có những dấu hiệu rõ ràng hoặc chỉ gồm những dấu hiệu sử dụng trong thương mại để phân biệt chủng loại, chất lượng, số lượng, giá trị, nơi xuất xứ hoặc thời gian sản xuất hàng hoá hoặc đã trở thành những cụm từ phổ biến hoặc trái với đạo đức hoặc trật tự công cộng hoặc là sự dối trá.
Nếu trong bất kỳ nước ký kết nào, việc sử dụng một nhãn hiệu có đăng ký là bắt buộc thì sự đăng ký không thể được huỷ bỏ trước một giai đoạn nào đó nếu người chủ SHCN không thể tự bào chữa cho việc không hoạt động của người đó. Mỗi một nước ký kết phải từ chối đăng ký và cấm sử dụng các nhãn hiệu mà nó được làm lại, bắt chước hoặc định tạo ra sự lẫn lộn với một nhãn hiệu mà được các quan chức Nhà nước có thẩm quyền đánh giá là dược biết đến ở nước đó, nhãn hiệu đó của một người được ghi nhận là độc quyền tài phán của Công ước và được sử dụng cho hàng hoá tương tự, đồng nhất. Ngoài ra, Công ước còn có quy định về bảo hộ quyền SHCN các nhãn hiệu dịch vụ (không cần thiết qua đăng ký) và các nhãn hiệu tập thể thuộc về các tổ chức. Công ước tạo điều kiện cho người phát minh được ghi tên trong bằng sáng chế và cung cấp biện pháp bảo vệ biểu tượng, cờ và huy hiệu của các tổ chức quốc tế. Mỗi một nước đăng ký phải từ chối đăng ký và cấm sử dụng không có phép các biểu tượng Nhà nước, ký hiệu chính thức và dấu xác nhận tiêu chuẩn phải được thông qua bởi Văn phòng quốc tế của WIPO. Huy hiệu, cờ, các biểu tượng khác viết tắt và tên của các tổ chức Chính phủ nào đó cùng áp dụng điều khoản tương tự.
Tuy những điều khoản này chỉ điều chỉnh trực tiếp những nhãn hiệu đăng ký đầu tiên ở quốc gia thành viên khác, nhưng phải hiểu là chúng cũng được áp dụng cho mọi loại nhãn hiệu, vì thực là không thực tế nếu áp dụng các quy định khác nhau cho nhãn hiệu hàng hoá phụ thuộc vào nơi nộp Đơn đăng ký đầu tiên.
Công ước còn có nhiều điều khoản phụ khác, ví dụ:
+Đối với tên gọi xuất xứ hàng hoá : Mỗi một nước ký kết phải sử dụng các biện pháp chống lại sự sử dụng dù là gián tiếp các dấu hiệu giả nguồn hàng, dấu hiệu sai đặc tính của người sản xuất, xí nghiệp và thương gia.
* Thoả ước Madrid (1891) về đăng ký nhãn hiệu quốc tế (Việt Nam tham gia từ năm 1981)
Thoả ước được ký vào năm 1891, sửa đổi tại Brussel năm 1900, tại Washington năm 1911, taị Hague năm 1925, taị London năm 1934, tại Nice năm 1957 và tại Stockholm năm 1967 và được thay đổi năm 1979. Thoả ước mở với các quốc gia thành viên của Công ước Paris.
Thoả ước quy định việc đăng ký nhãn hiệu (cả nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ) tại Văn phòng quốc tế của WIPO ở Geneve.
Để được hưởng những thuận lợi của thoả ước, người nộp Đơn phải thuộc một quốc gia có ký kết hoặc phải có một sự thiết lập tài chính và công nghiệp có hiệu lực. Người đó phải đăng ký nhãn hiệu tại Văn phòng nhãn hiệu thương mại quốc gia hay địa phương của người nước ngoài đó ở. Khi được làm xong, người đó phải thông qua văn phòng địa phương hay quốc gia, để đăng ký quốc tế. Khi một đăng ký quốc tế có hiệu lực, được công bố bởi phòng quốc tế và thông báo với các nước đã ký kết. Mỗi một quốc gia như vậy trong vòng một năm phải công bố quy định rằng sự bảo vệ không thể cấp cho nhãn hiệu trong biên giới nước đó. Nếu trong vòng 1 năm không công bố, sự đăng ký quốc tế có hiệu lực cho sự đăng ký quốc gia.
Sự đăng ký quốc tế đem lại nhiều thuận lợi cho người chủ nhãn hiệu. Sau khi đăng ký, đăng ký lại một nhãn hiệu trong một nước ký kết, người đó chỉ cần trình một Đơn và nộp lệ phí tới một Văn phòng quốc tế.
* Một số điều ước quốc tế song phương và khu vực giữa Việt Nam và nước ngoài.
Hiệp định khung về hợp tác SHTT giữa các nước ASEAN (12/1995). Bản ghi nhớ về hợp tác SHTT giữa Việt Nam và australia (9/1995).
2.2 Một số điều ước quốc tế quan trọng.
* Hiệp ước Lisbon về sự bảo vệ tên gọi xuất xứ hàng hoá và đăng ký quốc tế của nó.
Hiệp ước được ký kết năm 1958, sửa đổi tại Stockhom năm 1967, 1979. Hiệp ước mở với các thành viên của công ước Paris.
Mục đích của hiệp ước là sự bảo vệ quốc tế tên gọi xuất xứ hàng hoá đó là tên địa lý của quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương nào đó mà sản phẩm bắt nguồn từ đó, phẩm chất và đặc điểm của sản phẩm được hình thành bởi các yếu tố: môi trường địa lý, kể cả nhân tố về con người và tự nhiên. Những tên gọi xuất xứ hàng hoá như vậy được đăng ký bởi Văn phòng quốc tế của WIPO ở Geneve theo yêu cầu của các quan chức có thẩm quyền của quốc gia ký kết. Phòng quốc tế thông báo sự đăng ký với các quốc gia ký kết khác, trừ trường hợp quốc gia ký kết trong vòng một năm có công bố (tuyên bố), nó không thể đảm bảo sự bảo vệ tên gọi xuất xứ hàng hoá được đăng ký quốc tế đó.
* Hiệp ước Nice (1957) về phân loại quốc tế về nhãn hàng hoá và dịch vụ cho mục đích đăng ký các nhãn hiệu.
Hiệp ước ký năm 1957, sửa đổi tại Stockhom năm 1967, tại Geneve năm 1977, 1979. Hiệp ước mở với các thành viên của Công ước Paris.
Hiệp ước thiết lập một sự phân loại hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ cho các mục đích đăng ký nhãn hiệu hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ. Sự phân chia được sử dụng trong việc đăng ký quốc tế tuân theo Hiệp ước Madrid hoặc được sử dụng trong việc đăng ký quốc gia của các nước ký kết.
Sự phân chia bao gồm danh sách các loại: có 34 loại cho hàng hoá và 8 loại dịch vụ và một danh sách theo vần a,b,c hàng hoá và dịch vụ. Sau đó bao gồm 11.000 khoản cả 2 loại danh sách theo từng ngày được sửa đổi và bổ sung bởi một hội đồng các chuyên gia trong đó có đại diện tất cả các nước ký kết.
Mặc dù chỉ có 42 nước là thành viên của Hiệp ước Nice văn phòng nhãn hiệu của trên 100 nước trên thế giới cũng như Văn phòng quốc tế của WIPO, Văn phòng nhãn hiệu Benelux và tổ chức Quyền sở hữu kiến thức Châu Phi (OAPI) đều sử dụng phân loại này.
