Tài liệu Luận văn Vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay: LUẬN VĂN:
Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa
của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa vốn gắn liền với toàn bộ cuộc sống và với sự phát triển của xó hội. Con
người ra đời cùng với văn hóa, trưởng thành nhờ văn hóa, hướng tới tương lai cũng từ
văn hóa. Văn hóa của một dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc của dân tộc ấy. Bản sắc
dân tộc thể hiện trong hệ giá trị của văn hóa dân tộc, nó biểu hiện và định hướng cho sự
lựa chọn trong hành động của con người. Những giá trị văn hóa là thước đo trỡnh độ phát
triển và đặc tính riêng của mỗi dân tộc “Một dân tộc thiếu văn hóa chưa phải là một dân
tộc thật sự hỡnh thành, một nền văn hóa không có bản sắc dân tộc thỡ nền văn hóa ấy
không có sức sống thật sự của nó” [9, tr.16].
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hóa tạo nên
nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, được phân bố ở các vùng, miền của Tổ
quốc. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh t...
97 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1045 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa
của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa vốn gắn liền với toàn bộ cuộc sống và với sự phát triển của xó hội. Con
người ra đời cùng với văn hóa, trưởng thành nhờ văn hóa, hướng tới tương lai cũng từ
văn hóa. Văn hóa của một dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc của dân tộc ấy. Bản sắc
dân tộc thể hiện trong hệ giá trị của văn hóa dân tộc, nó biểu hiện và định hướng cho sự
lựa chọn trong hành động của con người. Những giá trị văn hóa là thước đo trỡnh độ phát
triển và đặc tính riêng của mỗi dân tộc “Một dân tộc thiếu văn hóa chưa phải là một dân
tộc thật sự hỡnh thành, một nền văn hóa không có bản sắc dân tộc thỡ nền văn hóa ấy
không có sức sống thật sự của nó” [9, tr.16].
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hóa tạo nên
nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, được phân bố ở các vùng, miền của Tổ
quốc. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội và nhiều nhân tố ảnh hưởng khác
nhau, đã hình thành nên các vùng văn hóa khác nhau, từ đó văn hóa của các dân tộc cũng
có những điểm khác biệt và mang tính đặc thù. Trong các vùng văn hóa ấy, vùng Tây Bắc
nước ta gồm 6 tỉnh: Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái. Là một
vùng rộng lớn, có địa chính trị, kinh tế - văn hóa độc đáo, có vị trí rất quan trọng đối với sự
phát triển của đất nước cả về an ninh - quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội bao gồm rất nhiều
dân tộc thiểu số sinh sống. Mỗi dân tộc với những đặc điểm riêng, đều sớm hình thành những
nét văn hóa riêng có, độc đáo của mình.
Dân tộc Thái là dân tộc có số dân đông thứ hai trong 53 dân tộc thiểu số ở nước
ta. Cũng như mọi dân tộc khác, người Thái ở Tây Bắc đã sớm hình thành một nền văn
hóa mang mầu sắc riêng và hết sức đặc sắc. Nền văn hóa ấy ảnh hưởng sâu xa đến từng
cá nhân trong cộng đồng người Thái, góp phần làm phong phú thêm những giá trị cho
nền văn hóa đa dân tộc vùng Tây Bắc Việt Nam.
Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Xu thế toàn cầu hóa
đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng như
tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài dòng chảy này. Kinh tế thị trường với
những ưu điểm và mặt trái của nó, có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa truyền
thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hóa của
dân tộc Thái ở Tây Bắc. Bên cạnh những giá trị tốt đẹp trong văn hóa truyền thống
của người Thái, còn có những yếu tố không còn phù hợp với sự phát triển của thời
đại. Trước sự tác động của cơ chế thị trường, của mở rộng hội nhập quốc tế và giao
lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của người Thái nói chung, và
người Thái ở Tây Bắc nói riêng đang bị mai một, pha trộn, lai căng, không còn giữ
được bản sắc. Vấn đề khác quan trọng hơn cả, đó là chúng ta đang phấn đấu để có
được sự bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, các vùng miền trên cả nước. Để đạt
được điều này phải kết hợp nhiều yếu tố, trong đó văn hóa chiếm vai trò, vị trí hết sức
quan trọng, không thể có bình đẳng dân tộc nếu như không giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta, bởi lẽ: "Vấn đề dân tộc là vấn đề văn hóa,
đừng tìm vấn đề dân tộc ở chỗ khác" [19, tr.10].
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, tạo điều
kiện để vùng Tây Bắc phát triển đồng đều và vững chắc, đóng góp vào việc thực hiện
mục tiêu chung của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Trước tình hình đó thì
việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc là vấn đề mang
tính thời sự, cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, để đóng góp phần công sức
nhỏ bé vào mục tiêu của cả nước nói chung, và tỉnh Sơn La nói riêng, tôi chọn vấn đề
“Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay " làm đề
tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề này đã được nhiều người nghiên cứu ở những phạm vi và góc độ khác nhau.
Nghiên cứu dưới góc độ bản sắc văn hóa có những tác phẩm tiêu biểu như:
"Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc", Huy Cận, Nxb Chính trị Quốc gia, 1994.
"Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam", PGS. Viện sĩ Trần Ngọc Thêm, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, 2001. "Bản sắc văn hóa Việt Nam", Phan Ngọc, Nxb Văn học, 2002. "Xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc", Nguyễn
Khoa Điềm (chủ biên). "Bản sắc văn hóa dân tộc", Hồ Bá Thâm, Nxb Văn hóa Thông tin,
2003.
Nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số có:
"Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số" của Lò Giàng Páo, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội, 1997. "Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam", Ngô Văn Lệ, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, 1998. Đề tài: "Văn hóa truyền thống của các dân tộc Jrai và Bahnar ở tỉnh
Gia Lai hiện nay - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ Triết học của Lê Thị Mỹ
Vân, 1999, Đại học KHXH & NV - ĐHQG Hà Nội."Văn hóa truyền thống các dân tộc
thiểu số trong cuộc sống hôm nay", Nguyễn Khoa Điềm, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số
7/2000. Đề tài: "Vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số ở Gia
Lai trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003 của Đỗ Văn Hòa...
Nghiên cứu văn hóa dân tộc Thái có các công trình:
“Nghệ thuật trang phục thái”, Lê Ngọc Thắng, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội,
1990. "Văn hóa thái Việt Nam", Cầm Trọng, Phan Hữu Dật, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà
Nội, 1995. "Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam", Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội,
1996."Bản Mường - một cấu trúc xã hội truyền thống Thái, Báo cáo khoa học trình bày
tại hội nghị quốc tế Thái học lần thứ 4, Chiềng Mai - Thái Lan, (10-1996), Cầm Trọng.
Đề tài khoa học KX.03.97: "Nghiên cứu văn hóa bản dân tộc Thái Đen, trên cơ sở đó đề
xuất nội dung, giải pháp xây dựng mô hình bản văn hóa", 1999, UBND tỉnh Sơn La. "Vài
nét về người Thái ở Sơn La", Vì Trọng Liên, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002. "Hoa
Văn Thái" của Hoàng Lương, Nxb Lao động, Hà Nội, 2003. "Bảo tồn và phát triển văn
hóa truyền thống ở vùng núi Bắc Trung Bộ hiện nay", Cao Văn Thanh (chủ biên), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. Và nhiều bài viết trên các tạp chí: Dân tộc học, nghiên
cứu lịch sử...
Nhìn chung: Các công trình, tác phẩm đều đã đi vào khai thác những đặc điểm
chung về bản sắc văn hóa; văn hóa các dân tộc thiểu số; văn hóa của dân tộc Thái ở nước
ta. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những giá trị văn
hóa, phong tục tập quán của người Thái (nói chung), người Thái ở Tây Bắc (nói riêng)
nhằm giới thiệu về người Thái; những nét đặc sắc - cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc
Thái. Một số đề tài, công trình cũng đề cập tới vấn đề bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc Thái nhưng mới chỉ đề cập một cách chung chung hoặc đi sâu tìm
hiểu một số nét văn hóa cụ thể; đã đề cập đến thực trạng và một số giải pháp cho sự phát
triển văn hóa các dân tộc Tây Bắc nhưng cũng chỉ là những giải pháp mang tính định
hướng chung cho các dân tộc thiểu số; chủ yếu nghiên cứu về văn hóa dân tộc Thái ở góc
độ văn hóa, chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ triết học, chưa
bàn nhiều tới vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc một
cách khái quát.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
trên cơ sở làm rõ thực trạng kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây
Bắc hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Sơn La), luận văn đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm
kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc nói chung, và dân tộc
Thái ở Sơn La nói riêng.
* Nhiệm vụ:
luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau:
Một là, làm rõ bản sắc văn hóa của dân tộc Thái và tính tất yếu khách quan của việc
kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái.
Hai là, đánh giá thực trạng vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái
ở Tây Bắc hiện nay (minh họa bằng các số liệu, thực tế...khảo sát ở tỉnh Sơn La).
Ba là, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng và đề ra một số giải pháp cơ bản, nhằm kế
thừa và phát huy bản sắc dân tộc Thái ở Tây Bắc và Sơn La.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn xác định đối
tượng nghiên cứu là văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc (nội dung chủ yếu là văn hóa dân tộc
Thái ở tỉnh Sơn La) trên góc độ triết học.
* Phạm vi nghiên cứu:
Văn hóa là một vấn đề rất rộng, văn hóa các dân tộc cũng rất đa dạng và phong
phú...Luận văn không trình bày toàn bộ các vấn đề thuộc về văn hóa của dân tộc Thái ở
Tây Bắc mà chủ yếu khai thác một cách có hệ thống, ở khía cạnh triết học những giá trị
văn hóa tạo nên "Bản sắc văn hóa" của dân tộc Thái ở Tây Bắc và ở Sơn La nhằm kế thừa
và phát huy nó trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Thực hiện đề tài này, luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở lưý luận là chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về văn
hóa và chính sách phát triển văn hóa, nhất là quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội; đồng thời có tham khảo một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa học, sách,
báo... tài liệu có liên quan đến nội dung được đề cập trong luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch, điều
tra, so sánh... nhằm thực hiện mục đích mà đề tài đặt ra.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thêm những nét đặc sắc của tộc Thái ở Tây Bắc; phân
tích và hệ thống hóa các giá trị văn hóa của dân tộc Thái dưới góc độ triết học. Qua đó
đưa ra những giải pháp cơ bản và thiết thực nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa
của dân tộc Thái ở Tây Bắc và Sơn La trong giai đoạn hiện nay.
7. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và làm sáng tỏ lý luận về văn
hóa, bản sắc văn hóa và vấn đề kế thừa nó; đồng thời góp phần khẳng định vai trò, ý
nghĩa của những giá trị văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc theo hướng: Xây dựng một
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy
các bộ môn: Triết học, Văn hóa, Dân tộc học... ở các nhà trường, làm tài liệu tham khảo
cho cán bộ hoạch định chính sách và quản lý văn hóa ở Tây Bắc và tỉnh Sơn La.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
2 chương, 4 tiết.
Chương 1
Bản sắc văn hóa của dân tộc Thái. Tính tất yếu khách quan của việc kế thừa và phát huy
nó
1.1. Bản sắc văn hóa của dân tộc Thái
1.1.1. Một vài nét về lịch sử dân tộc Thái
1.1.1.1. Lịch sử tộc người Thái
Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, có một cộng đồng tộc người tự nhận mình
bằng tên riêng Tăy hay Thăy và được gọi chính thức là Thái.
Dân tộc Thái có dân số khá đông đảo, theo con số thống kê năm 1973 là trên 36 vạn
người. Đến năm 1999, dân số của người Thái có 1.328.725 người sống trải khắp vùng
quê miền Tây và Tây Bắc Việt Nam. Bắt đầu từ phía Đông với miền đất người Thái gọi
là mường Lò quê tổ ở Tây Bắc tỉnh Yên Bái (nay chia thành ba huyện thuộc tỉnh Yên
Bái: Văn Chấn, Mù Căng Chải, Trạm Tấu và thị xã Nghĩa Lộ). Sang phía Tây gồm toàn
bộ địa phận ba tỉnh Lai Châu, Điện Biên và Sơn La. Phía Nam người Thái sinh sống ở
miền Tây Bắc Hòa Bình (nay là huyện Đà Bắc và Mai Châu) và miền Tây hai tỉnh Thanh
Hóa, Nghệ An. Cuối cùng còn thấy những nhóm sống rải rác trong các tỉnh thuộc vùng
núi Tây Nguyên, trong đó huyện Đức Trọng tỉnh Lâm Đồng là nơi họ ở đông hơn cả.
Trải qua hàng ngàn năm sinh sống trên các địa bàn trên lãnh thổ Việt Nam, dân tộc
Thái đã cùng các dân tộc anh em khác, tham gia dựng nước và giữ nước. Đây cũng chính
là quá trình hình thành tộc người để phát triển đến ngày nay. Hiện nay, chưa có cách nào
khác để tìm ra cội nguồn của văn hoá lịch sử tộc người Thái, ngoài việc rút ra và đúc kết
những hiểu biết mới về đời sống tâm linh của họ. Từ đó, đưa ra những kết luận về nguồn
gốc hình thành của dân tộc này.
Người Thái ở Việt Nam không theo một tôn giáo chính thống nào trên thế giới mà
theo một trong những tục có nghi thức thờ Nước (nặm) và Đất gọi là Cạn (bốc). Nước có
biểu tượng Thần chủ là con Rồng (Tô Luông) mang tên chủ nước (chảu nặm), và đất có biểu
tượng thần chủ là loài Chim ở núi mang tên chủ đất (chảu đin). Hai biểu tượng thần chủ
Rồng, Chim cũng là Mẹ, Cha của Mường và tục thờ này nằm trong toàn bộ nghi lễ cúng
mường (xên mương).
Theo truyền thống, Thái Đen và Thái Trắng có tục thờ Mẹ- Cha gắn với biểu tượng
thần linh Rồng- nước và Chim- cạn trong cúng Mường chéo ngược như sau:
Mường Thái Đen thờ: Mẹ - Rồng - nước > < Cha - Chim - Cạn
Mường Thái Trắng thờ: Mẹ - Chim - Cạn > < Cha - Rồng - Nước
Điều này cho thấy mối liên hệ giữa văn hóa biểu tượng cội nguồn giữa người Thái
với truyền thuyết thủy tổ người Việt (Kinh): “Mẹ thủy tổ người Kinh là bà Âu Cơ thuộc
giống Tiên (Chim lạc) ở đất, và Cha thủy tổ là ông Lạc Long Quân thuộc loài Rồng-
nước (Thủy tộc (biển). Bà Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm con trai, khi
khôn lớn thì năm mươi con trai theo cha xuống biển và năm mươi con trai theo mẹ về
núi” [41, tr. 23]. Từ đây, ta có thể hình dung được bức tranh có thể có về sự hình thành,
và phát triển văn hóa cội nguồn của hai ngành Người thuộc nhóm nói tiếng Thái có liên
hệ với Người Việt (Kinh) trong lịch sử hàng ngàn năm hình thành và phát triển:
Trong khi Mẹ thủy tổ hay thần Mẹ của ngành người Thái Trắng ở cùng
nhóm nữ với bà Âu Cơ trong tập đoàn người mang biểu tượng Chim - cạn thì
Mẹ thủy tổ, hay thần Mẹ của ngành người Thái Đen sẽ ở nhóm Nữ của tập
đoàn người có đại diện nhóm Nam là ông Lạc Long Quân mang biểu tượng
Rồng - nước. Ngược lại, Cha thủy tổ hay thần Cha của ngành người Thái
Trắng cùng nhóm Nam là ông Lạc Long Quân mang biểu tượng Rồng Nước
thì Cha của ngành Thái Đen sẽ ở nhóm Nam có đại diện nhóm Nữ là Bà Âu
Cơ trong tập đoàn người mang biểu tượng Chim - cạn [69].
