Luận văn Vấn đề phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Kiên Giang

Tài liệu Luận văn Vấn đề phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Kiên Giang: LUẬN VĂN: Vấn đề phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Kiên Giang mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Để phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước trong thời đại ngày nay, nguồn lực con người là yếu tố quan trọng nhất và là yếu tố chủ đạo quyết định các nguồn lực khác. Bởi vậy, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới vấn đề nguồn lực con người được đặt vào đúng vị trí của nó. Nguồn lực con người được phát huy không chỉ là động lực trực tiếp mà còn là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Vấn đề đặt ra là làm thế nào để con người có được vai trò và bằng cách nào để phát huy được vai trò của nhân tố con người cho mục tiêu phát triển? Đó là câu hỏi lớn đã và đang tiếp tục đòi hỏi phải tìm lời giải đáp. Cũng như cả nước, tỉnh Kiên Giang chỉ có thể thực hiện thành cô...

pdf87 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Kiên Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Vấn đề phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Kiên Giang mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Để phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước trong thời đại ngày nay, nguồn lực con người là yếu tố quan trọng nhất và là yếu tố chủ đạo quyết định các nguồn lực khác. Bởi vậy, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới vấn đề nguồn lực con người được đặt vào đúng vị trí của nó. Nguồn lực con người được phát huy không chỉ là động lực trực tiếp mà còn là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Vấn đề đặt ra là làm thế nào để con người có được vai trò và bằng cách nào để phát huy được vai trò của nhân tố con người cho mục tiêu phát triển? Đó là câu hỏi lớn đã và đang tiếp tục đòi hỏi phải tìm lời giải đáp. Cũng như cả nước, tỉnh Kiên Giang chỉ có thể thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) khi phát huy được cao độ nguồn lực con người cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế nguồn lực con người ở Kiên Giang chưa được phát huy và sử dụng có hiệu quả, như: tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, việc làm không thường xuyên,việc làm không hiệu quả... còn khá phổ biến, hơn nữa nhiều tiềm năng quan trọng của nhân tố con người như trí tuệ, nền văn hóa truyền thống... vẫn chưa được phát huy tốt trong quá trình đổi mới hiện nay. Vì vậy, để nghiên cứu vạch ra những cơ sở khoa học cho việc phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH, HĐH ở Kiên Giang là vấn đề cấp thiết có ý nghĩa thực tiễn, lý luận quan trọng. Đó chính là lý do tôi chọn đề tài " Vấn đề phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Kiên Giang " làm luận văn thạc sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Phát huy nguồn lực con người nói chung, nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta nói riêng đã được nhiều người nghiên cứu với những hình thức, mức độ khác nhau và đã được công bố trên những phương tiện thông tin đại chúng, trên những tạp chí chuyên ngành và trên những chương sách chuyên khảo khác. Mặc dù vấn đề nguồn lực con người đã được nhiều nhà khoa học có uy tín thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau nghiên cứu và mở nhiều cuộc hội thảo bàn về vấn đề này, nhưng đây là vấn đề lớn và rất quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia, dân tộc. Vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi các cơ sở lý luận và thực tiễn để thực hiện tốt chiến lược con người, phát huy cao nhất vai trò con người cho các mục tiêu kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ VIII cũng như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VIII) đã đề ra vẫn còn được tiếp tục nghiên cứu. Nghiên cứu nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Kiên Giang với tư cách là một luận văn thạc sĩ hoặc luận án tiến sĩ thì chưa có tác giả nào nghiên cứu và đề cập đến một cách có hệ thống. 3. Mục đích và nhiệm vụ Luận văn nhằm làm rõ những yêu cầu và nội dung việc phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Kiên Giang. Trên cơ sở đó nêu lên thực trạng, đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con người ở Kiên Giang trong sự nghiệp CNH, HĐH. Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản sau đây: - Làm rõ một số vấn đề cơ bản của lý luận về nguồn lực con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. - Thực trạng phát huy nguồn lực con người ở Kiên Giang. - Đề xuất một số phương hướng và giải pháp để phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH, HĐH ở Kiên Giang. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn không nghiên cứu nguồn lực con người với tư cách là đối tượng của bộ môn tâm lý học, cũng không nghiên cứu nguồn lực con người trong sự phát triển kinh tế với tư cách là đối tượng của khoa học kinh tế học. Luận văn nghiên cứu nguồn lực con người dưới góc độ triết học nhằm đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH. Trên cơ sở nghiên cứu nguồn lực con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội, luận văn tập trung làm rõ vai trò, biện pháp và phương hướng để phát huy nguồn lực ấy trong sự nghiệp CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta về con người mà nhất là về nguồn lực con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước là cơ sở lý luận trực tiếp của luận văn này. - Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu chính: logic và lịch sử, trừu tượng và cụ thể, phân tích và tổng hợp... gắn lý luận với thực tiễn. - Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp điều tra Xã hội học. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn chỉ ra thực trạng của việc phát huy nguồn lực con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Kiên Giang và đưa ra những phương hướng và giải pháp khả thi, mang tính đặc thù trong phát huy nguồn lực con người ở Kiên Giang. 7. ý nghĩa của luận văn - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định các chính sách, kế hoạch góp phần xây dựng chiến lược con người trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Kiên Giang. - Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy và học tập về nguồn lực con người trong các trường học của Tỉnh. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. Chương 1 Nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1.1. Khái niệm nguồn lực con người 1.1.1. Định nghĩa nguồn lực con người Việc xem xét nhân tố con người với tư cách là một nguồn lực cơ bản trong sự phát triển kinh tế - xã hội đã dần hình thành khái niệm mới: nguồn nhân lực hay nguồn lực con người. Nguồn lực con người được các nhà nghiên cứu đề cập trên các góc độ sau: Trong lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố con người được đề cập với tư cách là lực lượng sản xuất chủ yếu, là phương tiện để sản xuất ra của cải. ở đây, con người được xem xét từ góc độ là những lực lượng lao động cơ bản nhất trong xã hội. Việc cung cấp đầy đủ và kịp thời lực lượng lao động theo nhu cầu của nền kinh tế, là vấn đề quan trọng nhất, bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội. Trong lý luận "vốn người" nhân tố con người được xem xét trước hết như một yếu tố của quá trình sản xuất, một phương tiện để phát triển kinh tế - xã hội và đến lượt nó, phát triển kinh tế xã hội lại là phương tiện nhằm đạt mục đích phát triển nguồn lực con người. Đầu tư cho con người được phân tích với tính cách là sự "tư bản hóa các phúc lợi" tương tự như đầu tư vào các nguồn vật chất, có tính đến tổng hiệu quả các đầu tư này, hoặc của thu nhập mà con người và xã hội thu được từ các đầu tư đó [55, 138]. Cách tiếp cận này đang được áp dụng và phổ biến ở hầu hết các nước hiện nay. Theo cách tiếp cận này, Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ "vốn người" (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp...) mà mỗi cá nhân sở hữu. ở đây, nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác như tiền, công nghệ, tài nguyên, thiên nhiên... Đầu tư cho con người giữ vị trí trung tâm trong các loại đầu tư và được coi là cơ sở chắc chắn cho sự phát triển bền vững. Cũng dựa trên cách tiếp cận này, Liên Hợp Quốc đưa ra khái niệm nguồn lực con người: là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước. Đây được coi là một yếu tố quan trọng bậc nhất trong kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Còn theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam được thể hiện trong chương trình khoa học - công nghệ cấp Nhà nước "Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội " mang mã số KX-07 thì nguồn lực con người được hiểu là dân số và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc... [20, 328]. Từ những cách tiếp cận trên, có thể thấy rằng, nguồn lực con người không chỉ đơn thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn là một tập hợp đa phức gồm nhiều yếu tố như trí tuệ, sức lực, kỹ năng làm việc... của con người. Trong bài phát biểu khi gặp gỡ các nhà doanh nghiệp, các nhà khoa học - công nghệ các tỉnh, thành phố phía Bắc, Thủ tướng Phan Văn Khải cũng nhấn mạnh: "Nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc ta" [29, 1]. Điều khẳng định trên có ý nghĩa rất quan trọng, định hướng cho việc nhận thức và phát huy tiềm năng nhân lực. Ngoài ra, cũng có thể hiểu đầy đủ hơn về nguồn lực con người thông qua tìm hiểu khái niệm "phát triển nguồn nhân lực". Nếu dịch từ cụm từ tiếng Anh thì phát triển nguồn nhân lực hay phát triển nguồn lực con người là Human Resouce Development (HRD), còn phát triển con người nói chung là Human Development (HD). Trong khái niệm về phát triển con người (HD), nguồn lực con người được đề cập đến như một mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội, như là chỉ tiêu về thành tựu kinh tế của dân tộc. Ngược lại, phát triển nguồn lực con người (HRD) có xu hướng tập trung vào các hoạt động, nhằm nâng cao khả năng thực hiện các vai trò sản xuất của con người như trí tuệ, kỹ năng làm việc, khả năng tổ chức lãnh đạo và quản lý... ở đây có sự khác biệt, nội hàm khái niệm phát triển nguồn lực con người sâu hơn, hẹp hơn nội hàm khái niệm phát triển con người. Phát triển con người - là quan điểm về phát triển, trong đó lấy con người làm trung tâm. Đó là sự phát triển của con người, vì con người và do con người. Phát triển con người có nghĩa là đầu tư vào phát triển tiềm năng của con người như giáo dục, y tế, kỹ năng... để con người có thể làm việc một cách sáng tạo và có năng suất cao nhất. Phát triển vì con người là bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế, mà con người tạo ra phải được phân phối rộng rãi và công bằng. Phát triển do con người là hướng vào việc tạo ra cho con người có cơ hội tham gia mọi hoạt động của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội) Lịch sử loài người từ trước đến nay là lịch sử của sự phát triển con người. Nói cách khác, sự phát triển của các xã hội, sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội là lịch sử đấu tranh, phát triển và giải phóng con người. Con người đóng vai trò chủ thể sáng tạo lịch sử thông qua hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới. Qua các cuộc đấu tranh đó, con người sáng tạo ra lịch sử, xã hội và sáng tạo ra chính mình. Do vậy, con người đạt tới giá trị tổng hòa cao nhất, có ý nghĩa thúc đẩy sự vận động, phát triển của xã hội. Với tư cách là chủ thể xã hội, con người tham gia phát triển sản xuất vật chất. Và chính sản xuất vật chất lại tái sản xuất con người - nhân tố quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội. Xã hội càng phát triển, con người ngày càng hoàn thiện mọi mặt, càng có nhu cầu tham gia tổ chức, quản lý xã hội và sự phát triển của bản thân mình. Con người, một khi được thỏa mãn những nhu cầu đó, sẽ đóng góp to lớn, trở thành động lực mạnh mẽ để thúc đẩy sự phát triển xã hội. Muốn vậy, con người phải hoàn thiện mọi mặt, được đặt vào vị trí trung tâm. Mọi chiến lược phát triển đều hướng vào con người nhưng muốn phát triển, phải dựa vào con người. Đích cuối cùng của chiến lược phát triển là vì con người, phục vụ con người, tạo ra sự phát triển với mức sống vật chất cao, đời sống tinh thần phong phú và văn minh hơn. Mục tiêu đó có thể đạt được nếu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phù hợp và gắn liền với sự phát triển con người, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. Thực hiện đồng bộ điều đó, con người mới phát huy được mọi mặt, khơi dậy được tiềm năng và sức sáng tạo. Thể hiện đầy đủ vai trò quyết định của mình đối với xã hội. Như vậy, con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của quá trình phát triển xã hội. Trong các thập niên qua, nhiều quốc gia trên thế giới thực hiện chiến lược quốc gia, nhằm phát triển con người và đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Nhân loại sắp bước vào thế kỷ mới nhưng ở một số quốc gia, khu vực, vẫn còn số lớn người dân nghèo đói, lạc hậu. Nam á chiếm 2/5 số người nghèo đói (515 triệu/ 1,3 tỷ người) [45, 61]. Châu Phi đang đối mặt với đại dịch AIDS, nghèo đói, môi trường xuống cấp. Bất bình đẳng về thu nhập giữa các quốc gia, khu vực và trên thế giới vẫn là vấn đề lớn của nhân loại. Từ sự nhận thức về vị trí, vai trò quan trọng của con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống chính sách nhằm góp phần nâng cao chất lượng con người thông qua đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, đồng thời tạo điều kiện để sử dụng và phát huy có hiệu quả vốn con người - nguồn tài sản giá trị cao của quốc gia. Năm 1991, Nhà nước Việt Nam đã thông qua "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000", những chính sách đó đã góp phần quan trọng vào sự phát triển con người ở Việt Nam trong thời gian qua, thúc đẩy sự đi lên của đất nước. Theo quan niệm của các tác giả Việt Nam thì phát triển nguồn lực con người được hiểu là quá trình làm "gia tăng giá trị cho con người trên các mặt đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực... làm cho con người trở thành những người lao động có năng lực mới đáp ứng yêu cầu to lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội" [20, 285]. Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy rằng, nguồn lực con người được đề cập đến như một "nguồn vốn" tổng hợp với hệ thống các yếu tố hợp thành: sức lực và trí tuệ, khối lượng cùng các đặc trưng về chất lượng lao động như trình độ văn hóa, kỹ thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp, thái độ và phong cách làm việc... ở đây, nhân tố con người được xem xét với một tư cách là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, một nguồn lực chủ yếu để phát triển kinh tế - xã hội. Nếu coi nguồn lực con người là toàn bộ tiềm năng người nói chung, thì tiềm năng mà con người có thể đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội, là việc khơi dậy và phát huy tất cả những tiềm năng đó. Quá trình này bao gồm nhiều vấn đề như tạo việc làm và sử dụng lực lượng lao động, phát huy tiềm năng trí tuệ và yếu tố tinh thần dân tộc, tạo ra những kích thích và động cơ lao động. Trong đó, giải quyết việc làm và sử dụng nguồn lao động chỉ là một nội dung của sử dụng và phát huy nguồn nhân lực. Để khơi dậy và phát huy những tiềm năng người nói chung, việc sử dụng và phát huy nguồn nhân lực phải được tiến hành đồng bộ từ vấn đề giáo dục, đào tạo và phổ cập nghề. Chuẩn bị cho người lao động bước vào cuộc sống lao động đến vấn đề tự do lao động và được hưởng thụ xứng đáng giá trị mà lao động sáng tạo ra. Nói cách khác, chính sách sử dụng và phát huy nguồn lực con người phải được lồng ghép với các vấn đề giáo dục và đào tạo, sử dụng lực lượng lao động, tạo môi trường làm việc và đãi ngộ thỏa đáng cho con người... trong đó, giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực con người, là cơ sở để sử dụng và phát huy con người có hiệu quả. Để làm rõ hơn quan niệm về nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con người, có thể đi sâu phân tích và làm rõ cấu trúc của nguồn lực con người và việc phát huy nó trong quá trình CNH, HĐH đất nước. 1.1.2. Cấu trúc nguồn lực con người Để tiến hành CNH, HĐH đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Đây là sự phát triển quan điểm truyền thống coi con người là vốn quý nhất. Trước đây, khi nói đến nguồn lực con người, người ta thường đồng nhất với sức người trong sản xuất. Từ quan niệm đơn giản này, dễ dẫn đến ngộ nhận sức người (sức lao động) trong hoạt động lao động sản xuất chỉ là sức của cơ bắp. Nguồn lực con người trước tiên thể hiện ở sức người trong sản xuất, song, không phải chỉ là sức cơ bắp mà cái cốt lõi, cái chủ yếu trong nguồn lực con người ở thời đại ngày nay chính là hàm lượng trí tuệ, là những phẩm chất tâm lý, đạo đức cần thiết, khả năng lao động sáng tạo, hiệu quả v.v... của con người. Nguồn lực con người được hiểu như là sự kết hợp giữa thể lực, trí lực, những phẩm chất, đạo đức, kinh nghiệm sống, nhu cầu, thói quen vận dụng tổng hợp trí thức và kinh nghiệm của từng người, của cộng đồng... cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng, hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển của con người; nguồn lực con người là một tập hợp các chỉ số phát triển người, là chất lượng văn hóa mà bản thân nó và xã hội, có thể huy động vào sự phát triển tiếp theo các giá trị văn hóa của toàn xã hội vì lợi ích của cá nhân, và xã hội [2, 14]. Từ ý nghĩa đó, nguồn lực con người Việt Nam được hiểu là những tiêu chí phản ánh về số lượng và chất lượng của dân số, với tư cách là lực lượng sản xuất trong xã hội Việt Nam hiện nay, cũng như vấn đề quản lý, sử dụng và đào tạo nguồn nhân lực đó như thế nào. Như vậy, với tư cách là nguồn lực quyết định của sự nghiệp CNH, HĐH, nguồn lực con người cần phải được xem xét ở các phương diện sau đây: trước tiên là những đặc điểm về dân số, giới tính, độ tuổi, đặc điểm về mặt hình thái - sinh lý, khả năng thích nghi với môi trường... và sau đó là những đặc điểm phản ánh chất lượng nguồn lực con người như: trình độ học vấn, tay nghề, những phẩm chất về mặt tâm lý, đạo đức phù hợp với yêu cầu của xã hội và nghề nghiệp, khả năng hoạt động nghề, chất lượng cuộc sống qua thu nhập v.v... Những tiêu chí phản ánh về số lượng, chất lượng nguồn lực con người, cần được xem xét trong quan hệ với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, trong quan hệ với đào tạo, quản lý. Tóm lại, con người dù ở bất kỳ hình thái xã hội nào cũng là người lao động. Vì vậy, nguồn lực con người trước hết được biểu hiện ra là nguồn lao động. Nó bao gồm toàn bộ những người lao động đang có khả năng phục vụ cho xã hội và các thế hệ nối tiếp sẽ phục vụ cho xã hội. Từ những người lao động trực tiếp đến các nhà quản lý, các nhà khoa học, công nghệ, những người làm công tác văn phòng, dịch vụ, đến lực lượng dự bị cho lao động trẻ... đều thuộc về nguồn lực con người của một quốc gia, dân tộc. Từ khía cạnh này, có thể hiểu phát huy nguồn lực con người trước hết là phát huy lực lượng lao động. Tạo việc làm và phát huy có hiệu quả nhất nguồn lao động hiện có, và đó chính là yêu cầu cơ bản và chủ yếu của việc phát huy nguồn lực con người. Khi tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội, con người chẳng những sử dụng lao động chân tay, mà còn sử dụng lao động trí óc, hơn nữa, sử dụng lao động trí óc ngày càng nhiều khi xã hội càng phát triển. Vì vậy, trí tuệ trở thành một yếu tố hết sức quan trọng của nguồn lực con người. Hầu hết mọi người thừa nhận rằng, trí tuệ là yếu tố quan trọng hàng đầu của nguồn lực con người. Có nó, con người có thể có được tất cả những yếu tố khác - kể cả của cải, quyền lực, khoa học công nghệ mới... Với ý nghĩa đó, khai thác và phát huy tiềm năng trí tuệ trở thành yêu cầu quan trọng nhất của việc phát huy nguồn lực con người. Tuy nhiên, trí tuệ với tư cách là một yếu tố của nguồn lực con người không phải là những kiến thức trong sách vở, trong ngân hàng dữ liệu hay trong chương trình phần mềm máy vi tính... Tri thức chỉ có thể trở thành nguồn lực khi nó được con người tiếp thu, làm chủ và phát huy chúng, hay nói theo cách nói của Mác, nó phải tồn tại trong nhân cách sinh động của con người. Nghĩa là, chỉ những kiến thức nằm trong con người, tồn tại trong vỏ não con người, được tạo ra, sửa đổi và hoàn thiện bởi con người, được con người sử dụng, phát huy và truyền đạt lại mới được xem là nguồn lực con người. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay, đang đặt ra những yêu cầu rất cao về trí tuệ của nguồn nhân lực - những người lao động. Họ không những phải có khả năng tiếp thu những tri thức mới, vận dụng có hiệu quả vào sản xuất mà còn phải biết thường xuyên tự đổi mới tri thức, để không bị lạc hậu trước sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học - công nghệ. Vì vậy, nguồn nhân lực cần thiết cho CNH, HĐH phải bao gồm những người lao động có sự phát triển cao về năng lực, trí tuệ, đủ sức làm chủ và tiếp thu công nghệ mới, có khả năng làm việc chủ động, linh hoạt và sáng tạo, có khả năng sử dụng các công cụ, phương tiện lao động hiện đại, tiên tiến... Xuất phát từ yêu cầu đó, tiến hành CNH, HĐH nhất thiết phải nâng cao trình độ học vấn chung của nguồn lực con người. Theo tổng kết của thế giới, trình độ văn hóa tối thiểu của người dân phải có là tiểu học ở nền văn minh nông nghiệp, trung học cơ sở ở nền văn minh công nghiệp và trung học hoàn chỉnh (xong giáo dục phổ thông 12 năm) ở nền văn minh thông tin, trí tuệ. Bởi vậy, con đường cơ bản nhất để phát huy tiềm năng nguồn nhân lực là biến dân tộc đó thành xã hội có học vấn. Điều đó giải thích vì sao cuộc chạy đua về kinh tế giữa các quốc gia hiện nay chủ yếu là cuộc chay đua về phát triển giáo dục đào tạo. Dựa trên nền tảng mặt bằng dân trí của nguồn lực con người, Đảng và Nhà nướcViệt Nam cần xây dựng và phát triển những người lao động có năng lực cao về trí tuệ. Họ phải có khả năng áp dụng khoa học để sáng chế những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, có khả năng nhạy bén, thích ứng nhanh và làm chủ được kỹ thuật, công nghệ hiện đai, có kỹ năng nghề nghiệp, có năng lực hoạch định chính sách, lựa chọn giải pháp và tổ chức thực hiện, biết quản lý sản xuất kinh doanh trong điều kiện kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường và phân công lao động quốc tế... Đây là những yêu cầu rất cơ bản về nguồn lực con người cần thiết cho CNH, HĐH trong điều kiện ngày nay. Sau trí tuệ là yếu tố sức khỏe - yêu cầu không thể thiếu của nguồn lực con người. Sức khỏe là điều kiện để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, để biến tri thức thành sức mạnh vật chất hiện thực. Với tư cách là một yếu tố của nguồn lực con người, sức khỏe là sự phát triển hài hòa của con người cả về thể chất và tinh thần. Vì vậy, yếu tố này phải bao gồm cả sức khỏe cơ thể và sức khỏe tinh thần. Sức khỏe cơ thể là sự cường tráng, phát triển cân đối, hài hòa của các cơ quan trong cơ thể theo quy luật "tạo hóa" của tự nhiên. Sức khỏe tinh thần là sự dẻo dai trong hoạt động thần kinh mà biểu hiện cụ thể của nó thông qua sức mạnh, niềm tin, khát vọng, ý chí và hoài bão. Suy cho cùng, sức khỏe tinh thần là khả năng vận động của trí tuệ, biến tư duy thành hành động thực tế. Bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH, yêu cầu về lao động trí tuệ ngày một cao. Vì vậy, cần phải có những người lao động khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần mới đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hiện đại. Chỉ như vậy mới bắt nhịp cuộc sống hiện đại. Họ có thể làm việc dẻo dai, có khả năng tập trung về trí tuệ cho công việc, có sức mạnh của niềm tin và ý chí để phát huy tốt nhất vai trò của nguồn lực con người. Với ý nghĩa đó, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân là một nhiệm vụ rất cơ bản để nâng cao chất lượng nguồn lực con người, tạo tiền đề để phát huy có hiệu quả tiềm năng con người. Tiến hành CNH, HĐH còn đòi hỏi ở người lao động hàng loạt phẩm chất lao động và nghề nghiệp như: kỷ luật tự giác, tiết kiệm nguyên liệu và thời gian, có tinh thần hợp tác và tác phong lao động công nghiệp, có lương tâm nghề nghiệp và trách nhiệm cao trước công việc được giao... Tất cả những vấn đề đó, ngày nay được sử dụng trong một chỉ tiêu tổng hợp là yếu tố văn hóa trong lao động. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng để đánh giá chất lượng nguồn lực con người nói chung và nguồn lực con người cần thiết cho CNH, HĐH nói riêng. Quá trình CNH, HĐH ngày nay còn đụng chạm đến các vấn đề phức tạp trong quan hệ giữa con người và thiên nhiên mà chỉ có thể giải quyết được nhờ trình độ văn hóa cao và sự hiểu biết sâu sắc của người lao động trước môi trường sinh thái. Đây là vấn đề sống còn không chỉ của mỗi quốc gia mà còn đối với nền văn minh nhân loại. Con người vốn có cội nguồn từ thiên nhiên và không thể tách rời thiên nhiên trong sự tồn tại và phát triển của mình. Vì vậy, sự hiểu biết và trách nhiệm cao trước vấn đề môi trường sinh thái cũng là phẩm chất và năng lực cần thiết của nguồn lực con người trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa. Đây là yêu cầu tất yếu để tránh được những hậu quả do sản xuất công nghiệp gây ra như: ô nhiễm nguồn nước, khí hậu, khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên... dẫn đến mất cân bằng sinh thái, làm nguy hại đến cuộc sống con người và sự phát triển bền vững của đất nước. Một vấn đề quan trọng khác cần xem xét ở nguồn lực con người là cơ cấu của nguồn lao động, mà quan trọng nhất là cơ cấu đào tạo và cơ cấu ngành nghề. Xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế, từ nhu cầu sử dụng mà những người lao động phải được đào tạo, phân bổ và sử dụng theo cơ cấu hợp lý đảm bảo tính hiệu quả cao nhất trong sử dụng. Một quốc gia tuy có lực lượng lao động đông đảo, nhưng nếu phân bổ không hợp lý giữa các ngành, các vùng, cơ cấu đào tạo không phù hợp với nhu cầu sử dụng, thì nguồn lao động đông đảo đó không những không trở thành nguồn lực để phát triển mà nhiều khi còn là sức cản sự phát triển. Theo xu hướng chung của quá trình công nghiệp hóa và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay, cơ cấu nguồn lao động sẽ chuyển dịch theo hướng: lao động dịch vụ, công nghiệp tăng cả về tương đối lẫn tuyệt đối; tỉ trọng lao động nông nghiệp ngày càng giảm trong cơ cấu lao động tổng thể. Cùng với quá trình đó, cấu trúc của nguồn lực con người cũng biến đổi mạnh theo hướng: tỷ trọng lao động thành thạo ngày càng tăng lên trong khi tỷ trọng lao động tay nghề thấp càng giảm; tỷ trọng lao động trí lực ngày càng cao trong chi phí lao động, tỷ trọng lao động thể lực ngày càng giảm... Đây là những vấn đề hết sức quan trọng cần phải tính tới trong quá trình phát triển, sử dụng và phát huy nguồn lực con người cho CNH, HĐH. Cuối cùng, khi nói đến nguồn lực con người của một quốc gia, dân tộc không thể không tính tới yếu tố tinh thần được hình thành và phát triển trên cơ sở truyền thống văn hóa dân tộc. Thực tế cho thấy, truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc luôn luôn góp phần hình thành nhân cách và bản lĩnh, ý chí và lòng tự trọng, lối sống và làm việc... của dân tộc đó. Nếu biết phát huy những truyền thống tốt đẹp sẽ tạo nên sức mạnh của cả dân tộc. Bởi vậy, đây được coi là nguồn nội lực vô tận, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển. Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa theo định hướng XHCN. Vì vậy, nguồn lực con người cần thiết cho CNH, HĐH ở Việt Nam không chỉ là những người lao động có năng lực cao về trí tuệ mà còn phải là những công dân yêu nước, cần cù lao động và sáng tạo; có ý chí vươn lên và lòng tự trọng dân tộc cao; phải nắm vững và không ngừng làm phong phú lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam... Quán triệt những yêu cầu trên, cần chú trọng khơi dậy và phát huy những truyền thống văn hóa dân tộc. Đồng thời cần tập trung nâng cao nhận thức cho người lao động về đường lối, quan điểm của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Từ đó, xây dựng những thế hệ con người Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững vàng, có niềm tin và quyết tâm hoàn thành sứ mệnh CNH, HĐH đất nước. Đây là vấn đề rất quan trọng để nhân tố con người Việt Nam không chỉ là chủ thể của quá trình công nghiệp hóa mà còn là những công dân tốt bảo vệ thành quả cách mạng trong tình hình mới hiện nay. Tóm lại, nguồn lực con người là một phạm trù có nội hàm sâu, ngoại diên mới rộng lớn. Nó không chỉ đơn thuần là nguồn lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm nhiều yếu tố vật chất và tinh thần khác nữa. Điều đó đòi hỏi việc phát huy nguồn lực con người, cần phải chú ý khai thác và phát huy đầy đủ những yếu tố vật chất và tinh thần ở từng con người cũng như toàn xã hội. Nguồn lực con người đáp ứng được những yêu cầu của quá trình CNH, HĐH được coi là nguồn lực cần thiết cho công nghiệp hóa. Thực tiễn cho thấy, có được nguồn lực con người phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH và phát huy một cách có hiệu quả nó chính là nhân tố quyết định sự thành công của quá trình đó. 1.1.3. Những nhân tố tác động nguồn lực con người Việc phát huy nguồn lực con người nhằm đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH luôn chịu tác động của những nhân tố chủ quan và khách quan sau: Thứ nhất: Trình độ phát triển kinh tế. Những nước có trình độ phát triển cao về kinh tế, GDP/ người và đời sống chung của nhân dân ổn định ở mức cao, sẽ có điều kiện để đảm bảo và nâng cao chất lượng nguồn lực con người vì tuổi thọ, sức khỏe, trình độ dân trí, văn hóa và chuyên môn nghề nghiệp có điều kiện phát triển. Mặt khác, trình độ phát triển kinh tế cao, cũng có nghĩa là thiết bị và công nghệ sản xuất tiên tiến, nên càng đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực phù hợp với công nghệ đó. Khi trình độ phát triển kinh tế cao, con người mới có điều kiện vật chất để cải thiện đời sống, làm tăng thể lực, tinh thần của chính cá nhân, cộng đồng và khi đó, nhà nước mới có điều kiện vật chất để giải quyết tốt hơn các vấn đề: giáo dục, y tế, văn hóa, thực hiện các chính sách xã hội. Sự phát triển kinh tế là nền tảng vật chất để nhà nước giải quyết vấn đề nguồn lực con người. Biện chứng giữa phát triển kinh tế và phát huy nguồn lực con người là ở chỗ, sự phát triển của kinh tế là cơ sở để phát triển nguồn lực con người, đến lượt nó, sự phát triển của nguồn lực con người lại là điều kiện để phát triển kinh tế. Thứ hai: Trình độ phát triển giáo dục - đào tạo. Ngày nay, khi tiến bộ khoa học - công nghệ trở thành một nhân tố trực tiếp của lực lượng sản xuất, là yếu tố quyết định sự tăng trưởng kinh tế thì vai trò của nguồn lực con người ngày càng được đề cao. Trí tuệ, nhân cách của con người là sản phẩm của giáo dục và đào tạo. Chính phủ ở các nước trong những năm gần đây đều tăng các nguồn lực đầu tư cho giáo dục, đào tạo nhằm phát triển nhanh nguồn lực con người. Phương thức đầu tư cũng như quá trình phát triển giáo dục ở mỗi nước có đặc điểm riêng, nên chất lượng nguồn lực con người ở các nước rất khác nhau. Các nước công nghiệp phát triển và một số nước công nghiệp mới, đầu tư rất lớn cho giáo dục, đào tạo (20% tổng ngân sách nhà nước) [49, 58], nhằm phát triển nhanh chất lượng nguồn lực con người. Chính phủ các nước đều nhận thấy một nền giáo dục hoàn chỉnh, đồng bộ và toàn diện sẽ có khả năng cung cấp cho nền kinh tế quốc dân "đội ngũ các nhà khoa học, những người lao động có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo" [19, 5]. Đó là nguồn vốn quý giá để phát triển kinh tế và thực hiện CNH, HĐH. Đối với cá nhân mỗi người, giáo dục là quá trình hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách, thế giới quan với tình cảm, đạo đức... Đối với xã hội, giáo dục là quá trình "tích tụ nguồn vốn con người" để chuẩn bị và cung cấp nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đối với nước ta, giáo dục phổ thông là nền tảng, là cơ sở để đào tạo nguồn lực con người. Giáo dục chuyên nghiệp trực tiếp sản xuất ra sản phẩm cung cấp cho thị trường sức lao động, những người lao động với những tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế và CNH, HĐH. Do vị trí quan trọng của giáo dục, đào tạo đối với sự hình thành và phát triển nguồn lực con người nên đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư cho phát triển, đầu tư trực tiếp vào nguồn lực con người. Đối với Việt Nam, nguồn lực con người được coi là nguồn nội lực cơ bản nhất để thực hiện CNH, HĐH. Giáo dục là khâu quyết định chăm lo cho con người; hình thành trí tuệ, kiến thức, phương pháp lao động. Đảng cộng sản Việt Nam đặt giáo dục ở vị trí "quốc sách hàng đầu", điều này khẳng định vai trò của giáo dục trong sự hình thành và phát huy nguồn lực con người cho CNH, HĐH đất nước. "Giáo dục là tương lai của dân tộc" [17, 13]. Thứ ba: Truyền thống dân tộc và sự phát triển văn hóa. Có thể nói, CNH, HĐH là quá trình biến đổi mọi mặt đời sống của con người và cộng đồng, vì vậy, công nghiệp hóa chỉ có thể tiến hành thành công trong một môi trường văn hóa phù hợp. Ngày nay, văn hóa đang trở thành động lực của sự phát triển kinh tế. Văn hóa là tập hợp những tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của mỗi người, cộng đồng - đó là yếu tố tinh thần trong chất lượng nguồn lực con người. Mỗi quốc gia, dân tộc có nền văn hóa mang bản sắc riêng và có một giá trị riêng độc đáo. Sự thành công của công nghiệp hóa và phát triển kinh tế của Nhật Bản là một điển hình về vài trò của văn hóa, truyền thống dân tộc đối với sự phát triển, sử dụng và phát huy có hiệu quả nguồn lực con người. Nền văn hóa và truyền thống của dân tộc Việt Nam là "tài sản thừa kế của các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau" [18, 242]. Văn hóa và truyền thống dân tộc là một nhân tố đặc biệt quan trọng để hình thành và phát triển nguồn lực con người Việt Nam. Định hướng XHCN của CNH, HĐH đất nước đòi hỏi phải gắn động lực kinh tế với văn hóa nhằm đem lại sự phát triển bền vững. Quá trình hình thành và thực hiện sự bình đẳng về cơ hội phát triển của mọi người; đề cao chất lượng cuộc sống; coi trọng giữ gìn bản sắc dân tộc, gắn với phát triển văn minh của thời đại, đó chính là môi trường văn hóa lành mạnh của quá trình CNH, HĐH. Môi trường văn hóa là cơ sở phát triển con người cũng như nguồn lực con người đúng hướng, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường đối với nguồn lực con người. Việc Nhà nước tạo lập môi trường văn hóa phù hợp cho sự phát triển nguồn lực con người, là một nhân tố có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả, thời gian và định hướng đúng đắn của sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam. Thứ tư: Cơ chế, chính sách kinh tế - xã hội vĩ mô của Nhà nước. Các chính sách vĩ mô của nhà nước tác động trực tiếp đến nguồn lực con người gồm: Chính sách giáo dục - đào tạo và đào tạo lại, chính sách tuyển dụng, sử dụng lao động, chính sách tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động... Bằng hệ thống các chính sách kinh tế - xã hội, Nhà nước ta đã thiết lập được môi trường pháp lý cho sự hoạt động và tạo điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống các chính sách luôn thay đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện, đồng thời phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất. Chính sách đúng đắn và hợp lý là môi trường, động lực, đòn bẩy kích thích sự phát triển của cá nhân, cộng đồng theo xu hướng tiến bộ. Ngược lại, các chính sách không phù hợp sẽ có tác động kìm hãm sự phát triển, thui chột năng lực và tư duy sáng tạo của mỗi người, làm biến dạng động lực cạnh tranh, gây ra tâm lý chán nản, mất lòng tin, kéo lùi sự tiến bộ của con người, ảnh hưởng tới chất lượng nguồn lực con người. Hệ thống các chính sách là sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của giai cấp thống trị trong điều hành, quản lý xã hội hướng tới mục tiêu mà nhà nước đã hoạch định. Hiệu quả của hệ thống các chính sách được đo ở hoạt động kinh tế - xã hội, ở sự phát triển của mỗi người và nguồn lực con người. Hiện nay, cơ chế thị trường tác động rất lớn đến sự phát triển của con người, nguồn lực con người. Chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước ta không chỉ tạo môi trường thuận lợi mà còn hạn chế tác động tiêu cực của thị trường đối với nguồn lực con người. Trong bối cảnh đời sống quốc tế hóa, khu vực hóa ngày càng phát triển, sự phát huy nguồn lực con người của mỗi nước luôn chịu tác động của hội nhập nguồn lực con người khu vực và thế giới. Ngày nay, trình độ tri thức, thể lực của nguồn lực con người ở các nước có nền kinh tế phát triển đã vượt xa nguồn lực con người Việt Nam. Đây là thách thức lớn đối với nguồn lực con người Việt Nam. Nền kinh tế thị trường thế giới, khu vực mang theo cả nhân tố tích cực và tiêu cực cùng tác động đến sự phát triển của nguồn lực con người Việt Nam. Nhà nước có vai trò tạo môi trường thuận lợi để phát triển nhanh nguồn lực con người, nhằm hội nhập vào nguồn lực con người thế giới, đồng thời ngăn cản sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đến sự phát triển nguồn nhân lực. Sự hình thành, phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam chịu sự tác động của các nhân tố trên. Mỗi nhân tố tác động đến từng mặt của nguồn lực con người, bởi vậy, Nhà nước cần sử dụng tổng hợp các nhân tố để kích thích, định hướng quá trình phát triển và phát huy nguồn lực con người nhằm đáp ứng yêu cầu trong CNH, HĐH