2.3 Tập quán quốc tế.
Nguồn pháp luật của tư pháp quốc tế không chỉ bao gồm pháp luật quốc gia, các điều ước quốc tế mà còn có cả những tập quán quốc tế từ lâu đời và được nhiều quốc gia thừa nhận.
Sở hữu công nghiệp là một lĩnh vực mới mẻ, do đó các tập quán quốc tế từ lâu đời không nhiều, chủ yếu là các tập quán về nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ như tập quán bảo vệ đương nhiên sự độc quyền đối với nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ được coi là nổi tiếng cho dù nó chưa đăng ký...
Việc ban hành các văn bản pháp luật quốc gia và tham gia các Điều ước quốc tế quan trọng nhất: Công ước Paris (1883), Thoả ước Madrid (1891), Hiệp ước PCT (1978) đã phần nào thể hiện mối quan tâm, chú trọng của Nhà nước Việt Nam tới việc tăng cường quản lý Nhà nước; đẩy mạnh sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hộ quyền SHCN.
Tuy nhiên, để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu điều chỉnh pháp lý quan hệ SHCN của thực tiễn hiện nay ở Việt Nam và phù hợp với giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội sau này, chúng ta cần phải sửa đổi, bổ sung đầy đủ, kịp thời; kiểm tra rà soát lại các văn bản pháp luật về SHCN nhằm từng bước xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về SHCN. Đồng thời chúng ta cần tăng cường các mối quan hệ quốc tế về nhiều mặt nói chung và về SHCN nói riêng như: nghiên cứu, đánh giá trên các phương diện lý luận và thực tiễn một cách đúng mực để gia nhập thêm vào một số điều ước quốc tế quan trọng như đã nêu ở trên cũng như đẩy mạnh sự hợp tác quốc tế, cùng với các quốc gia trên thế giới, trong khu vực cần thoả thuận xây dựng, ký kết các Điều ước quốc tế mới về bảo hộ quyền SHCN.
Những quy định chủ yếu.
-Đối tượng được bảo hộ:
Khi lựa chọn nhãn hiệu hàng hoá, các doanh nghiệp cần thận trọng xem xét mọi khía cạnh, ngoài những yếu tố về văn hoá, thẩm mỹ...doanh nghiệp còn rất cần chú ý để nhãn hiệu hàng hoá phù hợp với những yêu cầu của pháp luật của các quốc gia và điều ước quốc tế để được đăng ký và bảo hộ.
Theo công ước Paris: không được sử dụng quốc huy, quốc kỳ, các biểu tượng quốc gia của các nước thành viên Liên Hiệp, các biểu tượng khác: tên viết tắt, tên đầy đủ của các tổ chức quốc tế liên Chính phủ (nếu như các tổ chức này đã thông báo cho các nước thành viên liên hiệp) hoặc bắt chước các đặc điểm huy hiệu làm nhãn hiệu hoặc các thành phần của nhãn hiệu mà không có sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền (Điều 6 ter).
Hịêp định Trips nhấn mạnh khả năng phân biệt được của nhãn hiệu hàng hoá, thể hiện qua các dấu hiệu. Trường hợp các yếu tố trên chưa đạt yêu cầu, thì khả năng được đăng ký nhãn hiệu hàng hoá phụ thuộc vào tính phổ biến thông qua sử dụng hoặc các nước thành viên có thể quy định điều kiện đăng ký là các dấu hiệu phải nhìn thấy được (Điều 151). Điều này cho thấy Trips không khuyến khích các nước thành viên cho phép đăng ký các nhãn hiệu mang dấu hiệu như mùi vị, âm thanh.
Quy định của các nước rất khác nhau: Anh cho phép bảo hộ cả mùi vị, màu sắc, khẩu hiệu, nhạc hiệu...,Tây Ban Nha quy định nhãn hiệu thể hiện bằng âm thanh sẽ không được đăng ký bảo hộ.
Còn tại Hoa Kỳ thì có 6 loại thương hiệu không được đăng ký bảo hộ là: những thương hiệu mang tính chất độc hại, vô đạo đức, giả dối hoặc lừa đảo. Những thương hiệu nhái lại, copy nhằm tạo ra sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng, nhất là những thương hiệu được bảo hộ ở nước sở tại. những thương hiệu mang địa danh, chẳng hạn: nước mắm Phú Quốc, mắm ruốc Vũng Tàu...vì có thể bị coi là quảng cáo láo (deceptive advertising). Thương hiệu mang họ của một người như Trần, Nguyễn, Lê...thương hiệu có tên mang tính chất công dụng, hoặc diễn tả như: mắm cay..., lấy tên của tổng thống Hoa Kỳ và tên riêng của một số người khác.
-Thủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.
Thủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua hệ thống Madrid rất đơn giản về mặt hành chính. Doanh nghiệp chỉ cần nộp một đơn duy nhất (bằng tiếng Pháp), trong đơn có chỉ định các nước xin bảo hộ gửi đến Cục SHCN Việt Nam. đơn này sẽ được Cục SHCN chuyển đến văn phòng quốc tế của WIPO (tại Thuỵ Sĩ).
Hệ thống CTM của EU không yêu câù nước xuất xứ của doanh nghiệp có nhu cầu đăng ký thương hiệu phải gia nhập vào hệ thống này. Doanh nghiệp chỉ cần đăng ký một lần qua hệ thống này thì thương hiệu sẽ được bảo hộ tại 16 nước của Châu Âu. Đơn sẽ nộp tại văn phòng CHIM (Thuỵ Sĩ), không cần qua Cục SHCN. Doanh nghiệp cũng không cần phải đăng ký thương hiệu tại Việt Nam trước khi đăng ký vào EU.
Tại Hoa Kỳ: Trình tự đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá do USPTO quy định gồm ba bước:
Bước 1: Nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại USPTO.
Bước 2: Xem xét hồ sơ: đơn đăng ký sẽ được xem xét trong vòng 6 tháng kể từ ngày nộp đơn. Nếu không có bất kỳ sửa đổi, bổ sung hoặc phản đối nào của các chuyên viên trong USPTO, đơn sẽ được chuyển sang công bố trên công báo SHCN để bất kỳ bên thứ ba nào có quyền và lợi ích liên quan có quyền phản đối việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Thời hạn khiếu nại là 6 tháng kể từ ngày đăng công báo.
Bước 3: Cấp giấy chứng nhận.
Hiện nay, USPTO cũng cho phép đăng ký qua mạng tại địa chỉ www.uspto .gov.
-Lệ phí đăng ký.
Lệ phí đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá được quy định khác nhau tuỳ thuộc vào các tổ chức và các nước.
+ Thông báo hệ thống Madrid: doanh nghiệp sẽ trả hai loại lệ phí cơ sở: một cho Cục SHCN (150USD), một cho văn phòng quốc tế (trả bằng đồng francs Thuỵ Sỹ). Nhãn hiệu đen trắng lệ phí là 653 francs Thuỵ Sỹ (tương đương 6.7 triệu đồng), nhãn hiệu màu là 903 francs Thuỵ Sỹ (9,2 triệu đồng). Ngoài ra, doanh nghiệp sẽ nộp 73 francs Thuỵ Sỹ (751.097 đồng) cho mỗi nước chỉ định xin bảo hộ, bao nhiêu nước thì nhân lên bấy nhiêu lần.
Với 16 nước thuộc EU: doanh nghiệp có thể đăng ký để được bảo hộ chung tại EU với chi phí khoảng tương đương 4.000 đến 6.000 USD.
Chi phí đăng ký tại Mỹ khoảng 2.000USD, đăng ký qua mạng là 325 USD cho một thương hiệu hoặc dịch vụ. Tại Lào, Campuchia, Myanmar là khoảng 500USD.
