Tài liệu Luận văn Vấn đề phát huy vai trò của Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay: LUẬN VĂN:
Vấn đề phát huy vai trũ của Công đoàn Việt Nam
trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Đảng ta
chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo điều kiện để các thành
phần kinh tế cùng phát triển nhất là các DNNQD. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định
kinh tế ngoài quốc doanh là bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đồng thời là
chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN.
Tình hình phát triển kinh tế nhiều thành phần trong những năm qua cho thấy, khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, chiếm tỷ
trọng ngày càng lớn trong cơ cấu kinh tế góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Sự phát triển nhanh của các DNNQD trong thời gian qua đã
mang lại hiệu quả to lớ...
111 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1261 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề phát huy vai trò của Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vấn đề phát huy vai trũ của Công đoàn Việt Nam
trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Đảng ta
chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo điều kiện để các thành
phần kinh tế cùng phát triển nhất là các DNNQD. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định
kinh tế ngoài quốc doanh là bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đồng thời là
chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN.
Tình hình phát triển kinh tế nhiều thành phần trong những năm qua cho thấy, khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, chiếm tỷ
trọng ngày càng lớn trong cơ cấu kinh tế góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Sự phát triển nhanh của các DNNQD trong thời gian qua đã
mang lại hiệu quả to lớn. Đặc biệt là huy động được nguồn lực cho đầu tư phát triển đất
nước, tiếp thu khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại tiên tiến, xây dựng kết cấu hạ tầng,
tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, có ý nghĩa then chốt trong giải quyết các vấn đề xã
hội, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, đào tạo phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả
nước.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã tác động sâu sắc làm chuyển dịch cơ cấu
giai cấp công nhân nước ta bởi tính sở hữu hợp pháp của các thành phần kinh tế. Cơ cấu,
chất lượng đội ngũ công nhân lao động ở nước ta ngày càng phát triển phong phú, đa dạng
và thay đổi nhanh chóng. Bên cạnh sự thay đổi mang tính tích cực đã có nhiều những bất
cập xảy ra: về việc làm, đời sống, công bằng xã hội, quan hệ chủ thợ v.v.... Nhiều chủ
doanh nghiệp trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã không chấp hành, không làm
đúng các quy định của pháp luật lao động, vi phạm quyền lợi của người lao động như việc
làm, tiền lương, giao kết hợp đồng lao động, BHLĐ, ký kết TƯLĐTT, điều kiện làm việc
cho người lao động. Vì vậy đã phát sinh nhiều mâu thuẫn trong quan hệ lao động, tình
trạng tranh chấp lao động và đình công của công nhân lao động trong các doanh nghiệp
ngày càng ra tăng và có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là trong các doanh nghiệp khu vực
ngoài quốc doanh.
Đi đôi với chính sách mở cửa hội nhập với nền kinh tế quốc tế là công cuộc cải cách
hành chính của Đảng và Nhà nước ta nhằm tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đan
xen cùng phát triển; chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, tạo thế chủ động
cho các doanh nghiệp phát triển. Trong quá trình sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước một bộ phận công nhân lao động nghỉ chế độ chính sách hoặc chuyển sang các
thành phần kinh tế khác trong các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do đó số công
nhân lao động trong doanh nghiệp Nhà nước giảm.
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và
người lao động, với chức năng bảo vệ, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của các DNNQD, việc thành lập công đoàn cơ sở ở các
doanh nghiệp này để bảo vệ lợi ích cho người lao động là một nhiệm vụ trọng tâm của tổ
chức Công đoàn, nhằm tập hợp đông đảo giai cấp công nhân nâng cao nhận thức cho
công nhân lao động về đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, bảo vệ
lợi ích người lao động, đồng thời xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà ổn định nhằm
phát triển sản xuất kinh doanh tiến tới công bằng, dân chủ văn minh.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn mới của tổ chức Công đoàn
là phải đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động, nhanh chóng mở rộng phạm vi, đối
tượng tập hợp đông đảo công nhân lao động trong các thành phần kinh tế vào tổ chức
Công đoàn. Đây là yêu cầu khách quan của tổ chức công đoàn và hoàn toàn phù hợp với
chủ trương đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
Xuất phát từ những điều nói trên, tác giả chọn đề tài: “Vấn đề phát huy vai trũ của
Cụng đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh hiện nay” làm đề tài nghiên cứu và hy vọng góp phần vào việc nghiên
cứu và đề ra những giải pháp để xây dựng và nâng cao vai trò của Công đoàn trong các
DNNQD.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ những năm 80 của thế kỷ XX cho đến nay, trước sự chuyển biến của nền kinh tế thế
giới, trước tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, cơ sở xã hội - chính trị của tổ chức công
đoàn đã có những biến đổi quan trọng. Nhiều nhà lý luận công đoàn trong nước và nước
ngoài đã viết những tác phẩm về chủ đề công đoàn và các giải pháp của nó nhằm tập hợp
ngày càng đông đảo quần chúng để bảo vệ lợi ích của bản thân người lao động trước những
thách thức của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Tôn Trung Phạm một nhà nghiên
cứu về giai cấp công nhân, công đoàn ở Trung Quốc đã có tác phẩm “Kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa và công đoàn” (người dịch sang tiếng Việt: Nguyễn Tiến Chiên, do Ban đối
ngoại Tổng Liên Đoàn Việt Nam, Trường Đại học Công đoàn và nhà xuất bản lao động xuất
bản năm 1997. Hai tác giả người Nga: V.N.Kiselev và V.G Smolkov đã có tác phẩm “Quan
hệ đối tác xã hội ở Nga”, đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của công đoàn trong quan hệ đối tác
ba bên: Công đoàn (đại diện cho người lao động), giới chủ và nhà nước. Các tác giả này đã
có nhiều ý kiến giá trị cho cán bộ công đoàn Việt Nam tham khảo.
Trước yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, xuất phát từ tầm quan
trọng của việc nâng cao vị trí, vai trò và chức năng của Công đoàn Việt Nam để đáp ứng
đòi hỏi của thời kỳ hội nhập, nhiều nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam đã tập trung nghiên cứu
về Công đoàn. Có thể liệt kê một số tác giả, tác phẩm mới được công bố những năm gần
đây như:
“Giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” của PGS.TS Nguyễn Viết Vượng, Nxb Lao động, năm
2003.
“Nâng cao hiệu quả hoạt động Công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài” của TS. Dương Văn Sao, chủ biên, Nxb Lao động, năm 2003.
“Lý luận Mác - Lênin về công đoàn và vận dụng vào hoạt động công đoàn Việt Nam
trong kinh tế thị trường” của PGS.TS Nguyễn Viết Vượng, năm 2005.
Ngoài ra, còn có một số bài nghiên cứu về vai trò của công đoàn trên các tạp chí,
"Mấy suy nghĩ về công tác đào tạo, quy hoạch cán bộ Công đoàn hiện nay" của Lê Phan
Ngọc Rỉ, Tạp chí Lao động và Công đoàn, ngày 2 tháng 8 năm 1999,"Công đoàn Việt
Nam với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng" của Cù Thị Hậu, Tạp chí Cộng sản,
tháng 4 năm 2000,“Vai trò của Công đoàn Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế” của
PGS.TS Nguyễn Viết Vượng Tạp chí Cộng sản, tháng 7 năm 2007 ...
Các công trình và bài viết nêu trên phần lớn tập trung phân tích và khẳng định
những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin công đoàn, đồng thời đặt những luận điểm
này trong những điều kiện lịch sử cụ thể để phân tích, nghiên cứu. Về Công đoàn, các
công trình, bài viết đó chỉ đề cập đến mối quan hệ giữa Đảng và Công đoàn, những giải
pháp để nâng cao vai trò của Công đoàn nói chung. Trong khi đó “Vấn đề phát huy vai
trò của Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động hiện nay" đặc
biệt là trong các DNNQD chưa trình bày một cách cơ bản và có hệ thống trong bất kỳ
một công trình khoa học nào, nếu có thì cũng chỉ được trình bày lướt qua, đề cập đến một
biểu hiện nào đó của vấn đề mà thôi. Vì vậy, đề tài “Vấn đề phát huy vai trò của Công
đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh hiện nay" không trùng lặp với các công trình, bài viết đã được công bố.
Trong đề tài này, tác giả đã kế thừa có chọn lọc các kết quả của những công trình có
trước, tiếp tục bổ sung, phát triển hơn nữa, góp phần làm sáng tỏ vấn đề. Tác giả cũng hy
vọng rằng có thể vận dụng được những kết quả nghiên cứu vào hoạt động thực tiễn để tổ
chức Công đoàn đạt được hiệu quả tốt hơn trong bảo vệ lợi ích của người lao động ở các
DNNQD, để công đoàn xứng đáng là tổ chức chính trị - xã hội của người lao động hiện
nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở làm sáng rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò
của Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động ở các
DNNQD, luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc xác định những giải pháp
thực hiện tốt vai trò của Công đoàn trong tình hình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn đề cập đến các nội dung cơ
bản sau:
+ Công đoàn Việt Nam và vai trò của nó.
+ Thực trạng vai trò của Công đoàn Việt Nam đặc biệt là vai trò bảo vệ lợi ích của
người lao động ở DNNQD hiện nay.
+ Quan điểm và giải pháp nhằm phát huy vai trò của Công đoàn Việt Nam trong
việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở DNNQD hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Để hoàn thành mục tiêu đề ra, luận văn đi sâu phân tích
đánh giá Vai trò của công đoàn và phát huy vai trò của Công đoàn Việt Nam ở DNNQD
hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu và tìm hiểu vai trò của
Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các DNNQD hiện
nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để giải quyết nhiệm vụ của luận văn, chúng tôi dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò của Công đoàn.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
phương pháp kết hợp lôgic và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
so sánh và điều tra xã hội học trong việc nghiên cứu để thực hiện được nhiệm vụ và đạt
được mục đích mà luận văn đề ra.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Từ việc phân tích vị trí của Công đoàn Việt Nam, luận văn đã làm rõ vai trò của
Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các DNNQD và đề
xuất một số giải pháp để phát huy vai trò của Công đoàn trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho các cán bộ công đoàn hoạt
động, phục vụ công tác giảng dạy tại các trường đào tạo cán bộ công đoàn các cấp.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- ý nghĩa lý luận:
+ Luận văn làm rõ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về công đoàn, vai trò của
Công đoàn và vận dụng những quan điểm lý luận trên vào nghiên cứu vai trò của công
đoàn trong các DNNQD.
+ Làm rõ những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của công đoàn
và vận dụng những quan điểm trên vào giải quyết vấn đề vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ
lợi ích người lao động.
+ Những quan điểm của các nhà khoa học về sự chuyển biến của hoạt động công
đoàn trước tác động của hội nhập kinh tế quốc tế.
- ý nghĩa thực tiễn:
+ Làm rõ sự chuyển biến của hoạt động Công đoàn thế giới và Việt Nam trước tác
động của hội nhập hiện nay.
+ Phân tích thực trạng hoạt động Công đoàn Việt Nam trong những DNNQD hiện
nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.
Chương 1
Một Số Vấn Đề Lý Luận CHUNG
Về VAI Trò Của CÔNG Đoàn TRONG Việc Bảo Vệ
Lợi ích Của Người LAO Động
1.1. Lý luận chung về vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ lợi ích của người
lao động
1.1.1. Quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin về vai trò bảo vệ lợi ích
người lao động của Công đoàn
1.1.1.1. Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen
Lý luận về Công đoàn của C.Mác và Ph.Ăngghen gắn liền với học thuyết về giai
cấp công nhân, về vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại chúng ta.
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác và Ph.Ăngghen phân tích rất
sâu sắc quá trình phát triển của phong trào công nhân. ở tác phẩm này, hai ông xem xét
các trình độ khác nhau trong sự phát triển của giai cấp vô sản và đã đi đến kết luận rằng,
việc tổ chức những người vô sản thành một giai cấp là yêu cầu khách quan của lịch sử.
Khi nói về sự phát triển của công đoàn trong “Chỉ thị gửi các đại biểu Hội đồng Trung
ương lâm thời”, C.Mác nhận định rằng, hoạt động của công đoàn nhằm cố gắng chặn
đứng cuộc tấn công không ngừng của tư bản vào những người lao động cần được mở
rộng một cách phổ biến bằng cách lập ra những công đoàn trong tất cả các nước và liên
hiệp những trung tâm tổ chức đối với giai cấp công nhân nhằm loại trừ chế độ làm thuê
và quyền lực của tư bản.
C.Mác coi các Công đoàn là một lực lượng hùng hậu chống lại chế độ nô lệ làm thuê,
nêu rõ những nhiệm vụ của Công đoàn khi đã đặt cho mình sứ mệnh giải phóng toàn bộ
giai cấp công nhân, thì các Công đoàn phải rèn luyện năng lực hoạt động một cách tự giác,
ủng hộ mọi phong trào xã hội, phải tự coi mình là những đại biểu của giai cấp công nhân
và chiến đấu cho quyền lợi của giai cấp đó.
Đối với C.Mác, tổ chức Công đoàn xuất hiện là yêu cầu khách quan của phong trào
công nhân trên bước đường đấu tranh chống giai cấp tư sản. Trong bức thư gửi Ph.Bôn-tơ
ngày 23 tháng 1 năm 1871, C.Mác nhận định rằng, những mục tiêu quần chúng rộng lớn,
nhiệm vụ đấu tranh chính trị và kinh tế đã xác định rõ ràng, phong trào chính trị của giai
cấp công nhân có mục tiêu cuối cùng là giành chính quyền về tay mình. Muốn thế, thì
trước đó, phải có một tổ chức của giai cấp trưởng thành từ trong bản thân cuộc đấu tranh
kinh tế rời rạc của công nhân ở khắp nơi, đó là tổ chức Công đoàn.
