Tài liệu Luận văn Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước ta: LUẬN VĂN:
Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho
cán bộ lónh đạo, quản lý nhà nước trong
giai đoạn hiện nay ở nước ta
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cách mạng nước ta, cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo quản lý nhà
nước nói riêng, đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.
Trong điều kiện hiện nay, trước những biến động lớn lao đầy phức tạp trên thế giới,
cũng như yêu cầu phát triển của đất nước, vai trò này càng trở nên to lớn hơn bao
giờ hết.
Để lãnh đạo quản lý nhà nước thúc đẩy đất nước phát triển theo mục tiêu
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có cả đức lẫn
tài trong đó đức là gốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng: "Người cán bộ cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân" [32, 253].
Sau hơn 10 năm đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo số đông cán
bộ lãnh đạo quản lý nhà nước luôn trau dồi và giữ vững được phẩm chất đạo ...
58 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1216 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho
cán bộ lónh đạo, quản lý nhà nước trong
giai đoạn hiện nay ở nước ta
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cách mạng nước ta, cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo quản lý nhà
nước nói riêng, đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.
Trong điều kiện hiện nay, trước những biến động lớn lao đầy phức tạp trên thế giới,
cũng như yêu cầu phát triển của đất nước, vai trò này càng trở nên to lớn hơn bao
giờ hết.
Để lãnh đạo quản lý nhà nước thúc đẩy đất nước phát triển theo mục tiêu
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có cả đức lẫn
tài trong đó đức là gốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng: "Người cán bộ cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân" [32, 253].
Sau hơn 10 năm đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo số đông cán
bộ lãnh đạo quản lý nhà nước luôn trau dồi và giữ vững được phẩm chất đạo đức
cách mạng: yêu nước, yêu CNXH, chí công vô tư, có lối sống lành mạnh, giữ gìn
được phẩm chất của người cán bộ cách mạng.
Tuy nhiên, trước những sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, không ít
cán bộ đã bị thoái hóa, biến chất, sự sa sút về đạo đức của một bộ phận cán bộ này
thể hiện ở chủ nghĩa cá nhân phát triển mạnh: kèn cựa địa vị, lợi dụng chức quyền
trục lợi, tha hóa về lối sống... Đáng chú ý sự suy thoái về phẩm chất này trong cán
bộ đang có chiều hướng gia tăng, làm xói mòn bản chất cách mạng của đội ngũ cán
bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ.
Sự sa sút về phẩm chất đạo đức của người cán bộ lãnh đạo quản lý, một mặt
do sự tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, nhưng mặt khác cũng phải thấy
rằng do trong một thời gian dài chúng ta chưa chú ý đúng mức vấn đề giáo dục, rèn
luyện phẩm chất đạo đức, buông lỏng việc quản lý cán bộ và ít tạo môi trường
thuận lợi cho việc phát triển đạo đức.
Vậy việc nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ nói chung, cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước nói riêng đang là một vấn đề hết sức bức
bách hiện nay.
Chính vì lý do đó, tôi chọn đề tài " Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng
cho cán bộ lónh đạo, quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước ta " làm
đề tài mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề đạo đức của người cán bộ cách mạng đã thu hút được rất nhiều tác
giả quan tâm nghiên cứu, tuy nhiên đây là vấn đề rất lớn và cũng không kém phần
phức tạp. Vấn đề còn đặt ra trước chúng ta nhiều khía cạnh cần được tiếp tục làm rõ
và đòi hỏi phải có tính thiết thực hơn. Hơn nữa trên thực tế các luận án, các bài
báo... xung quanh đề tài này thường được nghiên cứu về dưới góc độ xây dựng
Đảng, ít nghiên cứu về phương diện triết học, nhất là chưa đi sâu vào khảo sát một
loại cán bộ cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Trên cơ sở những yêu cầu mới về đạo đức và thực trạng đạo
đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước, luận văn làm rõ sự cấp thiết của việc
nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước, từ đó đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo,
quản lý nhà nước trong điều kiện hiện nay.
- Để thực hiện mục tiêu đó, đề tài có các nhiệm vụ sau:
+ Vạch ra yêu cầu đạo đức cách mạng của người cán bộ lãnh đạo, quản lý
nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
+ Đánh giá thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà
nước hiện nay (trên cơ sở khảo sát ở tỉnh Kiên Giang), từ đó nêu ra những đòi hỏi
khách quan của việc nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà
nước trong giai đoạn cách mạng mới.
+ Nêu một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho cán
bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong điều kiện hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đạo đức học
Mác - Lênin; các quan điểm đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Chủ tịch
Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận của nghiên cứu, thực hiện luận văn này.
- Đề tài kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, lôgíc và lịch sử, phân
tích và tổng hợp, kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên cứu đã có.
5. Cái mới của luận văn
- Luận văn bước đầu đã xác định được một số yêu cầu cơ bản về đạo đức
đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong tình hình hiện nay.
- Phân tích góp phần làm rõ thêm một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước ở nước ta nói chung, ở
Kiên Giang nói riêng trong điều kiện hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Với kết quả đã đạt được, luận văn đã góp phần nhỏ bé vào nâng cao đạo
đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước, đáp ứng nhu cầu của công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
- Luận văn có thể dùng tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy
về môn đạo đức học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
2 chương, 5 tiết.
Chương 1
Đạo đức của cán bộ lãnh đạo, Quản lý nhà nước
ở nước ta hiện nay - thực trạng
và những vấn đề nảy sinh
1.1. Yêu cầu đạo đức của người cán bộ lãnh đạo, Quản lý nhà nước
trong giai đoạn hiện nay
1.1.1. Vai trò đạo đức cách mạng của người cán bộ trong tư tưởng Hồ
Chí Minh
Vấn đề đạo đức của con người đã được mọi giai cấp, mọi xã hội, mọi thời
đại quan tâm. Ngay từ chế độ cộng sản nguyên thủy, đạo đức đã xuất hiện, từ đó
dần dần được phát triển hoàn thiện trên cơ sở phát triển của hình thái kinh tế - xã
hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Giống như các hình thái ý thức xã hội khác, đạo
đức bị quy định bởi điều kiện kinh tế - xã hội và luôn luôn kế thừa và phát triển để
tiến bộ không ngừng.
Từ thế kỷ XVI trước công nguyên, Khổng Tử đã khuyên học trò của mình
"Tiên học lễ, hậu học văn". Ông mong muốn xã hội phát triển bình ổn, gia đình
sống hạnh phúc, con người giữ được đạo lý. Để thực hiện được ý tưởng đó, ông đề
ra nguyên tắc vua tôi, ông, bà, cha mẹ, con cháu đều phải theo luật nước, phép nhà.
Tuy không phải là người đầu tiên bàn đến đạo đức, nhưng công lao chính của ông là
đã tổng kết được kinh nghiệm thực tiễn của đời sống xã hội, trên cơ sở đó xây dựng
nên học thuyết đạo đức, trong đó chứa đựng nhiều nội dung: Đó là ý thức với bản
thân, ý thức với xã hội, đặt các mối quan hệ của con người trong mối tương quan xã
hội, cách ứng xử và hành vi của con người...
Trong xã hội ấn Độ cổ đại, học thuyết của đạo phật do Thích Ca Mâu Ni
sáng lập cũng đã đề cập nhiều đến vấn đề đạo đức. Cái cốt lõi nhất trong hệ thống
đạo đức Phật giáo là khuyên con người sống thiện, biết thương yêu nhau, giúp đỡ
nhau, tránh điều ác.
Trong xã hội Hy Lạp - La Mã cổ đại, người ta đề cao những giá trị đạo đức,
như tính trung thực, lòng dũng cảm, sự trong sáng và cao thượng trong tình bạn,
tình yêu...
ở nước ta, vấn đề đạo đức được đề cập rất sớm, từ trong các truyền thuyết,
ca dao, tục ngữ... nhân dân ta đã xây dựng những nguyên tắc, chuẩn mực giá trị đạo
đức nhằm giáo dục con người, chăm làm, chăm học để nâng cao trí tuệ, thương yêu
giúp đỡ lẫn nhau và có nhân cách cao đẹp trong cuộc sống.
Theo quan điểm mácxít, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt,
bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm, quy tắc, nguyên tắc, chuẩn
mực xã hội. Nó ra đời tồn tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội. Nhờ nó, con người
tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con
người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người,
giữa cá nhân với xã hội.
Trong đời sống xã hội loài người có những mối quan hệ rất phức tạp, đa
dạng, chúng tồn tại đan xen nhau: quan hệ huyết tộc, nhân chủng, các giới, các thế
hệ, các giai cấp... mặt khác, do trình độ nhận thức của mọi người cũng khác nhau,
nên về tập tục, lợi ích, văn hóa, trình độ phát triển cũng khác nhau. Để duy trì sự
tồn tại và phát triển, mỗi xã hội đòi hỏi phải xây dựng những nguyên tắc, chuẩn
mực sống, trên cơ sở đó con người tự ý thức, hành động. Nói cách khác là những
nguyên tắc đó được xây dựng trên cơ sở tính tự nguyện, tự giác của mỗi người; biến
thành ý thức xã hội để con người tự giác tuân theo.
Đạo đức là nhu cầu tất yếu khách quan, nhưng lại là vấn đề có tính lịch sử.
Xã hội nào cũng cần hình thành những nguyên tắc sống để con người tự nguyện
tuân theo, nhằm đảm bảo trật tự xã hội, duy trì sự tồn tại, phát triển của xã hội và
của cá nhân. Trong cuộc sống, có những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức chung cho
mọi thời đại (sống thiện, yêu quí lao động, trung thực) nhưng vẫn có những nguyên
tắc, chuẩn mực chỉ phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Từ xã hội cộng sản nguyên thủy, đến xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong
kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, những yếu tố đạo đức tiến bộ được hình
thành và ngày càng phát triển. Đó là sự say mê lao động, sáng tạo, đề cao tính trung
thực, khiêm tốn, phẩm hạnh, danh dự con người, căm ghét áp bức tàn bạo, ghét sự
dối trá, sự tương trợ hợp tác lẫn nhau, nguyên tắc bình đẳng về lợi ích và lao động.
Những yếu tố đạo đức tốt đẹp đó luôn đối lập với chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, hiếu
danh, lười biếng, ăn bám, xa hoa, lãng phí.
Như vậy đạo đức là một hiện tượng phổ biến của xã hội, của mọi thời đại.
Nó tồn tại một cách tất yếu khách quan nhằm điều chỉnh ý thức, hành vi, quan hệ
ứng xử của con người với nhau trong xã hội. ở đâu có con người thì ở đó có quan hệ
đạo đức, và con người có nhu cầu hướng tới những giá trị đạo đức, sống thiện, có
ích, nhân đạo, làm tròn các nghĩa vụ đạo đức đối với xã hội. Những giá trị đạo đức
khi đã được hình thành ở con người thì có tác động trở lại xã hội theo chiều hướng
tốt đẹp.
Đạo đức còn giúp cho con người hoàn thiện nhân cách của mình. Những
người có nhân cách bao giờ cũng có những phẩm chất đạo đức cao quý. Trong các
tiêu chuẩn giá trị làm nên cái đẹp của con người, sự lựa chọn của nhân dân cũng
hướng đến cái giá trị đạo đức "Cái nết đánh chết cái đẹp", "Tốt gỗ hơn tốt nước
sơn"...
Đạo đức là nhu cầu, là cội nguồn của hạnh phúc. Một xã hội hạnh phúc
chính là ở chỗ xã hội đã tạo ra những con người có ý thức, có năng lực thực tiễn
hành động vì người khác. Một người có lòng vị tha hay giúp đỡ người khác chính là
bản thân anh ta đã "làm phúc" cho mọi người và chính anh ta cũng cảm thấy hạnh
phúc. Những người gặp hoàn cảnh éo le sẽ hạnh phúc biết nhường nào khi được
người khác giúp đỡ vô tư.
Nhờ có hành vi đạo đức tốt, con người mới đem lại hạnh phúc cho người
khác. Chủ thể đạo đức khi thực hiện hành vi đạo đức cũng trở nên hạnh phúc.
Người giúp đỡ người khác sẽ cảm thấy cuộc sống của mình trở nên tốt đẹp hơn, có
ý nghĩa hơn. Người hạnh phúc nhất là người biết đem lại niềm vui, hạnh phúc cho
người khác.
Lịch sử đã chứng minh đạo đức có vai trò tích cực trong đời sống xã hội, nó
như một động cơ có sức mạnh thôi thúc con người đấu tranh chống lại những cái ác,
cái xấu đi ngược lại lợi ích của xã hội; nó giữ gìn và phát triển những cái tốt, cái
thiện, làm cho xã hội ngày càng phát triển. Trong thời đại ngày nay, đạo đức càng
đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, dân chủ, độc lập dân tộc
và tiến bộ xã hội. Đạo đức đang tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh vì quyền con
người, chống lại chủ nghĩa vô nhân đạo, bảo vệ môi sinh, chống nghèo đói, tạo ra
mọi khả năng và điều kiện thuận lợi để con người thực hiện nhu cầu của mình.
Đạo đức còn là một tiêu chuẩn giá trị cao của đời sống con người, nó loại
bỏ sự thấp hèn, vị kỷ, đê tiện, xấu xa, hướng con người đi tới cái tốt đẹp, cái thiện
và cái tiến bộ.
Đối với mỗi con người, đạo đức là cơ sở, là nền tảng để xây dựng lý tưởng
sống, hướng con người xác định đúng mục đích sống. Trong cuộc sống, người nào
cũng đặt cho mình một câu hỏi: mình sống như thế nào, vì mục đích gì? Tồn tại để
làm gì?
Nói chung, người có đạo đức là người sống vì xã hội, sống vì hạnh phúc của
người khác, sống để cống hiến và đem lại lợi ích nhiều nhất cho xã hội. Điều này
không có nghĩa là quên lợi ích cá nhân. Bởi vì, nếu không có cá nhân thì không thể
có xã hội, nên sự tồn tại của cá nhân là một tất yếu khách quan. Những điều kiện
tồn tại của cá nhân không thể bỏ qua, nhưng đó không phải là tất cả. Do đó, con
người sống phải vì lợi ích chung của xã hội và người khác, đó là một nhận thức đầy
tính nhân văn và cách mạng. Nó thể hiện quan niệm, tồn tại của con người là mục
đích chứ không phải đơn thuần là phương tiện như những kẻ vụ lợi tham lam.
