Luận văn Vấn đề quản lý tài chính trong Bảo hiểm xã hội Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Tài liệu Luận văn Vấn đề quản lý tài chính trong Bảo hiểm xã hội Việt Nam: Thực trạng và giải pháp: LUẬN VĂN: Quản lý tài chính trong Bảo hiểm xó hội Việt Nam - Thực trạng và giải pháp mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng, đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thực hiện đối với người lao động ngay từ sau Cách mạng tháng Tám thành công. Chính sách đó đã từng bước được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử đấu tranh thống nhất Tổ quốc và xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bước sang thời kỳ đổi mới, để phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách BHXH đã được Nhà nước kịp thời điều chỉnh. Bộ Luật Lao động đã được Quốc hội khóa IX thông qua tại kỳ họp thứ V ngày 25/06/1994, quy định tại chương 12 về BHXH áp dụng với người lao động ở mọi thành phần kinh tế. Chính phủ đã ban hành Điều lệ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước (Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995) và đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến...

pdf121 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 950 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề quản lý tài chính trong Bảo hiểm xã hội Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Quản lý tài chính trong Bảo hiểm xó hội Việt Nam - Thực trạng và giải pháp mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng, đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thực hiện đối với người lao động ngay từ sau Cách mạng tháng Tám thành công. Chính sách đó đã từng bước được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử đấu tranh thống nhất Tổ quốc và xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bước sang thời kỳ đổi mới, để phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách BHXH đã được Nhà nước kịp thời điều chỉnh. Bộ Luật Lao động đã được Quốc hội khóa IX thông qua tại kỳ họp thứ V ngày 25/06/1994, quy định tại chương 12 về BHXH áp dụng với người lao động ở mọi thành phần kinh tế. Chính phủ đã ban hành Điều lệ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước (Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995) và đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng (Nghị định 45/CP ngày 15/07/1995). Để triển khai thực hiện chính sách, chế độ BHXH đối với người lao động theo các Nghị định trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức theo hệ thống dọc ba cấp là: Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Bảo hiểm xã hội quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu của hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam là tổ chức thu BHXH, giải quyết và chi trả các chế độ BHXH, thực hiện các hoạt động đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH; kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan có liên quan việc sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế độ BHXH cho phù hợp với tình hình đất nước trong từng giai đoạn. Qua 5 năm hoạt động, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tăng nhanh số đối tượng tham gia BHXH. Quỹ BHXH chủ yếu do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp tăng nhanh. Tổ chức chi trả các chế độ cho người lao động tương đối kịp thời, đảm bảo ổn định đời sống của người lao động khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mất sức lao động và nghỉ hưu; góp phần làm ổn định, an toàn xã hội; tạo ra sự công bằng, dân chủ và làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi đã tham gia các hoạt động đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã đem lại hiệu quả tương đối tốt. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình hoạt động đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế ngay trong chính sách, chế độ và tổ chức triển khai thực hiện. Vì vậy để thực hiện đúng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn đối với mọi người lao động tham gia và hưởng các chế độ BHXH; hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần phải tiếp tục cải tiến, hoàn thiện quản lý trên tất cả các hoạt động của toàn ngành, đặc biệt là công tác quản lý tài chính. Là người đã và đang tham gia trực tiếp quản lý trong lĩnh vực kế hoạch tài chính của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, tôi chọn đề tài " Quản lý tài chớnh trong Bảo hiểm xó hội Việt Nam - Thực trạng và giải phỏp " nghiên cứu để nhằm góp phần quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả các loại vốn, nguồn vốn và tài sản của Nhà nước, góp phần thúc đẩy BHXHVN phát triển ổn định, vững chắc. 2. Tình hình nghiên cứu Hoạt động của BHXH nói chung và quản lý tài chính BHXH nói riêng cũng đã có những công trình được công bố như: "Thực trạng quản lý thu Bảo hiểm xã hội hiện nay và các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, mã số 96-01-01/ ĐT, chủ nhiệm đề tài là TS. Nguyễn Văn Châu; "Thực trạng và định hướng hoàn thiện tác nghiệp chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội hiện nay", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, mã số 96-03-03/ĐT, chủ nhiệm đề tài là TS Dương Xuân Triệu. "Quản lý tài chính Bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Nghệ An", Luận văn Thạc sĩ kinh tế của tác giả Trần Quốc Toàn - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 1999... và nhiều bài báo của nhiều nhà nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí khoa học (xem thêm phần phụ lục các tài liệu tham khảo của luận văn). Các công trình trên đã đề cập khá nhiều vấn đề có liên quan đến hoạt động BHXH, nhưng chưa đề cập toàn diện, chưa phân tích, đánh giá sâu nội dung và phương thức quản lý tài chính của BHXHVN. Để thực hiện đề tài, tác giả đã tham khảo, kế thừa có chọn lọc những công trình trên, kết hợp với khảo sát thực tiễn, phân tích, đánh giá để đề xuất những giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính trong BHXHVN. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn Mục đích: Xác định những nội dung quản lý tài chính trong BHXHVN. Phân tích đánh giá quá trình đổi mới phương thức quản lý tài chính qua các giai đoạn, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính trong BHXHVN. Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động BHXH và quản lý tài chính trong BHXHVN. - Phân tích đánh giá thực trạng quản lý tài chính trong Bảo hiểm xã hội Việt Nam để tìm ra những tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân. - Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện quản lý tài chính trong BHXHVN. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu quản lý tài chính trong BHXHVN, thời gian chủ yếu từ năm 1995 đến năm 2000. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối chủ trương chính sách của Đảng được đề ra trong các kỳ đại hội VI, VII, VIII và IX về lĩnh vực kinh tế - xã hội. Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, hệ thống, khái quát, đối chiếu và so sánh, thống kê để đánh giá và làm sáng tỏ các vấn đề cần quan tâm. 6. Cái mới về mặt khoa học của luận văn - Luận văn làm rõ thêm cơ sở khoa học về khái niệm, bản chất, vai trò của BHXH cũng như vấn đề quản lý tài chính trong BHXH Việt Nam. - Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý tài chính trong BHXHVN, đề xuất mục tiêu, quan điểm và những giải pháp khả thi nhằm hoàn thiện quản lý tài chính trong BHXHVN. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết. Chương 1 những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội và quản lý tài chính trong Bảo hiểm xã hội Việt Nam 1.1. Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội 1.1.1. Khái niệm, bản chất bảo hiểm xã hội 1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội Trong hoạt động của đời sống xã hội cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoài những biến cố đã được con người tính toán khoa học và được dự báo trước; con người luôn luôn phải đối mặt với những rủi ro bất ngờ có thể xảy ra do rất nhiều nguyên nhân như: thiên tai (bão lụt, động đất, hạn hán, hỏa hoạn...), tai nạn giao thông (máy bay, tàu thủy, tàu hỏa, ô tô, xe máy...), tai nạn trong lao động sản xuất, ốm đau, dịch bệnh... Những bất trắc, rủi ro đó đã gây ra và đem đến cho con người những tổn thất, hậu quả to lớn cả về mặt kinh tế, lẫn môi trường sinh thái và môi trường xã hội. Chính vì vậy mà con người đã phải đưa ra nhiều biện pháp để phòng ngừa, hạn chế và khắc phục những biến cố rủi ro đó. Những biện pháp phòng ngừa, né tránh và hạn chế rủi ro thường được con người chủ động đưa ra các quy định cụ thể (bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư...) trong từng lĩnh vực quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đời sống sinh hoạt xã hội để buộc mọi đơn vị, mọi tổ chức và mọi thành viên trong xã hội phải tuân thủ thực hiện. Chẳng hạn như để phòng, chống lụt bão, Nhà nước ban hành Luật về đê điều; để đề phòng tai nạn giao thông, Nhà nước ban hành Luật Giao thông đường bộ, đường thủy, đường hàng không... Mặt khác, theo quy luật sinh học thì hầu như mọi người thường phải trải qua các giai đoạn là: con người ta được sinh ra, được nuôi dưỡng đến lúc trưởng thành; lao động cống hiến sức lực, trí tuệ cho xã hội, cho gia đình; tiếp đến là giai đoạn hết tuổi lao động được xã hội, gia đình và lớp người tiếp theo chăm sóc cho đến khi chết. Như vậy là trong toàn bộ cuộc đời, con người không phải lúc nào cũng có đủ sức khỏe và cơ hội lao động để có thu nhập. Trong khi đó con người luôn luôn cần phải có những nhu cầu sinh hoạt về mặt vật chất và tinh thần. Vì vậy, mỗi người lao động và xã hội cần thiết phải có một nguồn lực tài chính dự trữ để kịp thời cung cấp đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần không những cho bản thân mình, mà còn cho cả những người mình phải trực tiếp nuôi dưỡng và cho những người gặp phải những biến cố rủi ro (kể cả ngẫu nhiên và tất yếu) trong đời sống xã hội. Thông thường người ta có hai nhóm các biện pháp khắc phục rủi ro là các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. Chấp nhận rủi ro là người gặp phải rủi ro phải chấp nhận khoản tổn thất đó, tự bản thân họ phải tự bảo hiểm cho mình. Họ có thể chủ động lập quỹ dự trữ, dự phòng trước để bù đắp, khắc phục những tổn thất do biến cố rủi ro gây nên; hoặc cũng có thể đi vay ngân hàng, các tổ chức tài chính để bù đắp tổn thất trong trường hợp không lập quỹ dự trữ, dự phòng trước. Bảo hiểm là chế độ bồi thường kinh tế, là sự chuyển giao, san sẻ rủi ro giữa những người cùng tham gia bảo hiểm trên cơ sở những nguyên tắc, chuẩn mực đã được thống nhất và quy định trước. Nhằm đảm bảo an toàn, ổn định sản xuất và đời sống kinh tế - xã hội của những người tham gia bảo hiểm và cộng đồng xã hội. Bảo hiểm là công cụ quan trọng và có hiệu quả nhất để khắc phục hậu quả tổn thất khi xảy ra rủi ro. Mục đích của bảo hiểm là góp phần làm ổn định, an toàn kinh tế cho mọi người, mọi tổ chức và mọi đơn vị có tham gia bảo hiểm, đảm bảo an toàn xã hội; đồng thời tạo ra nguồn vốn quan trọng để tham gia đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bảo hiểm xã hội đã xuất hiện và phát triển theo cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nhân loại. Theo Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) thì nước Phổ (nay là Cộng hòa Liên bang Đức) là nước đầu tiên trên thế giới ban hành chế độ bảo hiểm ốm đau vào năm 1883, đánh dấu sự ra đời của BHXH. Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đã thực hiện chính sách BHXH và coi nó là một trong những chính sách xã hội quan trọng nhất trong hệ thống chính sách bảo đảm xã hội. Mặc dù đã có quá trình phát triển tương đối dài, nhưng cho đến nay còn có nhiều khái niệm về BHXH, chưa có khái niệm thống nhất. Trong đề tài này, có thể hiểu BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động, mất việc làm, chết; gắn liền với quá trình tạo lập một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành bởi các bên tham gia BHXH đóng góp và việc sử dụng quỹ đó cung cấp tài chính nhằm đảm bảo mức sống cơ bản cho bản thân người lao động và những người ruột thịt (bố, mẹ, vợ/ chồng, con) của người lao động trực tiếp phải nuôi dưỡng, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Ngày 4 tháng 6 năm 1952, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) ban hành Công ước số 102 về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội, trong đó có quy định 9 chế độ trợ cấp, đó là: 1. Chăm sóc y tế; 2. Trợ cấp ốm đau; 3. Trợ cấp thất nghiệp; 4. Trợ cấp tuổi già (hưu bổng); 5. Trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp; 6. Trợ cấp gia đình; 7. Trợ cấp thai sản; 8. Trợ cấp tàn tật; 9. Trợ cấp tiền tuất. Đồng thời Tổ chức Lao động Quốc tế cũng khuyến nghị các nước thành viên phải thực hiện ít nhất là 3 chế độ trong các chế độ nói trên. Trong ba chế độ đó thì phải có ít nhất 1 chế độ là các chế độ 3, 4, 5, 8 và 9 [9, tr. 123-142]. 