C.Mác cổ vũ cho các Công đoàn hãy biết thống nhất lực lượng đấu tranh cho mục
tiêu giải phóng hoàn toàn giai cấp công nhân. Người viết:
Các công đoàn phải ủng hộ mọi phong trào xã hội và chính trị nhằm mục
tiêu ấy. Tự coi mình là những người đại biểu của toàn bộ giai cấp công nhân và
chiến đấu cho quyền lợi của giai cấp công nhân và chiến đấu cho quyền lợi của
giai cấp đó, các công đoàn phải thu hút vào hàng ngũ mình cả những công
nhân chưa đứng trong tổ chức. Các công đoàn cần đặc biệt quan tâm đến quyền
lợi của những người công nhân làm nghề có lương thấp nhất. Các Công đoàn
phải làm cho toàn thế giới thấy rằng mình chiến đấu không phải vì những
quyền lợi cá nhân hẹp hòi, mà là để giải phóng hàng triệu người bị áp bức [20,
tr.104-105].
Sau khi xác định vị trí của Công đoàn trong đấu tranh của giai cấp vô sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh đến vai trò lãnh đạo của Đảng vô sản trong cuộc đấu tranh ấy,
đồng thời cho rằng các Công đoàn đóng vai trò to lớn trong việc ngăn chặn những cuộc
chiến tranh phục vụ quyền lợi của giai cấp cầm quyền ở các nước tư bản. Hai ông đã cố
gắng cổ vũ, thu hút các công đoàn vào cuộc đấu tranh chống lại những cuộc chiến tranh
đó v.v …
Như vậy, Công đoàn ra đời dưới chế độ tư bản, bắt nguồn từ sự phản kháng của
công nhân chống lại sự áp bức bất công của giới chủ. Trong học thuyết của C. Mác và
Ph. Ăngghen, công đoàn với với chức năng bẩm sinh đấu tranh bảo vệ lợi ích giai cấp
công nhân có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển biến giai cấp công nhân từ tự phát
lên tự giác, từ “giai cấp tự mình” đến “giai cấp vì mình”. Điều mà C.Mác khẳng định:
Các công đoàn đó trở thành những trung tâm tổ chức đối với công nhân
cũng giống như những thị xã và công xã thời trung cổ là những trung tâm tổ
chức đối với giai cấp tư sản. Nếu công đoàn cần thiết cho cuộc đấu tranh du
kích giữa tư bản và lao động, thì công đoàn lại càng quan trọng hơn với tư cách
là một lực lượng có tổ chức để tiêu diệt bản thân chế độ lao động làm thuê và
quyền lực của tư bản [20, tr.235- 236].
Trong quá trình chuyển biến về chất của phong trào công nhân, Công đoàn trở thành
trường học đấu tranh giai cấp, ở đó công nhân được tập hợp, đoàn kết thành trung tâm
phản kháng đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, chống lại quyền lực của chế độ tư bản
đương thời.
1.1.1.2. Quan điểm của V.I.Lênin về vai trò của Công đoàn trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội
Tiếp tục phát triển lý thuyết của C.Mác - Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã chỉ ra vai trò
trường học của Công đoàn. Theo Lênin, bản chất Công đoàn là trường học CNCS vẫn
không thay đổi ngay trong điều kiện của chính sách kinh tế mới. Song, sự thể hiện vai trò
đó được bổ sung thêm những nội dung mới. Đồng thời cũng có những thay đổi tương ứng
về hình thức và phương pháp công tác của Công đoàn.
Cũng như trước đây, chức năng hoạt động chủ yếu của Công đoàn vẫn là những
phương hướng hoạt động có liên quan đến việc thu hút đông đảo quần chúng lao động
tham gia quản lý sản xuất và các công việc xã hội khác, bồi dưỡng cho quần chúng những
phương pháp quản lý kinh tế - xã hội chủ nghĩa, phổ biến cho công nhân viên chức những
thao tác lao động mới và phương pháp tổ chức quá trình sản xuất, giáo dục cho họ thái độ
lao động mới đối với lao động và tài sản, kỷ luật lao động mới, tinh thần làm chủ xí
nghiệp, tinh thần làm chủ đất nước. Đó chính là những chức năng trường học quản lý,
trường học kinh doanh của Công đoàn.
Điều có ý nghĩa quan trọng là Công đoàn tham gia vào việc xây dựng tất cả cơ quan
Nhà nước và kinh doanh về quản lý kinh tế. Công đoàn có quyền giới thiệu ứng cử viên
của mình vào các chức vụ quản lý hành chính - kinh tế. Có quyền xét duyệt các ứng cử
viên thuộc về tổ chức Đảng và các cơ quan chính quyền. Chức năng Công đoàn là trường
học quản lý, trường học kinh doanh cũng được thực hiện bằng cách đại diện của Công
đoàn tham gia với tư cách là thành viên của các cơ quan tối cao của Nhà nước, các ban
lãnh đạo kinh tế, ban giám đốc nhà máy, người quản lý, trợ lý của người quản lý v.v...
Nội dung chức năng của công đoàn là trường học quản lý, trường học kinh doanh
còn bao gồm cả việc Công đoàn tham gia vào việc thiết lập kế hoạch sản xuất. Với mục
đích đó, Đảng đã nêu rõ sự cần thiết phải có đại diện của Công đoàn tham gia vào tất cả
các cơ quan kế hoạch của Nhà nước vô sản. Như Lênin đã nhấn mạnh, hoạt động của
Công đoàn...
Phải lôi cuốn ngày càng sâu rộng giai cấp công nhân và quần chúng lao
động vào toàn bộ sự nghiệp xây dựng kinh tế, toàn bộ hoạt động công nghiệp,
từ việc thu mua nguyên liệu đến việc bán sản phẩm, bằng cách làm cho họ có
một ý niệm ngày càng cụ thể về kế hoạch kinh tế xã hội chủ nghĩa thống nhất
của Nhà nước cũng như về lợi ích thực tiễn của công nhân và nông dân trong
việc thực hiện kế hoạch đó [15, tr.424-425].
Một trong những vấn đề quan trọng nhất trong lý thuyết của Lênin về Công đoàn là
bảo vệ lợi ích của người lao động.
Chính sách kinh tế mới do Lênin đề xướng đã mang lại hàng loạt những biến đổi quan
trọng về nội dung, hình thức và phương pháp thực hiện một chức năng nữa của Công đoàn
là gắn liền với việc bảo vệ lợi ích kinh tế, các quyền của công nhân viên chức, việc quan
tâm đến điều kiện lao động và sinh hoạt của họ.
Lênin từng nhấn mạnh: Công đoàn có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của người lao động
theo ý nghĩa đúng đắn và trực tiếp của từ đó. Bằng cách thường xuyên và không ngừng
sửa chữa những thiếu sót và sự cường điệu vấn đề của cán bộ phụ trách, đấu tranh chống
mọi biểu hiện quan liêu trong công tác của các cơ quan kinh tế và bộ máy quản lý Nhà
nước, tuỳ khả năng cho phép, Công đoàn cần tạo mọi điều kiện để cải thiện điều kiện lao
động và sinh hoạt của công nhân viên chức, nâng cao phúc lợi vật chất của họ. Mọi tổ
chức công đoàn thực hiện chức năng bảo vệ ở các xí nghiệp nhà nước tuyệt nhiên không
mang và không thể mang tính chất đấu tranh giai cấp về mặt kinh tế.
Theo Lênin, Công đoàn dưới CNXH phải gánh vác lấy những nhiệm vụ đặc biệt và
một trách nhiệm đặc biệt trong công cuộc xây dựng CNXH. Bởi vì, giai cấp công nhân, mà
Công đoàn là người đại diện, từ địa vị bị thống trị, áp bức dưới chế độ tư bản, nay đó trở
thành giai cấp lãnh đạo, quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Do đó, Công đoàn trở thành
trung tâm đoàn kết, tập hợp, giáo dục công nhân, lao động xây dựng xã hội mới - xã hội
XHCN. Theo đó, nhiều nội dung mới về nhiệm vụ, vai trò và chức năng của Công đoàn đó
được Lênin làm sáng tỏ như việc tham gia của Công đoàn vào quản lý kinh tế, văn hoá - xã
hội, quản lý nhà nước. Đặc biệt Người đó cụ thể hoá, phát triển nhiều vấn đề rất mới, chưa
có tiền lệ đặt ra đối với việc bảo vệ lợi ích của người công nhân, người lao động trong quá
trình xây dựng CNXH.
Trong khi đấu tranh với những quan điểm sai lầm về chức năng của Công đoàn
trong tình hình mới, Lênin khẳng định:
Nhà nước công nhân cũng mắc bệnh quan liêu. Và chúng ta buộc phải gắn
cho Nhà nước - biết nói như thế nào nhỉ - cái nhãn hiệu đáng buồn đó. Đó là tình
hình thực tế của bước quá độ. Trong một Nhà nước được hình thành trong những
điều kiện cụ thể như vậy, chẳng lẽ công đoàn lại không có cái gì để bảo vệ hay
sao? [15, tr.52].
Lênin còn chỉ rõ: “Các công đoàn có nhiệm vụ tuyệt đối phải bảo vệ lợi ích của
công nhân, phải góp phần vào phúc lợi vật chất của họ trong phạm vi có thể được, phải
luôn luôn uốn nắn những sai lầm và những việc làm thái quá của các cơ quan kinh tế, khi
những cái đó là do một sự lệch lạc quan liêu chủ nghĩa của bộ máy Nhà nước gây ra” [15,
tr.9]. Theo Lênin, chúng ta cần phải dùng Công đoàn để bảo vệ công nhân khỏi bị sự xâm
phạm của Nhà nước của họ và để công nhân bảo vệ Nhà nước của chúng ta. Và cả hai sự
bảo vệ đó được tiến hành bằng một sự kết hợp độc đáo những biện pháp Nhà nước của
chúng ta với sự thoả thuận của chúng ta, sự “kết hợp” với các công đoàn của chúng ta
[15, tr.53].
Điều đó thể hiện sự vận dụng, phát triển sáng tạo nhiệm vụ, chức năng bảo vệ lợi
ích người lao động trong điều kiện hoàn cảnh mới. Về vấn đề bãi công trong chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, Lênin đã có những chỉ dẫn hết sức quý giá.
Người không những thừa nhận thực tế hoạt động bãi công, mà cũng làm rõ nguyên nhân
của hoạt động này:
Đảng cộng sản, cũng như chính quyền xô viết, cũng như các công đoàn,
đều tuyệt đối không được quên và không được dấu không cho công nhân và quần
chúng cần lao biết rằng việc dùng đến đấu tranh bói cụng trong một nước mà
chính quyền thuộc về tay giai cấp vô sản chỉ có thể giải thích và biện hộ duy nhất
bằng một mặt, những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa của Nhà nước vô sản và mọi
thứ tàn dư của quá khứ tư bản chủ nghĩa trong các tổ chức của Nhà nước vô sản,
và mặt khác, bằng trình độ chính trị của quần chúng cần lao cũng thấp kém và
trình độ văn hoá của họ cũng lạc hậu mà thôi [15, tr.123].
Từ đó, Lênin chỉ ra nhiệm vụ đặc biệt và trách nhiệm cũng như phương pháp đặc
biệt của Công đoàn khi bãi công xảy ra: nhiệm vụ các công đoàn là phải góp phần giải
quyết thật nhanh chóng và không đau đớn những xung đột đó, làm thế nào cho những
nhóm công nhân mà các công đoàn ấy thấy được mặt lợi nhiều nhất, nhưng với điều kiện
là có thể thực hiện được những điều lợi ấy mà không hại đến nhóm công nhân khác, cũng
không hại đến sự phát triển của Nhà nước công nhân và của nền kinh tế xét về toàn bộ
của Nhà nước đó, vì chỉ có sự phát triển đó mới có thể tạo ra một cơ sở cho phúc lợi vật
chất và tinh thần của giai cấp công nhân. Phương pháp duy nhất đúng, lành mạnh và hợp
lý để giải quyết những va chạm và xung đột giữa những bộ phận nào đó của giai cấp công
nhân với những cơ quan Nhà nước công nhân, là sự trung gian của các công đoàn; với
những cơ quan đại diện riêng của mình, mỗi công đoàn hoặc là điều đình với những cơ
quan kinh tế hữu quan, trên cơ sở những yêu sách và đề nghị mà hai bên nêu ra một cách
thật rõ ràng, hoặc là nhờ đến cấp trên có thẩm quyền của Nhà nước.
Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh, nhiệm vụ của các công đoàn là phải góp phần thanh
toán cho thật nhanh những xung đột bằng những biện pháp nhằm loại bỏ những cái thật là
không bình thường và vô trật tự, nhằm giải quyết những yêu sách chính đáng và có thể
thực hiện được của quần chúng, nhằm tác động vào quần chúng về mặt chính trị ...Và
Lênin xác định:
Một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để đánh
giá sự đúng đắn và thành công trong hoạt động của một công đoàn, là mức độ
mà công đoàn đó đã đạt được trong việc ngừa trước được một cách có ích
những xung đột to lớn trong những xí nghiệp Nhà nước bằng một chính sách
ngừa trước nhằm thực sự bảo vệ lợi ích quần chúng công nhân trong mọi lĩnh
vực, và loại bỏ kịp thời những lý do xung đột [15, tr.123-124].
Có thể nói những luận điểm của Lênin về Công đoàn nói chung và việc bảo vệ lợi
ích của người lao động nói riêng trong công cuộc xây dựng CNXH, đặc biệt là trong thời
kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới, rất phong phú và hàm chứa rất nhiều chỉ dẫn sâu sắc
cho hoạt động bảo vệ lợi ích người lao động của Công đoàn.
Tóm lại, vai trò bảo vệ lợi ích người lao động của tổ chức công đoàn không chỉ có ý
nghĩa về mặt tư tưởng, lý luận mà còn cả về mặt hoạt động thực tiễn. Vai trò đó là sự cụ
thể hoá chức năng của tổ chức công đoàn thông qua hoạt động của mình. Đây chính là
vấn đề khách quan nảy sinh trong quá trình phân công và hợp tác lao động của con người.
Lý luận mác xít khẳng định: “ở đâu không có sự nhất trí về lợi ích thì ở đó sẽ không có
sự nhất trí về mục đích tư tưởng chứ đừng nói gì có sự nhất trí trong hành động” [19,
tr.11].
1.1.2. Quan niệm của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về bảo vệ lợi ích người
lao động
Tổ chức lao động Quốc tế (gọi tắt là ILO) được thành lập năm 1919, là cơ quan chuyên
môn phụ trách công tác xã hội và lao động của Liên hợp quốc, là tổ chức quốc tế duy nhất có cơ
chế mang tính ba bên trong hệ thống của Liên hợp quốc.