đất nước. 1.2. Vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1.2.1. Con người - nguồn lực của mọi nguồn lực Sự thành công của quá trình CNH, HĐH đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, phải có các nguồn lực cần thiết, như: nguồn lực con người, vốn, tài nguyên, thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật, vị trí địa lí, và nguồn lực nước ngoài. Các nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tham gia vào quá trình CNH, HĐH nhưng mức độ tác động và vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình CNH, HĐH không giống nhau, trong đó nguồn lực con người là yếu tố quyết định. Xem xét vai trò của nguồn lực con người, cần đặt nó trong quan hệ với các nguồn lực khác, đồng thời phải đặt công nghiệp hóa trong tình hình hiện nay. Khi cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở thành xu thế phổ biến của nhân loại, khi công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa mà thực chất là hiện đại hóa lực lượng sản xuất. Với cách tiếp cận như vậy, vai trò quyết định của nguồn lực con người biểu hiện ở những điểm cơ bản như sau: Trước hết, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, v.v... tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa xã hội tích cực, khi được kết hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết "lợi dụng" các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình CNH, HĐH. Các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người và hết thảy chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích con người, nếu con người biết tác động và chi phối hợp quy luật. Vì thế, trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất, là "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại" [32, 130]. Chúng ta đều rõ, muốn công nghiệp hóa phải có vốn, nhưng vốn chỉ trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển khi nó nằm trong tay những con người biết sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao. Sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên và những ưu thế về vị trí địa lý cũng sẽ mất ý nghĩa, nếu chủ nhân của nó không có năng lực khai thác và khai thác không đúng. Ngày nay, trước xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự hợp tác và đầu tư nước ngoài cũng là nguồn lực quan trọng, nó tạo ra "cái hích" kinh tế, nhất là với các nước có điểm xuất phát thấp, nhưng sức mạnh của "cái hích" đó đến đâu, tác động tích cực của nó như thế nào còn tùy thuộc vào yếu tố con người khi tiếp nhận nguồn lực đó. Xét đến cùng, thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa, thậm chí khái niệm "nguồn lực" cũng không còn lý do để tồn tại. Thứ hai, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong khi đó nguồn lực con người mà cái cốt lõi là trí tuệ, là nguồn lực vô tận. Tính vô tận của trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ, nó có khả năng không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học, mà còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận, xét về bình diện cộng đồng, nhân loại. Nhờ vậy, con người từng bước làm chủ tự nhiên, ngày càng khám phá ra những tài nguyên thiên nhiên mới, hoặc sáng tạo ra những nguồn tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên. Với bản chất hoạt động có mục đích và sáng tạo, con người bằng trí tuệ và lao động của mình, đã liên tiếp chế tạo ra các thế hệ công cụ sản xuất mới, nhằm tác động vào tự nhiên có hiệu quả hơn. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hóa đã đưa xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp lên cao, tự nó đã nói lên tính vô tận của trí tuệ con người. Đúng là, "tri thức có tính chất lấy không bao giờ hết" [1, 41]. Thứ ba, trí tuệ của con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hóa, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo vĩ đại này của Các Mác đã và đang trở thành hiện thực. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển, vận động đến nền kinh tế trí tuệ. ở những nước này, lao động trí tuệ ngày càng chiếm tỉ lệ cao, nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc gia, ví như ở Nhật Bản, riêng nguồn lợi do tin học mang lại đã chiếm tới 40% [44, 24]. Giờ đây, sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức, nhờ nó con người có thể sáng tạo ra những máy móc "bắt chước" hay "phỏng" theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng là, bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay, khối óc con người làm ra, mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của mình. Với ý nghĩa đó, Alvin Toffler đã xếp quyền lực trí tuệ ở vị trí hàng đầu trong tất cả các loại quyền lực đã có trong lịch sử. Thứ tư, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính Việt Nam cho thấy, sự thành công của CNH, HĐH phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Quá trình CNH, HĐH sẽ không thể đạt được kết quả tốt nếu không lựa chọn được mô hình đúng, các bước đi thích hợp và các giải pháp hữu hiệu, phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước và bối cảnh quốc tế, dù có đủ các nguồn lực khác. Không hiếm các nước giàu có về tài nguyên thiên nhiên và được tài trợ lớn từ bên ngoài nhưng vẫn không thành công trong công nghiệp hóa. Điều này một lần nữa lại nói lên nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực - chủ thể trực tiếp, hiện thực của toàn bộ quá trình CNH, HĐH. Nói tóm lại, tiềm năng sức lao động - con người với trí tuệ và lao động được định hướng bởi trí tuệ đó, đã và đang là tài sản quý giá nhất, là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Vai trò này, ngày càng tăng lên khi trí tuệ hóa lao động đang trở thành xu thế phổ biến. Vì vậy, trong chiến lược phát triển của mình, nhiều nước đã đặt con người vào vị trí trung tâm, quan tâm đặc biệt đến yếu tố con người và chuyển đối tượng khai thác vào chính bản thân con người. Hiện tượng các nước công nghiệp mới Đông á là những cứ liệu lịch sử xác thực cho nhận thức về nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH. Sự thành công của những nước này do nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có một nguyên nhân chung, đó là họ sớm nhận thức đúng vai trò quyết định của nguồn lực con người và đầu tư thỏa đáng cho chiến lược con người, đặt lên hàng đầu chất lượng nguồn lao động, đặc biệt là các yếu tố văn hóa, kỹ thuật và kỷ luật, đi trước một bước về giáo dục và đào tạo, coi đó là chìa khóa của cánh cửa tăng trưởng, là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của công nghiệp hóa. Chẳng hạn, để chuẩn bị cho công nghiệp hóa, Hàn Quốc đã có kế hoạch "trí tuệ hóa" toàn dân. Nhờ vậy, ngay từ năm 1960 họ đã đạt được 100% lao động có trình độ văn hóa cấp I, đến năm 1990 thì 94% người lao động đã tốt nghiệp cấp II. Chi phí cho giáo dục của họ chiếm hơn 20% tổng chi phí ngân sách nhà nước [49, 58]. Hay ở Đài Loan, trong 30 năm từ 1952 đến 1981 tổng giá trị sản phẩm quốc dân tăng 26,34 lần nhưng kinh phí cho giáo dục tăng hơn 90 lần [27, 22]. Có thể nói rằng, nền kinh tế của các nước này có sự phát triển nhanh phần lớn nhờ vào sự phát triển nhanh của giáo dục và khoa học, kỹ thuật. Kinh nghiệm về xây dựng và sử dụng nguồn lực con người của các nước công nghiệp mới Đông á là những bài học bổ ích cho các nước chuẩn bị bước vào CNH, HĐH. Vai trò quyết định của nguồn lực con người chỉ trở thành hiện thực khi người lao động có những năng lực và phẩm chất cần thiết, đáp ứng được những yêu cầu mà quá trình CNH, HĐH đang đòi hỏi. Yếu tố hàng đầu của nguồn lực con người trước hết là trí tuệ, bởi vì "tất cả những gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc của họ" [8, 409], tức là phải thông qua trí tuệ. Trình độ trí tuệ phản ánh qua trình độ học vấn và tài năng sáng tạo. Nó biểu hiện ở khả năng áp dụng những thành tựu khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến; ở sự nhạy bén, thích ứng nhanh và làm chủ được những kỹ thuật, công nghệ hiện đại; ở kỹ năng lao động nghề nghiệp; ở năng lực hoạch định chính sách, lựa chọn giải pháp và tổ chức thực hiện; ở sự biết quản lý sản xuất, kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường và phân công lao động quốc tế. Để có được những năng lực này, ngoài tư chất ban đầu, vai trò chủ yếu thuộc về giáo dục và đào tạo, vì nó là phương tiện hữu hiệu để phát triển trí tuệ và trang bị chuyên môn, nghề nghiệp, để khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người. Ngoài ra, cũng cần thấy rằng, sự nghiệp CNH, HĐH khó có thể đạt được kết quả tốt, nếu không có những công dân yêu nước, ham học hỏi, cần cù lao động và sáng tạo; có tinh thần hợp tác, ý chí tự chủ vươn lên và lòng tự trọng dân tộc cao, tôn trọng pháp luật, đạo lý; biết kết hợp hài hòa yếu tố truyền thống và hiện đại, văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây; sống khoan dung và tôn trọng sự đa dạng, khác biệt, cùng nhau gắn bó trên cơ sở đồng thuận và bình đẳng công dân và mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Không phải ngẫu nhiên mà Nhật Bản và các nước công nghiệp mới Đông á rất coi trọng việc giáo dục nhân dân về đạo lý, văn hóa, trách nhiệm công dân, ý thức dân tộc và truyền thống. Sự yếu kém về trí tuệ, coi thường tài năng và đầu óc hẹp hòi, vị kỷ, đố kỵ hoặc thờ ơ trước tương lai của cộng đồng dân tộc sẽ là lực cản nguy hại đến tiến trình CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, cần xây dựng một nền văn hóa nhân văn, dân chủ - điều kiện quan trọng để nâng cao tính tích cực xã hội của con người. Nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực. Vì vậy, chúng ta phải tập trung vào chăm sóc, bồi dưỡng, đào tạo, phát huy sức mạnh của con người Việt Nam thành lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, đủ sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hợp tác và cạnh tranh trong kinh tế thị trường, toàn cầu hóa. Sức mạnh của con người và các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam phải thể hiện thành sức mạnh của đội ngũ nhân lực, trong đó có bộ phận nhân tài, trên nền sức mạnh dân trí với cốt lõi là nhân cách, nhân phẩm đậm đà bản sắc dân tộc [21, 9]. Có thể nói, trong thời đại hiện nay, đối với bất cứ quốc gia nào, việc xác định một cách đúng đắn và huy động có hiệu quả những nguồn lực có thể huy động, đều được coi là có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đối với Việt Nam, khi chiến lược phát triển đất nước được xác định là "đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước" theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh" thì vấn đề xác định đúng và huy động có hiệu quả những nguồn lực vốn có và có thể tạo ra trong tiến trình phát triển càng trở nên quan trọng. Khi xác định chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ những nguồn lực làm cơ sở cho việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước là: nguồn lực con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên (tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý), cơ sở vật chất và tiềm lực khoa học - kỹ thuật vốn có, các nguồn lực ngoài nước (vốn, thị trường, công nghệ và kinh nghiệm quản lý). Trên cơ sở nhận thức rõ các nguồn lực đó "phần lớn còn ở dạng tiềm năng" và việc khai thác chúng "còn phải vượt qua nhiều trở ngại". Với một đất nước dân số hiện nay là 78 triệu, có khoảng 45 triệu người trong độ tuổi lao động, bình quân mỗi năm có trên 1,7 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động; khoảng 35 vạn người ra khỏi tuổi lao động, số lao động tăng thêm mỗi năm là 1,2 triệu đó là một lợi thế to lớn, một nguồn lực mạnh mẽ cho phát triển. Con người Việt Nam "có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hóa, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học công nghệ... đó là nguồn lực quan trọng nhất" [13, 5]. Đảng ta đã coi việc xây dựng chiến lược con người, phát triển con người Việt Nam toàn diện là nhiệm vụ có ý nghĩa hàng đầu. Mọi chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng đều quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, đều hướng tới mục tiêu phát triển con người Việt Nam toàn diện. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức. Hơn thế nữa, Đảng coi việc phát triển con người Việt Nam toàn diện không chỉ là mục tiêu của công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn là động lực mạnh mẽ nhất để đưa sự nghiệp cao cả đó đến thắng lợi. Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của con người trong sự nghiệp CNH, HĐH. 1.2.2. Khơi dậy nguồn lực con người trong nông nghiệp - cơ sở, tiền đề để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp Trong nhiều năm tới, nông nghiệp - nông thôn vẫn là địa bàn quan trọng của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Vì vậy, phát huy tốt nguồn lực con người ở nông thôn sẽ tạo ra bộ mặt mới trong nông nghiệp, nâng cao đời sống nông dân. Định hướng cơ bản để giải quyết việc làm, phát huy và sử dụng một cách hợp lý nguồn lực con người ở nông thôn là thực hiện "di chuyển" tại chỗ. Nghĩa là trên cơ sở xây dựng và phát triển nông nghiệp, đa dạng hóa ngành nghề tạo việc làm và sử dụng lao động ngay trên địa bàn nông thôn, khắc phục và hạn chế di dân ra thành phố. Điều này đã được khẳng định cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Xuất phát từ thực tiễn đất nước, chúng ta cần: - Khai thác triệt để mọi tiềm năng của nền nông nghiệp nhiệt đới để tạo thêm việc làm cho nông dân. Trải qua nhiều năm phát triển, đến nay nông nghiệp Việt Nam nói chung, tỉnh Kiên Giang nói riêng vẫn mang nặng tính thuần nông. Trong đó trồng cây lương thực là chủ yếu. Vì vậy, cần có sự thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chế biến hàng nông sản, hải sản và dịch vụ v.v..., từ đó tăng thêm thời gian lao động, tạo việc làm cho người lao động tại địa phương. Những tiềm năng về đất trồng, đồi núi trọc, tài nguyên thiên nhiên chưa được gắn với lao động còn rất lớn: hiện nay cả nước còn 9 triệu ha đất trống, đồi trọc vẫn bỏ không; 3-4 triệu ha đất có khả năng nông nghiệp chưa được sử dụng; hệ số sử dụng đất canh tác trung bình mới đạt 1,4 - 1,5 lần, nhiều nơi mới canh tác 1 vụ/năm; tiềm năng phát triển kinh tế biển rất đa dạng... [24, 22]. Nếu ta kết hợp được nguồn nhân lực dồi dào sẵn có với những tiềm năng đất đai, tài nguyên và các nguồn lực phát triển khác thì có thể tạo ra khối lượng công việc lớn, có hiệu quả trong nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước có thể hỗ trợ khuyến khích thực hiện những chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc, trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn... Các dự án này không những làm tăng của cải xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái mà còn góp phần không nhỏ giảm bớt sức ép về việc làm ở nông thôn. Nhìn chung, khả năng thu hút và sử dụng lao động vào các hoạt động nông - lâm - ngư nghiệp còn khá lớn. Hiện tại cần chú ý khai thác khả năng tạo việc làm và thu nhập của bản thân nền nông nghiệp nhiệt đới. - Phát triển các nghề phụ trên địa bàn nông thôn. Dù có khai thác hết mọi tiềm năng của nền nông nghiệp nhiệt đới, một nông thôn thuần nông cũng không sử dụng hết nguồn lực con người quá lớn hiện nay. Vì vậy phát triển các nghề phụ phải là chủ yếu để tạo việc làm và tăng thu nhập cho nông dân. Theo kết quả điều tra lao động việc làm trên phạm vi cả nước năm 1996, cơ cấu lao động nông thôn như sau: 81,64% hoạt động nông nghiệp; 6,83% hoạt động công nghiệp và xây dựng; dịch vụ chiếm 11,53%. Điều đó cho thấy, việc đẩy mạnh hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn để từ đó chuyển dịch cơ cấu lao động là quan trọng và cần thiết. Sức đẩy quan trọng cho sự chuyển dịch đó là phát triển việc làm ngoài nông nghiệp, đặc biệt coi trọng tiểu thủ công nghiệp gia đình, công nghiệp nhỏ chế biến nông sản, các ngành nghề truyền thống... Để góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch đó, một mặt, cần có chính sách mềm dẻo, năng động thu hút sự chú ý của các doanh nhân trong và ngoài nước, khuyến khích họ đầu tư về nông thôn; mặt khác, quan trọng hơn là khuyến khích địa phương, cá nhân có điều kiện và giỏi nghề nào thì phát triển nghề đó. Tuy nhiên, tình hình thực tế nông thôn hiện nay cho thấy, đa số các địa phương, các hộ gia đình bị thiếu hụt hoặc không hội tụ được các yếu tố và điều kiện cần thiết để tổ chức sản xuất kinh doanh tạo việc làm. ở nhiều vùng nông thôn có tới 70 đến 80% hộ nông dân thiếu vốn, 50-60% thiếu đất canh tác và phương tiện sản xuất [35, 25]. Thiếu kiến thức, kinh nghiệm tổ chức sản xuất kinh doanh là phổ biến. Những hoạt động sản xuất - kinh doanh hiện có, đa số là sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp, khả năng tích luỹ để đầu tư phát triển và mở rộng việc làm còn thấp xa so với nhu cầu thực tế... Tình hình đó cho thấy, cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài để "phá vỡ vòng luẩn quẩn" của đói nghèo, thiếu việc làm ở nông thôn. Hỗ trợ về vốn là cần thiết để các hộ gia đình phát triển sản xuất. Song, chỉ nhấn mạnh về vốn là không thực tế, bởi nguồn ngân sách có hạn. Mặt khác, nhu cầu về vốn cho nông dân là rất lớn. Thử làm phép tính sau: Nếu 70% trong số 12 triệu hộ cần vay ngắn hạn khoảng 4 triệu đồng cho mỗi hộ thì số tiền cần vay khoảng 33.600 tỷ đồng, chưa kể nhu cầu vay trung và dài hạn. Rõ ràng, ngân sách không thể đáp ứng nổi nhu cầu vay vốn đó. Vì vậy, vấn đề đặt ra là sử dụng sao cho có hiệu quả nhất nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước. Theo nguyên tắc của cơ chế thị trường, việc sản xuất cái gì, bán ở đâu... do chủ sản xuất kinh doanh tự quyết định. Vì vậy, sự hỗ trợ có hiệu quả nhất của nhà nước là tạo điều kiện để nông dân tiếp cận thị trường nhanh nhất, dễ dàng nhất. Khi đó họ có thể nắm bắt và tận dụng được cơ hội trên thị trường để phát triển sản xuất. Thực tiễn cho thấy, có vốn để tiến hành sản xuất mà không có thị trường cũng vô nghĩa. Ngược lại, có thị trường sản xuất sẽ biết tự kiếm vốn để làm ra sản phẩm hàng hóa. Xét dưới góc độ đó, Nhà nước nên dành sự giúp đỡ của mình vào phát triển kết cấu hạ tầng. Đặc biệt là hệ thống giao thông nông thôn. Không có hệ thống giao thông tốt thì sản phẩm nông nghiệp không trở thành hàng hóa. Nhiều nơi sau khi có hệ thống giao thông thuận lợi đã phát triển rất nhanh mà hầu như không phải vay vốn của Nhà nước. Điều đó cho thấy, đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn là tiền đề quan trọng để phát triển nông thôn toàn diện. Tóm lại, cần dành phần lớn nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cho phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn. Đó là cách tạo cơ sở vững chắc nhất để phát triển nông thôn toàn diện, tăng việc làm, phát huy và sử dụng hợp lý nguồn lực con người ở nông thôn. Phát huy, sử dụng hợp lý có hiệu quả nguồn lực con người ở nông thôn phải gắn liền với nâng cao chất lượng nguồn lực đó. Nguồn lực con người đã qua đào tạo chuyên môn - nghề nghiệp ở nông thôn chiếm tỷ lệ rất thấp. Phần lớn lao động nhàn rỗi ở đây là chưa có nghề, không biết việc, thiếu hiểu biết kỹ thuật và kiến thức quản lý. Lao động trẻ chiếm phần đông trong số người thất nghiệp. Để xử lý tốt nguồn lực con người ở nông thôn cần phải kết hợp đồng bộ thống nhất từ đào tạo, phổ cập nghề nghiệp cho đến sử dụng hợp lý lao động. Vấn đề tạo việc làm không chỉ giới hạn trong chính sách đầu tư phát triển kinh tế hay bó hẹp trong các chương trình hỗ trợ, xúc tiến việc làm của Nhà nước, mà cần mở rộng và kết hợp với các chính sách khác nhau như: Chính sách giáo dục - đào tạo, dân số - kế hoạch hóa gia đình, chính sách đầu tư, tín dụng... Do nguồn lực ở nông thôn có cơ cấu và trình độ thấp, nên giải quyết việc làm cho họ trong thời gian qua gặp không ít khó khăn. Việc tiếp cận, tìm kiếm và tạo lập việc làm của lao động nông thôn trong các lĩnh vực ngoài nông nghiệp thu được kết quả rất hạn chế bởi trình độ thấp của họ. Vì vậy, phải thường xuyên tuyên truyền, phổ biến các kiến thức khoa học - công nghệ mới vào nông thôn. Để chuyển giao công nghệ về nông thôn, cần phải coi việc bồi dưỡng, đào tạo chuyên môn nghề nghiệp, nâng cao kiến thức, năng lực và trình độ của người lao động nông thôn. Đây cũng là một trong những vấn đề cơ bản để giải quyết việc làm, phát huy và sử dụng hợp lý nguồn lực con người nông thôn. Tạo điều kiện để thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. - Giải quyết việc làm, phát huy và sử dụng hợp lý nguồn lực con người ở nông thôn là trách nhiệm của toàn xã hội, của mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức, mọi cá nhân và gia đình. Cần xã hội hóa vấn đề việc làm trên cơ sở phát triển kinh tế hộ, đa dạng hóa các loại hình kinh tế, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở giúp đỡ của Nhà nước việc tự tạo lập, tìm kiếm và mở rộng việc làm của bản thân người lao động phải được coi trọng. Nhà nước có sự hỗ trợ, đầu tư tạo lập nhưng không làm thay. Nguyên tắc đặt ra là: Nhà nước chỉ cung cấp tin tức về việc làm, giúp đỡ về khả năng làm việc và tìm việc, nhưng không trực tiếp sắp xếp công việc cho lao động. Nắm được cơ hội hay không tuỳ thuộc vào mỗi người. Thực tế cho thấy trong cơ chế thị trường chỉ khi nào người lao động có kiến thức, có nghề nghiệp và biết sử dụng nghề để tạo việc làm cho bản thân và người khác, khi đó sức ép về việc làm trong xã hội mới giảm, khả năng tạo việc làm đầy đủ cho người lao động dồi dào mới có thể thực hiện được. Vì vậy, Nhà nước cần kích thích tính năng động và khả năng tự tìm kiếm, giải quyết việc làm của người lao động trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Tóm lại, nếu có đường lối phát triển kinh tế nông nghiệp đúng đắn, nguồn lực lao động trong nông dân được khơi dậy; tiềm năng sáng tạo cùng với phẩm chất cần cù lao động được phát huy và có điều kiện trở thành hiện thực. Những người nông dân Việt Nam từ chỗ làm ăn theo tư duy cũ, trì trệ, cam phận, tự bằng lòng với bản thân đã biết biến ruộng thành vườn, chuyên canh, thâm canh, đa dạng hóa ngành nghề, biết tính toán đầu ra đầu vào sao cho có hiệu quả nhất; đặc biệt có nhiều hộ nông dân đã biết vận dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, làm tăng lương thực, thực phẩm, giúp đỡ người nghèo và tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người khác. Đại bộ phận các hộ giàu ở nông thôn hiện nay đều do lao động, biết vận dụng và phát huy các thế mạnh về vốn, khoa học kỹ thuật, tiềm năng con người... Chính vì vậy, hộ giàu ở nông thôn hiện nay là nhân tố mới do cơ chế mới tạo ra và cần được khuyến khích, là lực lượng quan trọng làm chuyển dịch cơ cấu nông thôn trong quá trình CNH, HĐH. 1.2.3. Khơi dậy nguồn lực con người tạo động lực cho sự phát triển văn hóa - xã hội và phát triển của chính con người Phát triển đất nước, CNH, HĐH đất nước phải hướng tới mục tiêu cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người dân trong nước, để trên cơ sở đó tạo ra một đội ngũ những người lao động có chất lượng. Chúng ta chỉ có thể đạt được mục tiêu đó khi có sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế nhanh với việc nâng cao chất lượng sống cho người lao động, "từng bước hiện đại hóa đất nước và đời sống xã hội", nâng cao trình độ học vấn và văn hóa cho người lao động, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho mọi người. Tại Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Đảng CSVN đã khẳng định, trong bối cảnh hiện nay của đất nước, chúng ta "chỉ có thể tăng trưởng nguồn lực con người, khi quá trình hiện đại hóa các ngành giáo dục, văn hóa, văn nghệ, bảo vệ sức khoẻ, dân số và kế hoạch hóa gia đình gắn liền với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc" [10, 6]. Theo đó, CNH, HĐH đất nước phải được đặt trong mối quan hệ với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí lực, thể lực, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Việc không ngừng gia tăng tính tự giác, năng lực làm chủ, sáng tạo của mỗi người, việc phát huy sức mạnh bên trong của mỗi cá nhân, kết hợp với sức mạnh của tập thể lao động, của cả cộng đồng dân tộc, trên cơ sở nền tảng tinh thần vững chắc phải được coi là định hướng chiến lược cho việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người Việt Nam trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước. Hướng bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người Việt Nam không thể không gắn liền với sự nghiệp phát triển văn hóa. Vì văn hóa là cái gắn liền với lao động sản xuất, với hoạt động sáng tạo của quần chúng nhân dân. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, và hơn nữa, văn hóa còn là "nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển". Với tư cách đó, văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mỗi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người. Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, chúng ta không hy vọng có được sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Bởi thế, xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, con người phát triển toàn diện. Nói khác đi, để phát triển con người, tạo nguồn lực con người cho phát triển kinh tế - xã hội, cho CNH, HĐH đất nước, chúng ta không thể không phát triển văn hóa, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa. Con người Việt Nam là kết quả của sự phát triển nền văn hóa Việt Nam. Và do vậy, quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam. Đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển lâu bền, cho cả sự phát triển kinh tế - xã hội lẫn phát triển con người, tạo nguồn lực con người cho CNH, HĐH đất nước. Sức mạnh của con người Việt Nam đi vào CNH, HĐH phải là sức mạnh của tinh thần dân tộc cùng với tri thức về khoa học công nghệ tiên tiến. Vấn đề đặt ra trong quá trình sử dụng và phát huy nguồn lực con người phải tạo ra một khả năng lao động mới từ sức mạnh của con người và văn hóa truyền thống dân tộc. Vì vậy, để nâng cao nguồn lực con người Việt Nam, ngoài việc nâng cao trình độ trí tuệ, tạo đội ngũ nhân lực khoa học kỹ thuật mạnh... Cần chú trọng xây dựng những thế hệ con người Việt Nam hiện đại nhưng đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Trong những giá trị truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam cần được phát huy trong thời đại mới ngày nay, thì tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường, lao động thông minh sáng tạo... là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng tạo nên sức mạnh nội lực. Chúng ta cần khơi dậy những truyền thống tốt đẹp đó, kết hợp với những giá trị hiện đại để tạo nên sức mạnh nhân cách con người Việt Nam đi vào CNH, HĐH. Nói tóm lại, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, để chiến lược phát triển theo hướng CNH, HĐH đi đến thắng lợi, chúng ta phải lấy nguồn lực con người Việt Nam - "nguồn lực quan trọng nhất" trong các nguồn lực, nguồn lực nội sinh - làm động lực cho sự phát triển lâu bền. Để bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam với tư cách đó, chúng ta cần phải tạo ra mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế nhanh với tiến bộ xã hội, đảm bảo công bằng xã hội, thiết lập sự bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi công dân, cải thiện và nâng cao đời sống cho người lao động cả về vật chất và tinh thần; giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, lợi ích quốc gia, dân tộc với lợi ích tập thể và cá nhân, không ngừng nâng cao trình độ học vấn, văn hóa cho họ trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người Việt Nam đi vào CNH, HĐH phải là những con người có đủ bản lĩnh, phẩm chất và năng lực đảm đương xuất sắc sứ mạng lịch sử ngày nay của mình, vừa kế thừa và phát huy được những truyền thống vẻ vang của dân tộc, vừa đem hết trí tuệ và tài năng phục vụ cho đất nước. Đó chính là nguồn lực con người tạo động lực cho sự phát triển văn hóa xã hội và phát triển của chính con người. 1.3. Thực trạng việc phát huy nguồn con người ở Kiên Giang - vấn đề đặt ra 1.3.1. Đặc điểm chung về dân số và việc phát huy nguồn lực con người ở Kiên Giang Kiên Giang là tỉnh nằm phía Tây Nam của Tổ quốc, thuộc đồng bằng sông Cửu Long, có đường biên giới đất liền chung với Vương quốc Campuchia dài 56,8km. Đặc điểm tự nhiên rất đa dạng, có cả đồng bằng, rừng, núi, biển đảo. Diện tích tự nhiên 6.222 km2 (đất liền 5.591 km2, hải đảo 631 km2), bờ biển dài 200 km, vùng biển rộng trên 60.000 km2 với 105 hòn đảo nổi lớn nhỏ, hình thành 5 quần đảo, trong đó 43 đảo có dân sinh sống. Đảo lớn nhất là Phú Quốc, có diện tích tự nhiên 573km2 với 70.000 dân. Đảo xa nhất là Thổ Châu cách Rạch Giá 200km. Dân số Kiên Giang có 1.518 ngàn, có 3 dân tộc sinh sống: Dân tộc Kinh 84,64%; Khơ me 12,4% và người Hoa 2,96%. Toàn tỉnh có 11 huyện, 2 thị xã, trong đó có 2 huyện đảo, 1 huyện và 1 thị xã biên giới (111 xã, phường, thị trấn; trong đó 14 xã đảo và 5 xã biên giới đất liền). Về tự nhiên, Kiên Giang là tỉnh có tài nguyên phong phú đa dạng về nông, hải sản, khoáng sản và du lịch. Nguồn lao động tại chỗ dồi dào, nằm ven Vịnh Thái Lan, lưu thông quốc tế đường biển rất thuận lợi. Khí hậu Kiên Giang quanh năm ấm áp thuận lợi cho phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, khai thác nuôi trồng thủy sản. Người dân Kiên Giang vốn có truyền thống sống có nghĩa tình, cần cù, sáng tạo không ngại gian khó trong sản xuất và xây dựng, từng thời kỳ đã đầu tư khai thác những tiềm năng sẵn có, ứng dụng khoa học công nghệ mới vào các lĩnh vực, từ đó không ngừng đưa kinh tế - xã hội Kiên Giang ngày một phát triển đi lên. Nông nghiệp là ngành sản xuất trọng điểm và là thế mạnh số một của tỉnh đã được phát triển tương đối toàn diện. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm thời kỳ 1991 - 1995 là 8,44%; 1996 - 1999, mặc dù ảnh hưởng cơn bão số 5 năm 1997 nhưng tốc độ tăng trưởng vẫn đạt 7,8%. Năm 1991, năm đầu tiên Kiên Giang đạt 1 triệu tấn lương thực. Thời gian qua, tiếp tục khai hoang mở rộng diện tích thâm canh tăng vụ, chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp, đến năm 1999, sản lượng lương thực toàn tỉnh đạt hơn 2 triệu tấn, tăng 2,1 lần so với năm 1991. Lương thực bình quân đầu người từ 713 kg năm 1990 lên 1.363 kg năm 1999. Các loại cây công nghiệp truyền thống của địa phương như: Cây tiêu, điều, dừa, khóm, mía được củng cố và phát triển ổn định, đặc biệt hạt tiêu của Phú Quốc đã được thị trường thế giới chấp nhận. Các loại cây ăn trái từng bước được phát triển trên cơ sở cải tạo vườn tạp. Chăn nuôi phát triển với nhiều hình thức, quy mô thích hợp. Về lâm nghiệp, toàn tỉnh hiện có 116,181 ha rừng, chiếm 86,6% đất quy hoạch lâm nghiệp, với độ che phủ rừng toàn tỉnh đạt tỷ lệ 19%. Kinh tế thủy sản là thế mạnh thứ hai của tỉnh, có khả năng tạo ra sản phẩm hàng hóa giá trị cao. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 1991-1995 bình quân hàng năm 11,29%; 1995-1999, tuy bị thiệt hại lớn do cơn bão số 5 năm 1997, nhưng bình quân hàng năm vẫn đạt 7%. Năm 1995 sản lượng khai thác đạt 174.900 tấn; năm 1999: 225.000 tấn, tăng 1,28 lần so với năm 1995. Nuôi trồng thủy sản được chú trọng phát triển nhất là nuôi tôm nước lợ vùng ven biển, nuôi cá nước ngọt dưới nhiều hình thức, hàng năm sản lượng đạt 10.000 tấn. Ngành công nghiệp được hình thành và phát triển từ lâu, hiện đã và đang thích ứng dần với cơ chế mới, đi dần vào thế ổn định và phát triển. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 1996 - 2000 bình quân đạt 13,05%. Hiện tại hai nhóm ngành chính đang phát triển khá và ổn định là công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và chế biến hàng nông, hải sản. Hai ngành công nghiệp này đã và đang thu hút vốn đầu tư của các đơn vị trong và ngoài tỉnh, kể cả vốn đầu tư nước ngoài để từng bước thúc đẩy quá trình CNH, HĐH. Những năm gần đây cơ sở hạ tầng trong tỉnh phát triển khá. Giao thông nội ô các thị xã, thị trấn được sửa sang, nâng cấp và tráng nhựa. Các tuyến giao thông liên huyện, liên xã, giao thông nông thôn trong đất liền hầu hết đã lưu thông được cả bằng đường thủy và đường bộ. Đường ô tô đã nối liền từ tỉnh đến 11 huyện, thị trên đất liền và đã đến được 95/111 xã. Thành tựu nổi bật trong những năm qua là tỉnh đã kết hợp với Trung ương nâng cấp một số tuyến lộ quan trọng như: quốc lộ 80, quốc lộ 61, ngoài ra tỉnh cũng đã xây dựng được nhiều tuyến đường tỉnh lộ như: Tỉnh lộ 11, tỉnh lộ 28... Những tuyến đường này đã đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Hệ thống giao thông liên lạc bưu chính viễn thông, điện ánh sáng được đầu tư phát triển. Đến nay có 100% xã, phường có điện thoại, 96,5% xã, phường có điện thắp sáng. Các ngành dịch vụ từng bước được củng cố và phát triển. Giai đoạn 1991 - 1995 tốc độ tăng bình quân hàng năm 9,72%, giai đoạn 1996 - 2000 tăng bình quân hàng năm 9,93%. Dịch vụ vận chuyển trong tỉnh tăng nhanh, dịch vụ thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông tiếp tục được hiện đại hóa. Mạng lưới điện thoại, điện báo được mở rộng trong nước và nối mạng ra nước ngoài. Các loại dịch vụ thương mại, cung ứng vật tư thiết bị, giao thông hàng hóa trong vùng có bước phát triển nhanh. Thời gian qua tỉnh đã xây dựng cơ bản hoàn thành Trung tâm Thương mại Rạch Giá và một số chợ xã. Hàng hóa được tự do lưu thông với sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Về phát triển du lịch, thời gian qua tập trung chủ yếu ở thị xã Hà Tiên và huyện Kiên Lương như: Khu du lịch Mũi Nai, Thạch Động, Chùa Hang, Bãi Dương, Hòn Phụ Tử. Đối với huyện đảo, du lịch chủ yếu tập trung ở Phú Quốc với những danh lam thắng cảnh như: Dinh Cậu, Khu du lịch Bà Kèo... Do đó đã thu hút được nhiều khách trong nước cũng như khách nước ngoài đến tham quan du lịch. Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế, công cuộc đổi mới gần 15 năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, tình hình kinh tế - xã hội ổn định và trên đà phát triển, đời sống nhân dân trong tỉnh ngày càng được cải thiện tốt hơn, góp phần ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển vững chắc. Hiện tại tỉnh Kiên Giang đang cùng với cả nước đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Chuẩn bị sẵn thế và lực để bước vào thiên niên kỷ mới. Mục tiêu phấn đấu là tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, mở rộng hợp tác đầu tư, phấn đấu đạt mức tăng trưởng bình quân GDP giai đoạn 2001 - 2005 từ 10,78% - 11,99%, giai đoạn 2006 - 2010 đạt từ 9,86% - 10,66%. Để nhận thức và đánh giá đúng chất lượng nguồn lực con người tỉnh Kiên Giang, cần phải thấy rõ mặt mạnh và hạn chế, từ đó đề ra phương hướng và biện pháp để phát huy có hiệu quả nguồn lực con người, để tạo tiền đề cùng với cả nước thực hiện thành công CNH, HĐH. Dân số Kiên Giang năm 1999: 1.518 ngàn, (năm 1995 dân số 1.399 ngàn), chỉ trong vòng 5 năm tăng thêm 119 ngàn [xem phụ lục 1]. Quy mô dân số lớn, tỷ lệ hàng năm tăng cao đã làm tăng nhanh chóng nguồn lao động. Nguồn lao động năm 1995 có 757 ngàn, tăng lên 879 ngàn năm 1999 [xem phụ lục 2]. Vậy, trung bình mỗi năm có thêm 33 ngàn người gia nhập lực lượng lao động. Điều đó cho thấy nguồn cung lao động rất dồi dào. Đây là một lợi thế về tiềm năng để phát triển, song cũng là sức ép lớn đối với tỉnh trong giải quyết việc làm. Cần khẳng định rằng, trong những năm qua, tỉnh Kiên Giang có nhiều cố gắng giải quyết việc làm cho lực lượng lao động xã hội. Điều đó được thể hiện qua số lượng tuyệt đối người lao động đang làm việc trong nền kinh tế ngày một tăng thêm. Nếu năm 1995, số người đang làm việc trong nền kinh tế là: 621 ngàn đến năm 1999 là 735 ngàn. Trong 5 năm tăng lên 114 ngàn, bình quân tăng mỗi năm trên 22 ngàn người. Tuy nhiên, trên thực tế nguồn lao động dồi dào của tỉnh Kiên Giang vẫn chưa được thu hút hết vào làm việc trong nền kinh tế. Tỷ trọng người đang làm việc trong nền kinh tế so với số người trong nguồn lao động là 83,37% năm 1995, đã giảm xuống còn 75% năm 1999. Theo kết quả điều tra lao động - việc làm toàn tỉnh năm 1996 thì tỷ lệ thất nghiệp là 4,19%, năm 1999: 4,08%, đến năm 2000 còn 3,96% [xem phụ lục 3]. Từ năm 1993, Tỉnh ủy Kiên Giang đã ra nghị quyết và ủy ban nhân dân tỉnh có kế hoạch thực hiện chủ trương tạo việc làm cho người lao động, từng bước xóa đói giảm nghèo. Bằng nhiều biện pháp đồng bộ như: hỗ trợ vốn, giải quyết đất đai, dạy nghề, hướng dẫn kỹ thuật sản xuất, giáo dục xây dựng cung cách làm ăn mới và có ý thức tiết kiệm, khắc phục tập quán sản xuất, sinh hoạt lạc hậu... đi đôi đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, từ đó giảm dần tỷ lệ thất nghiệp, giảm bớt dần hộ nghèo từ 14,49% năm 1997, xuống còn 10,1% năm 2000 (theo điều tra Cục thống kê tỉnh Kiên Giang 6 tháng đầu năm 2000). Một điểm đáng lưu ý là trong những năm qua, nhờ chủ trương khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh phát triển, nên các ngành kinh tế ngoài quốc doanh đã thu hút được một số lượng khá lớn lao động vào làm việc. Nếu năm 1995 khu vực này chỉ có 592.469 lao động, thì đến năm 1999 đã tăng lên 701.432 [xem phụ lục 4]. Điều này chứng tỏ rằng kinh tế ngoài quốc doanh trong thời kỳ chuyển đổi đã giữ vai trò rất quan trọng trên thị trường lao động, góp phần giảm bớt sự căng thẳng quan hệ cung cầu lao động trong thời gian vừa qua. Nhìn chung trong thời gian qua, do tác động của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nên mặc dù giá trị sản lượng công nghiệp luôn tăng cao (cao hơn nhịp độ chung của nền kinh tế) nhưng lao động trong công nghiệp không tăng nhiều [phụ lục 4]. Điều này chứng tỏ rằng, trong quá trình CNH, HĐH, lĩnh vực công nghiệp không phải là nơi thu hút nhiều lao động mà là lĩnh vực thu hút lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ngày