Đạo đức giúp cho con người sáng tạo ra hạnh phúc. Nếu con người sinh ra
chỉ biết hưởng thụ, sống thụ động, không có trách nhiệm thì của cải tự nhiên sẽ bị
nghèo nàn, khô kiệt và khan hiếm dần đi; những giá trị văn hóa, vật chất, tinh thần
sẽ không nảy sinh, họ luôn nhìn đời bằng con mắt chán chường, cảm thấy sống
thừa, vô vị. Còn một khi con người đã xác định sống phải có lý tưởng để cống hiến
tài năng cho xã hội, thì mọi người sẽ tích cực tự giác làm việc, đem lại những thành
quả có ích cho xã hội, và cũng chính lúc đó con người tạo ra những giá trị cao
cho chính mình. Hạnh phúc chân chính biểu hiện mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích
cá nhân và lợi ích xã hội. Mối quan hệ ấy thúc đẩy lẫn nhau, làm cho con người
và xã hội ngày càng phát triển.
Đạo đức còn làm cho mỗi người biết giữ gìn phẩm giá, danh dự sống cao
cả, biết hòa nhập, gắn bó với tập thể; tránh tư tưởng bè phái, cục bộ, vị kỷ, cá nhân
và những thói đạo đức giả.
Đạo đức đem lại cho con người niềm lạc quan yêu đời, nó phát huy và khơi
dậy ở con người tính tích cực tự giác, kiên trì khắc phục khó khăn, khát khao vươn
tới cuộc sống chân, thiện, mỹ.
Trải qua các quá trình lao động sáng tạo và cải biến xã hội, con người càng
thấy rõ hơn giá trị to lớn của đạo đức. Đạo đức không chỉ đóng vai trò điều chỉnh ý
thức và hành vi của con người mà còn có tác dụng cảm hóa con người, giúp con
người nhận thức và hành động theo lẽ phải, duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người
và người. Đồng thời, đạo đức còn làm thức dậy trong mỗi con người những tình
cảm tốt đẹp, đó là lòng nhân ái, tính trung thực thẳng thắn. Cùng với sự tiến lên của
xã hội, đạo đức sẽ có mặt ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó giúp con người có
khả năng lựa chọn, đánh giá các hiện tượng xã hội, đánh giá tư cách, ý thức và hành
vi của bản thân mình, làm cho hoạt động của con người phù hợp với lợi ích của xã
hội, của cộng đồng.
Xã hội muốn ổn định và phát triển, đòi hỏi phải xây dựng những chuẩn mực
đạo đức để giúp cho con người điều chỉnh hành vi của mình nhằm đáp ứng những
yêu cầu chung của nền đạo đức xã hội.
Chế độ xã hội nào cũng chú ý quan tâm đến cán bộ, vì nó liên quan đến vận
mệnh và sự hưng thịnh của mỗi chế độ, mỗi quốc gia. ở nước ta, trong các thời kỳ
cách mạng, cán bộ luôn là vấn đề nổi lên hàng đầu và giữ một vai trò hết sức trọng
yếu. Nó chẳng những có ý nghĩa quyết định đối với công tác xây dựng Đảng và việc
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn là nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ; vì cán bộ
"vừa là người lãnh đạo lại vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân".
Đảng muốn lãnh đạo cách mạng phải có đường lối chính trị đúng đắn.
Nhưng để xây dựng đường lối đúng và làm cho đường lối đó trở thành hiện thực
sinh động trong cuộc sống thì nhất thiết phải có đội ngũ cán bộ vững vàng, có phẩm
chất đạo đức trong sáng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc" [30, 269] và "Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc
kém", cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy nếu dây chuyền không tốt hoặc không
chạy thì động cơ dù tốt mấy thì toàn bộ máy cũng bị tê liệt.
Cán bộ là nhân tố quyết định trong việc thực hiện sự lãnh đạo của Đảng.
Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm thành công sự nghiệp đổi mới, nhưng để
thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, ngoài sự tự giác nhận thức, bảo vệ và kiên trì của
toàn Đảng và của toàn dân, thì cán bộ là nhân tố quyết định.
Cán bộ là người định ra đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà
nước và vận động tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra, đưa đất
nước ngày càng phát triển và tiến bộ. Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng
cần có một đội ngũ cán bộ thích ứng, vừa có phẩm chất đạo đức, vừa có năng lực để
đáp ứng được sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng. Hiện nay đất nước ta đang bước
sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong bối cảnh có những thời
cơ, thuận lợi mới, nhưng cũng có nhiều khó khăn, thách thức mới. Nhiệm vụ cách
mạng mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải xây dựng được một đội
ngũ cán bộ ngang tầm, có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng cao. Chính vì
thế, trong điều kiện cách mạng hiện nay, đạo đức cần phải được nhấn mạnh trong
mỗi con người, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước và các tổ chức
đoàn thể quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, làm cách mạng để cải tạo xã hội
cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ
rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới
gánh được nặng và đi được xa. Người cán bộ phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Vì vậy, người cán bộ có
đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không lùi bước. Vì
lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc người cán bộ sẽ
không ngần ngại hy sinh lợi ích của cá nhân mình. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cả
tính mạng của mình cũng không tiếc. Trong mọi hoàn cảnh khi thuận lợi, thành
công cũng như lúc gặp khó khăn gian khổ họ luôn thể hiện tinh thần "Lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ"; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt
hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Họ
ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính
sách của Đảng; đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động lên trên lợi ích riêng
của cá nhân mình; hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu trong mọi công
việc, biết hòa mình với quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, từ lời nói đến
việc làm đều làm cho dân tin, dân phục, dân yêu.
Như vậy, đạo đức không thể thiếu đối với mỗi người và càng không thể
thiếu đối với mỗi cán bộ. Nó giúp cho người cán bộ nhìn đúng, làm đúng. Đạo đức
cách mạng là động lực thôi thúc nội tâm của người cán bộ vượt lên mọi khó khăn để
nâng cao trình độ trí tuệ, không có động lực này thì khó có thể nâng cao được trình
độ cho bản thân, hoặc nếu có thì rất có thể những hiểu biết và tài năng của họ được
sử dụng nhiều khi không đúng mục đích mà Tổ quốc và nhân dân mong muốn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống bao gồm nhiều lĩnh vực, phản ánh
gần như toàn bộ những vấn đề quan trọng nhất của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Nhưng có thể nói, vấn đề đạo đức của người cách mạng được Người đặt ở vị trí
hàng đầu và được nói đến nhiều nhất trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng
của mình.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta thấy Người rất đề cao vai trò
của đạo đức. Người coi đạo đức là cái gốc của người cán bộ. Suốt cuộc đời đấu
tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người,
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến đạo đức cách mạng, đạo đức làm người. Người nêu
lên những tiêu chuẩn về đạo đức cách mạng và chính Người là một kiểu mẫu về đạo
đức cách mạng. Khi đã trở thành người Cộng sản, Hồ Chí Minh thấy có trách nhiệm
tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cứu nước đúng đắn cho
người cách mạng Việt Nam. Đồng thời, người truyền thụ đạo đức cách mạng cho
họ. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, ở chương đầu tiên, Người nêu: "Về tư cách
người cách mệnh". Tháng 10 năm 1947, khi Người viết cuốn Sửa đổi lối làm việc,
Người nhấn mạnh đến đạo đức mới, vì chỉ có thực hiện đạo đức mới thì người cán
bộ mới nhận thức đầy đủ ý thức trách nhiệm của mình và hoàn thành nhiệm vụ của
tập thể, của dân tộc, của giai cấp và của loài người.
Người nói: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng không có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [34, 252-253].
Trong sự nghiệp cách mạng, một trong những vấn đề Hồ Chí Minh quan
tâm hàng đầu là đạo đức. Suốt đời, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến việc giáo
dục lý tưởng cách mạng và đạo đức cách mạng cho những người yêu nước, cho
thanh niên, cho quần chúng, đặc biệt là cho cán bộ đảng viên. Phải khẳng định rằng,
Hồ Chí Minh không chỉ là người giáo dục đạo đức cách mạng, mà còn là hiện thân
của đạo đức cách mạng đã nêu gương cho toàn Đảng, toàn dân ta.
Trong quá trình cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan
tâm, lo lắng đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý của Đảng bởi vai trò của họ đối
với quần chúng, đối với sự nghiệp cách mạng là rất lớn. Người cho rằng, người cán
bộ cách mạng phải có nhiều ưu điểm, nhiều đức tính tốt, khái quát lại là phải có đạo
đức cách mạng và năng lực làm việc. Một cán bộ lãnh đạo quản lý tốt phải được xác
định trên cơ sở tổng hợp một cách biện chứng giữa hai mặt đức và tài. Xét trong
mối quan hệ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đạo đức cách mạng của người cán bộ
là gốc, vì không có đạo đức cách mạng thì có giỏi mấy cũng không làm được cán
bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý của Đảng và Nhà nước. Người thường nhắc nhở cán
bộ, đảng viên rèn luyện đạo đức cách mạng và năng lực làm việc. Người cho rằng,
quần chúng nhân dân theo Đảng không phải vì cái mác "cộng sản" mà là vì tư cách,
đạo đức của người cán bộ cộng sản. Nội dung chủ yếu của đạo đức cách mạng đó
là: xây dựng chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa, chống chủ nghĩa cá nhân, lao động
tự giác, sáng tạo, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư... những tư tưởng đó của
Người là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình giáo dục, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước ta.
Hồ Chí Minh không phải là người đầu tiên đề cao vị trí, vai trò của đạo đức.
Trước đây hàng chục thế kỷ Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo đều đã đề cao vị trí
của đạo đức, đặc biệt là Khổng giáo. Khổng Tử là một nhà đạo đức lớn. Ông chủ
trương xây dựng một nền chính trị đạo đức lấy chữ "nhân" làm nền tảng. Hồ Chí
Minh đánh giá cao Nho giáo chủ yếu ở đạo đức học. Người cho rằng "Học thuyết
của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân". Nhưng đừng vì
thế mà nghĩ rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cũng giống như tư tưởng đạo
đức của Khổng Tử. Hồ Chí Minh chỉ lấy cái hay, cái đúng của Nho giáo ở chỗ nó
đề cao đạo đức nhưng không phải là thứ đạo đức trừu tượng mà là đạo đức của con
người trần gian, đặc biệt là đạo làm người "tu thân" của Nho giáo là để trở thành
người có nhân, có đức. Về mặt nào đó chữ "nhân" của Nho giáo cũng như quan
niệm về đạo đức của Khổng Tử dễ gần với chủ nghĩa nhân đạo mácxít. Nho giáo đề
ra "cần, kiệm, liêm, chính". Hồ Chí Minh cũng nói tới: Cần, kiệm, liêm, chính,
nhưng với một nội dung khác về cơ bản. Quan điểm Nho giáo đề ra "cần, kiệm,
liêm, chính" là chỉ để người khác thực hiện chứ không phải cho vua, chúa, quan lại
phong kiến thực hiện, như Hồ Chí Minh đã từng có nhận xét. Hồ Chí Minh không
chỉ là một nhà đạo đức học mà đúng hơn phải nói Người là nhà cách mạng về đạo
đức. Người tiếp thu tất cả những cái hay, cái đúng của Nho giáo về quan điểm đạo
đức, song về cơ bản, Người đã có sự cải tạo lại phát triển lên khiến nó trở thành
những giá trị phù hợp với thực tế Việt Nam, với đường lối cách mạng nước ta. Từ
đó ở Người hình thành một hệ thống quan điểm riêng về đạo đức bổ sung cho quan
điểm đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin, tạo thành một triết lý phát triển lấy đạo
đức cách mạng làm nền tảng cho cách mạng nước ta. Triết lý đạo đức Hồ Chí Minh
là triết lý phát triển hướng về con người, thực hiện sự nghiệp cách mạng để giải
phóng con người, nhất là người lao động bị áp bức, bóc lột. Đó cũng là triết lý về
đạo đức thể hiện sự đoàn kết tất cả mọi người cần lao trên thế giới để thực hiện sứ
mệnh cách mạng cao cả là giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, khỏi sự nghèo
nàn, lạc hậu, để xây dựng một xã hội phồn vinh, bình đẳng, dân chủ, văn minh.
Phải chăng, cũng từ bài học của bản thân là nhờ có tấm lòng yêu nước,
thương dân được xem như một động lực lớn, Hồ Chí Minh mới xem đạo đức là cái
gốc của người cách mạng, để từ đó Người đặt vấn đề đạo đức có tầm quan trọng
như một triết lý phát triển của xã hội nói chung, của sự nghiệp cách mạng Việt Nam
nói riêng. ở đây còn có ý nghĩa sâu xa nữa mà có lẽ chúng ta chưa phải ai cũng đã
thấy hết, đó là việc Hồ Chí Minh không chỉ đặt đối tượng của sự nghiệp cách mạng
mà mình theo đuổi là giải phóng con người, mà quan trọng là chủ thể cách mạng
cũng là con người. Con người nói ở đây không phải là một siêu nhân nào đó có sứ
mệnh giải phóng cho người khác mà chính là người dân, người cùng khổ, người bị
áp bức. Tóm lại, "số phận dân ta ở trong tay ta, văn hóa soi đường cho quốc dân đi
"như Hồ Chí Minh khẳng định là với ý nghĩa đó. Nói văn hóa soi đường là nói đến
tầm trí tuệ của mỗi người, yêu cầu về dân trí, nhưng cũng là nói đến vai trò của đạo
đức. Bởi lẽ, nếu thiếu đạo đức thì dù có văn hóa con người cũng không làm nên trò
gì, hơn nữa, đạo đức mà Hồ Chí Minh đòi hỏi ở đây là đạo đức cách mạng. Bản
chất đạo đức cách mạng đã tiềm ẩn một nội lực khiến cho con người phải vươn lên
không ngừng để thực hiện những hoài bão của mình. Hồ Chí Minh là một tấm
gương như vậy và Người mong muốn mọi người cũng như mỗi người, nghĩ đến
thân phận của mình và số phận của dân ta thì trước hết phải tự mình nâng mình lên,
tự mình phát huy mọi tiềm năng mà mình có được để phụng sự cho nước, cho dân
trong đó có bản thân mình.