Ngay từ thế kỷ XIX, ý tưởng thành lập tổ chức này đã hình thành trong một số nước
công nghiệp hoá. Vào ngay trước khi kết thúc cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất, người
ta đã nhận thức được rằng, cần đấu tranh với ảnh hưởng có hại do công nghiệp hoá đem
lại, cần phải có những nỗ lực chung mang tính quốc tế. Nếu như người lao động không
nhận được đãi ngộ công bằng về xã hội và kinh tế, thì sẽ không thể nói đến hoà bình thế
giới thực sự.
Sau khi đại chiến thế giới lần thứ nhất kết thúc, các nước tham chiến đã họp hội nghị
hoà bình tại Pari vào đầu năm 1919, ký kết hiệp ước hoà bình. Tại hội nghị đã thành lập hội
đồng lập pháp lao động do 15 nước cấu thành, đây là tiền thân của Tổ chức lao động quốc
tế. Hội đồng đã soạn thảo ra 9 nguyên tắc liên quan tới vấn đề lao động và “Dự thảo
chương trình Tổ chức lao động quốc tế”, được hội nghị hoà bình Pari thảo luận thông qua,
là phần thứ 13 của “Hiệp ước hoà bình Véc xây”, tức cái gọi là “Hiến chương lao động
quốc tế”, đặt nền tảng cho “Chương trình Tổ chức lao động quốc tế” sau này.
Mục đích thành lập của Tổ chức lao động quốc tế và hoạt động chủ yếu của nó là
làm công tác lập pháp lao động quốc tế, tức đề ra và thúc đẩy thực hiện công ước lao
động quốc tế và kiến nghị thư, gọi chung là tiêu chuẩn lao động quốc tế, nhằm thúc đẩy
bảo vệ quyền lợi cơ bản của người lao động trên toàn thế giới. Là cơ quan chuyên môn
lập pháp lao động quốc tế, kể từ khi thành lập năm 1919 đến nay, Tổ chức lao động quốc
tế đã có lịch sử hơn 80 năm, vào năm 1969 khi nó kỷ niệm 50 năm ngày thành lập, còn
nhận được giải thưởng hoà bình Nô ben. Tổ chức lao động quốc tế hiện có 178 nước
thành viên.
Cơ quan chủ yếu của Tổ chức Lao động quốc tế là Đại hội, hội đồng lao động quốc
tế và Cục lao động quốc tế. Đại hội lao động quốc tế là cơ quan quyền lực tối cao của Tổ
chức lao động quốc tế. Trong trường hợp bình thường, cứ cách 6 năm lại tổ chức hội nghị
tại Giơ-ne-vơ, Thuỵ Sĩ, do mỗi nước thành viên cử đoàn đại biểu ba bên (bao gồm đại
biểu chính phủ 2 người, đại biểu công nhân và chủ thuê mỗi bên 1 người, tổng cộng 4
người) tham dự. Đại biểu ba bên được hưởng địa vị bình đẳng, các bên phát biểu ý kiến
một cách độc lập, tiến hành bỏ phiếu một cách độc lập. Nhiệm vụ chủ yếu của đại hội,
ngoài nghe báo cáo của Cục trưởng Cục lao động quốc tế ra, chủ yếu là đề ra công ước
lao động quốc tế và kiến nghị thư, và thẩm tra tình hình chấp hành của các nước đối với
những công ước và kiến nghị thư này.
Đề xướng hợp tác giữa công nhân và chủ thuê nhằm thúc đẩy kinh tế và xã hội
phát triển là nền tảng tư tưởng quan trọng thực hiện nguyên tắc có tính ba bên của Tổ
chức lao động quốc tế. Những việc mà Tổ chức lao động quốc tế quan tâm và xử lý
nói chung đều liên quan tới quyền lợi và nghĩa vụ của công nhân, chủ thuê các nước.
Khi thảo luận và quyết sách đối với những công việc này, thu hút đại biểu công nhân
và đại biểu chủ thuê cùng với chính phủ nghiên cứu, bàn bạc và đưa ra quyết định với
địa vị bình đẳng, thể hiện ý nguyện sự tôn trọng đối với các bên đương sự quan hệ lao
động nhằm tìm kiếm thông qua bàn bạc thảo luận đi tới nhận thức chung. Quyết định
được đưa ra như vậy tương đối chiếu cố đến các bên liên quan, tiện cho đưa ra thực
hiện.
1.1.2.1. Tiêu chuẩn lao động quốc tế là xác lập và bảo đảm quyền lợi công nhân
trên phạm vị thế giới
Quyền lợi công nhân còn gọi là quyền lợi lao động, là quyền lợi xã hội liên quan tới
lao động mà người lao động trong quan hệ lao động hiện đại mà pháp luật quy định được
hưởng đồng thời với thực hiện nghĩa vụ lao động.
Trong “Tuyên ngôn Floriđa” đã xác định: “Toàn nhân loại không phân biệt chủng tộc,
tín ngưỡng và giới tính đều có quyền mưu cầu phúc lợi vật chất và phát triển tinh thần
trong điều kiện tự do và tôn nghiêm, bảo đảm kinh tế và bình đẳng cơ hội”. Vì vậy, Tổ
chức lao động quốc tế cần phải thông qua phương thức đề ra và thực hiện tiêu chuẩn lao
động quốc tế để xác lập và bảo đảm quyền lợi công nhân trên phạm vi thế giới, cải thiện
điều kiện lao động của công nhân các nước, nhằm đạt tới mục tiêu bảo vệ CNXH và hoà
bình thế giới.
Là một thứ nhân quyền cơ bản, quyền tự do thành lập tổ chức chiếm vị trí quan trọng
trong lập pháp nhân quyền quốc tế. Đại hội lao động quốc tế khoá 31 năm 1948 đã thông qua
“Công ước tự do thành lập tổ chức và bảo đảm quyền lợi tổ chức” (số 87), công ước này lấy
quyền lợi công dân “tự do thành lập tổ chức” trong hiến pháp nhà nước dân chủ làm căn cứ
và xuất phát điểm, quy định cụ thể những nội dung và yêu cầu của quyền kết thành tổ chức.
Đại hội lao động quốc tế khoá 32 năm 1949 lại thông qua “Công ước quyền tổ chức và
quyền đàm phán tập thể” (số 98), nó có thể được coi là sự bổ sung đối với công ước số 87.
Hai công ước này cấu thành tiêu chuẩn lao động quốc tế hạt nhân ở các mặt quyền tự do
thành lập tổ chức và quyền đàm phán tổ chức”.
Công ước số 87 có mấy điểm quan trọng như sau: một là, về tự do thành lập tổ
chức: “Tất cả công nhân và chủ thuê, đều cần có quyền thành lập tổ chức mà bản thân họ
lựa chọn một cách không có bất kỳ sự phân biệt nào, và chỉ dựa vào chương trình của tổ
chức liên quan đưa vào tổ chức mà bản thân họ lựa chọn, chứ không cần phải được phê
chuẩn trước”. Hai là, “Tổ chức công nhân và tổ chức chủ thuê đều có quyền đề ra chương
trình và quy định của họ, bầu ra kế hoạch công tác của mình một cách tự do đầy đủ;
đương cục chính phủ không được có bất kỳ hạn chế nào đối với quyền lợi nói trên, hoặc
tiến hành ngăn trở đối với việc thực hiện hợp pháp quyền lợi nói trên”.
Công ước số 98 có các điểm quan trọng như sau: Công nhân cần được bảo vệ đầy
đủ, nhằm ngăn ngừa chịu bất cứ hành vi kỳ thị bài xích công đoàn nào về mặt việc làm.
Tổ chức công nhân và tổ chức chủ thuê đều cần được bảo vệ đầy đủ, nhằm ngăn ngừa bất
kỳ hành vi một bên trực tiếp hoặc thông qua người đại diện hoặc hội viên can thiệp bên
kia trong các mặt thành lập tổ chức, triển khai hoạt động hoặc quản lý nội bộ. Đối với cơ
chế tiến hành đàm phán tự nguyện giữa chủ thuê hoặc tổ chức chủ thuê với tổ chức công
nhân, chính phủ cần có biện pháp phù hợp với tình hình nước mình để khuyến khích.
ILO chủ trương xoá bỏ lao động cưỡng bức: Đại hội lao động quốc tế năm 1930 đã
thông qua “Công ước lao động cưỡng bức” (số 29), khi đó điểm nhấn của việc đề ra công
ước này là ở chỗ giải quyết vấn đề lao động cưỡng chế ở các thuộc địa. Đến Đại hội lao
động quốc tế năm 1957, lại thông qua “Công ước phế bỏ lao động cưỡng bức” (số 105).
Công ước này yêu cầu, phế bỏ ngay lập tức và triệt để lao động cưỡng chế hoặc lao động
nghĩa vụ dùng vào mục đích chính trị, phế bỏ lao động cưỡng bức lấy bất cứ hình thức
nào dưới đây làm mục đích: như coi đó là một biện pháp áp chế chính trị hoặc giáo dục
chính trị, hoặc làm một sự trừng phạt đối với việc có hoặc phát biểu quan điểm chính trị
hoặc quan điểm tư tưởng nào đối lập với chế độ chính trị, xã hội hoặc kinh tế có sẵn; coi
nó là một biện pháp động viên và sử dụng lao động để phát triển kinh tế; coi nó là một
biện pháp để bảo vệ kỷ luật lao động; coi nó là một sự trừng phạt đối với thành viên tham
gia bãi công; coi nó là một biện pháp để thực hiện kỳ thị chủng tộc, xã hội, dân tộc và tôn
giáo.
Bảo vệ hữu hiệu quyền lợi trẻ em, từng bước loại bỏ hiện tượng lao động trẻ em là
một vấn đề mà Tổ chức lao động quốc tế quan tâm lâu dài kể từ ngày thành lập. Trong
chương trình của ILO, tổ chức này đã coi bảo vệ lao động trẻ em và công nhân vị thành
niên là một nhiệm vụ bức thiết của mình. “Công ước độ tuổi thấp nhất” (số 138) năm
1973 và “Công ước lao động trẻ em hình thức tồi tệ nhất” (số 182) năm 1999 là hai công
ước trung tâm quan trọng đề cập tới nghiêm cấm vấn đề lao động trẻ em.
Công ước số 138 yêu cầu các nước thành viên đề ra chính sách quốc gia loại bỏ hữu
hiệu lao động trẻ em và từng bước nâng cao độ tuổi làm việc thấp nhất, theo quy định của
công ước, độ tuổi thấp nhất cho phép làm việc không được thấp hơn độ tuổi hoàn thành
giáo dục nghĩa vụ, và trong bất cứ trường hợp nào không được thấp hơn 15 tuổi; nhưng
nếu như cơ sở kinh tế và giáo dục của nước thành viên không đủ phát triển, thì phải bước
đầu quy định độ tuổi thấp nhất là 14 tuổi sau khi đã bàn bạc với tổ chức chủ thuê và tổ
chức công nhân hữu quan.
Tổ chức lao động quốc tế đã tính đến, hoàn toàn xoá bỏ lao động trẻ em là một
nhiệm vụ lâu dài và khó khăn, cần phải thông qua tiêu chuẩn lao động mới, nhằm bổ sung
công ước số 138 năm 1973 vẫn là tiêu chuẩn lao động cơ bản về mặt lao động trẻ em, coi
cấm và loại bỏ lao động trẻ em hình thức tồi tệ nhất là mục tiêu ưu tiên chính của hành
động quốc gia và quốc tế. Vì vậy, năm 1999 đã thông qua “Công ước lao động trẻ em
hình thức tồi tệ nhất”.
Công ước này quy định, đối với công ước này mà nói, từ “trẻ em” thích hợp cho tất
cả những người tuổi dưới 18. Cái gọi là lao động trẻ em hình thức tồi tệ nhất, chủ yếu bao
gồm mấy loại hình dưới đây: Chế độ nô lệ các loại hình thức hoặc cách làm tương tự chế
độ nô lệ, như buôn bán trẻ em, lao dịch trả nợ và nô dịch, cũng như lao động cưỡng bức
hoặc cưỡng chế, bao gồm chiêu mộ trẻ em cưỡng bức hoặc cưỡng chế dùng vào xung đột
vũ trang. Sử dụng thu nhận hoặc cung cấp trẻ em bán dâm, sản xuất các sản phẩm sex hoặc
tiến hành biểu diễn sex. Sử dụng, thu nhận hoặc cung cấp trẻ em tiến hành hoạt động bất
hợp pháp, đặc biệt là sản xuất và buôn bán các loại chất độc được xác định trong các công
ước quốc tế liên quan. Nhưng công việc mà tính chất của nó hoặc môi trường làm việc
trong đó có thể gây tổn hại tới sức khoẻ, an toàn hoặc đạo đức trẻ em, như: công việc khiến
cho trẻ em bị ngược đãi về thể xác, tâm lý hoặc tình dục; công việc ở dưới giếng, dưới
nước, nơi cao có nguy hiểm hoặc trong không gian hẹp; công việc sử dụng máy móc, thiết
bị và công cụ nguy hiểm, hoặc là công việc vận chuyển vật nặng; làm việc trong môi
trường không lành mạnh; làm việc trong điều kiện khó khăn đặc biệt. Công ước quy định,
các nước thành viên cần áp dụng bước đi thích hợp, thông qua tăng cường hợp tác hoặc
viện trợ quốc tế, bao gồm khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch loại bỏ nghèo
khó và phổ cập giáo dục, thực hiện chế tài cần thiết nhằm bảo đảm thực thi hữu hiệu các
điều khoản của công ước.