Theo các nhà nghiên cứu, thì tổ tiên của người Thái đã sinh cơ lập nghiệp tại một
vùng nào đó chính trong phạm vi họ đang cư trú hiện nay, có thể từ trước công nguyên đã
có một phần người Thái cư trú chủ yếu là ở vùng Mường Thanh bây giờ. Sang những thế
kỷ đầu công nguyên, một bộ phận Thái Trắng ở đầu sông Đà, sông Nậm Na đã di cư
xuống phía Nam cư trú ở các huyện phía Bắc như mường Tè, mường Xo (Phong Thổ),
mường Lay, Quỳnh Nhai (Sơn La). Đến thế kỷ thứ XI theo “Quăm Tô Mương” cho rằng:
khởi thủy từ thời đại của anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần đưa ngành Thái Đen xuôi theo
dòng sông Hồng xuất phát từ mường Ôm, mường Ai (Vân Nam, Trung Quốc) đến
mường Lò (Nghĩa Lộ). Sau đó hậu duệ Tạo Xuông, Tạo Ngần đã khai “Mường” lập
“Tạo” tạo ra cả một vùng rộng lớn gồm rất nhiều huyện. Vùng giữa ngày nay: Thuận
Châu (Mường Muổi) thuộc tỉnh Sơn La là thủ phủ của ngành Thái Đen. Cho đến cuối thế
kỷ XIII, người Thái ở Việt Nam đã ổn định về cư trú chủ yếu ở Tây Bắc Việt Nam.
Dân tộc Thái chia thành nhiều ngành, mỗi ngành lại chia thành nhiều nhóm khác
nhau:
Thái Đen (Táy Đăm): Cư trú chủ yếu ở các tỉnh Sơn La (hầu như toàn tỉnh). Nghĩa
Lộ (mường Lò) thuộc tỉnh Yên Bái; ở tỉnh Điện Biên; Tuần Giáo tỉnh Lai Châu và một số
ở phía Tây Nam tỉnh Lào Cai.
Thái Trắng: (Táy Đón hay Táy Khao) tập trung ở Mường Lay, mường So (Phong
Thổ, Lai Châu); mường Chiến (Quỳnh Nhai); một số khác tự xưng là Thái Trắng nhưng
có nhiều nét giống Thái Đen sống tập trung ở Mường Tấc (Phù Yên), Bắc Yên; mường
Sang, Mộc Châu (Sơn La).
Nhóm Thái Hòa Bình (Mai Châu, Đà Bắc) có nét giống với các nhóm Thái ở
Thanh Hóa. Nhóm Thái ở Thanh Hóa cư trú ở mường Một- mường Đeng tự nhận mình
thuộc ngành Đeng (Tay Thanh), ngành Trắng (Tay Mường- Hàng Tổng, Tay Dọ). Nhóm
Thái Nghệ An với việc chia ngành Đen, Trắng đã mờ nhạt, họ chỉ quan tâm đến thời gian
và quê hương xuất xứ của mình khi đến nơi này.
Lịch sử phát triển của người Thái theo con đường dích dắc qua hàng ngàn năm,
nhưng với người trong nhóm nói tiếng Thái vẫn giữ mạch tư duy văn hóa lưỡng phân,
lưỡng hợp để tưởng nhớ quê cha đất tổ xa xưa nhất.
1.1.1.2. Người Thái ở Tây Bắc
Là dân tộc có số dân khá đông ở miền Tây Bắc, năm 1955 người Thái ở miền Tây Bắc
nước ta mới có 22 vạn người, thì đến năm 1989 riêng người Thái ở tỉnh Sơn La đã có khoảng
40 vạn người, năm 2005 có khoảng 52 vạn người. Có thể thấy rõ điều này khi khảo sát sự
phân bố dân cư của tỉnh Sơn La (phụ lục).
Người Thái ở Tây Bắc là bộ phận tiêu biểu của người Thái. Mặc dù có những đặc
trưng cơ bản, nhưng người Thái ở Tây Bắc vẫn chia hai ngành: Thái Trắng và Thái Đen.
Thái Trắng có thể chia thành hai nhóm địa phương: Nhóm thứ nhất cư trú ở phía
Bắc ở các huyện Mường Lay, Mường Tè, Phong Thổ, một phần ở Tuần Giáo (Lai Châu),
Quỳnh Nhai, Sình Hồ, Tủa Chùa và xã Ngọc Chiến thuộc Mường La, Sơn La. Về đại thể,
nhóm này có những đặc trưng văn hóa của một nhóm địa phương thống nhất như: cùng
một vùng thổ ngữ, cùng một loại hình sinh hoạt phong tục tập quán, văn học, nghệ thuật,
tôn giáo…Nhóm thứ hai, phân bố ở phía Nam trong các huyện Mộc Châu, Phù Yên (Sơn
La) và một phần ở Văn Chấn (Yên Bái). Nhóm này do ảnh hưởng của nhiều luồng văn
hóa khác nhau, nên chỉ có thể thống nhất trên các nét như: Cùng chung một câu chuyện
kể về nguồn gốc của sự thiên di, cùng một phong tục tập quán, một loại hình văn nghệ
dân gian. Riêng về ngôn ngữ, có hai vùng thổ ngữ: Mộc Châu và Phù Yên.
Thái Đen có những đặc trưng của một nhóm địa phương tương đối thuần nhất. Hiện
phân bố ở các huyện Văn Chấn, Than Uyên (Yên Bái); Mường La, Thuận Châu, Mai
Sơn, Sông Mã (Sơn La); Tuần Giáo, Điện Biên. Ngoài ra, còn có một phần phân bố ở các
huyện Phong Thổ, Sình Hồ, Quỳnh Nhai. Một nhóm Thái Đen có hơi khác một số điểm
về tập quán và thổ ngữ, hiện đang cư trú ở huyện Yên Châu nên thường gọi là Thái Yên
Châu.
Sự phân chia hai ngành Thái Trắng và Thái Đen ở miền Tây Bắc hiện nay, là kết
quả của một quá trình thiên di, xáo động trên những diễn biến lịch sử lâu dài và phức tạp.
Cho dù hiện nay có hai ngành Thái, chẳng qua cũng là sự chuyển hóa từ một nhóm Thái
cổ xưa nhất mà thiên di đi mỗi người một ngả. Rồi đến địa vực cư trú mới của mình, từng
nhóm một tiếp xúc với điều kiện tự nhiên và chịu ảnh hưởng của các dân tộc xung quanh
rồi xa dần cái nguyên gốc của mình. Tuy vậy, người Thái ở Tây Bắc vẫn mang trong
mình những nét văn hóa riêng, độc đáo cần được giữ gìn, kế thừa và phát huy.
Sự hình thành nhóm Thái ở Tây Bắc:
Đơn vị cư trú của người Thái được gọi là Bản và Mường. Nhiều bản hợp thành một
mường nhỏ, nhiều mường nhỏ hợp thành một Châu mường. Ngay từ đầu, các bản mường
đã phân bố tương đối đông đúc trên những vùng cư trú của ba nhóm địa phương:
ở phía Bắc- những bản mường của người Thái Trắng tập trung trong các thung lũng
ruộng đồng màu mỡ. Khoảng thế kỷ thứ VIII, Mường Lay dưới thời Lô Lạnh Lạt Ma đã
trở thành trung tâm của vùng này. Lợi dụng sự phát triển của người Thái, quưý tộc thống
trị Mường Lay đã bành trướng thế lực khắp nơi. Phía Bắc phát triển tới giáp tỉnh Vân
Nam (Trung Quốc). Từ Mường Tè ở phía Đông kéo sang đầu Nặm U (Thượng Lào) ở
phía Tây. Phía Nam phát triển dọc theo sông Đà từ Mường Chiên (Quỳnh Nhai) xuống
đến miền đất thuộc huyện Mường La ngày nay.
Phía Nam, sau đợt thiên di của người Thái Trắng từ Lào sang, bản mường bắt đầu
xuất hiện. Khoảng cuối thế kỷ thứ VIII đầu thế kỷ thứ IX dưới thời chúa Nhọt Cằm,
Mường Sang đã trở thành trung tâm của vùng này. Thế lực của quưý tộc Mường Sang đã
ảnh hưởng khắp khu vực rộng lớn. Phía Bắc đến vùng đất thuộc Mường Vạt (Yên Châu),
Phia Đông là đất Mường Tấc (Phù Yên, Sơn La). Phía Tây và miền Tây Nam là miền đất
thuộc Mường ét, Chiềng Cọ (Sầm Nưa- Thượng Lào), và phía Nam là vùng đất thuộc hai
huyện Đà Bắc, Mai Châu thuộc Hòa Bình ngày nay.
Khu vực giữa- sau khi Lạng trượng thu phục đất Mường Thanh, con cháu ông đã
nối nghiệp nhau thống trị đất này. Càng về sau anh em trưởng thứ của quưý tộc càng trở
nên bất hòa. Lợi dụng tình thế đó, các thế lực của quưý tộc Mường Lay và người Lự ở
Thượng Lào đã đánh đuổi quưýư tộc Thái Đen ở Mường Thanh. Con cháu Lạng Trượng
phải dần về ở Mường Muổi. Sau khi ổn định tại Mường Muổi, họ lại bắt đầu bành trướng
khắp vùng cư trú của người Thái Đen, kéo suốt từ vùng hữu ngạn sông Hồng sang sông
Mã. Từ đó, trung tâm Mường Muổi thời chúa Lò Lẹt đã nổi tiếng khắp vùng Tây Bắc.
Theo nhà nghiên cứu Cầm Trọng trong cuốn “Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam”, ông đã
dựa trên các tài liệu lịch sử và cho rằng: Vào khoảng thế kỷ X cho đến thế kỷ XIV, do
quưý tộc Thái Đen đã sớm quy thuận triều đình và được triều đình tin dùng, nên đã tạo
điều kiện cho thế lực này ở trung tâm Mường Muổi phát triển nhanh chóng. Vào cuối thế
kỷ thứ XIV, nơi đây đã trở thành trung tâm thống nhất bộ tộc Thái ở phía Tây. Đây là
bước phát triển rất quan trọng của xã hội người Thái ở Tây Bắc, nó đã bước đầu xóa bỏ
ranh giới giữa ba vùng cát cứ với các thế lực quưý tộc khác nhau. Thời kỳ này còn được
tăng cường thêm một bước, nhờ sự giao lưu văn hóa giữa dân tộc Thái với các dân tộc
anh em khác trên miền Tây Bắc và các vùng lân cận khác. Từ đó trở đi, cho dù người
Thái có bị phân thành từng châu mường, dù cho núi non hiểm trở và kinh tế chậm phát
triển, sự giao lưu giữa các châu mường còn hạn chế. Xã hội Thái cũng trải qua những
năm tháng bị bọn đế quốc, phong kiến chia rẽ…Nhưng lịch sử người Thái ở Tây Bắc vẫn
phát triển thành một khối. Đến nay, mặc dù người Thái vẫn có các nhóm địa phương với
hai ngành Thái Đen, Thái Trắng ở phía Bắc và phía Nam. Nhưng tựu trung lại chỉ là một
dân tộc mà tên thường gọi là “Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam”
1.1.2. Văn hóa của dân tộc Thái - bản sắc của nó
1.1.2.1. khái niệm văn hóa và bản sắc văn hóa
- Văn hóa: Là khái niệm được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội, thuật ngữ này
không những có nhiều nghĩa trong ngôn ngữ hàng ngày mà cả trong các ngành khoa học khác
nhau. Tuy nhiên, việc xác định nội hàm của nó cũng còn nhiều ưý kiến, vì thế trên thế giới hiện
nay có tới hàng trăm cách định nghĩa về văn hóa. Song, về cơ bản đều thống nhất coi văn hóa là
những gì mà con người sáng tạo để hình thành nên các giá trị, các chuẩn mực xã hội trong quá
trình lao động, hoạt động thực tiễn. Các giá trị chuẩn mực đó tác động, chi phối, điều chỉnh đời
sống tâm lý, hành vi, đạo đức và các hoạt động trên mọi lĩnh vực có sự hiện diện của con
người.Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở, mặc và
các phương thức sử dụng, toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa.
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn [35, tr. 431].
Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “Thập niên quốc tế phát triển văn hóa” tại Pháp
(21/1/1998), Tổng thư kưý UNESCO định nghĩa:
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của
cuộc sống (của mỗi cá nhân và cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như
đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ
thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân
tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình [72, tr. 23].
UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã hội, có vị trí
trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không những là yếu tố nội sinh của sự phát
triển, mà còn là mục tiêu động lực cho sự phát triển xã hội. Văn hóa giúp cho con người
tự hoàn thiện, nó quyết định tính cách riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này khác
dân tộc khác.
Nghiên cứu về văn hóa các nhà văn hóa Việt Nam cũng đưa nhiều định nghĩa khác
nhau: “Văn hóa là tất cả những sản phẩm vật chất và không vật chất của hoạt động con
người, là giá trị và phương thức xử thế được công nhận, đã khách thể hóa và thừa nhận
trong một cộng đồng truyền lại cho một cộng đồng khác và cho các thế hệ mai sau” [28,
tr.11]. Định nghĩa này nhấn mạnh trong văn hóa bao gồm các sản phẩm vật chất và các
hệ thống giá trị các mẫu mực xử thế và các hệ thống hành vi. Vấn đề cần được nhấn
mạnh ở đây là trong khái niệm văn hóa, điều quan trọng là phải được thừa nhận hoặc có
nhiều khả năng được thừa nhận trong một nhóm xã hội, và được truyền bá cho các cá thể
hoặc các nhóm trong cộng đồng.
“Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những năng lực bản chất người trong
tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống giá trị - cả giá trị vật chất và
giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn và lịch sử xã hội của
mình.” [24, tr.13-14]
Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến con người. Lịch sử văn hóa là lịch sử của con
người và loài người: Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho con người trở thành
người. Điều đó có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến con người, đến mọi cách thức
tồn tại của con người đều mang trong nó cái gọi là văn hóa. Có thể nói, văn hóa là sự phát
triển lực lượng vật chất và tinh thần, là sự thể hiện những lực lượng đó trong lĩnh vực sản
xuất vật chất và lĩnh vực sản xuất tinh thần của con người. Từ đó, văn hóa được chia làm
hai lĩnh vực cơ bản: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, sự phân chia này
chỉ có tính chất tương đối, bởi cái gọi là “văn hóa vật chất” về thực chất cũng chỉ là sự
“vật chất hóa” các giá trị tinh thần, và các giá trị văn hóa tinh thần không phải bao giờ
cũng tồn tại một cách thuần túy tinh thần, mà thường được “vật thể hóa” trong các dạng tồn
tại vật chất. Ngoài ra, còn các giá trị tinh thần tồn tại dưới dạng phi vật thể, nhưng vẫn mang
tính tồn tại vật chất khách quan như văn hóa trong các lĩnh vực đạo đức, giao tiếp, ứng xử,
lối sống, phong tục tập quán…
ở Việt Nam, khi luận bàn về văn hóa của dân tộc thường được hiểu theo hai nghĩa,
hai cấp độ khác nhau: ở phạm vi hẹp, văn hóa dân tộc đồng nghĩa với văn hóa của một tộc
người, văn hóa dân tộc hoặc văn hóa tộc người + tộc danh, là một chi tiết của văn hóa nói
chung. Phạm vi rộng, văn hóa dân tộc là văn hóa chung của cả cộng đồng tộc người (Nation)
sống trong cùng một quốc gia.