-Thời hạn được cấp bằng bảo hộ: được quy định rất khác nhau tại các nước
Hệ thống Madrid : 12 tháng
Hongkong : 18-44 tháng
Indonexia : 16-22 tháng
Malayxia : 18-24 tháng
Philippines : 1 năm
Trung Quốc : 12-18 tháng
Thái Lan : 12-18 tháng
Chương II : Thực trạng vấn đề thương hiệu ở Việt Nam
A. Nhận thức về vấn đề thương hiệu của các doanh nghiệp và của các cơ quan chức năng.
-Trước đây:
Từ xa xưa, người Việt đã luôn truyền tụng say sưa về những sản vật đầy chất “thương hiệu”, nào là cốm làng Vòng, cam Bố Hạ, nhãn Hưng Yên..., trong Nam thì bưởi Biên Hoà, xoài cát Hoà Lộc, rượu đế Hoà Đen... Giờ đây, khi đã bước vào năm thứ hai của thế kỷ 21, nhìn vào thương trường Việt Nam, số thương hiệu đạt được mức phổ quát như các sản vật nông nghiệp nêu trên chỉ đếm được trên đầu nhón tay, và hầu hết chỉ mới xuất hiện không quá 10 năm.
Thật ra nghịch lý nói trên không lạ đối với một đất nước trải cả ngàn năm chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến nước ngoài và Khổng giáo, ở đó nói rõ: “sĩ, nông, công, thương”, thương mại và công nghiệp là... bét! Rủi thay, thương hiệu chính là vấn đề của thương mại. Đến nửa sau của thế kỷ 20 là chiến tranh giành độc lập, rồi đến bao cấp kinh tế..., nên thương mại cũng là hạng bét nốt! Tất cả mọi vấn đề : sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai...đều theo kế hoạch, chỉ tiêu của Nhà nước. Doanh nghiệp chỉ cần thụ động thực hiện mà chẳng cần phải lo cạnh tranh với các doanh nghiệp khác để tiêu thụ sản phẩm, chẳng cần quan tâm đến việc làm thế nào để khách hàng biết tới mình, tin tưởng, nhớ và lựa chọn sản phẩm của mình. Vậy thì thương hiệu hẳn là vấn đề quá xa vời. Người ta đặt tên cho sản phẩm chỉ đơn giản để sản phẩm có một tên gọi, bao bì hàng hoá hầu như cũng chỉ làm chức năng nguyên thuỷ nhất của nó là để bảo vệ hàng hoá, còn việc đầu tư cho quảng cáo, tạo nên sự đặc sắc, khác biệt để sản phẩm thực sự in sâu trong tâm trí người tiêu dùng càng là chuỵên xa vời hơn. Nhãn hiệu, thậm chí cái tên của một doanh nghiệp cũng hoà tan trong một cụm từ rất chung và chỉ phân biệt được bằng cách đánh số hoặc gắn với một địa danh nào đó: cửa hàng thương nghiệp (hay mậu dịch) quốc doanh số 1, số 2 hoặc hợp tác xã cơ khí quận 5... Cũng có những tên tuổi được cả nước biết tiếng như “cơ khí Trần Hưng Đạo”, “lốp xe sao vàng”, “phích nước Rạng Đông”, “kẹo Hải Hà” ... nhưng số này cũng ít và thực ra, những đơn vị này đã được nhà nước trao cho vai trò xương sống của một ngành trong sản xuất và phân phối. Độc quyền, không phải cạnh tranh thành ra nhãn hiệu hay cái tên hầu như chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị-xã hội. Nhà nước bao cấp từ sản xuất đến phân phối nên không thể xảy ra vấn đề xâm phạm, tranh chấp thương hiệu giữa các doanh nghiệp trên thị trường nội địa. Về thị trường nước ngoài, chúng ta xuất khẩu rất ít, việc xuất khẩu cũng chỉ bó gọn trong kế hoạch của nhà nước, theo những kí kết giưã nước ta với một số nước anh em. Doanh nghiệp chỉ biết lo đủ hàng để xuất khẩu còn vấn đề sản phẩm có được nhà nhập khẩu chấp nhận, thoả mãn và tin tưởng không thì doanh nghiệp ít khi quan tâm chứ chưa nói đến việc làm sao để cạnh tranh, để xây dựng một chỗ đứng cho sản phẩm của mình ở thị trường nước ngoài. Hơn nữa hàng hoá Việt Nam lúc đó chưa thể so sánh với hàng hoá nước ngoài nên chẳng ai lấy cắp thương hiệu của Việt Nam. Và vì vậy mà các doanh nghiệp cứ ung dung không hề có ý niệm về xây dựng và bảo vệ thương hiệu.
-Hiện nay:
Những năm gần đây, nền kinh tế đất nước mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới, sự bao cấp của nhà nước đối với doanh nghiệp ngày càng giảm, các doanh nghiệp phải tự đứng trên đôi chân của mình. Từ những bước đầu đầy khó khăn, một số mặt hàng của Việt Nam dần dần tìm được chỗ đứng trên thị trường thế giới và các đối thủ nước ngoài bắt đầu lợi dụng uy tín, ăn cắp thương hiệu hàng hoá Việt Nam. Một loạt thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam bị xâm hại như cà phê Trung Nguyên, nước mắm Phú Quốc, mỹ phẩm Sài Gòn, Vinataba, Vinacafe Vietnampetrol... Đến lúc này chúng ta mới giật mình nhận ra rằng từ trước đến nay chúng ta đã kinh doanh mà không cần biết tới một vấn đề vô cùng quan trọng để có thể thành công trên thương trường, đó là thương hiệu. Các doanh nghiệp Việt Nam chỉ tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, đơn giản nghĩ rằng cứ tạo ra sản phẩm cho tốt rồi minh chứng sau. Về vấn đề thương hiệu, một chuyên gia kinh tế Việt Nam đã nhận xét thấu đáo rằng : “Chúng ta như những anh nhà quê chơi chung với các nhà quý tộc”. Các doanh nghiệp Việt Nam chỉ lo chạy đơn đặt hàng, lo nguyên liệu, lo thành phẩm đúng chất lượng, quy cách, chưa kể lo vượt qua các rào cản do chính bộ máy nhà nước của ta đặt ra để “hành” doanh nghiệp. Không ai nghĩ đến một điều hết sức hệ trọng là nếu không xây dựng được một thương hiệu thì dù mặt hàng có tốt, có rẻ đến đâu cũng phải chịu cảnh làm “con nuôi” cho những thương hiệu khác, chịu bao thiệt thòi, nguy cơ. Quan trọng hơn nếu không bảo vệ được thương hiệu của mình thì mọi nỗi lo nói trên có vượt qua cũng thành ra “đổ sông, đổ biển” vì đã mất quyền được mua, được bán trên thị trường. Thế là dẫn đến tình trạng “mất bò mới lo làm chuồng”. Khi một loạt các thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam bị lấy cắp thì cả các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp mới thực sự bước những bước đầu tiên trên con đường xây dựng và bảo vệ thương hiệu. Các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận ra vai trò quan trọng của thương hiệu, ý thức được sự cần thiết phải đầu tư xây dựng thương hiệu, phải đăng ký để được pháp luật bảo vệ thương hiệu của mình. Họ đã tham gia những lớp tập huấn tuyên truyền về thương hiệu để nâng cao nhận thức về thương hiệu, để học hỏi kinh nghiệm xây dựng và bảo vệ thương hiệu. Con số doanh nghiệp đăng ý bảo vệ thương hiệu tăng lên nhanh chóng là một minh chứng cho sự quan tâm của doanh nghiệp đến vấn đề này.