1.1.2.2. Về chính sách việc làm
Công ước chính sách việc làm nhấn mạnh: Một là trong phát triển cần phải đặt con
người lên vị trí hàng đầu, nếu không phát triển kinh tế sẽ không thể sản sinh ra cơ hội việc
làm; Hai là đề ra chính sách việc làm cần tính toán thích đáng tới giai đoạn và trình độ phát
triển kinh tế, hơn nữa tính toán tới mối quan hệ lẫn nhau giữa mục tiêu việc làm và các mục
tiêu kinh tế - xã hội khác, khi thúc đẩy thực hiện chính sách việc làm cần áp dụng phương
pháp thích hợp và điều kiện nước mình và thực tế nước mình; Ba là cần tiến hành hiệp
thương với đại diện giới chủ và đại diện công nhân về vấn đề chính sách việc làm liên quan,
nhằm suy xét đầy đủ tới kinh nghiệm và ý kiến của họ, khi đề ra và cố gắng giành được sự
hợp tác đầy đủ của họ về mặt ủng hộ chính sách này.
“Công ước hiệp thương ba bên (tiêu chuẩn lao động quốc tế)” là nhằm làm cho việc
đề ra tiêu chuẩn lao động quốc tế có thể sát hợp với thực tế, việc thực thi chúng có thể
tương đối thuận lợi, và yêu cầu các nước hình thành chế độ hiệp thương ba bên. Công
ước yêu cầu: các nước phê chuẩn được phép áp dụng các loại trình tự, bảo đảm việc tiến
hành hiệp thương hữu hiệu giữa chính phủ, chủ thuê và đại diện công nhân về các công
việc như đề ra, phê chuẩn, thực thi, báo cáo và xoá bỏ cam kết liên quan tới tiêu chuẩn
lao động quốc tế. Trong hiệp thương loại này, chủ thuê và công nhân cần có quyền đại
diện bình đẳng. Thời gian hiệp thương mỗi năm ít nhất tiến hành một lần.
Những việc mà công ước và kiến nghị thư quy định, trong các thời điểm khác nhau
cũng có sự khác nhau, xu thế phát triển của nó đại thể giống như lập pháp lao động của
các nước. Trước đại chiến thế giới lần thứ hai, cái mà tiêu chuẩn lao động quốc tế quan
tâm là các việc liên quan tới cải thiện điều kiện lao động, bảo vệ sức khoẻ công nhân,
thực hiện bảo hiểm xã hội, bồi thường tổn thất công nhân, cũng như quy định tiền lương
thấp nhất. Tiêu chuẩn lao động quốc tế thông qua vào sau đại chiến thế giới lần thứ hai
nhấn mạnh bảo vệ nhân quyền cơ bản, nội dung từ “kế hoạch lớn có tính lập pháp” dần
dần chuyển sang đề ra phương hướng có tính chính sách, nhấn mạnh vai trò nhất thể hoá
của cơ quan xã hội trong hình thành sự công bằng, phồn vinh và ổn định xã hội. Kể từ
thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay, Tổ chức lao động quốc tế quan tâm cao độ tới các vấn
đề ở bình diện xã hội của toàn cầu hoá kinh tế, áp dụng một loạt biện pháp ứng phó, và
lần lượt đề ra các công ước lao động quốc tế và kiến nghị thư mới. Tổ chức lao động quốc
tế cho rằng, ba trụ cột chính sách xã hội ứng phó với thách thức của toàn cầu hoá kinh tế
và bảo đảm phát triển bền vững là: giáo dục và đào tạo thích ứng với yêu cầu toàn cầu
hoá, chính sách bảo vệ xã hội và chính sách quan hệ chủ thợ hợp lý.
Theo nhận thức chung của “Lao động thể diện”, địa vị quan trọng của việc làm là không
còn nghi ngờ gì nữa. Các tiêu chuẩn lao động quốc tế liên quan tới vấn đề việc làm vừa bao
gồm chính sách việc làm và khai thác nguồn nhân lực, thành lập cơ quan giới thiệu việc làm
miễn phí, tổ chức chỉ đạo nghề nghiệp và đào tạo nghề, hoàn thiện hệ thống dịch vụ việc làm;
cũng bao gồm điều kiện việc làm thông thường, như quy định tiền lương thấp nhất, bảo đảm
tiền lương, quy định thời gian làm việc, hạn chế thời gian làm việc ban đêm, thời gian nghỉ
ngơi mỗi tuần, nghỉ phép năm vẫn hưởng lương và học tập thoát ly khỏi sản xuất vẫn hưởng
lương... Năm 1997, Đại hội lao động quốc tế đó thông qua “Công ước cơ quan việc làm tư
nhân” (số 181), khẳng định vai trò mà các cơ quan dịch vụ việc làm này phát huy trong mặt
chính sách thị trường sức lao động. Năm 1998, đã thông qua “Kiến nghị thư kích thích tạo điều
kiện việc làm thông thường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ” (số 189), nhấn mạnh tầm quan
trọng của các doanh nghiệp này trong các mặt như tạo việc làm, thu hút nhóm người yếu thế
tham gia vào hoạt động kinh tế. Tháng 6 năm 2004, Đại hội lao động quốc tế lại thông qua
“Kiến nghị thư khai thác nguồn nhân lực: giáo dục, đào tạo và học tập suốt đời” (số 195). Kiến
nghị thư này đó đưa vào tư duy mới học tập suốt đời, đưa ra cần làm rõ trách nhiệm của chính
phủ, doanh nghiệp, cá nhân người lao động và các bên xã hội trong khai thác và đào tạo nguồn
nhân lực.
Tiêu chuẩn lao động quốc tế liên quan tới vấn đề bảo vệ xã hội, một là an toàn và vệ
sinh của người lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp, như đề ra và thực hiện chính sách
quốc gia an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp công nhân, xây dựng cơ sở y tế nghề nghiệp
tương ứng, đề phòng các sự cố công nghiệp lớn, đề ra tiêu chuẩn chuyên nghiệp an toàn
và vệ sinh nghề nghiệp tương ứng đối với một số môi trường làm việc, bộ phận ngành
nghề dễ xảy ra sự cố an toàn lao động và có độc hại; hai là bảo đảm xã hội của người lao
động khi sinh lão bệnh tử và bị thương tật, tàn phế, như bảo hiểm y tế, bảo hiểm dưỡng
lão, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm thương tật lao động cũng như bảo hiểm sinh đẻ; ba là
bảo vệ đối với nhóm lao công yếu thế, như bảo vệ đối với lao động trẻ em, lao động vị
thành niên, lao động nữ, công nhân tàn tật, công nhân di dân, công nhân tuổi tác tương
đối cao, công nhân làm việc chế độ không phải cả ngày, công nhân gia đình..., bảo đảm
cho họ cơ hội việc làm bình đẳng và đãi ngộ bình đẳng với công nhân bình thường. Năm
1994, Đại hội lao động quốc tế đã thông qua “Công ước làm việc chế độ không phải cả
ngày” (số 175), năm 1996 đã thông qua “Công ước làm việc trong gia đình” (số 177).
Năm 2000, Đại hội lao động quốc tế đã thông qua “Công ước bảo vệ sinh đẻ” (số 183),
công ước này ở nhiều mặt đã nhấn mạnh yêu cầu đối với bảo vệ sinh đẻ, và nới rộng diện
bao trùm của bảo vệ sinh đẻ. Năm 2001, Đại hội lao động quốc tế đã thông qua “Công
ước vệ sinh an toàn nông nghiệp” (số 184) và kiến nghị thư cùng tên, công ước và kiến
nghị thư này là tiêu chuẩn lao động quốc tế vệ sinh an toàn đầu tiên trong nông nghiệp,
nó đưa ra xây dựng bộ khung có tính toàn cầu, nhằm giúp các nước thành viên có thể đề
ra bộ khung pháp luật của nước mình trên cơ sở của bộ khung này.
Đối thoại xã hội là chỉ đàm phán, hiệp thương hoặc giao lưu thông tin đơn giản các
loại hình được tiến hành giữa hai bên hoặc ba bên chính phủ, tổ chức chủ thuê và tổ chức
công nhân về các vấn đề liên quan tới chính sách kinh tế và xã hội mà các bên cùng quan
tâm. Đối thoại xã hội vừa bao gồm đối thoại ba bên ở bình diện xã hội, cũng bao gồm đối
thoại hai bên chủ thợ ở cấp doanh nghiệp. Những năm gần đây, một số nước phương Tây
đã có sự mở rộng đối với chủ thể của đối thoại xã hội, cũng đưa vào phạm vi đối thoại
một số tổ chức xã hội ngoài ba bên. Tiêu chuẩn lao động quốc tế liên quan tới vấn đề đối
thoại xã hội vừa bao gồm quản lý hành chính lao động và giám sát lao động, như quản lý
hành chính lao động, xây dựng chế độ giám sát lao động, quy phạm thống kê lao động,
thực hiện hiệp thương ba bên thúc đẩy thực hiện tiêu chuẩn lao động quốc tế; cũng bao
gồm điều chỉnh quan hệ ngành nghề (chủ thợ), như thực hiện đàm phán tập thể giữa công
nhân và chủ thuê, ký kết thoả ước tập thể, hoà giải, trọng tài và tố tụng tư pháp tranh chấp
lao động, hiệp thương và hợp tác ở cấp doanh nghiệp, ngành nghề và toàn quốc, giao lưu
và hiệp thương giữa công nhân và nhà quản lý trong nội bộ doanh nghiệp, cũng như quan
tâm và xem xét sự bất mãn của công nhân trong doanh nghiệp.
Việt Nam gia nhập ILO từ năm 1980. Trải qua 29 năm hợp tác, mối quan hệ Việt
Nam - ILO ngày càng phát triển theo chiều hướng tích cực, nhưng đến năm 1982 vì một
số lý do kỹ thuật Việt Nam đã rút khỏi ILO và đến năm 1993 Việt Nam tái gia nhập ILO.
Từ khi tham gia trở lại, Việt Nam tích cực hoạt động trong ILO, tham dự đầy đủ các
Hội nghị Lao động Quốc tế hàng năm, thực hiện các nghĩa vụ của nước thành viên. Nói
chung, đối với các công ước Lao động Quốc tế đã tham gia phê chuẩn, Việt Nam luôn
thực hiện một cách nghiêm túc, có sự phối hợp ba bên giữa Chính phủ, Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam (tổ chức đại diện cho người lao động) và Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (tổ chức đại diện cho người sử dụng lao động) kiểm điểm đánh
giá việc thi hành.
Theo cơ chế ba bên, Công đoàn Việt Nam ngày càng tham gia tích cực trong hoạt
động của ILO. Điều đó được thể hiện cụ thể trong hoạt động đối nội và đối ngoại của
Công đoàn Việt Nam. Trong khuôn khổ hợp tác với ILO, Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam đã tích cực tham gia xây dựng luật pháp của Việt Nam; kiểm tra giám sát việc áp
dụng luật; thông qua việc cử cán bộ ra nước ngoài trao đổi kinh nghiệm, học tập, nghiên
cứu, tổ chức ở trong nước các lớp tập huấn, hội thảo, hội nghị, tuyên truyền, đào tạo cán
bộ công đoàn về nâng cao kỹ năng, phương pháp hoạt động, nội dung hoạt động, các tiêu
chuẩn lao động quốc tế, bộ quy tắc ứng xử liên quan đến lao động, quan hệ lao động, hoạt
động công đoàn trong cơ chế thị trường, thương lượng ký kết thảo ước lao động tập thể,
an toàn vệ sinh lao động, bình đẳng giới, chống lao động trẻ em, công tác tư vấn pháp luật
trong công đoàn, tạo mối quan hệ hài hoà giữa chủ doanh nghiệp và người lao động,
doanh nghiệp phát triển, người lao động được đảm bảo về công ăn việc làm, về quyền lợi,
nhân phẩm, hàng hoá chất lượng mang tính cạnh tranh cao hơn, nền kinh tế phát triển
lành mạnh, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hoà nhập kinh tế quốc tế và khu vực tốt
hơn.
Ngày 17/2/2003, Văn phòng ILO tại Hà Nội đã chính thức khai trương. Mục tiêu
hoạt động của ILO tại Việt Nam luôn gắn với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của
chính phủ và phù hợp với bốn mục tiêu chiến lược về chương trình việc làm của ILO.
Các hỗ trợ của ILO tập trung giúp Chính phủ hoạch định chiến lược và chính sách về lao
động, việc làm nhằm giúp cải thiện điều kiện sống và điều kiện làm việc của người lao
động.
1.2. Công đoàn việt nam với việc bảo vệ lợi ích của người lao động
1.2.1. Khái quát về Công đoàn Việt Nam
1.2.1.1. Sự ra đời và phát triển của Công đoàn Việt Nam
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) đã ghi rõ:
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của
người lao động. Cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
chăm lo bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao
động khác, tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát
hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục công nhân, viên
chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [27, tr.17].
Như vậy Công đoàn Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội, một bộ phận hợp
thành của hệ thống chính trị, đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và những người
lao động khác, được Hiến pháp thừa nhận.
Sự ra đời của tổ chức Công đoàn Việt Nam gắn liền với tên tuổi và cuộc đời hoạt động
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân Việt Nam, người anh
hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá của thế giới.
Ngay từ những năm tháng xa Tổ quốc, bôn ba hoạt động trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú ý đến việc thành lập tổ chức Công
đoàn ở Việt Nam (lúc bấy giờ gọi là Công hội).
Trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" viết năm 1927, Người đã nói rõ hơn về công
hội, trình bày một cách mộc mạc, dễ hiểu về tổ chức, nhiệm vụ của tổ chức công hội mà
những tư tưởng đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị: "Tổ chức công hội trước hết là để
công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang
cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công
nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới" [23, tr.302]. Người khẳng định
công hội là cơ quan của công nhân để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa.
Những lý luận về việc thành lập tổ chức Công đoàn cách mạng của lãnh tụ Nguyễn
ái Quốc được các hội viên Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội - một tổ chức
tiền thân của Đảng Cộng sản, truyền bá rộng rãi trong phong trào công nhân, nhiều tổ
chức Công hội bí mật được thành lập. Đặc biệt, từ năm 1928, Thanh niên cách mạng
đồng chí Hội phát động phong trào “Vô sản hoá” thì phong trào đấu tranh của công nhân
Việt Nam càng sôi nổi, đã thúc đẩy sự phát triển của tổ chức Công hội lên một bước mới.