càng cao hơn. Vì vậy số lượng lao động trong công nghiệp không tăng bao nhiêu, cũng là điều tất yếu trong CNH, HĐH. Khu vực nông - lâm - ngư nghiệp, theo kết quả điều tra lao động việc làm tỉnh Kiên Giang năm 1995 có 492 ngàn lao động, tăng lên 582 ngàn năm 1999 [xem phụ lục 5]. Những năm gần đây, cùng với sự đổi mới chung của nền kinh tế, nông nghiệp nông thôn của tỉnh có bước phát triển mạnh mẽ, qua đó tác dụng tích cực đến giải quyết việc làm cho người lao động. Để tạo việc làm và tăng thêm thời gian lao động ở nông thôn tỉnh đã chú trọng phát triển các ngành nghề ngoài nông nghiệp. Có thể coi đây là bước phát triển đáng mừng cho nông nghiệp, nông thôn trong tình hình hiện nay ở Kiên Giang. Tuy nhiên, đánh giá chung thì nông nghiệp và nông thôn vẫn đang đứng trước những thách thức rất lớn để giải quyết việc làm, sử dụng và phát huy có hiệu quả nguồn lực con người hiện có. Ngoài ra còn phải giải quyết tạo thêm chỗ làm mới cho 33 ngàn lao động tăng thêm hàng năm. Đây thật sự là thách thức rất lớn không chỉ đối với nông thôn, mà còn đối với toàn tỉnh Kiên Giang. Bằng những phương thức có tính sáng tạo, huy động từ nhiều nguồn vốn tập trung đầu tư để thu hút được nhiều nguồn lao động vào những công trình, trong đó có những công trình mới có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt và có tính chất lâu dài như: Trung tâm Thương mại Rạch Giá với vốn đầu tư trên 200 tỷ đồng hoàn toàn bằng nguồn vốn của nhân dân, đã hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 1998, có hiệu quả về phát triển kinh tế, giải quyết việc làm trong xã hội. Đặc biệt dự án lấn biển, xây dựng khu đô thị mới, mở rộng thị xã Rạch giá (1999 - 2005). Đây là dự án hết sức táo bạo của lãnh đạo tỉnh, chủ chốt là Ban thường vụ, ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang. Qua nhiều năm suy nghĩ, trăn trở làm sao để giải quyết hiện trạng thị xã Rạch Giá kết cấu hạ tầng thấp, thị xã nhỏ hẹp, mật độ dân cư quá đông, thiếu khu vui chơi, giải trí bởi sự khống chế của kênh Rạch giá - Hà Tiên, ba bên, bốn phía đều sông và biển. Vấn đề đặt ra là mở rộng theo hướng nào? Nếu mở về hướng Đông thì việc thực hiện sẽ hết sức tốn kém, nhất là công tác giải tỏa, đền bù. Đồng thời việc sử dụng đất nông nghiệp phát triển đô thị và cơ sở hạ tầng là không phù hợp với chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Nếu mở hướng Tây thì là biển. Theo chỉ đạo của UBND tỉnh Kiên Giang, các nhà kỹ sư tiến hành thăm dò đê biển và quyết định mở ra hướng Tây là hợp lý và mang tính khả thi cao, với ba lý do: Một là, không đụng đến đất đai và nhà ở của nhân dân. Hai là, bãi biển bồi rất cạn, do vậy, chi phí tạo mặt bằng ít tốn kém. Ba là, tạo ra dáng vẻ, bộ mặt của một đô thị biển, sẽ thu hút các nhà đầu tư để phát triển các ngành khác. Ngoài ra Kiên Giang là một tỉnh tận cùng phía Tây Nam của Tổ quốc, phía Bắc giáp với ranh giới Campuchia, phía Tây giáp với Vịnh Thái Lan. Do vậy, việc mở rộng thị xã ra phía biển sẽ tạo ra một vành đai phòng thủ vững chắc, với một tầm nhìn bao quát mặt biển về phía Tây (Vịnh Thái Lan). Do đó, về mặt chiến lược an ninh quốc phòng rất quan trọng khi dự án được mở ra. Dự án lấn biển là một dự án có quy mô lớn và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Với địa bàn chật hẹp của thị xã như hiện nay, việc bố trí dân cư, hệ thống giao thông, các khu vui chơi giải trí, các khu du lịch và các công trình khác hết sức khó khăn và phức tạp. Do đó, việc mở rộng thêm diện tích thị xã về phía biển trở nên hết sức cần thiết cho việc bố trí lại dân cư, hệ thống giao thông, các khu du lịch, các công trình phúc lợi công cộng trên địa bàn thị xã. Dự án lấn biển mở ra, tạo mỹ quan cho đô thị, đồng thời thu hút hàng ngàn lao động, góp phần thực hiện tốt chính sách của tỉnh về giải quyết việc làm cho người lao động, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp một cách đáng kể. Đó là sự cố gắng rất lớn của Đảng bộ và nhân dân Kiên Giang. Thực tiễn cũng như kinh nghiệm các quốc gia thực hiện thành công CNH, HĐH đã khẳng định rằng: Có được nguồn lực con người đào tạo tốt về chuyên môn kỹ thuật cùng với việc phát huy có hiệu quả đội ngũ nguồn lực đó sẽ là nhân tố quyết định sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung, tỉnh Kiên Giang nói riêng. Điều này, chứng minh rằng: Công nghệ dù có lạc hậu, vốn dù có thiếu, đất nước ta nói chung, tỉnh Kiên Giang nói riêng, vẫn có thể có được CNH, HĐH bằng con đường "nhập", "vay", nhưng nguồn lực con người thì không thể thay thế bằng con đường nhập khẩu. Đó là nguồn nội lực quyết định thành công sự nghiệp CNH, HĐH. Để tạo tiền đề phát triển nguồn nhân lực, Kiên Giang rất chú trọng đến công tác giáo dục - đào tạo, và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học - kỹ thuật và công nhân lành nghề. Về công tác giáo dục - đào tạo: Hàng năm, tỷ lệ ngân sách của tỉnh đầu tư cho giáo dục chiếm 26% tổng chi. Riêng năm 1997 chiếm 28,2%, trong khi cả nước mới 20%. Năm 1999, toàn tỉnh có 348.696 học sinh phổ thông các cấp (năm 1995 có 297.057 em; đến năm 1998 có 333.581 em) với 12.844 giáo viên các cấp. Huy động học sinh từ 6- 10 tuổi đạt 92,32%. Đặc biệt cuối năm 1999, Kiên Giang được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận là tỉnh hoàn thành công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Đó là sự cố gắng rất lớn của Đảng bộ và nhân dân Kiên Giang. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục luôn được quan tâm và được coi là một trọng tâm nhằm làm chuyển biến chất lượng giáo dục - đào tạo. Đi đôi với việc đẩy mạnh đào tạo tại tỉnh, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân, đối với một số huyện vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, có chính sách ưu đãi đặc biệt nhằm thu hút giáo viên (kể cả nơi khác) về giảng dạy, nhằm nâng cao mặt bằng trình độ dân trí trong tỉnh. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ (KHCN), nhằm tăng cường tiềm lực cho CNH, HĐH cũng được chú trọng. Từ năm 1995 đến nay, tỉnh Kiên Giang đã đổi mới cơ chế, chính sách đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kiến thức cho cán bộ KHCN. Đến nay theo số liệu điều tra tiềm lực KHCN (bổ sung năm 2000), toàn tỉnh có 8.181 (năm 1996 có 5.135) cán bộ có trình độ từ cao đẳng trở lên, trong đó có 14 tiến sĩ, 112 thạc sĩ (thuộc các lĩnh vực: Nông - lâm - thủy sản; KHKT; KHTN; KHXH-NV), 38 bác sĩ chuyên khoa cấp I và 8.055 là cao đẳng đại học, chiếm tỷ lệ 54,5/ vạn dân (năm 1996 có 11,7/ vạn dân) trong đó 469 bác sĩ, chiếm tỷ lệ 3/ vạn dân. Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 18% (năm 1996: 24,2%). Ngoài ra, có 12.796 trình độ trung học chuyên nghiệp và 23.691 công nhân kỹ thuật. Toàn bộ đội ngũ trên, mặc dù chiếm tỷ lệ không lớn so với toàn bộ nguồn lực con người Kiên Giang (5,4%). Song, đây là bộ phận đã có những đóng góp hết sức quan trọng vào quá trình đổi mới và phát triển nền kinh tế trong những năm qua. Trên nhiều lĩnh vực, lao động khoa học kỹ thuật đã tiếp cận được trình độ khoa học tiên tiến trên thế giới và có khả năng vận dụng, sáng tạo vào điều kiện cụ thể tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang. Tiềm năng trí tuệ, chất xám bước đầu được chú trọng, khai thác, phát huy và sử dụng một cách có hiệu quả hơn. Nhiều người đã phát huy được tài năng, lao động sáng tạo, với năng suất cao và có những cống hiến quan trọng vào thành tựu chung của tỉnh. Tuy nhiên, nhìn chung vẫn chưa phát huy có hiệu quả nguồn lực con người ở Kiên Giang. Điều này thể hiện ở chỗ: - Kiên Giang là một tỉnh có thế mạnh về lực lượng lao động trẻ khỏe, hùng hậu. Đây là một lực lượng đã và đang rất cần thiết cho sự nghiệp CNH, HĐH. Nhưng điều đáng nói ở đây là chất lượng của nguồn lực con người rất thấp, lao động phổ thông chiếm 94,6%. Nguồn cung về số lượng lao động hiện nay là rất lớn và có xu hướng tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới. Trong khi đó, nhu cầu thu hút và sử dụng còn hạn hẹp, quy mô và tốc độ tăng trưởng không tương xứng với nhau đã làm cho quan hệ cung cầu về lao động ngày càng mất cân đối, dẫn đến sức ép về giải quyết việc làm ngày càng tăng. Nguồn lực con người trong CNH, HĐH đang đòi hỏi lao động lành nghề, lao động có chuyên môn kỹ thuật cao. Trong khi nhu cầu về công nhân kỹ thuật của thời kỳ công nghiệp hóa ngày một đòi hỏi nhiều, thì đến nay đào tạo nghề vẫn là khâu yếu nhất trong hệ thống quốc dân. Hậu quả là nền kinh tế hiện đang thiếu trầm trọng công nhân lành nghề và lao động kỹ thuật. Tình hình này dẫn đến thực trạng hiện nay là: trong khi hàng ngàn người không tìm được việc làm, thì một số ngành nghề và rất nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh đang thiếu lao động kỹ thuật, lao động có chuyên môn và phù hợp với yêu cầu sản xuất. Tình trạng "vừa thừa vừa thiếu" đó chủ yếu do sự bố trí không hợp lý các nguồn lực cho phát triển, sự bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo, trình độ học vấn và nghề nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu, trong nền sản xuất xã hội hiện nay. Đơn cử như nhà máy xi măng Sao Mai cần tuyển dụng 50 lao động có tay nghề, nhưng qua thời gian dài thông báo và giới thiệu, nhà máy không tuyển dụng được một lao động nào. Điều đó cho thấy, trong rất nhiều việc cần phải làm thì điều chỉnh cơ cấu đào tạo lao động cho phù hợp với nhu cầu sử dụng là vấn đề hết sức cấp bách hiện nay. Điều đáng lo ngại đến mức báo động là: trong xã hội nói chung, ở Kiên Giang nói riêng đang tồn tại một tâm lý khá phổ biến và nặng nề, coi đại học là con đường duy nhất tiến thân: "Phi đại học bất thành nhân". Đa số học sinh muốn ngồi bàn giấy, học để "thoát ly lao động chân tay". Điều này thật nguy hại và nó đi ngược lại với nguyên lý giáo dục của Đảng ta. Rõ ràng một vấn đề bức xúc đặt ra trong tình hình hiện nay là, phải tăng cường hơn nữa công tác giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông; phải tạo ra luồng liên thông giữa giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp dạy nghề. - Không chú trọng đến hiệu quả sử dụng mà nặng về số lượng. Chính sách sử dụng dựa trên quan điểm "sử dụng hết nguồn lao động xã hội" đã dẫn đến tình trạng tuyển dụng ồ ạt không tính đến nhu cầu và khả năng của sản xuất. Một điểm đáng nói nữa là tình trạng sử dụng nguồn lực con người có trình độ chuyên môn - kỹ thuật không đúng với ngành nghề được đào tạo, sử dụng không đúng với khả năng hoặc dưới khả năng đã được đào tạo. Đó chính là do cấu trúc nguồn lực con người đã qua đào tạo không hợp lý giữa các bậc đào tạo, nên tình trạng thiếu lao động lành nghề, thiếu công nhân kỹ thuật bậc cao là tất yếu. Đó là do chúng ta chưa nắm bắt được nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đối với việc sử dụng và phát huy nguồn lực con người đã qua đào tạo chuyên môn - kỹ thuật trong thời gian qua ở Kiên Giang còn nhiều hạn chế. Ngoài việc phân bố và sử dụng chưa hợp lý giữa các vùng, các ngành, các lĩnh vực... của nền kinh tế tỉnh, cán bộ khoa học công nghệ chủ yếu tập trung ở các ngành cấp tỉnh và thị xã Rạch Giá, tình hình khai thác và phát huy nguồn tiềm năng này đang bộc lộ những mặt hạn chế rất cơ bản, mà quan trọng nhất là chưa phát huy được tiềm năng trí tuệ của đội ngũ này, chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để phát huy hết tài năng, sử dụng có hiệu quả cán bộ khoa học kỹ thuật. Tình trạng "lãng phí chất xám" dưới nhiều hình thức khác nhau đang tồn tại khá phổ biến ở Kiên Giang hiện nay nói riêng, cả nước nói chung. Trí tuệ - đó là yếu tố quan trọng nhất của nguồn lực con người. Do đó, lãng phí chất xám là lãng phí nghiêm trọng nhất. Chẳng hạn có một bộ phận không nhỏ trí thức có thu nhập quá thấp không đủ đảm bảo cuộc sống đã ảnh hưởng đến khả năng hoặc chất lượng làm việc. Trong nhiều trường hợp, lao động giản đơn hoặc lao động chân tay lại có thu nhập cao hơn lao động phức tạp và sáng tạo của tri thức. Đơn cử như người có trình độ học vấn cao, có chức vụ, công tác trong các cơ quan Đảng, là nơi nghiên cứu, hoạch định nghị quyết, chủ trương, đường lối chung của tỉnh nhưng thu nhập không bằng nhân viên trong các ngành kinh tế. Hoặc chẳng hạn, như người thầy giáo, cán bộ nghiên cứu khoa học, lại có thu nhập thấp hơn một nhân viên phục vụ ở các ngành kinh tế hoặc công ty liên doanh. Điều kiện làm việc không có, động lực làm việc cũng không, từ đó nhiều người phải đi làm thêm ngoài chuyên môn, thậm chí phải bỏ nghề để đi làm những dịch vụ đơn giản. Những kiến thức được đào tạo ít có điều kiện sử