Từ đầu năm đến nay, cả nước có 5.355 đơn đăng ký bảo vệ thương hiệu trong đó có 3.889 đơn của doanh nghiệp trong nước, tăng gần 800 đơn so với năm 2001. Một số doanh nghiệp bị xâm phạm thương hiệu thì cương quyết đâú tranh để bảo vệ thương hiệu của mình cả ở thị trường trong nước và nước ngoài. Hàng loạt các doanh nghiệp quyết tâm theo kiện, phối hợp với các cơ quan chức năng để bảo vệ thương hiệu của mình trên toàn quốc như doanh nghiệp sản xuất bánh trung thu Đồng Khánh, sản xuất men rượu Quân Tám...
Doanh nghiệp tiên phong trong cuộc đấu tranh bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá ở nước ngoài là công ty mỹ phẩm Sài Gòn. Công ty đã sang tận Philippine, công phu “bài binh bố trận” để bắt quả tang một cơ sở cuả công ty Golden đang sản xuất sản phẩm của mỹ phẩm Sài Gòn giả tại Manila (thủ đô Philippin). Hiện nay công ty đã bỏ hàng triệu USD để theo kiện. Các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá Basa Việt Nam được sự hỗ trợ cuả Bộ Thuỷ sản cũng đang nỗ lực đấu tranh để sản phẩm của ta được mang tên catfish và không bị áp dụng luật bán phá giá ở thị trường Mỹ. Dù biết chặng đường còn nhiều khó khăn, đặc biệt trong vấn đề tài chính nhưng chúng ta vẫn tin tưởng các doanh nghiệp Việt Nam với lẽ phải trong tay sẽ bảo vệ được mình.
Về phía Nhà nước, các cơ quan chức năng đang nỗ lực hoàn thiện pháp luật về sở hữu công nghiệp (SHCN) trong đó có sở hữu nhãn hiệu(SHNH), tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan trong việc xử lý các trường hợp xâm phạm thương hiệu, tuyên truyền quảng bá về xây dựng và bảo vệ thương hiệu, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về vấn đề dăng ký thương hiệu ở trong nước và nước ngoài, xây dựng và tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại để khuếch trương thương hiệu Việt Nam.
Đó là những chuyển biến tích cực rất đáng mừng trong nhận thức về thương hiệu ở Việt Nam. Tuy nhiên để thương hiệu được nhận thức một cách đầy đủ và được đầu tư một cách xứng đáng thì cần có thời gian chứ không phải là việc một sớm, một chiều. ý thức của người Việt Nam về tôn trọng quyền SHCN nói chung, sở hữu thương hiệu nói riêng còn thấp từ người tiêu dùng, các doanh nghiệp đến các cơ quan Nhà nước. Trong khi đó văn hoá tôn trọng quyền SHCN của người khác ở các nước cao hơn ta, nó trở thành thói quen như thói quen tôn trọng luật lệ giao thông, không vứt rác ra đường.
Trình độ của các cán bộ cơ quan Nhà nước còn yếu, lực lượng còn thiếu, chưa có kinh nghiệm trong việc giải quyết những tranh chất về thương hiệu. Các doanh nghiệp chưa thực hiểu sâu về thương hiệu, về cách thức xây dựng thương hiệu nên chưa dám đầu tư nhiều cho thương hiệu; trình độ xây dựng, khuếch trương thương hiệu còn yếu kém so với các doanh nghiệp nước ngoài; còn nhiều lúng túng, bỡ ngỡ trong việc đăng ký khởi kiện để bảo vệ thương hiệu. Ngay như vấn đề thương hiệu là gì, bao gồm những yếu tố nào vẫn còn được hiểu một cách chung chung, phiến diện. Một số cán bộ chống hàng giả còn chưa phân biệt được gỉa nhãn hàng và nhãn hiệu hàng hoá gây nhiều khó khăn trong việc xử lý vi phạm...
Những thương hiệu Việt Nam bị đánh cắp ở thị trường trong nước và nước ngoài như hồi chuông làm các doanh nghiệp bừng tỉnh. Họ mới chỉ bước đầu nhận thức được vai trò, việc cần thiết phải xây dựng và bảo vệ thương hiệu chứ còn để thực sự nhận thức sâu sắc về thương hiệu, để có được chương trình xây dựng và bảo vệ thương hiệu phù hợp và hiệu quả thì các doanh nghiệp còn phải nỗ lực nhiêù cùng với sự trợ giúp của các cơ quan chức năng.
B Thực trạng vấn đề thương hiệu ở Việt Nam.
1. Những dấu hiệu tích cực.
Về phía các doanh nghiệp.
Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam có bước tiến đáng kể cả về chất và lượng. Hàng hoá Việt Nam dần chiếm được lòng tin của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Những thương hiệu như nước mắm Phú Quốc, giầy Thăng Long, Thượng Đình, bánh Kinh Đô, Đồng Khánh, gạch Đồng Tâm, nước khoáng Lavie, thép Thái Nguyên...đã dần trở thành sự lựa chọn của người tiêu dùng trong nước. Không ít thương hiệu của Việt Nam có uy tín trên thị trường nước ngoài như Catfish Việt Nam, mỹ phẩm Sài Gòn, Vifon, Vinamilk, cà phê Trung Nguyên... Việc các doanh nghiệp nước ngoài ăn cắp các thương hiệu Việt Nam cũng là một minh chứng cho việc hàng hoá Việt Nam đã thực sự có chỗ đứng trên thị trường thế giới. Đó là những nền tảng thuận lợi để xây dựng và khuyếch trương thương hiệu Việt Nam.
Từ chỗ nhận thức được vai trò vô cùng quan trọng của thương hiệu, các doanh nghiệp Việt Nam đang nỗ lực tìm hiểu về thương hiệu, học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm trong việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu. Nhiều doanh nghiệp đã tham gia các buổi hội thảo, tập huấn, tuyên truyền về thương hiệu đang được các cơ quan chức năng tổ chức. Họ chủ động tìm đến các công ty tư vấn, hỏi các chuyên gia thông qua báo chí...
Hơn thế, một số doanh nghiệp đã rất tích cực trong việc xây dựng và khuyếch trương thương hiệu. Công ty ICC đã bỏ gần 3 tỷ đồng cho thương hiệu Veo và Bay. Công ty cổ phần Mekong xanh rất chăm chút xây dựng hình ảnh thương hiệu của mình, chẳng hạn chuyện rất nhỏ là, dù lắp ráp hàng của các hãng lớn và đều có thùng đựng các-tông sẵn của hãng, họ đều bỏ các thùng ấy và cho làm lại tất cả các thùng đựng dưới nhãn hiệu riêng của Mekong. Còn Saigontourist đã thực hiện cả một chiến lược thương hiệu rất công phu, lâu dài và tốn kém: Saigontourist đã có mặt trên toàn quốc với các chiến dịch tuyên truyền, quảng bá, tích cực tham gia các chương trình liên hoan, lễ hội du lịch lớn. Saigontourist còn tạo một hệ thống các đơn vị “nằm vùng” tại các địa phương có tiềm năng về du lịch thông qua hình thức liên doanh, đầu tư. Trong công tác xúc tiến thương hiệu ra thị trường quốc tế, Saigontourist đã chọn các hình thức quảng bá được đánh gía là có tính lâu dài và hiệu quả, đặc biệt tại các thị trường trọng điểm và tiềm năng như Nhật, Pháp, Tây Âu, Mỹ... đồng thời không quên các thị trường Nga và Đông Âu. Thương hiệu Saigontourist luôn có mặt ở hầu hết các hội chợ, triển lãm du lịch quốc tế nổi tiếng.