Để đẩy mạnh hơn nữa công tác vận động công nhân và tăng cường sức mạnh cho tổ
chức Công hội. Ngay sau khi thành lập trước sự phát triển của phong trào công nhân và
nhu cầu tập hợp lực lượng, Đông Dương cộng sản đảng đã triệu tập đại hội thành lập Tổng
công hội đỏ Bắc Kỳ vào ngày 28 tháng 7 năm 1929, tại số nhà 15 Hàng Nón - Hà Nội. Đại
hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 6 người do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh - uỷ viên Ban chấp
hành Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng, phụ trách công tác vận động công
nhân của Đảng đứng đầu. Trong Đại hội đồng chí Nguyễn Đức Cảnh đã trình bày báo cáo,
trong đó nhấn mạnh đặc điểm tình hình phong trào công nhân nước ta và đề ra những
nhiệm vụ thiết yếu của giai cấp công nhân, công hội trong thời gian sắp tới.
Sự ra đời của Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ là kết quả tất yếu của sự phát triển của
phong trào công nhân với sự truyền bá lý luận cách mạng của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc
và các đảng viên cộng sản vào phong trào công nhân nước ta. Sự ra đời của tổ chức này
là một mốc son chói lọi trong lịch sử phong trào công nhân ở nước ta. Từ đây, giai cấp
công nhân Việt Nam có tổ chức đại diện cho quyền lợi của mình, Công đoàn Việt Nam
đã thực sự bước lên vũ đài lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu tranh giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc.
Từ sau hội nghị này, Tổng Công hội Đỏ Bắc kỳ, một tổ chức được Đảng Cộng sản
thành lập, đã trở thành tổ chức Công đoàn cách mạng, tiêu biểu của giai cấp công nhân
Việt Nam. Nó là kết quả tất yếu của phong trào công nhân vận động với sự truyền bá lý
luận Công đoàn cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn ái Quốc và các đảng viện cộng sản vào
phong trào Công đoàn nước ta.
Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ đã trở thành tổ chức tiền thân của Công đoàn Việt Nam.
Ngày thành lập tổ chức này ngày 28 tháng 7 năm 1929 đã trở thành ngày thành lập Công
đoàn Việt Nam.
Để phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ lịch sử, Công đoàn Việt Nam đã qua
nhiều tên gọi khác nhau: Tổng công hội đỏ Bắc kỳ, Nghiệp đoàn ái hữu, Hội công nhân
phản đế, Hội công nhân cứu quốc, Tổng Công đoàn Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam. Nhưng bản chất cách mạng và mục tiêu cơ bản, lâu dài của Công đoàn Việt
Nam là không thay đổi.
Khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy nhanh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế,
Đại hội IX (2001) và Đại hội X (2006) của Đảng đã nhấn mạnh: Đối với giai cấp công
nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính
trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm và thất
nghiệp. Thực hiện tốt chính sách và pháp luật về lao động, tiền lương, BHXH, bảo hiểm
thất nghiệp, BHLĐ, chăm sóc, phục hồi sức khoẻ đối với công nhân; chính sách ưu đãi
nhà ở đối với công nhân bậc cao.
Trải qua 80 năm xây dựng và trưởng thành, Tổ chức Công đoàn Việt Nam đã trải
qua 10 kỳ đại hội, có 63 Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, 20 Công đoàn ngành Trung
ương và Công đoàn Tổng công ty trực thuộc, với hơn 6 triệu đoàn viên. Trong đó, đoàn
viên công đoàn khu vực các cơ quan Nhà nước, Đảng, đoàn thể, các đơn vị hành chính sự
nghiệp nhà nước khoảng 3.741.627 người, trong đó đoàn viên công đoàn trong các doanh
nghiệp nhà nước khoảng 1.580.026 người, đoàn viên công đoàn khu vực ngoài quốc
doanh khoảng 2.201.044 người, đoàn viên trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài khoảng 1.093.764 đoàn viên.
1.2.1.2. Về vị trí, vai trò của Công đoàn Việt Nam.
a. Vị trí của tổ chức Công đoàn.
Ngay từ khi mới thành lập, tổ chức Công đoàn Việt Nam đã thực sự là một tổ chức
quần chúng rộng lớn của giai cấp công nhân, nằm trong mặt trận dân tộc thống nhất,
được Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cùng các tổ chức chính trị - xã hội khác trong
mặt trận dân tộc thống nhất thực hiện đường lối chiến lược sách lược của Đảng Cộng sản
Việt Nam, quyết tâm giành độc lập tự do cho dân tộc, đưa đất nước tiến lên CNXH.
Trong quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc cũng như sau khi tổ quốc được thống nhất,
cả nước đi lên CNXH. Đảng ta càng xác định rõ hơn vị trí của Công đoàn trong hệ thống
chính trị XHCN.
Vị trí đó đã được xác định rõ từ Đại hội III, IV, V, VI, VII, VIII, IX và được phát
triển ở Đại hội X Công đoàn Việt Nam.
Công đoàn Việt Nam nằm trong hệ thống chính trị của Nhà nước, là trung
tâm tập hợp, đoàn kết, giáo dục rèn luyện, xây dựng đội ngũ giai cấp công
nhân lao động. Công đoàn Việt Nam là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là sợi
dây nối liền Đảng với người lao động. Công đoàn Việt Nam là người cộng tác
đắc lực của nhà nước chuyên chính vô sản [18, Điều1].
Dưới chế độ XHCN, mối quan hệ giữa Công đoàn và Nhà nước XHCN là mối quan
hệ phối hợp. Nhà nước cùng Công đoàn tạo điều kiện cho nhau hoạt động có hiệu quả.
Công đoàn là cơ quan đại diện quyền lợi của giai cấp công nhân và người lao động để tham
gia, đề xuất với Nhà nước về những vấn đề không chỉ Công đoàn mà cả Nhà nước cũng quan
tâm. Nhà nước giúp đỡ, tạo điều kiện về vật chất và pháp lý cho Công đoàn hoạt động. Công
đoàn vận động công nhân lao động xây dựng và bảo vệ chính quyền Nhà nước.
Như vậy, với tư cách là hình thức tổ chức của giai cấp công nhân, Công đoàn Việt
Nam trở thành thành viên của hệ thống chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta. Công đoàn là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng. Mối liên hệ chặt
chẽ giữa Đảng với Công đoàn - trong đó Đảng giữ vai trò lãnh đạo, còn Công đoàn dưới
sự lãnh đạo của Đảng giữ nguyên tính chất độc lập về mặt tổ chức, là quy luật chung
trong mối quan hệ qua lại giữa hai tổ chức đó trong điều kiện CNXH.
Với tư cách là một thành viên trong hệ thống chính trị, Công đoàn Việt Nam phải có
nhiệm vụ vận động, tổ chức, tập hợp, giáo dục và xây dựng giai cấp công nhân, những
người lao động thành lực lượng cách mạng thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
b. Vai trò của tổ chức Công đoàn
Hoạt động của Công đoàn Việt Nam từ khi ra đời đến nay đã góp phần không nhỏ
đến tiến trình phát triển của lịch sử và cách mạng nước ta.
Khi giai cấp công nhân chưa giành được chính quyền, Công đoàn đã là trường học
đấu tranh giai cấp. Công đoàn tập hợp, tổ chức công nhân đấu tranh chống lại bọn thực
dân, phong kiến. Nhờ có tổ chức Công đoàn mà cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
Việt Nam những năm 20 của thế kỷ XX được phát triển trên một quy mô rộng hơn, thể
hiện được sức mạnh của đoàn kết và thể hiện rõ hơn tính chất của một cuộc đấu tranh giai
cấp.
Từ khi giai cấp công nhân đã giành được chính quyền, trở thành lực lượng lãnh đạo
xã hội thì vai trò của Công đoàn là trường học quản lý, trường học kinh tế, trường học
CNCS.
Là trường học quản lý, Công đoàn giúp cho công nhân biết tham gia quản lý sản
xuất, quản lý xí nghiệp và quản lý xã hội.
Là trường học kinh tế, Công đoàn vận động công nhân tham gia tích cực vào việc
hoàn thiện các chính sách kinh tế, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm,
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn hiện nay Công đoàn vận động công nhân
tham gia tích cực vào việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH, HĐH theo định hướng XHCN nhằm khắc phục tình trạng nước nghèo, chậm phát
triển.
Là trường học CNCS, Công đoàn giáo dục công nhân thái độ lao động mới. Đây là
bước phát triển mới về vai trò của Công đoàn. Cùng với giáo dục thái độ lao động mới,
Công đoàn giáo dục chính trị, tư tưởng, pháp luật, văn hoá, lối sống nhằm hình thành thế
giới quan và nhân sinh quan khoa học cho công nhân.
Vai trò của Công đoàn Việt Nam là trường học, song nó không giống như bất kỳ loại
trường học nào, nó là trường học đặc biệt, trường học không có thầy, không có trò, trường
học mà ở đó quần chúng tự giáo dục, tự rèn luyện, giáo dục, rèn luyện lẫn nhau thông qua
các hoạt động thực tiễn của Công đoàn.
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN thì vai trò của Công
đoàn ngày càng tăng.
Đại hội VI Công đoàn Việt Nam tháng 10 năm 1988 đánh dấu bước đổi mới quan
trọng về tư duy công đoàn và về hoạt động công đoàn, đặt nền móng cho việc đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động công đoàn về sau, làm cho hoạt động công đoàn sát hơn
với thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội và đáp ứng tốt hơn nguyện vọng và đòi hỏi của
công nhân, lao động đối với công đoàn, từng bước khắc phục tình trạng hình thức chủ
nghĩa xơ cứng trong tổ chức và hoạt động công đoàn.
Giao thời giữa hai thế kỷ XX - XXI, phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn
Việt Nam được đặt trước những thách thức nghiêm trọng do trực tiếp chịu tác động của
khủng hoảng kinh tế - xã hội trong nước và sự tan rã của Liên Xô và hệ thống XHCN
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội VIII tháng 11 năm 1998, trên cơ sở tự
nhìn lại mình “Các cấp công đoàn đã cố gắng phát huy vai trò và chức năng của mình để
bảo vệ quyền dân chủ và lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân, viên chức, lao
động, song hiệu quả chưa cao, đề ra khẩu hiệu hành động “Vì sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội, xây dựng giai cấp công nhân
và công đoàn vững mạnh”.
Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IX tháng 10 năm 2003 được coi là Đại hội tiến
vào thế kỷ XXI, đã đề ra mục tiêu hành động là xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức
Công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công
nhân viên chức lao động, góp phần tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; đề ra chương trình phát triển một triệu đoàn viên
công đoàn mới.
Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ X tháng 10 năm 2008 là đại hội hoà nhập sâu
vào nền kinh tế thị trường thế giới. Để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, dưới khẩu
hiệu “Đổi mới, sáng tạo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đoàn viên, công nhân, viên chức,
lao động; vì sự ổn định bền vững của đất nước”. Mục tiêu, phương hướng hoạt động công
đoàn 5 năm 2008 - 2013 mà Đại hội đề ra là: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của công đoàn các cấp; hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ
yếu; lấy đoàn viên, công nhân viên chức, lao động làm đối tượng vận động; chuyển mạnh
hoạt động công đoàn vào việc tổ chức thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động; xây dựng quan hệ
lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước”.
1.2.1.3. Chức năng của tổ chức Công đoàn Việt Nam
Vai trò trên của Công đoàn được thể hiện qua các chức năng của nó. Chức năng của
một tổ chức là sự phân công tất yếu, sự quy định chức trách tương đối ổn định và hợp lý
trong điều kiện lịch sử xã hội nhất định của tổ chức để phân biệt với tổ chức khác. Chức
năng của Công đoàn được biểu hiện bằng những phương hướng, những mặt hoạt động
chủ yếu để thực hiện bản chất và vai trò của Công đoàn trong xã hội. Như vậy, chức
năng của Công đoàn mang tính chất khách quan, nó tồn tại không phụ thuộc vào ý chí,
nguyện vọng của cá nhân. Nó được xác định bởi tính chất, vị trí, vai trò của Công
đoàn trong từng giai đoạn cách mạng.
ở từng thời kỳ lịch sử, chức năng của Công đoàn kế thừa, phát triển thêm nội dung
mới có ý nghĩa hơn.
Dưới CNTB, Công đoàn tập hợp công nhân đấu tranh chống lại sự áp bức bóc lột
của giai cấp tư sản, để bảo vệ lợi ích của công nhân lao động. Vì vậy, chức năng bảo vệ
lợi ích cho công nhân lao động là chức năng bẩm sinh của Công đoàn, nghĩa là vì nó mà
Công đoàn hình thành và khi ra đời Công đoàn sẽ làm chức năng đó. Song, muốn bảo vệ
lợi ích cho người lao động, Công đoàn không thể không tập hợp, vận động, giáo dục để
họ tiến hành đấu tranh bảo vệ lợi ích của mình. Và vì vậy giáo dục đã phát triển thành
chức năng của Công đoàn. Hai chức năng đó của Công đoàn có mối quan hệ khăng khít,
tác động qua lại thúc đẩy lẫn nhau
Dưới XHCN, vị trí của giai cấp công nhân đã thay đổi, từ người làm thuê trở thành
người làm chủ. Vì vậy chức năng của Công đoàn khắc hẳn so với chức năng của Công
đoàn dưới CNTB.
Một trong những chức năng chủ yếu của Công đoàn hiện nay là bảo vệ lợi ích. Đây
luôn là chức năng quan trọng nhất của Công đoàn. Trong xã hội cũ, Công đoàn tập hợp,
tổ chức công nhân đấu tranh chống lại bọn thực dân, phong kiến, đòi lợi ích chính đáng
của mình. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Công đoàn vẫn phải thực hiện chức năng bảo vệ
lợi ích. Tuy nhiên, bảo vệ lợi ích cho công nhân trong giai đoạn hiện nay có những hình thức
rất khác so với trong xã hội cũ. Nó không chống lại Nhà nước, không mang tính chất đối
kháng giai cấp mà chỉ chống lại các thói hư, tật xấu, sự thoái hoá biến chất của một số
người, yêu cầu họ thực hiện đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, để đảm bảo quyền lợi
của công nhân. Việc bảo vệ lợi ích cho người lao động ở đây cũng chính là bảo vệ chính
quyền nhà nước, xây dựng một Nhà nước trong sạch vững mạnh, Nhà nước thực sự của
dân, do dân, vì dân. Bởi vì lợi ích của người lao động gắn liền với lợi ích của nhà nước,
của tập thể. Sự tồn tại của nhà nước chuyên chính vô sản chính là sư đảm bảo quyền lợi
cho người lao động, hơn nữa lợi ích người lao động không chỉ ở chỗ có đủ cơm ăn, áo
mặc mà còn ở chỗ có lợi ích chính trị, kinh tế, lợi ích văn hoá tinh thần, lợi ích trước mắt
và lợi ích lâu dài. Nhà nước là người đảm bảo lợi ích còn Công đoàn là người bảo vệ lợi
ích. Đây là vấn đề quan trọng nói lên mối quan hệ khăng khít, biện chứng giữa quyền lợi
và nghĩa vụ, đồng thời nó là cơ sở nhận thức về lợi ích của người lao động trong điều
kiện mới.