1.1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội Bất kỳ một nhà nước nào trên thế giới cũng phải thừa nhận rằng sự nghèo khổ của người dân do ốm đau, tai nạn rủi ro, thất nghiệp, tật nguyền bẩm sinh... gây ra không chỉ là trách nhiệm của bản thân cá nhân, của gia đình, của những người thân của họ mà còn phải là trách nhiệm của nhà nước và của cộng đồng xã hội. Cùng với quá trình phát triển, tiến bộ của loài người, BHXH được coi là một chính sách xã hội quan trọng của bất kỳ nhà nước nào, nhằm bảo đảm an toàn cho sản xuất, cho đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người trong xã hội. Với tư cách là công cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội, nhà nước phải can thiệp và tổ chức bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động, đặc biệt là để giải quyết mối quan hệ thuê mướn lao động giữa chủ và thợ. Yêu cầu giới chủ phải thực hiện những cam kết đảm bảo điều kiện làm việc và nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần cho giới thợ, trong đó có nhu cầu về tiền lương, về chăm sóc y tế, về chăm sóc khi bị ốm đau, tai nạn, trả lương khi người lao động đến tuổi hưu... Đồng thời bản thân người lao động cũng phải có trách nhiệm giành một khoản thu nhập để chi trả cho bản thân mình khi có những rủi ro xảy ra. Mặt khác, nhà nước được coi như là một người chủ sử dụng lao động của mọi người lao động, vì vậy trong trường hợp sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động không đủ để trang trải cho những khoản chi cho người lao động khi họ gặp phải rủi ro thì nhà nước phải có trách nhiệm dùng ngân sách của nhà nước để bảo đảm đời sống cơ bản cho người lao động. Như vậy, BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một nhu cầu khách quan. Nền kinh tế hàng hóa càng phát triển, việc thuê mướn lao động trở nên phổ biến thì càng đòi hỏi sự phát triển và đa dạng của BHXH. Nền kinh tế hàng hóa phát triển là nền tảng, là cơ sở của BHXH. BHXH được hình thành trên cơ sở quan hệ lao động, giữa các bên cùng tham gia và được hưởng BHXH. Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan chuyên trách, thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH. Chủ sử dụng và người lao động có trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ BHXH. Người lao động (bên được BHXH) và gia đình của họ được cung cấp tài chính từ quỹ BHXH khi họ có đủ điều kiện theo chế độ BHXH quy định. Đó chính là mối quan hệ của các bên tham gia BHXH. Phân phối trong BHXH là phân phối không đều, nghĩa là không phải ai tham gia BHXH cũng được phân phối với số tiền giống nhau. Phân phối trong BHXH vừa mang tính bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. Những biến cố xảy ra mang tính tất nhiên đối với con người là thai sản (đối với lao động nữ), tuổi già và chết, trong trường hợp này, BHXH phân phối mang tính bồi hoàn vì người lao động đóng BHXH chắc chắn được hưởng khoản trợ cấp đó. Còn trợ cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm, những rủi ro xảy ra trái ngược với ý muốn của con người như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, là sự phân phối mang tính không bồi hoàn; có nghĩa là chỉ khi nào người lao động gặp phải tổn thất do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp... thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó. BHXH hoạt động theo nguyên tắc "cộng đồng – lấy số đông bù cho số ít" tức là dùng số tiền đóng góp nhỏ của số đông người tham gia BHXH để bù đắp, chia sẻ cho một số ít người với số tiền lớn hơn so với số đóng góp của từng người, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro gây tổn thất. Hoạt động BHXH là một loại hoạt động dịch vụ công, mang tính xã hội cao; lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động BHXH là quá trình tổ chức, triển khai thực hiện các chế độ, chính sách BHXH của tổ chức quản lý sự nghiệp BHXH đối với người lao động tham gia và hưởng các chế độ BHXH. Là quá trình tổ chức thực hiện các nghiệp vụ thu BHXH đối với người sử dụng lao động và người lao động; giải quyết các chế độ, chính sách và chi BHXH cho người được hưởng; quản lý quỹ BHXH và thực hiện đầu tư bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH. Nghiên cứu về sự giống và khác nhau giữa BHXH và bảo hiểm thương mại sẽ làm rõ hơn bản chất của BHXH. Bảo hiểm thương mại là biện pháp chia sẻ tổn thất về mặt tài chính của một hay một số ít người gặp phải một hay một số loại rủi ro nào đó, được bù đắp bởi một quỹ tiền tệ tập trung hình thành từ sự đóng góp của những người tham gia bảo hiểm cũng có khả năng gặp phải rủi ro đó, thông qua hoạt động quản lý của các nhà kinh doanh bảo hiểm. Hoạt động của bảo hiểm thương mại theo nguyên tắc có tham gia bảo hiểm mới được hưởng quyền bảo hiểm, đó là hoạt động kinh doanh kiếm lợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, tuân thủ theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, lời ăn, lỗ chịu. Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm [52, tr. 9]. Bảo hiểm thương mại có những đặc điểm khác với BHXH ở một số nội dung sau: - Phạm vi hoạt động của bảo hiểm thương mại rất rộng, có mặt ở tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; không chỉ bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ một nước mà còn trải rộng xuyên quốc gia. Tuy bảo hiểm thương mại có nhiều loại nghiệp vụ bảo hiểm nhưng xét theo phương thức quản lý có thể chia thành hai nhóm nghiệp vụ bảo hiểm, đó là bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. "Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết", "bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ" [52, tr. 11- 12] - Đối tượng tham gia bảo hiểm thương mại là tất cả mọi đơn vị, tổ chức và mọi công dân không phân biệt tuổi tác, giới tính, dân tộc, màu da, có thu nhập hay không có thu nhập, tình trạng sức khỏe… tự nguyện lựa chọn, tham gia bảo hiểm và phải nộp phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. - Thời hạn có hiệu lực điều chỉnh quan hệ giữa đối tượng tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm thường là có thời hạn và ngắn (một số năm hoặc theo một chu kỳ hoạt động của đối tượng tham gia bảo hiểm); chẳng hạn như bảo hiểm tai nạn giao thông các phương tiện vận tải thường là một năm; bảo hiểm một chuyến vận chuyển, chuyến du lịch, bảo hiểm gieo trồng, chăn nuôi … thường là theo một chu kỳ hoạt động, kinh doanh của đối tượng. - Đối tượng tham gia bảo hiểm thương mại có thể tự chọn các sản phẩm bảo hiểm do các doanh nghiệp bảo hiểm bán ra, với mức được bù đắp, bồi thường theo từng mức phí đóng góp và những điều kiện cụ thể khác của đối tượng như: tình trạng tài sản, tình trạng về sức khỏe, giới tính, điều kiện môi trường, lao động, sinh hoạt … - Đối tượng tham gia bảo hiểm chỉ được bồi thường thiệt hại khi xảy ra rủi ro đối với họ. Mức độ bồi thường nhiều hay ít phụ thuộc vào mức phí đóng góp và mức độ tổn thất thực tế được quy định trong hợp đồng bảo hiểm. Không có liên quan gì đến thu nhập của họ có hay không và nhiều hay ít. Bảo hiểm thương mại chỉ bù đắp được một phần tổn thất khó khăn tạm thời, cấp bách cho người được hưởng bảo hiểm. BHXH và bảo hiểm thương mại có tính chất, đối tượng, phương thức và mục đích hoạt động khác nhau, nhưng giữa chúng có những nguyên lý hoạt động mang tính phổ biến và nhất quán, mà bất kỳ loại hình bảo hiểm nào khi hoạt động cũng phải tuân thủ, đó là: Thứ nhất, bảo hiểm là một hình thức hoạt động nhằm phân tán rủi ro, hỗ trợ lẫn nhau giữa những đơn vị, cá nhân cùng tham gia bảo hiểm thực hiện theo nguyên tắc "cộng đồng – lấy số đông bù cho số ít". Vì vậy, dịch vụ bảo hiểm cần phải có đông người tham gia mới đạt được mục đích phân tán rủi ro, tổn thất. Số người tham gia bảo hiểm càng đông thì mức độ tổn thất được phân tán càng rộng, mức độ gánh chịu tổn thất của từng thành viên càng ít hơn. Hình thành được quỹ bảo hiểm tập trung càng lớn, mức độ an toàn quỹ bảo hiểm càng cao, đảm bảo đủ nguồn lực tài chính đáp ứng yêu cầu chi trả càng kịp thời, đầy đủ hơn cho người được thụ hưởng. Thứ hai, quỹ bảo hiểm được hình thành từ sự đóng góp của những đối tượng tham gia bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm phải được tính toán một cách khoa học dựa trên quy luật số lớn để xác định mức đóng góp của đối tượng tham gia và mức hưởng thụ do quỹ phải chi trả; sao cho quỹ bảo hiểm phải được ổn định, vững chắc trong bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn phải đảm bảo đủ nguồn lực tài chính để chi trả kịp thời, đầy đủ các khoản bồi thường, trợ cấp cho đối tượng được thụ hưởng. Thứ ba, quỹ bảo hiểm được quản lý và sử dụng theo chế độ tài chính và luật pháp của nhà nước quy định. Quỹ bảo hiểm tạm thời nhàn rỗi được thực hiện các hoạt động đầu tư vừa góp phần cung cấp nguồn vốn để phát triển nền kinh tế - xã hội; vừa để bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Khi thực hiện hoạt động đầu tư quỹ phải đảm bảo an toàn; hạn chế rủi ro, thất thoát quỹ đến mức thấp nhất, đạt hiệu quả kinh tế - xã hội và đảm bảo khả năng thanh toán linh hoạt. 1.1.2. Vai trò của chính sách bảo hiểm xã hội 1.1.2.1. Vai trò của bảo hiểm xã hội Hoạt động của BHXH là hoạt động sự nghiệp vì lợi ích chung của toàn xã hội, phục vụ cho mọi thành viên trong xã hội, lợi nhuận không phải là mục tiêu của hoạt động BHXH. Do đó, BHXH có vai trò to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của con người, được thể hiện trên các mặt sau: - BHXH góp phần ổn định đời sống của người tham gia BHXH, đảm bảo an toàn xã hội. Những người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm, chết. Việc thay thế hoặc bù đắp chắc chắn sẽ xảy ra đối với mọi người lao động tham gia BHXH đến khi họ hết tuổi lao động được hưởng lương hưu hoặc khi họ chết (được hưởng tiền tuất, mai táng phí). Việc bù đắp cũng chỉ xảy ra đối với một số người đối với một số chế độ bảo hiểm còn lại như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm... Nhờ có sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động nhanh chóng khắc phục được những tổn thất vật chất, sớm phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình lao động, hoạt động bình thường của bản thân. Đây là vai trò cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và phương thức hoạt động của BHXH. - BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. Phân phối trong BHXH là sự chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân phối lại giữa những người có thu nhập cao, thấp khác nhau theo xu hướng có lợi cho những người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy, BHXH góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. - BHXH góp phần phòng tránh và hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn cho sản xuất và đời sống xã hội của con người. Để thực hiện có hiệu quả các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị, tổ chức kinh tế đề ra các quy định chặt chẽ về an toàn lao động, về vệ sinh công nghiệp bắt buộc mọi người lao động phải tuân thủ. Quỹ BHXH kịp thời hỗ trợ cho người lao động khi có rủi ro xảy ra đối với họ; đồng thời hỗ trợ cho người lao động được nghỉ ngơi, điều dưỡng để nâng cao sức khỏe. - BHXH còn làm cho mối quan hệ giữa người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước ngày càng gắn bó. Thông qua hoạt động của BHXH, người lao động có trách nhiệm hơn trong công việc, họ tích cực lao động, tạo ra năng suất lao động cao hơn. Bởi vì chính người sử dụng lao động đã tham gia đóng góp BHXH chỉ để cho người lao động được hưởng các chế độ BHXH. Đối với người sử dụng lao động, khi họ có trách nhiệm thực hiện đóng góp BHXH để người lao động được hưởng thì tạo ra một niềm tin yêu của người lao động đối với người sử dụng lao động, khuyến khích người lao động phấn khởi, yên tâm, nhiệt tình trong công tác, gắn bó với người sử dụng lao động hết đời này sang đời khác. Đối với nhà nước thông qua việc tổ chức hoạt động BHXH đã đảm bảo cho mọi người lao động, mọi tổ chức, mọi đơn vị bình đẳng, công bằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đời sống xã hội, góp phần làm cho sản xuất ổn định, nền kinh tế, chính trị và xã hội phát triển và an toàn. - BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Xét về phương diện tài chính thì BHXH là các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung; quỹ được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước; quỹ được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động và gia đình họ, một phần dùng để chi quản lý sự