Hồ Chí Minh được mọi người tôn vinh là siêu nhân và chính Người đã có
nhiều công lao vĩ đại đối với đất nước ta, nhân dân ta và cả thế giới. Thế nhưng Hồ
Chí Minh lại không bao giờ xem mình là siêu nhân. Điều đó chẳng những xuất phát
từ phẩm chất khiêm tốn của Người mà còn xuất phát từ một quan niệm về triết lý
phát triển, xem sự nghiệp cách mạng là công việc của mọi người, của dân và do
dân. Một người dù tài giỏi đến mấy nếu không có nhân dân cũng không làm gì
được. Chỉ có nhân dân mới là nhân tố quyết định của phát triển. Đó là một quan
điểm mới về triết lý phát triển mà không phải ai cũng thấy, cũng quán triệt được
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cách mạng của mình. Đây là một nội dung đạo
đức hết sức quan trọng hầu như chúng ta chỉ thấy rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
bởi lẽ, Hồ Chí Minh không chỉ nói mà chính Người đã làm như vậy. Bản thân người
là một hình ảnh sinh động của triết lý xem đạo đức như một động lực của phát triển
xã hội nói chung, của sự nghiệp cách mạng nước ta nói riêng.
Nhìn lại thực tế lịch sử của dân tộc, chúng ta có thể thấy rõ chỉ những triều
đại nào biết dựa vào dân, coi dân thực sự là gốc của nước, dân mới là sức mạnh
"vừa có khả năng đẩy thuyền vừa có khả năng lật thuyền", thì triều đại đó sẽ chẳng
những đứng vững được mà còn vượt qua được những sóng gió, giữ cho đất nước
được độc lập, thịnh vượng, nhân dân được tự do. Đó là những tấm gương của Trần
Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung và nhiều vị vua hiền, tôi giỏi khác.
Đương nhiên, không chỉ có đạo đức mà phải nói đến tài năng vốn được xem là một
điều kiện cũng có vai trò quyết định trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước. Song, như Hồ Chí Minh đã từng nói giữa đức và tài thì đức cần có trước, bởi
lẽ, nếu không có đức thì dù có tài cũng không thể làm gì, thậm chí có tài mà không
có đức có khi còn trở thành tai họa cho dân, cho cách mạng.
Nhìn lại sự nghiệp cách mạng nước ta từ sau Cách mạng tháng Tám đến
nay, chúng ta càng thấy rõ quan điểm xem "đạo đức là gốc của người cách mạng"
của Hồ Chí Minh quan trọng và đúng đắn như thế nào. Có thể trước đây khi nói đến
quan điểm xem đạo đức là gốc của người cách mạng, có người còn e ngại nghĩ rằng
chắc Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của Nho giáo nên mới đề cao vai trò của đạo đức
như vậy. Nhưng đến nay, sau những thực tiễn sinh động, nhất là sau thời kỳ đất
nước đổi mới, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, đồng thời có sự mở cửa giao lưu, hội nhập với thế giới chúng ta mới thấm
thía với những quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh trong việc đề cao vai trò của
đạo đức.
Không phải ngẫu nhiên mà trong Di chúc để lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
tiếp tục nhấn mạnh "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư... Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên"... Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát
triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân [33,
510-511].
1.1.2. Đặc điểm của cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước, những yêu cầu
đạo đức của họ trong giai đoạn hiện nay
Cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước là gì? Nó khác với những loại cán bộ
khác như thế nào? Đây là những vấn đề chưa thật được giới nghiên cứu quan tâm.
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương (khóa VIII), khi
nói về tiêu chuẩn của các loại cán bộ, Đảng ta đã phân cán bộ thành bốn loại: cán
bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân; cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ
trang; cán bộ khoa học, chuyên gia; cán bộ quản lý kinh doanh. Như vậy ở đây cán
bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước chưa được phân thành một loại cán bộ riêng biệt
trong mối quan hệ với các loại cán bộ khác. Điều đó chứng tỏ loại cán bộ này vẫn
có những đặc điểm chung với các loại cán bộ khác, nhất là cán bộ lãnh đạo Đảng và
các đoàn thể nhân dân.
Ngay việc phân biệt hai thuật ngữ "lãnh đạo" và "quản lý" hiện nay cũng
đang có nhiều cách phân biệt và có nhiều quan điểm khác nhau.
Có quan điểm cho rằng, lãnh đạo chỉ là một bộ phận, một chức năng của
công tác quản lý. Nghĩa là, quản lý bao trùm trong nó cả công tác lãnh đạo. Đối với
nhà quản lý, lãnh đạo chỉ là một trong những phẩm chất mà thôi.
Cũng có quan điểm lại cho rằng, "lãnh đạo" bao gồm trong nó cả "quản
lý", "quản lý" chỉ là một bộ phận hay một khía cạnh của "lãnh đạo".
Theo Từ điển tiếng Việt (1992): "lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và
tổ chức, đảng viên thực hiện" [42, 540]; còn "quản lý" - một là: trông coi và giữ gìn
theo những yêu cầu nhất định, hai là: tổ chức và điều khiển các hoạt động theo
những yêu cầu nhất định" [42, 789].
Nếu theo cách hiểu trong Từ điển tiếng Việt thì rõ ràng lãnh đạo bao trùm
lên quản lý và quản lý chẳng qua là thực thi một nhiệm vụ nào đó được cấp trên chỉ
đạo, được lãnh đạo. Nghĩa là, quản lý không chỉ là một bộ phận cấu thành công tác
lãnh đạo mà quản lý thực chất là sự triển khai cụ thể của lãnh đạo.
Trong luận văn này chúng tôi không có ý phân biệt giữa lãnh đạo và quản
lý. Hai thuật ngữ này được dùng đôi khi thay thế nhau trong các văn cảnh tương
thích không phân biệt.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước ở đây chúng tôi muốn nói tới những
người có chức vụ, quyền hạn, sử dụng chức vụ, quyền hạn mà Nhà nước giao cho
để thực hiện những nhiệm vụ của Nhà nước, quản lý, điều tiết xã hội. Khái niệm
cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước có liên quan tới khái niệm cán bộ công chức Nhà
nước.
Cán bộ công chức Nhà nước bao gồm những người trong biên chế, hoặc
được tuyển dụng, bổ nhiệm. Họ là những người hoặc được giao nhiệm vụ thường
xuyên, hoặc những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ hưởng
lương từ ngân sách Nhà nước và làm việc trong các nhiệm sở của Nhà nước, các tổ
chức chính trị, xã hội; những người là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp đang làm
việc trong các cơ quan quân đội, công an. Như vậy đội ngũ cán bộ, công chức
không phải chỉ có những người làm việc trong các cơ quan hành chính Nhà nước,
mà cả những người làm việc trong các cơ quan Nhà nước khác, miễn là họ có đặc
điểm chung: giữ một công việc thường xuyên, được xếp vào ngạch bậc cán bộ công
chức nhà nước và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Thực tiễn lãnh đạo, quản lý nhà nước trong thời gian qua đã khẳng định
rằng muốn công việc Nhà nước được thông suốt, thống nhất, kịp thời, linh hoạt
không thể không cần có một đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp có đủ phẩm
chất và năng lực.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước là những người có chức vụ, quyền hạn
để thực thi quyền lực của Nhà nước. Trong chế độ ta chức vụ quyền hạn, quyền lực
Nhà nước không phải là của bản thân người cán bộ, của bản thân Nhà nước. Quyền
lực Nhà nước vốn là quyền lực công cộng của xã hội, của nhân dân "trao cho", ủy
nhiệm cho. Những người cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước được nhân dân và xã
hội "ủy nhiệm" thay mặt xã hội, thay mặt nhân dân để quản lý xã hội.
Xã hội muốn vận động, phát triển đòi hỏi phải có sự tổ chức và quản lý chặt
chẽ. Xét về nguyên tắc và xu thế phát triển thì mọi thành viên trong xã hội đều tham
dự vào quá trình này. Đây là xu thế tất yếu trong chủ nghĩa xã hội. Nhưng trên thực
tế, thực hiện đầy đủ nguyên tắc này lại là một quá trình lịch sử lâu dài, đòi hỏi quần
chúng nhân dân phải có một mặt bằng dân trí cao và có một trình độ phát triển kinh
tế, văn hóa cao. Lúc đó việc quản lý nhà nước sẽ không còn là "chức năng đặc biệt
của lớp người đặc biệt" nữa. Trong tình hình hiện nay, nhất là ở nước ta còn rất
cần thiết phải có một bộ máy quản lý chuyên nghiệp bao gồm một đội ngũ cán bộ,
viên chức thành thạo chuyên môn nghiệp vụ quản lý, tận tâm tận lực phục vụ lợi ích
chung của nhân dân, của xã hội.
Như vậy cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước vẫn là một tầng lớp đặc biệt
được trao cho những quyền hạn và quyền lực nhất định, nhưng quyết họ không phải
là tầng lớp đặc biệt "có đặc quyền đặc lợi". Sử dụng chức quyền và việc lợi dụng,
lạm dụng chức quyền là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, là Nhà nước mà tất cả
quyền lực của nó đều thuộc về nhân dân. Khi nói về bản chất của Nhà nước ta Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới xây dựng là trách nhiệm của
dân, sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Quyền hành và lực
lượng đều ở dân" [34, 199].
Để thể hiện và thực hiện được bản chất của Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đòi hỏi người cán bộ Nhà nước phải là "công bộc", là "người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân".
Được nhân dân "ủy quyền", "trao cho" do đó Nhà nước, cũng như cán bộ
lãnh đạo, quản lý nhà nước là những người có chức vụ, quyền hạn, có quyền lực
trong xã hội và do đó cũng rất dễ dẫn tới sự chuyển hóa từ chỗ là công bộc, công cụ
của nhân dân trở thành "ông chủ" đứng lên trên xã hội đè đầu cưỡi cổ nhân dân;
rất dễ coi quyền lực được ủy quyền là quyền lực của mình và sử dụng nó nhằm
mục đích trục lợi. Do đó, đối với những cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước bên
cạnh những yêu cầu cần phải có năng lực để thực thi nhiệm vụ, còn đòi hỏi phải
có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, tận tâm vì tập thể, hết lòng hết sức vì nhân
dân, có tinh thần trách nhiệm cao nhất trước nhân dân.
Trong suốt quá trình cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã hết
sức quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ nói chung, cán bộ
lãnh đạo quản lý nhà nước nói riêng. Nói về tiêu chuẩn của người cán bộ, Đảng ta
luôn thấm nhuần quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: coi trọng cả đức và tài,
trong đó đức là gốc.
Hiện nay đất nước ta đang bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong bối cảnh có những thời cơ, thuận lợi mới, nhưng cũng có nhiều
khó khăn thách thức mới. Nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn và phức
tạp, đặt ra rất nhiều vấn đề cho công tác cán bộ, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng
được đội ngũ cán bộ ngang tầm, có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng,
năng lực trí tuệ và tổ chức thực tiễn, góp phần thực hiện thành công hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng được đội ngũ cán bộ đáp ứng những yêu cầu của nhiệm vụ
cách mạng mới. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3 (khóa VIII) đã
đề ra những tiêu chuẩn chung cho đội ngũ cán bộ là:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, có tinh thần phục vụ nhân dân, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có hiệu quả đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, không tham nhũng và kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, không cơ hội, gắn
bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, nắm vững quan điểm, đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn,
đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được
giao.
Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa, trước sự cám dỗ của tiền tài,
vật chất, trước những đòn tiến công hiểm độc của các thế lực thù địch, nhiều cán bộ
lơi lỏng tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu, bị thoái hóa biến chất về phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống... thì việc tiếp tục nhấn mạnh đức là gốc là hoàn toàn đúng đắn và
cần thiết.
Từ đại hội toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã khẳng định quan điểm, đường
lối của Đảng là lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Đạo đức cách mạng được hình
thành và phát triển trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
đồng thời kế thừa truyền thống đạo đức của dân tộc. Đó là sự kết hợp giữa bản chất
cách mạng của giai cấp vô sản, những tinh hoa của văn hóa, văn minh nhân loại và
những nét ưu việt trong truyền thống đạo đức của dân tộc. Sự kết hợp đó tạo nên
một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng Việt Nam. Muốn xây dựng được nền đạo
đức mới cho toàn xã hội thì trước hết đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước phải là
lực lượng tiên phong, là tấm gương cho toàn thể quần chúng nhân dân. Để làm tròn
nhiệm vụ vẻ vang của mình thì mỗi cán bộ phải không ngừng học tập, rèn luyện,
trau dồi phẩm chất cách mạng.
Đạo đức cách mạng không phải là những tiêu chuẩn trừu tượng, mà gắn với
yêu cầu đặc điểm của từng thời kỳ cách mạng. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, những yêu cầu đặt ra về phẩm chất đạo đức của người
cán bộ nói chung và của người cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước nói riêng là:
Thứ nhất, Có lòng trung thành với Tổ quốc, với Đảng, tin tưởng vào sự
nghiệp đổi mới của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phấn đấu tích cực
góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Phẩm chất này là cái gốc của người cán bộ nói chung và người cán bộ lãnh
đạo, quản lý nhà nước nói riêng, là chuẩn mực và giá trị cao nhất về đạo đức cách
mạng của người cán bộ, nó phải được trở thành tình cảm và ý chí cách mạng của
mỗi người cán bộ. Bởi vậy, sự tự rèn luyện để có được tình cảm tốt đẹp của bản
thân mỗi cán bộ là công việc của chính họ. Làm sao để trái tim mỗi người cán bộ
rung động trước niềm vui của dân tộc cũng như đau buồn trước cảnh nghèo nàn và
lạc hậu của quần chúng nhân dân, coi đó như niềm vui và nỗi buồn của chính bản
thân, gia đình mình. Phải có tình cảm cách mạng đó thì mới thôi thúc người cán bộ
hăng say làm việc, tìm cách hoàn thành nhiệm vụ. Không có sự say sưa thì không
thể có sự tìm tòi sáng tạo. Nhờ có ngọn lửa nhiệt tình cách mạng mà có sự say sưa
với công việc và sáng tạo trong hành động, tìm kiếm những phương án tối ưu cho
công việc. Bất luận vì nguyên cớ gì mà để ngọn lửa nhiệt tình, lý tưởng hoài bão tắt
đi, chắc chắn không thể có điều kiện để nâng cao và thâu tóm được tri thức. Giai
đoạn cách mạng hiện nay, hơn bao giờ hết cần phải có nhiệt tình cách mạng một
cách bền bỉ, lặng lẽ nhưng lại là sự đấu tranh quyết liệt với bản thân trước những
ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường, một cơ chế thường làm triệt tiêu nhiệt
tình cách mạng của mỗi người, làm tăng động lực cho chủ nghĩa cá nhân, chủ
nghĩa cơ hội, óc vị kỷ.