Thực hiện chức năng này, Công đoàn phải tham gia một loạt các hoạt động như:
tham gia cùng chính quyền để giải quyết việc làm cho công nhân; tham gia trong lĩnh vực
tiền lương, phân phối phúc lợi, nhà ở, ký kết hợp đồng lao động, giải quyết tranh chấp lao
động...
Bên cạnh chức năng bảo vệ lợi ích Công đoàn còn có chức năng tham gia quản lý.
Đây là chức năng mới của Công đoàn so với chức năng của Công đoàn trong xã hội cũ.
Trong xã hội cũ Nhà nước là Nhà nước của giai cấp bóc lột, giai cấp công nhân phải chịu
sự thống trị, sự áp bức của Nhà nước này, không được tham gia quản lý các công việc
của Nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay, giai cấp công nhân từ người làm thuê đã trở
thành người chủ của xã hội, Công đoàn từ vị trí đối lập với Nhà nước của giai cấp bóc lột
đã trở thành chỗ dựa, người cộng tác đắc lực của Nhà nước. Vì vậy, có quyền và nghĩa vụ
tham gia quản lý công việc của Nhà nước. Chức năng tham gia quản lý của Công đoàn
chính là sự phối hợp hoạt động giữa Công đoàn với các cấp quản lý của Nhà nước trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, chính trị, văn hóa - xã hội theo một mục tiêu thống nhất,
vừa bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, vừa để công tác quản lý đạt kết quả cao. Lênin
đã nói: Sự tham gia của Công đoàn vào công tác quản lý kinh tế, và việc Công đoàn lôi
cuốn quần chúng rộng rãi tham gia vào công tác đó đồng thời cũng là biện pháp chủ yếu
để đấu tranh chống sự quan liêu hoá bộ máy kinh tế của chính quyền Xô Viết và tạo khả
năng thực sự kiểm tra thực tế của nhân dân đối với kết quả sản xuất kinh doanh. Nội dung
tham gia quản lý của Công đoàn rất đa dạng, phong phú, tùy doanhtheo tính chất của mỗi
đơn vị mà có những nội dung tham gia quản lý khác nhau. Ngoài hai chức năng trên công
đoàn còn có chức năng thứ ba đó là chức năng giáo dục. Đây là chức năng đã có từ khi tổ
chức Công đoàn mới ra đời. Trong xã hội cũ Công đoàn giáo dục để công nhân thấy rõ
bản chất và từ đó đấu tranh không khoan nhượng với giai cấp bóc lột. Trong giai đoạn
hiện nay chức năng giáo dục của Công đoàn là giúp đỡ công nhân không ngừng nâng cao
giác ngộ chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, làm cho Công đoàn thực sự trở thành
trường học CNCS của giai cấp công nhân. Nội dung giáo dục của Công đoàn rất đa dạng,
gồm cả giáo dục chính trị, tư tưởng; giáo dục pháp luật, giáo dục thẩm mỹ; giáo dục
truyền thống, giáo dục đạo đức. Tất cả những nội dung đó đều nhằm xây dựng một đội
ngũ công nhân có lý tưởng, có văn hoá, có đạo đức và có kỷ luật nhằm thực hiện thành
công sứ mệnh lịch sử của mình.
Chức năng của Công đoàn là một chỉnh thể thống nhất, đan xen tác động qua lại lẫn
nhau, chức năng này làm tiền đề cho chức năng kia. Trong ba chức năng này thì chức
năng bảo vệ lợi ích là trung tâm, thể hiện đầy đủ vai trò và mục tiêu hoạt động của Công
đoàn, chức năng tham gia quản lý là phương tiện để đạt được mục tiêu, chức năng giáo
dục là động lực tinh thần để đạt được mục tiêu. Nhưng hiện nay trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, các nhà đầu tư vào nhiều, những khu công nghiệp, những khu
chế xuất phát triển, giám đốc điều hành là người nước ngoài, vì vậy việc tranh chấp lao
động ngày càng gay gắt, các cuộc đình công nổ ra liên tiếp, từ quy mô nhỏ đến quy mô
lớn. Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động, Đại hội X Công
đoàn Việt Nam đã khẳng định, chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao
động trở thành chức năng trung tâm, xuyên suốt trong hoạt động của tổ chức Công đoàn
Việt Nam.
1.2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khẳng định vai trò bảo vệ lợi ích người lao động của tổ chức Công đoàn
1.2.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của Công đoàn
Trong những năm đổi mới Đảng ta đã có bước phát triển mới trong tư duy lý luận
nói chung, tư duy lý luận về Công đoàn Việt Nam nói riêng. Những đổi mới tư duy của
Đảng về Công đoàn là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh
đạo của Đảng đối với Công đoàn Việt Nam. Bởi chỉ có dựa trên cơ sở nhận thức đúng
đắn, đầy đủ bản chất, vị trí của tổ chức Công đoàn trong hệ thống chính trị - xã hội và vai
trò của tổ chức Công đoàn đối với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội được thể hiện
trên các mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội … thì mới thực sự đặt Công đoàn
vào đúng vị trí của nó. Hiểu và nhận thức được chức năng của Công đoàn Việt Nam tồn
tại khách quan, xuất phát từ bản chất, vai trò, vị trí của Công đoàn trong hệ thống chính
trị - xã hội thì Đảng mới quan tâm lãnh đạo, tạo các điều kiện cho Công đoàn hoạt động.
Mặt khác, chỉ trên cơ sở có các điều kiện thuận lợi về vật chất, về pháp lý, thì Công đoàn
Việt Nam mới phát huy được mạnh mẽ vai trò là “cầu nối”, là “dây chuyền” nối liền giữa
Đảng với quần chúng công nhân lao động, là trung tâm tập hợp, đoàn kết giáo dục công
nhân viên chức lao động, là người cộng tác đắc lực của Nhà nước, góp phần tăng cường
củng cố hệ thống chính trị vững mạnh, nhằm phát huy mạnh mẽ sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
Sự đổi mới tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về Công đoàn không tách rời sự
đổi mới tư duy nói chung của Đảng ta và được thể hiện ngay từ Đại hội đại biểu Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, đã khẳng định: “Đổi mới tư duy trong mọi lĩnh vực hoạt
động của Đảng và Nhà nước là việc cấp bách đồng thời là việc thường xuyên lâu dài” [6,
tr.126]. Tư duy về giai cấp công nhân cũng được Đảng ta khẳng định:
Đảng cần có những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao giác ngộ XHCN và
trình độ hiểu biết về mọi mặt để xứng đáng với vị trí giai cấp tiên phong của
cách mạng, đồng thời chăm lo đời sống vật chất và văn hoá, tạo ra những điều
kiện cần thiết để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình …
Đảng cần tổng kết kinh nghiệm và ra nghị quyết về xây dựng giai cấp công
nhân, Nhà nước cần bổ sung Luật Công đoàn [6, tr.115].
Với quan điểm nhất quán trong đổi mới tư duy về vai trò, vị trí giai cấp công
nhân, tổ chức Công đoàn, về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước đối với xây dựng phát
huy vai trò giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh, trong giai đoạn mới
Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng đã khẳng định cần “xoá bỏ nhận thức sai lầm,
coi công tác quần chúng chỉ là biện pháp tổ chức, động viên nhân dân thực hiện các
chủ trương, chính sách” [6, tr.111,112]. Đồng thời Đảng cộng sản Việt Nam cũng đặt ra
những yêu cầu đối với các cấp uỷ Đảng, các tổ chức quần chúng nói chung, với tổ chức
Công đoàn nói riêng:
Cấp uỷ phải tôn trọng tính độc lập về mặt tổ chức của các đoàn thể, khuyến
khích tính chủ động, sáng tạo trong thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Các đoàn thể
phải nhanh chóng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của mình cho phù hợp
với những cuộc cải cách về kinh tế - xã hội. Hoạt động công đoàn thì phải chuyển
mạnh về cơ sở, thu hút đông đảo quần chúng vào các phong trào cách mạng [6,
tr.115-116].
“Các cấp uỷ Đảng phải lãnh đạo tổ chức đại hội công nhân, viên chức trong các cơ
quan xí nghiệp tạo điều kiện cho các tập thể lao động thực hiện tốt vai trò của người làm
chủ tập thể ở cơ sở” [6, tr.111-112; 115-116].
Tư duy nói chung, tư duy về Công đoàn nói riêng của Đảng ta đã từng bước được bổ
sung, hoàn thiện và được nâng lên ở tầm cao hơn trong hoàn cảnh, điều kiện mới, thể
hiện rõ nét nhất là Đảng luôn quan tâm tới công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn. Đặc biệt qua các đại hội, hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, tư duy lý luận
của Đảng ta luôn được tổng kết, đánh giá, bổ sung và từng bước hoàn thiện. Tại Đại hội
đại biểu lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta khẳng định vấn đề mấu chốt là
phải xác định rõ chức năng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước và các
đoàn thể nhân dân, đồng thời Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nêu ra yêu cầu cần phải
không ngừng đổi mới và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công
tác quần chúng và các đoàn thể nhân dân.
Trong Nghị quyết Hội nghị TW 7 khoá VII Đảng ta đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế
của mình trong lãnh đạo xây dựng, phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam:
“Công đoàn chưa phát huy tốt vai trò của một tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai
cấp công nhân, phương thức hoạt động còn lúng túng” Trên cơ sở những tồn tại, hạn chế và
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng giai
cấp công nhân vững mạnh là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, Công đoàn và của các đoàn
thể chính trị - xã hội, đồng thời là trách nhiệm của mỗi người, mỗi tập thể công nhân cần
có cơ chế đảm bảo quyền công nhân và quyền Công đoàn trong từng loại hình doanh
nghiệp”.
Tiếp tục phát triển, hoàn thiện tư duy lý luận của Đảng nói chung, tư duy lý luận của
Đảng ta về các tổ chức quần chúng, về Công đoàn nói riêng, tại Đại hội đại biểu lần thứ
VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của các đoàn
thể chính trị - xã hội, đặc biệt là vị trí, vai trò, trách nhiệm của Công đoàn trong tình hình
mới: “Mặt trận và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi
phối hợp thống nhất hành động của các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham gia với Đảng và Nhà nước thực hiện dân chủ,
chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân” [7, tr.127-128].
“Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam … cần tập hợp rộng rãi hội viên, đoàn viên
dưới nhiều hình thức tổ chức đa dạng, thực hiện tốt chức năng giáo dục quần chúng, thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ cụ thể, chăm lo thiết thực lợi ích của hội viên, đoàn viên, đại diện
cho tầng lớp mình tham gia công việc của Nhà nước” [7, tr.47]. Có thể thấy rõ trong điều
kiện hiện nay, Đảng ta đã nhận thức rõ và chính xác vai trò, vị trí hết sức quan trọng của
các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là của tổ chức Công đoàn trong việc vận động, tổ
chức quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của quần chúng. Bước
vào thế kỷ XXI, trước tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, tình hình trong
nước có nhiều biến đổi nhanh chóng, khoa học - công nghệ có tốc độ phát triển nhanh
chưa từng thấy, xu thế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra như một tất yếu khách quan lôi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia, cạnh tranh trong và ngoài nước ngày càng gay gắt. Trong
khi đó nước ta vẫn là nước chậm phát triển so với thế giới và khu vực, vấn đề cấp bách
đặt ra là phải đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thì tư
duy lý luận của Đảng về Công đoàn cũng ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và phát
triển. Tại Đại hội đại biểu lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định:
Các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn
kết toàn dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Phát huy quyền và trách nhiệm làm
chủ của nhân dân, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước,
thực hiện giám sát của nhân dân đối với công tác, đạo đức, lối sống của cán bộ
đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và cơ quan Nhà nước giải quyết những
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân [8, tr.47].
Cụ thể hoá nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX, Hội nghị lần thứ
7 Ban Chấp hành TW Đảng khoá IX đã ra Nghị quyết về “Phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nghị
quyết nhấn mạnh phải “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để phát huy hơn nữa
vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân”. Có thể thấy rằng chính
những đổi mới tư duy của Đảng ta về vai trò, vị trí của các tổ chức chính trị - xã hội nói
chung, của tổ chức Công đoàn Việt Nam nói riêng được bổ sung, hoàn thiện trong suốt
quá trình đề ra đường lối đổi mới và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ta,
đã là cơ sở, nền tảng cho bước đột phá về đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với các tổ chức chính trị - xã
hội nói chung, đối với Công đoàn Việt Nam nói riêng và là cơ sở, động lực cho các tổ
chức chính trị - xã hội, đặc biệt cho Công đoàn Việt Nam chủ động, sáng tạo trong tổ
chức hoạt động, nhằm phát huy tốt vai trò trường học kinh tế, trường học quản lý, trường
học CNXH và vai trò là cầu nối giữa Đảng với quần chúng công nhân, viên chức, lao
động của Công đoàn.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng ta
cũng đã xác định:
Xây dựng tổ chức, phát triển đoàn viên công đoàn, nghiệp đoàn đều khắp
ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Thường xuyên
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp
của công nhân và những người lao động, chú trọng công nhân làm việc ở các
khu công nghiệp và đô thị lớn. Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên từ
những công nhân ưu tú [9, tr.118].
