Luận văn Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay

Tài liệu Luận văn Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay: LUẬN VĂN: Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, phụ nữ luôn luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Họ vừa là người công dân, người lao động, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Khả năng và điều kiện lao động, trình độ văn hóa, vị trí xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của thế hệ tương lai, đến sự phồn vinh của quê hương, đất nước. Chiếm hơn 50% dân số của tỉnh, phụ nữ Bến Tre đã góp phần quan trọng tạo nên sự rạng rỡ của vùng đất “ba dải cù lao” anh hùng. Đặc biệt dưới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ Bến Tre đã viết nên những trang sử vô cùng oanh liệt, phát huy mạnh mẽ truyền thống “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Truyền thống ấy được kế thừa và phát triển một cách sáng tạo trong suốt chiều dài lịch sử, làm hồi sinh lại cuộc sống của quê hương sau những năm tháng chi...

pdf105 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1313 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, phụ nữ luôn luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Họ vừa là người công dân, người lao động, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Khả năng và điều kiện lao động, trình độ văn hóa, vị trí xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của thế hệ tương lai, đến sự phồn vinh của quê hương, đất nước. Chiếm hơn 50% dân số của tỉnh, phụ nữ Bến Tre đã góp phần quan trọng tạo nên sự rạng rỡ của vùng đất “ba dải cù lao” anh hùng. Đặc biệt dưới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ Bến Tre đã viết nên những trang sử vô cùng oanh liệt, phát huy mạnh mẽ truyền thống “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Truyền thống ấy được kế thừa và phát triển một cách sáng tạo trong suốt chiều dài lịch sử, làm hồi sinh lại cuộc sống của quê hương sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt, làm phong phú thêm nội dung các giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đứng trước nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới, đòi hỏi người phụ nữ Bến Tre phải phấn đấu vươn lên đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống hiện đại, với đầy đủ những phẩm chất: yêu nước, có tri thức, có sức khoẻ, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng nhân hậu, quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng; xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. “Người phụ nữ mới” là sản phẩm của quá trình lịch sử, được lịch sử hun đúc nên, kết hợp hài hoà yếu tố truyền thống với hiện đại. Trong những năm qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh luôn quan tâm động viên, bồi dưỡng lực lượng và khả năng của người phụ nữ, phát huy truyền thống của người phụ nữ Bến Tre, tạo mọi điều kiện thuận lợi vì sự tiến bộ của phụ nữ. Trong điều kiện đó, phụ nữ Bến Tre đã có những bước tiến đáng kể so với trước đây. Bến Tre là một trong những tỉnh nghèo của miền Tây Nam Bộ, lại phải gánh chịu hậu quả hết sức nặng nề của chiến tranh để lại. Chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân Bến Tre nói chung, người phụ nữ Bến Tre nói riêng, nhất là việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống trong điều kiện mới. Mặt khác, trong xu thế hội nhập và giao lưu quốc tế, sự phát triển của nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó đã tác động mạnh mẽ đến các tầng lớp xã hội đặc biệt là phụ nữ. Vấn đề việc làm, sự đói nghèo, trình độ học vấn, sự hưởng thụ văn hoá; tệ nạn xã hội, buôn lậu, ma tuý, mại dâm, hiện tượng bạo lực đối với phụ nữ đang là những vấn đề bức bách, nhất là ở những vùng nông thôn trong đó có Bến Tre. Một bộ phận phụ nữ có đạo đức, lối sống không lành mạnh, thiếu thuỷ chung, vô trách nhiệm với gia đình, đi ngược lại giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Những tồn tại trên đã và đang làm mai một dần giá trị đạo đức của phụ nữ Bến Tre nói riêng và đạo đức người phụ nữ Việt Nam nói chung. Giải quyết vấn đề này là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành, trách nhiệm của mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là của chính các thế hệ phụ nữ Bến Tre hôm nay và mai sau. Do vậy, việc nhận thức đúng đắn “Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay” là vấn đề cần thiết và cấp bách, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ, xây dựng người phụ nữ mới đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước ngay trên mảnh đất "quê hương Đồng khởi - Bến Tre". 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, về giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam và việc kế thừa chúng đã có nhiều công trình nghiên cứu, tiêu biểu như sau: - "Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam" của GS. Trần Văn Giàu, Nxb Khoa học xã hội, 1980. - "Đạo đức mới" GS. Vũ Khiêu chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974. - "Đến hiện đại từ truyền thống" của GS. Trần Đình Hượu, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1996. Trong các công trình trên nhà nghiên cứu đã đưa ra những giá trị truyền thống dân tộc nói chung được hình thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. - "Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại" của Lê Thị Nhâm Tuyết - ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Dân tộc học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1973. - "Truyền thống phụ nữ Việt Nam" của GS. Trần Quốc Vượng, Nxb Văn hóa - dân tộc, Hà Nội, 2000. Các công trình này đi sâu nghiên cứu vai trò, những giá trị truyền thống của phụ nữ Việt Nam qua từng thời kỳ lịch sử. - "Ba cuộc cách mạng với vấn đề giải phóng phụ nữ" - Dương Thoa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1976. - "Bác Hồ với phong trào phụ nữ Việt Nam" của Dương Thoa, Nxb Phụ nữ, 1982. - "Chính sách xã hội đối với phụ nữ nông thôn (quy trình xây dựng và thực hiện) - PTS. Lê Thị Vinh Thi chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998. - "Phụ nữ nông thôn và việc phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp" - GS. Lê Thi chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998. - "Việc làm và đời sống phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam" của GS. Lê Thi, Nxb Khoa học xã hội. - "Phụ nữ tham gia lãnh đạo quản lý", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Nhìn chung, các công trình này chủ yếu nghiên cứu vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế, chính trị và các lĩnh vực hoạt động xã hội khác nhau. Ngoài ra còn có một số bài viết liên quan đến vấn đề giá trị truyền thống dân tộc và giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ, như: - "Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển" - GS. Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 2/1998. - "Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc" của PGS. Nguyễn Văn Huyên, Tạp chí Triết học, số 4/1998. - "Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong xã hội ta hiện nay và việc nâng cao phẩm chất đạo đức của cán bộ' của PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ và Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Cộng sản, số 15/1998. - "Làm thế nào để phụ nữ trở thành chủ thể của quá trình đổi mới đất nước hiện nay" của GS. Lê Thi, Khoa học về Phụ nữ, số 4/1996. - "Phụ nữ Việt Nam bước vào thế kỷ XXI" của GS. Lê Thi, Tạp chí Cộng sản, số 20/2000. - "Về chuẩn mực người phụ nữ mới thời hiện đại" của GS. Lê Thi, Khoa học về Phụ nữ, số 3/2004. Ngoài ra, một số đề tài, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu vấn đề kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc nói chung, của phụ nữ Việt Nam nói riêng, trong đó phải kể đến: - "Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay", Đề tài KX.07.02. - "Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Văn Lý, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2000. - "Kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong tình hình hiện nay" của Lê Thị Minh Hiệp, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2000. - "Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho người phụ nữ Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thị Lan, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2001. Năm 2000, tác giả Thạch Phương đã công bố kết quả nghiên cứu về phụ nữ tỉnh Bến Tre qua cuốn sách "Phụ nữ Bến Tre". ở một mức độ khái quát, tác giả Thạch Phương bước đầu đã giới thiệu và phân tích truyền thống phụ nữ Bến Tre qua từng thời kỳ lịch sử, giúp cho người đọc có được một bức tranh về truyền thống phụ nữ Bến Tre. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu "Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay". Chính vì vậy, tôi lấy đó làm đề tài nghiên cứu cho bản luận văn thạc sĩ của mình. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Mục đích của luận văn: Trên cơ sở phân tích thực trạng việc kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre, đưa ra một số giải pháp cơ bản để kế thừa và phát huy có hiệu quả các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre trong giai đoạn hiện nay. - Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: + Nêu một cách khái quát giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre và cơ sở hình thành của chúng. + Bước đầu làm sáng tỏ nét đặc thù cũng như tính tất yếu của việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay. + Phân tích thực trạng của việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre, tìm ra những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân của nó. + Đề xuất một số giải pháp cơ bản giúp cho việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre đạt hiệu quả hơn nữa. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn: + Vấn đề kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ ở phạm vi Phụ nữ tỉnh Bến Tre. + Chỉ kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống nổi bật của phụ nữ Bến Tre. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận: Thực hiện luận văn này, tác giả dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức, về phụ nữ, nhất là về vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử - lôgíc, phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp. 5. Đóng góp mới của luận văn - Luận văn nêu lên nét đặc thù của những giá trị đạo đức truyền thống nổi bật ở người phụ nữ Bến Tre và tính tất yếu của việc kế thừa chúng trong giai đoạn hiện nay. - Góp phần làm rõ sự vận động và phát triển về nội dung của các giá trị đạo đức truyền thống phụ nữ Việt Nam thông qua việc kế thừa chúng của phụ nữ tỉnh Bến Tre. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành của tỉnh Bến Tre trong việc xây dựng chiến lược, sách lược phát huy truyền thống phụ nữ Bến Tre trong phong trào "Đồng khởi mới". 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết. Chương 1 Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre và tính tất yếu của việc kế thừa chúng trong giai đoạn hiện nay 1.1. Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre 1.1.1. Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam Quan niệm về giá trị và giá trị đạo đức Những hiểu biết đầu tiên về giá trị xuất hiện tương đối sớm trong lịch sử nhận thức của nhân loại và gắn liền với triết học. Đến cuối thế kỷ XIX, giá trị học mới tách ra thành một khoa học độc lập và thuật ngữ giá trị được dùng để chỉ một khái niệm của khoa học độc lập. Theo một số từ điển nước ngoài và trong nước, khái niệm "giá trị" thường tập trung vào những nhận thức sau: Từ điển Triết học của Liên Xô (cũ) định nghĩa: Giá trị - những định nghĩa về mặt xã hội của khách thể trong thế giới chung quanh, nhằm nêu bật tác dụng tích cực hoặc tiêu cực của các khách thể ấy đối với con người và xã hội (cái lợi, thiện và ác, cái đẹp, cái xấu nằm trong những hiện tượng của đời sống xã hội hoặc tự nhiên). Xét bề ngoài, các giá trị là các đặc tính của sự vật hoặc của hiện tượng, tuy nhiên, chúng không phải là cái vốn do thiên nhiên ban cho sự vật, hiện tượng, không phải đơn thuần do kết cấu bên trong của bản thân khách thể, mà do khách thể bị thu hút vào phạm vi tồn tại xã hội của con người và trở thành cái mang những quan hệ xã hội nhất định. Đối với chủ thể (con người), các giá trị là những đối tượng lợi ích của nó, còn đối với ý thức của nó thì chúng đóng vai trò những vật định hướng hằng ngày trong thực trạng vật thể và xã hội, chúng biểu thị các quan hệ thực tiễn của con người đối với các sự vật hiện tượng chung quanh [59, tr.52]. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Xô viết: Giá trị là sự khẳng định hoặc phủ định ý nghĩa của các đối tượng thuộc thế giới chung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm hoặc toàn bộ xã hội nói chung. Giá trị được xác định không phải bởi bản thân các thuộc tính tự nhiên, mà là bởi tính chất cuốn hút (lôi cuốn) của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người, phạm vi các hứng thú và nhu cầu, các mối quan hệ xã hội, các chuẩn mực và phương thức đánh giá ý nghĩa nói trên được biểu hiện trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức , trong lý tưởng, tâm thế và mục đích [59, tr.51-52]. Trong Từ điển Tiếng Việt, giá trị được định nghĩa như sau: Cái làm cho một vật có ích lợi, có ý nghĩa, là đáng quý về một mặt nào đó. Tác dụng và hiệu lực. Lao động xã hội kết tinh trong sản phẩm hàng hóa. Số đo của một đại lượng [58, tr.407]. Như vậy, giá trị được hiểu theo nhiều nghĩa và được tiếp cận dưới nhiều góc độ khoa học khác nhau. Song, quan niệm về giá trị chủ yếu vẫn được xem xét thông qua lăng kính triết học. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch sử, tính nhận thức được và tính thực tiễn của giá trị, của các lý tưởng, các chuẩn mực của đời sống con người. Giá trị không phải là ý niệm về sự vật hay chuẩn mực chủ quan về sự vật lý tưởng mà là những hiện tượng xã hội có tính đặc thù, là ý nghĩa hiện thực của sự vật đối với con người. Giá trị xuất hiện từ mối quan hệ xã hội giữa chủ thể và đối tượng, nghĩa là từ thực tiễn của con người xã hội. Mọi giá trị đều có nguồn gốc từ lao động sáng tạo của quần chúng. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể xem giá trị là những thành tựu của con người góp vào sự phát triển đi lên của lịch sử xã hội, phục vụ cho lợi ích và hạnh phúc của con người. Giá trị vì thế được xác định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người. Giá trị là các ý tưởng về các loại mục đích hay các loại lối sống của một cá thể, hay được chia sẻ trong một nhóm hay toàn xã hội, được cá thể, nhóm hoặc xã hội mong muốn coi là có ý nghĩa. Đó là những chất lượng cơ bản để bảo đảm con đường sống các chuẩn tối thượng chỉ đạo mọi hoàn cảnh thực tiễn. Như vậy, giá trị ở đây được coi là các giá trị bảo đảm cuộc sống, nói chung là các giá trị tích cực bảo đảm một cuộc sống tốt đẹp [17, tr.60]. Tuy nhiên, cũng có cách nhìn rộng hơn, coi bất cứ cái gì tốt hay xấu, thật hay giả,... đều là giá trị. ở góc độ này, giá trị có tính hai mặt: mặt tích cực (những trường hợp nó định hướng tích cực cho hoạt động của con người nhằm đạt tới những mục đích nhân đạo, cao đẹp của đời sống), và mặt tiêu cực (ta thường gọi là "giá trị trái dấu" hay "phản giá trị"). Thường khi nói "giá trị" người ta chỉ quan tâm đến mặt tích cực của nó mà thôi. Qua các khái niệm về giá trị , chúng ta có thể khái quát một số điểm sau: Mọi sự vật, hiện tượng đều có thể xem là có giá trị, dù là vật thể hay tư tưởng miễn nó được người ta thừa nhận, cần đến nó như một nhu cầu và góp phần vào sự phát triển xã hội. Với ý nghĩa như thế đã loại trừ những giá trị thuần túy mang tính hưởng lạc. Giá trị vừa mang tính khách quan vừa mang tính lịch sử - xã hội. Sự xuất hiện hay mất đi của giá trị không phụ thuộc vào ý thức của con người (chủ thể) mà nó do yêu cầu của thực tiễn, của từng thời đại lịch sử trong đó con người sống và hoạt động. Dù mang tính khách quan như thế nhưng giá trị không phải là cái gì có tính chất cố hữu, vốn nằm ở bản thân các hiện tượng thiên nhiên như vẻ đẹp của mây, nước, trăng, hoa, như lợi ích của núi, sông, rừng, biển... Giá trị của sự vật, hiện tượng là kết quả của mối quan hệ không tách rời của chủ thể và khách thể. Thông thường khách thể là nguồn gốc của sự hình thành và tồn tại giá trị, còn chủ thể và mối quan hệ giữa chủ thể với khách thể là điều kiện tồn tại, phát triển các giá trị của khách thể. Có thể nói, giá trị là một phạm trù mang bản chất người, nó được xác định trong mối quan hệ thực tiễn của con người, xuất phát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý về bản chất và về giá trị của khách thể. Song, trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức, yếu tố tình cảm và yếu tố hành vi của chủ thể trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự lựa chọn của chủ thể. Vì thế, thiên nhiên chỉ trở thành đẹp và có ý nghĩa giá trị khi nó được đặt trong mối quan hệ thực tiễn với con người xã hội. Như vậy, “Nói đến giá trị là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp; là nói đến cái có khả năng thôi thúc con người hành động và nỗ lực vươn tới" [4, tr.16]. Do đó, giá trị đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó là cơ sở, chuẩn mực để con người dựa vào lựa chọn cách thức suy nghĩ, xác định mục đích và phương hướng cho hoạt động của mình phù hợp với cái chung của xã hội. Giá trị thể hiện ý kiến và hành vi của cả cộng đồng người trong việc lựa chọn, chấp nhận kế hoạch phát triển xã hội. Vì vậy, sự phát triển các giá trị con người là nhân tố cơ bản đối với sự phát triển quốc gia. Trong việc nghiên cứu giá trị, tùy theo mục đích tiếp cận mà người ta phân loại giá trị theo cách riêng của mình. Căn cứ vào sự thoả mãn nhu cầu vật chất hay nhu cầu tinh thần của con người, người ta chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Đây là cách phân chia khá phổ biến. Giá trị vật chất thể hiện rõ nhất trong đời sống kinh tế, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Song, con người không chỉ biết sống mà còn sống đẹp, vượt lên trên những nhu cầu vật chất, hướng tới những giá trị tinh thần cao đẹp. Trong giá trị tinh thần của xã hội, người ta thường đề cập đến các loại giá trị như: giá trị khoa học, giá trị thẩm mỹ, giá trị đạo đức,... đánh dấu sự phát triển về mặt chân - thiện - mỹ của đời sống xã hội. Đó là những quan hệ tốt đẹp mà xã hội đã đạt được nhằm phát triển và hoàn thiện đời sống xã hội. Giá trị khoa học gắn với quá trình con người vươn lên nắm bắt bản chất, quy luật của hiện thực khách quan để ngày càng làm chủ những điều kiện sinh hoạt tự nhiên và xã hội của mình. Giá trị thẩm mỹ gắn với nhu cầu thưởng thức, đánh giá, hưởng thụ và sáng tạo cái đẹp trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Giá trị đạo đức gắn với nhu cầu điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo hướng tạo nên sự thống nhất hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Có thể nói, “ Giá trị đạo đức là những cái được con người lựa chọn và đánh giá như việc làm có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội được lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương” [44, tr.62]. Bản thân giá trị đạo đức, xét về mặt thời gian có thể chia thành giá trị đạo đức truyền thống và giá trị đạo đức hiện đại. Mỗi dân tộc đều có truyền thống của mình do lịch sử tạo nên. Truyền thống là sản phẩm của quá trình phát triển của mỗi dân tộc. Nó là điều kiện để duy trì và phát triển cuộc sống. Đó là những đức tính hay những thói tục kéo dài nhiều thế hệ, nhiều thời kỳ lịch sử, có nhiều tác dụng, có thể tích cực cũng có thể tiêu cực. Như vậy, truyền thống có cái tốt, cái xấu, vì thế mà C.Mác nói rằng: "Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết đè nặng như quả núi lên đầu óc những người đang sống" [37, tr.145]. Còn Ph.Ăngghen coi "Truyền thống (lạc hậu) còn là thế lực trong khoa học tự nhiên nữa" [39, tr.468]. Với Hồ Chí Minh, "thói quen và truyền thống lạc hậu là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất khó chịu, rất lâu dài" [41, tr.287]. Nhưng khi nói đến “giá trị truyền thống” người ta chỉ muốn nói đến cái tốt, bởi lẽ trong ý nghĩa đích thực của nó chỉ những cái tốt, đẹp mới được gọi là giá trị truyền thống. Song, không phải mọi cái tốt đều gọi là giá trị truyền thống mà phải là những cái tốt phổ biến, cơ bản có nhiều tác dụng tích cực cho đạo đức luân lý, có cả tác dụng hướng dẫn sự nhận định và hành động của con người chúng được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Quan niệm về giá trị đạo đức truyền thống Giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc. Nó chiếm vị trí nổi bật, là yếu tố cốt lõi của hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, thể hiện nét đặc thù của đạo đức Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp đã hình thành và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Các giá trị đạo đức truyền thống là kết quả của các mối quan hệ giữa người với người, của những điều kiện sinh hoạt vật chất nhất định. Mỗi giá trị đều góp phần vào việc tạo nên nét riêng biệt của con người Việt Nam, bản sắc Việt Nam. Trong suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua biết bao thử thách, hy sinh để đấu tranh cho sự tồn tại và phát triển của mình. Đất nước Việt Nam không chỉ là nơi ở, nơi sinh sống mà còn là thành quả kết tinh từ mồ hôi nước mắt, xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam. Nó thăng hoa trong tâm thức người Việt Nam thành Tổ quốc thiêng liêng, thành quê hương yêu dấu. Những điều kiện lịch sử - xã hội ấy là cơ sở cho sự hình thành và phát triển các giá trị đạo đức truyền thống mang bản sắc Việt Nam. Lòng yêu quê hương, đất nước của con người Việt Nam được bắt nguồn từ đó; tinh thần cố kết cộng đồng, lối sống tình nghĩa của dân tộc Việt Nam cũng bắt xuất phát từ đây... Đó là những giá trị đạo đức truyền thống bền vững, trường tồn của dân tộc Việt Nam. Nó luôn luôn được bồi đắp thêm bởi những tinh hoa văn hóa của nhân loại, nhất là khi có sự du nhập của Chủ nghĩa Mác – Lênin, sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với ý nghĩa đó, từ lâu, giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc là những nguyên lý đạo đức lớn mà con người trong nước thuộc các thời đại, các giai đoạn lịch sử đều dựa vào để phân biệt phải trái, để nhận định nên chăng nhằm xây dựng độc lập, tự do và tiến bộ của dân tộc đó. Cũng là những nguyên lý đạo đức đã tàng ẩn trong tâm trí sâu xa của mỗi người dân trong nước, khiến họ tự nhiên phản ứng đúng với lẽ phải, đúng với quyền lợi và danh dự dân tộc khi phải đụng chạm một sự cố nào [16, tr.50-51]. Và giáo sư khẳng định, dù trải qua bao vật đổi sao dời, từ thời Văn Lang xa xưa cho đến thời hiện đại, hễ nói đến giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta là nói: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Giáo sư Vũ Khiêu thì cho rằng, giá trị đạo đức truyền thống cao đẹp của dân tộc ta bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo, tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người, trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc. Theo GS. Nguyễn Hồng Phong, tính cách dân tộc gần như là tất cả nội dung của giá trị đạo đức truyền thống, bao gồm: tính tập thể - cộng đồng; trọng đạo đức; cần kiệm, giản dị, thực tiễn; tinh thần yêu nước bất khuất và lòng yêu chuộng hòa bình, nhân đạo; lạc quan [47, tr.453-454]. Ngoài ra, giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cũng được đề cập đến trong một số văn kiện của Đảng. Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị đã khẳng định: "Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương người như thể thương thân", đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động" [10, tr.19]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) một lần nữa khẳng định: Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử; tính giản dị trong lối sống [12, tr.56]. Từ những quan niệm của các nhà khoa học và quan điểm của Đảng ta về giá trị đạo đức truyền thống, có thể khẳng định các giá trị đạo đức truyền thống cơ bản của dân tộc ta bao gồm: yêu nước, anh hùng; lòng nhân ái, khoan dung; tinh thần đoàn kết; cần cù sáng tạo... Trong đó, yêu nước là giá trị cốt lõi, giá trị hàng đầu của bậc thang giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam. Nó là tiêu điểm của các tiêu điểm, là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử của dân tộc ta, là động lực tình cảm lớn nhất trong đời sống của mỗi con người Việt Nam. Đối với người phụ nữ Việt Nam, các giá trị đạo đức của họ không tách rời những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Bởi lẽ, truyền thống và tinh hoa của phụ nữ là sự biểu hiện truyền thống và tinh hoa của dân tộc, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã khẳng định: “Phụ nữ là người có tính dân tộc hơn ai hết, và cái đẹp đẽ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, trước hết là của phụ nữ Việt Nam” [57, tr.16]. Điều đó được lý giải qua những cơ sở hình thành các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam Lịch sử phụ nữ Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của lịch sử dân tộc. Vì vậy, đạo đức phụ nữ Việt Nam phải gắn liền với đạo đức dân tộc, nó được hình thành từ hoàn cảnh lịch sử của dân tộc và thông qua vai trò của người phụ nữ trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Thứ nhất, vai trò của người phụ nữ trong lao động sản xuất Trong thời kỳ nguyên thủy, sức sản xuất thấp kém, con người chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi lao động gắn với cộng đồng. Mọi người cùng săn bắt và hái lượm nhưng người phụ nữ giữ vai trò quan trọng. Kinh tế hái lượm chủ yếu do những người phụ nữ đảm trách, còn săn bắt dần trở thành chức nghiệp chủ yếu của đàn ông. Sự phân công lao động theo giới tính phát sinh và phát triển dần lên trong lòng xã hội cộng sản nguyên thủy. Nghề săn bắt muông thú ngày càng gặp nhiều khó khăn, đôi khi người đàn ông không tìm được nguồn thức ăn nào cho cộng đồng. Khi đó, những người đàn bà hái lượm, đào tìm những hạt, cây, rễ, củ,... bắt trai, sò, ốc, hến, tôm cua,... là những sản vật không quá hiếm trong thiên nhiên nhiệt đới của nước ta trở nên có hiệu quả. Dần dần, vai trò đảm nhiệm nguồn thức ăn thường xuyên và quan trọng về số lượng cho các tập đoàn người nguyên thủy chủ yếu thuộc về phụ nữ. Ngay từ buổi đầu, vai trò này đã thể hiện tinh thần sẵn sàng gánh vác công việc chung của người phụ nữ Việt Nam. Người phụ nữ còn thể hiện vai trò quan trọng của mình đối với sự sinh tồn của cộng đồng người nguyên thủy trong việc phát hiện ra nghề đánh cá, chăn nuôi và nghề gốm. Đặc biệt, nghề gốm ra đời đã đánh dấu bước phát triển, thể hiện sự khéo léo sáng tạo của người phụ nữ Việt Nam. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế, xã hội, nghệ thuật... trong sản xuất vật phẩm tiêu dùng ở nước ta. Trong nền kinh tế hái lượm, từ chỗ hái lượm tự nhiên, người phụ nữ nguyên thủy tiến dần đến hái lượm theo mùa. Tiến thêm một bước nữa, với những công cụ lao động bằng lưỡi rìu, cuốc đá, gậy nhọn bằng tre, gỗ, người phụ nữ đã trồng các loại cây ăn quả. Nghề nông nguyên thủy ra đời, bao gồm cả việc trồng lúa và những loại cây lương thực khác. Dưới bàn tay của người phụ nữ nguyên thủy, nhiều loại lúa hoang đã trở thành tổ tiên của các giống lúa ngày nay. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà ở nhiều dân tộc, thần lúa nói riêng và thần nông nghiệp nói chung đều mang hình tượng người phụ nữ. Kinh tế nông nghiệp ra đời đánh dấu bước phát triển mới của nền kinh tế nguyên thuỷ, cung cấp nguồn thức ăn thường xuyên và ổn định cho con người. Tuy nhiên, nó vẫn do phụ nữ đảm nhiệm song song với việc hái lượm của mình. Nghề nông nguyên thuỷ với quy mô nhỏ, đòi hỏi sự mềm mại, dẻo dai, cần cù, điều này phù hợp với thể chất và thiên tính của người phụ nữ. Với sự đảm nhiệm và chăm sóc của người phụ nữ nguyên thuỷ, nông nghiệp dần dần phát triển. Sự phát triển nền kinh tế nông nghiệp là kết quả của quá trình lao động phức tạp và vất vả mà người phụ nữ phải gánh vác. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trước hết là hình ảnh của con người lao động chân lấm tay bùn, dãi nắng dầm sương, chịu đựng gian khổ từ đời này qua đời khác. Chính trong hoàn cảnh khó khăn của buổi đầu lịch sử đã hình thành nên những phẩm chất đạo đức đặc sắc của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, sáng tạo, cần cù, nhẫn nại, chịu thương chịu khó, tinh thần làm chủ, ý thức cộng đồng... Những phẩm chất, những giá trị đó được kế thừa và phát huy mãi đến ngày nay trở thành một trong những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng. Thứ hai, vai trò của người phụ nữ trong đánh giặc giữ làng, giữ nước Trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của dân tộc Việt Nam, dựng nước gắn liền với giữ nước. Chống xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do, đó là điều kiện tiên quyết để dân tộc ta tồn tại và phát triển. Có thể khẳng định rằng, những người đầu tiên đứng lên giành độc lập cho Tổ quốc là phụ nữ. “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” là truyền thống đặc biệt của phụ nữ Việt Nam từ thời đại Hùng Vương - Trưng Vương dựng nước đến thời đại Hồ Chí Minh chống Mỹ cứu nước. Lịch sử đã khắc sâu một chân lý: Phụ nữ Việt Nam không chỉ lo việc nhà mà còn lo việc nước. Bởi lẽ, ở Việt Nam, nước và nhà, làng và nước không bao giờ tách rời nhau, đó là những tiếng thân thương, quen thuộc trong tâm thức của người Việt Nam, nó biểu thị rõ rệt và cô đúc sự gắn bó của các tổ chức xã hội Việt Nam xưa. Con người ở đây ý thức được rằng: nước mất thì nhà tan. Vì thế, cứu nước không chỉ là nhiệm vụ của đàn ông mà đàn bà cũng lo cứu nước. Mặt khác, trong các cuộc chiến tranh, bọn xâm lược trực tiếp đánh vào người phụ nữ, chà đạp nhân phẩm, cướp đi quyền sống, quyền làm mẹ của họ, chúng không chỉ “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn” mà còn “Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Trước tai hoạ trực tiếp đó, người phụ nữ chỉ còn con đường quyết liệt đấu tranh, đứng lên cầm vũ khí, tham gia vào những cuộc đấu tranh chống xâm lược. Trong suốt chiều dài hơn bốn nghìn năm lịch sử, biết bao thế hệ phụ nữ đã trở thành chiến sĩ trong những lần vận nước gặp nguy nan, từ đội ngũ nữ tướng thời Bà Trưng đến “đội quân tóc dài” thời đại mới. Hai Bà Trưng và các nữ tướng của hai bà là những người mẹ, người chị, những người con gái Việt Nam đã nêu cao tấm gương “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Đấy là những con người “sinh vi tướng, tử vi thần”, những nữ anh hùng tiêu biểu cho tinh hoa dân tộc trong giai đoạn phôi thai của lịch sử. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (năm 41-43) là sự phủ định hiên ngang cái thế “bình thiên hạ” của triều đại nhà Hán, đồng thời khẳng định chắc chắn sự nghiệp giành độc lập tự chủ của dân tộc và mở đường cho các thế kỷ sau đi tới thắng lợi. Sử gia Lê Văn Hươu sau này có viết: "Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà nổi lên đánh lấy được 65 thành trì, lập quốc xưng vương dễ như giở bàn tay" [29, tr.40]. Góp phần vào ngọn nguồn của truyền thống đánh giặc của phụ nữ Việt Nam xưa, 200 năm sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa của “Vua bà” Triệu Thị Trinh, cuộc khởi nghĩa ấy một lần nữa khẳng định ý chí tự chủ, tinh thần độc lập dân tộc và khí phách của người phụ nữ Việt Nam với câu nói bất hủ: Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá Kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người. Truyền thống đánh giặc của Bà Trưng, Bà Triệu đã được phụ nữ Việt Nam kế thừa và phát huy từ thế hệ này qua thế hệ khác. Không chỉ có một Trưng Vương, một “Vua bà” mà còn có hàng vạn Trưng Vương, hàng vạn “Vua bà” vô danh khác đã góp phần xương máu của mình làm cho dòng truyền thống đánh giặc giữ nước quý báu này phát triển mạnh mẽ và liên tục. Trong quá trình chiến đấu lâu dài, người phụ nữ xưa đã rèn luyện và bộc lộ khí phách anh hùng, tinh thần dũng cảm, ý chí bất khuất, kiên cường, tạo nên truyền thống quang vinh của phụ nữ Việt Nam. Với thứ vũ khí tinh thần không gì sánh nổi ấy, những người phụ nữ bị coi là “chân yếu tay mềm” đã trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đó là những con người yêu nước sâu sắc, sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ, hy sinh. Đó là những con người bất khuất, kiên cường không sức mạnh nào có thể khuất phục được. Tất cả những đức tính đặc sắc của người chiến sĩ - phụ nữ Việt Nam đã tạo nên hình tượng thơ bi tráng: Trên đất nước nghìn năm máu chảy Nghìn năm người con gái vẫn cầm gươm. Chính hoàn cảnh lịch sử đó đã hình thành nên những giá trị đạo đức phổ quát và bền vững ở người phụ nữ Việt Nam: Lòng yêu nước nồng nàn, khí phách anh hùng, kiên cường, bất khuất và ý chí tự cường dân tộc. Thứ ba, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội Người phụ nữ xưa không chỉ là con người lao động đảm đang, con người chiến sĩ dũng cảm mà còn là con người nội trợ trung hậu, gánh vác mọi công việc gia đình và xã hội. Trước khi có sự phân công lao động theo giới tính, đã có sự phân công giữa đàn ông và đàn bà trong việc bảo tồn và duy trì nòi giống. Trong điều kiện sinh hoạt cộng đồng của người nguyên thủy, người phụ nữ vừa thường xuyên lao động sản xuất, đảm nhiệm chức năng kinh tế vừa gánh vác cả chức năng sinh đẻ và nuôi dạy con cái. Đấy là chức năng thiêng liêng của người phụ nữ, đồng thời cũng là một loại lao động nặng nhọc không ai có thể thay thế. Người phụ nữ Việt Nam là những người mẹ hiền, tình cảm dành cho con như biển trời rộng lớn. Con cái khỏe mạnh, ngoan ngoãn, vui chơi, chăm chỉ học hành là nguồn hạnh phúc lớn lao của người phụ nữ. Có ai yêu con hơn những người mẹ, người đã suốt đời tảo tần khuya sớm, nhịn ăn, nhịn mặc để nuôi nấng, săn sóc dạy dỗ con cái. Người đã gửi vào con tất cả những ước mong và hạnh phúc. Trong gia đình, phụ nữ là người thường xuyên, trực tiếp nuôi dạy con cái, là người thầy, nhà giáo dục đầu tiên của con người. Cùng với việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái, phụ nữ nguyên thủy còn gánh vác cả những công việc trong nhà. Trước hết là việc sửa sang nơi ăn chốn ở, chế biến, phân chia và dự trữ thức ăn, từ việc giữ lửa, nấu nướng thức ăn cho cả gia tộc, đến việc xây dựng hang ở, cửa nhà. Sau đó là đảm nhiệm kinh tế gia đình, cung cấp những nhu cầu vật dụng quan trọng cho xã hội nguyên thủy. Với hình ảnh của nữ Thần Lửa và nữ thần nghề mộc trong thần thoại Việt Nam, nếu lột bỏ cái vỏ thần linh đi, sẽ thấy hình ảnh của những con người nội trợ đảm đang, gánh vác công việc gia đình và xây dựng cuộc sống gia đình ấm no hạnh phúc. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà người Việt Nam ta quan niệm gia đình là “tổ ấm” của mỗi con người. Tuy nhiên, vai trò của người phụ nữ trong việc đảm nhiệm, phụ trách toàn bộ thể chế và đời sống tinh thần của gia đình mới là lĩnh vực kết tinh đức tính đảm đang của người phụ nữ Việt Nam. ở đây, phụ nữ là những người vợ thủy chung son sắt với chồng, những người mẹ hy sinh trọn vẹn cho con cái, những người con gái, con dâu nết na thảo hiền đối với bậc trên. Đấy là hình ảnh của con người nội trợ trung hậu, đảm đang. Sự trung hậu ở đây thể hiện thông qua vai trò lịch sử của người phụ nữ đối với gia đình Việt Nam mà họ đã đảm nhiệm một cách tự nhiên và bình dị. Đó là cơ sở quan trọng để hình thành nên những giá trị đạo đức truyền thống: anh hùng, bất khuất, đảm đang, tần tảo, yêu chồng, thương con, thủy chung son sắt, đức hy sinh cao cả của người phụ nữ Việt Nam. Người phụ nữ xưa không chỉ lo cho cuộc sống gia đình mà còn đảm nhiệm cả những công việc xã hội, tổ chức và quản lý xã hội. Họ giữ vai trò hòa giải, phân xử những mâu thuẫn trong nội bộ thị tộc, đồng thời giao thiệp và giải quyết những “công việc đối ngoại” với thị tộc khác. Chính phụ nữ luôn là sứ giả hòa bình bởi họ mềm mại, khéo léo, dịu dàng hơn ai hết. Vai trò đó càng tô đậm thêm nét đẹp của những truyền thống quý báu: đảm đang, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng,... ở người phụ nữ. Truyền thống ấy ngày càng được bồi đắp và phát triển phong phú, tạo nên danh hiệu cao quý cho người phụ nữ Việt Nam hiện đại “giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Chính vai trò quan trọng của người phụ nữ trong suốt mấy ngàn năm lịch sử, đã hun đúc nên những phẩm chất đạo đức truyền thống cao đẹp ở người phụ nữ Việt Nam. Vai trò ấy là một sự thật khách quan mà cả dân tộc ta đã khẳng định. Có thể hình dung ra ba con người khác nhau mà thống nhất, tập trung ở người phụ nữ Việt Nam: con người lao động đảm đang, con người chiến sĩ dũng cảm, anh hùng, con người nội trợ trung hậu. Hình ảnh ấy được hình thành và ổn định trong suốt quá trình lịch sử lâu dài. Ngày nay, những người phụ nữ hiện đại mang trong mình truyền thống đó và ngày càng tự giác phát huy mạnh mẽ trong hoàn cảnh mới. 1.1.2. Những giá trị đạo đức truyền thống nổi bật của người phụ nữ Bến Tre Giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ Bến Tre không nằm ngoài những giá trị đạo đức của người phụ nữ Việt Nam. Nổi bật vẫn là truyền thống anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, thủy