Nhiệt tình cách mạng của mỗi người cán bộ là biểu hiện của tính nhân văn
cao cả. Để bảo vệ con người chống lại những hành vi "phi nhân tính", người cán bộ
không ngần ngại chấp nhận sự hy sinh. Tình cảm và ý chí cách mạng tạo cho người
cán bộ lãnh đạo dũng cảm dám nhìn thẳng vào sự thật, đấu tranh bảo vệ cái đúng,
chống lại cái sai không vì lợi ích, địa vị cá nhân hoặc do sự áp đặt cá nhân độc đoán
nào chi phối.
Thứ hai, Cán bộ phải trau dồi chủ nghĩa tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân,
chủ nghĩa quan liêu và thói đặc quyền, đặc lợi.
Chủ nghĩa tập thể đòi hỏi mọi người gắn bó đoàn kết để tạo nên sức mạnh
to lớn của cách mạng. Sự đoàn kết gắn bó chặt chẽ đó phải đi liền với sự tôn trọng
cá nhân, không lấy danh tập thể coi thường cá nhân, sáng kiến của cá nhân, xâm
phạm nhân cách cá nhân... Chủ nghĩa tập thể phải tạo điều kiện thuận lợi đúng
hướng cho sự phát triển tiến bộ của cá nhân, cho sự tự do sáng tạo cũng như phát
triển cá tính, nhân cách phong phú của mỗi con người.
Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể
phải được kết hợp và giải quyết một cách hài hòa giữa quyền lợi và nghĩa vụ, lợi
ích cá nhân và lợi ích tập thể theo phương châm "Mỗi người vì mọi người, mọi
người vì mỗi người". Phải kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân, vì nó là thứ bệnh
rất nguy hiểm đẻ ra hàng loạt những căn bệnh khác, như tham ô, hối lộ, hủ hóa, đặc
quyền, đặc lợi, lãng phí của công, công thần địa vị, kéo bè, kéo cách, tự do vô tổ
chức vô kỷ luật, cơ hội, xu nịnh, bợ đỡ, quan liêu, với rất nhiều biểu hiện xấu xa tệ
hại như mệnh lệnh, cửa quyền, giấy tờ, quan cách, hách dịch, gia trưởng, độc đoán
chuyên quyền, ức hiếp quần chúng, đẳng cấp, xa quần chúng, xa thực tế, vô trách
nhiệm, bảo thủ, trì trệ...
Chủ nghĩa cá nhân và bệnh quan liêu là kẻ địch ở bên trong con người "một
thứ giặc trong lòng chúng ta". Nó thường ẩn náu kín đáo, hơn nữa còn được bao che
bởi chính chúng ta. Do đó, yêu cầu mọi người phải kiên quyết chống lại, phải quét
sạch nó đi. Muốn củng cố nâng cao phẩm chất đạo đức cho cán bộ phải chống chủ
nghĩa cá nhân, tham nhũng, quan liêu. Đây là công việc vừa mang tính cấp bách
vừa mang tính cơ bản trong chiến lược xây dựng và nâng cao chất lượng tổ chức
Đảng của mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người giữ cương vị trọng trách
trong hệ thống chính trị, trong Nhà nước.
Thứ ba, Cán bộ phải gương mẫu, trung thực trong lao động, cần kiệm, liêm
chính, chí công, vô tư.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải: cần, kiệm,
liêm, chính, chí công tô tư. "Cần" là cần cù trong lao động, biết khuyến khích và
giúp đỡ người khác làm tốt công việc. "Cần" trong giai đoạn hiện nay còn phải là
tích cực, chủ động, sáng tạo trong công việc được giao, mang lại hiệu quả cao trong
công việc mình đảm nhiệm. Tính hiệu quả là yêu cầu bức thiết trong điều kiện kinh
tế thị trường, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước. Cho nên, "cần"
trong giai đoạn hiện nay là yếu tố không thể thiếu được đối với người cán bộ lãnh
đạo, quản lý nhà nước.
"Kiệm" có nghĩa là không hoang phí thời gian, của cải của mình và của
nhân dân. Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm trong sản xuất để mang lại hiệu quả sản
xuất cao. Tiết kiệm trong đời sống, trong sinh hoạt, tránh xa hoa, lãng phí của cải
của cá nhân, gia đình và xã hội. Những điều đó vẫn giữ nguyên giá trị và vai trò
trong điều chỉnh hành vi của cán bộ, đảng viên hiện nay. Tuy nhiên, cũng phải có
sự đổi mới nhận thức, không nên hiểu chữ "kiệm" với nghĩa hạn hẹp, đòi hỏi cán bộ
quản lý phải "thắt lưng, buộc bụng", "nắm cơm với quả cà" để xây dựng CNXH,
cán bộ không được mua sắm và sử dụng những phương tiện hiện đại... Cái chúng ta
cần đấu tranh, giáo dục đối với cán bộ là lối sống gấp, sự xa xỉ, lãng phí chạy theo
thị hiếu không lành mạnh về văn hóa và đạo đức.
"Liêm" là không tham ô, tôn trọng tài sản của công dân và của nhân dân.
Chúng ta muốn xây dựng thành công CNXH thì trước hết đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý nhà nước phải là tấm gương về "liêm". Cán bộ lãnh đạo, quản lý không
nghiêm, vi phạm các thói xấu như tham ô, móc ngoặc, hối lộ, tư lợi bất minh... thì
không mang lại được niềm tin cho quần chúng, làm suy yếu xã hội. Đây chính là
một trong những vấn đề nhức nhối hiện nay ở nước ta mà Chính phủ xem là một tệ
nạn xã hội. Nhiều cán bộ lãnh đạo quản lý trở thành tội phạm chỉ vì danh lợi bất
minh, bất "liêm".
"Chính" là việc phải thì dù nhỏ cũng làm, việc trái thì dù nhỏ cũng tránh.
Tức là đòi hỏi cán bộ phải có tính thẳng thắn, trung thực, làm theo lẽ phải, đấu
tranh chống sự giả dối, không trung thực, cơ hội, lợi dụng chức quyền làm việc bất
minh. Đó chính là một trong những phẩm chất tư cách tốt của người cán bộ lãnh
đạo quản lý nhà nước. Ngày nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, cán bộ lãnh đạo
quản lý nhà nước càng cần phải được giáo dục, rèn luyện phẩm chất đó.
"Chí công vô tư" trong điều kiện kinh tế thị trường được hiểu với nghĩa
quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người bao giờ cũng gắn với xã hội, không tách rời,
cô lập một cách tuyệt đối khỏi lợi ích xã hội. Hoạt động của cá nhân phải trên cơ sở
nền tảng của xã hội, vì xã hội trong đó có quyền lợi trực tiếp của bản thân mình.
Trong từng nhiệm vụ cụ thể, mọi người phải lấy lợi ích chung của tập thể, của quốc
gia, của dân tộc đặt lên trên lợi ích cá nhân mình. Cán bộ lãnh đạo quản lý không
được vì quyền lợi (nhất là quyền lợi không chính đáng) của riêng bản thân mình mà
vi phạm tới lợi ích tập thể, lợi ích quốc gia. Chí công vô tư với nghĩa như vậy vẫn
phải là nội dung giáo dục và xây dựng đạo đức cho cán bộ lãnh đạo quản lý nhà
nước ở nước ta hiện nay
Thực tế cho thấy, sự hiểu biết kết hợp với nhiệt tình cách mạng là cơ sở,
điều kiện tạo nên hành động đúng đắn của người cán bộ. Chính bằng hành động,
bằng những việc làm cụ thể, bằng tấm gương của mình về cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư cán bộ sẽ thuyết phục, quy tụ, tổ chức được mọi người xung quanh
thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Sẽ là giả dối và lý
thuyết suông khi cán bộ "nói một đằng làm một nẻo", nói những điều viển vông
trừu tượng mà không chú ý giải quyết những công việc đời thường. Có người
thường dạy dỗ người khác những điều to tát nhưng khi phải ủng hộ lẽ phải, bảo vệ
lợi ích chân chính cho một con người cụ thể, mà việc đó đụng chạm đến lợi ích, địa
vị của mình thì họ lại né tránh, làm như vậy họ tự đánh mất mình và làm mất đi
lòng tin và sự tín nhiệm của mọi người. Người Việt Nam giàu tình cảm và rất thực
tế, họ coi một tấm gương sáng của người cán bộ, có giá trị gấp trăm, gấp nghìn lần
lời lẽ tuyên truyền đẹp đẽ nhưng lại không thực tế. Phẩm chất đạo đức có sức thuyết
phục nhất của người cán bộ hiện nay là tấm gương, là hành vi gương mẫu, là lòng
trung thực của họ. Khi người cán bộ không còn trong sáng, phẩm chất đạo đức giảm
sút, hành động không xuất phát từ trách nhiệm phục vụ nhân dân, mà đặt quyền lợi
của cá nhân lên trên hết, thì tất yếu dẫn đến hành vi tham nhũng, vụ lợi, vị kỷ, vô
trách nhiệm...
Thứ tư, Cán bộ có tinh thần nỗ lực học tập, cần cù, có chí tiến thủ. Công
cuộc đổi mới của đất nước ta là sự nghiệp to lớn và khó khăn, đòi hỏi mọi cán bộ
phải học hỏi nắm vững kiến thức, mà trước hết là kiến thức trong lĩnh vực hoạt
động của mình, khắc phục được chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm.
Đảng ta coi việc nỗ lực học tập, cầu tiến bộ của cán bộ cũng là một phẩm chất đạo
đức cách mạng. Đảng ta cho rằng: "Học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán
bộ, đảng viên và phải được quy định thành chế độ. Lười học tập, lười suy nghĩ,
không thường xuyên tiếp nhận những thông tin mới, những hiểu biết mới, cũng là
biểu hiện của sự thoái hóa" [5, 141]. Nếu người cán bộ ngại học tập, thỏa mãn với
những trí thức đã có thì sẽ dẫn đến sự lạc hậu, không tiên phong về trí tuệ, do đó
không đủ khả năng để lãnh đạo quần chúng nhân dân vượt qua những thử thách
mới.
Thứ năm, Người cán bộ phải có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, có ý thức tự
phê bình và phê bình, giữ gìn sự thống nhất trong Đảng và liên hệ mật thiết với
nhân dân, biết lắng nghe những ý kiến của nhân dân. Người cán bộ có đạo đức cách
mạng là người có ý thức tổ chức kỷ luật cao, không độc đoán cá nhân, tự cho phép
mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng ngoài kỷ luật. ý thức tổ chức kỷ luật
của người cán bộ phải được thể hiện cả trong suy nghĩ lẫn trong hành động, cả
trong cách nói năng lẫn trong giao tiếp ứng xử hàng ngày; đồng thời phải được thể
hiện ở ý thức tự phê bình và phê bình cao. Có như vậy mới đảm bảo cho Đảng
không những thống nhất về tư tưởng, quan điểm mà còn thống nhất về tổ chức và
hành động, làm cho toàn Đảng là một khối thống nhất. Trong điều kiện đổi mới
hiện nay, Đảng đòi hỏi người cán bộ phải nêu cao tinh thần sáng tạo, song điều đó
không có nghĩa là vượt qua các nguyên tắc, vi phạm các quy chế của Đảng. Cán bộ
phải chấp hành nghiêm các chính sách, pháp luật của Nhà nước, tôn trọng các quy
định của cơ quan Nhà nước, gắn bó và quan hệ mật thiết với quần chúng nhân dân,
khéo léo tổ chức và lãnh đạo nhân dân; thành tâm học hỏi quần chúng nhân dân,
kiên trì dựa vào quần chúng, giáo dục và phát động quần chúng thực hiện mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phải luôn chăm lo đến đời sống của quần
chúng.
Thứ sáu, Phẩm chất đạo đức của người cán bộ còn được biểu hiện ở lòng
trung thành với quyền lợi của giai cấp công nhân quốc tế và phong trào cách mạng
thế giới.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới; cách mạng
của các nước có ảnh hưởng, tác động lẫn nhau trong mối quan hệ tương hỗ, các
nước đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi và tôn trọng các
điều ước quốc tế.
Ngày nay, trước những biến động phức tạp của tình hình quốc tế, thì sự
trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân và phong trào cách mạng
thế giới được coi như là một phẩm chất cao quý của người cán bộ cách mạng. Các
cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước phải thể hiện được phẩm chất đạo đức đó bằng
hành động cách mạng như phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, tăng
cường đoàn kết với phong trào đấu tranh cách mạng thế giới, làm thất bại âm mưu
"diễn biến hòa bình" của kẻ thù, nhằm góp phần đấu tranh vì mục tiêu của thời đại
hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tóm lại, trong tình hình hiện nay, việc tu dưỡng đạo đức phải là việc là
thường xuyên của người cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước. Việc rèn luyện đạo đức
trong điều kiện thuận lợi thường phức tạp hơn lúc khó khăn; lúc sung sướng khó
hơn lúc gian khổ, trong hòa bình khó hơn trong chiến tranh; đặc biệt trong tình hình
hiện nay khi chúng ta thực hiện xây dựng nền kinh tế thị trường thì việc rèn luyện
nâng cao đạo đức của người cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước càng khó khăn hơn
nhiều. Vì vậy không ai được chủ quan cho rằng đạo đức của mình đã đủ, cũng như
tự mãn nghĩ rằng hiểu biết của mình đã có thừa, mà mỗi cán bộ phải không ngừng
học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức, bởi lẽ như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra:
"Ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong".