Đặc biệt ngày nay chúng ta đang thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt
Nam khởi xướng và lãnh đạo, các thành phần kinh tế bình đẳng hoạt động trước pháp luật,
công nhân lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng tăng. Nếu tổ chức Công đoàn không lớn mạnh, thì Đảng rất khó có điều
kiện tập hợp và nắm được người lao động khu vực ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài, nơi có lực lượng công nhân, lao động ngày càng đông đảo và đang tạo ra
khối lượng sản phẩm chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong tổng sản phẩm xã hội.
Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng có Chỉ thị
30CT/TƯ về việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Ngày 12/2/1999 Chính
phủ đã ban hành Nghị định 07 về thực hiện dân chủ trong doanh nghiệp Nhà nước và
ngày 8/9/1998 ban hành Nghị định 71 quy định về thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt
động của cơ quan. Các Chỉ thị của Đảng, Nghị định của Chính phủ đã quy định rất rõ
quyền và trách nhiệm của Công đoàn trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ
và trong kiểm tra, giám sát thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; quy định những vấn đề
công nhân, viên chức, lao động được biết, được bàn và được quyết định. Như vậy, trong
những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng đổi mới tư duy, từng bước
nhận thức rõ về vai trò, vị trí, chức năng của Công đoàn. Những tư duy mới của Đảng ta về
Công đoàn cùng với quá trình đổi mới đất nước, đã từng bước được thể hiện trong các văn
kiện, nghị quyết của Đảng, đặc biệt được thể hiện ở sự quan tâm lãnh đạo, cụ thể hoá, thể
chế hoá các quan điểm, đường lối của Đảng về Công đoàn trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thành pháp luật, chính sách, tạo cho Công đoàn Việt
Nam có cơ sở pháp lý và điều kiện hoạt động. Vì vậy hoạt động Công đoàn Việt Nam
trong những năm qua đã có những bước phát triển mới trong tập hợp công nhân, viên chức,
lao động trong các thành phần kinh tế vào Công đoàn, trong tuyên truyền giáo dục, xây
dựng đội ngũ công nhân viên chức lao động không ngừng lớn mạnh và trong chăm lo bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp của người lao động; góp phần tạo cho quan hệ lao động phát
triển, tiến bộ đã tạo động lực mạnh mẽ trong phát triển kinh tế xã hội. Theo số liệu thống
kê chưa đầy đủ đến nay Công đoàn đã phát triển được gần 80 ngàn công đoàn cơ sở, trong
đó khu vực Nhà nước khoảng trên 62 ngàn, khu vực ngoài quốc doanh khoảng gần 15
ngàn, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài khoảng 1,3 ngàn. Tập hợp được đông đảo người
lao động gia nhập Công đoàn với số lượng khoảng 6 triệu đoàn viên; trong đó ở khu vực
hành chính sự nghiệp, các cơ quan Đảng, đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức
xã hội khoảng gần 2 triệu đoàn viên, trong các doanh nghiệp nhà nước khoảng 1,8 triệu
đoàn viên, khu vực ngoài quốc doanh khoảng trên một triệu đoàn viên, khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài tập hợp được khoảng trên 300.000 đoàn viên.
1.2.2.2. Chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam tạo điều kiện cho Công đoàn phát huy vai trò của mình
Trong thời kỳ đổi mới, với chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân, Đảng ta đã quan tâm lãnh đạo việc cụ thể hoá, thể chế hoá
các quan điểm, đường lối của Đảng về Công đoàn trong điều kiện kinh tế thị trường
thành luật pháp, chính sách, lãnh đạo Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ
chức xã hội và toàn dân sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, để giữ vững kỷ
cương phép nước. Cụ thể là năm 1990, Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã ban hành Luật Công đoàn, gồm 29 điều, quy định rõ vị trí, vai trò, quyền hạn,
trách nhiệm của Công đoàn, quy định những đảm bảo về vật chất, pháp lý để Công đoàn
hoạt động. Ngay sau khi Quốc hội nước cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua Luật Công
đoàn, ngày 20/4/1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số
133 HĐBT hướng dẫn thi hành Luật Công đoàn. Nhằm chi tiết hoá, cụ thể hoá quyền,
trách nhiệm của tổ chức Công đoàn Việt Nam, trách nhiệm của chính quyền các cấp
trong việc phối hợp, tạo điều kiện để Công đoàn Việt Nam thực hiện tốt quyền và trách
nhiệm của mình trong tham gia quản lý kinh tế, xã hội, trong chăm lo bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức lao động và tuyên truyền giáo dục
công nhân viên chức lao động. Đến ngày 19/8/1992 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) lại ban hành Nghị định số 302 HĐBT quy định chi tiết, cụ thể quyền và trách nhiệm
của công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp, cơ quan với 21 điều. Năm 1992 Quốc hội
nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Hiến pháp mới. Vị trí, vai trò của
Công đoàn lại được khẳng định rõ tại Điều 10 chương I: “Công đoàn là tổ chức chính trị -
xã hội của giai cấp công nhân và người lao động, cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội, chăm lo, bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao
động khác”. Với quy định này trong hiến pháp, những vấn đề cốt lõi của Công đoàn Việt
Nam được tái khẳng định trong điều kiện mới, trong đó xác định tính chất chính trị - xã
hội của Công đoàn Việt Nam, xác định chức năng cơ bản của Công đoàn và nguyên tắc
chủ đạo của mối quan hệ hợp tác hỗ trợ lẫn nhau giữa Nhà nước với Công đoàn.
Từ khi ban hành Hiến pháp và Luật Công đoàn, đến nay đã hơn 20 năm, tuy việc tổ
chức thực hiện Hiến pháp, pháp luật có lúc, có nơi còn nhiều vấn đề cần phải xem xét để
có thể đánh giá một cách chính xác, toàn diện, song thực tế cho thấy, những quan điểm,
tư tưởng của Đảng ta về Công đoàn đã được Nhà nước quán triệt nghiêm túc trong quá
trình thể chế hoá thành pháp luật, tạo cho Công đoàn có vị thế và cơ sở pháp lý để tổ
chức, hoạt động. Đặc biệt, năm 1995, Quốc hội nước cộng hoà XHCN Việt Nam đã
thông qua Bộ luật Lao động, trong đó dành một chương XIII với 4 điều nói về quyền,
trách nhiệm của Công đoàn và còn nhiều điều khoản trong các chương khác đều nói đến
quyền và trách nhiệm của Công đoàn trong quan hệ lao động. Sau khi Bộ luật Lao động
được thông qua, hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động của Chính
phủ được ban hành đã quy định rõ những quyền, trách nhiệm cụ thể của tổ chức Công đoàn
trong quan hệ lao động, như: thương lượng, ký kết TƯLĐTT, giải quyết tranh chấp lao
động, quy định rõ vai trò Công đoàn trong công tác BHLĐ, BHXH, trong kiểm tra giám sát
thực hiện các chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người lao
động, quy định người sử dụng lao động có trách nhiệm tạo điều kiện về thời gian, phương
tiện làm việc cho cán bộ công đoàn hoạt động, quy định người sử dụng lao động phải có
trách nhiệm thực hiện nghiêm những quy định của Bộ luật Lao động…
Sau hơn 7 năm Bộ luật Lao động có hiệu lực, đến năm 2002, Bộ luật Lao động lại
được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiến hành sửa đổi, bổ sung cho
hoàn thiện hơn. Đến nay đã hơn 10 năm Bộ luật Lao động được ban hành và có hiệu lực
cho thấy, sự ra đời và hoàn chỉnh Bộ luật Lao động đã đánh dấu bước phát triển mới về
quyền của công nhân, lao động, quyền của Công đoàn. Pháp luật nước ta đã quy định rõ
vai trò, vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của tổ chức Công đoàn, tổ chức duy nhất đại diện
hợp pháp, chính đáng cho người lao động trong quan hệ lao động. Những quy định trên
của hệ thống pháp luật nước ta đã tạo ra cơ sở pháp lý một cách khá đầy đủ, đồng bộ về
quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động và của tổ chức Công đoàn, tạo điều kiện để Công
đoàn hoạt động, góp phần nâng cao vị thế của Công đoàn trong đời sống xã hội, làm lành
mạnh các quan hệ lao động ở Việt Nam, góp phần quan trọng làm cho môi trường đầu tư
của nước ta từng bước được cải thiện tạo cho kinh tế, xã hội nước ta phát triển vững chắc.
Chính sự quy định khá chi tiết, đầy đủ và có hệ thống về vai trò, vị trí, quyền hạn, trách
nhiệm của công đoàn, quyền lợi nghĩa vụ của người lao động đã tạo điều kiện cho Công
đoàn trở thành tổ chức quần chúng duy nhất có cơ sở pháp lý để tổ chức, hoạt động trong
tất cả các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế, từ đó tổ chức hoạt động của Công đoàn
ngày càng có hiệu quả, Công đoàn Việt Nam ngày càng trở thành cầu nối chặt chẽ giữa
Đảng với quần chúng công nhân, viên chức lao động trong tất cả các thành phần kinh tế,
người phản biện và cộng tác đắc lực của Nhà nước, người đại diện chăm lo, bảo vệ
quyền, lợi ích cho người lao động.
1.3. Hoạt động công đoàn trong việc bảo vệ lợi ích người lao động ở một số
nước hiện nay và bài học kinh nghiệm vận dụng vào Việt Nam
1.3.1. Hoạt động công đoàn bảo vệ lợi ích của người lao động ở một số nước
Thực tiễn lịch sử hiện nay cho thấy phong trào Công đoàn thế giới là một lực lượng
xã hội đông đảo, có vai trò quan trọng và ảnh hưởng đến tiến trình phát triển của xã hội
loài người.
Phong trào Công đoàn đang ở trong một thế giới chuyển động, một thế giới trải qua
nhiều biến đổi và phức tạp chưa từng có. Do đó phong trào Công đoàn phải giải quyết
nhiều vấn đề mới phải tranh thủ được thời cơ mới và khắc phục nhiều khó khăn để phát
triển.
Nhân loại đang đứng trước những thời cơ và thách thức do cuộc cách mạng khoa
học công nghệ đang phát triển như vũ bão đem lại. Do sự phát triển không đều giữa các
nước nên khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia dân tộc, giai cấp tầng lớp ngày
càng lớn trong những năm đầu thế kỷ XXI. Theo tài liệu của Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO), hiện nay có 1/5 dân số thế giới sống trong điều kiện nghèo khổ, 35 triệu người
thất nghiệp, 200 triệu trẻ em bị bóc lột tàn tệ, 33 triệu người phải chịu hình thức lao
động cưỡng bức, 200 triệu phải rời bỏ quê hương Tổ quốc đi tìm kiếm việc làm. bên
cạnh đó sự bất công và khoảng cách giàu - nghèo đang là vấn đề nhức nhối. Năm 1960
GDP tính theo đầu người ở 20 nước giàu nhất thế giới gấp khoảng 30 lần so với các
nước nghèo nhất thì năm 1997 đã gấp 74 lần. Tình hình trên đã làm cho phong trào
Công đoàn các nước và thế giới có nhiều nội dung và mục tiêu hoạt động khác nhau để
bảo vệ lợi ích người lao động, song hoạt động Công đoàn ở mỗi nước có đặc thù riêng
không giống nhau. Dưới đây xin đưa ra một số hình mẫu hoạt động công đoàn bảo vệ
lợi ích của người lao động ở một số nước.
1.3.1.1. Hoạt động của Liên hiệp công đoàn độc lập Nga trong việc bảo vệ lợi ích
người lao động
Sau sự kiện biến động lịch sử, từ sự sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô cũ (1989),
phong trào Công đoàn của Liên bang Nga có những biến đổi toàn diện sâu sắc. Hiện nay
Liên hiệp Công đoàn Độc lập Liên bang Nga đã có những bước phát triển khá, đã tập hợp
được 42 Công đoàn ngành, 79 Công đoàn lãnh thổ, với trên 330,000 Công đoàn cơ sở và
khoảng 40 triệu đoàn viên. Công đoàn Độc lập Liên bang Nga không phải là tổ chức độc
lập với Nhà nước và Chính phủ, mà là một tổ chức độc lập có quan hệ hợp tác với Nhà
nước, tham gia soạn thảo luật pháp và các chế độ, chính sách liên quan tới quyền lợi của
người lao động.
Hoạt động Công đoàn coi trọng và phát huy cơ chế ba bên: Công đoàn, Chính phủ và
giới chủ, sử dụng tối đa quyền và trách nhiệm của Công đoàn theo quy định của pháp luật
trong lĩnh vực thương lượng với Chính phủ và giới chủ.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, TƯLĐTT vừa có vai trò điều tiết quan hệ
lao động giữa người lao động với giới chủ, vừa là công cụ, là phương tiện để Công đoàn
đấu tranh bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Các quyền lợi của người lao động về tiền
lương, tiền thưởng; đảm bảo việc làm; thời gian lao động và thời gian nghỉ ngơi; BHLĐ
và sức khoẻ; bảo đảm xã hội và đặc biệt là bảo đảm hoạt động của Công đoàn được quy
định trong TƯLĐTT. Vấn đề mấu chốt chính là phải đàm phán và ký được TƯLĐTT.
Trên thực tế nhiều xí nghiệp đã ký được TƯLĐTT với nội dung có lợi hơn so với
quy định của luật cho người lao động. Ví dụ, mức lương tối thiểu ở Nga là 132 rúp/tháng,
nhưng thực tế lương bình quân có thể lên tới 3.000 rúp/tháng. Hoặc về thời gian làm việc,
Chính phủ quy định 40 giờ/tuần song thực tế có nơi đưa vào TƯLĐTT là 34, 36, 37
giờ/tuần, vấn đề này hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả đàm phán và thoả thuận giữa Công
đoàn và giới chủ.