Các doanh nghiệp Việt Nam còn tích cực tham gia quảng bá cho thương hiệu bằng các chiêu khuyến mãi, giảm gía. Càng ngày các chương trình này càng đa dạng, hấp dẫn, có đầu tư chiều sâu mạnh mẽ hơn. Công ty tã giấy Ky Vy đã tổ chức chương trình khuyến mãi trên toàn quốc với tổng trị giá giải thưởng lên đến 325 triệu đồng. Công ty DCD-VCD Tiến Đạt đã mạnh dạn mở đợt khuyến mãi đặc biệt mùa hè 2002 với lời hứa trao giải nhất là một xe hơi Viat Siena trị giá 13.500USD... Một ghi nhận cho thấy khuyến mãi và tìm các cách thức mới để quảng bá sản phẩm hay thương hiệu của mình đang là một công việc mà các nhà kinh doanh 100% vốn Việt Nam đã quan tâm trong công việc làm ăn của mình. Những công ty vừa và nhỏ cũng đã sẵn sàng đầu tư vài trăm triệu đến hàng tỷ đồng cho việc khuyếch trương thương hiệu qua các đợt quảng cáo và khuyến mãi.
Để được pháp luật bảo vệ thương hiệu của mình, ngày càng nhiều doanh nghiệp quan tâm đến việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, từ con số 1614 nhãn hiệu đăng ký năm 1998 đã tăng gần 200% lên 3094 nhãn hiệu năm 2001 đối với nhãn hiệu hàng hoá Việt Nam, và số liệu đó tăng đều qua các năm.
Theo tài liệu thống kê của Cục SHCN thì hiện đã có 95 nghìn nhãn hiệu được bảo hộ, trong đó có số liệu cụ thể của các năm gần đây như sau:
Nhãn hiệu nước ngoài
Nhãn hiệu trong nước
2001
2000
1999
1998
Số đăng ký
Nguồn: Tài liệu thống kê của Cục SHCN
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã không ngại tốn kém để đăng ký thương hiệu kể cả ở các thị trường doanh nghiệp chưa bán sản phẩm cuả mình. Trung Nguyên đăng ký ở Trung Quốc, Singapore, Pháp, Canada, mỗi nước tốn từ 4000 đến 5000 USD, Vifon Việt Nam đăng ký trên 20 nước. Nệm mút Kymdan thì đăng ký bảo hộ trên 30 nước trong khi thị trường xuất khẩu của Kymdan mới dừng lại ở con số 10. Bưởi Năm Roi đã trở thành loại trái cây đầu tiên của Việt Nam được đăng ký thương hiệu và có mặt trên trang Web ww.5 roi.com. Công ty may Phương đông (Fugamex) cũng quyết tâm thực hiện quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá để khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường quốc tế...
Trong tình trạng nhiều thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam bị xâm hại cả ở thị trường trong nước và nước ngoài như hiện nay, một số doanh nghiệp đã kiên quyết theo kiện để bảo vệ thương hiệu của mình. ở trong nước thì có các doanh nghiệp như Đồng Khánh, Vifon Ace-Cook, Việt Tiến, Quân Tám... Ngay cả việc theo kiện ở nước ngoài nhiều khó khăn và tốn kém nhưng một số doanh nghiệp vẫn không chùn bước. Vifon đã phải mất hơn một năm và chi phí gần 10.000 USD để lấy lại thương hiệu ở Mỹ. Vinamilk cũng đã mất khoảng 20.000 USD mới đòi lại được nhãn hiệu của mình. Công ty Cầu Tre cũng bắt đầu nộp đơn kiện để lấy lại thương hiệu của mình tại Singapore, Malaysia. Chỉ mới bước một của việc kiện đã tốn 7.000 USD mà chưa biết được hay không. Nhưng công ty quyết tâm lấy laị thương hiệu trên hai thị trường này nhằm phát triển không chỉ đối với trà và hàng nông sản mà còn các mặt hàng thuỷ sản nữa.
Về phía các cơ quan chức năng
Điều thuận lợi đầu tiên cho các doanh nghiệp trong việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu là khung pháp luật của chúng ta về SHCN.
Trong những năm gần đây khung pháp luật Việt Nam về SHCN trong đó có sở hữu về nhãn hiệu hàng hoá liên tục được bổ sung, sửa đổi để đáp ứng với những nhu cầu phát triển của nền kinh tế và đáp ứng những tiêu chuẩn của hiệp định Trips/WTO, yêu cầu của hiệp định thương mại Việt Mỹ. Hiện nay Việt Nam đã có một khung pháp lý tương đối đầy đủ so với quy định của quốc tế về SHCN. Các cơ quan chức năng cũng đang nỗ lực để hoàn thiện hệ thống pháp luật này.
Việt Nam cũng đã tham gia ký kết các điều ước quốc tế về SHCN để tạo thuận lợi cho việc hàng hoá của chúng ta được đăng ký và bảo hộ ở những khu vực đó: Công ước Paris (1883) về bảo hộ quyền SHCN; Thoả ước Madrid (1891) về đăng ký nhãn hiệu hàng hoá; Thoả thuận về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT (gọi tắt là Trips); Hiệp định chung về hợp tác SHTT giữa các nước ASEAN; Bản ghi nhớ về hợp tác SHTT giữa Việt Nam và australia.
Nhận thức sâu sắc những hậu quả của việc xâm phạm thương hiệu đối với nền kinh tế nói chung, các doanh nghiệp và người tiêu dùng nói riêng, Nhà nước đã chủ trương kiên quyết đấu tranh chống hàng giả, nhái nhãn mác. Các cơ quan chức năng đã vào cuộc và đã phát hiện, xử lý rất nhiều trường hợp vi phạm. Trong tháng 4/2002 vừa qua, các cơ quan chức năng đã tiến hành đợt tổng kiểm kê nhãn mác hàng hoá giúp ngăn ngừa vấn nạn này.
Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam bị xâm phạm thương hiệu ở nước ngoài, các cơ quan chức năng cũng đã có những việc làm rất thiết thực. Trước hết là việc khẳng định nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế thị trường (Đây là vấn đề khó khăn lớn nhất cho các doanh nghiệp Việt Nam trong các vụ kiện tụng ở nước ngoài. Hầu hết các nước chưa công nhận nước ta có nền kinh tế thị trường nên áp dụng các luật rất bất lơị cho chúng ta). Ví dụ trong vụ cá tra, cá basa bị kiện không được mang tên Catfish và bán phá giá ở Mỹ, Bộ Thuỷ sản Việt Nam chính thức đề nghị Bộ Thương mại Mỹ tổ chức cuộc điều trần công khai về nền kinh tế của Việt Nam vào cuối tháng 10/2002. Ngày 24/5, Bộ Thuỷ sản đã tổ chức “Hội nghị bàn biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu cá tra, cá basa” để nhận định diễn biến tình hình, đề ra các giải pháp để chiến thắng trong các vụ kiện.
Rõ ràng các cơ quan chức năng đã sát cánh cùng các doanh nghiệp để bảo vệ thương hiệu hàng hoá Việt Nam. Trong tương lai không xa rất có thể Nhà nước còn hỗ trợ cả kinh phí cho các doanh nghiệp để theo kiện và để quảng bá thương hiệu Việt Nam ở nước ngoài.
Không dừng ở đó các cơ quan chức năng còn tích cực phổ biến pháp luật về thương hiệu, tổ chức huấn luyện nghiệp vụ về thương hiệu để nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp, khuyến khích, đốc thúc các doanh nghiệp đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá.Thứ trưởng Bộ Thương mại Lê Danh Vĩnh đã có văn bản gửi tới các sở thương mại tỉnh thành, hiệp hội ngành hàng lưu ý việc tăng cường phổ biến tới các doanh nghiệp văn bản pháp luật liên quan đến bảo hộ hàng hoá nhãn hiệu Việt Nam ở nước ngoài.