1.2. Thực trạng đạo đức của cán bộ lãnh đạo, Quản lý nhà nước và
những nguyên nhân
Sau mười năm năm đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước ta đã vượt qua bao nhiêu khó khăn thử thách để
lãnh đạo quản lý đất nước vững bước tiến lên. Số đông cán bộ lãnh đạo quản lý
nước ta được rèn luyện trong quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài gian khổ có bản
lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu con đường Đảng, Bác Hồ và nhân dân
ta đã lựa chọn, hăng hái thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của
Đảng và Nhà nước. Trước những khó khăn do khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất
nước, trước sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, trước những âm
mưu "diễn biến hòa bình" rất thâm độc của các thế lực thù địch, phần đông cán bộ
vẫn vững vàng, năng động, sáng tạo, góp phần đưa đất nước vượt qua khủng hoảng
và tiếp tục tiến lên. Chuyển từ môi trường cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp
sang môi trường mới của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường mở cửa với bên ngoài, đó là một sự thay đổi lớn. Hoạt động trong
môi trường hết sức phức tạp và mới mẻ, số đông cán bộ nước ta luôn trau dồi và giữ
vững được phẩm chất và đạo đức cách mạng, yêu nước, yêu CNXH, chí công vô tư,
có lối sống lành mạnh, giữ gìn được phẩm chất người cán bộ cách mạng. Điều đó đã
góp phần vô cùng to lớn và quan trọng cho sự thành công của việc phát triển kinh tế
- xã hội, ổn định chính trị, giữ vững an ninh quốc phòng, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân.
Tuy nhiên, làm thế nào để xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý có đủ phẩm chất và năng lực ngang tầm với nhiệm vụ mới còn là công việc
hết sức phức tạp và nặng nề của Đảng ta. Trước những biến động phức tạp trên thế
giới cũng như trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước ta còn nhiều điều bất cập. Họ là những
người năng động, cố gắng để thích ứng nhanh với cơ chế mới, nhiệm vụ cách mạng
mới. Nhưng kinh nghiệm còn ít, năng lực còn hạn chế, tổ chức kinh doanh còn kém
hiệu quả, quan hệ với nước ngoài còn nhiều sơ hở mất cảnh giác. Không ít cán bộ
chưa quán triệt đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng, nặng về kinh doanh đơn
thuần, một số tham nhũng thoái hóa, biến chất, xa hoa, lãng phí của công, làm giàu
phi pháp. Sự sa sút về đạo đức của đội ngũ cán bộ này thể hiện ở chủ nghĩa cá nhân
phát triển mạnh, ở tính tự tư tự lợi, ở lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền; ở tệ
tham nhũng quyền lực... sự sa sút về phẩm chất đạo đức đó xảy ra với cán bộ lãnh
đạo quản lý ở tất cả các cấp, từ cơ sở đến trung ương, ở tất cả các ngành từ kinh tế
đến hành chính sự nghiệp, từ các tổ chức đoàn thể tới các đơn vị lực lượng vũ trang.
Đánh giá về tình trạng này tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng ta đã chỉ
rõ: tình trạng cán bộ, đảng viên vi phạm các nguyên tắc quản lý hoặc lợi dụng
những sơ hở trong cơ chế quản lý lấy cắp của công, ăn hối lộ, buôn lậu làm giàu bất
chính, vi phạm đạo đức lối sống có chiều hướng tăng lên, nhất là cán bộ hoạt động
trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, quản lý nhà nước. Thậm chí cho đến nay, như
đồng chí Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã chỉ ra, "những hiện tượng suy thoái về đạo
đức và lối sống, lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính,
tham vọng cá nhân, kèn cựa địa vị... có những mặt tiếp tục phát triển, gây hậu quả
nghiêm trọng" [8, 44-45].
Chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý điều tiết của Nhà nước đã kéo theo những biến đổi tương ứng của đạo đức
của người cán bộ nói chung và người cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước nói riêng.
Kinh tế thị trường là "mảnh đất màu mỡ" cho chủ nghĩa cá nhân nảy sinh, phát
triển. Chủ nghĩa cá nhân mâu thuẫn với chủ nghĩa tập thể, là kẻ thù của chủ nghĩa
tập thể, mà chủ nghĩa tập thể là chuẩn mực giá trị của con người đích thực, là một
trong những nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, đạo đức của người cán bộ
lãnh đạo quản lý nhà nước trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vị kỷ cực đoan đẩy người cán bộ lãnh đạo
quản lý nhà nước rơi vào tình trạng thoái hóa biến chất, lợi dụng chức quyền mưu
lợi ích riêng, dùng quyền lực mưu tư lợi. Thực ra kinh tế thị trường không phải là
nguyên nhân duy nhất gây ra tình trạng này, nhưng phải thấy rằng kinh tế thị
trường, nhất là trong thời kỳ mới chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu,
bao cấp sang, tức là khi kinh tế thị trường mới được xây dựng chưa hoàn chỉnh, còn
mang nặng tính tự phát lại được vận hành trong một nền hành chính Nhà nước cồng
kềnh, nặng nề, chứa đựng nhiều qui định, nhiều thủ tục gây phiền hà chưa được cải
cách một cách cơ bản đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình trạng trên. Nếu như trong
cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp những hiện tượng lợi dụng chức quyền,
lợi dụng địa vị trong quản lý để mưu lợi ích riêng chỉ là những hiện tượng cá biệt,
mức độ và quy mô còn hạn chế, thì giai đoạn đầu của kinh tế thị trường như thực tế
mấy năm qua đã chỉ ra - tình trạng này trở nên nghiêm trọng và phổ biến hơn.
Khi đánh giá về tình trạng này, tại Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành
Trung ương (khóa VIII) đã chỉ ra rằng, do ảnh hưởng của kinh tế thị trường "sự suy
thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có
cả cán bộ có chức, quyền. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước tiêu xài phung
phí, ăn chơi sa đọa không được ngăn chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa
quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ địa phương, bè phái mất đoàn
kết khá phổ biến" [7, 46-47].
Kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang được vận hành dựa trên nền
hành chính còn nhiều yếu tố quan liêu, thiếu dân chủ và yếu kém đã tạo điều kiện
thuận lợi cho những tiêu cực phát triển trong cán bộ. Sự thừa nhận tồn tại của
nhiều hình thức sở hữu, xây dựng kinh tế nhiều thành phần đã tạo nên sự đa dạng,
phong phú trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tham gia các quan hệ kinh tế,
ngoài các doanh nghiệp Nhà nước, các hợp tác xã còn có nhiều doanh nghiệp tư
nhân, công ty, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Vì vậy mọi doanh nghiệp
đều tận dụng mọi tiềm năng, cơ hội, sử dụng các biện pháp hợp pháp để kinh doanh
có hiệu quả, có lãi. Tuy nhiên, có không ít các chủ doanh nghiệp hoạt động bất chấp
pháp luật và đạo lý, dùng mọi thủ đoạn phi pháp để tranh giành lợi nhuận. Họ đã
dùng tiền để gạ gẫm, mua chuộc và hạ gục các cán bộ có chức, có quyền trong bộ
máy Nhà nước. Những người cán bộ này không cưỡng lại được trước sự cám dỗ của
những món hối lộ có giá trị gấp hàng chục, hàng trăm lần đồng lương tương đối
thấp của họ, đã luồn qua những lỗ hổng, lách qua sự chưa rõ ràng của pháp luật, lợi
dụng những yếu kém trong công tác quản lý và sử dụng những quyền hạn được giao
để trục lợi. Những người cán bộ đó đã trở thành "trợ thủ đắc lực" tiếp tay cho
những kẻ làm ăn bất lương, giúp cho chúng có "ưu thế" trong cạnh tranh với các
đơn vị kinh doanh lành mạnh hợp pháp. Chuyển sang cơ chế thị trường, hệ thống
chỉ tiêu pháp lệnh của nền kinh tế kế hoạch hóa quan liêu dần dần bị loại bỏ; quản
lý nhà nước tách dần khỏi quản lý kinh doanh, quyền chủ động của các doanh
nghiệp Nhà nước được mở rộng. Các quyền tự chủ về sản xuất, kinh doanh, tài
chính, lao động... của doanh nghiệp có phần được nới rộng, nhưng trách nhiệm đại
diện chủ sở hữu đối với vốn, tài sản của Nhà nước trong các doanh nghiệp Nhà
nước thì còn phân tán và chưa rõ ràng, về cơ bản vẫn là trách nhiệm tập thể, cơ
chế "xin, cho" vẫn tồn tại. Các doanh nghiệp nhà nước về cơ bản vẫn được vận
hành trong môi trường pháp lý lỏng lẻo, nhiều sơ hở lại thiếu sự kiểm tra, thanh tra
thường xuyên, chặt chẽ. Những hạn chế, thiếu sót đó trong việc quản lý doanh
nghiệp nhà nước cũng đã tạo điều kiện cho nhiều cán bộ (như giám đốc, kế toán...)
tham ô, bòn rút tài sản công. Của cải của toàn dân được bảo vệ, giữ gìn trong
một hàng rào pháp lý như vậy sẽ dễ dàng tạo điều kiện cho những cán bộ tham
lam, xà xẻo, đục khoét.
Một số chính sách quản lý về đất đai, nhà ở... hiện nay vừa theo cơ chế thị
trường lại vừa duy trì theo chế độ bao cấp; một số cơ quan, đơn vị, tổ chức vừa có
nhiệm vụ quản lý, hoạt động công ích, lại vừa kinh doanh, theo đuổi mục đích lợi
nhuận, vừa được ngành dọc cấp trên cấp kinh phí và lại được sự hỗ trợ của chính
quyền địa phương... Tình trạng đan xen, trộn lẫn giữa hai cơ chế như vậy đã tạo ra
sơ hở và điều kiện cho nhiều cán bộ tham nhũng. Nhiều người dân, tổ chức, nhà đầu
tư do nhu cầu sinh sống, làm ăn, công việc kinh doanh phải đến "gõ cửa" các cơ
quan nhà nước. Trước sự rối rắm của thủ tục hành chính nhiều tầng, lắm nấc, lại
gặp phải thái độ vô trách nhiệm, tệ cửa quyền, hạch sách, vòi vĩnh của không ít cán
bộ nhà nước họ đã phải dùng cách biếu xén để được giải quyết nhanh nhất các yêu
cầu, quyền lợi của mình. Cũng không ít người cho rằng với thể chế hành chính như
hiện nay thì quà biếu là con đường ngắn nhất để cá nhân, tổ chức có thể nhận được,
thực hiện được các quyền và lợi ích của mình.
Trước sự tác động phức tạp đó một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
thiếu tu dưỡng đạo đức bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí,
kém tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức, lối sống. "Một số thoái hóa về chính trị, tuy
rất ít nhưng hoạt động của họ gây hậu quả rất xấu" [5, 137].
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan nêu trên, sự yếu kém về đạo đức
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý còn bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ quan.
Một là, Sự thiếu ý thức tu dưỡng phẩm chất đạo đức, tư cách người cán
bộ cách mạng của chính các cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "Đạo đức cách mạng không phải trên
trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng
cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong" [35, 293]. Đạo
đức cách mạng là sự tự nguyện, tự giác phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân với sự
thôi thúc nội tâm của mỗi người. Do đó phương châm cơ bản là: tự tu dưỡng, tự rèn
luyện là chính. Muốn có đạo đức cách mạng trong sáng trước hết và cái quyết định
nhất là phải thắng "kẻ thù bên trong" của mỗi người, đó là chủ nghĩa cá nhân. Do
đó, điều cốt yếu là mỗi cán bộ phải tự giác nỗ lực rèn luyện, khắc phục chủ nghĩa cá
nhân trong chính mình.
Người biết tự tu dưỡng rèn luyện thì trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng giữ
vững được phẩm chất của mình. Trong cách mạng dân tộc dân chủ trước đây đã có
biết bao tấm gương về đạo đức cách mạng như vậy. Hiện nay trước những sự cám
dỗ của tiền tài, vật chất, trước những đòn tấn công hiểm độc của các thế lực thù
địch nhiều cán bộ vẫn giữ vững phẩm chất đạo đức, vẫn là tấm gương sáng ngời về
đạo đức cách mạng.
Do đó nói về nguyên nhân của sự suy thoái đạo đức ở một bộ phận cán bộ,
điều không thể không nói tới nguyên nhân của sự thiếu tu dưỡng, tự rèn luyện.
Nhiều cán bộ quản lý do thiếu tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức nên đã để cho những
nhu cầu hợp lý trở thành những đòi hỏi phi lý; những nhu cầu vật chất chính đáng
trở thành những ham muốn quá đáng, thành mục đích, thành dục vọng của cuộc
sống. Vì vậy họ đã trở nên thoái hóa, biến chất, sa đọa về đạo đức, về lối sống.
Do thiếu rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách mạng nên một số cán bộ quản lý
đã để cho chủ nghĩa cá nhân, tính tự tư, tự lợi, lòng tham sai khiến nhân cách. Chủ
nghĩa cá nhân, tính tự tư, tự lợi và lòng tham đã biện hộ cho họ trong việc lợi dụng
chức quyền, lợi dụng kẽ hở của pháp luật, chính sách để làm giàu bất chính, làm ăn
phi pháp, đục khoét tài sản của Nhà nước và của nhân dân.
Do thiếu rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách mạng họ đã sa ngã trước sự cám
dỗ của tiền tài, vật chất trong nền kinh tế thị trường, trước những đòn tấn công hiểm
độc của các thế lực phản động trở thành những người sa đọa về đạo đức, thậm chí
trở thành những kẻ tiếp tay cho kẻ thù phá hoại Đảng ta từ bên trong.
Hai là, coi nhẹ giáo dục và xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo quản lý:
Bước vào thời kỳ đổi mới, một mặt do phải tập trung toàn bộ sức lực để ổn
định và phát triển kinh tế đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế
- xã hội, mặt khác do ảnh hưởng của kinh tế thị trường đã xuất hiện những tư tưởng
coi trọng lợi ích vật chất, xem nhẹ giáo dục lý tưởng, nhấn mạnh một chiều năng
lực, xem nhẹ đạo đức, nên đã xuất hiện khuynh hướng coi nhẹ công tác giáo dục
đạo đức, nhất là công tác giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý.