nghiệp BHXH. Hầu hết các nước trên thế giới đều thiết kế mô hình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH theo nguyên tắc tồn tích và có tính chuyển dịch thu nhập giữa mọi người tham gia BHXH và qua các thế hệ. Một số ít nước thiết kế theo nguyên tắc "tọa thu, tọa chi". Do tính chất hoạt động của bảo hiểm là các biến cố rủi ro phát sinh không đều về thời gian. Vì vậy, ngay trong mô hình quỹ được thiết kế theo nguyên tắc "tọa thu, tọa chi" thì trong một khoảng thời gian nhất định, quỹ BHXH vẫn có số dư tạm thời nhàn rỗi. Đặc biệt là quỹ BHXH thiết kế theo nguyên tắc tồn tích thì luôn luôn có số dư tạm thời nhàn rỗi rất lớn. Đây chính là một nguồn vốn trong nước rất quan trọng, được hình thành từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, là sự "tiết kiệm tạm thời" trong chi tiêu tạo ra được một nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế của đất nước. Nguồn vốn này càng trở nên rất quan trọng đối với những nước đang thiếu nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn trong nước; mà nguồn vốn là một trong những yếu tố quan trọng của sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Điều kiện quan trọng để người lao động được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi về BHXH, ngoài việc người lao động phải đóng góp thì người sử dụng lao động cũng phải đóng góp đầy đủ vào quỹ BHXH. Điều đó đã làm cho người lao động gắn bó với người sử dụng lao động hơn, làm cho quá trình sản xuất được ổn định, bền vững, có năng suất cao hơn, tạo ra nhiều của cải hơn cho xã hội và tích lũy xã hội cao hơn. Mặt khác, khi chính sách BHXH được áp dụng đối với mọi người lao động sẽ tạo ra được một sự phân công lao động xã hội hợp lý, có hiệu quả, tạo ra được một thị trường lao động năng động. Bởi vì người lao động có thể làm việc ở bất cứ đơn vị nào, thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình sở hữu thì họ vẫn được quyền tham gia và hưởng thụ tất cả mọi chế độ về BHXH. Chính điều đó tạo điều kiện cho người lao động và người sử dụng lao động được tự do thỏa thuận về điều kiện làm việc phù hợp với nhu cầu, trình độ, nghề nghiệp, tay nghề, thu nhập với từng người lao động. Đó là những yếu tố quan trọng vừa để khai thác, sử dụng triệt để nguồn lực lao động; vừa để nâng cao hiệu suất công tác, năng suất lao động, tiết kiệm chi phí xã hội (về đào tạo, các nguồn lực khác…), làm tăng của cải vật chất và tăng tích lũy cho nền kinh tế. 1.1.2.2. Vai trò của chính sách BHXH trong hệ thống chính sách xã hội Chính sách xã hội là tổng thể những tư tưởng, những quan điểm, những phương thức, giải pháp và công cụ của Nhà nước mà thông qua đó Nhà nước quản lý, tác động lên các chủ thể, các đối tượng là những tổ chức và mọi thành viên trong xã hội, nhằm xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Chính sách xã hội có phạm vi tác động rất rộng lớn, tác động đến mọi mặt đời sống của con người. Tùy theo điều kiện, đặc điểm, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa của từng nước trong từng giai đoạn mà ở đó nhà nước có thể ban hành những chính sách cụ thể về xã hội. Có thể kể đến một số chính sách, đó là: chính sách về giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, dân số, bảo vệ bà mẹ trẻ em, xóa đói giảm nghèo, chính sách ưu đãi xã hội, chính sách cứu trợ, chính sách việc làm và tiền lương, chính sách bảo đảm xã hội (trong đó chính sách BHXH giữ vai trò nòng cốt)... Tất cả các chính sách đó cùng được vận hành hòa quyện với nhau, tác động qua lại và làm tiền đề cho nhau. Nhằm mục tiêu vì sự tồn tại, phát triển, hoàn thiện về cuộc sống vật chất, tinh thần ngày càng tốt hơn của mỗi con người và của cả cộng đồng xã hội. Theo quan niệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: "Chính sách BHXH là những quy định chung của nhà nước gồm những chủ trương, những định hướng lớn về các vấn đề cơ bản của BHXH, như mục tiêu, đối tượng, phạm vi và chế độ trợ cấp, các nguồn đóng góp, cách thức tổ chức thực hiện các chế độ BHXH" [10, tr. 44]. Trong hệ thống chính sách xã hội thì chính sách BHXH có vị trí và vai trò quan trọng, có mối quan hệ tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau với các chính sách xã hội khác để giải quyết các vấn đề có liên quan đến con người. Chẳng hạn như với chính sách việc làm và tiền lương; khi mọi người lao động đều có việc làm, có thu nhập ổn định thì số người lao động tham gia BHXH càng đông hơn. Khi thu nhập của họ tăng lên, tất yếu mức đóng góp vào quỹ BHXH cũng tăng lên, tạo ra nền tảng vững chắc cho quỹ BHXH ổn định lâu dài, đảm bảo đủ nguồn lực tài chính phục vụ kịp thời nhu cầu chi trả trở lại cho người lao động và gia đình của họ khi gặp rủi ro. Đồng thời tạo ra được một quỹ BHXH lớn tạm thời nhàn rỗi để đầu tư phát triển mở rộng, hiện đại hóa sản xuất. Chính đến lúc này, chính sách BHXH lại tác động trở lại chính sách lao động và tiền lương là việc mở rộng và hiện đại hóa sản xuất sẽ tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, có năng suất lao động cao hơn dẫn đến thu nhập của người lao động càng tăng thêm. Đó là sự tác động, hỗ trợ lẫn nhau giữa chính sách việc làm và thu nhập với chính sách BHXH. 1.1.2.3. Mối quan hệ giữa chính sách BHXH với chính sách bảo đảm xã hội Đảm bảo xã hội được hiểu là sự bảo vệ của xã hội đối với tất cả mọi thành viên trong xã hội, được thực hiện thông qua một loạt các biện pháp công cộng để trợ giúp sự giảm sút, hẫng hụt đột ngột về kinh tế - xã hội của con người, do bị suy giảm, mất việc làm, thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh... gây ra. Con người trong suốt cuộc đời có thể gặp rất nhiều rủi ro bất ngờ do suy giảm hay mất khả năng lao động, mất việc làm, do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, hậu quả do chiến tranh để lại … Phạm vi và mục tiêu của bảo đảm xã hội rất rộng lớn, không chỉ đối với mọi thành viên trong một quốc gia mà còn đối với cả cộng đồng quốc tế. Nguyên tắc hoạt động của hệ thống bảo đảm xã hội dựa trên cơ sở đảm bảo sự bảo vệ, công bằng, đoàn kết, hỗ trợ, không chỉ đơn giản là sự thay thế hoặc bù đắp thu nhập; mà đó là sự chuyển dịch thu nhập mang tính chất xã hội; để phân phối lại tài chính và dịch vụ có lợi nhất cho những thành viên gặp những bất hạnh, rủi ro trong cộng đồng xã hội. Nguồn tài chính để thực hiện quá trình phân phối lại đó được hình thành từ sự tự đóng góp của chính những người được bảo vệ, của Ngân sách Nhà nước, của các tổ chức, cá nhân từ thiện, nhân đạo của quốc gia hoặc quốc tế. Tùy theo quan niệm và điều kiện lịch sử, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà hệ thống bảo đảm xã hội được hình thành và có những cơ chế bảo vệ và sự quản lý điều hành khác nhau. Nhưng có thể hiểu một số cơ chế bảo vệ trong hệ thống bảo đảm xã hội đó là: Một là, BHXH là chế độ và biện pháp mà nhà nước và xã hội áp dụng nhằm bảo vệ quyền lợi cho bản thân người lao động và gia đình họ khi người lao động giảm hoặc mất thu nhập do bị suy giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, trên cơ sở hình thành một quỹ tiền tệ tập trung từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, sự hỗ trợ và bảo trợ của nhà nước. BHXH được coi là trụ cột quan trọng nhất trong hệ thống chính sách bảo đảm xã hội, vì nó đem lại một nguồn thu nhập ổn định để thay thế hoặc bù đắp trong trường hợp thu nhập của người lao động bị giảm, bị gián đoạn hoặc mất hẳn. Hai là, ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt về vật chất và tinh thần của nhà nước và của xã hội đối với những người đã cống hiến công lao, sức lực to lớn cho xã hội, cho đất nước. Đó là những người đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Là những liệt sĩ, là những thương binh, bệnh binh, những người có công với cách mạng, với dân tộc, với đất nước. Đây là một chế độ đặc biệt quan trọng đối với những đất nước, những dân tộc mà ở đó có cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Là một chế độ hợp với đạo lý "ăn quả nhớ kẻ trồng cây", "uống nước nhớ nguồn", đền ơn đáp nghĩa. Tuyệt nhiên không được hiểu ưu đãi xã hội là sự bố thí, ban ơn của một nhóm người này với một nhóm người khác mà đó là một chính sách xã hội quan trọng nhằm bảo vệ, đảm bảo sự công bằng xã hội đối với những người đã có công lao to lớn đối với xã hội, đối với đất nước. Ba là, cứu trợ xã hội được hiểu là sự giúp đỡ của xã hội và của nhà nước đối với mọi thành viên của xã hội khi họ gặp phải rủi ro, nghèo đói, thiên tai, hỏa hoạn, bệnh tật, neo đơn, không đủ khả năng để tự lo cuộc sống tối thiểu, nhằm tạo điều kiện cho họ vượt qua sự nghèo khó, vươn lên đảm bảo được mức sống bình thường tối thiểu. Bốn là, phúc lợi xã hội được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu, lợi ích về kinh tế và văn hóa cho tất cả mọi thành viên trong xã hội; hay nói một cách khác là làm cho mọi thành viên trong xã hội đều được hưởng lợi ích về kinh tế và văn hóa, giáo dục, xã hội; để hạn chế sự cách biệt giữa những vùng lãnh thổ (thành thị và nông thôn), giữa các tầng lớp dân cư có thu nhập và điều kiện sống cao, thấp khác nhau. 1.2. Quản lý tài chính trong Bảo hiểm xã hội Việt Nam Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đưa ra để giải quyết những mối quan hệ kinh tế - xã hội rất cụ thể. Nó được điều chỉnh bằng một hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nước, quy định rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của Nhà nước, của người sử dụng lao động và người lao động. Điều lệ Bảo hiểm xã hội đã ghi rõ: Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về bảo hiểm xã hội: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan của Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội; xây dựng và trình ban hành pháp luật về bảo hiểm xã hội; ban hành các văn bản pháp quy về bảo hiểm xã hội thuộc thẩm quyền, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện bảo hiểm xã hội. Chính phủ thành lập hệ thống tổ chức bảo hiểm xã hội thống nhất để quản lý quỹ và thực hiện các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật đối với người lao động. Người lao động có quyền: - Được nhận Sổ bảo hiểm xã hội; - Được nhận lương hưu hoặc trợ cấp kịp thời, đầy đủ, thuận tiện khi có đủ điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều lệ này; - Khiếu nại với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi người sử dụng lao động hoặc tổ chức bảo hiểm xã hội có hành vi vi phạm Điều lệ bảo hiểm xã hội. Người lao động có trách nhiệm: - Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định; - Thực hiện đúng các quy định về việc lập hồ sơ để hưởng chế độ bảo hiểm xã hội. - Bảo quản, sử dụng sổ bảo hiểm xã hội và hồ sơ về bảo hiểm xã hội đúng quy định Người sử dụng lao động có quyền: - Từ chối thực hiện những yêu cầu không đúng quy định của Điều lệ bảo hiểm xã hội; - Khiếu nại với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi cơ quan bảo hiểm xã hội có hành vi vi phạm Điều lệ bảo hiểm xã hội. Người sử dụng lao động có trách nhiệm: - Đóng bảo hiểm xã hội đúng quy định; - Trích tiền lương của người lao động để đóng bảo hiểm xã hội đúng quy định. - Xuất trình các tài liệu, hồ sơ và cung cấp thông tin liên quan khi có kiểm tra, thanh tra về bảo hiểm xã hội của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cơ quan Bảo hiểm xã hội có quyền: - Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy định để quản lý việc thu, chi về bảo hiểm xã hội và để xác nhận các đối tượng được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều lệ này; - Tổ chức phương thức quản lý bảo hiểm xã hội để đảm bảo thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội có hiệu quả; - Tuyên truyền, vận động để mọi người tham gia thực hiện bảo hiểm xã hội; - Từ chối việc chi trả chế độ bảo hiểm xã hội cho các đối tượng được hưởng bảo hiểm xã hội khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi man trá làm giả hồ sơ tài liệu. Cơ quan Bảo hiểm xã hội có trách nhiệm: - Tổ chức thu, quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội đúng quy định; - Thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội đúng quy định tại Điều lệ này; - Tổ chức việc trả lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội kịp thời, đầy đủ, thuận tiện; - Giải quyết các tranh chấp, khiếu nại bảo hiểm xã hội; - Thông báo định kỳ hàng năm về tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người sử dụng lao động và người lao động" [21]. Như vậy, để thực hiện chính sách BHXH, Bảo hiểm xã hội Việt Nam phải thực hiện rất nhiều nội dung quản lý, nhưng xét về phương diện tài chính, Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện quản lý các nội dung sau: 1.2.1. Quản lý thu BHXH Quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn như: đóng góp