Văn hóa tộc người là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, cũng như những
quan hệ xã hội được sáng tạo trong điều kiện môi trường sinh tụ của một tộc người, phản
ánh những nhận thức, tâm lưý, tình cảm, tập quán riêng biệt được hình thành trong lịch
sử của tộc người đó. ở các quốc gia đa dân tộc, văn hóa của các tộc người đan xen, hấp
thụ lẫn nhau tạo nên nét chung của văn hóa quốc gia, của cả cộng đồng dân tộc, và mỗi
nền văn hóa đều có những giá trị riêng của nó.
Giá trị văn hóa: “là cái dùng để căn cứ vào đó mà xem xét, đánh giá, so sánh nền
văn hóa của dân tộc này với nền văn hóa của dân tộc khác, là cái để xác định bản sắc văn
hóa của một dân tộc, những nét đặc thù về truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống của
một dân tộc trên nền tảng các giá trị chân, thiện, ích, mỹ” [60, tr.19]
Bản chất đặc trưng của văn hóa là chiều cạnh trí tuệ, năng lực sáng tạo, khát vọng
nhân văn biểu hiện ở hoạt động sống của mỗi cá nhân, cộng đồng, dân tộc. Mục đích của
giá trị văn hóa là nhằm hướng tới các giá trị nhân bản, hướng tới sự hoàn thiện của mỗi
cá nhân và của cộng đồng, dân tộc. Mặc dù, tiêu chuẩn của các giá trị văn hóa của các
cộng đồng, dân tộc là không như nhau. Giá trị văn hóa còn mang tính khách quan, không
phụ thuộc vào bất cứ cái gì từ bên ngoài áp đặt vào để trở thành văn hóa của một cộng
đồng, một dân tộc. Không thể căn cứ vào văn hóa của một dân tộc nào đó để làm tiêu chí
xem xét, đánh giá nền văn hóa của các dân tộc còn lại là cao hay thấp, phát triển hay
không…điều đó sẽ rơi vào bệnh chủ quan, tạo nên sự nô dịch hay sự áp đặt về văn hóa.
Có thể nói, giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng, dân tộc như là “mật mã di truyền xã
hội” của tất cả các thành viên sống trong cộng đồng, dân tộc đó, đã được tích lũy lắng
đọng trong quá trình hoạt động của mình. Chính quá trình đó đã hình thành nên bản sắc
văn hóa riêng của dân tộc họ. Cộng đồng sẽ bền vững khi nó trở thành dân tộc. Yếu tố dân
tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền văn hóa, bởi: “Nói đến văn hóa là nói đến dân tộc;
một dân tộc đánh mất truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc thì dân tộc ấy sẽ mất tất cả”
[65, tr.13]. Một dân tộc đánh mất bản sắc văn hóa, dân tộc ấy đã đánh mất chính mình,
một nền văn hóa có tính dân tộc, là nền văn hóa mang đầy đủ bản sắc của dân tộc. Chính
vì vậy, việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc,
là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với sự tồn vong của mỗi dân tộc.
- Bản sắc văn hóa:
Theo từ điển Tiếng Việt, bản sắc chỉ tính chất, mầu sắc riêng, tạo thành phẩm cách
đặc biệt của một vật [42].
Bản sắc văn hóa có thể hiểu là cái cốt lõi, nội dung, bản chất của một nền văn hóa
cụ thể nào đó, là những nét văn hóa riêng có của nền văn hóa một dân tộc. Những nét
riêng ấy thường được biểu hiện qua các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, vật thể và
phi vật thể. Các giá trị văn hóa này ra đời gắn với chính điều kiện môi sinh mà dân tộc ấy
thích nghi và phát triển qua các giai đoạn phát triển khác nhau của một dân tộc. Những
giá trị văn hóa ấy, cho dù có trải qua những thăng trầm, biến cố của lịch sử nó không
những không mất đi, mà cùng với thời gian, nó còn tiếp nhận những cái hay, cái đẹp, cái
phù hợp của văn hóa các dân tộc khác làm phong phú, đặc sắc hơn cho văn hóa dân tộc
mình, làm cho nó là nó chứ không phải là cái khác. Khi nói đến một trong những nét đặc
trưng văn hóa ấy, người ta có thể dễ dàng nhận ra đó là dân tộc nào mà không cần phải
gọi tên.
Bản sắc văn hóa là một sức mạnh, là sức mạnh nội tại của dân tộc. Nó là hạt nhân
năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ đời này qua đời khác. Bản sắc
văn hóa làm cho một dân tộc luôn là chính mình:
Một dân tộc qua các biến cố lịch sử một lúc nào đó, một thời đại nào đó
có thể mất độc lập, bị người ngoài đô hộ nhưng nếu dân tộc ấy vẫn giữ được
tiếng nói của mình, vẫn giữ được vốn văn nghệ dân gian, vẫn giữ và phát triển
được bản sắc văn hóa của mình, thì dân tộc ấy vẫn nắm chắc trong tay chìa
khóa của sự giải phóng, chìa khóa của tự do, độc lập [6, tr. 48].
Bản sắc văn hóa còn là mối liên hệ thường xuyên, có định hướng của cái riêng (văn
hóa dân tộc) và cái chung (văn hóa nhân loại). Mỗi dân tộc trong quá trình giao lưu văn
hóa, sẽ cống hiến những gì đặc sắc của mình vào kho tàng văn hóa chung. Đồng thời tiếp
nhận có lựa chọn, nhào nặn thành giá trị của mình, tạo ra sự khác biệt trong cái đồng nhất
đó chính là bản sắc văn hóa của một dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc không phải là một
biểu hiện nhất thời, nó có mối liên hệ lâu dài, sâu sắc và bền vững trong lịch sử và đời
sống văn hóa dân tộc.
Bản sắc dân tộc gắn liền với văn hóa và thường được biểu hiện thông qua văn hóa.
Vì vậy, có thể coi bản sắc dân tộc của văn hóa hoặc bản sắc văn hóa dân tộc: “Bản sắc
chính là văn hóa, song không phải bất cứ yếu tố văn hóa nào cũng được xếp vào bản sắc.
Người ta chỉ coi những yếu tố văn hóa nào giúp phân biệt một cộng đồng văn hóa này với
một cộng đồng văn hóa khác là bản sắc” [64, tr.13].
“Bản sắc văn hóa dân tộc” là tổng hòa những khuynh hướng cơ bản trong sáng tạo
văn hóa của một dân tộc, vốn được hình thành trong mối liên hệ thường xuyên với điều
kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, các thể chế, các hệ tư tưởng…trong quá trình vận động
không ngừng của dân tộc đó” [18, tr. 37].
Khi nói tới bản sắc văn hóa của một dân tộc, cũng có nghĩa là nói tới bản sắc riêng
của dân tộc ấy, hay nói cách khác bản sắc văn hóa là cái cốt lõi của bản sắc dân tộc. Bởi
bản sắc của dân tộc không thể biểu hiện ở đâu đầy đủ và rõ nét hơn ở văn hóa. Sức sống
trường tồn của một nền văn hóa khẳng định sự tồn tại của một dân tộc, khẳng định bản
sắc và bản lĩnh của dân tộc ấy.
Bản sắc văn hóa dân tộc có hai mặt giá trị. Giá trị tinh thần bên trong và biểu hiện
bên ngoài của bản sắc dân tộc có mối quan hệ khăng khít củng cố thúc đẩy nhau phát
triển. Văn hóa không được rèn đúc trong lòng dân tộc để có bản lĩnh, trở thành sức mạnh
tiềm tàng bền vững thì bản sắc dân tộc của văn hóa sẽ mờ phai. Ngược lại, nếu văn hóa tự
mình làm mất đi những màu sắc riêng biệt, độc đáo của mình, sẽ làm vơi chất keo gắn kết
tạo thành sức mạnh bản lĩnh của văn hóa.
Nguồn gốc tạo thành bản sắc văn hóa dân tộc có thể do nhiều yếu tố như: hoàn
cảnh địa lưý, nguồn gốc chủng tộc, đặc trưng tâm lưý, phương thức hoạt động kinh tế.
Nhưng bản sắc văn hóa dân tộc, không thể không xuất phát từ những yếu tố tạo thành dân
tộc. Vì thế hiểu khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc phải hiểu theo khái niệm phát triển,
khái niệm mở. Nó không chỉ là hình thức mà còn là nội dung đời sống cộng đồng, gắn
với bản lĩnh các thế hệ các dân tộc Việt Nam. Nghị quyết hội nghị BCH TW lần thứ V
khóa VIII của Đảng đã chỉ rõ:
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ưý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ưý thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia
đình- làng xã- Tổ quốc…Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong cả hình
thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo [16, tr.56].
Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị tiêu biểu, bền vững, phản ánh sức sống của
từng dân tộc, nó thể hiện tập trung ở truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là các
giá trị do lịch sử để lại được thế hệ sau tiếp nối, khai thác và phát huy trong thời đại của
họ để tạo nên dòng chảy liên tục của lịch sử văn hóa các dân tộc. Khi đã được hình thành,
truyền thống mang tính bền vững và có chức năng định hướng, đánh giá, điều chỉnh hành
vi của cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên, khái niệm bản sắc văn hóa không phải là sự bất
biến, cố định hoặc khép kín mà nó luôn vận động mang tính lịch sử cụ thể. Trong quá
trình này nó luôn đào thải những yếu tố bảo thủ, lạc hậu và tạo lập những yếu tố mới để
thích nghi với đòi hỏi của thời đại. Truyền thống cũng không phải chỉ bao hàm các giá trị
do dân tộc sáng tạo nên, mà còn bao hàm cả các giá trị từ bên ngoài được tiếp nhận một
cách sáng tạo và đồng hóa nó, biến nó thành nguồn lực nội sinh của dân tộc.
Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số gồm nhiều loại hình, nhiều tầng, nhiều
lớp, nhiều sắc màu, nhiều mức độ và quy mô khác nhau, tạo nên giá trị to lớn là nền tảng
bền vững của bản sắc dân tộc. Nguồn nuôi dưỡng vô tận tâm hồn và đời sống tinh thần
của đồng bào các dân tộc. Đây là kho của cải vô giá, di sản vô cùng quý báu của văn hóa
Việt Nam. Việc nhận diện đúng về bản sắc văn hóa mỗi dân tộc và các dân tộc thành viên
là việc làm hết sức có ưý nghĩa. Bởi lẽ, việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc phải có sự chặt chẽ, hài hòa và thực hiện theo định hướng, đường lối của Đảng,
Nhà nước và ưý thức dân chủ tự nguyện của nhân dân.
1.1.2.2. Văn hóa của dân tộc Thái
Nói đến văn hóa của dân tộc Thái là ta nói đến hệ thống những giá trị văn hóa do
chính cộng đồng tộc người đó tạo ra và là sản phẩm của con người bao gồm nhiều lĩnh
vực khác nhau: văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và văn hóa thiết chế xã hội...Như đã
trình bày ở phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ trình bày những giá trị văn hóa đặc trưng
thuộc về văn hóa của dân tộc Thái:
Trước hết, nói đến văn hóa của dân tộc Thái là phải nói đến một loại hình văn hóa
thung lũng. Bởi lẽ, với những đặc điểm đặc thù về điều kiện tự nhiên của miền Tây Bắc
đã hình thành nên một nền văn hóa tương ứng, đó là loại hình văn hóa thung lũng.
Nói đến văn hóa thung lũng, nghĩa là muốn nói đến mối quan hệ giữa tộc người
này với môi trường sinh sống là thung lũng lòng chảo. Điều này cũng nói lên khả năng
thích nghi của con người với tự nhiên bằng văn hóa của mình. Văn hóa thung lũng của
dân tộc Thái có các đặc trưng sau:
Cảnh quan địa lý là những thung lũng lòng chảo lọt vào vùng núi cao, rừng sâu,
dầy khe, vực, sông suối cắt xẻ địa hình. Khí hậu hai mùa rõ rệt.
Từ lâu dân tộc này đã tạo lập các cánh đồng lúa, đối tượng tác động chính của lao
động xã hội.
Vùng sườn dốc nằm ở vành đai của các lòng chảo thì làm nương theo các phương
pháp phát, đốt, chọc lỗ, tra hạt, có tác dụng bổ sung vào hệ thống trồng trọt. Đây là đặc
trưng chủ yếu nhất trong toàn bộ hệ thống văn hóa thung lũng của dân tộc.
Các nóc nhà cư trú thành từng cụm theo hình thức mật tập gọi là bản, được tự do
khai thác tự nhiên. Ngoài việc chính làm ruộng và làm nương, mỗi một hộ gia đình đều
tiến hành nuôi gia súc, gia cầm, làm các nghề thủ công, trong đó nổi lên là nghề trồng
bông dệt vải và tiến hành hái lượm, săn, thu bắt hải sản ở sông suối.
Các bản nằm trên đường vành đai thung lũng và nhiều bản hợp thành mường. Bản
là lãnh thổ cộng đồng tộc người, trong khi mường thì thường có nhiều cộng đồng tộc
người. Trong một mường, người Thái bao giờ cũng chiếm đa số và tiêu biểu.
Giao thông vô cùng cách trở vì thung lũng nọ cách thung lũng kia là cả chiều dầy của
núi non, bị che chắn bởi núi cao, vực sâu, rừng dầy, suối khe..
Đây là nền văn hóa tiền công nghiệp, được hình thành từ lao động tự cung tự cấp,
chưa đạt tới trình độ trong đó chứa đầy chất men cần thiết để kích thích sự phát triển xã
hội.
Tóm lại, người Thái là một trong những dân tộc có khả năng thổi vào tự nhiên một
sức sống mới khác với tự nó. Khả năng ấy chính là chiều dầy của văn hóa phát triển
thành truyền thống. Giờ đây, khi mà khoa học phát triển mạnh và cơ chế thị trường thì
liệu có thể giữ gìn và phát huy được dòng truyền thống này không? Điều này còn phụ
thuộc vào khả năng phát huy bản lĩnh và bản sắc dân tộc đã tạo ra được các mô hình thích
nghi mới trong hệ sinh thái nhân văn của mình.
- Các giá trị văn hóa vật chất:
+ Văn hóa nông nghiệp Thái: Sống với điều kiện tự nhiên môi sinh có nhiều điểm
đặc thù cho nên, định hướng tác động trong khai thác tự nhiên truyền thống của người
Thái là đồng ruộng lòng chảo và nương rẫy trên sườn núi. Hàng ngàn năm nay, dân tộc
này đã có những biện pháp dẫn thuỷ nhập núiđiền, đúc rút được tập quán làm thuỷ lợi
bằng biểu tượng ngôn ngữ (điều mà không phải bất cứ cộng đồng người làm ruộng nào
cũng làm được). Người Thái có bốn chữ nói lên bốn giải pháp: Mương, Phai, Lái, Lin.