Vấn đề nhà ở cho công nhân lao động là một trong những nội dung quan trọng của
TƯLĐTT, bởi vì nhà nước đã xoá bỏ chế độ bao cấp về nhà ở. Một số xí nghiệp hoạt
động có hiệu quả, lợi nhuận cao đã mua nhà để cấp cho công nhân. Quá trình đàm phán,
thương lượng để đi đến ký kết TƯLĐTT là cả quá trình khó khăn, phức tạp, có nơi còn
phát sinh mâu thuẫn dễ dẫn đến đình công, biểu tình.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, mục đích cao nhất của doanh nghiệp chính là
lợi nhuận tối đa, vì vậy chủ sử dụng lao động tìm mọi cách để giảm thiểu phần chi phí,
thậm chí xâm phạm trực tiếp tới lợi ích của người lao động như cắt xén tiền lương, trừ
tiền thưởng vô cớ. Có TƯLĐTT trong doanh nghiệp chính là cơ sở pháp lý để bảo vệ
quyền lợi cho người lao động, là công cụ để điều hoà mối quan hệ lao động trong doanh
nghiệp giữa người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời là phương tiện hữu
hiệu để Công đoàn thực hiện quyền và trách nhiệm của mình.
TƯLĐTT có tầm quan trọng hết sức đặc biệt, song hiện nay ở nước Nga mới có 50% xí
nghiệp ký TƯLĐTT. ở những xí nghiệp chưa có TƯLĐTT cũng đồng nghĩa với việc Công
đoàn ở đó chưa thực hiện được nhiệm vụ của mình. Chính vì vậy Công đoàn Nga đã có
hướng dẫn cho các xí nghiệp có tổ chức Công đoàn phải xúc tiến ngay việc đàm phán,
thương lượng và ký kết TƯLĐTT.
1.3.1.2. Hoạt động của Tổng công hội Trung Quốc trong việc bảo vệ lợi ích người
lao động
Trung Quốc thực hiện nền kinh tế thị trường XHCN với “hình thức chế độ công hữu
hiện hành, đa dạng hoá về chế độ phi công hữu đang phát triển nhanh chóng” [51, tr.25]
đã làm cho quan hệ kinh tế và quan hệ lao động có nhiều thay đổi. Do đó Tổng công hội
Trung Quốc đã xác định, để thực hiện bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công nhân phải
phối hợp với cơ quan hành chính của Chính phủ để điều chỉnh quan hệ lao động.
Trong quá trình thực hiện nền kinh tế thị trường, Trung Quốc coi trọng việc giải
quyết thoả đáng quan hệ tài sản, quan hệ lao động. Song, do Trung Quốc là nước có số
dân rất lớn, nên trong quan hệ lao động, người lao động luôn ở vào thế yếu. Tình trạng
tranh chấp lao động xảy ra ngày càng nhiều trong các doanh nghiệp; các doanh nghiệp cổ
phần thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc doanh nghiệp sở hữu Nhà nước thông thường đều
thành lập ra các uỷ ban hoà giải tranh chấp lao động. Tổ chức Công đoàn có trách nhiệm
tư vấn pháp luật cho đương sự là người lao động.
Để khắc phục tình trạng người lao động luôn ở thế yếu và xây dựng được mối quan
hệ hài hoà trong doanh nghiệp, Tổng công hội Trung Quốc đã chỉ đạo việc thực hiện chế
độ hợp đồng tổng thể và chế độ Đại hội đại biểu công nhân. Đây là hai vấn đề chủ yếu để
giải quyết quan hệ lao động trong doanh nghiệp. Vì vậy đã có trên 95% người lao động
đã thực hiện chế độ hợp đồng, ở các doanh nghiệp tư nhân và hộ cá thể đạt hơn 60%.
Thực hiện chức năng bảo vệ quyền lợi người lao động, Công hội Trung Quốc chú
trọng đẩy mạnh “công tác lập pháp lao động và lập pháp Công đoàn” [51, tr.28] như tham
gia xây dựng luật bảo hiểm xã hội, luật cứu tế xã hội, luật lao động tập thể, luật hợp đồng
lao động, luật tìm việc … Luật pháp là công cụ hữu hiệu để điều chỉnh hành vi của người
lao động, người sử dụng lao động trong doanh nghiệp.
Công hội Trung Quốc xác định bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người lao động là
nhiệm vụ trọng tâm trong công tác hiện nay. Khi gia nhập tổ chức WTO thì mâu thuẫn
giữa nhà doanh nghiệp và người lao động trong các doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp tư nhân nói riêng ngày càng nổi cộm, đồng thời việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế đã
dẫn tới sự phá sản hoặc sáp nhập của các doanh nghiệp làm cho đời sống của người lao
động bị ảnh hưởng, quyền và lợi ích của họ bị vi phạm nghiêm trọng, số công nhân xin
thôi việc, mất việc làm ngày càng tăng. Công đoàn là người có trách nhiệm số một giúp
đỡ công nhân gặp khó khăn, góp phần ổn định chính trị và phát triển xã hội, như đề xuất
kế hoạch với Nhà nước đào tạo số lượng công nhân thôi việc, công nhân không có việc
làm (có thời kỳ lên đến 13.000.000 người). Riêng Công đoàn bằng nguồn vốn của mình
đã tổ chức ra 6.000 văn phòng đào tạo, bồi dưỡng, từ năm 2000 đến 2001 đã đào tạo trên
3.000.000 lượt người.
Hoạt động của Công hội Trung Quốc hiện nay là chú trọng nhiệm vụ bảo đảm ổn
định xã hội và tìm việc làm cho công nhân, tích cực giúp đỡ lớp công nhân thôi việc,
công nhân không có việc làm, đồng thời tham gia tích cực với Nhà nước nhanh chóng
xây dựng hệ thống pháp luật có liên quan đến công nhân góp phần ổn định quan hệ lao
động trong doanh nghiệp.
1.3.1.3. Hoạt động của Công đoàn Na Uy
Công đoàn Na Uy có tên gọi là Tổng Liên đoàn Na Uy (viết tắt là LO). LO là trung
tâm Công đoàn lớn nhất Na Uy với 850.000 đoàn viên, tập hợp 28 Công đoàn ngành
nghề, ngoài LO còn có 3 trung tâm Công đoàn khác là Liên đoàn hiệp hội chức nghiệp
Na Uy, Liên hiệp Công đoàn hướng nghiệp, Liên đoàn công nhân ngành dầu khí.
Những vấn đề cơ bản mà LO quan tâm là cố gắng hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của
kinh tế thị trường; không ủng hộ việc tư nhân hoá các cơ sở thuộc ngành dịch vụ công
cộng, vì sẽ ảnh hưởng đến đời sống người lao động (hiện nay vẫn do Nhà nước bảo đảm);
nâng cao vai trò, ảnh hưởng và sức mạnh của Công đoàn trong điều kiện mới, thách thức
mới.
Để bảo vệ lợi ích cho người lao động, điều quan trọng nhất là các xí nghiệp phải
thành lập được Công đoàn. Việc thành lập Công đoàn vừa là nhu cầu của người lao động,
vừa là điều kiện cần thiết để người lao động thực hiện các quyền tập thể khác như: quyền
thương lượng, quyền đình công. Hiện nay cũng còn những xí nghiệp do chủ xí nghiệp trả
lương, số lượng cán bộ Công đoàn chuyên trách nhiều hay ít phụ thuộc vào số lượng lao
động của xí nghiệp, yêu cầu công việc và phải có sự thoả thuận với chủ xí nghiệp.
- Với xí nghiệp có từ 26 đến 50 công nhân: Cử 3 đại diện.
- Với xí nghiệp có từ 51 đến 150 công nhân: Cử 4 đại diện.
- Với xí nghiệp có từ 151 đến 300 công nhân: Cử 6 đại diện.
- Với xí nghiệp có từ 750 công nhân trở lên: Cử 12 đại diện.
Quyền lợi của người lao động như tiền lương, an toàn vệ sinh lao động, đào tạo
huấn luyện, tuyển dụng, thu nộp Công đoàn phí… được quy định trong TƯLĐTT. Vì
vậy, vai trò của Công đoàn, sức mạnh của Công đoàn được thể hiện rõ nhất trong quá
trình đàm phán, thương lượng và thoả thuận với giới chủ. Trường hợp đàm phán bị bế
tắc, Công đoàn sẽ sử dụng quyền đình công theo quy định của pháp luật.
Mặc dù có TƯLĐTT, có cam kết giữa hai bên, song tranh chấp lao động và đình
công vẫn xảy ra. ở Na Uy, Công đoàn là chủ thể duy nhất có quyền tổ chức đình công vì
đình công luôn gắn với thương lượng, song phải tổ chức theo đúng quy định, nếu tổ chức
đình công trái quy định của pháp luật thì có thể bị truy tố hoặc bồi thường thiệt hại cho
phía chủ xí nghiệp.
Do các cuộc đình công để lại nhiều hậu quả nên công đoàn rất thận trọng khi sử
dụng vũ khí này. Có những cuộc đình công thắng lợi nhưng Công đoàn phải chi hết quỹ
đình công. Vì vậy, mục tiêu hoạt động của Công đoàn trong xí nghiệp là phải giữ được sự
cân bằng của quan hệ lao động, xây dựng quan hệ lao động lành mạnh, văn minh, trong
đó, Công đoàn, giới chủ, Chính phủ là những cộng sự xã hội biết tôn trọng nhau trên cơ
sở pháp luật.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm vận dụng vào Việt Nam
Công đoàn các nước Nga, Trung Quốc, Na uy hoạt động trong những điều kiện kinh
tế - chính trị - xã hội, văn hoá, tâm lý, đạo đức hết sức khác nhau nhưng đều lấy lợi ích
người lao động làm mục đích cho mọi giải pháp hoạt động của mình. Chúng ta có thể tìm
thấy những bài học chung cho việc phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn trong việc bảo
vệ lợi ích người lao động trong nền kinh tế mở cửa thế giới đương đại là:
Thứ nhất, xúc tiến thành lập công đoàn ở các DNNQD.
Để bảo vệ lợi ích cho người lao động trong doanh nghiệp nhất thiết phải thành lập tổ
chức Công đoàn. Bởi vì tổ chức Công đoàn sẽ đại diện cho người lao động khi đàm phán,
thương lượng, giải quyết những tranh chấp lao động xảy ra ngay tại doanh nghiệp với
người sử dụng lao động, thực hiện việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động.
Bộ luật Lao động của nước cộng hoà XHCN Việt Nam đã xác định: Các doanh
nghiệp sau khi đã thành lập 6 tháng phải thành lập tổ chức Công đoàn. Song cho đến nay
mới có khoảng trên 60% DNNQD có tổ chức Công đoàn. Đây là một khó khăn, trở ngại
trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động. Bởi lẽ ở các doanh nghiệp chưa có tổ chức
công đoàn thì quyền và lợi ích chính đáng của người lao động vẫn còn bị vi phạm nghiêm
trọng mà công nhân lại chưa có người đại diện chân chính của mình đứng ra bảo vệ.
Thứ hai, coi trọng và phát huy cơ chế ba bên.
Cơ chế này nhằm tạo mối quan hệ hài hoà góp phần ổn định doanh nghiệp, ổn định
xã hội. ở tầm vĩ mô là sự tương tác giữa Chính phủ với tư cách đại diện cho Nhà nước và
tổ chức của người lao động, người sử dụng lao động nhằm giải quyết các vấn đề hoạch
định và thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. ở tầm vi mô, là sự tương tác giữa người
sử dụng lao động với đại diện của tập thể lao động là Công đoàn trong việc thực hiện các
chế độ, chính sách có liên quan đến người lao động như ký TƯLĐTT, xây dựng và thực
hiện các quy chế, giám sát thực hiện các chính sách đối với người lao động.
Thứ ba, phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đủ mạnh để điều chỉnh
hành vi của các chủ thể trong quan hệ lao động.
Nếu hệ thống pháp luật yếu và thiếu sẽ tạo cơ hội cho các hành vi xâm phạm lợi ích
của nhau xảy ra, từ đó mâu thuẫn xuất hiện và gây nên tình trạng tranh chấp lao động,
đình công. Đây là nguyên nhân làm xấu đi quan hệ lao động trong doanh nghiệp. Do vậy,
xây dựng hệ thống pháp luật đủ mạnh là yêu cầu cần thiết để hạn chế đến mức thấp nhất
những tiêu cực phát sinh của nền kinh tế thị trường.
Chương 2
Thực Trạng VAI Trò CÔNG Đoàn Việt NAM TRONG Việc Bảo Vệ Lợi ích Của
Người LAO Động ở DOANH Nghiệp
Ngoài Quốc DOANH Hiện NAY
2.1. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay ở Việt Nam
2.1.1. Khái niệm doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Theo Đại từ điển tiếng Việt, doanh nghiệp được xác định là “Tổ chức hoạt động
kinh doanh của những chủ sở hữu có tư cách pháp nhân nhằm mục đích kiếm lời ở một
hoặc nhiều ngành”. Dưới góc độ kinh tế, doanh nghiệp được xác định là một tổ chức kinh
tế, được thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh, thực hiện các chức năng sản
xuất, mua bán hàng hoá hoặc làm dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu con người và xã hội,
và thông qua hoạt động hữu ích đó mà kiếm lời. Dựa trên các quy định của Nhà nước như
Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật hợp tác xã,
các nhà kinh tế định nghĩa về doanh nghiệp:
“Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế do nhà nước hoặc các đoàn thể hoặc tư nhân
đầu tư vốn nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc
hoạt động công ích góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước”.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định,
được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh.
Như vậy, doanh nghiệp được xác định là một đơn vị kinh tế, tổ chức kinh tế có tư
cách pháp nhân và có mục đích hoạt động rõ ràng. Khi thực hiện phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, doanh nghiệp không chỉ giới hạn ở khu vực kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể nữa, mà doanh nghiệp được khuyến khích phát triển ở tất cả các thành
phần kinh tế. Sự khác nhau của các doanh nghiệp hiện nay chính là ở hình thức sở hữu
của doanh nghiệp, và độ lớn của vốn đầu tư. Có nhiều loại hình doanh nghiệp. Tuỳ theo
đặc điểm về hình thức sở hữu, về tổ chức sản xuất, về quy mô, về lĩnh vực sản xuất,
người ta có thể phân ra nhiều loại hình doanh nghiệp. Trong các loại hình doanh nghiệp
đó có DNNQD. Từ năm 1989, kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta đã được chính thức
thừa nhận và nhanh chóng trở thành một bộ phận trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
hiện nay. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực kinh tế tương đối phong phú bao
hàm các loại hình sau: (Công ty liên doanh, công ty c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Vấn đề phát huy vai trò của Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay.pdf