của người sử dụng lao động và đóng góp của người lao động; Nhà nước đóng và hỗ trợ; tiền lãi thu được từ hoạt động đầu tư và tăng trưởng quỹ đem lại; tiền tài trợ và viện trợ của trong và ngoài nước; các khoản thu khác (nếu có). Trong các nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội nói trên, nguồn do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp là quan trọng, chủ yếu nhất. Nhưng quá trình quản lý sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động cũng phức tạp và khó khăn nhất. Vì vậy, trong nội dung này luận văn tập trung nghiên cứu công tác quản lý sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động vào quỹ bảo hiểm xã hội (sau đây gọi tắt là công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội). Công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội chủ yếu tập trung vào ba nội dung, đó là: 1.2.1.1. Quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội Các đối tượng phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và phải đóng bảo hiểm xã hội bao gồm cả người sử dụng lao động và bản thân người lao động (kể cả người lao động được cử đi học, đi thực tập, công tác và điều dưỡng ở trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công của cơ quan và đơn vị) làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế - xã hội dưới đây: - Các doanh nghiệp nhà nước; - Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp; các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế đặt tại Việt Nam (trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác); - Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên; - Các cơ quan hành chính sự nghiệp, các cơ quan Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện; - Các tổ chức kinh doanh, dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể; - Các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ trong lực lượng vũ trang; - Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đóng cho quân nhân, công an nhân dân thuộc diện hưởng lương và hưởng sinh hoạt phí theo Điều lệ Bảo hiểm xã hội đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân ban hành kèm theo Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ; - Cán bộ xã, phường, thị trấn hưởng sinh hoạt phí tại khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 3 Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ; - Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài đóng cho người lao động theo Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/09/1999 của Chính phủ. Để thực hiện tốt công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội cần phải thực hiện một số công việc sau: - Thực hiện phân cấp quản lý, phân công cụ thể từng đơn vị, từng bộ phận và cá nhân để quản lý, theo dõi, đôn đốc thu bảo hiểm xã hội đến từng cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội. Chẳng hạn như Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện quản lý đối tượng của khối quốc phòng - an ninh (Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ); Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố thực hiện quản lý đối với các đơn vị (hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp, tổ chức chính trị, xã hội, …) có trụ sở chính đóng trên địa bàn tỉnh, thành phố (theo lãnh thổ). Bảo hiểm xã hội huyện được Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố phân cấp quản lý đối với một số cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp đến địa bàn huyện, một số doanh nghiệp có quy mô nhỏ và khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Tiến hành cấp và ghi Sổ BHXH cho từng người lao động để theo dõi, ghi chép kịp thời toàn bộ diễn biến quá trình đóng bảo hiểm xã hội của họ theo từng thời gian (tháng, quý, năm), mức đóng và đơn vị, ngành nghề công tác để sau này làm căn cứ xét hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội cho họ. 1.2.1.2. Quản lý quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội Mức thu bảo hiểm xã hội đối với người sử dụng lao động và người lao động tham gia bảo hiểm xã hội theo Điều lệ Bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ là người sử dụng lao động đóng 15% tổng quỹ tiền lương tháng của những người lao động trong đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội, người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng. Theo quy định hiện hành thì tiền lương của người lao động và quỹ tiền lương của cơ quan, đơn vị được xác định căn cứ vào từng người lao động ở từng khu vực công tác, theo các mức đóng khác nhau, cụ thể là: - Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức đảng, đoàn thể, hội quần chúng, tiền lương tháng của người lao động và quỹ tiền lương của các đơn vị sử dụng lao động được xác định theo các quy định tại Nghị quyết số 35 NQ/UBTVQHK9 ngày 17/05/1993 của ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa IX, Quyết định số 69/QĐTW ngày 17/05/1993 của Ban Bí thư, Nghị định số 25/CP ngày 17/05/1993 của Chính phủ, Quyết định số 574/TTg ngày 25/11/1993 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 06/CP ngày 21/01/1997 của Chính phủ. - Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, tiền lương tháng của người lao động và quỹ lương của đơn vị sử dụng lao động được xác định theo các quy định tại Nghị định số 26/CP ngày 23/05/1995 của Chính phủ. - Các đơn vị sử dụng lao động đã thực hiện ký hợp đồng lao động thì đóng bảo hiểm xã hội tính trên tổng quỹ tiền lương hàng tháng, bao gồm lương theo hợp đồng đã ký kết với người lao động có tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định và lương của người giữ chức vụ không áp dụng chế độ hợp đồng lao động. - Riêng Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những quân nhân, công an nhân dân hưởng lương; còn quân nhân, công an nhân dân đóng bằng 5% mức lương tháng. Mức thu BHXH đối với quân nhân, công an nhân dân thuộc diện hưởng sinh hoạt phí đóng bằng 2% mức lương tối thiểu theo tổng số quân nhân, công an nhân dân do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đóng. - Đối với người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, nếu người lao động đã có quá trình tham gia BHXH ở trong nước thì đóng bằng 15% mức lương tháng đã đóng BHXH trước khi ra nước ngoài làm việc; người lao động chưa tham gia BHXH ở trong nước thì mức đóng BHXH hàng tháng bằng 15% của hai lần mức lương tối thiểu của công nhân viên chức trong nước. - Mức thu đối với cán bộ xã, phường, thị trấn bằng 15% mức sinh hoạt phí hàng tháng; trong đó cán bộ xã, phường, thị trấn đóng 5% mức sinh hoạt phí hàng tháng; ủy ban nhân dân xã phường, thị trấn đóng bằng 10% mức sinh hoạt phí tính trên tổng mức sinh hoạt phí của những người tham gia BHXH. 1.2.1.3. Quản lý tiền thu BHXH Quỹ BHXH được quản lý tập trung thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước; chỉ hình thành quỹ BHXH ở Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Vì vậy tất cả mọi sự đóng góp của từng cá nhân, từng cơ quan, đơn vị đều phải chuyển hết về Bảo hiểm xã hội Việt Nam để hình thành quỹ BHXH tập trung. Thực hiện nguyên tắc trên, các đơn vị BHXH tỉnh và huyện được mở các tài khoản chuyên thu BHXH ở hệ thống Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước. Các đơn vị sử dụng tài khoản này chỉ để thu nhận tiền nộp BHXH của các đơn vị và cá nhân tham gia BHXH và định kỳ chuyển toàn bộ số tiền thu được lên cấp trên (BHXH huyện chuyển lên BHXH tỉnh, BHXH tỉnh chuyển về Bảo hiểm xã hội Việt Nam); không được sử dụng tiền thu BHXH cho bất kỳ nội dung chi tiêu nào khác. 1.2.2. Quản lý chi BHXH Quỹ BHXH dùng để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động và gia đình họ khi người lao động gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động và sinh hoạt đời sống. Quản lý chi BHXH chủ yếu tập trung vào các nội dung sau: 1.2.2.1. Quản lý đối tượng được hưởng các chế độ BHXH Theo quy định hiện hành, chế độ BHXH gồm có: - Chế độ trợ cấp ốm đau; - Chế độ trợ cấp thai sản; - Chế độ trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp; - Chế độ hưu trí; - Chế độ tử tuất; - Chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe; Đối tượng hưởng các chế độ BHXH có thể là chính bản thân người lao động, cũng có thể là những người thân ruột thịt của người lao động (bố, mẹ, vợ, chồng, con) trực tiếp phải nuôi dưỡng. Đối tượng có thể được hưởng trợ cấp một lần hoặc trợ cấp hàng tháng nhiều hay ít, tùy thuộc mức độ đóng góp (thời gian đóng góp và tiền lương làm căn cứ đóng góp), các điều kiện lao động và biến cố rủi ro mà người lao động mắc phải. Điều quan trọng nhất trong công tác quản lý chi BHXH là phải quản lý cụ thể, chính xác từng đối tượng theo loại chế độ được hưởng và mức được hưởng, thời gian được hưởng của họ. 1.2.2.2. Phương thức chi trả Phải áp dụng phương thức quản lý và chi trả cho phù hợp với từng loại đối tượng và từng loại trợ cấp, sao cho đảm bảo được nguyên tắc chi trả: đúng đối tượng, đúng chế độ, đầy đủ, kịp thời, chính xác và an toàn. Một đặc điểm cần quan tâm trong tổ chức chi trả hiện nay đó là hầu hết việc chi trả các chế độ BHXH cho người được hưởng đều bằng tiền mặt, khối lượng chi trả hàng tháng rất lớn (toàn quốc năm 2000 là 7.574 tỷ đồng), địa bàn chi trả rộng khắp các miền, vùng trong cả nước và đối tượng chi trả thường xuyên rất lớn (1.763.485 người), thời gian chi trả phải tập trung từ 1 đến 5 ngày trong tháng. Có hai phương thức chi trả, đó là phương thức chi trả trực tiếp và phương thức chi trả gián tiếp. Phương thức chi trả trực tiếp là việc chi trả cho người được hưởng các chế độ BHXH được thực hiện trực tiếp do cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống Bảo hiểm xã hội chi trả. Phương thức chi trả gián tiếp là việc chi trả cho người được hưởng các chế độ BHXH được thực hiện bởi sự ủy quyền của cơ quan BHXH các cấp cho các đơn vị sử dụng lao động hoặc các đại diện pháp nhân thuộc ủy ban nhân dân các phường, xã chi trả hộ (các đại lý chi trả). 1.2.2.3. Quản lý kinh phí chi BHXH Để đạt được mục tiêu chi trả đầy đủ, kịp thời cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH, một yêu cầu cần đặt ra đó là phải đảm bảo đủ nguồn kinh phí và được phân bổ, điều hành một cách khoa học. Kế hoạch được xây dựng và cấp phát sát với nhu cầu chi tiêu cho từng đối tượng ở từng địa phương (tỉnh, huyện); vừa đảm bảo được yêu cầu chi trả các chế độ BHXH cho người được hưởng; đồng thời vừa tránh tồn đọng quá lớn (dư trên các tài khoản) ở các đơn vị dự toán cấp 2 và cấp 3, sẽ gây lãng phí việc sử dụng vốn. Để có cơ sở quản lý, điều hành và kiểm soát chặt chẽ nguồn kinh phí này, các đơn vị dự toán cấp 2 và cấp 3 được mở các tài khoản chuyên chi BHXH ở hệ thống Ngân hàng và Kho bạc của Nhà nước. Các đơn vị chỉ được rút tiền từ các tài khoản trên để chi trả các chế độ BHXH, không được sử dụng nguồn kinh phí này để chi trả cho bất kỳ một nội dung chi nào khác. Nhờ đó mà các đơn vị dự toán cấp trên có thể kiểm tra số kinh phí đã sử dụng và số kinh phí còn dư trên tài khoản của đơn vị cấp dưới dễ dàng và thuận tiện. 1.2.3. Quản lý chi hoạt động bộ máy Kinh phí chi hoạt động bộ máy của hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam là khoản kinh phí dùng để chi cho toàn bộ hoạt động quản lý của hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Chi phí hoạt động quản lý của hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam gồm rất nhiều nội dung chi; nhưng xét theo tính chất và chu kỳ chi phí, có thể chia thành hai nhóm nội dung chi, đó là chi hoạt động thường xuyên và chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất. 1.2.3.1. Chi hoạt động thường xuyên Đó là những chi phí nhằm duy trì hoạt động quản lý thường xuyên của bộ máy quản lý BHXH. Công tác quản lý chi hoạt động thường xuyên của hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam tập trung vào một số nội dung cụ thể, đó là: - Quản lý lao động (cán bộ, công chức, viên chức) và quỹ tiền lương đối với từng đơn vị dự toán cấp 2 và cấp 3. - Quản lý chi hoạt động nghiệp vụ: Chi phí cho công tác thu BHXH, chi cho công tác chi BHXH, hội nghị, tiếp khách, chi văn phòng phẩm, điện, nước, điện thoại, sửa chữa nhỏ, mua sắm tài sản … - Quản lý kinh phí đào tạo, đào tạo lại cán bộ, công chức, viên chức: đối tượng đi đào tạo, nội dung đào tạo, kinh phí chi cho từng đối tượng, từng lớp đào tạo… - Quản lý chi thông tin, tuyên truyền về chính sách, chế độ BHXH. - Quản lý chi đoàn ra, đoàn vào, hợp tác quốc tế. 1.2.3.2. Chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất Đó là những chi phí nhằm đảm bảo các điều kiện, phương tiện làm việc cho cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống, gồm có: chi đầu tư xây dựng trụ sở làm việc, trang bị phương tiện làm việc như hệ thống máy