chung được phụ nữ Bến Tre kế thừa và phát huy trong điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội của vùng đất ba dải cù lao. Có thể nói, những giá trị đạo đức truyền thống ấy là hệ quả tất yếu của lòng yêu nước nồng nàn tiềm ẩn trong mỗi con người phụ nữ Bến Tre, gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của quê hương. Nó thẩm thấu và đan xen nhau tạo nên nét độc đáo ở người phụ nữ: vừa dịu hiền vừa anh hùng, bất khuất. Truyền thống trung hậu, đảm đang, thủy chung ở người phụ nữ Bến Tre Bến Tre là một vùng đất mới với những cù lao lớn, đất đai màu mỡ, lại nằm ở cuối dòng Cửu Long, cận biển... hội đủ những điều kiện tốt để những lưu dân đến khai phá sớm định cư. Tuy nhiên, công cuộc khai hoang, mở đất đâu chỉ có thuận lợi, những ưu đãi của thiên nhiên, con người nơi đây còn phải đương đầu với bao khó khăn và khắc nghiệt. Với khát vọng đổi đời, ý chí vươn lên kiến tạo một cuộc sống ấm no hạnh phúc, họ đã vượt lên trên mọi hoàn cảnh. Từ một vùng đất hoang vu, xứ sở lạ lùng, sình lầy đầy thú dữ, đến nỗi “con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh”,... mảnh đất cù lao đã trở thành một vùng đất kinh tế trù phú, ruộng vườn tươi tốt. Đó là kết quả của công sức khai phá và tạo dựng của biết bao thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau bền bỉ và nhẫn nại, bằng sức lực, trí tuệ và lòng dũng cảm vô song, thậm chí cả bằng sinh mạng của mình. Công cuộc chinh phục vùng đất hoang vu này là cuộc chiến đấu vượt qua mọi trở lực, khắc phục mọi hiện tượng tự nhiên bất lợi khi con người chưa nắm bắt được quy luật của nó. Chỉ có những con người có ý chí, lòng dũng cảm, mưu trí, cần mẫn, sáng tạo cùng với tinh thần đoàn kết mới có thể vượt qua để tồn tại và phát triển. Chính cuộc đọ sức kiên trì và quyết liệt này là nhân tố thử thách, đào luyện nên bản sắc và tính cách con người nơi đây. Với tư cách là một lực lượng xã hội, cùng với nam giới, phụ nữ đã gánh vác một phần rất quan trọng trong công cuộc mở đất. Với thiên chức đặc thù của giới nữ, người phụ nữ đã đảm trách những công việc gia đình, chăm lo đời sống vật chất và nuôi dạy con cái. Ngoài ra, phụ nữ còn gánh vác nhiều công việc thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Trong điều kiện vật chất còn khó khăn, người phụ nữ phải trực tiếp tham gia trồng trọt, chăn nuôi và đánh bắt... Họ là những người tần tảo sớm hôm, buôn gánh bán bưng, chống chèo trên sông rạch. Đấy là hình ảnh của “thân cò lặn lội”, âm thầm chịu đựng gian khổ để nuôi chồng, nuôi con. Với tinh thần tự lực, tự cường, ý chí phấn đấu vươn lên, người phụ nữ nơi đây đảm nhiệm cả những nghề thủ công, đặc biệt là nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Dưới bàn tay khéo léo và mềm mại, đức tính kiên trì và nhẫn nại, họ đã tạo nên những sản phẩm nổi tiếng mang dáng dấp của quê hương xứ dừa. Có thể nói, hành trang chủ yếu của những người đi khai phá vùng đất mới này chỉ có những kinh nghiệm sản xuất đã được tích lũy nơi quê cũ nhưng họ đã tự lực cánh sinh vượt lên mọi hoàn cảnh. Khi cuộc sống ổn định, chính họ là những người tự tổ chức và quản lý đời sống nơi đây. Điều kiện sinh hoạt đó đã tôi luyện ở người phụ nữ, hình thành nên truyền thống đảm đang của họ. Đảm đang không chỉ là sự gánh vác, lo toan mọi việc mà nó thể hiện cả sự khéo léo, sắp xếp, tổ chức đời sống gia đình, giáo dục con cái của người phụ nữ. Họ không những dạy chữ cho con mà còn giáo dục con cái đạo làm người, trách nhiệm công dân, lòng yêu quê hương đất nước, yêu đồng bào,... hướng đến các giá trị chân- thiện- mỹ. Mẹ Lê Thị Mẫn là người phụ nữ Bến Tre yêu con hết lòng nhưng nghiêm khắc với con hết mực. Mẹ góa chồng từ lúc còn rất trẻ nhưng một mình tần tảo lo cho ba con ăn học thành tài trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn. Người con trai làm quan gửi quà biếu mẹ nhân dịp tết, mẹ nhận quà và đốt thành tro trả lại cho con để nhắc nhở con “Là quan phải thanh liêm để không uổng công mẹ nuôi dạy”. Tấm gương sáng ngời về phẩm chất cao đẹp của mẹ đã được vua Tự Đức khen tặng bức trướng với bốn chữ “Hảo Nghĩa Khả Phong”. Đây là nét tiêu biểu cho truyền thống đảm đang, nhân hậu, mẫu mực của người phụ nữ xứ cù lao. Sự đảm đang ở đây gắn liền với đức tính dịu dàng, khéo léo, mềm mại đồng thời không tách rời sự kiên quyết và nghiêm khắc của người phụ nữ Bến Tre. Truyền thống trung hậu, đảm đang, thủy chung của người phụ nữ Bến Tre còn mang một sắc thái khác. Đó là sự đóng góp quan trọng của người vợ đối với sự nghiệp của chồng. Có thể nói, bất kỳ sự thành công nào của người đàn ông ít nhiều đều có vai trò của người phụ nữ. Lịch sử Bến Tre đã từng khắc ghi hình ảnh người vợ đảm đang, thủy chung, tận tụy của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu. Bà Lê Thị Điền, vừa là “nội tướng” trong gia đình vừa là người thư ký trung thành, kề vai, sát cánh cùng chồng trên bước đường sự nghiệp. Hơn thế nữa, với đôi mắt sáng, bà đã quan sát hiện thực xã hội đầy biến động trên quê hương để cung cấp chất liệu cho chồng sáng tác nên những câu thơ bất hủ đầy nghĩa khí của một nhà thơ yêu nước. Còn biết bao tấm gương sáng ngời của những người mẹ, người chị, tất cả đều góp phần quan trọng tạo nên truyền thống trung hậu, đảm đang của người phụ nữ Bến Tre ngay từ buổi đầu mở đất. Truyền thống ấy càng được phát huy mạnh mẽ trong thời kỳ đấu tranh bảo vệ quê hương, đất nước. Nếu trước kia, phụ nữ Bến Tre thể hiện sự đảm đang của mình một cách tự phát, vì lẽ sinh tồn thì trong thời kỳ này, họ đã ý thức rõ trách nhiệm của mình cần gánh vác để chồng, con yên tâm lên đường giết giặc. Hơn thế nữa, họ không chỉ gánh vác việc gia đình mà cần phải đảm việc nước cùng nam giới. Người phụ nữ vừa lo cho con nhỏ, chăm sóc mẹ già, vừa sản xuất để nuôi quân. Đồng thời, họ góp sức vào công việc tải lương, tải đạn, đào hào, đắp luỹ, xây dựng phòng tuyến... Phụ nữ Bến Tre không chấp nhận cái vị trí của người “chinh phụ” xưa, thụ động chờ chồng trở về, họ thoát khỏi những ràng buộc phong kiến, vừa sản xuất, vừa tham gia đánh giặc tại quê nhà. Trong mọi thời kỳ cách mạng, đặc biệt là trong những tình thế khó khăn nhất, phụ nữ Bến Tre đã nỗ lực tăng gia sản xuất, tiết kiệm, đảm bảo được cái ăn, cái mặc cho chiến sĩ cách mạng. Họ đã tận tụy, nuôi giấu, chăm sóc chiến sĩ khi còn sống cũng như lúc hy sinh bằng tấm lòng yêu thương của người mẹ. Với tấm lòng nhân hậu, vì nghĩa lớn, mẹ Việt Nam anh hùng Bùi Thị Tư ở xã An Phước, huyện Châu Thành, đã tự tay khâm liệm và chôn cất hơn 100 tử sĩ dưới bom cày đạn xới của chiến tranh, bất chấp những gian nan và nguy hiểm, bởi với mẹ “ anh em chiến sĩ như con đẻ của mình, như khúc ruột của mình nằm đó; nó làm xong bổn phận với nước non, mình phải xử sự cho đúng cái nghĩa ở đời”. Người chiến sĩ tìm thấy ở mỗi người mẹ Bến Tre một sự cưu mang ấm tình mẫu tử. Tình yêu thương ấy vừa xuất phát từ thiên chức của người phụ nữ, vừa thắm đượm tình dân nghĩa Đảng. Có thể nói, tấm lòng của những người mẹ Bến Tre là “căn cứ cách mạng”an toàn nhất cho mọi hoạt động của cán bộ, đảng viên. Các mẹ luôn là người chở che cho cán bộ, bảo vệ vững chắc cơ sở Đảng. Đây là nhiệm vụ đầy khó khăn, nguy hiểm nhưng cũng rất thiêng liêng mà hơn 90% do người phụ nữ Bến Tre đảm trách. Với truyền thống trung hậu, đảm đang, tự lực tự cường, thủy chung son sắt, các má, các chị đã nỗ lực vượt lên mọi hoàn cảnh, xứng đáng là “mặt trận lòng dân”. “Hội mẹ chiến sĩ” Bến Tre là biểu hiện đặc sắc của truyền thống ấy. Đó là sự biểu hiện tập trung và cao nhất của tình “quân dân cá nước”. Chính tình yêu nước mênh mông, đức hy sinh và lòng nhân hậu, thủy chung của các mẹ đã tạo nên một thứ chiến luỹ bền hơn sắt thép không bạo lực nào có thể phá vỡ nổi. Sự thủy chung của người phụ nữ Bến Tre không bó hẹp trong phạm vi gia đình, đối với chồng con mà còn đối với dân, với nước, nó phát triển thành lòng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, người phụ nữ Bến Tre đảm trách tất cả mọi nhiệm vụ từ nhẹ nhàng đến nặng nhọc, từ dễ dàng đến khó khăn, nguy hiểm kể cả những nhiệm vụ tưởng chừng như chỉ thuộc về nam giới. Dòng kênh mang tên “phụ nữ” và dòng “Kênh Giải phóng” ra đời không phải ngẫu nhiên, nó là sản phẩm tất yếu do bàn tay, khối óc của hàng ngàn chị em phụ nữ Bến Tre tạo nên suốt mấy tháng dưới gầm trời đầy bom đạn. Đây là những dòng kênh đánh dấu mốc son chói lọi của truyền thống trung hậu, đảm đang, chịu đựng gian khổ ở người phụ nữ Bến Tre. Nếu dòng “Kênh phụ nữ” có ý nghĩa đặc biệt trong việc mở ra con đường giao thông an toàn cho cách mạng, thì dòng “Kênh Giải phóng” cũng có ý nghĩa không kém phần quan trọng. Tuyến đê chạy dài theo dòng kênh là phòng tuyến vững chắc ngăn chặn bước tiến xe tăng địch và bảo vệ an toàn cho khu căn cứ cách mạng. Sự đóng góp to lớn đó của phụ nữ Bến Tre không phải là ở số lượng công trình mà ở sự giỏi giang, gánh vác những công việc nặng nhọc chẳng kém gì nam giới. truyền thống trung hậu, đảm đang còn là sự hy sinh thầm lặng của những người con gái, người vợ, người mẹ Bến Tre. Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt và triền miên, người phụ nữ nơi đây càng phát huy cao độ đức hy sinh ấy. Họ đã bình tĩnh, trầm lặng hiến dâng những 2-3 thế hệ người thân yêu nhất của mình cho quê hương, đất nước. Có những người mẹ đã tiễn 5-7 người thân mà không một lần đón họ. Cái gì đã khiến mẹ phải hy sinh cả hạnh phúc riêng của mình như thế ? Chỉ có thể lý giải điều đó bằng tình yêu quê hương, đất nước, lòng khát khao cháy bỏng độc lập tự do ở người phụ nữ Bến Tre. Tiêu biểu cho đức hy sinh cao cả ấy là tấm gương sáng ngời của mẹ Việt Nam anh hùng Phan Thị Đầy ở xã Phước Hiệp, huyện Mỏ Cày. Mẹ đã cống hiến cho Tổ quốc 12 người thân yêu nhất của mình. Cuộc đời của mẹ nỗi đau chồng chất những nỗi đau tưởng chừng không thể nào chịu đựng nổi, nhưng mẹ đã vượt lên tất cả những nỗi đau, sống vì một lý tưởng cao đẹp nhất. Chiến tranh qua đi, hạnh phúc đến với hàng triệu con người nhưng vết thương lòng mẹ không gì hàn gắn được. Con số 2.067 Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở vùng đất cù lao đã chứng minh cho sự hy sinh to lớn của những người phụ nữ nơi đây. Tuy nhiên, so với con số 35.000 liệt sĩ và hơn 18.000 thương binh của vùng đất này vẫn chưa phản ánh đầy đủ sự cống hiến lớn lao của hàng vạn người mẹ Bến Tre. Còn có biết bao những bà mẹ liệt sĩ, tuy không nằm trong tiêu chí qui định "lạnh lùng" về những người thân hy sinh, nhưng các mẹ vẫn là những tấm gương tuyệt vời về đức hy sinh cao cả, vì độc lập tự do của Tổ quốc. Có thể thấy rằng, sự cống hiến vô giá của người mẹ cũng chính là niềm tự hào nhưng ẩn chứa trong đó lớp lớp nỗi đau. Nếu năm tháng không làm giảm đi niềm tự hào về sự hy sinh của mỗi người mẹ Bến Tre thì cũng không thể xoá đi những nỗi đau gần như triền miên trong lòng mẹ. Và vẫn còn đó lớp lớp nữ thanh niên đã tình nguyện cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho Tổ quốc. Họ đã góp phần làm rạng rỡ trang sử hào hùng của quê hương. Nhưng riêng những người con gái ấy đã trở nên “quá lứa lỡ thì”, sống cô đơn với khát khao mãnh liệt một cuộc sống rất đời thường: được làm vợ, làm mẹ nhưng không thể có được. Đó là một thực tế đúng với câu ca dao: “Bến Tre nhiều gái chưa chồng Không tin xuống chợ Mỹ Lồng mà xem”. Nói đến đức hy sinh của người phụ nữ, chúng ta không thể quên những tấm gương đã hy sinh trong ngậm ngùi cay đắng, trong sự khinh miệt của mọi người. Đó là những người phụ nữ không có niềm vinh dự lớn lao của người vợ, người mẹ liệt sĩ, họ bị coi là “phản bội ” chồng con, “phản bội” quê hương. Mấy ai biết rằng, đằng sau những thắng lợi vẻ vang là sự hy sinh to lớn của người phụ nữ, họ đã âm thầm gánh chịu những nỗi đau, đánh đổi cái quý giá của đời mình để giành lấy cái quí hơn tất cả: độc lập, tự do cho dân tộc. Chiến tranh nào không mất mát đau thương, nhưng mất mát lớn lao nhất bao giờ cũng thuộc về phụ nữ. Đó là một thực tế lịch sử sinh động về đức hy sinh cao cả, sự nhẫn nại, chịu đựng gian khổ của người phụ nữ Bến Tre. những đức tính ấy luôn thường trực ở mỗi con người nơi vùng đất đầy mưa bom bão đạn. Có thể nói, Bến Tre là một trong những tỉnh bị chiến tranh tàn phá khốc liệt nhất ở Nam Bộ. Nếu tính trước ngày đất nước được thống nhất thì mảnh đất này hầu như chưa có ngày nào bình yên. Chính trong hoàn cảnh lịch sử đó của quê hương, đã sản sinh ra những thế hệ phụ nữ đảm đang, nhân hậu, chịu đựng gian khổ với