“Đây là mặt biểu hiện cụ thể của văn hóa lúa nước có cội nguồn từ cư dân nói tiếng Tày-
Thái cổ, trải qua các giai đoạn lịch sử của nó, không những đọng lại trong ngôn ngữ Thái
mà còn có ở ngôn ngữ văn hóa Việt - Mường” [10]. Yếu tố đầu tiên trong văn hóa mưu
sinh của tộc người Thái là việc làm ruộng nước, nó trở thành động lực phát triển lịch sử
cộng đồng tộc người theo mạch vừa tụ cư, vừa định cư, lan tỏa chung cho cả nhóm nói
tiếng Thái. Việc khai khẩn vùng đất hoang vu thành cánh đồng trồng lúa trở thành hàng
đầu trong hệ thống kinh tế cổ truyền Thái. Trong đó, cùng với việc vỡ đất phải giải quyết
ngay khâu dẫn nước từ các dòng chảy tự nhiên vào tưới tiêu, sao cho cánh đồng trồng lúa
hợp lý với vùng tự nhiên của nó. Từ đó, dòng nước thiên nhiên gắn chặt với các khâu của
công trình thủy lợi truyền thống, mà người Thái quen lấy Mương làm tiêu biểu chung “có
nước mới có mương, có mường mới có Tạo”. Nước đã sinh ra tổ chức xã hội mang tên
Mường, mường xưa có người đứng đầu mang tên Tạo. Tạo lại trở thành pháp nhân đứng
ra tổ chức xã hội, tác động và biến tự nhiên thành ruộng lúa, cung cấp cho con người thóc
gạo. Giải pháp nước (văn hóa Thủy lợi) được người ta đặt lên hàng đầu trong việc làm
ruộng nước.
Qua hệ thống Mương, Phai, Lái, Lin, người Thái đã sớm tích lũy được một số kinh
nghiệm để dẫn nước tưới ruộng theo phương pháp thủ công và thu được những hiệu quả
nhất định, cho cuộc sống lao động sản xuất của dân tộc Thái trong một thời gian dài. Song
song với việc sản xuất lương thực trên ruộng nước, người Thái còn làm nương rẫy. Trên
một diện tích nương, tập quán Thái chỉ thực hiện ba vụ cũng là ba năm hay ba mùa, đến
năm thứ tư phải phá rừng làm nương mới. Một gia đình nông dân Thái chỉ cần phá rừng
làm bốn đám nương luân chuyển đã khép kín trong chu kỳ 12 năm. Thời gian đó là
khoảng thời gian đủ cho rừng nhiệt đới tái sinh và người dân có thể trở lại canh tác trên
diện tích ban đầu. Trong cấu trúc văn hóa mưu sinh, hình thức canh tác nương rẫy chiếm
phần quan trọng sau làm ruộng, nằm trong lãnh thổ bản.
+ Công cụ lao động: Dân tộc Thái trên bước đường phát triển của mình không thể
không biết sử dụng các công cụ kim loại, trong sản xuất cũng như trong sinh hoạt. Tuy
nhiên, trong chế tác những kim loại đó, họ chưa có kỹ thuật nấu, đúc, khoan mà chỉ biết
rèn, gò ở trình độ thô sơ, đơn giản. Như đã nói đến ở trên, trong tổng thể văn hóa thung
lũng với nền nông nghiệp phức hợp thì việc sản xuất các công cụ lao động tinh xảo, hầu
như chưa được chú ý lắm. Trong sáng tạo văn hóa trên cánh đồng lòng chảo và làm nương
rẫy trên các sườn dốc, dân tộc này chỉ cần có bốn công cụ kép có lưỡi kim loại là: Dao
(mịt hay pạ), rìu (khoan), cày (thay), và mai (lủa).
Từ rất lâu dân tộc này đã coi con dao là công cụ lao động quan trọng bậc nhất trong
việc tạo ra những giá trị văn hóa, đặc biệt là văn hóa vật chất. Có nó, người ta lấy gỗ, tre
dựng nhà ở, tạo ra các công cụ và vật dụng cho sinh hoạt hàng ngày, dùng để chế biến
thức ăn, phát cây cỏ, làm nương rẫy...Trong cung cách làm ăn ấy, dao được xem như
công cụ vạn năng hầu như lúc nào cũng được người chủ mài sắc.
Cày và Mai là công cụ không thể thiếu được trong sản xuất trên đồng áng của dân
tộc Thái. Theo truyền thống, cày và mai là công cụ lao động của nam giới vì cho rằng
đây là công việc nặng nhọc, phụ nữ kiêng không sử dụng công cụ này. Ngoài dao, rìu
việc làm nương còn có các công cụ khác như chiếc cuốc, vách, thuổng. Công cụ để gieo
hạt là chiếc gậy vót nhọn để chọc lỗ tra hạt. Trong quá trình làm ruộng còn có chiếc bừa,
theo cách làm ăn xưa thường làm bừa răng gỗ. Công cụ thu hoạch gồm có: liềm, nhíp,
néo, ván đập lúa và quạt đan tay bằng tre, nứa...
+ Nhà ở: Theo truyền thống thì người Thái ở nhà sàn làm bằng gỗ, tre, nứa…lợp
bằng cỏ tranh. Họ hiểu, không chỉ riêng dân tộc mình ở nhà sàn, nhưng ở trong tâm thức
vẫn coi đây như một trong những nét văn hóa của dân tộc mình. Điều này được biểu hiện
trong câu tục ngữ: “nhà Thái - nhà có gác - đầu hồi có cột”. Nhà sàn của người Thái
không phải dùng đến một mẩu sắt nào trong thiết kế xây dựng. Thay vào những cái đinh
đóng là cả một hệ thống dây chằng, buộc, thắt khá công phu và tinh xảo bằng lạt tre,
giang, mây và một số loại vỏ cây chuyên dụng. Để nối các cột kèo, người ta dùng những
đòn dầm xuyên suốt các lỗ đục của các cột làm cho ngôi nhà rất chắc chắn, đủ sức chống
nắng, mưa, gió, bão...Nhìn vào cấu trúc mái, có thể phân biệt được kiểu nhà của từng
nhóm địa phương khác nhau. Nhà sàn của người Thái Đen và Thái Trắng ở Mộc Châu,
Sơn La thì có mái “vòm khum mai rùa” và thường đặt ở hai đầu hồi biểu tượng tạc bằng
gỗ quét vôi trắng hai thanh tre, tựa như hai đôi sừng gọi là khau cút. Nhà sàn của người
Thái trắng ở Mường Lay, Mường Tè, Phong Thổ (Lai Châu) do có mặt phẳng hình chữ
nhật gần vuông nên có 4 mái thẳng và gấp góc...Nếp nhà sàn là một đơn vị không gian
chứa đựng tế bào của xã hội. Đó có thể là một gia đình nhỏ gồm một cặp vợ chồng và
con cái chưa đến tuổi trưởng thành, cũng có thể là tổ hợp gia đình lớn có từ hai cặp vợ
chồng trở lên và đàn con cháu của họ. Dù gia đình nhỏ hay lớn, đều có một sự thống nhất
cộng đồng tộc người trong giải pháp nội thất xử lý phân chia mặt bằng thành khái niệm:
Phân đôi không gian dọc theo chiều đòn nóc thành hai phần. Tục ngữ Thái có câu
“đầu gối đất, chân kề nước” quy định tập quán nơi ngủ thống nhất quay đầu về sườn núi,
đó cũng là “mé đầu” hay “phía trên” của thân nhà; duỗi chân về phía cánh đồng hay dòng
suối, sông con, đây là “mé chân” hay “ phía dưới”. Từ đó, nẩy sinh việc bố trí, sắp xếp
thành một nửa là các gian ngủ của gia đình. Trong nửa phía trên (đầu) chủ nhà bao giờ
cũng nằm kề sát gian thờ tổ tiên, tục gọi là “ngủ cài hóng”. Nếu là gia đình lớn thì tiếp đó
là gian ngủ theo thứ tự con cả đến con thứ…nửa phía dưới (chân) là nơi để tiếp khách,
đặt bếp núc và giành cho sinh hoạt ban ngày.
Phân đôi bổ ngang theo chiều quá giang. Một bên là cầu thang dẫn lên lan can đi
vào cửa chính bên hồi để vào nội thất. Đầu tiên sẽ thấy “phía trên” có gian thờ tổ tiên như
được giấu kín trong buồng có vách ngăn - hóng; đối diện ở phía dưới có khoang gọi là
“gian cửa sổ tựa” để ngồi tựa hóng mát, tiếp khách lạ và quưý, đọc và viết lách khi cần
thiết. Giữa nhà, nơi giáp với chân chỗ ngủ của chủ nhà thường đặt thêm một bếp để sum
họp gia đình. Nửa này tính từ phía giữa gian nhà đổ về phía lan can hồi được gọi là
“quản”, quy định giành chủ yếu cho các sinh hoạt đàn ông. Một bên cầu thang dẫn lên
sàn phơi và nơi đặt nước dùng. Sàn phơi là nơi để thanh thiếu nữ ngồi kéo sợi, làm vải và
là nơi ngồi tâm tình cùng người yêu vào buổi tối. Qua cửa chính vào nội thất ở “phía
dưới” sẽ tiếp ngay với bếp ăn hàng ngày và đối diện về “phía trên” là nơi trang điểm và
sinh hoạt của phái đẹp - gọi là “cửa sổ gương”. Nửa này tính từ giữa nhà đổ về phía sàn
phơi gọi là “chan” quy định giành chủ yếu cho các sinh hoạt đàn bà, gắn với công việc
nội trợ.
Nếp nhà sàn còn là không gian chứa đựng văn hóa tâm linh. Theo cách tư duy
truyền thống này thì ngôi nhà sàn còn là nơi “trú ngụ của các linh hồn” mỗi thành viên
trong gia đình, được tập trung vào khái niệm linh hồn chủ nhà có vật tượng trưng là “cột
chủ áo” treo “thanh gươm thiêng của tông tộc”. Sự tín ngưỡng linh hồn gắn liền với nếp
nhà sàn, nó không những biểu hiện trong cuộc sống hàng ngày mà còn sống động trong
văn học, âm nhạc, nhảy múa…Nếp nhà sàn còn mang ý niệm là “nơi chứa đựng cộng
đồng những người thuộc dòng máu cha” nên có tên “nhà tông - nhà cúng”. Riêng trong
nhà của những người thuộc dòng họ quý tộc thì có thêm gian thờ ở mé ngoài giáp lan can
phía quản, gọi là chong căm.
+ Vải vóc và các biểu hiện văn hóa: Theo truyền thống của dân tộc Thái, theo phân
công tự nhiên thì việc làm ra vải là lao động chủ yếu của nữ giới. Tập quán, xã hội Thái
đã rèn luyện cho người phụ nữ một tay nghề làm vải rất tài hoa, là con gái Thái thì không
được phép ngừng tay làm vải và phải đạt tới trình độ tinh xảo như câu tục ngữ: “xấp đôi
tay đã thành hoa văn, ngửa bàn tay đã thành hoa lá”. Nếp sống xưa cho rằng: Biết làm
vải thì mới là phụ nữ, bằng không thì cho dù người phụ nữ đó dù có chăm chỉ mọi việc
khác đến đâu, cũng bị xã hội cho là chây lười, thường thì không ai muốn lấy làm vợ.
Người đàn bà sành nghề làm vải thì được bản mường tặng danh hiệu “Đàn bà tám cạnh
sắc nét”.
Trong văn hóa dân tộc Thái, vải vóc chứa đựng bốn khái niệm:
Thứ nhất, nó được coi như vật tượng trưng cho phái đẹp. Người Thái có câu thành ngữ
“thân hình cao thanh, óng ánh trong, tựa giải lụa”, và cái nết của người đẹp đó là: “Vui làm
vui ăn. Vui quay xa thành sợi. Vui kéo sợi ươm tơ”.
Thứ hai, nó là vật dùng trong suốt cả cuộc đời một con người.
Thứ ba, vải vóc là vật tượng trưng cho sự giàu sang trong xã hội. Trong cuộc sống
thường ngày, người ta coi vải vóc là sản phẩm quý. Tuy giá trị của nó kém vàng, bạc,
châu báu nhưng xét về yếu tố xã hội chứa trong nó, thì các sản phẩm này có giá trị như
nhau. Bởi thế, hiện tượng coi tiền bạc hơn phúc đức cha, mẹ mới bị dư luận lên án mạnh
mẽ.
Thứ tư, vải vóc là văn hóa kỹ thuật mà người sản xuất phải trải qua quá trình hiểu
biết mới làm ra được. Bởi việc làm ra vải là cả một quá trình dài có thể chia làm hai giai
đoạn chính trong đó bao gồm nhiều những công việc khác nhau: Trước hết là trồng bông
và từ bông dệt thành vải. Sau đó là công đoạn nhuộm sợi cũng rất phức tạp và cầu kỳ.
Tấm thổ cẩm là một dải vải hoa văn dày, màu sắc tươi mát, phong phú, trong đó, màu đỏ
đóng vai trò chủ đạo được nhuộm bằng cánh kiến nấu pha với nhựa cây rừng.
Khung cửi Thái không thể dệt được vải khổ rộng quá 50 cm, cách đo vải thì tính
bằng đốt tay, nắm tay, khuỷu tay, một bên sải và sải tay. Cứ 4 sải thì được một đơn vị gọi
là Chầu, 10 chầu một đơn vị gọi là Ton. Khi đã có vải vóc, người phụ nữ Thái lại phải
đảm bảo biến các nguyên liệu này thành sản phẩm tiêu dùng, đáp ứng các yêu cầu khác
nhau của đời sống. Điều này đòi hỏi ở họ có sự hiểu biết để thể hiện làm sao cho mỗi
thành phẩm có thể chứa đựng được bản sắc văn hóa dân tộc mình...
+ Mặc: Người khác dân tộc đã không sai khi đã nhận xét rằng, người Thái là một
cộng đồng tộc người biết mặc và mặc đẹp. Trang phục của họ phân biệt theo giới; trang
phục thường ngày với lễ phục; khi chết và để tang; lúc đi làm ngoài đồng, nương rừng
với ở nhà; mùa nóng bức với những tháng đông lạnh giá trong năm; hai độ tuổi chưa
thành niên với khi đã trưởng thành và khi nhắm mắt xuôi tay.
Nam giới: Cách ăn vận truyền thống của nam giới dân tộc Thái là: Khi đã lớn thì mặc
quần ta, không dải rút mà khâu cạp để thắt dây lưng, quần chỉ có hai loại quần dài và quần
đùi. áo thì có hai kiểu: thường ngày và lễ phục.
Thường ngày, mặc áo cánh mang tên “mở lòng” có đính cúc hoặc khuy tết bằng dây
vải, hai bên sườn giáp hông có đường xẻ để thân áo không bị bó sát vào người, ở đây
người ta đính thêm vật trang trí, gọi là “quả chỉ”. Mặt trước ta thấy túi ở mé dưới hai vạt.
Nếu là áo người Thái Đen thì có thể có hoặc không túi ngực bên trái, nhưng áo người
Thái Trắng ở phía Bắc thì phải có. Không phân biệt Thái Đen hay Thái Trắng, bộ quần áo
nam phục thường ngày thường là màu đen.
Lễ phục, kiểu quần không đổi, nhưng người ta mặc áo dài, cắt theo kiểu xẻ nách
tương tự như áo dài của người Kinh.
Nữ giới: Trang phục nữ Thái đượm vẻ đẹp bản sắc văn hóa dân tộc. Điều này luôn
chiếm ưu thế rõ rệt trong các nét văn hóa độc đáo của dân tộc Thái. Nó không những đẹp
về kiểu dáng mà hơn hết, nó còn làm tăng vẻ đẹp trời ban cho người phái nữ: “Y phục
Thái nổi tiếng bởi sự hài hòa giữa cái che và cái phô ra, giữa cái giản dị mà không kém
phần lộng lẫy”[44, tr. 34]. “Và cũng nhờ lẽ đó mà cụm từ “cô gái Thái” đã trở thành ngôn
ngữ biểu tượng văn hóa Folklore Việt Nam” [51, tr. 145]. Đã là nữ giới đã trưởng thành
thì mặc váy khâu liền (váy ống) dài chấm gót chân, không có màu nào khác ngoài màu
đen. Mép dưới ở bên trong lòng váy thì được táp một dải vải bề rộng từ 3-4 cm, màu phổ
biến là đỏ, ngoài ra có thể là màu xanh, vàng, hoa...nhưng tuyệt đối không phải là màu trắng.