vi tính (gồm cả chương trình phần mềm quản lý), ô tô, bàn ghế, tủ hồ sơ … Nội dung quản lý chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam tập trung vào một số nội dung cụ thể, đó là: - Về trụ sở làm việc: quy mô đầu tư (diện tích làm việc, cấp công trình), tổng mức đầu tư đối với từng dự án đầu tư xây dựng của từng cấp (Trung ương, tỉnh, huyện), phù hợp với kiến trúc và tập quán sinh hoạt của từng địa phương. Chú trọng quản lý chất lượng và giá trị quyết toán công trình, đảm bảo đúng quy trình quy phạm của Nhà nước quy định. - Về phương tiện làm việc: phải đảm bảo theo tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật và định mức trang bị, sử dụng do Nhà nước quy định. 1.2.4. Quản lý hoạt động đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội Một đặc điểm của quỹ bảo hiểm xã hội ở nước ta là quỹ được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động và người lao động, được tồn tích qua nhiều năm và có tính chất phân phối chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội giữa những người tham gia BHXH và qua các thế hệ. Vì vậy, quỹ sẽ có số dư tạm thời nhàn rỗi tương đối lớn trong khoảng thời gian dài. Đây là một nguồn vốn trong nước vô cùng quan trọng để hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn, tăng trưởng quỹ, đồng thời góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hoạt động của bảo hiểm xã hội là hoạt động dịch vụ công, phục vụ và đảm bảo quyền lợi cho mọi người lao động tham gia và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, cho cộng đồng xã hội. Vì vậy, hoạt động của bảo hiểm xã hội mang tính nhân văn, tính xã hội rộng lớn; mục tiêu chính là hiệu quả xã hội, không phải kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận. Quỹ bảo hiểm xã hội phải được quản lý tập trung, thống nhất, chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích, luôn luôn đảm bảo đủ nguồn lực đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho các đối tượng được thụ hưởng. Do đó, khi dùng quỹ bảo hiểm xã hội để thực hiện hoạt động đầu tư cần quán triệt một số nguyên tắc sau: Phải bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất; đạt hiệu quả cao về mặt xã hội, bảo toàn được giá trị và tăng trưởng; có khả năng sử dụng vốn linh hoạt. Để hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ đáp ứng được các nguyên tắc trên, cần quan tâm quản lý các nội dung sau: - Đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội nhàn rỗi vào những lĩnh vực mà ở đó vốn đầu tư được đảm bảo an toàn, ít có rủi ro, mang lại hiệu quả cao về mặt xã hội; đồng thời vẫn bảo toàn được giá trị và tăng trưởng được quỹ. - Hình thức đầu tư: tham gia đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp qua các trung gian tài chính. Chẳng hạn như: Đầu tư thông qua các tổ chức tài chính, tiền tệ của Nhà nước: cho Ngân sách Nhà nước vay, mua trái phiếu, kỳ phiếu, công trái của Nhà nước, của các tổ chức tài chính, các ngân hàng phát hành; đầu tư trực tiếp như tham gia thị trường chứng khoán, đầu tư trực tiếp vào các dự án sản xuất kinh doanh (hoặc góp vốn kinh doanh). - Quy trình xây dựng, thẩm định, quyết định phương án (hoặc dự án) đầu tư và quản lý hoạt động các dự án đầu tư: cần thực hiện phân cấp thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ, của Hội đồng Quản lý và của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam đối với các dự án, phương án dùng quỹ bảo hiểm xã hội để đầu tư, đặc biệt là các dự án đầu tư với hình thức đầu tư trực tiếp. Chương 2 Thực trạng công tác quản lý tài chính trong Bảo hiểm xã hội Việt Nam 2.1. Quá trình hình thành và tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội qua các giai đoạn 2.1.1. Giai đoạn trước 1995 Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Đảng và Nhà nước ta đã sớm quan tâm và thực hiện chính sách BHXH đối với người lao động. Sắc lệnh số 54 ngày 03/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời quy định những căn cứ, điều kiện để các công chức nhà nước được hưởng chế độ hưu trí. Sắc lệnh số 105 ngày 14/06/1946 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức nhà nước. Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/05/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong đó có quy định cụ thể về các chế độ thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn lao động, trợ cấp hưu trí và và tiền tuất đối với công chức nhà nước. Sắc lệnh số 29 ngày 13/03/1947 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời và Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/05/1950 quy định các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công nhân. Như vậy đến thời kỳ này (1950), đối tượng tham gia và hưởng các chế độ BHXH chỉ gồm hai đối tượng là công chức nhà nước và công nhân; và gồm có các chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí và tử tuất. Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân, viên chức nhà nước. Các chế độ gồm có 6 loại trợ cấp: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất; ngoài ra hệ thống Liên đoàn Lao động còn thực hiện thêm sự nghiệp nghỉ dưỡng sức. Ngày 15/11/1982, Liên hiệp xã Trung ương đã có Quyết định số 292/BCN-LĐ ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với xã viên Hợp tác xã và các tổ hợp sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Về cơ bản, các chế độ BHXH quy định trong Điều lệ này cũng được mô phỏng tương tự như các chế độ BHXH đối với công nhân, viên chức nhà nước. Ngày 18/9/1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 236/HĐBT cho phép quy đổi một năm công tác thành 1 năm 2 tháng, 1 năm 4 tháng và 1 năm 6 tháng tùy theo điều kiện lao động và chiến đấu. Ngày 22/06/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 43/CP quy định tạm thời chế độ BHXH áp dụng bắt buộc đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước thuộc khối hành chính sự nghiệp, các tổ chức Đảng, đoàn thể; người lao động làm việc ở trong các doanh nghiệp có sử dụng từ 10 lao động trở lên; người lao động làm việc trong các khu vực kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. Các chế độ BHXH gồm có ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất. Ngoài ra còn quy định loại hình BHXH tự nguyện áp dụng từ 1 đến 5 chế độ đối với những người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Ngày 30/09/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 66/CP quy định tạm thời chế độ BHXH đối với lực lượng vũ trang, quy định các chế độ BHXH đối với sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân. Các chế độ BHXH gồm có: trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất. Kể từ khi có Sắc lệnh số 54 ngày 03/11/1945 đến năm 1995 (giai đoạn trước khi thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam), việc tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ thu BHXH, giải quyết chế độ chính sách, chi trả các chế độ BHXH cho đối tượng được thụ hưởng do một số tổ chức tham gia thực hiện, đó là: Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam), Bộ Nội vụ (trước đây) nhiệm vụ này chuyển sang cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cụ thể là: Tổng Công đoàn Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý quỹ BHXH và toàn bộ sự nghiệp BHXH của công nhân viên chức nhà nước, cụ thể là: quản lý toàn bộ quỹ, lập dự toán, quyết toán, tổng kết việc chi tiêu; hàng năm báo cáo trước Hội đồng Chính phủ. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các cấp công đoàn trong công tác quản lý quỹ BHXH. Quy định những biện pháp, thể lệ cụ thể về quản lý quỹ và chế độ kế toán tài vụ; phân phối điều hòa và xét duyệt dự toán hàng quý, hàng năm của cấp dưới. Quản lý các nhà dưỡng lão, nhà an dưỡng, nhà nghỉ mát của công nhân, viên chức nhà nước. Tham gia việc nghiên cứu, xây dựng chính sách và chế độ về BHXH đối với các cơ quan nhà nước [42]. "Việc đôn đốc nộp tiền và việc thực hiện kế hoạch thu, chi thuộc quỹ BHXH do Tổng Công đoàn Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước phụ trách" [42]. Để tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao, Tổng Công đoàn Việt Nam quy định ba cấp quản lý quỹ BHXH như sau: Tổng Công đoàn Việt Nam là cấp tổng dự toán. Các Liên hiệp Công đoàn tỉnh, thành, Liên hiệp Công đoàn khu tự trị Thái Mèo, Liên hiệp Công đoàn khu Hồng Quảng, Công đoàn khu gang thép Thái Nguyên, Liên hiệp Công đoàn các cơ quan Trung ương. Công đoàn các cơ quan xung quanh khu tự trị Việt Bắc và các ngành dọc như: Công đoàn đường sắt, Công đoàn hậu cần, Công đoàn giao thông vận tải, Công đoàn kiến trúc Việt Nam là các đơn vị dự toán cấp 1. Các công đoàn cơ sở là đơn vị dự toán cấp 2 (Những công đoàn cơ sở được coi là đơn vị dự toán cấp 2 là những công đoàn đơn vị chuyên môn, có tài khoản riêng, trực tiếp quản lý lao động, tiền lương) [57]. Quá trình tổ chức thực hiện chính sách BHXH đã nảy sinh các mối quan hệ giữa các Bộ quản lý nhà nước và Tổng Công đoàn Việt Nam, cần phải được phân công lại cho phù hợp với thực tiễn. Ngày 20/03/1963, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 31/CP về việc điều chỉnh một số nhiệm vụ giữa Bộ Nội vụ, Bộ Lao động, Bộ Công an, Bộ Y tế và Tổng Công đoàn Việt Nam, trong đó quy định: Bộ Nội vụ có nhiệm vụ: phụ trách công tác cứu tế xã hội và an toàn xã hội, công tác quản lý nhà đất, công tác quản lý hàng binh. Nghiên cứu và trình Hội đồng Chính phủ ban hành các chính sách, chế độ về hưu trí, tiền tuất, nghỉ việc về mất sức lao động đối với công nhân viên chức nhà nước, chỉ đạo thực hiện các chính sách, chế độ ấy (kể cả việc quản lý quỹ và quản lý các trại an dưỡng) [44]. Tổng Công đoàn Việt Nam có nhiệm vụ: phụ trách nghiên cứu và trình Hội đồng Chính phủ ban hành các chính sách, chế độ về phúc lợi tập thể (gồm các vấn đề trợ cấp cho gia đình đông con, trợ cấp cho gia đình gặp khó khăn, vấn đề nhà trẻ), về BHXH (trừ các chế độ về hưu trí, tiền tuất, nghỉ việc vì mất sức lao động do Bộ Nội vụ phụ trách) đối với công nhân, viên chức nhà nước; tổ chức và chỉ đạo thực hiện các chính sách, chế độ ấy [44]. Thi hành Nghị định số 43/CP ngày 22/06/1993 của Chính phủ quy định tạm thời chế độ BHXH, ngày 18/06/1994, Liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 21/LB-TT hướng dẫn thực hiện các chế độ BHXH theo hình thức bắt buộc, quy định về trách nhiệm tổ chức quản lý như sau: Trong khi chưa có tổ chức Bảo hiểm xã hội theo quy định tại Nghị định 43/CP thì Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý và thực hiện các chế độ hưu trí, tử tuất (kể cả chế độ mất sức lao động trước đây). Về bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BHXH của hệ thống Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng được tổ chức thành ba cấp, đó là: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Liên đoàn Lao động các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Liên đoàn Lao động ngành nghề: đường sắt, dầu khí, bưu chính viễn thông, xây dựng, ngân hàng...; Liên đoàn Lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và ngoài ra còn có các Công đoàn cơ sở ở các đơn vị có người lao động tham gia BHXH (Sơ đồ số 2). Đối với hệ thống Lao động - Thương binh và Xã hội, hình thành ba cấp quản lý: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (trực thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố), Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội (trực thuộc ủy ban nhân dân huyện), các đơn vị cấp dưới chịu sự quản lý và điều hành về mặt nghiệp vụ của đơn vị cấp trên (Sơ đồ số 1). 