dụng, sự mai một là điều khó tránh khỏi. "Hao mòn hữu hình và vô hình" của lao động trí tuệ đang làm chúng ta mất đi một nguồn tài sản quý giá trong cơ chế thị trường hiện nay. - Chính sách thu hút và phát huy nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật hiện còn nhiều bất cập. Đến nay Nhà nước nói chung vẫn chưa có chính sách thực sự rõ ràng trong việc quy định chế độ trọng dụng và đãi ngộ những người có trình độ học vấn cao. Chẳng hạn một tiến sĩ, có trình độ chuyên môn cao, có công trình khoa học quan trọng cấp Nhà nước, nhiều năm giảng dạy, nhưng bậc lương chỉ bằng cô kế toán của một đơn vị kinh tế. Các chính sách còn bình quân chủ nghĩa nên còn rất nhiều bất hợp lý. Nhìn ra các nước, những chuyên gia giỏi sau 25 - 30 năm công tác, thường được xếp bậc trên cùng của thang lương nghề nghiệp. Nhưng ở Việt Nam, vị trí cao nhất trong thang lương nghề nghiệp hầu như dành cho người có chức vụ. Do vậy, cần có chính sách đãi ngộ hợp lý để cho đội ngũ làm công tác khoa học sống bằng khoa học một cách tự tin hơn. 1.3.2. Những vấn đề đặt ra nhằm phát huy nguồn lực con người trong CNH, HĐH Từ những nội dung đã trình bày, cần khẳng định: Đổi mới đã đem lại kết quả tích cực trong việc khai thác và phát huy ngày một đầy đủ và có hiệu quả hơn vào các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Trước hết, nguồn lực con người - người lao động đang được thu hút ngày càng đông đảo hơn vào các hoạt động lao động sản xuất cũng như các dịch vụ việc làm khác. Sự thay đổi quan điểm, nhận thức về việc làm và giải quyết việc làm đã thúc đẩy người lao động chủ động, linh hoạt, sáng tạo tự tìm việc làm cho mình và tạo việc làm cho người khác, không ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước như trước đây nữa. Số lượng lao động làm việc trong khu vực ngoài quốc doanh đã tăng khá cao (trình bày 1.3.1). Trong nông thôn, các ngành nghề ngoài nông nghiệp, các làng nghề truyền thống được phát triển và khôi phục trở lại đã thu hút phần lớn lao động dư thừa trong vùng. Những chuyển biến tích cực về lao động, việc làm như trên, một mặt cho phép sử dụng đầy đủ hơn tiềm năng nhân lực. Mặt khác, góp phần tích cực làm giảm bớt sức ép về việc làm ngày càng lớn hiện nay ở Kiên Giang. Cùng với việc thu hút rộng rãi người lao động sản xuất, hiệu quả sử dụng tiềm năng nguồn lực con người cũng ngày càng được chú trọng hơn. Cơ chế sử dụng nguồn lực gắn với quan hệ thị trường, đã buộc người lao động và người sử dụng lao động, phải luôn luôn tìm cách sử dụng có hiệu quả hơn, chất lượng cao hơn. Những hình thức, biện pháp động viên người lao động đóng góp tích cực hơn vào sự phát triển được chú trọng tìm kiếm và áp dụng. Về phía người lao động, để đảm bảo có việc làm và thu nhập ổn định đã biết tự thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp của bản thân. Đặc biệt là những lao động trẻ, khi được tuyển vào làm việc ở các thành phần kinh tế theo cơ chế thị trường đã tự thường xuyên học tập, bồi dưỡng để hoàn thiện kỹ năng chuyên môn và học thêm kỹ năng khác như tin học, ngoại ngữ... Quá trình đó đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn lực con người cũng như sự đóng góp của nhân tố con người vào mục tiêu phát triển chung. Nhà nước đã không ngừng hoàn thiện và đổi mới cơ chế, chính sách về sử dụng lao động - đặc biệt với đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật. Nhờ đó tiềm năng trí tuệ của nhân tố con người Việt Nam cũng như con người Kiên Giang bước đầu được phát huy và có những đóng góp quan trọng vào những thành tựu của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của Kiên Giang. Tiềm năng trí tuệ được biểu hiện đầy đủ nhất ở tiềm lực khoa học công nghệ. Trong những năm qua, khoa học công nghệ đã góp phần đáng kể tạo ra khả năng an toàn về lương thực và có xuất khẩu, đảm bảo hàng hóa tiêu dùng và tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo ra một lực lượng sản xuất, trước hết là lao động kỹ thuật, từng bước làm chủ công nghệ hiện đại. Cùng với khoa học tự nhiên và công nghệ, khoa học xã hội - nhân văn đã góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc xây dựng hệ thống chiến lược CNH, HĐH Kiên Giang, nhằm bảo đảm cho các chủ trương, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các dự án đầu tư có căn cứ khoa học, đem lại hiệu quả kinh tế. Khoa học nói chung, cũng đã kịp thời đánh thức dư luận xã hội về nguy cơ suy thoái về môi trường, tạo nên trào lưu mạnh về phát triển bền vững. Những kết qủa nghiên cứu, điều tra cơ bản là cơ sở khoa học để giúp Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh hoạch định đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đó là những đóng góp hết sức quan trọng của nguồn lực trí tuệ con người Kiên Giang. Tuy nhiên, trước yêu cầu sử dụng nguồn lực con người với tư cách là nguồn lực cơ bản nhất để CNH, HĐH ở tỉnh Kiên Giang, việc phát huy tiềm năng này vẫn còn nhiều mặt hạn chế. - Xét về mặt thu hút và sử dụng, tỉnh Kiên Giang vẫn còn chưa sử dụng hết tiềm năng nguồn lực con người. Tỷ lệ thất nghiệp và chưa có việc làm, làm việc cầm chừng, không có hiệu quả khá phổ biến. Đây có thể coi là sự lãng phí rất lớn về nguồn lực. Mặt khác, nó cũng cho thấy tính bức xúc và gay cấn trước yêu cầu giải quyết việc làm. - Đánh giá dưới góc độ hiệu quả phát huy, chúng ta còn chưa khai thác và phát huy được hết tiềm năng trí tuệ của nguồn lực con người. Đây là một vấn đề thách thức rất lớn là làm thế nào để phát huy tiềm năng trí tuệ cho mục tiêu CNH, HĐH tỉnh nhà, bởi đây là vấn đề cơ bản nhất của việc phát huy nguồn nhân lực cho CNH, HĐH. Để có thể đưa ra giải pháp nhằm phát huy được nguồn tiềm năng quan trọng và có "trữ lượng vô hạn" này cần đi vào phân tích những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó. Có thể nêu ra rất nhiều nguyên nhân nhưng chúng tôi cho rằng, điều quan trọng nhất là Nhà nước nói chung, tỉnh Kiên Giang nói riêng, chưa tạo ra được môi trường lao động thuận lợi, phù hợp với khả năng và nguyện vọng của mỗi cá nhân để họ có thể phát huy cao độ nhất năng lực cống hiến cho xã hội. Mặc dù Nhà nước cũng như địa phương đã có rất nhiều cố gắng xây dựng một môi trường thuận lợi cho việc phát huy tiềm năng trí tuệ nhưng giữa đòi hỏi thực tiễn và những nỗ lực chung vẫn còn khoảng cách khá xa. Các yếu tố vật chất và tinh thần với tư cách là động lực thúc đẩy hoạt động sáng tạo vẫn chưa được triển khai và áp dụng đầy đủ. Vì vậy, một vấn đề đặt ra trong sử dụng và phát huy nguồn lực con người là chúng ta cần phải tác động vào đâu và tác động như thế nào đến các yếu tố kinh tế, chính trị, tâm lý - xã hội... để khơi dậy và nuôi dưỡng tính tích cực, sáng tạo của người lao động? Câu hỏi lớn đó đã và vẫn đang tiếp tục đòi hỏi, phải tìm kiếm lời giải đáp. - Bên cạnh yếu tố môi trường không thuận lợi, cũng cần phải tính tới một yếu tố có ảnh hưởng đến động cơ, thái độ làm việc của người lao động, là ảnh hưởng của cơ chế bao cấp. Mặc dù cơ chế bao cấp đã được xóa bỏ từ lâu, song, tác phong làm việc thụ động, trung bình chủ nghĩa, ít tính toán đến hiệu quả... vẫn còn "rơi rớt lại theo quán tính" của nó ở không ít người lao động. Chúng ta có thể xóa bỏ nhanh hơn các yếu tố tâm lý tiêu cực trên, đẩy nhanh việc hình thành các yếu tố tâm lý tích cực như năng động, sáng tạo, có ý thức kỷ luật cao, chú trọng hiệu quả làm việc... Nếu động viên và tạo điều kiện để mỗi cá nhân tự nỗ lực, phấn đấu, nếu có sự quản lý, tuyên truyền giáo dục thường xuyên và tích cực về vấn đề này. - Một vấn đề khác đang đặt ra trước yêu cầu sử dụng và phát huy nguồn lực con người cho CNH, HĐH ở tỉnh Kiên Giang là làm thế nào thu hút và phát huy hết nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật vào các vùng sâu, vùng xa xôi hẻo lánh. Nguồn lực con người hiện đang được duy trì và sử dụng rất bất hợp lý giữa các ngành, các vùng của nền kinh tế đã và đang gây ra những hậu quả xấu cho quá trình phát triển, làm sâu sắc thêm sự chênh lệch giữa các vùng, các ngành. Tình hình này đang đi ngược mục tiêu của quá trình CNH, HĐH tỉnh Kiên Giang. Không thể duy trì và kéo dài mãi tình trạng đó nhưng giải pháp nào cho việc thu hút lao động có tri thức đến các vùng nông thôn? Vấn đề này cần phải được giải quyết với tư cách là một nội dung quan trọng của việc phát huy nguồn lực con người cho CNH, HĐH. Từ những vấn đề đang được đặt ra và đòi hỏi phải được giải quyết như đã nêu trên có thể thấy rằng, những yêu cầu vừa cơ bản, vừa bức xúc của việc phát huy nguồn lực con người cho CNH, HĐH ở tỉnh Kiên Giang hiện nay là: Sử dụng hợp lý và phát huy có hiệu quả lực lượng dồi dào, khai thác tiềm năng trí tuệ, phát huy những yếu tố tinh thần gắn với truyền thống văn hóa dân tộc. Thực hiện được những yêu cầu trên, tỉnh Kiên Giang mới có thể biến tiềm năng thành sức mạnh để phát huy nguồn lực con người trong CNH, HĐH một cách có hiệu quả nhất. Chương 2 Phương hướng và giải pháp nhằm phát huy có hiệu quả nguồn lực con người ở Kiên Giang trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa 2.1. Phương hướng phát huy nguồn lực con người ở Kiên Giang trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa 2.1.1. Khơi dậy nguồn lực con người thông qua động lực lợi ích Cơ chế bao cấp cùng với chế độ phân phối mang nặng tính bình quân chủ nghĩa đã mất đi động lực khơi dậy, kích thích tính tích cực, sáng tạo của con người. Thay vào đó là tâm lý trông chờ, thụ động và thái độ thiếu nhiệt tình trong công việc. Đây là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Việt Nam vào cuối những năm 70 đầu những năm 80. Cơ chế bao cấp ngày nay đã được xóa bỏ, song tác phong làm việc thụ động, trung bình chủ nghĩa, ít chú trọng đến hiệu quả... đã thấm sâu vào đời sống tâm lý của nhiều người lao động nói chung, ở Kiên Giang nói riêng. Điều này đã trở thành thói quen, trong tác phong làm việc hàng ngày của nhiều người trong các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước. Điều đó cho thấy, vấn đề hết sức cấp bách hiện nay là phải khơi dậy và tạo ra được thái độ làm việc tích cực của mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội để có thể nhanh chóng khắc phục tình trạng lãng phí tiềm năng nguồn lực con người ở Kiên Giang nói riêng, cả nước nói chung. Vấn đề đặt ra là, trong điều kiện hiện nay ta phải tác động vào đâu để khơi dậy nguồn lực con người, khơi dậy tính tích cực của người lao động. Trả lời câu hỏi này không đơn giản, bởi đây là vấn đề hết sức phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố kinh tế, chính trị, tâm lý - xã hội và có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong phạm vi luận văn này chúng tôi xin đề cập đến một vấn đề mang tính định hướng cơ bản trong tình hình mới hiện nay. Đó là việc phải căn cứ vào những thay đổi trong định hướng giá trị chủ yếu, những xu thế hình thành nhân cách và lối tư duy mới dưới tác động của quá trình đổi mới và mở cửa, để đưa ra các biện pháp, chính sách động viên có hiệu quả tính tích cực - sáng tạo của người lao động. Định hướng đó là: có trình độ học vấn cao; sống có nghĩa tình; có khả năng tổ chức quản lý công việc, làm việc tận tâm, có trách nhiệm; sáng tạo trong học tập và công tác. Rõ ràng, trong tình hình mới hiện nay, mỗi cá nhân đều có ý thức rất rõ sự cần thiết phải vươn lên, khẳng định mình để tồn tại và phát triển. Những định hướng trên cho thấy, xu hướng hình thành nhân cách độc lập ngày càng rõ nét hơn. Lòng tự trọng được đề cao, nhu cầu tự khẳng định và tự thực hiện nhân cách được coi trọng. Điều này cho thấy, việc tạo ra những điều kiện vật chất và tinh thần để mỗi cá nhân tự khẳng định bản thân và tự thực hiện nhân cách là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng kích thích tính tích cực của người lao động. Khi đó, họ sẽ tự ý thức được cần phải làm gì và làm như thế nào để phát huy tốt nhất năng lực của bản thân. Tính chủ động, sáng tạo nhờ đó được phát huy. Về định hướng giá trị nghề nghiệp, hầu hết mọi người đều cho rằng nghề có thu nhập cao là tiêu chuẩn quan trọng nhất. Những định hướng giá trị chung là mong muốn sống trong hòa bình, ổn định và phát triển. Từ những thay đổi định hướng giá trị nêu trên, chúng tôi cho rằng, để động viên có hiệu quả tính tích cực sáng tạo của người lao động thì vấn đề quan trọng nhất là tạo điều kiện để người lao động có việc làm và thu nhập cao. Thực tế cho thấy, đây là những yếu tố có tác động mạnh nhất đế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Vấn đề phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Kiên Giang.pdf
Tài liệu liên quan