Khi nói về tình trạng này trong những năm đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "Đảng còn chưa chú ý đúng mức vấn đề giáo dục,
rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức đối với cán bộ, đảng viên" [5, 137].
Quả thật kiểm điểm lại những năm đổi mới vừa qua, có lúc chúng ta còn coi
nhẹ, nếu không muốn nói là đã buông lỏng công tác giáo dục đạo đức truyền thống,
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên nói chung, cho cán bộ lãnh đạo quản lý
nói riêng. Đã xuất hiện khuynh hướng sai lầm cho rằng, chỉ cần giáo dục đạo đức
cách mạng cho quần chúng, giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ trong gia
đình, nhà trường và trong xã hội, còn đối với những cán bộ lãnh đạo quản lý thì
không cần. Đã là cán bộ thì đã là "vừa hồng, vừa chuyên" rồi cần gì phải giáo dục
đạo đức nữa. Đó là một lệch lạc, bởi lẽ một mặt công tác tuyển chọn, bố trí đề bạt
cán bộ không phải lúc nào cũng đảm bảo không để "lọt lưới" những kẻ cơ hội; mặt
khác, cán bộ cũng là con người, không phải thần thánh vì vậy họ cũng không hoàn
toàn "miễn dịch" trước những ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường, của thời kỳ
mở cửa giao lưu làm ăn với cả những nước tư bản.
Hiện tượng chưa chú ý đúng mức vấn đề giáo dục đạo đức còn bắt nguồn từ
quan niệm giản đơn cho rằng: cứ phát triển kinh tế thì trình độ đạo đức xã hội nói
chung và của người cán bộ quản lý nói riêng sẽ tự được nâng lên. Từ đó cho rằng
trước mắt cứ làm tốt công tác kinh tế, phát triển kinh tế, sau đó sẽ tính đến vấn đề
giáo dục đạo đức v.v...
Do những quan niệm sai lầm và lệch lạc nêu trên nên công tác giáo dục đạo
đức truyền thống, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo quản lý còn đơn
điệu về hình thức, thiếu tính thiết thực và thực tế về nội dung. Chính vì vậy có giáo
dục đạo đức thì cũng mang tính hình thức, tính thuyết phục và hiệu quả hết sức
thấp. Tình trạng suy thoái phẩm chất đạo đức, tình trạng xa rời đạo đức cách mạng,
đạo đức truyền thống dân tộc của một số không ít cán bộ lãnh đạo quản lý là hậu
quả thật đau lòng của việc coi nhẹ công tác giáo dục đạo đức cho đội ngũ này.
Ba là, Việc buông lỏng kiểm tra, giám sát, quản lý của các cấp, các
ngành đối với cán bộ, đối với công tác cán bộ, cũng như việc xử lý những hiện
tượng cán bộ thoái hóa biến chất chưa kịp thời và nghiêm minh.
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật... đối với cán bộ nói chung, cán bộ lãnh
đạo quản lý nhà nước nói riêng trong thời gian qua có phần bị buông lỏng: thiếu
chương trình kế hoạch rõ ràng cụ thể, cán bộ thanh tra các cấp chưa được đào tạo,
bồi dưỡng kỹ càng. Do đó công tác kiểm tra ít có hiệu quả: những hành vi vi phạm
đạo đức, vi phạm pháp luật của cán bộ quản lý chậm được phát hiện. Vả lại nếu có
được phát hiện thì xử lý không kịp thời, thiếu nghiêm minh, có khi chỉ xử lý xuê
xoa cho qua chuyện.
Sự phân hóa giàu nghèo diễn ra ngay trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, số
giàu lên không bình thường đang tăng nhanh ở không ít địa phương, đơn vị, lợi ích
cá nhân lấn át lợi ích tập thể, lợi ích cục bộ lấn át lợi ích toàn cục. Đã có nhiều cán
bộ, đảng viên vừa làm việc cho cơ quan Nhà nước vừa xin vào làm việc cho các cơ
quan đại diện và công ty liên doanh với nước ngoài, hoặc xin thôi việc Nhà nước để
làm trong các cơ sở kinh tế của người nước ngoài và các công ty. Điều đáng chú ý
là những biểu hiện tiêu cực đang có chiều hướng phát triển, làm xói mòn bản chất
cách mạng của đội ngũ cán bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng, suy giảm niềm tin
của nhân dân đối với chế độ. Nhiều cán bộ lãnh đạo không nghiêm túc tự phê bình
và phê bình tiếp thu ý kiến phê bình, tính chiến đấu kém. Có tình trạng nể nang, né
tránh, không nói thẳng, nói thật với nhau, bằng mặt không bằng lòng. Hội nghị lần
thứ 3 Ban chấp hành Trung ương (khóa VIII) nhận định "nhìn chung đội ngũ cán bộ
hiện nay xét về chất lượng, số lượng và cơ cấu chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Nguyên Tổng Bí thư Đổ Mười nhấn
mạnh: Uy tín của không ít cán bộ ngày càng giảm sút, không còn là công bộc của
dân, thậm chí còn trù dập ức hiếp dân. Nếu để kéo dài và phát triển tình hình này thì
sẽ dẫn đến nguy cơ không lường hết được.
Ngoài những điểm chung ở trên mỗi loại cán bộ còn có những điểm yếu
riêng. Một số cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước có biểu hiện chủ quan, thiếu dân
chủ. Cán bộ chính quyền ở một số cơ sở tỏ ra quan liêu, mất dân chủ với dân, không
nghiêm túc lắng nghe và tiếp thu ý kiến phê bình của dân. Nhiều cán bộ không còn
giữ được phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người đảng viên Cộng sản, chạy theo lợi
ích cá nhân, bất chấp những nguyên tắc, quy định của Đảng và Nhà nước. Một số
cán bộ lãnh đạo quản lý ở xã tham nhũng đất đai, kinh phí do nhân dân đóng, một
số cán bộ giàu lên nhanh chóng nhờ làm ăn bất chính. Nhiều vụ việc đã quá rõ ràng
nhưng không được giải quyết kịp thời, mới chỉ được ghi nhận hoặc là giải quyết nội
bộ. Một bộ phận lãnh đạo lực lượng vũ trang chủ yếu là trong lực lượng làm kinh tế
giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ pháp luật cũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề
nghiệp để buôn lậu, sách nhiễu, gây hậu quả nghiêm trọng. Cán bộ quản lý kinh
doanh không ít người còn chưa quán triệt đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng,
nặng về kinh doanh đơn thuần, một số tham nhũng, thoái hóa, biến chất, xa hoa lãng
phí của công, làm giàu bất hợp pháp. Tệ tham nhũng vẫn tiếp tục xảy ra trên các
lĩnh vực. Những năm trước kia tham nhũng thường xảy ra ở các lĩnh vực kinh tế
như tài chính, ngân hàng, thương mại, vật tư ở các đơn vị có nhiệm vụ sản xuất,
buôn bán như xí nghiệp, nhà máy, công ty, hợp tác xã, cửa hàng... Hiện nay tham
nhũng, nhận hối lộ đã lây lan sang các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thương mại,
hoạt động nhân đạo, từ thiện, an ninh... có kẻ còn lợi dụng hài cốt của liệt sĩ để
tham ô, có những người ăn chặn tiền viện trợ cho những trẻ em tàn tật, không nơi
nương tựa...
Tình trạng tham nhũng ngày càng lớn và càng tinh vi, nếu như trước kia
tham nhũng chỉ một vài cá nhân lẻ tẻ, tiến hành với cách thức đơn giản như giám
đốc thông đồng với kế toán tham ô; công nhân lái máy cày, chạy máy bơm nước vòi
vĩnh con gà, vài chục cân gạo của HTX... thì hiện nay tham nhũng đã cấu kết thành
từng dây, liên kết từ địa phương đến trung ương, từ trong nước ra nước ngoài. Một
số kẻ "chân gỗ", "cò mồi" bên ngoài cấu kết với những cán bộ trong cơ quan Nhà
nước, lợi dụng mọi kẻ hở, sự mập mờ của cơ chế, chính sách, pháp luật, thói vô
trách nhiệm và sự buông lỏng kiểm tra của người quản lý để thực hiện các phi vụ
thu lợi hàng trăm triệu đồng, hàng chục nghìn đôla Mỹ. Kẻ tham nhũng sử dụng quà
biếu, hoa hồng, tiền thưởng, hợp đồng... để đạt mục đích vụ lợi của mình. Ngoài
chiếc phong bì mỏng dần (nhưng giá trị lại tăng) nhiều người dùng đến các chuyến
tham quan, du lịch trong và ngoài nước, đi học, chữa bệnh... để hối lộ.
Tham nhũng cũng không loại trừ các cơ quan bảo vệ pháp luật, tài chính,
ngân hàng... Một số cán bộ tư pháp như điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán đã
dùng ngay quyền tố tụng được giao để tham nhũng, cảnh sát giao thông ngang
nhiên nhận hối lộ của tài xế như một thứ lộ phí đương nhiên, điều đáng chú ý là trên
lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tình trạng phổ biến là các cán bộ ngân hàng vi phạm
các nguyên tắc tín dụng, cho vay không thế chấp hoặc thế chấp không đúng, bảo vệ
cho các doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng một cách tùy tiện, không kiểm tra tình
trạng sử dụng vốn nên đã dẫn đến tình trạng nhiều đơn vị vay ngân hàng mất khả
năng thanh toán đến hàng chục tỷ đồng, trong đó có một số vụ lừa đảo chiếm đoạt
tài sản Nhà nước. Trong các doanh nghiệp Nhà nước xảy ra nhiều tiêu cực, tham
nhũng gây thiệt hại rất nghiêm trọng tài sản của Nhà nước, đáng chú ý là một số cơ
quan, đơn vị cố ý làm trái pháp luật trốn thuế, cấu kết với tư nhân rút tiền của Nhà
nước hoặc cấu kết với nhau tham ô, đưa và nhận hối lộ gây thiệt hại rất lớn đến tài
sản quốc gia.
Trong phạm vi cả nước, từ năm 1993 - 9/1996, với hàng vạn cuộc thanh tra
và giải quyết các khiếu nại tố cáo của công dân đã phát hiện 4.903 vụ việc có dấu
hiệu tham nhũng với số tiền và tài sản bị thiệt hại lên tới 1.222 tỷ 708 triệu đồng và
trên 34 triệu đôla. Trong số này, tiền tham ô là 92 tỷ 483 triệu đồng, hối lộ 8,6 tỷ
đồng, lãng phí trong chi tiêu công quỹ 17 tỷ 718 triệu đồng và vụ lợi cá nhân 1.091
tỷ 522 triệu đồng.
Gần đây là những vụ tham nhũng lớn như ở đường dây tải điện 500 KV Bắc
- Nam, nhà máy dệt Nam Định, công ty Tamexco, vụ phá rừng Tánh Linh. Đặc biệt
vụ án Minh Phụng - EPCO làm thất thoát của Nhà nước 5.223 tỷ 300 triệu đồng.
Tuy nhiên, ở đây mới chỉ ra những con số thống kê, cùng những vụ tham
nhũng điển hình đã được lôi ra ánh sáng của pháp luật, trên thực tế còn biết bao
nhiêu những vụ việc tham nhũng do nhiều lý do mà còn chưa được phát hiện và
xử lý. Nạn buôn lậu cũng đang phổ biến ở nước ta hiện nay cũng thường gắn liền
với sự đồng lõa, bao che tiếp tay cho những người có chức có quyền. ở đây chưa
nói đến buôn lậu hàng cấm mà chỉ nói tới tệ nạn buôn lậu trốn thuế đương diễn ra
với nhiều hình thức, lắm vẻ khác nhau gây nên sự thất thu lớn cho ngân sách nhà
nước, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế và đời sống của nhân dân. Có
nhiều vụ buôn lậu lớn, tiêu biểu như vụ Tân Trường Sanh làm thất thoát của nhà
nước lên tới trên 900 tỷ đồng.
Như vậy có thể nói rằng, kinh tế thị trường là môi trường thuận lợi làm nảy
sinh và phát triển những hiện tượng lợi dụng chức quyền ngày càng nặng nề hơn.
Việc lợi dụng chức quyền không chỉ dừng lại ở mức độ vi phạm đạo đức mà còn trở
thành những đối tượng mà nhân dân hết sức bất bình, căm phẫn.
Một ảnh hưởng tiêu cực nữa không thể không nói đến trong nền kinh tế thị
trường đó là sự thoái hóa về phong cách lối sống của người cán bộ: nô lệ cho đồng
tiền, đặt đồng tiền lên trên hết, sống xa hoa đồi bại. Kinh tế thị trường có khuynh
hướng mở rộng các nguyên tắc trao đổi thị trường ra tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, đời sống cá nhân, đời sống cộng đồng, có khuynh hướng làm cho
người ta coi đồng tiền là thước đo giá trị duy nhất. Từ đó làm cho không ít cán bộ
đánh mất nhân phẩm của mình và chà đạp lên nhân phẩm của người khác. Trong
cuộc sống do sẵn có đồng tiền làm ra không mấy vất vả (lợi dụng chức quyền, tham
ô, tham nhũng...) họ tiêu xài lãng phí theo kiểu "vứt tiền qua cửa sổ", sa đọa, trụy
lạc gây một không khí độc hại trong xã hội. Điển hình là vụ xảy ra ở công ty xuất
nhập khẩu Kiên Giang, đội thuế thị trấn Tân Hiệp. ở một số nơi, tổ trưởng tổ liên
doanh đại diện các hộ nông dân vay vốn sản xuất nông nghiệp, lạm dụng chiếm
đoạt tiền vay của ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn và quỹ tín dụng nhân dân,
đều không chấp hành đúng lãi suất cho vay theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
(vượt 0,5 - 1,5%); một số thủ tục cho vay, thế chấp, bảo lãnh chưa thực hiện đúng
nguyên tắc cho vay vượt địa bàn cho phép, nợ quá hạn chiếm tỷ lệ cao. Vi phạm
pháp lệnh kế toán thống kê và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, đã trưng thu nộp vào
ngân sách Nhà nước trên 267 triệu đồng. Về quản lý sử dụng vốn quỹ quốc gia hỗ
trợ việc làm và xóa đói giảm nghèo, ở các đơn vị một số dự án cho vay vi phạm về
thủ tục và điều kiện cho vay vốn, một số trường hợp cho vay không đúng đối tượng.