Từ năm ngoái đến nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã liên tục tổ chức các buổi huấn luyện nghiệp vụ cho các doanh nghiệp, các địa phương về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. Thậm chí gần đây đã gửi công văn xuống từng doanh nghiệp yêu cầu thực hiện, trong đó ghi rõ nếu có khúc mắc gì xin liên lạc trực tiếp với Vụ.
Bộ cũng đã đưa ra mục tiêu các doanh nghiệp mạnh của Bộ sẽ phải đi đầu trong việc xây dựng thương hiệu sản phẩm. Và dù đang tất bật theo dõi từng giờ của tình hình bão lụt (20/8), Bộ vẫn triệu tập khẩn cấp các doanh nghiệp sản xuất nông lâm sản từ Nam ra Bắc về Hà Nội để bàn chuyện “Đặt tên cho hàng nông sản”. Bộ đã nhận định thấu đáo rằng: ”Đây là một vấn đề cũng quan trọng không kém việc đối phó với thiên tai, lụt lội. Nếu để đến khi hàng xuất khẩu nông sản của chúng ta bị mất thế đứng hoàn toàn trên thị trường quốc tế do không có nhãn hiệu mới lo thì chẳng khác nào để nước lũ tràn ướt hết chân rồi mới nhảy”.
Nhằm giúp doanh nghiệp hiểu rõ được lợi ích của việc đăng ký thương hiệu sản phẩm không những ở trong nước mà còn tại thị trường nước ngoài, vừa qua VCCI đã phối hợp với Phòng Thương mại Châu Âu tại Việt Nam tổ chức hội thảo “Kinh doanh với thị trường EU : Phát triển sản phẩm và thương hiệu cho hàng nông sản và các mặt hàng chủ lực của Việt Nam”.
Câu lạc bộ doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao và báo Sài Gòn tiếp thị xây dựng chương trình: “Hỗ trợ doanh nghiệp về năng lực xây dựng và quảng bá thương hiệu”.
Chương trình này nhằm khảo sát thực trạng và chuyển giao năng lực xây dựng, quản lý thương hiệu cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Rất đáng chú ý là chương trình: “1000 nhãn hiệu hàng hoá cho các doanh nghiệp từ nay đến 2005”. Bộ Khoa học công nghệ môi trường sẽ tập huấn cho một nhóm cộng tác viên về thủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá để giúp các doanh nghiệp triển khai thủ tục. Chương trình cũng tư vấn cho các doanh nghiệp có nhu cầu đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ở nước ngoài. Hội thảo : “Sở hữu trí tuệ và cạnh tranh quốc tế” cũng được tổ chức nhằm cung cấp thông tin về vai trò SHCN và quyền tác giả trong chương trình chuyển giao và tiếp nhận công nghệ, sở hữu trí tuệ và hội nhập, xây dựng giá trị thương hiệu trong kinh doanh.
Bên cạnh đó các cơ quan chức năng cũng tổ chức các hội chợ , hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia các hội trợ quốc tê để quảng bá, khuyếch trương thương hiệu Việt Nam... Bộ Tài chính vừa có thông tư xác lập quỹ dành cho công tác xúc tiến thương mại hàng năm được ấn định bằng 0,25% kim ngạch xuất khẩu (trừ dầu thô) của cả nước. Theo tính toán của một chuyên gia, tỷ lệ này hiện nay tương đương với khoảng 30 triệu USD.
Thông tư của Bộ Tài chính cũng đề ra các nội dung hoạt động xúc tiến thương mại trọng điểm được hỗ trợ, bao gồm: thông tin thương mại, tuyên truyền xuất khẩu và lập trung tâm dữ liệu hỗ trợ doanh nghiệp, tư vấn xuất khẩu,...quảng bá thương hiệu quốc gia và sản phẩm xuất khẩu đặc trưng.
Các cơ quan ngôn luận, báo chí cũng đã tích cực góp phần trong việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu Việt Nam.
Một số báo có ý thức bảo vệ thương hiệu Việt Nam như Sài Gòn tiếp thị, báo Đại đoàn kết đã liên tục tổ chức và triển lãm rất công phu hàng Việt Nam chất lượng cao. Nhiều tờ báo có những bài khen chê xác đáng về các loại hàng hoá trên thị trường. Báo chí cũng đã mạnh mẽ lên án vạch trần nạn ăn cắp thương hiệu, cảnh báo doanh nghiệp về các nguy cơ và đăng tải các bài hướng dẫn đăng ký SHTT trong nước và quốc tế để bảo vệ thương hiệu Việt Nam. Luật báo chí được bổ sung điều khoản mới:”Cơ quan báo chí, nhà báo, tổ chức cá nhân tung thông tin gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự”. Đây là điều khoản rất cần thiết để bảo vệ các thương hiệu còn non trẻ của Việt Nam, bảo vệ các doanh nghiệp làm ăn chân chính, ngăn chặn việc lợi dụng báo chí để cạnh tranh không lành mạnh đã xảy ra không ít trong thời gian qua.
II Những vấn đề tồn tại
1.Trong nước:
Về phía các doanh nghiệp.
1.1.1 Các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm, đầu tư tương xứng cho việc xây dựng, bảo vệ thương hiệu.
Tuy rằng trong những năm gần đây, hàng hoá Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực cả về chất và lượng nhưng ngay trên thị trường trong nước, chúng ta chưa có những thương hiệu đủ mạnh để có thể cạnh tranh ngang ngửa với các tên tuổi nước ngoài trên thị trường. Và kết quả tất yếu là thương hiệu Việt Nam rất ít được người tiêu dùng biết tới. Cuộc điều tra người tiêu dùng trong sinh viên trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh cho thấy, có tới 94% người tiêu dùng quan tâm đến thương hiệu khi mua hàng, nhưng chỉ có 26% kể được 3 thương hiệu Việt Nam, còn lại đa số họ nhớ thương hiệu nước ngoài (Báo Sài Gòn tiếp thị số 48 ngày 6-13.12.2220). Chính vì vậy, cùng một sản phẩm không hơn kém nhau về chất lượng và có khi những sản phẩm này của doanh nghiệp Việt Nam xuất hiện trước từ rất lâu, nhưng do nhận biết của người tiêu dùng với tên tuổi của sản phẩm, của doanh nghiệp Việt Nam ít hơn nên thị phần của các sản phẩm Việt Nam nhỏ hơn. Từ đó nhiều sản phẩm cứ phải loanh quanh ở một thị trường nhất định, phải chấp nhận bán giá rẻ hơn đối thủ...Đây là sự thua thiệt, yếu kém không chỉ ở thị trường trong nước mà đặc biệt ở thị trường nước ngoài.
Nguyên nhân của thực tế trên là do đặc điểm của nhiều doanh nghiệp Việt Nam là chỉ biết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm một cách thụ động, chưa quan tâm đến việc tìm hiểu thị hiếu, điều tra nghiên cứu thị trường, xây dựng một chiến lược kinh doanh, quảng bá thương hiệu một cách bài bản nhằm tìm một chỗ đứng cho thương hiệu của mình trên thị trường. Hay nói tóm lại là chưa có những đầu tư tương xứng cho việc xây dựng thương hiệu, điều đáng nói là đa số các doanh nghiệp không biết bắt đầu từ đâu, chưa có nhiều những kiến thức về xây dựng thương hiệu.