một sức bền kỳ diệu không phải người phụ nữ ở nơi nào cũng có. Truyền thống ấy ngày càng được phát huy mạnh mẽ, làm phong phú thêm trang sử hào hùng của vùng đất ba dải cù lao. truyền thống anh hùng, bất khuất của người phụ nữ Bến Tre Nếu trong khai hoang mở đất, cùng với nam giới, phụ nữ Bến Tre không lùi bước trước mọi khó khăn, trở ngại của tự nhiên thì trong cuộc đấu tranh bảo vệ quê hương, họ không bao giờ khuất phục trước sức mạnh phi nghĩa của kẻ thù. Có thể nói, khí phách anh hùng, bất khuất, kiên cường là đức tính phổ biến của người phụ nữ Bến Tre. Bởi lẽ, khi cuộc sống mới nơi đây vừa ổn định thì đó cũng là lúc người dân Bến Tre hết sống trong cảnh nội chiến đến chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Người phụ nữ yêu nước không thể thụ động trước tình cảnh đó. Họ thoát khỏi “phòng the”, vượt lên trên tất cả những ràng buộc của lễ giáo phong kiến, tham gia các phong trào yêu nước chống giặc ngoại xâm, đấu tranh cho dân sinh, dân chủ và giải phóng dân tộc. ở đâu có phong trào cách mạng, thì ở đó phụ nữ tham gia với tinh thần bất khuất, kiên cường, bất chấp tù ngục súng gươm, bất chấp mọi đàn áp dã man của kẻ thù. Họ chứng tỏ rằng, khi quê hương, đất nước bị kẻ thù xâm lược thì “anh hùng đâu chỉ có mày râu”. Ngay từ buổi đầu của phong trào yêu nước đấu tranh chống đế quốc và phong kiến, phụ nữ Bến Tre đã có mặt trong hàng ngũ những người cộng sản. Chị Nguyễn Trung Nguyệt là người phụ nữ Nam Bộ đầu tiên đi dự lớp huấn luyện chính trị của “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” năm 1927 tại Quảng Đông- Trung Quốc. Chị khéo léo cải nam trang, vượt qua mọi khó khăn thử thách để đi tìm lý tưởng giải phóng đồng bào và giải phóng cho giới mình. Khi trở về, chị tiếp tục tham gia cách mạng và bị 8 năm tù đày tra khảo của kẻ thù nhưng vẫn một lòng trung thành với Đảng, với nhân dân. Đối với người phụ nữ Bến Tre, dù bị tù đày gian khổ nhưng không ai phản bội quê hương, vẫn giữ vẹn lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng. Trong họ luôn âm ỉ một tình yêu quê hương, đất nước, một sức chịu đựng phi thường được hình thành từ những điều kiện đặc thù của vùng đất ba dải cù lao. Có những người mẹ, hơn nửa thế kỷ làm công tác giao liên cho cách mạng bằng một tấm lòng chung thủy và trung thành dù phải vào tù ra khám. Cuộc đời hoạt động của mẹ Nguyễn Thị Hạp ở xã Sơn Hòa, huyện Châu Thành là tấm gương tiêu biểu, là điểm son ngời sáng trên mặt trận giao liên trong những năm tháng chiến tranh ác liệt nhất ở Nam Bộ. Là người nữ giao liên tận tụy từ trong giai đoạn chống Pháp đến thời kỳ chống Mỹ, trong mọi hoàn cảnh, mẹ đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình với ý chí kiên cường và một trái tim đầy nhiệt huyết. Có thể thấy rằng, phụ nữ Bến Tre luôn kề vai sát cánh cùng các tầng lớp nhân dân trong mọi thời kỳ cách mạng, họ có mặt trên khắp các mặt trận, từ kinh tế, chính trị đến quân sự, văn hoá... Đặc biệt từ khi có Đảng, vai trò của phụ nữ ngày càng thay đổi về chất và trở thành một lực lượng chính trị quan trọng. Chị em tham gia đông đảo vào lực lượng vũ trang, làm y tá, cứu thương, công tác hậu cần, dân vận... Sự cống hiến to lớn của họ đã góp phần tạo những tiền đề vật chất và tinh thần cho thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đến lượt nó, thắng lợi ấy đã củng cố niềm tin, tạo những điều kiện thuận lợi cho phụ nữ Bến Tre phát huy hết khả năng của mình phục vụ cho hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. những người phụ nữ Bến Tre đã thống nhất lòng yêu nước, yêu chồng con, yêu chiến sĩ thành một tình yêu thương vô bờ bến. Tình yêu ấy là động lực lớn lao làm bật dậy sức lực và trí tuệ của họ. ở mỗi người phụ nữ, cái hiền dịu và cái anh hùng tưởng chừng như đối lập nhưng lại thống nhất không tách rời nhau. Đối với chồng con, đối với đồng bào, chiến sĩ, họ luôn là người dịu dàng, nhân hậu, thủy chung nhưng trước kẻ thù, những con người ấy bao giờ cũng tỏ rõ một khí phách hiên ngang, ý chí kiên cường, bất khuất. Từ những em bé đến những người mẹ già nua, trước cái chết họ không hề run sợ. Giữa những cuộc đàn áp dã man của kẻ thù, khí phách hiên ngang của phụ nữ Bến Tre càng ngời sáng. Không ai có thể quên được sự hy sinh can trường với câu trả lời đầy khí phách của mẹ Trần Thị Kế: “Chồng con tao ở trong trái tim tao. Chúng bay mổ ra mà kiếm”. Hình ảnh ấy đã tiếp thêm sức mạnh và động viên các cán bộ đảng viên giữ vững ý chí bất khuất trước bạo lực của kẻ thù. Chỉ trong 21 năm dưới chế độ thực dân mới, hàng ngàn phụ nữ Bến Tre bị giam cầm tù tội. Cứ 5 tù nhân thì có 1 người phụ nữ, họ có mặt khắp các nhà tù miền Nam, chịu đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù. Bao nhiêu bản án khổ sai, chung thân là bấy nhiêu tấm gương kiên cường, bất khuất của người phụ nữ. Chị Dương Thị Chẩn là tấm gương tiêu biểu cho sự kiên cường đó. Chị đã trải qua 9 nhà tù và 19 lần chuyển lao bởi sự đấu tranh quyết liệt của mình. Chị kiên quyết chống đối, chống học tập tố cộng, chống chào cờ "ba que", không chịu “suy tôn Ngô tổng thống”... Đặc biệt ở nhà lao Côn Đảo, chị cùng tập thể tù nhân nữ tuyệt thực 11 ngày để phản đối chính sách khủng bố, đàn áp của kẻ thù, buộc chúng phải nhượng bộ. ý chí kiên cường, bất khuất của người phụ nữ Bến Tre cứ như những đợt sóng Hàm Luông không dứt, lớp lớp xô nhau để nhấn chìm bè lũ bán nước và cướp nước. phụ nữ tham gia ngày càng đông đảo các cuộc đấu tranh với mọi hình thức: chính trị, vũ trang, binh vận... bằng một khí thế tiến công quyết liệt. Khí thế ấy đã làm nên cuộc Đồng khởi vang dội ngày 17/01/1960. Nếu trước đây, người ta biết đến Bến Tre là quê hương của những rừng dừa bạt ngàn hay quê hương thứ hai của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, thì ở thời kỳ chống Mỹ, hai tiếng Bến Tre thu hút sự ngưỡng mộ của hàng triệu trái tim yêu chính nghĩa bằng ngọn lửa Đồng khởi bùng lên từ đất Mỏ Cày. Như con chim báo bão xuất hiện trên bầu trời vần vũ mây đen, ngọn lửa Đồng khởi là tín hiệu của những cơn rung chuyển sấm sét làm sụp đổ chế độ Mỹ ngụy. ý nghĩa và giá trị thực tiễn của cuộc Đồng khởi Bến Tre được Đại tướng Hoàng Văn Thái đánh giá: Phong trào Đồng khởi ở Bến Tre đã mở đầu cho cuộc tấn công nổi dậy lần thứ nhất của cách mạng miền Nam, mở đầu cho cuộc khủng hoảng triền miên của chính quyền Mỹ, Diệm. Rõ ràng, phong trào Đồng khởi ở Bến Tre đã đi vào lịch sử như một ngọn cờ đầu, nó đã có một vị trí xứng đáng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam và xứng đáng được gọi là quê hương Đồng khởi với tất cả những nội dung và tính chất của nó [50, tr.1091]. Phong trào Đồng khởi ở Bến Tre không chỉ có nghĩa đơn giản là cuộc nổi dậy đồng loạt của nhân dân từ tay không cướp đồn địch, giành chính quyền mà là một quá trình liên tục tiến công, liên tục nổi dậy và liên tục giành thắng lợi. Đó là một hình thức đấu tranh độc đáo, là kết quả sáng tạo của tư duy quân sự đạt đến tầm cỡ nghệ thuật chiến tranh thế giới của những người lãnh đạo cách mạng trên mảnh đất Bến Tre và hàng vạn những tấm gương anh dũng hy sinh, kiên cường, bất khuất trên mảnh đất này. Hai tiếng Bến Tre còn gắn liền với sự ra đời của “đội quân tóc dài”, một sáng tạo lịch sử của chiến tranh nhân dân ở miền Nam, một đội quân đặc biệt có thể nói là độc nhất vô nhị trên thế giới. Về mặt số lượng, đó là một đội quân hùng hậu càng tăng lên qua mỗi cuộc chiến tranh vệ quốc. Về chất lượng, đây là một lực lượng nữ có bước trưởng thành đáng kể, có tổ chức chặt chẽ, có tuyển lựa, có huấn luyện, có chỉ huy, có hợp đồng chiến đấu, biết hợp tan khi cần thiết. Lúc bình thường, những người phụ nữ ấy gắn bó với thôn xóm, ruộng đồng, thay chồng nuôi con, phụng dưỡng cha mẹ già và nuôi giấu cán bộ. Họ có mặt ở hầu hết các phong trào cách mạng ở hậu phương, xây dựng xã ấp chiến đấu, tham gia du kích, bảo vệ làng mạc... Lúc có giặc càn vào thôn xóm, họ là lực lượng đứng ra đấu tranh ngăn chặn bước tiến của quân thù, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Vũ khí đấu tranh chủ yếu của họ không phải là súng đạn mà là chính nghĩa, là lòng yêu nước, khí phách anh hùng, kiên cường, bất khuất không lùi bước trước những cuộc khủng bố, đàn áp của kẻ địch. Họ vận dụng lý lẽ một cách thông minh, khôn khéo để đấu tranh trực diện với đối phương. Vận dụng “3 mũi giáp công” đánh vào chỗ yếu làm phân hoá hàng ngũ, ngăn chặn và phá vỡ âm mưu thâm độc của Mỹ, ngụy. Không hiếm những tấm gương anh hùng, bất khuất, với tay không nhưng đầy mưu trí, sáng tạo đã hạ được đồn bót giặc, vô hiệu hoá từng đơn vị chiến đấu của địch. Chính những người phụ nữ dịu hiền lại là những người chiến sĩ anh hùng diệt ác ôn ngay trên đường phố. Trong những năm 1960, cả miền Nam không ai không biết đến cái tên Bảy Tranh- người nữ chiến sĩ xung kích tiêu biểu, người nữ chỉ huy xuất sắc của “đội quân tóc dài” với hơn 300 trận đấu tranh trực diện với kẻ thù, là ngọn cờ tập hợp quần chúng ở Bến Tre. Hay thành tích “Tay không hạ bót, cắm cờ” của tổ du kích mật xã An Thạnh- Mỏ Cày gắn liền với tên tuổi Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Tạ Thị Kiều đã đi vào thơ ca một cách hào hùng: Xa cô du kích Mỏ Cày, Còn mê câu chuyện ban ngày đánh “tua”. Tay không hạ bót, cắm cờ Bến Tre ơi, một bài thơ tuyệt vời. Nhìn chung, vai trò to lớn của phụ nữ Bến Tre không chỉ trong đấu tranh chính trị mà xuất sắc cả trên 3 mũi giáp công: chính trị, quân sự và binh vận. Tham gia chiến đấu ở mũi quân sự, ngoài hàng ngàn nữ du kích địa phương làm nhiệm vụ đánh giặc giữ làng, Bến Tre còn có “tiểu đoàn nữ thanh niên xung phong”, những đơn vị bộ đội nữ gắn liền với tên tuổi người nữ chỉ huy “Bộ đội Thu Hà”, đơn vị “đặc công nữ” và đơn vị “pháo binh nữ”. Đó là những tổ chức bán quân sự chiến đấu bên cạnh lực lượng vũ trang trong nửa phần cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Những người phụ nữ Bến Tre đã đảm nhiệm đầy đủ vai trò của người lính trợ chiến, một nhiệm vụ khá nặng nề tưởng chừng như không thể đảm đương nổi. Nhưng sức mạnh tinh thần đã giúp họ mạnh mẽ hơn bao giờ hết, họ khiêng vác nòng pháo, mâm pháo, đạn pháo... vượt qua sông rạch, đầm lầy, cầu khỉ,... trong các cuộc hành quân tạo nên những thành tích đáng tự hào. Trong điều kiện khó khăn của một chiến trường bốn bề sông nước, kênh rạch chằng chịt, phải chống lại “Chiến thuật hạm đội nhỏ trên sông” của Mỹ, một sáng tạo độc đáo của “đội quân tóc dài” đã ra đời. Đó là “đội nữ đặc công thủy”, một đại đội hoàn toàn do chị em điều khiển, từ đại đội trưởng, đến chính trị viên và tổ trưởng... Khi thì độc lập tác chiến, lúc thì phối hợp hoạt động với các tổ nam đặc công, họ đã vật lộn với sóng gió bao la, hoạt động trên khắp sông nước Bến Tre một cách thầm lặng nhưng tạo nên những chiến công vang dội. Đó là hình ảnh nổi bật của những nữ chiến sĩ đặc công thủy anh dũng, thông minh đã “cưỡi sóng Hàm Luông, nhận chìm hạm Mỹ”, góp phần cống hiến to lớn cho sự nghiệp giải phóng quê hương, đất nước. Từ đó, “đội quân tóc dài” của Bến Tre đã lan ra khắp miền Nam, bao gồm những phần tử trung kiên, ưu tú, dũng cảm và mưu trí, đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần xã hội, có cơ sở khắp nông thôn, rừng núi và đô thị. Cách thức hoạt động của họ chưa hề được ghi trong “binh thư” nào từ trước đến nay nhưng đã đương đầu với các loại vũ khí tối tân, hiện đại vào loại bậc nhất lúc bấy giờ, bẽ gãy cái “quốc sách ấp chiến lược”- xương sống của “chiến tranh đặc biệt” cũng như “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ. Sức mạnh của binh chủng đặc biệt này không những làm cho kẻ thù khiếp sợ mà còn vang dội khắp thế giới như một sự kiện lạ lùng. Nữ ký giả người Pháp, sau chuyến đi thăm vùng giải phóng miền Nam đã viết: Quả là ở miền Nam đang tồn tại một đội quân kỳ lạ, không súng ống, có mặt ở khắp nơi, thành thị cũng như thôn quê, một đội quân mà các bản tin của các hãng thông tấn hầu như không bao giờ nói đến, song lại đóng vai trò to lớn trong cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam Việt Nam chống xâm lược, ngay cả trước khi người du kích đầu tiên cầm lấy vũ khí. đó là “đội quân búi tóc” tập hợp hàng triệu nữ chiến sĩ [49, tr.455]. Nếu hai tiếng Bến Tre gắn liền với phong trào Đồng khởi, với sự ra đời của “đội quân tóc dài”, thì nó cũng gắn liền tên tuổi của “người con gái Bến Tre”, vị nữ tướng, Phó tổng Tư lệnh quân giải phóng miền Nam Nguyễn Thị Định. Có nhà viết sử đã nói một cách hình tượng, nữ tướng Nguyễn