2.1.2. Giai đoạn từ năm 1995 đến nay 2.1.2.1. Về chính sách BHXH Trong thời gian từ năm 1995 trở lại đây, Nhà nước đã ban hành các văn bản về BHXH gồm: - Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ ban hành Điều lệ Bảo hiểm xã hội áp dụng đối với cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước và mọi người lao động theo loại hình BHXH bắt buộc để thực hiện thống nhất trong cả nước. Các chế độ BHXH trong Điều lệ này gồm có: chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí; chế độ tử tuất. Những người lao động làm việc ở những đơn vị, tổ chức dưới đây là đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc, đó là: các doanh nghiệp nhà nước; các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên; người Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài, các tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các tổ chức kinh doanh dịch vụ, doanh nghiệp thuộc các cơ quan hành chính sự nghiệp, đảng, đoàn thể, lực lượng vũ trang, các đơn vị hành chính sự nghiệp, đảng, đoàn thể, tổ chức chính trị, chính trị – xã hội. - Nghị định số 45/CP ngày 15/07/1995 của Chính phủ ban hành Điều lệ Bảo hiểm xã hội đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân. Các chế độ BHXH trong Điều lệ này gồm có: chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí; chế độ tử tuất. - Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 50/CP ngày 26/07/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. Cán bộ cấp xã tham gia đóng BHXH và hưởng chế độ hưu trí và mai táng phí là những cán bộ làm công tác Đảng, chính quyền và trưởng các đoàn thể: Chủ tịch Mặt trận, Hội trưởng Hội phụ nữ, Hội trưởng Hội nông dân, Hội trưởng Hội Cựu chiến binh, Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và cán bộ chức danh chuyên môn là địa chính, tư pháp, tài chính – kế toán và Văn phòng ủy ban nhân dân xã. - Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/08/1999 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao. Nghị định này cho phép thành lập các cơ sở ngoài công lập dưới các hình thức như bán công, dân lập, tư nhân hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao nhưng phải phù hợp với quy hoạch của Nhà nước, không theo mục đích thương mại và theo đúng quy định của pháp luật. Người lao động làm việc trong các cơ sở ngoài công lập được tham gia và hưởng mọi quyền lợi về BHXH như người lao động trong các đơn vị công lập. - Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 20/09/1999 của Chính phủ quy định việc người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài phải tham gia BHXH bắt buộc và được hưởng các chế độ BHXH hưu trí và tử tuất. - Quyết định số 37/2001/QĐ-TTg ngày 21/03/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe cho người lao động tham gia BHXH; quy định thực hiện chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe đối với người lao động tham gia BHXH có từ đủ 3 năm trở lên tại cơ quan, đơn vị mà bị suy giảm sức khỏe; sau khi điều trị do ốm đau, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp mà chưa phục hồi sức khỏe hoặc lao động nữ nếu yếu sức khỏe sau khi nghỉ thai sản. 2.1.2.2. Về tổ chức thực hiện Để triển khai thực hiện chính sách, chế độ BHXH, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/ CP ngày 16/02/1995 thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Ngày 26/09/1995, Chính phủ ra Quyết định số 606/TTg ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH hiện nay ở Trung ương và địa phương do hệ thống Lao động - Thương binh và Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đang quản lý để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chế độ, chính sách BHXH theo pháp luật của Nhà nước. Bảo hiểm xã hội Việt Nam đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các cơ quan nhà nước về lĩnh vực có liên quan và sự giám sát của tổ chức công đoàn [53]. Tổ chức bộ máy Bảo hiểm xã hội Việt Nam như sau: - Hội đồng Quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan quản lý cao nhất của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. - Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương tới địa phương, gồm có: + ở Trung ương: Bảo hiểm xã hội Việt Nam + ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là tỉnh) là Bảo hiểm xã hội tỉnh trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. + ở các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là huyện) là Bảo hiểm xã hội huyện trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh [53]. Hội đồng Quản lý có nhiệm vụ và quyền hạn sau: - Chỉ đạo và giám sát, kiểm tra việc thực hiện thu, chi, quản lý quỹ của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. - Quyết định các biện pháp để bảo toàn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH theo phương án trình của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. - Thông qua dự toán hàng năm về thu, chi quỹ BHXH, về chi phí quản lý, định mức lệ phí thu, chi quỹ BHXH và thẩm tra quyết toán BHXH theo đề nghị của Tổng Giám đốc trước khi gửi Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan khác có liên quan. - Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan nhà nước có liên quan bổ sung và sửa đổi các chính sách, chế độ BHXH. - Đề nghị Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm Tổng Giám đốc và các phó Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. - Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành, bổ sung sửa đổi quy chế tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. - Xem xét và giải quyết các khiếu nại của người tham gia BHXH theo quy định của pháp luật [53]. Bảo hiểm xã hội Việt Nam có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: - Chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc thu BHXH theo quy định của Bộ luật Lao động, Điều lệ Bảo hiểm xã hội và các quy định của Chính phủ. - Quản lý BHXH và tổ chức việc chi trả BHXH cho người tham gia BHXH được đầy đủ, thuận tiện và đúng thời hạn. - Được quyền từ chối việc chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng BHXH khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi man trá, làm giả hồ sơ, tài liệu để được hưởng chế độ BHXH, đồng thời ra văn bản thông báo việc chi trả đó cho đương sự, cơ quan sử dụng lao động và cơ quan pháp luật. - Bồi thường mọi khoản thu, chi sai quy định của Nhà nước về BHXH cho các đối tượng tham gia BHXH và chịu trách nhiệm trước pháp luật. - Xây dựng và tổ chức thực hiện dự án và biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH theo quy định của Chính phủ. - Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định về định mức chi phí quản lý, định mức lệ phí thu, chi BHXH và các quy định khác có liên quan tới hoạt động BHXH và tổ chức thực hiện các quy định nói trên. - Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan nhà nước có liên quan việc sửa đổi, bổ sung các chế độ, chính sách BHXH phù hợp với tình hình đất nước trong từng giai đoạn. - Lưu giữ hồ sơ, cấp và quản lý sổ BHXH. - Tổ chức thực hiện công tác thống kê, hạch toán, kế toán, hướng dẫn nghiệp vụ thu, chi BHXH và kiểm tra việc thực hiện. Tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền, giải thích các chế độ, chính sách về BHXH. - Kiểm tra việc thực hiện các chế độ thu, chi BHXH. - Giải quyết kịp thời các khiếu nại của người tham gia BHXH về các chế độ, chính sách BHXH. - Thực hiện việc hợp tác quốc tế về sự nghiệp BHXH theo quy định của Chính phủ. - Quản lý tổ chức, viên chức, tài chính, cơ sở vật chất của Bảo hiểm xã hội Việt Nam theo quy định của Nhà nước. - Thực hiện việc báo cáo theo định kỳ về thu, chi và các hoạt động về BHXH cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính. - Bảo hiểm xã hội Việt Nam được quan hệ trực tiếp với các cơ quan nhà nước và các đoàn thể nhân dân ở Trung ương và địa phương, với các bên tham gia BHXH để giải quyết các vấn đề có liên quan đến BHXH theo quy định của Bộ Luật Lao động, Điều lệ Bảo hiểm xã hội và quy chế này. - Thực hiện các nhiệm vụ khác được Thủ tướng Chính phủ giao cho [53]. 2.2. Thực trạng quản lý tài chính Để có cơ sở đánh giá, phân tích tình hình quản lý tài chính BHXH, trước hết nghiên cứu quy định về hình thành và sử dụng quỹ BHXH. Thời gian từ năm 1945 đến nay có nhiều văn bản pháp quy của Nhà nước quy định việc hình thành và sử dụng quỹ, có thể nêu một số văn bản mang tính đặc trưng và cơ bản cho từng giai đoạn như sau: + Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân, viên chức nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 của Hội đồng Chính phủ quy định: Để bảo đảm việc chi tiêu cho các chế độ BHXH và các sự nghiệp BHXH, nay thành lập quỹ BHXH của Nhà nước. Quỹ BHXH của Nhà nước là quỹ độc lập thuộc Ngân sách Nhà nước. Mọi chi phí về công tác quản lý quỹ BHXH và quản lý các sự nghiệp BHXH đều do quỹ BHXH của Nhà nước đài thọ [42]. + Nghị định số 39/CP ngày 22/03/1962 của Hội đồng Chính phủ quy định nội dung thu, chi quỹ BHXH của Nhà nước như sau: Nguồn thu của quỹ BHXH của Nhà nước gồm có: a. Tiền do các cơ quan chính quyền và đoàn thể, các xí nghiệp, công trường, nông trường và lâm trường... của Nhà nước nộp hàng tháng vào quỹ BHXH theo một tỷ lệ phần trăm nhất định so với tổng quỹ tiền lương. b. Tiền trợ cấp hàng năm của Nhà nước cho quỹ BHXH trong những trường hợp thật cần thiết. c. Các khoản thu khác thuộc quỹ BHXH của Nhà nước (thu về tiền ủng hộ, về các tặng phẩm) [43]. Quỹ BHXH của Nhà nước có nhiệm vụ đài thọ tất cả các khoản chi dưới đây theo quy định của Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH: a. Trợ cấp khi công nhân, viên chức nhà nước ốm đau. b. Trợ cấp khi nữ công nhân, viên chức nhà nước sinh đẻ, sẩy thai, mất sức. c. Trợ cấp khi công nhân, viên chức nhà nước bị tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp. d. Trợ cấp khi công nhân, viên chức về hưu trí. đ. Trợ cấp chôn cất và tiền tuất khi công nhân, viên chức nhà nước chết. e. Chi phí về công tác quản lý quỹ BHXH và quản lý các sự nghiệp BHXH. f. Quỹ BHXH của Nhà nước không kết dư. Nếu quản lý tốt mà hàng năm còn thừa tiền thì được phép dùng số tiền thừa đó chi vào việc xây dựng thêm các sự nghiệp BHXH [43]. + Quyết định số 606/TTg ngày 26/9/1995 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, quy định về quỹ BHXH như sau: Nguồn thu quỹ BHXH bao gồm: - Đóng góp của các đối tượng tham gia BHXH theo quy định tại Điều 36 của Điều lệ Bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ. - Ngân sách Nhà nước chuyển sang gồm có: + Chi trả cho các đối tượng đang hưởng các chế độ BHXH trước ban hành Điều lệ Bảo hiểm xã hội. + Đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động sau ngày ban hành Điều lệ Bảo hiểm xã hội. + Đóng bảo hiểm y tế cho người đang được hưởng các chế độ BHXH. - Tiền lãi, tiền sinh lời từ việc thực hiện phương án bảo hiểm và phát triển quỹ BHXH. - Thu từ nguồn tài trợ, viện trợ quốc tế và trong nước. - Giá trị tài sản của BHXH được đánh giá lại theo quy định của Chính phủ. - Thu khác [53]. Nguồn chi quỹ BHXH gồm có: - Chi thực hiện các chế độ BHXH cho người tham gia BHXH. - Nộp bảo hiểm y tế theo quy định tại Điều lệ Bảo hiểm xã hội. - Chi hoa hồng, đại lý, trả lệ phí thu, chi BHXH. - Chi thực hiện phương án bảo toàn và phát triển quỹ BHXH. - Chi khác [53]. 2.2.1. Phương thức quản lý tài chính giai đoạn trước 1995 Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý quỹ BHXH và thực hiện chế độ BHXH đối với người lao động do Chính phủ quy định, công tác quản lý tài chính BHXH được giao cho ngành Lao động - Thương binh và Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thực hiện: 2.2.1.1. Quản lý tài chính của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội * Về tổ chức quản lý thu BHXH: Trước đây là Bộ Nội vụ (thời kỳ thi hành Nghị định 218/CP) sau này chuyển cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý các chế độ hưu trí, mất sức lao động và tử tuất. Các ngành này phải thực hiện thu BHXH (1% ở thời kỳ Nghị định 218/CP còn có hiệu lực, sau đó nâng lên 10% ở thời kỳ thực hiện Quyết định số 40/HĐBT ngày 16/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng và nâng tiếp lên đến 15% ở thời kỳ Nghị định 43/CP ngày 22/06/1993 có hiệu lực thi hành). Trong suốt thời kỳ này không hình thành được quỹ BHXH độc lập theo đúng nội dung của nó. Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 quy định: "Quỹ BHXH của Nhà nước là quỹ độc lập thuộc Ngân sách Nhà nước" (Điều 66), do đó nguồn thu BHXH cũng chỉ là một trong những nguồn kinh phí để hình thành nguồn thu của Ngân sách Nhà nước. Ngay tại Nghị định 43/CP có quy định "Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ". Nhưng do hệ thống tổ chức bộ máy quản lý quỹ không thành hệ thống dọc (các phòng Lao động - Thương binh và Xã hội thuộc ủy ban nhân dân các huyện; các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố) và phương thức, biện pháp tổ chức thực hiện không đồng bộ, chưa phù hợp; do đó đã không hình thành được quỹ BHXH tập trung, độc lập với Ngân sách Nhà nước. Việc thu BHXH thuộc trách nhiệm của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, nhưng do một số nguyên nhân về bộ máy, cán bộ, cách thức chỉ đạo nên một mình ngành Lao động - Thương binh và Xã hội không thu được mà phải ký hợp đồng với cơ quan Tài chính, Thuế, Kho bạc để thu BHXH. Thông tư số 19/TT-LB ngày 07/03/1994 của Liên Bộ Tài chính - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn tạm thời về thu quỹ 15% BHXH do ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý quy định: Đối với các doanh nghiệp (kể cả các liên doanh, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ) thì Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ký hợp đồng thu đối với Cục Thuế địa phương để thu nộp, đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức đảng, đoàn thể ở địa phương, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ký hợp đồng thu với Sở Tài chính Vật giá địa phương để trích nộp [49]. Khi hoàn thành nhiệm vụ thu hộ thì các đơn vị Sở Tài chính Vật giá và Cục Thuế các tỉnh được hưởng lệ phí thu từ 0,25 đến 0,5% tính trên số tiền thực thu BHXH. Với phương thức nhờ thu hộ như trên đã không thực hiện quản lý cụ thể đến từng đối tượng và từng đơn vị tham gia BHXH tất yếu dẫn đến là thu BHXH không đạt kết quả cao. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đánh giá về công tác thu BHXH như sau: Theo quy định hàng tháng, các cơ quan, đơn vị đóng 15% tổng quỹ tiền lương để thực hiện BHXH, trong đó phần Nhà nước thu theo kế hoạch là 8%, nhưng trên thực tế chỉ thu được 20% của 8% để chi cho chế độ hưu trí, mất sức lao động và tiền tuất; còn 2% để lại cơ sở trợ cấp khó khăn; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thu 5% để chi cho 3 chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp. Việc tổ chức thu lại phân tán, nên mức thu được quá thấp, Ngân sách Nhà nước cấp bù năm sau cao hơn năm trước [11]. * Về giải quyết các chế độ, chính sách và chi BHXH: Trong thời kỳ này Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phân cấp đến tận cấp huyện (trung ương, tỉnh, huyện) được giải quyết chế độ hưu và tuất. Người sử dụng lao động ra quyết định cho người lao động được hưởng các chế độ BHXH. Đây là cách thức quản lý không hợp lý, bởi vì văn bản quyết định cho người lao động hưởng chế độ BHXH là một hồ sơ và là một "chứng từ" rất quan trọng dùng để làm căn cứ chi trả tiền cho người được thụ hưởng trong thời gian rất dài. Cơ quan quản lý chứng từ, hồ sơ gốc dùng làm căn cứ để chi tiền hoặc để điều chỉnh các chế độ, chính sách khi có bổ sung thay đổi cho người được hưởng chính là ngành Lao động - Thương binh và Xã hội. Theo quy định thì người chi tiền phải là người thẩm định, xét duyệt các chứng từ làm căn cứ để chi tiền. Chính vì vậy mà thời gian qua đã để xảy ra tình trạng rất nhiều hồ sơ sai sót, thậm chí gian lận để chiếm đoạt ngân sách của Nhà nước trong nhiều năm. Thời gian đầu, do phương thức điều hành cấp ngân sách chi BHXH của hệ thống ngành Lao động - Thương binh và Xã hội bằng hạn mức kinh phí từ Bộ Tài chính cấp; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cấp cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cấp cho Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội. Nhưng đây mới chỉ là hạn mức được sử dụng còn muốn có tiền chi được thì còn phụ thuộc vào số tiền thu của ngân sách địa phương (ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố) và sự điều tiết của Trung ương về (đối với những tỉnh bội chi ngân sách). Vì vậy, trong trường hợp thu BHXH trên địa bàn tỉnh không đạt kế hoạch thì sẽ ảnh hưởng ngay đến nguồn kinh phí để chi BHXH, điều đó đã xảy ra trong nhiều năm trước năm 1990. Rút kinh nghiệm và khắc phục tình trạng trên, nhằm có tiền để chi trả kịp thời cho đối tượng, Bộ Tài chính và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư liên bộ số 29 TT/LB ngày 25/7/1990 thống nhất phương thức cấp phát kinh phí chi BHXH dưới hình thức cấp kinh phí ủy quyền cho Sở Tài chính vật giá ở địa phương chủ động cân đối kinh phí chi BHXH trên địa bàn tỉnh, thành phố. Căn cứ dự toán hàng năm chi BHXH của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, theo sự ủy quyền của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính cấp thẳng kinh phí chi BHXH cho các Sở Tài chính vật giá địa phương, sau đó Sở Tài chính vật giá cấp cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cấp cho Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội để chi cho đối tượng. Quá trình quyết toán theo trình tự ngược lại. ở đây có một vấn đề cần bàn là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về nguyên tắc là phải quản lý, giám sát, chịu trách nhiệm toàn bộ kinh phí chi BHXH lại ủy quyền cho Bộ Tài chính và Sở Tài chính vật giá làm hộ, đã gây ra sự chồng chéo, chắp vá trong quản lý kinh phí chi BHXH do Ngân sách Nhà nước cấp. Đã tạo ra tư tưởng ỷ lại vào Ngân sách Nhà nước, đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng thu không đủ chi, Ngân sách Nhà nước hàng năm phải cấp ngày càng tăng để chi các chế độ BHXH. 2.2.1.2. Quản lý tài chính BHXH của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Theo quy định tại Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961, "Tổng Công đoàn Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý quỹ BHXH và toàn bộ sự nghiệp BHXH của công nhân, viên chức nhà nước" (Điều 67), thực hiện thu 4,7% so với tổng quỹ tiền lương của công nhân, viên chức để hình thành quỹ BHXH. Theo quy định tại Nghị định 31/CP ngày 20/03/1963 của Hội đồng Chính phủ, Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) có trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp và quản lý các sự nghiệp BHXH. Theo quy định tại Quyết định số 62/CP ngày 10/04/1964 của Hội đồng Chính phủ về việc trích một phần quỹ BHXH giao cho Bộ Nội vụ quản lý thì Tổng Công đoàn Việt Nam chỉ thu 3,7% so với tổng quỹ tiền lương của công nhân, viên chức. Kể từ 01/10/1986, mức thu được nâng lên là 5% so với tổng quỹ tiền lương của công nhân, viên chức được quy định tại Quyết định số 131/HĐBT ngày 30/10/1986 của Hội đồng Bộ trưởng. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thực hiện thu theo tỷ lệ này đến khi bàn giao trách nhiệm quản lý thu, chi quỹ BHXH cho hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam (1/7/1995). Về chi từ quỹ BHXH, ngoài việc dùng quỹ BHXH để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động như trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam còn quy định chi phí về công tác quản lý quỹ BHXH và công tác quản lý các sự nghiệp BHXH: Chi phí về công tác quản lý các sự nghiệp BHXH (nhà nghỉ mát, an dưỡng, nhà dưỡng lão …); trả lương và các chế độ phúc lợi cho những công nhân, viên chức phục vụ ở các sự nghiệp BHXH; chi phí về hành chính phí cho các sự nghiệp BHXH; chi phí về vui chơi, giải trí cho các sự nghiệp BHXH; sửa chữa nhà, mua sắm thêm các dụng cụ cho các sự nghiệp BHXH; mua thuốc phòng bệnh và dụng cụ y tế thông thường cho các tủ thuốc cấp cứu ở các sự nghiệp BHXH …); bồi dưỡng cho công nhân, viên chức đi nghỉ mát hàng năm theo tiêu chuẩn, chế độ của Nhà nước quy định. Chi về công tác quản lý quỹ BHXH: Trả lương và các chế độ phúc lợi cho cán bộ chuyên trách làm công tác BHXH từ Trung ương đến cơ sở; chi về mở lớp học đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác BHXH; chi phí về các hội nghị sơ kết, tổng kết công tác BHXH ... [58]. Trong thời kỳ này, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam không hình thành quỹ BHXH tập trung mà cho phép các đơn vị sử dụng lao động được tọa chi từ nguồn kinh phí phải trích nộp. Nếu số phải nộp lớn hơn số thực chi tại đơn vị sử dụng lao động thì cuối tháng phải nộp cho cơ quan Liên đoàn Lao động; ngược lại nếu số thực chi lớn hơn thì LĐLĐ sẽ cấp bù. Thậm chí có một thời gian, LĐLĐ tỉnh, huyện còn đưa ra hình thức khoán chi theo tỷ lệ (trong tổng số 5%) cho các đơn vị sử dụng lao động chi trả hai chế độ ốm đau, thai sản. Nếu đơn vị "tiết kiệm" chi không hết thì được bổ sung vào quỹ phúc lợi để cho công nhân, viên chức đi tham quan, nghỉ mát hoặc bồi dưỡng tại chỗ. Hệ thống tổ chức quản lý quỹ được hình thành ba cấp dự toán: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là đơn vị tổng dự toán, LĐLĐ tỉnh, thành phố và công đoàn ngành là đơn vị dự toán cấp 1, LĐLĐ quận, huyện là đơn vị dự toán cấp 2. Công tác tổ chức quản lý thu, chi được quy định cụ thể cho từng cấp theo nguyên tắc cấp trên duyệt dự toán thu, chi cho đơn vị cấp dưới và tổ chức quyết toán theo trình tự ngược lại. Phương thức thu nộp BHXH là nộp phần chênh lệch (hoặc được cấp bổ sung) sau khi chi các chế độ BHXH và chi quản lý sự nghiệp và quản lý quỹ BHXH theo phân cấp. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trực tiếp đầu tư xây dựng và quản lý sử dụng các cơ sở nghỉ dưỡng sức của toàn hệ thống. 2.2.2. Phương thức quản lý tài chính giai đoạn từ 1995 đến nay 2.2.2.1. Về tổ chức bộ máy quản lý Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý tài chính của Bảo hiểm xã hội Việt Nam được phân thành ba cấp: Bảo hiểm xã hội Việt Nam là đơn vị dự toán cấp 1; Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trunng ương (sau đây gọi chung là BHXH tỉnh), Văn phòng Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Trung tâm Thông tin - Khoa học, Đại diện Bảo hiểm xã hội Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh, Tạp chí Bảo hiểm xã hội là các đơn vị dự toán cấp 2; Bảo hiểm xã hội các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là BHXH huyện) là đơn vị dự toán cấp 3. Các đơn vị dự toán cấp 1, cấp 2 và cấp 3 có tư cách pháp nhân đầy đủ, thực hiện hạch toán kế toán, báo cáo quyết toán hoạt động tài chính của từng đơn vị; đồng thời thực hiện hạch toán kế toán, tập trung toàn ngành tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Các đơn vị trực tiếp thực hiện nghiệp vụ quản lý tài chính và hạch toán kế toán là: ở Bảo hiểm xã hội Việt Nam có Ban Kế hoạch - Tài chính; ở BHXH tỉnh có Phòng Kế hoạch - Tài chính; ở BHXH huyện có bộ phận kế toán (có cán bộ chuyên trách làm nhiệm vụ kế toán trưởng). 2.2.2.2. Hành lang pháp lý về quản lý tài chính trong ngành BHXH Trong thời gian qua, căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và căn cứ vào tình hình triển khai thực hiện các chế độ, chính sách BHXH và hoạt động thực tiễn của ngành. Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã chủ động xây dựng để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ quản lý nhà nước và tự ban hành (trong phạm vi thẩm quyền) các văn bản để điều chỉnh mọi hoạt động của ngành nhằm đáp ứng được yêu cầu hoạt động của ngành vừa đảm bảo được nguyên tắc quản lý. Riêng về lĩnh vực quản lý tài chính có các văn bản đã được ban hành như sau: - Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/01/1998 ban hành Quy chế quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Quyết định số 100/2001/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg. - Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 85/1998/TT-BTC ngày 25/06/1998 hướng dẫn Quy chế quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Thông tư số 66/2001/TT- BTC ngày 22/08/2001 hướng dẫn sửa đổi một số điều của Thông tư số 85/1998/TT-BTC hướng dẫn Quy chế quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam. - Bộ Tài chính ban hành hệ thống chế độ kế toán BHXH áp dụng cho tất cả các đơn vị thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam tại Quyết định số 1058a–TC/QĐ/KT ngày 29/09/1995; Quyết định số 1124-TC/QĐ/CĐKT ngày 12/12/1996 và Quyết định số 140/1999/QĐ-BTC ngày 15/11/1999. - Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã phối hợp với Tổng cục Đầu tư phát triển, Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, Kho bạc Nhà nước Trung ương, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam hướng dẫn các đơn vị dự toán cấp 2 và cấp 3 mở các tài khoản để tiếp nhận kinh phí, thanh toán thu, chi BHXH, chi quản lý hoạt động bộ máy và chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của hệ thống. - Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện cấp sổ và ghi sổ BHXH; thủ tục hồ sơ và trình tự giải quyết các chế độ, chính sách cho người lao động; quy định quản lý thu BHXH; quy định quản lý chi BHXH; quản lý chi hoạt động bộ máy; quản lý đầu tư xây dựng cơ sở vật chất. 2.2.2.3. Những nội dung và quy trình quản lý tài chính trong hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam a) Về trình tự quản lý Thứ nhất: Công tác lập kế hoạch, xét duyệt và giao kế hoạch. Hàng năm căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, các đơn vị dự toán đều phải xây dựng kế hoạch hoạt động với các nội dung chủ yếu sau: - Số người tham gia BHXH và số thu BHXH. - Số người hưởng các chế độ BHXH và số chi BHXH (nguồn do Ngân sách Nhà nước cấp, nguồn chi quỹ BHXH đảm bảo). - Chi quản lý hoạt động bộ máy. - Chi mua sắm, trang bị tài sản. - Chi đầu tư xây dựng cơ bản. Các đơn vị dự toán cấp trên kiểm tra, xét duyệt và giao chỉ tiêu kế hoạch cho đơn vị dự toán cấp dưới, đây là chỉ tiêu pháp lệnh quan trọng để làm căn cứ tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả hoàn thành công tác của đơn vị. Thứ hai: Tổ chức thực hiện và báo cáo kết quả thực hiện. Căn cứ vào các quy định về quản lý và chế độ thu BHXH, chi BHXH, chi quản lý hoạt động bộ máy, chi đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước và của Bảo hiểm xã hội Việt Nam quy định, các đơn vị tổ chức thực hiện theo các chỉ tiêu kế hoạch được giao. Tổ chức hạch toán, kế toán, thống kê các nghiệp vụ kinh tế phát sinh kịp thời, đầy đủ vào trong hệ thống chứng từ, sổ sách kế toán theo quy định. Cuối quý và cuối năm, các đơn vị dự toán đều phải lập báo cáo quyết toán tài chính của đơn vị và gửi lên đơn vị dự toán cấp trên. Các đơn vị dự toán cấp trên thực hiện công tác kiểm tra, xét duyệt báo cáo quyết toán của đơn vị cấp dưới, trước khi ra thông báo chuẩn y quyết toán cho đơn vị dự toán cấp dưới. Bảo hiểm xã hội Việt Nam phải kiểm tra, xét duyệt báo cáo quyết toán của các đơn vị trực thuộc, tổng hợp báo cáo quyết toán toàn ngành trình Hội đồng Quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Bộ Tài chính xem xét, quyết định phê duyệt quyết toán. b) Về nội dung và qui trình quản lý Có thể khái quát các nội dung và mối quan hệ trong quản lý tài chính theo các nguồn kinh phí hình thành quỹ BHXH và các nguồn kinh phí dùng quỹ BHXH để chi thể hiện ở sơ đồ quản lý tài chính ở Bảo hiểm xã hội Việt Nam (Sơ đồ số 3). Quan hệ 1: Hàng tháng các đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm thu tiền đóng BHXH của người lao động trong đơn vị và nộp đầy đủ tiền đóng BHXH của đơn vị và của cả người lao động cho BHXH các tỉnh và BHXH các huyện. Để quản lý từng đơn vị sử dụng lao động và từng người lao động trong đơn vị, tránh chồng chéo giữa BHXH tỉnh và BHXH huyện, giữa BHXH tỉnh này với BHXH các tỉnh khác, việc phân cấp quản lý thu BHXH được thực hiện như sau: - BHXH tỉnh tổ chức thu BHXH của các đơn vị sử dụng lao động có trụ sở chính đóng trên địa bàn tỉnh bao gồm: + Các đơn vị do Trung ương quản lý; + Các đơn vị do tỉnh trực tiếp quản lý. + Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Các đơn vị, tổ chức quốc tế. + Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng số lao động lớn (Giám đốc BHXH tỉnh xác định cụ thể). + Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đối với những đơn vị sử dụng lao động mà BHXH huyện không đủ điều kiện thu BHXH thì BHXH tỉnh trực tiếp tổ chức thu. - BHXH huyện thu BHXH của các đơn vị có trụ sở chính đóng trên địa bàn huyện bao gồm: + Các đơn vị do huyện trực tiếp quản lý. + Các đơn vị ngoài quốc doanh sử dụng từ 10 lao động trở lên. + Các xã, phường, thị trấn. + Các đơn vị khác do BHXH tỉnh giao nhiệm vụ thu. - Đối với các đơn vị sử dụng lao động có các đơn vị trực thuộc đóng trụ sở và hoạt động trên địa bàn nhiều tỉnh thì nộp BHXH tại cơ quan BHXH tỉnh nơi đóng trụ sở chính; đơn vị sử dụng lao động muốn để các đơn vị trực thuộc nộp BHXH tại nơi đơn vị trực thuộc đóng trụ sở, phải có văn bản đề nghị và có ý kiến của cơ quan BHXH tỉnh nơi đóng trụ sở chính đồng ý. Hàng năm các đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm lập danh sách số lao động tham gia BHXH, quỹ tiền lương và số tiền đóng BHXH với cơ quan BHXH trực tiếp quản lý thu BHXH. Cơ quan BHXH có trách nhiệm kiểm tra, đối chiếu, xác nhận số lao động có đóng tiền BHXH, tổng số tiền đóng BHXH của đơn vị sử dụng lao động và của từng người lao động; đồng thời ghi vào sổ BHXH của từng người lao động về thời gian đóng BHXH, số tiền đóng BHXH để làm căn cứ duy nhất giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động. Quan hệ 2: BHXH huyện được mở 2 tài khoản tiền gửi "chuyên thu BHXH" để giao dịch thanh toán tiền thu BHXH. Tài khoản tiền gửi mở tại Kho bạc Nhà nước huyện để thuận tiện giao dịch tiền thu BHXH cho các đơn vị hành chính sự nghiệp và một số doanh nghiệp có mở tài khoản thanh toán tại Kho bạc Nhà nước huyện. Tài khoản tiền gửi mở ở Ngân hàng No và PTNT huyện để thuận tiện giao dịch tiền thu BHXH cho các đơn vị là các doanh nghiệp và các đơn vị khác. BHXH huyện không được sử dụng tiền thu BHXH để chi cho bất kỳ nội dung công việc gì. Định kỳ vào các ngày 10, 25 hàng tháng và ngày 31/12 hàng năm, phải chuyển hết số tiền có trong 2 tài khoản chuyên thu về tài khoản chuyên thu của BHXH tỉnh. Quan hệ 3: Tương tự như BHXH huyện, BHXH tỉnh được mở tài khoản "chuyên thu BHXH" ở Kho bạc Nhà nước tỉnh và ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh để tiếp nhận tiền thu BHXH của BHXH các huyện chuyển về và tiền thu BHXH của các đơn vị sử dụng lao động đóng hàng tháng. BHXH tỉnh không được sử dụng tiền thu BHXH để chi cho bất kỳ nội dung công việc gì. Định kỳ vào các ngày 10, 20 và cuối tháng phải chuyển hết số tiền có trên 2 tài khoản về tài khoản tiền gửi của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Quan hệ 4: Do tính chất đặc thù trong tổ chức và hoạt động nên Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ được coi như là một đơn vị sử dụng lớn. Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ có trách nhiệm thu BHXH đối với toàn bộ các đơn vị, cán bộ, công nhân viên, sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ do từng Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ quản lý. Sau đó chuyển toàn bộ số tiền thu BHXH thu được vào tài khoản của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ có trách nhiệm ghi vào sổ BHXH cho từng người lao động về thời gian tham gia, mức đóng BHXH để làm căn cứ giải quyết chế độ BHXH cho người lao động. Quan hệ 5: Theo quy định hiện hành thì Ngân sách Nhà nước cấp đủ kinh phí cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam để chi trả cho các đối tượng đang hưởng các chế độ BHXH từ 1/1/1995 trở về trước. Hàng năm căn cứ vào số đối tượng đang hưởng các chế độ BHXH có mặt đến cuối năm trước và chế độ được hưởng của từng loại đối tượng, Bảo hiểm xã hội Việt Nam phải lập dự toán chi BHXH cho các đối tượng để trình Hội đồng Quản lý thông qua và gửi Bộ Tài chính. Bộ Tài chính kiểm tra và tổng hợp vào tổng dự toán Ngân sách Nhà nước để trình Quốc hội. Căn cứ vào dự toán được Quốc hội phê chuẩn, hàng quý, Bộ Tài chính cấp kinh phí chi BHXH (phần do Ngân sách Nhà nước đảm bảo) cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam để có nguồn kinh phí chi cho các đối tượng hưởng các chế độ BHXH. Khi kết thúc năm kế hoạch, Bảo hiểm xã hội Việt Nam phải tổng hợp báo cáo quyết toán chi BHXH (phần do Ngân sách Nhà nước cấp) do BHXH các huyện và BHXH các tỉnh đã thực chi để gửi Hội đồng Quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Bộ Tài chính kiểm tra và quyết định phê duyệt chi BHXH của toàn ngành. Quan hệ 6: Theo quy định hiện hành, quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi được đầu tư vào các lĩnh vực sau: Cho Ngân sách Nhà nước, các ngân hàng thương mại của Nhà nước, Quỹ hỗ trợ phát triển vay; mua kỳ phiếu, trái phiếu, công trái do Bộ Tài chính và các ngân hàng thương mại của Nhà nước phát hành; đầu tư vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nước được Thủ tướng Chính phủ cho phép và bảo trợ. Hàng năm, Bảo hiểm xã hội Việt Nam căn cứ vào tình hình thu BHXH, chi BHXH để dự báo số dư quỹ BHXH, xây dựng kế hoạch đầu tư quỹ BHXH dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, để huy động hợp lý và hết số dư quỹ BHXH. Hoạt động đầu tư phải đảm bảo các nguyên tắc: an toàn, tránh rủi ro, đạt hiệu quả xã hội cao; bảo toàn và tăng trưởng được quỹ và luôn luôn đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho hoạt động của ngành, nhất là phải chi trả kịp thời cho các đối tượng được hưởng các chế độ BHXH. Hiện tại, hoạt động đầu tư quỹ BHXH không phải đóng các loại thuế. Toàn bộ tiền sinh lời thu được được sử dụng như sau: trích 50% để bảo toàn và tăng trưởng quỹ; trích kinh phí chi quản lý bộ máy; trích quỹ khen thưởng phúc lợi; nếu còn để bổ sung nguồn vốn xây dựng cơ sở vật chất của ngành. Quan hệ 7: Hiện nay, nhiệm vụ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH do Ban Kế hoạch - Tài chính thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam đảm nhiệm, toàn bộ chi phí quản lý hoạt động đầu tư (chủ yếu là chi phí quản lý hành chính) đã được quyết toán vào kinh phí hoạt động chi quản lý bộ máy của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Vì vậy, cho đến nay chưa hạch toán riêng khoản chi phí này để phân bổ cho hoạt động đầu tư quỹ. Khi thành lập một tổ chức chuyên trách độc lập thực hiện nhiệm vụ đầu tư tăng trưởng quỹ thì sẽ hạch toán riêng khoản chi phí cho hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Quan hệ 8: Như phần trên đã trình bày, do có tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động; do đó, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã ủy quyền cho Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ thực hiện hướng dẫn, tổ chức xét duyệt hồ sơ, chứng từ và chi trả các chế độ BHXH: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, trợ cấp một lần cho các đối tượng được hưởng. Bảo hiểm xã hội Việt Nam cấp tạm ứng kinh phí để các đơn vị có nguồn chủ động chi. Hàng quý, năm, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ tập hợp chứng từ lập báo cáo quyết toán gửi Bảo hiểm xã hội Việt Nam kiểm tra và phê duyệt quyết toán. Riêng kinh phí chi quản lý hành chính cho những tổ chức và cá nhân làm công tác quản lý sự nghiệp BHXH trong hệ thống do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ tự bố trí. Quan hệ 9: Hàng tháng, Bảo hiểm xã hội Việt Nam cấp kinh phí để BHXH tỉnh thực hiện chi trả các chế độ BHXH cho người lao động trên cơ sở các chế độ, chính sách mà người lao động được hưởng. BHXH tỉnh được mở hai tài khoản "chuyên chi BHXH" và chỉ được phép sử dụng tiền trong tài khoản để chi trả cho các đối tượng hưởng các chế độ do BHXH tỉnh trực tiếp quản lý và cấp cho BHXH huyện để có nguồn kinh phí chi cho các đối tượng hưởng các chế độ BHXH do BHXH huyện trực tiếp quản lý. Một tài khoản mở ở Kho bạc Nhà nước để tiếp nhận kinh phí hạn mức do Bảo hiểm xã hội Việt Nam chuyển về để chi cho các đối tượng đang được hưởng các chế độ BHXH có đến thời điểm 01/01/1995 trở về trước (là các đối tượng hưởng các chế độ BHXH do Ngân sách Nhà nước đảm bảo). Một tài khoản mở ở Ngân hàng No và PTNT để tiếp nhận kinh phí do Bảo hiểm xã hội Việt Nam chuyển về để chi cho các đối tượng hưởng các chế độ BHXH phát sinh từ 01/01/1995 trở đi (là các đối tượng hưởng các chế độ BHXH do quỹ BHXH đảm bảo). Quan hệ 10: Tương tự như BHXH tỉnh, BHXH huyện được mở hai tài khoản "chuyên chi BHXH" để tiếp nhận kinh phí do BHXH tỉnh chuyển về dùng để chuyên chi BHXH cho các đối tượng hưởng các chế độ BHXH do BHXH huyện quản lý. Quan hệ 11: BHXH tỉnh, BHXH huyện thực hiện tiếp nhận hồ sơ do người lao động và người sử dụng lao động lập gửi đến, thực hiện thẩm định, quản lý và tổ chức chi trả cho đối tượng được hưởng. Để quản lý chặt chẽ, tránh chồng chéo và giảm bớt thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng lao động và người lao động. Công tác giải quyết các chế độ, chính sách, quản lý đối tượng, tổ chức chi được phân cấp và phân công trách nhiệm cụ thể như sau: * Đối với các chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức: + Đơn vị sử dụng lao động phải tập hợp các chứng từ như giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH, giấy ra viện, giấy khai sinh … và lập danh sách người lao động của đơn vị để hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức gửi cơ quan BHXH tỉnh, BHXH huyện. Đơn vị sử dụng lao động được BHXH tỉnh, BHXH huyện ủy quyền chi trả trực tiếp cho người lao động các chế độ nói trên. + BHXH tỉnh chịu trách nhiệm kiểm tra, xét duyệt, chuyển tiền thanh toán, quyết toán chi các chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức đối với những đơn vị do BHXH tỉnh thực hiện quản lý thu BHXH và ghi sổ BHXH cho người lao động ở đơn vị đó. + BHXH huyện chịu trách nhiệm kiểm tra, xét duyệt, chuyển tiền thanh toán, quyết toán chi các chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức đối với những đơn vị do BHXH huyện thực hiện quản lý thu BHXH và ghi sổ BHXH cho người lao động ở đơn vị đó. * Đối với các chế độ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất: Đơn vị sử dụng lao động (hoặc người thân của đối tượng đang hưởng BHXH) tập hợp các hồ sơ như: biên bản điều tra tai nạn lao động; biên bản tai nạn giao thông hoặc khám nghiệm hiện trường - đối với trường hợp bị tai nạn giao thông đề nghị xét hưởng chế độ tai nạn lao động; biên bản đo đạc môi trường lao động có yếu tố độc hại gây nên bệnh nghề nghiệp; biên bản giám định suy giảm sức khỏe; quyết định cho nghỉ việc để hưởng chế độ BHXH của người sử dụng lao động; sổ BHXH của người lao động; giấy chứng tử... gửi đến cơ quan BHXH tỉnh để kiểm tra và ra quyết định hưởng các chế độ BHXH (không phân cấp cho BHXH huyện). Định kỳ Bảo hiểm xã hội Việt Nam tổ chức thẩm định, nếu phát hiện sai sót sẽ được điều chỉnh và BHXH tỉnh phải chịu trách nhiệm thực hiện truy thu (nếu giải quyết thừa) hoặc cho đối tượng truy lĩnh (nếu giải quyết thiếu). Các quan

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Quản lý tài chính trong Bảo hiểm xã hội Việt Nam - Thực trạng và giải pháp.pdf
Tài liệu liên quan