Quả vậy, có quá nhiều lỗ hổng trong việc xây dựng và quảng bá thương hiệu đối với các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ (loại hình doanh nghiệp chủ yếu ở nước ta). Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa xây dựng được thương hiệu vững chắc, sản phẩm của họ bị đánh đồng với các sản phẩm cùng loại. Đó là các thiệt thòi mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải chịu, nhất là khi họ ở những nơi thiếu điều kiện thông tin. Trước đây họ nghĩ cứ bán hàng cho tốt rồi minh chứng sau nhưng khi tham gia những cuộc toạ đàm về xây dựng và quảng bá thương hiệu, họ tỏ ra bất ngờ khi được các chuyên gia phân tích rõ mối quan hệ giữa thương hiệu và nhãn hiệu, những giá trị mang lại của thương hiệu ngoài kinh doanh, sản xuất.
Không chỉ các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà ngay cả các doanh nghiệp lớn của Việt Nam cũng có nhiều bỡ ngỡ, thiếu tính chuyên nghiệp trong việc xây dựng thương hiệu. Các doanh nghiệp chưa có bộ phận chuyên trách về xây dựng và quảng bá thương hiệu (điều mà các công ty nước ngoài coi là không thể thiếu) vì vậy mà công việc quan trọng này còn được thực hiện một cách chắp vá, tạm bợ. Các doanh nghiệp cũng không nắm được các quy định của pháp luật về vấn đề thương hiệu, chưa có luật sư riêng. Dù doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư tốt hơn cho thương hiệu nhưng trong thực tế con số trên vẫn còn rất nhỏ. Kết quả một vài khảo sát sơ bộ cho thấy phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chỉ đầu tư ở mức dưới 3% (trên tổng doanh số) cho công tác phát triển thương hiệu so với 7-10% của các công ty đa quốc gia tại Việt Nam. Trong một số trường hợp, các công ty đa quốc gia có thể đầu tư lên tới 25% hoặc 30% doanh số trong giai đoạn đầu giới thiệu sản phẩm và thương hiệu mới để chiếm lĩnh một độ nhận biết cao.
Một cách khái quát, chi phí cho một chiến dịch quảng cáo ngắn trên các trọng điểm trên toàn quốc gồm quảng cáo truyền hình, báo chí và các khuyến mãi cho các thương hiệu Việt Nam quên thuộc hiện nay chỉ khoảng 1 đến 2 tỉ đồng trong vòng 3 tháng. Với các công ty đa quốc gia, con số trên thường gấp đôi hoặc hơn nữa. Những bất cập này dẫn đến rất thiệt thòi và nguy cơ cho doanh nghiệp như thực tế đã minh chứng trong thời gian vừa qua.
Việc thờ ơ với vấn đề thương hiệu thể hiện ngay ở việc đặt tên một cách tuỳ tiện cho doanh nghiệp, cho sản phẩm.
Đa số các doanh nghiệp Việt Nam khi mới thành lập đã không hiểu được rằng, tên doanh nghiệp chính là tên thương mại và có vai trò rất quan trọng trong việc khuyếch trương sản phẩm và phải bao hàm đầy đủ ý nghĩa, chức năng nhận biết, phân loại lĩnh vực kinh doanh, loại hình doanh nghiệp. Vì thế, không ít chủ doanh nghiệp đăng ký tên chỉ theo cảm hứng, sở thích cá nhân hoặc nhái tên các hãng nổi tiếng trên thế giới, thậm chí chạy theo mốt đặt tên doanh nghiệp bắt đầu bằng những chữ cái không có trong tiếng Việt như J, F, W... Điều này có thể ảnh hưởng không ít đến hoạt động của doanh nghiệp sau này. Ngay cả những công ty đã hoạt động lâu năm, sản phẩm có danh tiếng cũng không ý thức được tầm quan trọng của việc đăng ký tên thương mại nên khi xuất hiện một đối thủ khác có cái tên giống hệt họ cũng chẳng biết làm gì. Nói đơn giản như ở Hà Nội có một con phố nhỏ có tới 7-8 tiệm ốc Ông Già. Tiệm ốc xuất hiện đầu tiên cực chẳng đã đành phải thêm vào biển hiệu của mình cái tên Ông Gìa chính hiệu. Còn ở Đà Nẵng, khi nhà hàng Cây Bàng đã nổi tiếng lập tức có một nhà hàng với cái tên hệt như vậy xuất hiện để cạnh tranh. Theo ông Phạm Đình Chướng-cục trưởng Cục SHCN, hiện nay chưa có thống kê chính xác về các doanh nghiệp trùng tên trên địa bàn cả nước, nhưng chắc chắn là không nhỏ. Vì vậy, để tránh tổn hại cho doanh nghiệp mình, các doanh nghiệp nên ý thức việc đăng ký bảo hộ tên doanh nghiệp.
Vấn đề đặt tên doanh nghiệp đã vậy, việc đặt tên cho sản phẩm còn phức tạp, công phu hơn. Tại các nước có nền kinh tế phát triển, việc chọn một cái tên cho một sản phẩm mới là cả một công trình khoa học thu nhỏ. Nó cũng phải trải qua các bước nghiên cứu thẩm định... “Định vị sản phẩm” đã trở thành một chuyên ngành học ở một số quốc gia. “Chọn một cái tên cho sản phẩm mới khó hơn tìm tên cho đứa con mới chào đời”. Thế nhưng ở Việt Nam, việc đặt tên cho một sản phẩm có vẻ dễ dàng, đôi khi còn tuỳ tiện. Rất nhiều doanh nghiệp đã chọn cách ghép tên vợ con, hay chọn đại một cái tên nào đó cho sản phẩm của mình. Và đến khi doanh nghiệp phát triển, cái tên thủa ban đầu hoàn toàn không đáp ứng được vai trò của một thương hiệu dễ nhớ, tạo ấn tượng ngay từ lần đầu.”- ông Phạm Vũ Khánh Toàn - Giám đốc công ty Phạm và liên doanh, một công ty hàng đầu chuyên tư vấn về quyền SHTT đã phát biểu như vậy. Cách đây nhiều năm, tên của một loại tivi đã gây sửng sốt cho những người nước ngoài. Không sửng sốt sao được khi cái tên tivi ấy theo tiếng của họ có nghĩa là chất thaỉ của con người. Sau phát hiện ấn tượng ấy tất yếu loại tivi trên đã phải rút lui khỏi thị trường!
Việc đặt tên sản phẩm dễ phát âm cũng là vấn đễ quan trọng, điều đó sẽ tạo sự thuận lợi cho người tiêu dùng trong việc nhớ và nhắc tới sản phẩm và cả trong việc trao đổi, mua bán. Như trường hợp cà phê Trung Nguyên, “do chữ Nguyên rất khó phát âm đối người nước ngoài nên dù có ngon họ muốn khen hay giới thiêụ Trung Nguyên cho bạn bè cũng khó” ông Vũ Ngọc Long - một chuyên gia về quảng cáo góp ý.
Hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam chưa biết cách đặt tên thương hiệu như một công cụ tự bảo vệ mình chống lại việc người khác bắt chước. Nếu bạn sử dụng những từ thông dụng, khả năng phân biệt và nhận biết yếu để làm thương hiệu thì khả năng bị sao chép, bắt chước bao giờ cũng lớn hơn khi sử dụng một dấu hiệu đặc trưng hay một dấu hiệu đặc biệt. Như trường hợp của La Vie (nghĩa là cuộc sống) đã đành phải bất lực nhìn các đối thủ đăng ký thương hiệu La Ville (nghĩa là thành phố) hay La Vierge (nghĩa là trinh nữ) một cách đàng hoàng dù về mặt nào đó, người tiêu dùng hoàn toàn có thể nhầm lẫn khi nhận biết các thương hiệu trên.