Thiếu kiểm tra việc sử dụng vốn dẫn đến việc sử dụng vốn sai mục đích, không đem
lại hiệu quả, nợ quá hạn chiếm tỷ lệ cao, có trường hợp không khả năng thu hồi, có
131/132 dự án cho vay vi phạm về thủ tục và điều kiện vay vốn, 19 dự án với số
tiền 2,462 tỷ đồng sử dụng sai mục đích. ở huyện đoàn Châu Thành (Kiên Giang)
vốn vay quá hạn không khả năng thu hồi 43 triệu đồng; ở ủy ban nhân dân xã
Dương Tơ - Phú Quốc, cán bộ tham ô trên 38 triệu đồng cho vay xóa đói giảm
nghèo...
Đáng chú ý là trong các cơ quan chức năng chống buôn lậu, nhiều nơi cán
bộ không quan tâm đến việc lãnh đạo chống tham nhũng ở địa phương mình, đơn vị
mình. Vụ vi phạm lớn ở công ty xuất nhập khẩu Kiên Giang lợi dụng sơ hở trong
quản lý để cố ý làm trái, tham ô hoặc thông qua việc ký kết hợp đồng, việc thế chấp
ngân hàng để lừa đảo, lạm dụng chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, gây thiệt hại lớn
tài sản của Nhà nước. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những vi
phạm kéo dài này là công tác tổ chức cán bộ không được coi trọng đúng mức. Bản
thân giám đốc công ty là một phần tử cơ hội, thiếu trung thực, có nhiều thủ đoạn
gian dối, nham hiểm, vô kỷ luật, độc đoán, tham nhũng và sa đọa; tổ chức cơ sở
Đảng lại bị vô hiệu hóa, thiếu trách nhiệm, thiếu tinh thần đấu tranh, công tác kiểm
tra, thanh tra, thiếu chặt chẽ. Sự buông lỏng quản lý và tiêu cực trong ngành ngân
hàng, sự lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương làm kinh tế thiếu chặt chẽ,
chủ quan, cơ chế quản lý sơ hở... đó là những nguyên nhân vi phạm nghiêm trọng
kéo dài vừa làm mất cán bộ, vừa mất của, ảnh hưởng lớn đến uy tín của Đảng và
Nhà nước.
Do ý thức tự phê bình của cán bộ và tính chiến đấu của nhiều tổ chức có cán
bộ vi phạm quá yếu nên việc xem xét giải quyết tố cáo và xử lý kỷ luật có nhiều
khó khăn. Một số cán bộ bị tố cáo chủ yếu có liên quan đến vấn đề nhà đất, bao che
cấp dưới, thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác quản lý để đơn vị xảy ra nhiều
tiêu cực.
Một điều đáng nói nữa là sự yếu kém của tổ chức cơ sở Đảng, những tổ
chức này không phát huy được vai trò hạt nhân cính trị lãnh đạo ở cơ sở. Cấp ủy
không thường xuyên tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức, phẩm chất năng
lực... ngày càng xa rời các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, thiếu gương mẫu, do
đó không phát huy được vai trò tiên phong của tổ chức cơ sở Đảng. Quan hệ giữa
đảng viên nghỉ hưu với đảng viên đương chức, giữa cấp ủy Đảng với đảng viên có
mâu thuẫn... Trong sinh hoạt Đảng thiếu sự đấu tranh phê bình, tự phê bình nghiêm
túc, nên có tổ chức mà thiếu sự đoàn kết, uy tín của Đảng đối với nhân dân giảm
sút. Hàng trăm cán bộ cấp xã đã bị xử lý kỷ luật, có nhiều người ở cương vị chủ
chốt. Dân đấu tranh, cán bộ, đảng viên bỏ chạy. Tổ chức Đảng không nắm được
chính quyền, không được dân đồng tình ủng hộ nên mất vị trí, vai trò lãnh đạo xã
hội. Những tiêu cực trên không những không bị ngăn chặn, đẩy lùi mà còn phát
triển trầm trọng hơn. Nó đã và đang gây ra tác hại to lớn về kinh tế, chính trị, xã
hội: Về kinh tế, tài sản Nhà nước đã bị thất thoát, nhiều doanh nghiệp Nhà nước
làm ăn thua lỗ, chất lượng và hiệu quả thấp, không phát huy được vai trò chủ đạo.
Trong các thành phần kinh tế thiếu sự cạnh tranh lành mạnh, "luật chơi" không bình
đẳng, người làm ăn chân chính bị thua thiệt, bọn ma giáo giỏi chạy chọt, hối lộ thì
được hưởng lợi thế trong kinh doanh. Về xã hội: phân cực giàu nghèo diễn ra
nhanh, bất công xã hội tăng lên, người lao động chân chính thì đời sống khó khăn,
bọn bất lương thì sống phè phỡn. Nhiều giá trị đạo đức xã hội bị đảo lộn. Nhân dân
bất bình, lòng tin vào Đảng, vào Nhà nước bị suy giảm. Về chính trị: làm suy giảm
hiệu lực quản lý của Nhà nước, cản trở thực hiện một số chính sách đổi mới của
Đảng. Các thế lực thù địch lợi dụng thúc đẩy âm mưu chiến lược "Diễn biến hòa
bình", mua chuộc số cán bộ hư hỏng, tuyên truyền đả kích chế độ, kích động quần
chúng chống Đảng, Nhà nước. Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười cho rằng, nếu nạn
tham nhũng, tiêu cực ngày càng gia tăng, chủ nghĩa cá nhân phát triển, một bộ phận
cán bộ thường nói tất cả vì lợi ích của nhân dân mà thực chất là vơ vét cho mình, thì
đây là nguy cơ đối với chế độ. Do vậy, ngăn chặn và khắc phục sự xuống cấp về
đạo đức, những biểu hiện tiêu cực và tệ nạn xã hội là nhiệm vụ rất cấp bách.
Tóm lại, bước sang thời kỳ mới, trên những thách thức và yêu cầu mới đội
ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước nói riêng đang
có sự bất cập về phẩm chất đạo đức. Một số cán bộ dao động, giảm sút niềm tin,
nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội, hoài nghi đường
lối của Đảng; có người do bất mãn cá nhân đi đến phản bội Đảng và lợi ích của
nhân dân. Một bộ phận cán bộ thoái hóa, biến chất về lối sống, lợi dụng chức quyền
để tham nhũng buôn lậu, làm giàu bất chính; lãng phí của công, quan liêu, ức hiếp
dân, gia trưởng, độc đoán; có tham vọng cá nhân cục bộ, kèn cựa địa vị, cơ hội,
kém ý thức tổ chức kỷ luật, thiếu ý thức tự phê bình và phê bình, mất đoàn kết nội
bộ nghiêm trọng.
Đáng chú ý là những biểu hiện suy thoái đạo đức này đang có chiều hướng
phát triển, làm xói mòn bản chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, làm giảm uy tín
của Đảng, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ.
Để đáp ứng nhu cầu của nhiệm vụ cách mạng, thực hiện thắng lợi mục tiêu
và nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần phải có những
giải pháp nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, trước hết sớm khắc phục
tình trạng suy thoái đạo đức như đã trình bày trên.
Chương 2
Những giải pháp cơ bản
nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý nhà nước hiện nay
2.1. Tăng cường công tác giáo dục đạo đức và phát huy ý thức tu dưỡng
phẩm chất đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước
Để xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước
hiện nay đòi hỏi chúng ta phải tiến hành một cách đồng bộ các giải pháp như: Phát
triển kinh tế theo định hướng XHCN, xây dựng cơ chế quản lý chặt chẽ, khoa học,
tăng cường và đổi mới công tác cán bộ, công tác quy hoạch bố trí, đề bạt và đánh
giá cán bộ... Nhưng trong tiết này, chúng tôi trình bày giải pháp tăng cường công
tác giáo dục đạo đức và phát huy ý thức tu dưỡng phẩm chất đạo đức của cán bộ
lãnh đạo quản lý nhà nước.
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức một mặt được hình thành một cách
tự phát từ chính cuộc sống hàng ngày của con người để đáp ứng đòi hỏi khách quan
của sinh hoạt cộng đồng. Mặt khác, đạo đức phải là kết quả của sự giáo dục và tự
giáo dục, tự rèn luyện của mỗi cá nhân theo các chuẩn mực giá trị đạo đức của xã
hội.
Giáo dục đạo đức góp phần chuyển các quan niệm đạo đức từ tự phát sang
tự giác, từ bị động sang chủ động, không ngừng nâng cao trình độ nhận thức các giá
trị đạo đức cho mỗi người từ trình độ nhận thức thông thường lên trình độ nhận
thức khoa học. Nhận thức thông thường hình thành do ảnh hưởng trực tiếp của
những điều kiện sinh hoạt hàng ngày mang lại, nó phản ánh những giá trị đạo đức
gần gũi với cuộc sống đời thường. Trong lúc đó nhận thức khoa học phản ánh các
giá trị đạo đức một cách gián tiếp, khái quát, cả những giá trị đạo đức hiện đại, cả
những phẩm giá của con người được kết tinh trong đạo đức truyền thống lâu đời của
dân tộc.
Giáo dục đạo đức một mặt nhằm nâng cao giá trị đạo đức, tạo ra những giá
trị đạo đức mới, mặt khác nó cũng góp phần tích cực vào việc khắc phục những
quan điểm đạo đức lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị nhân cách, chống lại những
hiện tượng phi đạo đức đang đầu độc bầu không khí xã hội, tạo ra cơ chế phòng
ngừa các phản giá trị đạo đức, phản giá trị văn hóa của con người nói chung và của
những người cán bộ quản lý nói riêng.
Như đã phân tích ở các phần trên khi nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nhất là ở giai đoạn đầu, đã
xuất hiện những biến động lớn trong cuộc sống xã hội trong đó có đời sống đạo
đức. Kinh tế thị trường có sự tác động theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực.
Nhưng do kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay còn mang nặng tính chất tự phát,
bên cạnh đó chúng ta lại ít quan tâm đến công tác giáo dục đạo đức, nên chiều
hướng tác động tiêu cực đang gây ra những hậu quả rất đáng lo ngại. Tình trạng
xuống cấp, suy thoái về đạo đức xã hội, đặc biệt của một bộ phận cán bộ lãnh đạo
quản lý đang là mối hiểm họa đe dọa đến sự tồn vong của chính chế độ xã hội tốt
đẹp mà ta đang xây dựng. Chính vì vậy, hiện nay công tác giáo dục đạo đức cần
phải được tăng cường mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Giáo dục đạo đức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý thế nào cho hiệu quả - như
thực tế đã chỉ ra - quả không phải là vấn đề đơn giản. Tuy nhiên, nói như vậy không
có nghĩa là chúng ta chịu bó tay trước công tác này.
Trên hết, phải khắc phục tình trạng "chưa chú ý đúng mức vấn đề giáo dục,
rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức đối với cán bộ, đảng viên" mà Đại hội
VIII của Đảng đã chỉ ra. Trong đào tạo, trong sinh hoạt đảng, trong các phương tiện
thông tin đại chúng... phải chú ý khắc phục tình trạng này. Để giáo dục đạo đức có
hiệu quả phải thực sự quan tâm đến công tác này. Công tác giáo dục đạo đức cho
cán bộ là một công việc thường xuyên, bền bỉ và lâu dài, nhưng trong tình trạng
hiện nay phải coi công việc đó như một "mắt xích" quan trọng, nổi bật.
Trong thời gian qua, nói chúng ta không tiến hành công tác giáo dục đạo
đức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý là không công bằng. Nhưng cũng phải thấy rằng,
công tác đó chưa được quan tâm đúng mức. Tìm kiếm những hình thức giáo dục
như thế nào cho phù hợp, chuyển tải những nội dung gì cho đảm bảo tính thiết thực
vẫn là vấn đề đang đặt ra trước chúng ta hiện nay.
Hình thức giáo dục phải đa dạng, phong phú, phù hợp với từng đối tượng,
từng lúc, từng nơi. ở các cơ sở đào tạo cán bộ, ở địa phương, ở các cấp ủy đảng...
hình thức dĩ nhiên không phải hoàn toàn như nhau. Do đó tăng cường công tác giáo
dục đạo đức đòi hỏi các chủ thể giáo dục phải quan tâm, nghiên cứu, tìm hiểu, thử
nghiệm những hình thức cụ thể của mình, tránh rập khuôn và đơn điệu.
Về nội dung cũng cần phải đổi mới cho phù hợp với thực tế, tránh thuyết
giáo những lý tưởng chung chung. Đạo đức mà cần cho các cán bộ là đạo đức mới.
Đạo đức mới là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn đạo đức truyền thống Việt
Nam và tư tưởng đạo đức cách mạng được hun đúc, kết tinh trong tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh. Trong giáo dục đạo đức cho cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
nhấn mạnh những phẩm chất: lòng yêu nước, chủ nghĩa tập thể, cần, kiệm, liêm
chính, chí công vô tư. Thiếu những phẩm chất đó, người cán bộ không còn xứng
đáng là người cán bộ cách mạng. Hiện nay, cán bộ ta ai ai cũng nhận thức được
điều đó, nhưng trong thực tế có thực hành được hay không lại không phải là nhiều,
nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước, những cán bộ nắm trong tay tiền
bạc, của cải của nhân dân, của tập thể, của Nhà nước, những cán bộ có trong tay
quyền lực, quyền hành.