Đầu váy có cạp, khâu bằng dải vải màu đỏ, trắng hoặc xanh, miễn không đồng màu đen với
thân váy để khi mặc dễ nhìn thấy phần bắt buộc phải dùng dải thắt lưng phủ ở bên ngoài. Dải
cạp là để gập mép sao cho váy bó sát thân eo, làm đường thắt lưng nổi cộm rõ vòng eo.
Khác với váy, áo phụ nữ có nhiều hình vẻ, màu sắc hơn. áo cổ truyền có hai kiểu:
Trong ngày thường cũng như khi cần thiết, người ta mặc một thứ áo tên là “áo cỏm”
(cỏm có nghĩa là cộc, cụt và ngắn). áo cỏm có áo ngắn tay và dài tay. Chữ “cỏm” ở đây
ứng với độ ngắn, dài trong số đo từ eo thắt dưới ngực. Nhìn vào chiếc áo cỏm, ta sẽ thấy
ngay cái gọi là cộc của áo được giới hạn ở phần áp chót thân áo mà không phải ở hai bên
cánh tay. Chính vì vậy, mới đòi hỏi việc cắt khâu phải có kỹ thuật để chiếc áo vừa với
thân người mặc thể hiện thẩm mỹ của người Thái. Cắt áo phải đúng kích cỡ của chiều
rộng sao cho chiếc áo che phủ toàn thân thật kín đáo, nhưng khi mặc phải bó rất sát để
hình dáng thân thể như được phô ra. Nách áo phải được chiết sao cho ngực nở căng tròn,
đạt tới tiêu chuẩn như câu ngạn ngữ: “mình thon vú dựng”. Kỹ thuật này làm cho cơ thể
và hai chi trên tưởng như bị áo bó chặt nhưng vẫn hoàn toàn tự do khi vận động. Điều
đặc biệt hơn cả là việc tạo dáng áo cỏm, từ lâu đã trở thành tiêu chí nhận biết cách ăn vận
theo từng nơi hoặc từng nhóm địa phương. áo cỏm của người Thái Đen thì dải viền hai
vạt để cài cúc không liền với cổ áo, áo của người Thái Trắng thì cổ và đường viền đó liền
một dải nên có tên là “áo liền cổ” (xửa co diên). áo Thái Đen do đó dựng theo kiểu cổ
đứng, còn áo Thái Trắng phải tạo ra cách để đường viền bó ôm lấy cổ. Trên hai đường
viền vạt áo xẻ ngực, người ta thường cài cúc đồng, nếu không có thì thay bằng hạt cườm.
Lúc ăn diện thì mặc áo cỏm cài cúc bạc (má pém), đây là một phần đẹp, hấp dẫn của
trang phục nữ Thái. Cúc bạc có hình dẹt, mỏng được khâu đính bám trên hai dải vạt áo
chạy suốt từ cổ qua ngực xuống eo thắt. Trên vạt áo cúc bạc được khâu xếp đối xứng
thành từng đôi, dải thành hai hàng, bên phải là những con đực (Tô po) và bên trái là
những con cái (Tô me). Vì làm bằng bạc nên bộ khuy này khá bền, có bộ không những
chỉ dùng suốt đời Mẹ mà còn truyền sang đời con.
Nói đến bộ trang phục nữ, ta không thể không kể tới dải thắt lưng dệt bằng sợi tơ tằm
có chiều dài hơn 2m. Nó không chỉ là vật để thắt giữ váy xiết vào thân mà còn là chỗ để tạo
dáng thắt đáy lưng ong của phái đẹp. Màu thắt lưng là tín hiệu xác định hai độ tuổi. Nếu
như ở tuổi niên thiếu đến tuổi 30 người ta dùng thắt lưng màu xanh, những lứa tuổi sau đó
chuyển sang màu tím.
Trang phục nữ Thái Đen còn có khăn Piêu màu đen, hai đầu có thêu những hoa văn
hình kỷ hà bằng chỉ nhiều màu sắc có những chùm hoa vải tết hoặc thêu gọi là cút.
Truyền thống cút piêu phải lẻ để xếp thành chùm 3, 5 để biểu thị sự trung thành của
người đàn bà với chồng con (số lẻ là tượng trưng cho sự chung thủy và số chẵn là lứa
đôi), không xếp chẵn vì cho rằng số chẵn đôi lứa rẽ hai ngả. Nữ Thái trắng không chít
khăn piêu mà thường mua khăn vuông len hoặc khăn bông trắng để cuốn.
Kiểu tóc của phụ nữ Thái cũng phân biệt hai ngành đen và trắng. Khi chưa chồng,
nữ Thái Đen búi tóc đằng sau gáy (khót phôm), khi có chồng thì búi tóc ngược lên đỉnh
đầu để hơi nghiêng về phía bên trái (tằng cẩu). Chồng chết, trong thời gian để tang thì
búi ở lưng chừng giữa đỉnh đầu với gáy gọi là búi tóc kiêng, hết tang lại búi tóc ngược
như khi chồng còn sống. Nữ Thái trắng thì không dùng tóc làm tín hiệu báo có hoặc
không chồng mà chỉ búi đằng sau hay cuốn vấn trên đầu, nhưng không vấn bọc khăn như
kiểu nữ người Kinh mà ở đằng sau, búi tóc được hạ xuống thấp để lăn đi lăn lại trên vai.
+ Ngủ: Là một trong những nét sinh hoạt văn hóa, truyền thống lâu đời của dân tộc
Thái. Tục ngữ Thái có câu: “ăn tốt, ngủ ấm, thọ tới tuổi già” đã biểu thị hiểu biết của tộc
người này về mối tương quan giữa chế độ ăn, uống và giấc ngủ với sức khỏe và tuổi già.
Vì vậy, người phụ nữ còn dồn cuộc đời lao động của mình vào việc sản xuất bộ để ngủ.
Đây là một dân tộc không theo nếp nằm chiếu, giường mà quanh năm phải trải đệm. Nằm
đệm đắp chăn đến ngày nay vẫn là nếp sống phổ biến của người Thái. Bộ vật dụng cần
cho ngủ bao gồm: đệm (xứa), chăn (pha), gối (mon), màn (dắn), rèm (man), cót (sát),
chiếu (phụ). Nó không những làm cho con người ấm cúng mà còn là sản phẩm tượng
trưng cho sự chăm chỉ và giầu có, biếng nhác và nghèo nàn của mỗi gia đình người Thái.
+ Văn hóa ẩm thực:
Ăn: Trong tiếng Thái, lương thực gọi là Khảu (dịch sang tiếng việt là lúa, gạo,
cơm). Nếu như người Kinh cơm xôi (cơm nếp) là thứ ăn lót dạ hoặc dùng trong các nghi
thức tập quán như cúng lễ, cưới xin...thì người Thái coi xôi là cơm ăn thường ngày. Đây
là một nét đặc trưng và in đậm trong văn hóa tộc người. Công thức ăn uống của người
Thái là: xôi đồ chấm chẻo, măng rau đồ, thịt cá nướng, cơm lam, thịt - cá làm chua, lạp
sống hoặc chín, gỏi, mọk…
Từ gạo chế biến thành cái ăn đã biểu hiện rõ bản sắc cộng đồng tộc người. Cách
chế biến cổ xưa hơn cả là cơm nếp lam, cơm lam có mùi hương sắc đặc biệt và hương vị
thơm ngon bổ dưỡng.
Lương thực chính là xôi nếp, nên dụng cụ bếp núc chính là ninh đồng hay chõ.
Chõ để xôi cơm thì lấy khúc thân cây gỗ để đục, và đồ rau thì làm bằng khúc cây bương.
Trong gia đình người Thái ninh đồng là một trong bốn thứ của gia truyền, và theo tập
quán thì chiếc chõ còn là vật chứa đựng “điều cấm kỵ”. Dùng với cơm xôi, người Thái có
hệ thực phẩm được chế biến từ ba nguồn gọi chung: Rau, cá, thịt lấy trong thiên nhiên
hoặc do con người sản xuất ra. Ngoài ra, cá thịt thường được chế biến bằng cách nướng
với các loại gia vị riêng tạo nên mùi vị thơm ngon, độc đáo riêng có của món ăn dân tộc
Thái mà ai đã thưởng thức một lần thì không bao giờ quên.
Uống: Người Thái đã biết uống trà từ rất lâu, nhưng đáng nói nhất là Rượu. Rượu
là thức uống trong các dịp vui buồn và là vật tượng trưng của các nghi thức. Do đó, trong
sinh hoạt cuộc sống, với ý nghĩa nào đó, dân tộc này đã xem nó như một nghi thức cần
thiết ngang tầm với cơm. Họ dùng rượu khi đón tiếp bà con và tiếp khách, nghi thức và
cúng lễ, cưới xin và hội hè, ngâm thuốc và để uống tăng lực, cuối cùng là tang ma. Nhìn
tổng thể một bản sẽ thấy không có ngày nào không có người uống rượu, nên có thể coi
đây là thức dùng quanh năm.
Rượu Thái có hai loại chính - rượu cất (lảu xiêu) , rượu cần (lảu xá) và hai loại phụ.
Kỹ thuật làm rượu cũng rất công phu cầu kỳ, rượu làm ra rất thơm ngon (nổi tiếng là
rượu Mường Thanh, Điện Biên). Rượu cần và tục uống rượu cần là nét văn hóa rất độc
đáo của dân tộc Thái, mà hầu như ai cũng hâm mộ. Vị vừa ngọt, vừa cay và hăng, thơm
khó quên. Đồng bào mời rượu bằng những lời có cánh, bằng thơ, bằng hát và bằng cả tấm
lòng mình.
Cách thức tổ chức ăn uống thường ngày cũng không cầu kỳ, nhưng khi có cỗ bàn hay
tiệc tùng thì lại mang những nét văn hóa của cộng đồng tộc người. Bộ đồ mâm ghế ăn tuy
đơn giản nhưng mang sắc thái văn hóa một cách rõ rệt. Người Thái là một dân tộc mến
khách và có xu hướng coi đó là đặc trưng về tâm lý khác với các dân tộc khác chính là ở sự
thể hiện. Với người Thái thì lấy bữa ăn, uống làm đầu câu chuyện giữa chủ và khách. Trong
tập tục này có một định hướng tư duy ghi thành câu tục ngữ: “người được ăn, đồn tiếng tốt;
ma được ăn sẽ phù hộ”. Cho nên, khi “anh em đến họ ngoại lại” sẽ “mổ gà, mở rượu” (khả
cáy, khay lảu) và cao hơn thì “mở rượu mời, mổ lợn tiếp” (lảu xú, mu ha).
- Các giá trị văn hóa tinh thần:
+ Ngôn ngữ và văn tự: Người Thái là một cộng đồng tộc người có ngôn ngữ riêng,
có chung cội nguồn ngôn ngữ với tiếng nói của các dân tộc: Tày, Nùng, Lào, Lự, Bố y,
Sán Chay ở Việt Nam; với tiếng Lào và Thái Lan; với tiếng Choang và tiếng Thái ở miền
Nam Trung Quốc. Về mặt cấu trúc ngôn ngữ, ta có thể thấy tiếng Thái nổi bật lên một số
nét cơ bản như sau:
Do dùng chung một cội nguồn, ngôn ngữ nhóm người Thái có được một tổng thể
thống nhất. Là một thứ tiếng có khá nhiều vùng thổ ngữ. Song nếu một người có thể
tường tận đọc, nói, viết được một loại thổ ngữ có thể giao tiếp được với người Thái ở các
nhóm Thái, các vùng khác nhau.
Tiếng Thái có âm tiết và có thanh điệu - một âm mang một thanh tạo thành một từ
biểu đạt ý. Về cấu trúc các thành phần trong cú pháp tiếng Thái cùng một mô típ với
tiếng Việt, đó là thứ tự: Chủ ngữ - vị ngữ - các thành phần tân ngữ và bổ ngữ. Ngôn ngữ
Thái rất phong phú, biểu hiện được mọi cung bậc tình cảm. Đặc biệt dân tộc Thái có chữ
viết riêng, là một trong những dân tộc được đánh giá là có chữ viết sớm nhất ở vùng
Đông Nam á cổ đại.
Đây là thứ tiếng phát triển, đã sớm hình thành ngôn ngữ văn học và có thể diễn đạt
được sự vật tự nhiên, xã hội mà con người cần nhận thức. Đương nhiên, để thực hiện điều
đó người Thái đã du nhập, vay mượn các yếu tố ngôn ngữ sắc tộc khác. Trong đó, có
phần đóng góp của tiếng Việt hiện nay là quan trọng và chiếm tỉ lệ nhiều nhất. Song, đây
là một loại ngôn ngữ chưa được nghiên cứu một cách tường tận để có thể có được một
nền ngữ pháp cũng như từ điển. Do đó, ngôn ngữ Thái mới chỉ đạt ở trình độ văn hoá dân
gian, chưa từcó được một nền ngôn ngữ bác học.
Có ngôn ngữ, văn tự người Thái đã xây dựng được một nền văn hóa của mình. Có thể
coi đây là sự tổng kết quá trình tư duy các quá trình tự nhiên, xã hội bằng hình tượng của
nghệ thuật ngôn ngữ, cấu tạo thành ba luồng cơ bản:
Văn học dân gian truyền miệng gồm: Các câu truyện thần thoại, giúp ta có thể hình
dung được về bức tranh lịch sử của dân tộc Thái. Các câu truyện cổ tích mang nội dung
đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người nghèo và kẻ giầu, giữa người lao động trí
tuệ và kẻ ngồi mát ăn bát vàng...và kết quả bao giờ cũng khẳng định sự toàn thắng của
yếu tố thiện và người lao động chăm chỉ. Thành ngữ, ngạn ngữ, tục ngữ và dân ca phát
triển, ngôn ngữ Thái mới thoát khỏi chỉ có lớp từ vựng cơ bản để vươn tới tri thức văn
học. Theo cộng đồng tộc người này thì có văn hóa nghĩa là biết nói, biết viết, sử dụng
thành ngữ, ngạn ngữ, tục ngữ, dân ca hợp ngữ cảnh và ngược lại. Bởi họ cho rằng: “ngôn
ngữ là sự gạn lọc tinh khiết của tư duy”
Văn học được ghi chép thành văn: Khi nói đến văn hóa Thái không thể không nói đến
những pho sách cổ - tài sản vô giá không chỉ của dân tộc Thái mà của cả dân tộc Việt Nam.
Những pho sách cổ này nêu ba chủ đề lớn như sau:
Những tác phẩm nói về lịch sử xã hội, như cuốn sách nhan đề “Kể chuyện bản
mường” (Quăm tô mương). Tác phẩm này đã được dịch ra và xuất bản bằng tiếng Việt.
Cùng đó, còn có các tập thơ lịch sử nhan đề Dựng mường lớn (Phanh mương luông),
Dựng mường nhỏ (Phanh mương nọi), đặc biệt là tập sử thi nổi tiếng nhan đề: Những
bước đường chinh chiến của cha ông (Táy pú xớc)…và rất nhiều những tập thơ như:
Chống giặc cờ vàng (1873- 1880); Cuộc nổi dậy của người tù Sơn La do Cai Khạt đứng
đầu (1911), Cuộc nổi dậy chống Pháp ở Sầm Nưa - Sơn La (1914 - 1916)…
Những tác phẩm ghi chép về luật lệ bản mường, phong tục tập quán cưới xin, ma
chay được tập hợp trong cuốn “Luật tục Thái ở Việt Nam”. Những tập mang nội dung
văn hóa tâm linh biểu hiện vũ trụ quan, thế giới quan folklore nguyên Thái.