Khi có tên cho doanh nghiệp và sản phẩm rồi thì việc tiếp theo của việc bảo vệ thương hiệu có vẻ rất dễ hiểu và đơn giản, đó là đến cục SHCH đăng ký bảo hộ và chờ được cấp văn bằng bảo hộ. Tuy nhiên việc này đến bây giờ cũng vẫn chưa phải đã được thực hiện ở tất cả các doanh nghiệp Việt Nam. Dù qua một số vụ thương hiệu Việt Nam bị xâm phạm ở cả trong nước và trên thế giới vừa qua, các doanh nghiệp Việt Nam đã quan tâm đến vấn đề thương hiệu nên do chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn thờ ơ chưa cho đấy là công việc cần làm của mình mà thương hiệu chỉ là vấn đề của các doanh nghiệp lớn. Tính đến 31/12/2001, Cục SHCN đã tiếp nhận 56.366 đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá (trong đó đơn của người Việt Nam là 45%, của người nước ngoài chiếm 55%). Từ đầu năm đến nay, cả nước có 5.335 đơn, trong đó có 3.889 đơn của các doanh nghiệp trong nước (Theo Báo Diễn đàn doanh nghiệp số 77-2002). Con số trên dẫu đáng nói nhưng cũng chỉ là muối bỏ bể so với hàng chục ngan doanh nghiệp đang hoạt động tại nước ta. Trong số ít ỏi các doanh nghiệp nước nhà tự nguyện đăng ký quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá của mình, số doanh nghiệp quốc doanh lại chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Dường như họ kinh doanh cho Nhà nước chứ đâu phải cho họ nên cũng chẳng cần qúa quan tâm đến sự thành bại của doanh nghiệp, cần gì phải quan tâm đến thương hiệu.
Vấn đề còn quan trọng, khó khăn, tốn kém hơn nhiều là việc củng cố, khuyếch trương, quảng bá thương hiệu. Trong khâu này doanh nghiệp Việt Nam vẫn bộc lộ sự non kém, thiếu kinh nghiệm của mình. Nhìn chung các chương trình khuyếch trương thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu tính nhạy bén so với chương trình của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vốn rất chuyên nghiệp trong lĩnh vực này. Chẳng hạn ngay sau khi có thông tin công bố trên báo chí về việc Honda công bố không chính xác về linh kiện xe máy sản xuất nội địa, VMEP, đối thủ của Honda đã tung ra chương trình khuyếch trương cho thương hiệu SYM với các phụ tùng chính hiệu như dây sên, bố thắng, bugi, bạc đạn siêu bền ma sát nhỏ, dầu nhớt, vỏ xe và piston...đều là các linh kiện quan trọng của xe gắn máy. Còn Raid, một nhãn hiệu của Johnson thì tung ra gần 1 tỷ đồng để chi cho chương trình khuyến mãi chỉ trong một thời gian rất ngắn, từ 8/7 đến 30/9/2002.
Chính vì thế, bên cạnh các chương trình khuếch trương thương hiệu thông thường, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ ngày càng phải nâng cao trình độ của các đợt khuyến mãi, giảm giá, quảng bá sao cho có hiệu quả cao nhất chuyên nghiệp nhất với chi phí hợp lý nhất nhưng không có nghĩa là giảm thấp nhất.
1.1.2 Vi phạm quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá, tên doanh nghiệp và hành động của các doanh nghiệp trước vấn đề này.
Hiện nay trên thị trường Việt Nam, tình trạng sản xuất và lưu thông hàng hoá vi phạm quyền SHCN có xu hướng ngày càng gia tăng, nhất là đối tượng là nhãn hiệu hàng hoá. Bất cứ mặt hàng gì, từ “thượng vàng” đến “hạ cám”, hàng gỉa đều có thể len vào được khiến các ban ngành chức năng không thể kiểm soát nổi. Theo báo cáo của Cục Quản lý thị trường chỉ tính riêng trong 3 năm, từ 1999 đến 2001, lực lượng quản lý thi trường cả nước đã kiểm tra, xử lý 9.307 vụ sản xuất, buôn bán hàng giả, trong đó có trên 50% số vụ liên quan đến SHTT, chủ yếu về nhãn hiệu hàng hoá.
Nhái nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng là loại hành vi phổ biến trên thị trường nước ta, được biểu hiện dưới nhiều hình thức như nhái tên, nhái bao bì, nhái mẫu mã.
Công ty Phát triển Việt Hiền- một công ty xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ đã làm đơn và được Cục SHCN cấp chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá cho nhãn hiệu “May” và “Furniture Gallery”. Tuy nhiên chỉ cách đây hai tháng, thông qua một khách hàng quen, công ty mới biết rằng, một công ty có văn phòng nằm gần với phòng giới thiệu sản phẩm của công ty mình, công ty Việt Hưng đã copy y chang hình ảnh, mẫu mã sản phẩm ghi rõ ràng cả những nhãn hiệu của Việt Hiền đưa lên website www.viethung hdc.com. Chưa hết, công ty này đã gửi thư chào hàng, giới thiệu sản phẩm và trang web này tới một khách hàng quen thuộc của Việt Hiền tại Mỹ. Ngay trong email, Việt Hưng đã cố tình nhập nhèm: lấy tên phó giám đốc công ty là Nguyễn Hồng Việt trong khi phó giám đốc của Việt Hiền là Nguyễn Hồng Vân .
Tuy nhiên đây chỉ là trường hợp một trong số rất nhiều sản phẩm đã đăng ký bảo hộ về nhãn hiệu hàng hoá bị xâm phạm. Công ty Bia Hà Nội đã đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá “bia Hà Nội”. Công ty bia T. đăng ký và được bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá “Summer”. Tuy nhiên khi trình bày lên vỏ chai, công ty T thể hiện nhãn hiệu “ Bia Summer Hà Nội” hoặc “Bia Summer sản xuất tại Hà Nội với dòng chữ “sản xuất tại” nhỏ hơn, chữ “Hà Nội” trình bày nổi bật. Việc làm này gây nhầm lẫn giữa hàng hoá cùng loại của các cơ sở sản xuất khác nhau và đó là hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá.
Thương hiệu bánh trung thu Đồng Khánh cũng chịu số phận tương tự. Mùa trung thu nào người tiêu dùng cũng bị chìm ngập trong biển nhãn hiệu Đồng Khánh và lực lượng quản lý thị trường cùng cảnh sát kinh tế phải triệt hạ bao la bánh giả, nhái hiệu Đồng Khánh. Biết bao bảng hiệu lập lờ ghi tên phụ mờ, nhỏ để tô đậm danh xưng chính. Nào là Đông Đồng Khánh, Tân Đồng Khánh...
Danh sách các thương hiệu bị xâm phạm trên thị trường nước ta còn rất dài, khó có thể liệt kê hết.
Hình thức xâm phạm thương hiệu phổ biến hiện nay chính là việc cố ý đặt tên doanh nghiệp na ná với các doanh nghiệp nổi tiếng, thậm chí ngang nhiên lấy nguyên tên của doanh nghiệp khác. Chắc chắn con số các doanh nghiệp có tên na ná nhau hay trùng nhau trên địa bàn cả nước là không nhỏ. Trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn dược phẩm và thiết bị y tế Lạng Sơn (vốn được tách ra từ công ty dược phẩm và vật tư y tế Lạng Sơn) với công ty cũ này là một ví dụ. Nhờ cái tên na ná với công ty đã thành lập cách đây nhiều năm, công ty mới này đã thu hút được nhiều khách hàng của công ty mẹ t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van - Thuong hieu.doc