Giáo dục đạo đức không chỉ dừng lại ở những bài giảng về đạo đức, những
thuyết giáo về đạo đức mà phải gắn liền với thực tế công tác, với thực tiễn phong
phú đa dạng. Phải gắn liền việc rèn luyện phẩm chất chính trị với phẩm chất đạo
đức cá nhân, gắn rèn luyện đạo đức với hoạt động thực tiễn của cán bộ và phong
trào cách mạng của quần chúng. Giáo dục rèn luyện phẩm chất chính trị để cho cán
bộ có lòng trung thành với mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng, có đạo đức cách
mạng là điều tất yếu, mang tính bắt buộc đối với tất cả cán bộ của Đảng ta. Tuy
nhiên, nếu dừng lại chỉ ở đó thì chưa đủ. Người có phẩm chất chính trị, có đạo đức
cách mạng là con người phải hội đủ trong mình cả phẩm chất chính trị và đạo đức
cá nhân, đạo đức đời thường. Đã có không ít trường hợp, cán bộ được đánh giá là
có phẩm chất chính trị tốt ở cơ quan đơn vị, nơi học, công tác nhưng chính họ lại
sống rất cách biệt, thậm chí có những lời nói, việc làm xa lạ với cuộc sống đời
thường trong gia đình và nơi họ cư trú, sinh sống. Điều này bắt nguồn từ chỗ trong
giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên chúng ta chỉ chú trọng đến những phẩm
chất đạo đức cao siêu, chung chung mà không gắn với trách nhiệm đạo đức công
dân. Do đó cần phải làm cho trong mỗi con người cán bộ phải có sự thống nhất giữa
đạo đức cách mạng với đạo đức đời thường, biết hành động ích nước, lợi dân, thống
nhất hành vi đạo đức từ gia đình đến xã hội, thống nhất trong lời nói và việc làm.
Nếu không có tính trung thực, tình yêu đồng loại, quí trọng người thân trong gia
đình, lòng kính trọng nhân dân thì không thể có đạo đức cách mạng chân chính.
Đạo đức cách mạng là sự tự nguyện, tự giác phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân
dân với sự thôi thúc nội tâm của mỗi người. Do đó, phương châm cơ bản là đồng
thời với việc tăng cường công tác giáo dục, cán bộ phải tự tu dưỡng, tự rèn luyện là
chính.
Muốn có đạo đức cách mạng, trước hết và khó nhất là phải thắng kẻ thù bên
trong của mỗi người - là chủ nghĩa cá nhân. Do đó, điều cốt yếu là mỗi người phải
tự giác nỗ lực rèn luyện, khắc phục chủ nghĩa cá nhân của chính mình. Nhiều người
khi phạm phải những sai lầm về đạo đức hay đổ lỗi cho hoàn cảnh, mà không thấy
rằng, chính con người phải cải tạo hoàn cảnh, làm cho hoàn cảnh "có tính người".
Người có ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức thì dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào
cũng giữ vững được phẩm chất cao đẹp, trong sáng.
Việc tự tu dưỡng, tự rèn luyện đạo đức đối với cán bộ ta hiện nay gắn liền
mật thiết với việc tự phê bình và phê bình trong Đảng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khuyên cán bộ phải "thật thà tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết
điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau. Thang
thuốc tốt nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình" [30, 261-262].
Trong cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay, Đảng ta coi
"tiến hành tự phê bình và phê bình từ Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương đến
cơ sở là khâu đột phá và là biện pháp có ý nghĩa then chốt bảo đảm cho các giải
pháp khác thắng lợi" [8, 56].
Tự phê bình và phê bình là một quy luật xây dựng và phát triển Đảng. Tự
phê bình và phê bình có hiệu quả có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục và tự
giáo dục về đạo đức cách mạng cho người cán bộ. Thực hiện tự phê bình và phê
bình trong điều kiện hiện nay Đảng ta nhấn mạnh phải "coi trọng tự phê bình từ
trên xuống, phê bình từ dưới lên". Việc cấp trên gương mẫu tự phê bình trước
cấp dưới, cán bộ chủ chốt, ban chấp hành gương mẫu tự phê bình trước cấp dưới,
đảng viên và có thái độ đúng đắn khi tiếp thu phê bình sẽ tạo nên bầu không khí
tự phê bình và phê bình sôi nổi, cởi mở, có hiệu quả.
Hiện nay, việc tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm Nghị quyết trung
ương lần thứ sáu (lần 2) của Đại hội lần thứ VIII đã và đang là một giải pháp hết
sức cơ bản để tăng cường giáo dục và tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức mới cho cán
bộ, đảng viên nói chung và cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước nói
riêng.
2.2. tăng cường hiệu lực quản lý, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý nhà nước
Cùng với giáo dục và tự giáo dục đạo đức cách mạng thì cần phải đổi mới
và tăng cường hiệu lực quản lý của Đảng và Nhà nước, của các cấp, các ngành, các
đoàn thể và nhân dân đối với từng cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước. Cần phải tạo
ra cơ chế quản lý cán bộ phù hợp với điều kiện mở cửa, phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tránh tình trạng buông lỏng quản lý cán bộ, phải
cố gắng nhanh nhất bằng các biện pháp tổ chức, hành chính, nắm chắc từng cán bộ
quản lý, kiên quyết không để một cán bộ quản lý nào đứng ngoài sự quản lý của tổ
chức, đứng ngoài sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng cũng như của các
cấp các ngành và nhân dân. Muốn vậy, phải tiếp tục đổi mới công tác cán bộ nói
chung. Phải quán triệt trên thực tế tinh thần Nghị Quyết đại hội VIII của Đảng
"Đảng phải lo cán bộ cho cả hệ thống chính trị, trên tất cả các lĩnh vực. Đảng thống
nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng phát huy trách nhiệm
của các tổ chức thành viên hệ thống chính trị trong công tác cán bộ" [5, 145].
Việc đánh giá và sử dụng cán bộ. Đây là hai vấn đề lớn nhưng có quan hệ
mật thiết đến vấn đề phẩm chất, đạo đức cán bộ. Do vậy phải có quan niệm và
phương pháp đánh giá, bố trí và sử dụng cán bộ khoa học, khách quan, đảm bảo
sự dân chủ thì mới ngăn chặn được tiêu cực trong công tác cán bộ, mới giữ gìn
và củng cố được phẩm chất đạo đức cán bộ. Việc đánh giá cán bộ phải xuất phát
từ đường lối chính trị, từ yêu cầu nhiệm vụ, phải dựa trên hiệu quả công việc
được giao, và phải đối chiếu so sánh với tiêu chuẩn của từng loại cán bộ. Phải
gắn với xây dựng, tổ chức, cơ chế, chính sách, thông qua hoạt động thực tiễn và
phong trào quần chúng để thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và Đảng thống
nhất lãnh đạo công tác cán bộ. Ngoài việc xác định tiêu chuẩn chung của cán bộ
cần thiết phải có những tiêu chuẩn cụ thể đối với từng loại, từng cấp cán bộ. Có
cụ thể hóa các tiêu chuẩn thì mới có cơ sở để đánh giá chính xác cán bộ và mới
khắc phục được tình trạng đào tạo, sử dụng không gắn với quy hoạch, không gắn
với chuyên môn. Trong việc bố trí và sử dụng cán bộ cần thực hiện và vận dụng
đúng quan điểm giai cấp, đồng thời phải có chính sách đoàn kết, tập hợp được
nhân tài ở tất cả các lĩnh vực, các thành phần kinh tế - xã hội trong và ngoài
Đảng của mọi thành phần dân tộc. Đội ngũ cán bộ này phải được lựa chọn, đào
tạo thành những người thực sự trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và
lợi ích của nhân dân. Để sử dụng tốt cán bộ còn phải luân chuyển cán bộ thực
hiện tốt việc miễn nhiệm những cán bộ không còn đủ tiêu chuẩn. Thực hiện hiện
tốt chế độ giao việc, giám sát và kiểm tra toàn diện cán bộ, phải vừa chú ý xây
dựng đội ngũ cán bộ chiến lược cán bộ đầu ngành vừa phải chú trọng xây dựng
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở nơi trực tiếp hàng ngày với dân. việc đánh giá đúng,
dùng đúng cán bộ đòi hỏi phải có cơ quan có thẩm quyền và đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, đủ năng lực, trình độ, có thái độ công tâm, công bằng và biết lắng nghe ý
kiến quần chúng thì mới chính xác. Nếu thiếu những cái đó thì việc đánh giá và
cất nhắc cán bộ sẽ rơi vào tình trạng "Ai không hợp với mình thì người tốt cũng
cho là xấu", việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách gièm pha, nói xấu, tìm cách
dìm người đó xuống như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Do vậy bản thân cơ
quan có thẩm quyền và người có thẩm quyền phải được nâng cao trình độ, phải
có tâm và có trí, có phương pháp và trước hết phải thực sự trong sạch thì mới sử
dụng cán bộ được chính xác.
Đối với tổ chức cơ sở Đảng, biện pháp hàng đầu là tiếp tục coi trọng việc
nâng cao chất lượng sinh hoạt, thường xuyên giáo dục, nâng cao đạo đức đi đôi
với việc phê phán, ngăn ngừa và chống những biểu hiện tiêu cực về đạo đức,
không ngừng chỉnh đốn tổ chức cơ sở Đảng. Nâng cao vai trò của cấp ủy và tổ
chức Đảng trong việc giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ lãnh đạo quản lý nhà
nước. Cán bộ của ta hiện nay đa phần là đảng viên. Đảng cũng đã đề ra những
nguyên tắc cơ bản trong công tác cán bộ, Đảng trực tiếp thống nhất lãnh đạo trong
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, cấp ủy các cấp là người trực tiếp làm
công tác cán bộ, bồi dưỡng đào tạo cán bộ cho các đơn vị, địa phương mà mình
phụ trách. Nhưng hiện nay nhiều cấp ủy chưa làm tốt công tác cán bộ. Nhiều nơi
chất lượng sinh hoạt không cao, sức chiến đấu yếu. Nhiều cấp ủy không chú trọng
việc giáo dục đấu tranh phê phán, phòng ngừa những biểu hiện tiêu cực trong
công tác cán bộ. nhiều nơi cấp ủy buông lỏng việc quản lý cán bộ Đảng viên,
buông lỏng việc kiểm tra, thanh tra, việc bảo vệ nội bộ, không động viên được
nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng cán bộ, không ít nơi, nội bộ cấp ủy
do năng lực, trình độ, uy tín, do cơ cấu mà bị "phụ thuộc" vào chính quyền. Hiện
tượng bí thư, cấp ủy "lựa lời" để vừa lòng cấp trưởng, vừa lòng giám đốc... còn
phổ biến. Tình trạng vai trò cấp ủy bị lu mờ đã làm ảnh hưởng lớn tới việc đánh
giá, bố trí đề bạt sử dụng cán bộ, làm giảm khả năng giáo dục rèn luyện, nâng cao
phẩm chất đạo đức cho cán bộ. Do vậy cần phải lựa chọn, bố trí cấp ủy ngang tầm,
thậm chí phải nổi trội cả về đạo đức lẫn năng lực so với cấp trưởng cùng cấp. Đi
kèm với nó là phải có những chính sách khuyến khích, thu hút người có đủ đức tài
vào cấp ủy, có như vậy vai trò cấp ủy và tổ chức Đảng trong việc giáo dục, rèn
luyện, quản lý cán bộ, Đảng viên mới có hiệu quả.
Thường xuyên cải tiến nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nâng cao chất
lượng đảng viên, có quan hệ chặt chẽ với nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng.
Chi bộ và tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao
chất lượng đảng viên. Chi bộ là nơi phân công tác cho đảng viên trực tiếp quản lý
đảng viên, kết nạp đảng viên mới, và xử lý kỷ luật đảng viên, nơi trực tiếp rèn luyện
nâng cao chất lượng đảng viên. Chi bộ mạnh bảo đảm các nguyên tắc sinh hoạt
Đảng, sinh hoạt có chất lượng là môi trường tốt để đảng viên rèn luyện phấn đấu.
Chính vì vậy, Đảng yêu cầu các tổ chức cơ sở Đảng phải thường xuyên cải tiến nội
dung sinh hoạt chi bộ. Sinh hoạt chi bộ phải thảo luận các vấn đề về đường lối
chính sách của Đảng, về nhiệm vụ của địa phương hoặc đơn vị và tổ chức thực hiện
những nhiệm vụ đó, phân công phân nhiệm. Phấn đấu tạo ra trong trào tổ chức
Đảng một không khí sôi nổi đầy sức chiến đấu phát huy trí tuệ tập thể, những sáng
kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên. Thường xuyên giáo dục Đảng viên có ý thức
gắn bó với chi bộ, tự giác tham gia sinh hoạt chi bộ và có trách nhiệm trong việc
nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Trong Đảng không chấp nhận đảng viên "đặc
biệt", coi thường sinh hoạt chi bộ, đến họp với tư cách là cấp trên, là người thủ
trưởng. Chính vì vậy, báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi điều lệ Đảng tại đại hội
lần thứ VII nêu rõ " cải tiến sinh hoạt Đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ. Mọi đảng
viên, kể cả đảng viên là cán bộ lãnh đạo, phải thực hiện tốt các nhiệm vụ do chi bộ
phân công, phải chịu sự giám sát của chi bộ về ý thức chấp hành đường lối, chính
sách, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng về đạo đức, lối sống, quan hệ mật thiết với
quần chúng ở nơi làm việc và nơi ở". Thực tế trong xây dựng Đảng cho thấy, đảng
viên có phát huy được vai trò hay không, chất lượng đảng viên tốt hay không, nhân
tố quan trọng có ý nghĩa quyết định là tùy thuộc vào chất lượng của chi bộ và
Đảng bộ cơ sở. Vì vậy nâng cao phẩm chất đạo đức, cách mạng của đội ngũ đảng
viên phải đi đôi với củng cố chi bộ, Đảng bộ cơ sở vững mạnh.
Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng và khắc phục những
sơ hở trong cơ chế chính sách và pháp luật. Đây là hai vấn đề khác nhau nhưng có
quan hệ với nhau và có liên quan chặt chẽ đến vấn đề giữ gìn phẩm chất đạo đức
cán bộ. Tệ tham nhũng không chỉ gây thất thoát ngân sách Nhà nước, gây những
hậu quả nghiêm trọng, gây cản trở và đe dọa sự phát triển của đất nước mà trên thực
tế tệ tham nhũng đang làm hư hỏng và tha hóa phẩm chất đạo đức cán bộ. Được
biết, hiện nay Nhà nước ta đã áp dụng nhiều hình thức, kết hợp nhiều biện pháp để
kiên quyết khắc phục tệ nạn này, nhưng hiệu quả chưa cao, nhiều vụ tham nhũng,
hối lộ được quần chúng phát hiện nhưng chưa được thanh tra, xử lý. Tình trạng
tham nhũng hối lộ vẫn gia tăng. Chúng ta biết rằn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.pdf