Những tác phẩm văn học bằng thơ rất nhiều. Đến nay, đã có một số tác phẩm được
biên dịch và xuất bản như Xống Chụ Xon Sao, Khun Lu Nàng ủa, Tán Chụ Xiết Xương là
những tác phẩm rất nổi tiếng. Trong đó, phải kể đến tập truyện thơ: Tình Ca - tập thiên tình
ca tiễn dặn người yêu (Xống chụ xon xao) không chỉ đạt đỉnh cao trong loại hình văn học này
mà cho cả nền văn học cổ điển Thái Việt Nam. Bên cạnh đó còn rất nhiều những tác phẩm
văn học của ba dân tộc Việt, Lào, Trung Quốc phỏng dịch thành truyện thơ như của chính
cộng đồng tộc người mình như: Tống Chân- Cúc Hoa, Truyện Kiều của Nguyễn Du…Ngoài
ra, còn có rất nhiều sách Thái cổ ghi lại những phong tục tập quán, lễ nghi, ca dao tục ngữ,
các bài cúng và Sách về các bài thuốc chữa bệnh dân gian.
+ Nghệ thuật: bao gồm có họa tiết trang trí và múa.
Họa tiết trang trí bao gồm có: Họa tiết điêu khắc gỗ và đan mây, tre và họa tiết trên
vải. Họa tiết điêu khắc gỗ thể hiện ở các họa tiết điêu khắc gỗ mang tên Khau Cút treo
trên hai đầu hồi mái nhà sàn của một số nhóm Thái. Xưa, đã có thời nhìn vào bộ trang trí
này người ta biết được vị trí xã hội của chủ nhà. Họa tiết điêu khắc còn thực hiện trên
khung và tấm chắn cửa sổ và các họa tiết trang trí trên các mặt dụng cụ dùng để làm thức
đựng, đồ đựng...Các mẫu hoa văn tuy nhiều hình, nhiều vẻ nhưng đều gọi chung bằng
một tên chung là hoa văn Ăm.
Họa tiết trên vải có nguồn gốc từ việc trực tiếp kế thừa cách thể hiện hoa văn ăm, và
từ việc dệt nên các tấm thổ cẩm để làm chăn, đệm, gối... Ngoài ra, còn có cách thể hiện
họa tiết trang trí trên vải bằng phương pháp thêu thùa bằng chỉ màu trên khăn đội đầu
(khăn Piêu), trên nền vải làm khăn tay, mặt rèm và dải đỉnh màn…bằng các họa tiết hình
kỷ hà. Ngoài ra, còn có nghệ thuật khâu ghép đáp vải màu kế thừa từ việc khâu ghép da
các loài thú săn bắt. Nghệ thuật khâu ghép này phổ biến ở phía Bắc, nó thể hiện sự khéo
léo của đôi tay người phụ nữ Thái, đã bứt khỏi khuôn mẫu chật hẹp của cách dệt thành
hoa văn hình kỷ hà:
Nó làm cho nghệ thuật folklore Thái vươn tới đỉnh cao của hiện thực.
Đôi tay họ hoàn toàn tự do trong thực hiện các đường viền cong, dễ tạo ra các
vòng tròn, uốn lượn, khép kín làm cho họa tiết trang trí trên vải của người
Thái thêm phần đẹp muôn hình muôn vẻ, xứng đáng làm nền cho sự đóng góp
của văn hóa cộng đồng tộc người vào hội họa Việt Nam nói chung [52, tr.
212].
Múa: Người Thái từ lâu đã nổi tiếng trong các điệu dân vũ. Khi nói đến người
Thái, người Việt không mấy ai không hình dung các cô gái đẹp, trang phục hoàn chỉnh,
thanh cao, mềm mại, cuốn hút trong các điệu múa mang tên xòe của mình. Và như thế,
múa xòe đã trở thành một trong những biểu hiện đặc trưng văn hóa cụ thể, thật sự đậm đà
bản sắc dân tộc Thái. Múa xòe vô hình chung trở thành sự thừa nhận mang tính truyền
thống, đối với nền nghệ thuật của người Thái như một loại hình vũ điệu. Sở dĩ có điều đó,
là vì nền nghệ thuật folkore này đã phát triển đạt tới sự phân chia thành hai cấp độ: Múa
tập thể dân dã mà tiêu biểu là múa xòe vòng; múa biểu diễn hay múa phong cách mà đặc
trưng là sự phô trương tối đa vẻ đẹp của hình tượng văn hóa- cô gái Thái Việt Nam. Có
thể kể một số điệu múa phổ biến như: múa xòe, múa sạp, múa nón, múa chai, múa khăn,
múa quạt…
+ Âm nhạc: Nhìn chung âm nhạc folklore Thái thể hiện bằng ba cách: Thanh nhạc,
nhạc khí và bộ gõ.
Người Thái phô diễn thanh nhạc bằng nhiều dạng khắp (hát, hò, ngâm). Với người
Thái, khắp mang nghĩa gốc là hát thơ, cộng đồng tộc người này đã dùng thơ để hát. Từ đó
với cộng đồng tộc người này có thể coi thơ đã quy định giai điệu của ca. Song, sự đa
dạng dân ca đều có những nét cơ bản mang đặc trưng thanh nhạc Thái.
Thanh nhạc Thái chia các loại hình cơ bản là: Khắp xư (còn gọi là hát chữ); Khắp
mo- dùng trong lễ nghi và diễn ca sử thi Táy Pú Xớc toát lên vẻ trang nghiêm, mạnh mẽ;
Khắp chương- dùng cho giọng nam trung, nam trầm diễn các tập sử thi anh hùng ca;
Khắp một- là tiếng Thái dùng để làm ma thuật chữa bệnh, loại hình thanh nhạc đã mang
tính cảm thụ tôn giáo làm người nghe sùng bái các điều tín, và Khắp xe - hát múa.
Nhạc khí: Người Thái dùng âm thanh, nhịp điệu của các nhạc khí để thổ lộ tư
tưởng, tình cảm của mình trên sự phô diễn nhạc cụ như chơi nhị hay tính tảu, đàn môi, pí,
sáo và tiêu. Bộ gõ: có trống, chiêng, chũm chọe và nhạc, bộ ba hòa vào nhau tạo thành
dàn nhạc nhịp, nhạc xâu lại thành chùm để đeo trên ngón tay, gõ nhịp cho hát then và
múa xòe.
+ Tôn giáo, tín ngưỡng: Người Thái có ngôn ngữ và văn tự, có tư duy và văn hóa
nhưng không theo một tôn giáo nghiêm ngặt nào như đạo Phật, đạo Hồi, đạo Thiên
chúa...Vì xã hội người Thái ở Việt Nam nói chung, người Thái ở Tây Bắc nói riêng
không hình thành tư duy trên con đường đó mà theo một hướng riêng của mình. Có thể
nói, dân tộc Thái là dân tộc có tín ngưỡng đa thần. Tín ngưỡng của người Thái chưa phát
triển thành tôn giáo riêng nhưng họ cũng không chịu ảnh hưởng hay du nhập vào mình
các tôn giáo khác. Nằm trong phạm trù tâm linh, tôn giáo tín ngưỡng dân gian Thái tập
trung trong các trong các phong tục tập quán, lễ nghi xoay quanh sự thể hiện nhận thức
về: đường sống, đường chết và đường thần linh.
Đường sống: Nhận thức về đường sống theo tâm linh Thái được bắt đầu từ quan
niệm sinh ra con người. Người mẹ đã nhận con của mình từ bà Then mang tên Me Bảu,
bà có khuôn chuyên đúc rồi dập thành hài nhi trai hay gái rồi giáng xuống đầu thai vào
các bà mẹ ở cõi trần. Mọi thủ tục chuẩn bị đường sống cho một con người đã hoàn tất ở
cõi trời và theo mạch tâm linh ấy. Tín ngưỡng người Thái cho rằng con người sống nhờ
có linh hồn. Họ quan niệm mỗi bộ phận cơ thể có một linh hồn và con người có tất cả có
80 linh hồn được chia thành hai nửa như câu ngạn ngữ: “30 hồn ở mặt trước, 50 hồn ở
mặt sau”, nhiều linh qui về một, mang tên hồn người ngụ ở đỉnh đầu chỗ có chỏm xoáy
tóc, vị trí đó đặt tên là đỉnh hồn. Khi ở bên thể xác, hồn như bóng nên gọi là kép bóng
hồn, bóng hồn bao quanh thân thể như người mặc áo. Tập quán của người Thái, áo là vật
tượng trưng cho linh hồn. Cho nên, trong tất cả các lễ nghi tôn giáo, tín ngưỡng Thái,
cạnh mâm cúng bao giờ cũng đặt áo của chủ hồn (thân chủ). Xưa nay, dân tộc này vẫn tin
và thờ lực lượng siêu tự nhiên mà thuật ngữ Thái gọi là Phi (ma), tất cả các phi đều trú
ngụ ở một thế giới gọi là Mường Phi (mường ma), mường ma được quan niệm như một
thế giới vĩnh hằng bất biến. Cách giải thích này trùng lặp với thuyết cho rằng linh hồn là
bất tử. Ngược lại là Mường Người thì tồn tại theo sự biến động theo từng thế hệ con
người. Linh hồn, lúc tách khỏi thân sống trở thành bản thể riêng gọi là phi khoăn, dùng
để chỉ khái niệm hồn hay linh hồn sống của người, vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, như
triết học gọi là vật linh giáo. Chúng có thể tạm thời tách khỏi thể xác nhập cõi trời đất mà
đường sống của thân chủ vẫn tồn tại. Theo quan niệm tâm linh Thái, sự sống không có gì
thiêng hơn linh hồn nên có những tập quán pháp kiêng kỵ, không được phép vô tình hay
hữu ý vi phạm. Tâm linh Thái cho rằng sự sống vốn do trời tạo ra và giáng xuống trần
gian tạo thành người và ngược lại cái chết của con người lại bắt đầu từ trần gian trở về
trời.
Đường chết: Theo quan niệm tâm linh Thái, đường chết được giải thích phân thành
hai trường hợp: đường chết không bình thường và chết bình thường. Theo đó, linh hồn
sau khi lìa thể xác đã tan, hóa thành phi (ma) ngụ ở nhiều vị trí khác nhau trong cõi chết
để rồi tiếp tục gây ra điều ác hay điều thiện ở cõi sống. Nếp nhà sàn để ở mang thêm tên
tâm linh “nơi chứa dựng cái minh cái hồn của mình”, không gian tâm linh đó được cộng
đồng tộc người này thu nhỏ lại thành gian “hóng” của nếp nhà ở mỗi gia đình, nó trở
thành chỗ hội tụ của tổ tiên để con cháu thờ phụng. Do có quan niệm linh hồn bất tử, nên
dân tộc này có tục thờ cúng tổ tiên, coi đó là tôn giáo tín ngưỡng chính.
Đường thần linh: Về tâm linh: đường sống, đường chết còn có quan hệ khăng khít
với thần linh và không gian chứa đựng nó. Với người Thái phi bản, phi mường (thần bản,
thần mường) gộp lại được miêu tả thành ba phần:
Phần hồn trong không gian tâm linh mường.
Phần chảu sửa trong không gian tâm linh mường.
Phần thần, ma trong không gian tâm linh mường.
Theo người Thái, vũ trụ có ba tầng: Tầng trên, phi ở có tên Mường Phạ (mường
Bôn), ngoài ra còn có các vị Then nên còn gọi là Mường Then. Tầng giữa, người ở có tên
Mường Lum (tức cõi trần) và tầng ba là tầng dưới lòng đất của các loài phi nhỏ trú ngụ,
khác với các phi ở tầng trên.
Khi nói đến phong tục tập quán Thái, không thể không kể đến một trong những
phong tục truyền thống đặc trưng của người Thái được thể hiện trong tục cưới xin. Các
đôi trai gái yêu nhau, khi đã quyết định đi đến hôn nhân thì sẽ tổ chức cưới. Theo phong
tục truyền thống người Thái thường tổ chức cưới 2 lần. Lần thứ nhất cưới tại nhà gái -
còn gọi là “đoong khửn”, nhà trai mang đồ cúng, lễ vật đến nhà gái, sau đó chú rể ở lại
sinh sống tại nhà gái trong vòng 3 năm (tùy thuộc vào hoàn cảnh từng gia đình mà quyết
định số năm ở rể). Người Thái quan niệm người con rể phải ở lại nhà gái làm lụng, để trả
ơn bố mẹ vợ đã sinh ra và nuôi dưỡng cô dâu. Hết thời gian ở rể, nhà trai giết trâu, bò tổ
chức cưới lần 2 “đoong lông” để đón cô dâu về nhà chồng, khi đó cô dâu mới chính thức
thuộc về gia đình nhà chồng. Cưới xin phải qua các trình tự: đi dạm (pay tộ), đi hỏi (pay
tham), đám cưới đưa rể về nhà gái (sống khươi), lễ ghép chăn (sú phả), lễ búi tóc ngược
cho cô dâu khi đã có chồng (tằng cẩu - với người Thái Đen). Sau đó là lễ cưới chính
thức, cuối cùng là lễ đưa dâu về nhà chồng mới hoàn thành các thủ tục hôn nhân. Khi
sinh con người Thái thường đặt tên con vào đầu tháng.
Ngoài những nội dung nổi bật trên, văn hóa của người Thái còn thể hiện rất rõ trong
các lễ hội truyền thống. Trước hết, phải kể đến nghi thức ăn mừng mùa thu hoạch được
gọi là “ăn cơm mới” được tiến hành bằng hội giã cốm và nấu các món ăn chế biến từ thịt
những con vật săn bắn được. Các bản mường Thái còn lưu giữ nhiều lễ hội khá đặc sắc
như: “lễ gội đầu” thường được tổ chức ở những bản gần sông hoặc dòng suối lớn; “lễ săn
bắn” và “lễ hái lượm” được tổ chức ở những bản gần với núi rừng. “Lễ hội ném còn” là nơi
quy tụ nhiều chàng trai, cô gái từ nhiều bản mường lân cận, là cơ hội tốt để nhiều đôi trai gái
làm quen với nhau.
Cũng như các dân tộc khác, đồng bào Thái có nhiều hình thức sinh hoạt cộng đồng
trong gia đình, trong bản, trong mường. Đó là các lễ, tết, hội hè của dân tộc như tết Kin
tón ú vào ngày mồng 5 tháng 5, Kin trết xíp xí vào ngày 14 tháng 7 âm lịch. Đó là tục xên
bản, xên mường (cúng bản, cúng mường) vào khoảng tháng ba âm lịch hàng năm, được
đồng bào rất coi trọng. Tục này vừa có yếu tố phồn thực và tâm linh, đây là ngày tết,
ngày hội to nhất, vui nhất trong năm. Đồng bào Thái ở Tây Bắc còn có hình thức sinh
hoạt cộng đồng thường được mọi người nhắc đến là Hạn Khuống, Hạn Khuống không
chỉ là nơi vui chơi ca hát, nhảy múa mà còn là nơi để trai gái thi tài, tìm hiểu lành mạnh;
là nơi người già nhớ lại thời trẻ, người trẻ học hỏi kinh nghiệm ứng xử giao tiếp. Là nơi,
là dịp để sinh hoạt cộng đồng, truyền lưu văn hóa truyền thống của dân tộc và tiếp thu cái
mới. Một thời lễ hội này là linh hồn của bản mường, nói lên sự bình yên, no ấm của quê
hương. Ngoài ra, đồng bào Thái còn nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian mang
tính lễ hội mang yếu tố tâm linh và phồn thực như “kin pang then” “kin pang lẩu pó”...
- Các giá trị văn hóa với tư cách là thiết chế xã hội:
+ Gia đình: Người Thái gọi gia đình là hươn và được phân thành hai loại hình:
Tiểu gia đình phụ hệ - Chỉ một đơn vị tế bào xã hội, được hợp bởi một cặp vợ
chồng có thể đã, chưa hoặc không có con. Nếu có thì chúng cũng chưa trưởng thành,
chưa đủ các điều kiện để lập gia đình riêng. Tiểu gia đình phụ hệ Thái, đến nay vẫn giữ
những tập quán của mối quan hệ thân thuộc trong họ hàng. Khi hai cá thể nam, nữ đã
thiết lập thành một tổ hợp gia đình, thì lập tức mỗi cá thể ấy sẽ hình thành cho mình một
tập quán quan hệ ba chiều là: ải nọng- Lung ta- Nhinh xao. ải nọng (những anh em trai
cùng một hàng thế hệ với chồng có gốc từ một ông tổ, tương đương với cách hiểu của
người Việt là họ Nội). Khi các chị, em gái đã thành lập gia đình riêng, nhóm những anh
em trai của họ sẽ tổ hợp thành cộng đồng thuật ngữ hệ thống thân tộc gọi là Lung ta (họ
bên Ngoại). Những anh em trai bên vợ lập gia đình riêng, thì những anh em cọc chèo của
họ sẽ tổ hợp thành nhóm thân tộc có thuật ngữ Nhinh xao tức họ nhà rể, theo nghĩa sát là
họ các cô gái. Theo người Thái mỗi chiều ấy được gọi là một họ, và với những mối quan
hệ khác nhau phải tuân theo những quy tắc nhất định mà truyền thống cũng như tập quán
tư duy đặt ra. Tục ngữ Thái còn cho rằng sự gắn bó khối anh em trong cộng đồng (ải
nọng) tạo sức mạnh vô địch. Tình nghĩa anh em vừa xem như tự nhiên vừa xem như đạo
đức làm người vì: “Dao nào chặt được dòng nước đổ từ lòng máng; anh em dù cách trở
nơi chín chợ, chín hàng cũng vẫn là anh em”, khác với quan hệ vợ chồng “anh em dù có
gặp phải đường xấu cũng không chia lìa; vợ chồng chỉ cần phật ưý, một buổi cũng thành
dưng”. Nổi trội trong gia đình Thái, là sự bảo lưu tàn dư mẫu hệ trong chế độ gia đình
quyền Cha, trong đó đặc biệt xem trọng chế độ quyền cậu. Người Thái ở Tây Bắc chế độ
này có vẻ đậm hơn và có thể coi là một điểm đặc thù, có thể thấy qua câu tục ngữ: “Nếu
phải bỏ màn đành bỏ chăn; nếu phải bỏ Lung ta ta đành bỏ ải nọng”. Trong một gia đình
Thái tất cả đều do người chồng, người cha quyết định, nhưng người vợ, người mẹ vẫn có
một chỗ đứng vững vàng. Phải chăng, đây là ưu điểm của truyền thống gia đình Thái. Nó
thể hiện quyền bình đẳng nam, nữ trong gia đình cần được kế thừa và phát huy cho phù
hợp với điều kiện mới.
Từ lâu gia đình hạt nhân đã trở thành tế bào kinh tế - xã hội Thái, là mô hình gia
đình phổ biến nhất trong xã hội Thái từ trước tới nay, nó tồn tại trong phong tục tập quán,
nếp sống và tư duy về mối quan hệ thân thuộc được gọi là ba họ. Là người Thái, bất cứ cá
nhân và hạt nhân gia đình nào không giữ được nề nếp, vô tình hay hữu ưưý làm trái các
quy định phong tục tập quán: ải nọng - lung ta - nhinh xao chắc chắn sẽ bị xã hội lên án,
chê trách.
Đại gia đình phụ hệ: là đơn vị kinh tế - xã hội tổ hợp bởi ít nhất có hai gia đình hạt
nhân. Trong đó, những người chồng cùng chung hệ dòng cha nên gọi là đại gia đình phụ
hệ. Mô hình gia đình này không phổ biến, ta có thể hình dung nó như những dấu chấm
nhỏ điểm xuyết trên nền gia đình hạt nhân phổ biến và phủ khắp mọi nơi. Hiện nay, mô
hình gia đình này còn rất ít theo nghĩa trọn vẹn của nó. Nó có những đặc điểm cơ bản đó
là: Các gia đình nhỏ trong đại gia đình bao gồm tất ưcả các nhóm ải nọng trong cùng một
ông tổ sinh ra, vẫn ở chung trong một nóc nhà gọi là chua hươn. Ông tổ ấy chính là người
mang cái tên thuật ngữ hệ thống thân tộc là Pấn. Người đứng đầu gia đình lớn mang tên
là Chưởng cốc hay Phủ cốc có nghĩa "người làm gốc của họ". Từ đời cha trở lên thế hệ
khác, hễ ai còn sống thuộc chi trên là anh thì người đó mặc nhiên là Chưởng cốc. Đây là
tập quán bất di bất dịch và không có ngoại lệ. Trong gia đình lớn như vậy, các gia đình
chỉ là thành viên không phải là một đơn vị kinh tế - xã hội riêng biệt mà thống nhất. Mọi
tài sản có trong gia đình đều là của chung, mọi nhu cầu tiêu dùng trong gia đình đều dùng
của chung, mọi vấn đề của gia đình nhỏ đều coi như việc chung của cả gia đình. Các gia
đình hạt nhân phải có trách nhiệm giúp đỡ việc thực hiện tiêu dùng cho thật tốt. Về mặt
tâm linh, ngoài chỗ thờ đẳm trong nhà, các gia đình lớn còn có nghĩa địa chung gọi là heo
đẳm, ở đó người chết được chôn theo thế hệ rõ ràng, quy củ.
+ Bản mường: Chỉ một loại hình tổ chức xã hội đã từng tồn tại phổ biến ở khắp
miền Nam Trung Hoa và bán đảo Đông Dương của người nói tiếng Thái. Riêng người
Thái ở Tây Bắc Việt Nam, cơ cấu tổ chức xã hội này chính thức xuất hiện thành văn bản
ghi bằng chữ Thái cổ cách đây hàng ngàn năm, khoảng thế kỷ thứ X.
Được hình thành trong lịch sử tộc người, Bản là một đơn vị tổ chức cư dân ổn định,
có ranh giới đất đai rõ rệt. Trong mỗi bản Thái cư trú một nhóm đồng tộc. ít khi người
Thái ở cùng với nhóm tộc người khác. Thường thì các nóc nhà trong một bản đều nằm
trong mối quan hệ thân thuộc chặt chẽ, do đường dây sinh thành và hôn nhân tạo ra. Bản
lớn thường ở gần chợ hoặc bến nước thường là trung tâm của một mường. Vùng đất bản
hoàn chỉnh phải chứa từ 10 nóc nhà trở nên, bao gồm các vùng tự nhiên như: những
thung lũng lòng chảo lớn, những phạm vi đất núi rừng, những đoạn sông khúc suối, khe
lạch. Bản còn là một đơn vị cư dân có tổ chức nên từ lâu đã là tổ hợp cộng đồng xã hội
mang màu sắc văn hóa dân tộc. Theo truyền thống vùng Thái ở Tây Bắc, thì ruộng đất là
của bản mường, cá nhân không có quyền tư hữu mà chỉ được sử dụng để cày cấy và thu
hoạch. Bản thừa hành luật lệ của mường, trực tiếp tổ chức phân phối và điều chỉnh các
thửa ruộng cho từng nóc nhà. Đây là một đặc điểm để bản của người Thái ở vùng Tây
Bắc khác với bản của người Thái ở các vùng khác, cũng như tổ hợp các nóc nhà của các
dân tộc Tày, Nùng cũng mang tên bản (bản của họ không phải là tổ chức kinh tế xã hội
mà chỉ là danh từ chỉ nơi chốn, gia đình hạt nhân đã trở thành chủ cá thể của mảnh đất
trong phạm vi bản của mình). Với người Thái, bản không chỉ là chốn quê hương mà còn
là nơi tổ chức quản lý ruộng đất. Là một đơn vị quản lưý kinh tế xã hội dưới cấp mường
trước đây, theo truyền thống cổ truyền thì bản có hai chức dịch: một người đứng đầu bản
gọi là quan hoặc tạo (nếu là họ quưý tộc) và một người giúp việc gọi là chá, khi miền Tây
Bắc được giải phóng buổi đầu chính quyền ta đặt chức trưởng bản. Sau này các bản được
sát nhập thành đơn vị liên hiệp gọi là xã, đơn vị bản tuy còn nhưng đã bắt đầu lu mờ.
Theo truyền thống xưa, bản còn là tổ chức đảm nhiệm chức năng văn hóa mang đầy đủ
màu sắc dân tộc, cho nên người đứng đầu bản phải là người biết chữ Thái cổ và am hiểu
phong tục tập quán. Bản còn là một cộng đồng người có tổ chức, mọi phong tục tập quán,
lối suy nghĩ, sinh hoạt về mọi mặt trên một tuyến thống nhất. Bản bao giờ cũng là lực
lượng chính trong tất cả các công việc hiếu, hỉ cho tất cả các thành viên trong bản theo
thể thức tập quán dân tộc, tương trợ các gia đình hạt nhân thành viên của mình. Chức
năng ấy in rất đậm và gần như thành nếp hằn để biến thành tập quán một cách tự nhiên,
đó là đặc trưng văn hóa cần được nuôi dưỡng và phát triển.
Mường: Sau các thế kỷ thiên di, cuộc sống cư dân Thái ở nước ta đã ổn định,
nhiều bản hợp thành mường, buổi đầu tiên phải kể đến ba sắc thái mường: Vùng phía Bắc
Lai Châu nay là sắc thái của nhóm Thái Trắng. Vùng phái Nam tỉnh Sơn La và Tây Bắc
Hòa Bình; Vùng giữa bao gồm các mường thuộc miền đất của tỉnh Sơn La, Nam tỉnh Lai
Châu, Bắc Yên Bái và Tây Nam Lào Cai. Đến thế kỷ thứ XIV, trên vùng cư trú của người
Thái đã hình thành 16 đơn vị Châu mường. Tổ chức xã hội của mường theo mô hình cơ
cấu vòng đồng tâm xoay quanh trục, đã được thể hiện một cách hoàn thiện trong hệ thống
tổ chức một châu mường và sự quy tụ các châu mường về một mối. Mỗi mường có Chảu
Mường là người đứng đầu và cai quản chung, dưới Chảu Mường là các Phìa, Tạo đứng
đầu và cai quản các Phài và bản. Mường là một cơ cấu tổ chức chính quyền mang những
nét đặc trưng rất Thái ở nước ta. Là tổ chức xã hội dựa trên quan hệ lãnh thổ và sở hữu,
có đường ranh giới rõ rệt, mang tên đất mường. Với các gia đình hạt nhân, tổ chức
mường không trực tiếp tác động mà thông qua cấp cơ sở dưới mình. Ngày nay, mặc dù
cấu trúc xã hội Thái theo kiểu bản mường không còn nguyên gốc (do việc thiết lập bộ
máy hành chính từ trên xuống dưới thống nhất trong cả nước), nhưng danh từ ghép này
vẫn được sử dụng khi nói đến mô hình tổ chức xã hội Thái.
1.1.2.3. Bản sắc của văn hóa dân tộc Thái
Khi nói đến văn hóa dân tộc Thái (văn hóa cộng đồng tộc người Thái), là nói đến
những đặc trưng cơ bản để tạo thành bản sắc riêng của nền văn hóa này, tựu chung lại
bao gồm bốn nét đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, đặc trưng hệ sinh thái nhân văn, tức là mối quan hệ giữa con người với
môi trường sống của mình trong tự nhiên và xã hội, mà ta gọi văn hóa Thái là “Văn hóa
thung lũng”.
Thứ hai, đặc trưng hệ thống kỹ thuật trong sản xuất và sinh hoạt cuộc sống.
Thứ ba, là đặc trưng hệ thống thiết chế xã hội. Văn hóa Thái - một loại hình cơ cấu
gia đình hạt nhân phụ hệ, phụ quyền và tổ chức bản mường.
Thứ tư, là những đặc trưng hệ thống tư tưởng và tri thức của dân tộc.
Bốn đặc trưng văn hóa này được hình dung như những sự vật hiện tượng luôn luôn
vận động, không bao giờ đứng yên. Chúng chuyển động theo đường xoay tròn, kết hợp để
gặp nhau tạo thành các điểm giao thoa, các điểm giao thoa này tiếp tục xoay tụ vào tâm
bản sắc. Tâm bản sắc cho thấy rõ sự hiện diện của văn hóa dân tộc Thái. Nhìn vào đó
người ta có thể phân biệt được văn hóa cộng đồng tộc người này với văn hóa cộng đồng
tộc người khác:
Vòng đặc trưng 1 của văn hóa Thái là văn hóa thung lũng, khi xoay vòng hướng tới
tâm đã gặp vòng đặc trưng 2 tạo thành điểm giao thoa là những biểu hiện tập quán của nếp
sống lao động hoàn toàn thủ công. Từ đó xuất hiện tâm bản sắc văn hóa thung lũng Thái ở
giai đoạn lịch sử tiền công nghiệp.
Vòng đặc trưng 3 vận động xoay vòng tâm sẽ cắt qua hai vòng đặc trưng 2 và 1 để
xuất hiện các điểm giao thoa. Tâm bản sắc do các điểm giao thoa vòng 3 sẽ là văn hóa cơ
cấu xã hội dưới hình thức gia đình hạt nhân phụ hệ, phụ quyền và tổ chức bản mường.
Vòng đặc trưng 4 xoay vòng vào tâm sẽ gặp vòng đặc trưng 3 mang đầy đủ điểm
giao thoa các vòng đặc trưng 2 và 1, hình thành các điểm giao thoa mang các nội dung:
ngôn ngữ, văn tự, văn học nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng riêng. Những mặt biểu hiện
này cho dù có ít nhiều tính bác học, nhưng về cơ bản vẫn nằm trong phạm trù folklore.
Vậy, tâm bản sắc của văn hóa cộng đồng tộc người Thái là văn hóa hệ tư tưởng tri thức mang
trong đó các yếu tố của một dạng trung gian giữa foklore có manh nha bác học.
Quá trình vận động của bốn vòng đặc trưng, đồng thời cũng là quá trình văn hóa
cộng đồng tộc người mở, nên trong bước phát triển không có một nền văn hóa nào thuần
khiết chỉ một yếu tố cấu thành. Mà trong khi khẳng định những yếu tố của mình, thì đã
bao hàm cả sự giao thoa tiếp nhận. Sự tiếp nhận ấy thường diễn thành hai trạng thái
khách quan, nằm ngoài trạng thái ưưý thức:
Nếu các vòng đặc trưng khỏe khoắn, đủ sức chống chọi và tiếp thu sàng lọc nhuần
nhuyễn thành cái của mình thì các điểm giao thoa (cái bản sắc) sẽ trở nên lành mạnh, trong
sáng và đa sắc màu rực rỡ. Tâm bản sắc không những được giữ gìn mà còn luôn được đổi
mới. Điều đó không những chỉ có văn hóa cộng đồng tộc người, mà còn làm cho chính dân
tộc có văn hóa ấy trường tồn.
Nếu các vòng đặc trưng chứa sức ỳ lớn, vận động yếu ớt, không có khả năng tiếp
thu chọn lọc. Thêm vào đó là các luồng văn hóa bên ngoài có sức mạnh quá lớn làm thu
nhỏ văn hóa cộng đồng tộc người, thì các điểm giao thoa sẽ bị pha tạp, lạc lõng dẫn tới
đổi màu tâm bản sắc và có nguy cơ tan biến nếu không có phương hướng khắc phục
mạnh mẽ. Lúc đó, con người còn, nhưng văn hóa và tộc người không còn nữa. Như vậy,
do cách vận động của văn hóa cho nên bản sắc dân tộc không bao giờ cứng nhắc, đứng
yên mà luôn biến đổi. Nhưng bản sắc là cái của nó, cái bên trong, không phải cái bên
ngoài văn hóa cộng đồng tộc người, cho nên khi thể hiện bản sắc thì văn hóa cộng đồng
tộc người lại đóng. Và nhờ có lẽ đó nên các vòng đặc trưng khi vận hành vào điểm hội tụ,
cũng như khi giao thoa tiếp nhận không bị đứt đoạn.
Tóm lại, bất cứ một dân tộc nào dù bé nhỏ hay to lớn, dù kém phát triển hay đạt tới
đỉnh cao của văn minh đều luôn có ưý thức giữ gìn văn hóa của mình. Dân tộc nào có dân
trí thấp thì việc giữ gìn càng tỏ ra bất giác. Ngược lại, dân tộc nào có trình độ dân trí cao
thì tự ưý thức được nhiều và tốt hơn. Song, giữ gìn là ưý thức, còn sự vận động của văn
hóa là khách quan, hai mặt này luôn mâu thuẫn và phủ định lẫn nhau. Cho nên, một dân
tộc muốn giữ gìn và luôn phát huy được bản sắc của mình quan trọng nhất là hai yếu tố
bản sắc và bản lĩnh, nhưng không thể không kể đến những nhân tố tác động khác.
Dân tộc Thái là một trong 53 dân tộc thiểu số ở nước ta, nhưng cho đến nay với
nền văn hóa riêng có của mình, đã chứng tỏ Thái là một dân tộc có bản lĩnh và bản sắc -
một cộng đồng tộc người có nền văn hóa. Với chính sách phát triển vùng dân tộc và miền
núi của Đảng, chúng ta cần phải bảo lưu, khai thác cả cái cũ và mới trong những vùng
dân cư mới để biến Tây Bắc thành vùng giàu mạnh của đất nước với một bản sắc văn hóa
đa dạng và độc đáo trong sự thống nhất của nền văn hóa Việt Nam.
1.2. Tính tất yếu khách quan của việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của
dân tộc Thái
1.2.1. Tính tất yếu khách quan của việc kế thừa
Kế thừa là một trong những vấn đề có tính quy luật của phủ định biện chứng, là cầu
nối giữa cái cũ và cái mới. Với ý nghĩa đó tìm hiểu vấn đề kế thừa có ý nghĩa quan trọng
cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Theo từ điển tiếng Việt: Kế thừa là sự thừa hưởng, giữ gìn và tiếp tục phát triển
những cái có giá trị tinh thần [57, tr. 509]. ‘‘Phát huy’’ là làm cho cái hay, cái tốt tỏa tác
dụng.
Bách khoa thư triết học xem “Kế thừa là mối liên hệ giữa những giai đoạn hay nấc
thang phát triển khác nhau, mà bản chất của mối liên hệ đó là bảo tồn những yếu tố này
hay yếu tố khác của chỉnh thể” [1, tr. 360]
Đại học bách khoa toàn thư Liên Xô (cũ) cho rằng: “Kế thừa là mối liên hệ giữa các
hiện tượng trong quá trình phát triển trong đó có cái mới lột bỏ cái cũ, giữ lại trong mình
một số yếu tố của cái cũ”[12, tr. 360]
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mọi sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan đều luôn nằm trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển không
ngừng theo những quy luật nhất định. Một trong những quy luật chung, biểu hiện khuynh
hướng của sự phát triển, là quy luật phủ định của phủ định mà kế thừa là một đặc trưng
cơ bản. Tính kế thừa thực chất chính là “mối liên hệ tất yếu khách quan giữa mới và cũ
trong quá trình phát triển” [56, tr. 269]. Trong mối quan hệ đó, cái mới luôn ra đời, thay
thế và phủ định cái cũ, nhưng giữa chúng lại có mối liên hệ khăng khít với nhau, đó là sự
kế thừa của cái mới đối với cái cũ. Ăngghen khẳng định: “Phủ định trong phép biện
chứng, không phải chỉ có ý nghĩa giản đơn là nói: không, hoặc giả là tuyên bố rằng một
sự vật không tồn tại, hay phá hủy sự vật ấy theo một cách nào đó” mà “sự phủ định trong
đó có sự phát triển” [32, tr. 201]. Quá trình phủ định diễn ra không phải là sự phủ định siêu
hình, phủ định sạch trơn mà là sự phủ định biện chứng, đó là “quá trình tự thân phủ định, tự
thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với
cái cũ bị phủ định” [21, tr. 333]. Phủ định biện chứng mang hai đặc trung cơ bản, đó là: tính
khách quan và tính kế thừa.
Tính khách quan của phủ định biện chứng thể hiện ở chỗ: phủ định là kết quả của
quá trình giải quyết mâu thuẫn nội tại bên trong sự vật, chứ không phải do sự áp đặt từ
bên ngoài. Phủ định biện chứng là sự phủ định mang tính kế thừa. Với nghĩa đó, phủ định
đồng thời cũng là khẳng định. Giá trị của kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò
của nó trong sự ra đời của cái mới. Không có cái mới nào lại ra đời từ hư vô. Nhờ việc
giữ lại những nhân tố tích cực của cái bị phủ định - tức là nhờ có kế thừa - mà cái mới có
tiền đề cho sự xuất hiện của mình.
Phát triển chính là sự vận động theo khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ lạc hậu đến tiến bộ. Kết quả của quá trình vận động đó
là sự ra đời của sự vật mới hoàn thiện hơn sự vật cũ. Trong quá trình này, những yếu tố
tích cực của cái cũ được giữ lại, cải biến để tham gia vào sự vật. Phát triển không phải là
bước đi thuần túy mà là một khuynh hướng trải qua nhiều giai đoạn bao hàm trong nó
những bước đi quanh co, phức tạp. Tuy nhiên, sự phát triển đó không phải diễn ra theo
đường thẳng mà theo đường xoáy ốc. Đề cập đến vấn đề này, V.I. Lênin viết: “Sự phát
triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua nhưng dưới một hình thức khác, ở một
trình độ cao hơn (“phủ định của phủ định”); sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc
chứ không phải theo đường thẳng” [27, tr. 65]
Như vậy, kế thừa là một trong những đặc trưng quan trọng, phổ biến của quy luật
phủ định của phủ định. Nó là sự biểu hiện mối quan hệ giữa cái cũ và cái mới trong quá
trình phát triển của sự vật: cái mới tuy phủ định cái cũ nhưng là một sự phủ định có kế
thừa. Cụ thể hơn, kế thừa chính là mối liên hệ giữa các giai đoạn hay giữa các cấp độ
khác nhau trong sự phát triển của sự vật. Sự kế thừa biểu hiện ở chỗ, một hay nhiều yếu
tố của sự vật được bảo tồn khi sự vật chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác. Kế
thừa là nhân tố bên trong của sự phát triển. Không thể nói đến sự phát triển mà tước bỏ đi
tính kế thừa, cũng không thể nói đến kế thừa mà tách rời khỏi sự phát triển. Kế thừa là sự
bảo tồn những đặc điểm, đặc tính của một sự vật và hiện tượng cũ trong quá trình phát
triển. Còn phát triển không chỉ là sự bảo tồn mà còn là sự mở rộng, bổ sung, hoàn thiện
và nâng cao về chất những đặc điểm, đặc tính vốn có trong sự vật và hiện tượng. Như
vậy, “để phát triển được bao giờ cũng cần có sự kế thừa, tức là bảo tồn, giữ lại những đặc
điểm, đặc tính của đối tượng để trên cơ sở đó mở rộng, nâng cao trình độ, còn phát triển
chính là sự kế thừa tốt nhất, tích cực nhất” [20, tr.35]. Mặt khác, kế thừa phải luôn gắn
liền với lọc bỏ và đổi mới. Ngay cả đối với nhân tố tích cực của cái bị phủ định được giữ
lại, nó vẫn được duy trì dưới dạng lọc bỏ, chứ không phải bê nguyên xi, không phê phán,
không cải tạo và không phải lắp ghép một cách máy móc cái cũ vào cái mới. Nếu kế thừa
mà không gắn với đổi mới và lọc bỏ thì sự kế thừa đó không thể làm xuất hiện cái mới
tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn cái cũ mà cùng lắm chỉ lặp lại cái cũ một cách phiến diện
hơn.
Trong tự nhiên, tính kế thừa được biểu hiện, chẳng hạn như những nhân tố vô cơ đ-
ược giữ lại khi chuyển sang giới tự nhiên hữu cơ. Trong sự phát triển của xã hội, tính kế
thừa cũng được biểu hiện rõ nét, mà lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất là một minh chứng. Trong tư duy, sự phát triển của các hình thái ý thức xã hội
như khoa học, triết học, nghệ thuật, đạo đức, pháp quyền...cũng thể hiện rõ tính kế thừa
trong nhận thức của con người qua các thời đại lịch sử khác nhau.
Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và cải tạo cả chủ nghĩa duy vật siêu hình lẫn phép biện
chứng duy tâm để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Tất nhiên, học thuyết của Mác cũng không phải là tuyệt đối, bất di bất dịch, không phải là
một cái gì đã xong xuôi mà nó cần không ngừng được bổ sung và phát triển trong điều kiện
mới theo quan điểm kế thừa.
Như vậy, qua sự phân tích ở trên, chúng ta thấy rõ rằng: kế thừa, đổi mới là một quá
trình mang tính quy luật, biểu hiện đặc trưng của sự phát triển bất kể đó là sự phát triển
trong tự nhiên, xã hội hay tư duy. Tuy nhiên, trong mỗi lĩnh vực cụ thể, tính kế thừa có
những đặc thù riêng. Quy luật kế thừa không phải chỉ biểu hiện về mặt thời gian, không
gian, mối liên hệ giữa truyền thống và hiện đại, quá khứ và tương lai mà cả trong không
gian. Việc kế thừa không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, một dân tộc. Trong điều
kiện toàn cầu hóa hiện nay thì kế thừa còn bao hàm cả sự tiếp thu có chọn lọc, có phê
phán những tinh hoa trong nền văn hóa nhân loại nhưng đồng thời phải cải biến cho phù
hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc mình như Đảng ta khẳng định: “Tiếp thu những
tinh hoa của nhân loại, song phải luôn coi trọng những giá trị truyền thống và bản sắc dân
tộc, quyết không được tự đánh mất mình trở thành bóng mờ hoặc bản sao chép của người
khác” [13, tr.30]. Quá trình kế thừa những giá trị tạo nên bản sắc văn hóa của một dân tộc
cũng có những đặc thù riêng của nó.
1.2.2. Sự cần thiết phải kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái
trong giai đoạn hiện nay
Kế thừa là một hiện tượng mang tính quy luật đối với sự phát triển nói chung.
Không có một sự phát triển nào lại được bắt đầu từ con số “0”. Mọi sự phát triển luôn
luôn là quá trình phủ định có kế thừa. Những yếu tố tích cực của cái cũ bao giờ cũng
được giữ lại, kế thừa và phát triển trong sự ra đời của cái mới. Sự phát triển của những
giá trị tạo thành bản sắc văn hóa của một dân tộc cũng không nằm ngoài quy luật đó. Bản
sắc văn hóa của một dân tộc là di sản vô cùng quý giá; đó là tinh hoa, cốt lõi và là linh
hồn của chính dân tộc đó. Tuy nhiên, những giá trị tạo nên bản sắc đó, không phải là bất
biến và tuyệt đối như nhau trong mọi thời đại. Khi điều kiện lịch sử đã có sự thay đổi thì cần
phải có sự chọn lọc, kế thừa, bổ sung và đổi mới đối với những giá trị đó.
Việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc và củng cố cộng
đồng các dân tộc, vì sự phát triển toàn diện cho mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam (trong đó có dân tộc Thái ở Tây Bắc), là phương hướng và nội dung cơ bản của
chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Đó cũng xuất phát từ quan niệm
coi việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc,
là vấn đề trung tâm của chính sách dân tộc về văn hóa.
Văn hóa không phải là một hiện tượng siêu nhiên từ bên ngoài áp đặt và ban phát
cho con người, cũng không phải do ý muốn chủ quan của con người, mà nó hình thành
dựa trên nhiều những nhân tố khác nhau như kinh tế, chính trị - xã hội…Chính vì lẽ đó
mà không phải bất kỳ một giá trị văn hóa nào, hay một nét văn hóa nào cũng đều phù hợp
với mọi chế độ xã hội, và đều được con người chấp nhận và tiếp thu. Cũng không phải
giá trị văn hóa nào cũng có thể phát huy tác dụng để thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã
hội. Ngược lại, có những giá trị văn hóa lại làm cản trở sự phát triển vì nó đã lỗi thời,
không còn phù hợp với thời kỳ mới. Thậm chí, ngay trong một giá trị văn hóa, có mặt
còn là nhân tố thúc đẩy, nhưng mặt khác lại là nhân tố cản trở. Vì vậy, kế thừa và phát
huy bản sắc văn hóa các dân tộc, trong đó có dân tộc Thái ở Tây Bắc là một việc làm đặc
biệt cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, chúng ta không thể kế thừa tất cả những giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc Thái đã có từ xa xưa. Chúng ta chỉ nên và cần kế thừa những nét văn hóa thực sự có
giá trị, những nét văn hóa còn phù hợp với yêu cầu của xã hội và với giai đoạn hiện tại,
nhưng đang đứng trước nguy cơ bị mai một.
Kế thừa những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Thái, mà những nét văn hóa đó
mặc dù trải qua nhiều những thăng trầm, biến cố của lịch sử xã hội nó vẫn trường tồn,
không mất đi nét độc đáo, riêng có của dân tộc Thái. Kế thừa bản sắc văn hóa của dân tộc
Thái là kế thừa những nét văn hóa đặc trưng nhất, mà người ta có thể dựa vào đó để phân
biệt cộng đồng tộc người Thái với các dân tộc khác. Những đặc trưng văn hóa này không bị
pha trộn, mặc dù luôn có sự giao thoa rất mạnh mẽ giữa các nền văn hóa, của các cộng đồng
tộc người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc là sự thừa hưởng, gìn
giữ và phát huy những giá trị văn hóa đã được hình thành từ rất lâu đời cùng với quá trình
hình thành, phát triển của dân tộc Thái hàng ngàn năm nay. Với đặc điểm của tự nhiên và
môi trường sinh tụ của dân tộc đã tạo cho văn hóa Thái nói chung, văn hóa của dân tộc
Thái ở Tây Bắc nói riêng, những điểm độc đáo tạo nên bản sắc riêng của văn hóa dân tộc
Thái ở Tây Bắc.Việc giữ gìn một nền văn hóa như nó vốn có đã khó, nhưng tìm những
cái hay, cái tốt, cái phù hợp với giai đoạn mới và phát triển nó, làm cho nó phát huy tác
dụng mà không làm mất đi bản sắc, cái cốt lõi của nền văn hóa đó là việc làm còn khó
hơn nhiều.
Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái là kế thừa những nét văn hóa
có ý nghĩa tích cực thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội. Vì vậy, nói kế thừa và phát
huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay thì trước hết phải xuất phát từ yêu
cầu thực tế của từng địa phương mà lựa chọn, để có thể đưa ra những phương hướng và giải
pháp khả thi trên thực tế.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ
trương, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, tạo điều kiện để vùng Tây Bắc phát triển đồng đều và vững chắc, đóng
góp vào việc thực hiện mục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay.pdf