Thị Định là “bà đỡ” của binh chủng độc đáo có một không hai trên thế giới này. Từ đó đã tạo nên một “dáng đứng Bến Tre” đi vào lịch sử. Song, có lẽ mọi người biết đến và yêu thương, kính trọng “người con gái xứ dừa” ấy không vì danh hiệu, chức vụ, địa vị mà bởi cái mộc mạc, chân chất, đằm thắm, nhân ái, phúc hậu toả sáng trong hành vi đời thường cũng như lúc thi hành công vụ. Vì thế trong lòng nhân dân, vị nữ tướng bao giờ cũng là “chị ba” với tất cả những tình cảm thân thương, trìu mến. “Ba” đã trở thành cái tên thân quen, gần gũi với mọi người, không chỉ là tên một con người cụ thể, mà là tên của một cuộc đấu tranh, tên một phẩm chất, một tấm lòng và một tâm hồn, một nhân cách. Chị Ba Định là người phụ nữ tiêu biểu cho ý chí kiên cường, bất khuất, là tấm gương sáng ngời cho các thế hệ phụ nữ noi theo. Dù sinh thời, chị chưa hề được phong danh hiệu anh hùng nhưng giữa lòng nhân dân chị luôn là một nữ anh hùng chẳng những của dân tộc mà còn của thời đại. Bởi lẽ, trên thế giới chưa từng có người phụ nữ nào như chị. Từ chốn ruộng đồng thấm đẫm máu và nước mắt, từ mảnh đất kéo lê những cỗ máy chém, người nữ chiến sĩ rừng dừa đã dựng nên một kỳ tích vang dội của đêm Bến Tre bừng lửa đuốc. Thật xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Miền Nam anh hùng có đội quân đấu tranh chính trị gồm hàng vạn chiến sĩ toàn là phụ nữ. Họ rất mưu trí và dũng cảm làm cho địch phải khiếp sợ và gọi là “đội quân tóc dài”. Phó tổng Tư lệnh giải phóng miền Nam là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ có nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho cả miền Nam, cho cả dân tộc [19, tr.61]. ý chí anh dũng, kiên cường của chị Ba nghe như một huyền thoại. Anh dũng từ lúc vị thành niên, chị đã đứng lên chống áp bức, bất công. Anh dũng, bất khuất trong ngục tù Bà Rá, chị không hề run sợ trước những phát súng thị uy của kẻ thù. Càng anh dũng hơn khi người con gái xứ dừa ở tuổi 26, đã là một cán bộ đầu tiên trong đoàn cán bộ của nam Bộ thời đánh Pháp, vượt muôn trùng sóng gió với những ngày đêm đấu trí căng thẳng, đầy thông minh và gan dạ, để ra Hà Nội xin chi viện vũ khí. Cũng chính người phụ nữ ấy, đã len lỏi trong bóng đêm khủng bố khốc liệt của Mỹ- Diệm, xây dựng cơ sở để rồi một đêm lịch sử, cùng các đồng chí lãnh đạo tỉnh Bến Tre làm nên cuộc “Đồng khởi” vĩ đại. Anh dũng, kiên cường là vậy, nhưng chị Ba lại là người rất giàu tình cảm, tấm lòng chị luôn hướng về trẻ em, những người nghèo, bất hạnh. Vì thế, hình ảnh của chị sống trong mọi người không phải là hình ảnh uy nghi của vị nữ tướng mà là hình ảnh dịu dàng và đôn hậu của người phụ nữ Nam Bộ với áo bà ba và chiếc khăn rằn quấn cổ. Con người chị là sự kết hợp hài hoà giữa đức tính can trường, dũng cảm với lòng nhân ái, bao dung; giữa chất hùng của người lính chiến với nữ tính dịu dàng, đồng thời cũng rất rạch ròi phân minh giữa cái đúng cái sai, giữa yêu thương và căm giận. Có thể nói, hình ảnh của chị Ba là hình ảnh tiêu biểu nhất, hội tụ đầy đủ nhất những giá trị độc đáo của người phụ nữ Bến Tre, vừa hiền dịu vừa anh hùng: Lúc tiến lệnh điều trăm đội ngũ đêm về ngồi vá áo chiến binh. Đó là hình ảnh của vị nữ tướng đồng thời là người mẹ, người chị ngồi trên chiếc võng dã chiến vá áo cho chiến sĩ. ở Bộ Tư lệnh miền, chị vừa đảm nhiệm chức trách của một vị Phó tổng Tư lệnh, vừa là nữ chủ nhân của một gia đình gồm tướng lĩnh và binh sĩ... Chị quan tâm đến những trắc trở trên đường đời của các nữ chiến binh anh dũng và xinh đẹp. Chị dành tình cảm sâu nặng đối với cán bộ, chiến sĩ miền Bắc và thông cảm sâu sắc đối với những người vợ, người mẹ tiễn chồng con đi chiến đấu. Chị là hiện thân của bếp lửa hồng sưởi ấm cho những nỗi xa nhà. Không thể tìm đâu hình ảnh một vị nữ tướng như chị Ba Định. Hơn thế nữa, ở con người chị còn có một sức chịu đựng phi thường. Chị đã gánh trọn nỗi đau của người dân mất nước, mất tự do, bị đày ải, hành hạ; nỗi đau của người vợ trẻ xa chồng và mất chồng; nỗi đau của người mẹ mất con. Cuộc đời chị chỉ còn lại tình yêu quê hương, đất nước, yêu chiến sĩ, đồng bào. Với chị “tuy không có con nhưng có rất nhiều con, tuy không có cháu nhưng có rất nhiều cháu”. Tất cả, đã thể hiện đức hy sinh cao cả, lòng nhân ái bao la của người phụ nữ Bến Tre. Chính chị là người phụ nữ tiêu biểu nhất trong những người phụ nữ tiêu biểu của xứ sở cù lao, giống như cây dừa xanh mượt dịu dàng và thân vẫn kiên cường bám chặt lấy quê hương dù bao lần máu đổ, giống như cây lau mềm mại nhưng cây lau đó lại là bằng thép. Đó là nét đặc sắc của những giá trị đạo đức truyền thống ở người phụ nữ Bến Tre. 1.2. Tính tất yếu của việc kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre hiện nay 1.2.1. Kế thừa là quy luật tất yếu của việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống Kế thừa là một trong những vấn đề có tính quy luật của phủ định biện chứng, là cầu nối giữa cái cũ với cái mới. Với ý nghĩa đó, tìm hiểu vấn đề "kế thừa" có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn. Theo Từ điển Tiếng Việt, kế thừa là sự thừa hưởng, giữ gìn và tiếp tục phát huy những cái có giá trị tinh thần [58, tr.509]. Trong Bách khoa thư Triết học “Kế thừa là mối liên hệ giữa những giai đoạn hay nấc thang phát triển khác nhau mà bản chất của mối liên hệ đó là bảo tồn những yếu tố này hay yếu tố khác của chỉnh thể” [1, tr.360]. Đại bách khoa toàn thư Liên Xô (cũ) cho rằng “Kế thừa là mối liên hệ giữa các hiện tượng trong quá trình phát triển trong đó cái mới lột bỏ cái cũ, giữ lại trong mình một số yếu tố của cái cũ” [7, tr.514-515]. Như vậy, khi nói đến kế thừa đã bao hàm trong nó yếu tố của sự phát triển. Lý luận kế thừa của chủ nghĩa duy vật biện chứng sẽ giúp ta hiểu rõ hơn về thực chất của sự phát triển. Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan luôn tồn tại trong trạng thái vận động và biến đổi không ngừng. Nhưng khuynh hướng chung của toàn bộ đời sống tự nhiên, xã hội và tư duy là phát triển. phát triển là sự vận động theo một khuynh hướng nhất định, theo con đường đi lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, nhằm tạo ra sự đổi mới. Sự phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan được khái quát thông qua những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Trong đó, quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại vạch ra phương thức của sự phát triển. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chỉ ra nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Quy luật phủ định của phủ định khái quát con đường của sự phát triển. Khi bàn về sự phủ định, quan điểm siêu hình xem phủ định như là sự can thiệp của những lực lượng bên ngoài, làm phá hủy, thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của nó. Đối lập hoàn toàn với quan điểm siêu hình, phủ định biện chứng không phải là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái bị phủ định. Để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định biện chứng bao hàm trong nó nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái bị phủ định. Đó là sự phủ định mang tính kế thừa, phủ định đồng thời cũng là khẳng định, là mắt khâu tất yếu của bất kỳ sự phát triển nào. Tính phổ biến của các quá trình phủ định diễn ra trong tự nhiên cũng như trong xã hội là sự phủ định làm mất đi cái cũ và xuất hiện cái mới tiến bộ hơn. V.I.Lênin viết: Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng ... mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định [31, tr.245]. Như vậy, kế thừa là một trong những đặc trưng cơ bản, phổ biến của quy luật phủ định của phủ định. giá trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của nó trong sự ra đời của cái mới. Không có cái mới nào ra đời từ hư vô mà bao giờ cũng từ một nguyên nhân, nguồn gốc nhất định. Nhờ việc giữ lại những nhân tố tích cực của cái bị phủ định mà cái mới có tiền đề cho sự xuất hiện của mình. Một trong những hình thức quan trọng của cái được kế thừa chính là truyền thống. truyền thống là cái chứa đựng trong bản thân mình những năng lực to lớn để tạo ra cái mới. Như vậy, kế thừa là “cầu nối”, là “khâu trung gian” giữa truyền thống và hiện đại. Có thể nói, truyền thống là tiền đề, nền tảng của hiện đại và hiện đại là sự kế thừa, là sự tiếp nối của truyền thống, là truyền thống đã được “hiện đại hoá”. Không có sự phát triển nào của xã hội lại không liên hệ gì đến quá khứ trước đó, đến truyền thống đã có từ lâu đời. những giá trị đạo đức truyền thống là động lực tinh thần, tạo nên sức mạnh và bản lĩnh của dân tộc, giúp dân tộc vươn lên trong mọi hoàn cảnh, trong chống kẻ thù xâm lược cũng như trong điều kiện xây dựng đất nước đầy khó khăn, phức tạp hiện nay. Tuy nhiên, sự kế thừa phải gắn liền với sự phê phán và có cải biến những yếu tố tích cực của cái cũ cho phù hợp với điều kiện mới. Có như thế mới đảm bảo được tính truyền thống và tính hiện đại trong sự phát triển của đời sống xã hội. Vì vậy, xã hội muốn phát triển cần phải biết kế thừa, đổi mới và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc, biến nó thành yếu tố nội lực, đồng thời phải lọc bỏ những yếu tố truyền thống đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp với điều kiện mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra nguyên tắc kế thừa và đổi mới: “đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng là mới”, “cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ đi”, “phải loại dần ra”, “cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý”, “cái cũ mà tốt thì phát triển thêm”, “cái gì mới mà hay là ta phải làm” [41, tr.94-95]. người đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo quan điểm kế thừa của phép biện chứng duy vật mác - xít trong quá trình kế thừa, phát triển các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Tư tưởng của người chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, là sự kết hợp hài hoà giữa cái truyền thống và cái hiện đại. Quy luật kế thừa không chỉ biểu hiện về mặt thời gian, mối liên hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa quá khứ- hiện tại và tương lai mà còn biểu hiện ở một phương diện khác- kế thừa theo không gian, nghĩa là kế thừa cả về mặt lịch đại lẫn đồng đại. Việc kế thừa không chỉ bó hẹp, đóng kín trong phạm vi quốc gia, dân tộc. Không một quốc gia, dân tộc nào có thể phát triển được nếu tồn tại biệt lập với thế giới bên ngoài. Ngày nay, sự giao lưu quốc tế càng mở rộng, thì kế thừa ở phương diện không gian càng có ý nghĩa to lớn hơn nhiều. ở đây, kế thừa bao hàm sự tiếp thu có chọn lọc, có phê phán những thành tựu trong nền văn minh nhân loại nhưng đồng thời phải cải biến cho phù hợp với truyền thống của dân tộc. Những yếu tố ngoại sinh chỉ có thể làm cho truyền thống tự đổi mới chứ không thể thay thế được truyền thống. điều này đã được Đảng ta khẳng định: “Tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn coi trọng những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc, quyết không được tự đánh mất mình trở thành bóng mờ hoặc bản sao chép của người khác” [11, tr.30]. Nếu kế thừa về mặt thời gian đòi hỏi phải đảm bảo tính truyền thống và hiện đại, thì kế thừa theo không gian đặt ra yêu cầu phải kết hợp hài hoà giữa yếu tố dân tộc với yếu tố nhân loại; không đảm bảo sự kết hợp hài hoà đó, hoặc đánh mất bản sắc của dân tộc mình hoặc là không phát triển. Giáo sư Vũ Khiêu đã nhận xét: Chỉ dựa vào nhân tố nội sinh mà đóng cửa không tiếp nhận gì từ bên ngoài, thì một con người dù lành mạnh, một dân tộc dù có truyền thống lâu đời cũng sẽ dần dần suy yếu đi và không còn sinh khí nữa. Ngược lại chỉ chú ý đến nhân tố ngoại sinh, không chuẩn bị đầy đủ những nhân tố nội sinh thì nhân tố ngoại sinh dù hay đến đâu cũng bị bật ra ngoài. Đó là điểm rất quan trọng trong quan hệ bên trong, bên ngoài [26, tr.175-176]. Có thể thấy, những yếu tố của truyền thống, những thành tựu của nhân loại không bao giờ tái hiện một cách nguyên xi. Nó có thể tồn tại dưới hình thức mới hoặc hình thức cũ nhưng nội dung đã được cải biến. Có như vậy truyền thống mới trở thành cái mang giá trị hiện đại, gia nhập vào đời sống hiện đại, cái ngoại sinh mới trở thành nội lực của dân tộc. Nếu có yếu tố nào đó của truyền thống không đủ sức hoà nhập vào đời sống hiện đại, yếu tố ngoại sinh không đủ sức hoà nhập vào đời sống dân tộc thì bản thân nó tất yếu sẽ bị đào thải. Như vậy, quan niệm về kế thừa đã được mở rộng, nó vừa là sự tiếp thu có chọn lọc toàn bộ giá trị tinh thần của dân tộc và nhân loại đã có trong lịch sử, vừa tiếp thu có chọn lọc và cải biến những giá trị tinh thần đương đại từ bên ngoài vào, thể hiện mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại. Quan niệm này đặt ra yêu cầu tất yếu chống lại hai khuynh hướng cực đoan trong quan niệm về kế thừa. Có người cho rằng, kế thừa và phát triển là hai quá trình loại trừ nhau, khi phủ định, có nghĩa là phủ định sạch trơn, là bác bỏ hoàn toàn cái cũ. Thực chất, đây là thái độ hư vô chủ nghĩa, xem truyền thống là đối tượng cần phủ nhận trong quá trình đổi mới, truyền thống chỉ bao gồm những nhân tố bảo thủ, là những gì nhất thành bất biến đối lập với sự đổi mới. Quan điểm đó đã phủ nhận hoàn toàn, phủ định sạch trơn tất cả những giá trị tốt đẹp của truyền thống. Tiêu biểu cho loại quan điểm này là những người thuộc phái “văn hoá vô sản” tồn tại trong những năm đầu của cách mạng Tháng Mười Nga. Họ chủ trương xây dựng một nền văn hoá vô sản hoàn toàn mới không hề liên quan đến các thành tựu văn hoá trước đó, phải xoá bỏ tất cả những nền văn hoá của “giai cấp quý tộc và tư sản” và xây dựng lại từ đầu một nền văn hoá mới “thuần túy vô sản”. Bác bỏ quan điểm sai lầm trên, V.I.Lênin khẳng định: văn hoá vô sản không phải bỗng nhiên mà có, nó không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hoá vô sản phát minh ra. Đó hoàn toàn là điều ngu ngốc. văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội Tư Bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu [32, tr.361]. đối với quan điểm biện chứng, cái quá khứ không bao giờ biến đi mà không để lại một dấu ấn nào trong dòng chảy vô tận của thời gian. Nó đã tham gia vào việc tạo ra cái hiện tại và tạo thành mối liên hệ sống động trong thời gian: quá khứ- hiện tại- tương lai. Vì vậy, tôn trọng lịch sử và quá khứ luôn là tiêu chí của đổi mới, Gam- da- tốp, nhà thơ nổi tiếng của Liên Xô (cũ) đã có câu nói bất hủ: nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác. Một khuynh hướng cực đoan khác trái ngược với thái độ hư vô chủ nghĩa là thái độ bảo thủ trì trệ. Quan điểm này xem kế thừa là bê nguyên xi những yếu tố của truyền thống, không phê phán, không cải tạo, khư khư giữ lấy cả những cái lỗi thời cản trở sự phát triển của lịch sử. Họ lắp ghép một cách máy móc cái cũ vào cái mới. Sự kế thừa như thế không tạo nên một sự phát triển nào trong thế giới khách quan. Như vậy, kế thừa biện chứng phải là sự kế thừa có phê phán, có chọn lọc những yếu tố tích cực của cái cũ, đồng thời cải biến nó cho phù hợp với điều kiện của cái mới. Đó là quy luật tất yếu của sự phát triển trong tự nhiên,xã hội và tư duy. Chính vì vậy, muốn phát triển đạo đức, người phụ nữ tất yếu phải kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc và của giới mình. Song, khi nghiên cứu vấn đề kế thừa trong sự phát triển của đạo đức, cần vạch rõ những biểu hiện đặc thù của nó với tính cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội và trong tương quan với các hình thái ý thức xã hội khác. đặc thù của kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm hệ thống những quan điểm, quan niệm, quy tắc, chuẩn mực nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội. Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của các học thuyết đạo đức đã có trong lịch sử từ trước tới nay, chúng ta thấy rằng, kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống chịu sự quy định của điều kiện kinh tế, xuất phát từ tồn tại xã hội mà trực tiếp là quan hệ lợi ích của con người. Nếu chính trị phản ánh kinh tế một cách khá trực tiếp thì đạo đức phản ánh và chịu sự chi phối của các quan hệ kinh tế thông qua các khâu trung gian. Trong đó quan hệ lợi ích là cái trực tiếp qui định bản chất, đặc trưng riêng của đạo đức, tạo ra các định hướng giá trị đạo đức ở mỗi người. Vì vậy, nội dung, tính chất của việc kế thừa, phát triển đạo đức đều chịu sự quy định của điều kiện kinh tế - xã hội. những giá trị đạo đức truyền thống không phải là cái có sẵn bên ngoài áp đặt vào xã hội, không phải từ trên trời rơi xuống mà nó là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử cụ thể, của những điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội nhất định. những giá trị ấy không nhất thành bất biến mà luôn biến đổi cùng với sự thay đổi của tồn tại xã hội. Xét đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế - xã hội lúc bấy giờ. Nếu không thấy vai trò của kinh tế đối với việc kế thừa, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống sẽ rơi vào quan điểm duy tâm. Song, sự kế thừa đó không phải phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện kinh tế mà có tính độc lập tương đối của nó. Do đó, kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống còn chịu ảnh hưởng bởi đặc điểm dân tộc và tính giai cấp khá rõ nét. đạo đức bao giờ cũng gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của lịch sử dân tộc. Mỗi dân tộc là một cộng đồng người ổn định, được hình thành trong lịch sử trên một lãnh thổ nhất định, có chung mối liên hệ về kinh tế, có chung một ngôn ngữ và một nền văn hoá. Đặc điểm này của dân tộc in dấu ấn lên đời sống đạo đức, làm cho sự phát triển đạo đức mang tính dân tộc khá đậm nét. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam cũng chính là lịch sử hình thành các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. điều kiện khó khăn của buổi đầu lịch sử là những thử thách lớn lao đối với các giá trị đạo đức truyền thống nhằm khẳng định sự trường tồn của các giá trị ấy cho đến hôm nay. Trong xã hội có giai cấp, sự kế thừa các giá trị đạo đức mang tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của giai cấp. giai cấp thống trị ra sức truyền bá những tư tưởng, quan điểm đạo đức của mình dưới hình thức những qui tắc, chuẩn mực chung cho toàn xã hội nhằm bảo vệ sự thống trị của mình. ở giai đoạn đầu của một hình thái kinh tế- xã hội thường có những quan điểm đạo đức tiến bộ, phù hợp với những yêu cầu phát triển sản xuất và tiến bộ xã hội. Về sau, do bị chi phối mạnh mẽ bởi lợi ích giai cấp mà nó có những quan điểm đạo đức đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao động. Tuy nhiên, khi đấu tranh giai cấp phát triển đến đỉnh cao vẫn có một bộ phận tiên tiến trong giai cấp thống trị có những quan điểm đạo đức ít nhiều phù hợp với xu thế chung của lịch sử. Chỉ đến khi đạo đức cộng sản chủ nghĩa ra đời, trên cơ sở kế thừa và nâng cao các giá trị đạo đức đã hình thành trong quá trình tiến hoá lâu dài của nhân loại, nó trở thành một nền đạo đức có ý nghĩa phổ quát toàn nhân loại. Đó là một nền đạo đức thật sự có tính người, đứng trên những đối lập giai cấp, xoá bỏ tất cả những đối lập ấy trong đời sống thực tiễn. Việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống còn chịu sự tác động của các hình thái ý thức xã hội khác, bởi sự tồn tại của đạo đức không thể tách rời với ý thức chính trị, ý thức pháp luật, khoa học... Trong đời sống xã hội, đạo đức và chính trị thường tồn tại đan xen, có quan hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau. Các quan điểm đạo đức có thể lẫn vào chính trị và đồng thời, những quan điểm chính trị phản ánh và chịu ảnh hưởng bởi những quan điểm đạo đức nhất định. Nếu một chế độ xã hội được định hướng phát triển bởi những quan điểm chính trị tiến bộ thì những yếu tố đạo đức lành mạnh được hình thành trong quá khứ sẽ được kế thừa và phát triển. Đối với chế độ xã hội XHCN, mục tiêu chính trị là giải phóng con người, giải phóng xã hội. Mục tiêu chính trị ấy tự bản thân nó đã mang lý tưởng đạo đức cao đẹp nhất của loài người. đạo đức và pháp luật đều là sự tổng hợp những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi con người sao cho hành vi đó phải phù hợp với yêu cầu xã hội. Nhưng việc thực hiện pháp luật được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Đối với những qui tắc, chuẩn mực đạo đức được mọi người thực hiện một cách tự nguyện, tự giác. Có thể nói, đó là chuẩn mực pháp luật tối đa trong đời sống xã hội. Nếu chế độ xã hội với một hệ thống pháp luật chặt chẽ, thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả, sẽ có tác dụng tích cực trong việc duy trì và phát triển các giá trị đạo đức truyền thống. Ngược lại, khi pháp luật lỏng lẻo, việc thực thi kém hiệu lực, hiệu quả, chẳng những khó duy trì và phát triển các giá trị đạo đức mà còn tạo điều kiện gia tăng những yếu tố phản đạo đức trong xã hội. đạo đức và khoa học thống nhất nhau ở mục đích và lý tưởng, vì sự tiến bộ xã hội, đem lại tự do và hạnh phúc cho con người. Tri thức khoa học giúp con người nhận thức, đánh giá, lựa chọn đúng đắn các giá trị đạo đức và điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với giá trị đó. Đồng thời những quan điểm đạo đức cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc định hướng sự phát triển của khoa học. Đặc biệt, trong lĩnh vực công nghệ sinh học, công nghệ gen, quan hệ giữa đạo đức và khoa học đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ hơn bao giờ hết. Quá trình kế thừa, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống nếu được xét theo chiều không gian thì nó còn gắn liền với quá trình giao lưu văn hoá giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Trên cơ sở những giá trị đạo đức truyền thống được hình thành trong chiều dài lịch sử, các quốc gia, dân tộc thông qua giao lưu văn hoá có thể chọn lọc những tinh hoa văn hoá của nhân loại, của các dân tộc khác bổ sung vào hệ giá trị của mình. Có thể nói rằng, giao lưu văn hoá là điều kiện không thể thiếu của quá trình kế thừa và phát triển các giá trị đạo đức truyền thống của từng dân tộc, góp phần bồi đắp, làm phong phú thêm các giá trị đạo đức của nhân loại. Đồng thời, việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường hiện nay sẽ góp phần giữ vững định hướng XHCN, bảo tồn được bản sắc văn hoá và giữ gìn các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta. Nhìn chung, giữa đạo đức và các hình thái ý thức xã hội khác có sự tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau nhưng việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống còn mang những nét riêng của nó. Thứ nhất, sự truyền bá các quan điểm đạo đức trong đời sống xã hội không nhất thiết phải có những tổ chức chuyên biệt để thực hiện mà có thể thông qua các tổ chức xã hội để đạo đức đi vào cuộc sống. Thứ hai, kế thừa các giá trị đạo đức chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của yếu tố truyền thống dân tộc. Thứ ba, kế thừa giá trị đạo đức truyền thống là một quá trình lâu dài và phức tạp, đòi hỏi phải có sự tác động thường xuyên, liên tục và bền bỉ của mọi tầng lớp trong xã hội. Có thể nói, đó là những nét đặc thù của sự kế thừa trong phát triển đạo đức. Nó là cơ sở quan trọng để chủ thể đạo đức chủ động xác định đúng đắn phương hướng, nội dung của quá trình kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ cách mạng. 1.2.2. Sự cần thiết phải kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ Bến Tre hiện nay Sau khi thống nhất đất nước, Bến Tre là một trong những tỉnh bị chiến tranh tàn phá nặng nề nhất và hậu quả để lại thật là nghiêm trọng. Vừa phải lo hàn gắn vết thương chiến tranh, Bến Tre vừa tập trung phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng lại quê hương góp phần vào công cuộc xây dựng CNXH. Với diện tích đất đai thuộc loại nhỏ nhất so với các tỉnh khác ở Nam Bộ, lại bị chất độc hoá học của chiến tranh tàn phá, cơ sở kinh tế yếu kém gần như không có gì, Bến Tre gặp rất nhiều khó khăn, thử thách. Càng khó khăn hơn khi bước vào giai đoạn phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN. Đến nay, Bến Tre vẫn còn là một tỉnh nông nghiệp nghèo, lạc hậu, xuất phát điểm rất thấp. Vì thế, muốn sánh vai cùng các tỉnh bạn, Bến Tre phải phát huy mạnh mẽ nội lực của mình, khơi dậy truyền thống của quê hương, nổi bật là truyền thống quý báu của người phụ nữ để tạo nên đòn bẩy cho quá trình phát triển. Thủ tướng Phan Văn Khải đã nhấn mạnh: “Để giúp Bến Tre đi nhanh hơn không bị tụt hậu so với các địa phương khác, cần tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng của Bến Tre trong thời kỳ xây dựng, khai thác tốt những lợi thế của tỉnh nhất là lực lượng lao động” [2, tr.47]. Hiện nay, cùng với cả nước, Bến Tre đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Thực chất, đó là quá trình cải biến một cách căn bản nền kinh tế cũ, lạc hậu, dựa trên lao động thủ công, năng suất lao động thấp... sang nền kinh tế hiện đại, năng suất lao động xã hội cao. Vì thế, đẩy mạnh CNH, HĐH là từng bước tạo ra tiền đề vật chất cần thiết để mọi người đặc biệt là phụ nữ có cơ hội thuận lợi tiếp cận những dịch vụ xã hội ngày càng hoàn thiện về giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, việc làm, nâng cao mức sống... CNH, HĐH đã giúp nhiều phụ nữ nông thôn trở thành công nhân công nghiệp và các ngành sản xuất, dịch vụ khác. Có thể nói, CNH, HĐH là điều kiện khách quan để giải phóng phụ nữ, đảm bảo cho họ có được quyền bình đẳng với nam giới, nâng cao vị thế và địa vị trong xã hội. Ph. Ăngghen đã nhấn mạnh: “Sự giải phóng người phụ nữ, địa vị bình đẳng của người phụ nữ với nam giới, là không thể có được và mãi mãi sẽ không thể có được, chừng nào mà phụ nữ vẫn còn bị gạt ra ngoài lao động xã hội có tính chất sản xuất và còn phải khuôn mình trong lao động tư nhân của gia đình” [40, tr.241]. Đồng thời CNH, HĐH cũng đặt ra những yêu cầu xây dựng con người mới, người phụ nữ hiện đại với đầy đủ những phẩm chất “yêu nước, có tri thức, có sức khoẻ, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng nhân hậu, quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng”. Bởi lẽ, chính họ là chủ thể của quá trình CNH, HĐH. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa, tức là phải có những con người có đạo đức xã hội chủ nghĩa” [43, tr.67]. Trong sự nghiệp CNH, HĐH, người phụ nữ trước hết cần có trí tuệ, có trình độ học vấn, kiến thức cao để đi vào cơ giới hoá, tự động hoá sản xuất, sử dụng mạng lưới thông tin điện tử. Đi vào hiện đại hoá còn đòi hỏi người lao động nữ có tri thức ở tầm quốc tế để tiếp cận với các thành tựu khoa học thế giới, có kiến thức đa dạng nhưng lại hướng về mục tiêu thống nhất là chuyên môn nghiệp vụ của mình. Đối với Bến Tre, là tỉnh có trên 75% lực lượng lao động nữ ở nông thôn, càng đòi hỏi phải được nâng cao mặt bằng tri thức đồng thời phải có những nữ chuyên gia có trình độ khoa học - công nghệ cao. Đáp ứng yêu cầu thực tế đó người phụ nữ phải nỗ lực phấn đấu, quyết tâm nâng cao năng lực bản thân, tranh thủ cơ hội, điều kiện để học tập một cách có hiệu quả. Học tập chính là chìa khoá mở đường cho phụ nữ vươn lên. Mặt khác, năng động sáng tạo là một yêu cầu mới không thể thiếu trong công việc của người phụ nữ hiện đại. Cần cù, chịu khó, chịu đựng gian khổ là đức tính truyền thống quý báu của người phụ nữ nhưng chưa đủ đối với thời đại mới. Ngày nay nhiều sự kiện, nhiều tình huống mới xuất hiện, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến công việc của mọi ngành, mọi giới. Do đó để giải quyết công việc trong điều kiện mới, người phụ nữ cần năng động sáng tạo, có cách nghĩ, cách làm khác trước, không thể duy trì tác phong lao động nông nghiệp như trước đây mà phải phát huy tính độc lập, sáng tạo của cá nhân, tư duy nhạy bén, dám nghĩ, dám làm trên cơ sở kiến thức khoa học. Có như thế, người phụ nữ mới có thể làm giàu cho gia đình và cho xã hội, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu chung của đất nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. người phụ nữ với chất lượng trí tuệ cao, kỹ năng lao động giỏi không thể tách rời những phẩm chất đạo đức cao đẹp, lối sống văn hoá và lòng nhân hậu, không chỉ quan tâm lợi ích cá nhân mà cả lợi ích cộng đồng; kết hợp hài hoà giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, nhân loại và dân tộc. Ngày nay, lối sống văn hoá được biểu hiện ngay trong tác phong sống, làm việc khoa học, từ những việc làm cụ thể, hàng ngày trong quan hệ bạn bè, đồng nghiệp, cộng đồng xã hội cũng như trong gia đình... Tất cả chứa đựng những giá trị văn hoá sâu sắc, phản ánh tính nhân văn cao cả của truyền thống phụ nữ Việt Nam... Chỉ có tri thức, năng lực, trí tuệ, tay nghề cao và lòng nhân ái mới có thể giúp người phụ nữ khẳng định vị thế của mình trong hiện tại và cả trong tương lai. Đáp ứng những yêu cầu trên, phụ nữ Việt Nam nói chung, phụ nữ Bến Tre nói riêng phải không ngừng học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, năng lực tư duy sáng tạo... và cả nhân cách đạo đức của mình. Có thể nói, CNH, HĐH tạo ra môi trường mà ở đó phụ nữ phải luôn tự đổi mới, học tập không ngừng, phải rèn luyện về mọi mặt. Tuy nhiên, người phụ nữ gặp không ít khó khăn, trở ngại từ định kiến xã hội cho đến những mặc cảm, tự ti của bản thân mình cũng như những thiên chức của giới nữ. Trong hoàn cảnh đó, chính những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của người phụ nữ xưa: lòng yêu quê hương đất nước, ý chí tự lực, tự cường, khí phách anh hùng, kiên cường, bất khuất; trung hậu, đảm đang... là động lực, là sức mạnh tinh thần giúp thế hệ phụ nữ hôm nay vượt qua mọi thử thách, chiến thắng bản thân mình, trở thành người phụ nữ mới đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo tiền đề vật chất để phụ nữ kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống một cách có hiệu quả. Đồng thời, CNH, HĐH đòi hỏi phải có những con người mới, người phụ nữ hiện đại trên cơ sở kế thừa và phát huy những truyền thống quý báu của các thế hệ đã qua. Với ý nghĩa đó, chính những giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ trở thành động lực đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH của Bến Tre. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, muốn đẩy mạnh CNH, HĐH phải quan tâm phát triển và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đó là một yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, kinh tế thị trường là yêu cầu bắt buộc để nước ta hội nhập vào đời sống kinh tế quốc tế, tận dụng những điều kiện bên ngoài cho sự phát triển kinh tế trong nước. Từ đó, mở ra vận hội mới đưa nước ta vươn lên cùng các nước tiên tiến, giữ vững ổn định chính trị, giữ vững chủ quyền và định hướng phát triển theo con đường XHCN. Tất nhiên, Bến Tre không nằm ngoài quy luật đó nhưng phải thấy được sự tác động hai mặt của nền kinh tế thị trường một cách khách quan. Nó tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có đạo đức, nhất là đạo đức của người phụ nữ. Tính hai mặt đó đã được Đảng ta khẳng định: Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế- xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cơ chế thị trường có những tác dụng tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội [11, tr.26]. Với tư cách là phương tiện hữu hiệu phát triển kinh tế, là động lực thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, kinh tế thị trường có tác động tích cực đến sự phát triển đạo đức. ý nghĩa đạo đức của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là ở chỗ, nó đã góp phần to lớn trong việc giải phóng sức sản xuất của xã hội, tăng năng suất lao động, tạo tiền đề vật chất để nâng cao đời sống của nhân dân, đặc biệt là người phụ nữ. Dưới tác động của kinh tế thị trường làm cho người phụ nữ thay đổi những quan niệm, thói quen, tâm lý cũ gắn liền với nền sản xuất tự cấp tự túc trước đây, thay vào đó, tính năng động, tư duy sáng tạo được khơi dậy, nhân cách độc lập, tính tự chủ cá nhân được hình thành và phát triển một cách phổ biến. Đồng thời, sự tác động mạnh mẽ của quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh đã kích thích người phụ nữ không ngừng vươn lên, thể hiện và khẳng định năng lực của mình. Trong nền kinh tế thị trường, mối quan hệ lợi ích đã có sự thay đổi tích cực, xoá bỏ chủ nghĩa bình quân, lợi ích chính đáng của cá nhân được kích thích và tôn trọng. Đó là điều kiện cần thiết để người phụ nữ nỗ lực học tập, nâng cao trình độ tri thức, rèn luyện tay nghề, khả năng thích nghi, tính kỷ luật, phẩm chất đạo đức... Song, nền kinh tế thị trường cũng rất nghiêm khắc đào thải những sự trì trệ, bảo thủ, sự lạc hậu, lỗi thời của những con người và sản phẩm kinh tế yếu kém mang tính chất cổ hủ. Một bộ phận không nhỏ người phụ nữ, chủ yếu là phụ nữ nông thôn, vốn quen với tác phong lao động nông nghiệp, tâm lý sản xuất nhỏ, không tự nỗ lực vươn lên học tập, bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao tay nghề; thiếu năng động sáng tạo, chậm đổi mới,... bị gạt ra khỏi guồng máy sản xuất xã hội hiện đại. Họ rơi vào vòng luẩn quẩn của cuộc sống, thất nghiệp, thu nhập quá thấp, không đảm bảo đời sống vật chất tối thiểu... Từ đó đẩy người phụ nữ vào con đường tệ nạn xã hội để mưu cầu sự sống, họ đi ngược lại giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, của giới mình. Vì vậy, để đứng vững trước vòng xoáy của kinh tế thị trường, người phụ nữ phải phát huy cao độ tính tự chủ cá nhân, rèn luyện ý thức lao động và sáng tạo. Song, không phải đời sống kinh tế được nâng cao là đời sống đạo đức tự động tốt đẹp hơn mà nó còn phụ thuộc cơ bản vào trình độ nhận thức của những chủ thể đạo đức trong xã hội. Có thể nói, kinh tế thị trường đã giúp người phụ nữ biết làm giàu một cách chính đáng, làm giàu cho gia đình và xã hội, góp phần khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với khu vực và thế giới. Từ đó đảm bảo cơ sở kinh tế cho việc thực hiện chính sách xã hội và các hoạt động nhân đạo khác. Về mặt này, kinh tế thị trường là phương tiện tác động tích cực đến sự phát triển đạo đức. Nhưng bản thân kinh tế thị trường tự nó không thể giải quyết được các vấn đề xã hội, thậm chí còn làm nẩy sinh những tiêu cực, suy thoái đạo đức xã hội. Nền kinh tế thị trường ở nước ta tuy có định hướng XHCN nhưng vẫn tồn tại những mặt tiêu cực không thể tránh khỏi của kinh tế thị trường. Khi nói về khuyết tật của kinh tế thị trường, Đảng ta chỉ rõ: “... bản thân nền kinh tế thị trường không phải là liều thuốc vạn năng. Hơn nữa, cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi để nẩy sinh và phát triển nhiều loại tệ nạn xã hội” [8, tr.55]. Đặc trưng chi phối sự vận động của nền kinh tế thị trường là tính lợi ích, tính cạnh tranh và tính trao đổi, trong đó đặc trưng cơ bản là tính lợi ích. kinh tế thị trường lấy lợi ích làm động lực của sự phát triển nhưng quá nhấn mạnh lợi ích kinh tế, coi trọng lợi ích cá nhân, đề cao quá mức lợi ích cá nhân dẫn đến chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng vô đạo đức. Có thể khẳng định rằng, kinh tế thị trường là môi trường thuận lợi để chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa lợi kỷ cực đoan nẩy sinh và phát triển cao độ. Lối sống “vì mình, quên người”, “vì lợi bỏ nghĩa” ngày càng có nguy cơ lan rộng và bào mòn nhân tính của con người nói chung, phụ nữ nói riêng, đẩy họ vào tình trạng tha hoá bản chất, nhân cách đạo đức. Từ chỗ đề cao giá trị tinh thần, một bộ phận phụ nữ chuyển sang coi trọng giá trị vật chất, sùng bái đồng tiền, lấy đồng tiền làm thước đo giá trị con người thay cho các giá trị đạo đức truyền thống. Đồng tiền thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội, quan hệ gia đình, chi phối các nguyên tắc ứng xử trong giao tiếp và phá vỡ những quan hệ ấy. Đối với họ, đồng tiền không còn là phương tiện mà đã trở thành mục đích, lý tưởng của cuộc sống. Từ đó làm cho không ít phụ nữ chạy theo đồng tiền, đánh mất nhân phẩm, đạo đức của mình, bất chấp luân thường, đạo lý, bất chấp pháp luật. Họ lao vào sản xuất và buôn bán hàng giả và hàng lậu, thậm chí buôn người và buôn cả bản thân mình, trở thành nô lệ cho đồng tiền. Ngay cả vấn đề tình yêu, hôn nhân, gia đình, vấn đề thiêng liêng và cao cả nhất đối với người phụ nữ cũng không còn có ý nghĩa truyền thống, đã bị mai một trước sức mạnh của đồng tiền, nó chỉ còn là sự tính toán, trao đổi lạnh lùng. Chủ nghĩa thực dụng vô nhân đạo sẵn sàng chà đạp lên mọi quan hệ đạo đức đích thực trong xã hội, huỷ hoại những giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ được hun đúc trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Cùng với nền kinh tế thị trường ở nước ta là quá trình mở cửa hội nhập, giao lưu kinh tế, văn hoá thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho người phụ nữ tiếp thu những giá trị văn hoá và văn minh của nhân loại. Song, quá trình ấy không thể tránh khỏi sự xâm nhập của văn hoá phương Tây, lối sống thực dụng tư sản và các phản giá trị từ bên ngoài, nhất là khi nhân tố nội sinh còn chưa đủ mạnh để có thể ngăn chặn nó. Bằng nhiều con đường, ngõ ngách, thông qua mở cửa... những phim ảnh, sách báo, đĩa compact, băng hình đồi trụy, bạo lực, tuyên truyền cho lối sống thực dụng đã ồ ạt đi vào nước ta. Nó không chỉ xâm nhập vào lối sống thành thị mà tràn cả về những đị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan