Luận văn Vấn đề hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế xã hội quận Long Biên, thành phố Hà Nội đến năm 2015

Tài liệu Luận văn Vấn đề hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế xã hội quận Long Biên, thành phố Hà Nội đến năm 2015: LUẬN VĂN: Hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên, thành phố Hà Nội đến năm 2015 mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa ở Thủ đô Hà Nội đang diễn ra với tốc độ nhanh. Trong quá trình đó, công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thành phố nói chung và của từng quận, huyện nói riêng phải đi trước một bước, định hướng đúng cho các kế hoạch và chương trình phát triển trung hạn và ngắn hạn. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vẫn được coi là một khâu quan trọng trong công tác kế hoạch hóa, làm căn cứ cho việc xây dựng định hướng phát triển và là cơ sở cho quy hoạch chuyên ngành, quy hoạch xây dựng đô thị, hoạch định các kế hoạch 5 năm và hàng năm. Điều này càng đặc biệt quan trọng đối với Hà Nội là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị lớn, là Thủ đô của cả nước. Long Biên là một quận mới được tách ra từ huyện Gia Lâm với 14 đơn vị hành chính cấp phường [13]. Quy hoạch của huyện Gia Lâm tr...

pdf107 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1078 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế xã hội quận Long Biên, thành phố Hà Nội đến năm 2015, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên, thành phố Hà Nội đến năm 2015 mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa ở Thủ đô Hà Nội đang diễn ra với tốc độ nhanh. Trong quá trình đó, công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thành phố nói chung và của từng quận, huyện nói riêng phải đi trước một bước, định hướng đúng cho các kế hoạch và chương trình phát triển trung hạn và ngắn hạn. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vẫn được coi là một khâu quan trọng trong công tác kế hoạch hóa, làm căn cứ cho việc xây dựng định hướng phát triển và là cơ sở cho quy hoạch chuyên ngành, quy hoạch xây dựng đô thị, hoạch định các kế hoạch 5 năm và hàng năm. Điều này càng đặc biệt quan trọng đối với Hà Nội là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị lớn, là Thủ đô của cả nước. Long Biên là một quận mới được tách ra từ huyện Gia Lâm với 14 đơn vị hành chính cấp phường [13]. Quy hoạch của huyện Gia Lâm trước đây đã được xây dựng trên cơ sở coi Gia Lâm (cũ) là một huyện ngoại thành, chứa đựng nhiều nội dung cho mục tiêu phát triển nông nghiệp và nông thôn. Trong định hướng phát triển các khu công nghiệp tập trung lớn trên địa bàn quận Long Biên hiện nay như Sài Đồng A, Sài Đồng B, Đài Tư..., công nghệ sản xuất được quy hoạch chưa phải là công nghệ hiện đại, còn nhiều khả năng gây ô nhiễm môi trường. Các khu đô thị cũ hầu hết là nhà thấp tầng, chia lô với cơ sở hạ tầng còn thiếu và chưa đồng bộ. Quy hoạch cũ chưa thực sự gắn kết với hướng quy hoạch nguồn nhân lực, chưa giải quyết được vấn đề việc làm cho dân cư trên địa bàn, chưa thực sự phát huy có hiệu quả những tiềm năng cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, Long Biên là một quận nội thành với định hướng trước mắt cũng như lâu dài phải phù hợp với quy hoạch chung của Thủ đô. Chính vì vậy, việc hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quận đến năm 2015 là rất cần thiết nhằm phát huy tốt những yếu tố tiềm năng, định rõ phương hướng phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội của quận trong những năm tới, làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng các đề án quy hoạch chi tiết và kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn quận, để Long Biên từng bước phát triển tương xứng với vị trí của một quận nội thành Thủ đô với tiêu chuẩn của một đô thị đồng bộ và hiện đại. Việc nghiên cứu quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên đến năm 2015 là một trong những việc làm rất cần thiết hiện nay. Vì thế, tôi chọn vấn đề "Hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên, thành phố Hà Nội đến năm 2015" làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm qua, Chính phủ và ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã có nhiều quyết định, chỉ thị, công văn về điều chỉnh quy hoạch chung của Thủ đô Hà Nội và điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của một số quận, huyện của Hà Nội. Cụ thể là: - Quyết định 108/CP của Thủ tướng Chính phủ về điều chỉnh quy hoạch chung của Thủ đô Hà Nội đến năm 2020. - Chỉ thị 32/1998/CT-TTg ngày 23/9/1998 của Thủ tướng Chính phủ về công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010. - Công văn số 792/UB-KHĐT ngày 9/4/1999 của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội chỉ đạo thực hiện công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội. - Công văn số 516/UB-KHĐT ngày 25/2/2004 của ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc xây dựng, điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội các quận, huyện Hai Bà Trưng, Gia Lâm, Thanh Trì, Long Biên và Hoàng Mai, v.v... Ngoài ra, có một số đề tài luận văn thạc sĩ nghiên cứu về quản lý quy hoạch đô thị, như: Hoàn thiện quản lý quy hoạch xây dựng đô thị trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế của Huỳnh Khương Ninh, Hà Nội, 2005; Cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về kinh tế cấp quận/ huyện tại Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế của Trần Công Lý, Hà Nội, 2005; Phát triển các dịch vụ xã hội cho người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế của Phạm Thị Thanh Mai, Hà Nội, 2005... Tuy vậy, đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hoàn chỉnh về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Trên cơ sở nhận thức lý luận và đánh giá thực trạng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên từ khi thành lập đến nay, đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên đến năm 2015. - Nhiệm vụ + Làm rõ một số vấn đề lý luận về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận. + Phân tích, đánh giá các yếu tố tiềm năng, nguồn lực, những nét đặc thù và thực trạng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên từ khi thành lập đến nay, chỉ ra những nguyên nhân của thành tựu và hạn chế, yếu kém. + Đề ra những định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên đến năm 2015. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên trên các lĩnh vực chủ yếu. - Phạm vi nghiên cứu + Phạm vi về không gian: Trong phạm vi ranh giới hành chính của quận Long Biên. + Phạm vi thời gian: Khảo sát đánh giá và xây dựng chương trình quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên từ khi thành lập (2003) đến năm 2015. + Phạm vi các ngành, lĩnh vực: Tất cả các ngành, lĩnh vực chủ yếu của kinh tế - xã hội trên địa bàn quận Long Biên, không phân biệt cấp quản lý. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và các quan điểm của Đảng, Chính phủ và Thành ủy, ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. - Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện, luận văn sử dụng các phương pháp điều tra, thống kê, phân tích, tổng hợp, logic - lịch sử, nghiên cứu tài liệu qua khai thác các dự án, các báo cáo chuyên đề đã được thực hiện trên địa bàn quận Long Biên nói riêng và Hà Nội nói chung. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích giúp cấp ủy đảng, chính quyền quận Long Biên nắm được tình hình chung về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên trong thời gian qua, vận dụng vào việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên đến năm 2015. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 cơ sở lý luận và thực tiễn về hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận long biên 1.1. Vị Trí, VAI Trò Và Nội DUNG QUY Hoạch Phát Triển KINH Tế - Xã Hội Cấp Quận 1.1.1. Vị trí, vai trò và chức năng cấp quận * Vị trí, vai trò cấp quận trong hệ thống tổ chức hành chính nhà nước Theo quy định của luật pháp Việt Nam, quận/ huyện là một trong bốn cấp hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời quận/ huyện còn được tổ chức là một cấp chính quyền thuộc hệ thống chính quyền địa phương, là cấp trên của xã, phường - chính quyền cơ sở và cấp dưới của tỉnh/ thành phố. Về tổ chức không gian địa lý, quận là địa bàn lãnh thổ với cư dân và tổ chức xã hội đô thị, bao gồm diện tích tự nhiên và một lượng dân cư nhất định, tuỳ thuộc vị trí, tính chất và điều kiện phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội. Về hành chính, quận là cơ quan nhà nước địa phương quản lý một số phường nhất định. Số lượng phường thuộc mỗi quận không có chỉ tiêu thống nhất, tùy theo đặc điểm và tính chất của từng khu vực quyết định hình thành quận và địa giới quận thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Xét về tổ chức xã hội - kinh tế, quận là một phần lãnh thổ của thành phố được phân chia theo địa giới hành chính bao gồm đất đai, dân cư. ở các quận, hầu hết đều có hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển, có đường giao thông thuận tiện, có hệ thống cung cấp điện, nước sinh hoạt, dân cư đông, tập trung nhiều tầng lớp làm ăn sinh sống chủ yếu dựa vào sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ… với sự đa dạng và phức tạp về ngành nghề. Mật độ dân số cao và cơ cấu dân cư phức tạp nên trên địa bàn cấp quận cũng dễ nảy sinh nhiều vấn đề về an ninh, trật tự, về các mối quan hệ giao lưu và quản lý độ thị. Với hoạt động đa dạng, phức tạp trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của hàng vạn người trên một địa bàn lãnh thổ khá hẹp đòi hỏi phải có sự quản lý, điều hành của một tổ chức chính quyền, đó là cơ quan nhà nước cấp quận. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi), Điều 118 xác định như sau: Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã; Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường, xã; quận chia thành phường…[5, tr. 64]. Như vậy, đơn vị hành chính của nước ta hiện nay được chia thành bốn cấp: cấp trung ương, cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp quận, huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; cấp xã, phường, thị trấn. Trong mối quan hệ giữa các cấp hành chính theo phân định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, thì cấp quận là một cấp trung gian có mối liên hệ giữa cấp thành phố trực thuộc trung ương với cấp cơ sở là cấp phường. Trong mối quan hệ ấy, đơn vị hành chính cấp quận có vai trò rất quan trọng, quyết định sự thành công hay thất bại trong thực hiện nhiệm vụ của thành phố. Các hoạt động trong quản lý hành chính nhà nước ở quận, sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng được thể hiện ở đường lối, chủ trương, chính sách và các biện pháp lớn; đó là những vấn đề quan hệ với tất cả lĩnh vực trong đời sống xã hội có tầm chiến lược, tác động, ảnh hưởng lâu dài đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng những vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách và các biện pháp lớn ấy chỉ trở thành hiện thực khi thông qua hoạt động của hệ thống chính quyền cấp quận là Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, qua sự hưởng ứng thực hiện của quần chúng nhân dân. Để quần chúng nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và tự giác thực hiện tất yếu phải thông qua quá trình tổ chức thực hiện trên phạm vi địa bàn hoạt động của mỗi địa phương, cơ sở. Vì vậy, không thể thiếu vai trò trung gian của cấp quận. Cấp quận là một cấp hành chính được lập ra ở các thành phố trực thuộc trung ương trong cả nước. Cấp quận trực tiếp lĩnh hội mọi vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách từ cấp thành phố, chịu sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của thành phố. Đối với cấp quận, nhiều vấn đề trên địa bàn bị chi phối rất lớn và gắn bó về kinh tế, kế hoạch và sự quản lý của thành phố. Do sự phát triển về kinh tế - xã hội và quá trình đô thị hoá đang diễn ra ngày càng nhanh ở nước ta, việc hình thành đơn vị hành chính cấp quận là rất cần thiết. Trong vài thập kỷ qua, qua việc cải cách thí điểm, một số quận, huyện, tỉnh, thành phố ở nước ta được sáp nhập với quy mô không thích hợp với điều kiện thực tế. Đến nay, Nhà nước đã phải hoạch định lại địa giới theo hướng nhỏ và gọn hơn, phù hợp thực tế của từng vùng, cấp quận trở thành đơn vị hành chính có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. * Chức năng, quyền hạn cấp quận Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003, chính quyền địa phương ở nước ta được tổ chức làm ba cấp: tỉnh - thành phố trực thuộc trung ương, quận (huyện), phường (xã). Trong công cuộc đổi mới đất nước, tổ chức chính quyền địa phương nói chung, chính quyền quận (huyện) nói riêng có nhiều bước tiến quan trọng. Các cấp chính quyền đã tập trung vào chức năng quản lý hành chính nhà nước bằng công quyền và pháp luật, quy hoạch và kế hoạch, có sự kết hợp giữa điều tiết bằng chính sách với sử dụng các nguồn lực vật chất nhất là nguồn lực về tài chính, tín dụng, kết cấu hạ tầng. Cơ sở pháp lý tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương được quy định trong Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân ở mỗi cấp (25-6-1996). Trong cơ cấu chính quyền địa phương, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, có tính tự quản và thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, quyết định chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương phù hợp với lợi ích của nhân dân và pháp luật. ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và nằm trong tổng thể các cơ quan thuộc nền hành chính quốc gia. Vì vậy, ủy ban nhân dân thực hiện sự kết hợp chặt chẽ các quá trình quản lý nhà nước cả về mặt lãnh thổ và cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Cụ thể, đối với Hội đồng nhân dân quận (huyện) có chức năng, quyền hạn sau: - Hội đồng nhân dân quận quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm; chủ trương, biện pháp về xây dựng, phát triển kinh tế hợp tác xã và kinh tế hộ gia đình ở địa phương. Quyết định biện pháp bảo đảm thực hiện chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công và phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế ở địa phương, bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh tế theo quy định của pháp luật. Dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định các chủ trương, biện pháp triển khai thực hiện ngân sách; điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết; giám sát việc thực hiện ngân sách đã được Hội đồng nhân dân quyết định. Quy hoạch, kế hoạch mạng lưới giao thông, thủy lợi và biện pháp bảo vệ đê điều, công trình thủy lợi theo quy định của pháp luật. Quyết định biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu và gian lận thương mại. - Quyết định các biện pháp và điều kiện cần thiết để xây dựng mạng lưới giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông trên địa bàn theo quy hoạch chung. Quyết định biện pháp bảo đảm cơ sở vật chất, điều kiện phát triển sự nghiệp văn hóa, thông tin, thể dục thể thao tại địa phương. Giữ gìn, bảo quản, trùng tu và phát huy giá trị các công trình văn hóa, nghệ thuật, di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh theo phân cấp. Quyết định biện pháp phòng, chống tệ nạn xã hội ở địa phương; bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân, phòng chống dịch bệnh; chăm sóc người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa; bảo vệ, chăm sóc bà mẹ, trẻ em; thực hiện chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình; chính sách ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những người và gia đình có công với nước; thực hiện chính sách bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, xóa đói, giảm nghèo. - Quyết định biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật để phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân ở địa phương. Quản lý và sử dụng đất đai, rừng núi, sống hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển tại địa phương theo quy định của pháp luật. Quyết định biện pháp bảo vệ và cải thiện môi trường; phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt ở địa phương; thực hiện các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường và chất lượng sản phẩm, ngăn chặn việc sản xuất, lưu hành hàng giả, hàng kém chất lượng ở địa phương, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. - Quyết định biện pháp thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và quốc phòng toàn dân; bảo đảm thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, xây dựng lực lượng dự bị động viên, thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối với lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương; biện pháp kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh. Thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương [11, tr. 20-24]. Đối với ủy ban nhân dân quận (huyện) có chức năng và quyền hạn sau: - Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua để trình ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt; tổ chức và kiểm tra thực hiện kế hoạch đó. Lập dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương, phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; quyết toán ngân sách địa phương; lập dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường cần thiết trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo ủy ban nhân dân, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương; hướng dẫn, kiểm tra ủy ban nhân dân phường (xã) xây dựng và thực hiện ngân sách và kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân phường (xã) và thực hiện ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật. Phê chuẩn kế hoạch kinh tế - xã hội của phường (xã). - Xây dựng và trình hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua các chương trình khuyết khích phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp ở địa phương và tổ chức thực hiện các chương trình đó. Chỉ đạo ủy ban nhân dân phường (xã) thực hiện các biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nông nghiệp, bảo vệ rừng, trồng rừng và khai thác lâm sản, phát triển ngành, nghề đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy sản. Thực hiện giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất đối với cá nhân và hộ gia đình, giải quyết các tranh chấp đất đai, thanh tra đất đai theo quy định của pháp luật. Xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của ủy ban nhân dân phường (xã). Xây dựng quy hoạch thủy lợi; tổ chức bảo vệ đê điều, các công trình thủy lợi vừa và nhỏ; quản lý mạng lưới thủy nông trên địa bàn theo quy định của pháp luật. - Tham gia với ủy ban nhân dân tỉnh (thành phố) trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Xây dựng và phát triển các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở các phường (xã). Tổ chức thực hiện xây dựng và phát triển các làng nghề truyền thống sản xuất các sản phẩm có giá trị tiêu dùng và xuất khẩu; phát triển các cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản và các cơ sở công nghiệp khác theo sự chỉ đạo của ủy ban nhân dân tỉnh (thành phố). - Tổ chức lập, trình duyệt hoặc xét duyệt theo thẩm quyền quy hoạch xây dựng phường, điểm dân cư nông thôn trên địa bàn quận; quản lý việc thực hiện quy hoạch xây dựng đã được duyệt. Quản lý, khai thác, sử dụng các công trình giao thông và kết cấu hạ tầng cơ sở theo sự phân cấp. Quản lý việc xây dựng, cấp giấy phép xây dựng và kiểm tra việc thực hiện pháp luật về xây dựng; tổ chức thực hiện các chính sách về nhà ở; quản lý đất đai và quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước trên địa bàn. Quản lý việc khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng theo phân cấp của ủy ban nhân dân tỉnh (thành phố). - Xây dựng, phát triển mạng lưới thương mại, dịch vụ, du lịch và kiểm tra việc chấp hành quy định của Nhà nước về hoạt động thương mại, dịch vụ và du lịch trên địa bàn quận. Kiểm tra việc thực hiện các quy tắc về an toàn và vệ sinh hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch trên địa bàn. Kiểm tra việc chấp hành quy định của Nhà nước về hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch trên địa bàn. - Xây dựng các chương trình, đề án phát triển văn hóa, giáo dục, thông tin, thể dục thể thao, y tế, phát triển trên địa bàn quận (huyện) và tổ chức thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về phổ cấp giáo dục, quản lý các trường tiểu học, trung học cơ sở, trường dạy nghề; tổ chức các trường mầm non; thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục trên địa bàn; chỉ đạo việc xóa mù chữ và thực hiện các quy định về tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử. Quản lý các công trình công cộng được phân cấp; hướng dẫn các phong trào về văn hóa, hoạt động của các trung tâm văn hóa - thông tin, thể dục thể thao; bảo vệ và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh do địa phương quản lý. Thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp y tế; quản lý các trung tâm y tế, trạm y tế; chỉ đạo và kiểm tra việc bảo vệ sức khỏe của nhân dân; phòng, chống dịch bệnh; bảo vệ và chăm sóc người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa; bảo vệ chăm sóc bà mẹ, trẻ em; thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong hoạt động của các cơ sở hành nghề y, dược tư nhân, cơ sở in, phát hành, xuất bản phẩm. Tổ chức, chỉ đạo việc dạy nghề, giải quyết việc làm cho người lao động; tổ chức thực hiện phong trào xóa đói, giảm nghèo; hướng dẫn hoạt động từ thiện, nhân đạo. - Thực hiện các biện pháp ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân ở địa phương. Tổ chức thực hiện bảo vệ môi trường; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, lũ lụt. Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường và chất lượng sản phẩm; kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hóa trên địa bàn; ngăn chặn việc sản xuất và lưu hành hàng giả, hàng kém chất lượng ở địa phương. - Tổ chức phong trào quần chúng tham gia lực lượng vũ trang và quốc phòng toàn dân; thực hiện kế hoạch xây dựng khu vực phòng thủ quận (huyện); quản lý lực lượng dự bị động viên; chỉ đạo việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, công tác huấn luyện dân quân tự vệ. Tổ chức đăng ký, khám tuyển nghĩa vụ quân sự; quyết định việc nhập ngũ, giao quân, việc hoãn, miễn thi hành nghĩa vụ quân sự và xử lý các trường hợp vi phạm theo quy định của pháp luật. Tổ chức thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng lực lượng công an nhân dân vững mạnh, bảo vệ bí mật nhà nước; thực hiện các biện pháp phòng ngừa, chống tội phạm, các tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương. Chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý hộ khẩu, quản lý việc cư trú, đi lại của người nước ngoài ở địa phương. Tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội [11, tr. 82-89]. Ngoài ra, theo Điều 26 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân cấp quận còn được giao thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: quyết định các biện pháp đảm bảo thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch đô thị của thành phố; quyết định biện pháp bảo đảm trật tự công cộng, giao thông, phòng, chống cháy, nổ và bảo vệ môi trường, cảnh quan đô thị; quyết định biện pháp quản lý dân cư đô thị và tổ chức đời sống nhân dân [11]. Như vậy, cấp quận không chỉ thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước ở địa phương mà còn được pháp luật trao thẩm quyền cho chính quyền trên các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Đối với các cấp chính quyền địa phương trong đó có cấp quận, ngoài Hiến pháp 1992, Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của chính quyền địa phương mỗi cấp (25-6-1996), Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003, còn có Pháp lệnh về giám sát và hướng dẫn của ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hướng dẫn và nguyên tắc kiểm tra của Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân, Pháp lệnh Cán bộ công chức, các luật, nghị định, thông tư về quản lý nhà nước ở các lĩnh vực ngân sách, đất đai, lao động, thương mại... Các văn bản pháp lý nêu trên đã xác định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của quận (huyện) và đặt chính quyền quận (huyện) vào khung pháp lý chặt chẽ, bảo đảm hoạt động quản lý của bộ máy chính quyền được thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định pháp luật, ràng buộc bởi pháp luật theo đúng định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 1.1.2. Nhiệm vụ, nội dung và yêu cầu quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận * Nhiệm vụ của công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận Để xác định được nhiệm vụ của công tác quy hoạch, trước hết cần xác định quy hoạch là gì? Theo Từ điển tiếng Việt, xuất bản năm 1992, thì qui hoạch là việc "bố trí, sắp xếp toàn bộ theo một trình tự hợp lý trong từng thời gian, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch dài hạn" [29, tr. 801]. Quy hoạch là sự phân bố và sắp xếp các hoạt động và các yếu tố sản xuất, dịch vụ và đời sống trên một địa bàn lãnh thổ (quốc gia, vùng, tỉnh, huyện...) cho một thời kỳ trung hạn, dài hạn (có chia các giai đoạn) để cụ thể hóa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên lãnh thổ, theo thời gian và là cơ sở để lập các kế hoạch phát triển. Phải dựa trên cơ sở tính toán và khai thác hợp lý, khoa học, có hiệu quả cao các điều kiện thiên nhiên, kinh tế, xã hội, các yếu tố của lực lượng sản xuất toàn xã hội nhằm đạt được mục tiêu chiến lược đã đề ra [28, tr. 616]. Chất lượng của quy hoạch phụ thuộc vào công tác điều tra cơ bản, dự đoán phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật và khả năng mở rộng sự hợp tác kinh tế với nước ngoài. Có các loại quy hoạch: Quy hoạch đô thị, quy hoạch vùng, quy hoạch xây dựng, quy hoạch kinh tế, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn... Quy hoạch đô thị là nghiên cứu những quy luật phát triển của đô thị nhằm giúp cho việc hoạch định những chính sách, kế hoạch, quy hoạch phát triển đô thị đảm bảo việc sắp xếp, bố trí các yếu tố tạo nên đô thị và tạo ra một cấu trúc hợp lý đảm bảo sự hoạt động nhịp nhàng của các yếu tố đó và sự hài hòa của đô thị với môi trường. Quy hoạch vùng là "dự án thiết kế sử dụng tổng hợp lãnh thổ từng vùng đất đai của một nước về sử dụng đất đai, về xây dựng cơ bản, tổ chức cân đối giữa các ngành công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, dựa theo thế mạnh của mỗi vùng" [1, tr. 1381]. Nội dung của quy hoạch vùng là bố trí hiệu quả các cơ sở sản xuất - kinh doanh trên cơ sở sử dụng tổng hợp nguyên liệu, vật tư, lao động, kỹ thuật và tổ chức hợp tác liên doanh giữa các cơ sở, bố trí dân cư hợp lý nhằm đảm bảo kiến trúc xây dựng, vệ sinh thuận tiện cho dân, phối hợp sử dụng chung hệ thống cấu trúc hạ tầng và dịch vụ. Quy hoạch vùng được tiến hành trên cơ sở các vùng kinh tế có ranh giới tương đối ổn định, làm cơ sở cho việc lập các đồ án thiết kế xây dựng. Quy hoạch xây dựng là việc tổ chức không gian đô thị và điểm dân cư nông thôn, hệ thống công trình kỹ thuật, hạ tầng xã hội; tạo lập môi trường sống thích hợp cho người dân sống tại các vùng lãnh thổ, bảo đảm kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc gia với lợi ích cộng đồng, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường. Quy hoạch xây dựng được thể hiện thông qua đồ án quy hoạch xây dựng bao gồm sơ đồ, bản vẽ, mô hình và thuyết minh [12, tr. 10]. Quy hoạch kinh tế là cụ thể hóa chiến lược phát triển kinh tế về mặt không gian và thời gian. Quy hoạch kinh tế là một dự án khoa học tổng hợp các quy hoạch, kế hoạch và dự án cụ thể, chi tiết thành một bản quy hoạch chung cho cả vùng (hoặc cả ngành) nhằm đạt các mục tiêu và các định hướng trong chiến lược phát triển đã đề ra cho vùng, ngành [20, tr. 27]. Vậy quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội là luận chứng khoa học về phát triển và phân bố các ngành kinh tế trong mối quan hệ cấu trúc, làm cho chúng phát triển cân đối, hài hòa, thúc đẩy lẫn nhau, trong đó có những ngành mũi nhọn, những ngành chuyên môn hóa, những ngành hỗ trợ, bổ trợ. Căn cứ vào các điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội trong từng thời kỳ và từng vùng để khai thác hợp lý và bảo vệ môi trường, phân bổ dân cư, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân. Như vậy, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội là quá trình bố trí, sắp xếp các lĩnh vực kinh tế, xã hội theo một trình tự hợp lý, có kế hoạch để làm tiền đề cho việc định hướng phát triển kinh tế theo đúng hướng đã định. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội là một chức năng gắn liền với nhiệm vụ của bộ máy công quyền. Chức năng này được thực hiện ở cả bốn cấp chính quyền, trong đó cấp quận có vai trò quan trọng. Nhiệm vụ của công tác quy hoạch cấp quận: Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận bao gồm nhiều hoạt động liên tục và gồm nhiều giai đoạn: nghiên cứu, thiết kế, xây dựng chương trình... nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Nếu như việc quy hoạch tổng thể chủ yếu mang tính định hướng thì quy hoạch chi tiết phân khu chức năng cho từng ngành và cấp dưới (phường) mang tính quản lý cao hơn. Nó quy định cụ thể những vấn đề cần làm và chính những quy định pháp lý được đề xuất nhằm mang lại phúc lợi và an toàn cho dân cư. Trong nhiều trường hợp, quy hoạch có tác dụng định hướng cho sự phát triển kinh tế - xã hội và kiểm soát, ngăn chặn các hoạt động xây dựng, sản xuất không theo định hướng, tùy tiện, bất chấp lợi ích công cộng. Bên cạnh quy hoạch tổng thể chung cho quận, trong quản lý còn chú ý đến quy hoạch cấp cộng đồng vì nó gắn liền với việc cải tạo công trình ở các phường. Việc cải tạo có hai phương thức: Một là, xây dựng lại, tức là phá bỏ những công trình cũ (nhà cũ, đường phố cũ…) để xây dựng lại hoàn toàn mới; hai là, tu bổ tức là chỉ sửa sang chút ít. ở nhiều nước, trước đây người ta thực hiện quy hoạch cải tạo ban đầu nặng về xây dựng lại và tái trang bị vật chất, gần đây lại thiên về tu bổ và thực hiện các chương trình xã hội; đây cũng là khuynh hướng chủ yếu của một số nước mới phát triển trong việc xác định bước quy hoạch xây dựng đô thị của mình. Kinh nghiệm cho thấy, việc cải tạo đô thị nhiều khi lại làm trầm trọng thêm những vấn đề mà người ta muốn giải quyết. Ví dụ, nhà cũ nát muốn phá đi để làm cao ốc sang trọng, nhưng khi thực hiện giá thành nhà ở mới lại quá đắt so với túi tiền của người có thu nhập thấp, một đối tượng chiếm tỷ trọng khá lớn tại các nước nghèo và đang phát triển. Do vậy, khi tiến hành cải tạo các khu phố cũ nát, người nghèo bắt buộc phải chuyển chỗ ở, nhường cho những người giàu để tìm những "ổ chuột" mới hợp với thu nhập của họ. Đối với việc quy hoạch phát triển các khu đô thị mới, ai cũng biết là các khu đô thị đều rất khác nhau ở mỗi nước hoặc ở mỗi giai đoạn phát triển trong cùng một nước, nhất là về quy mô, chuyên biệt hóa trong nội bộ, về phương thức xây dựng khu dân cư, về cơ cấu dân cư… nhưng khi thiết kế, nhà quy hoạch đều hướng trực tiếp vào việc cải thiện các vấn đề đô thị. Tại mỗi khu đô thị mới đều nhằm giải quyết những nhu cầu riêng biệt của từng cơ sở. Tuy nhiên, trong nội bộ cấp quận, việc xác định tính chuyên biệt nhằm định hướng quy hoạch phát triển cũng đòi hỏi phải có tính khoa học và sự cẩn trọng. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận và việc tổ chức không gian kiến trúc, bố trí xây dựng các công trình trong quận qua từng thời kỳ, làm cơ sở cho việc đầu tư xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, việc quy hoạch có vai trò định hướng phát triển không gian, là tiền đề sử dụng đất có hiệu quả nhằm phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn quận. Do đó, quy hoạch có vai trò là cơ sở cho việc xác định chiến lược phát triển hợp lý trong từng giai đoạn và việc định hướng phát triển lâu dài cho quận về mặt tổ chức sản xuất, tổ chức đời sống và tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan, môi trường ở quận. Trong những năm qua, do tác động của sự phát triển nền kinh tế thị trường, chính sách mở cửa, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với công tác quy hoạch, đầu tư cải tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng… các đô thị ở nước ta, trong đó có Hà Nội, đã phát triển nhanh chóng, đảm nhiệm được vai trò trung tâm phát triển công nghiệp với cơ cấu các ngành công nghiệp, dịch vụ hợp lý, trong đó hình thành các ngành nghề mới, các trung tâm phát triển và chuyển giao công nghệ trong vùng theo các ngành, là nơi giao lưu thương mại trong nước và nước ngoài, thu hút đầu tư phát triển kinh tế đối ngoại, trở thành trung tâm dịch vụ, phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, và phát triển nguồn lực, giữ vai trò tăng thu ngân sách cho nhà nước hàng năm. Từ năm 1992 về trước, việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các đô thị ít được chú ý. Ngày 17/8/1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 91/CP về điều lệ quản lý quy hoạch đô thị, trong đó quy định: "Đô thị phải được xây dựng, phát triển theo quy hoạch…", và "việc cải tạo và xây dựng đô thị phải căn cứ vào quy hoạch xây dựng đô thị được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt" [14], đến năm 2003 có 86 thành phố, thị xã và hàng trăm thị trấn có quy hoạch xây dựng chung được duyệt hoặc đang điều chỉnh quy hoạch. Hiện nay, nước ta có gần 700 đô thị các loại với dân số chiếm 25% cả nước, gần 50% dân số đô thị đang tập trung tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Dự báo đến 2010, dân số đô thị chiếm 33%, đến 2020 sẽ chiếm 45% dân số cả nước. Rõ ràng trong điều kiện nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, đô thị hóa sẽ diễn ra mạnh mẽ, vai trò của quản lý nhà nước cần được tăng cường mạnh mẽ trong việc quy hoạch xây dựng đô thị, đòi hỏi phải rà soát lại công tác quản lý quy hoạch xây dựng trên phạm vi toàn quốc, đối với từng lãnh thổ, từng tỉnh, từng đô thị và mỗi điểm dân cư để Nhà nước có biện pháp chỉ đạo hiệu quả xây dựng theo quy hoạch, tránh tình trạng manh mún, phân tán, thiếu mỹ quan và không có quy hoạch. Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa IX) đã nêu ra các nhóm chủ trương, chính sách, giải pháp lớn cần tập trung thực hiện. Trong đó có nhóm giải pháp về phát triển kinh tế đã nêu: "Tăng cường đầu tư cho công tác quản lý quy hoạch xây dựng đô thị…" [4]. Những năm qua, quá trình đô thị hóa ở nước ta diễn ra nhanh chóng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy để quản lý, điều chỉnh quy hoạch, xây dựng đô thị và thiết lập trật tự kiến trúc đô thị, mới nhất là hai luật đất đai (2003) và Luật Xây dựng (2003) có hiệu lực từ 1-7-2004, đã đáp ứng được nhu cầu quản lý và phát triển đất nước. Trong đó, Luật Xây dựng quy định nhiệm vụ công tác quản lý nhà nước về quy hoạch và quy định nhiệm vụ, nội dung công tác quy hoạch cho cấp quận ở các thành phố. Trên cơ sở các văn bản luật pháp về quy hoạch, cộng với nhiệm vụ quản lý, kế hoạch hóa của chính quyền cấp quận, có thể nêu lên ba nhiệm vụ cơ bản sau đây của công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận: - Đối với quy hoạch chung cần xác định tính chất, đặc trưng của quận, quy mô dân số và định hướng phát triển không gian trong quận, các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội cho từng giai đoạn 5 năm, 10 năm và dự báo hướng phát triển cho giai đoạn 20 năm. Qua đó phải xác định những khu vực cần giải tỏa, những khu vực được giữ lại để chỉnh trang, những khu vực cần được bảo vệ và những yêu cầu cụ thể khác theo đặc điểm của từng đơn vị. - Đối với quy hoạch chi tiết cần làm rõ yêu cầu diện tích sử dụng đất, quy mô, phạm vi quy hoạch chi tiết, thiết kế đô thị, thiết kế đồng bộ và các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong khu vực thiết kế. Lập danh mục đề xuất biện pháp cải tạo cho những công trình cần giữ lại trong khu vực quy hoạch cải tạo. - Các đồ án quy hoạch xây dựng ở quận sau khi được duyệt cần được tổ chức và thực hiện trên cơ sở áp dụng đồng bộ các biện pháp: Ban hành quy chế quản lý xây dựng theo quy hoạch; tổ chức công bố và công khai các đồ án quy hoạch xây dựng để thực hiện cơ chế giám sát việc lập và thực hiện quy hoạch xây dựng; cung cấp thông tin về quy hoạch xây dựng, tạo điều kiện để cho các tổ chức, cá nhân xây dựng công trình phù hợp với quy hoạch đảm bảo chất lượng kiến trúc, cảnh quan và môi trường của quận. * Nội dung quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận - Trên cơ sở quy hoạch chung của thành phố, nội dung của công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận là đánh giá việc thực hiện quy hoạch hàng năm và xác định đúng các nguồn lực hiện có để qua đó bố trí, sắp xếp lại các nguồn lực cho hợp lý nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội trong quận phát triển ổn định, bền vững. - Xác định được hệ thống các khu đô thị các điểm dân cư để phục vụ cho quy hoạch các khu công nghiệp, nông nghiệp và du lịch, các khu vực bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên và các khu chức năng khác. Bố trí hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật, không gian và các biện pháp bảo vệ môi trường. Định hướng phát triển các công trình chuyên ngành. Xác định đất dự trữ để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế và sử dụng đất có hiệu quả. - Nội dung quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận phải xác định tổng mặt bằng sử dụng đất của quận theo quy mô dân số của từng giai đoạn quy hoạch; phân khu chức năng đô thị; mật độ dân số, hệ số sử dụng đất và các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật khác của từng khu chức năng và của đô thị; bố trí tổng thể các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị, xác định chỉ giới xây dựng, chỉ giới đường đỏ của các tuyến đường giao thông chính đô thị, xác định cốt xây dựng khống chế của từng khu vực và toàn đô thị. Quy hoạch đô thị phải được thiết kế theo quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng, phải tận dụng địa hình, cây xanh, mặt nước và các điều kiện thiên nhiên nơi quy hoạch, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trong trường hợp quy hoạch chung xây dựng cải tạo đô thị phải đề xuất được các giải pháp giữ lại những công trình, cảnh quan hiện có phù hợp với nhiệm vụ đề ra. - Xác định các khu chức năng, hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, hướng phát triển cho từng điểm dân cư, thiết kế mẫu nhà ở phù hợp với điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán cho từng vùng để hướng dẫn nhân dân xây dựng. Quy hoạch chi tiết xây dựng khu trung tâm quận phải xác định vị trí, diện tích xây dựng của các công trình: trụ sở làm việc của các cơ quan, tổ chức, các công trình giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, thương mại dịch vụ và các công trình khác. Đối với các điểm dân cư phường đang tồn tại ổn định lâu dài, khi thực hiện quy hoạch xây dựng thì phải thiết kế cải tạo, chỉnh trang các khu chức năng, các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. - Quy hoạch các công trình văn hóa xã hội, cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm: trường học, bệnh viện, trung tâm văn hóa, các tuyến giao thông, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, cung cấp năng lượng, chiếu sáng công cộng, thông tin bưu điện… Mọi công trình văn hóa xã hội, cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở quận khi xây dựng xong phải được tổ chức nghiệm thu, bàn giao cho các cơ quan chuyên trách của nhà nước quản lý, sử dụng và khai thác công trình đó. Công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội có vai trò rất quan trọng, mở đường cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tránh sự phát triển tự phát về xây dựng và các hoạt động kinh tế - xã hội, mà thường để lại nhiều hậu quả. Quy trình tổ chức xét duyệt chương trình quy hoạch, kể cả khâu lập quy hoạch đòi hỏi cần phải đổi mới và thực hiện một cách cẩn trọng, trách nhiệm, nhằm tránh cho ra đời những sản phẩm quy hoạch kém chất lượng, gây tổn hại quá trình phát triển kinh tế - xã hội cho quận. * Yêu cầu đổi mới quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận - Đô thị hóa là xu thế tất yếu đối với các nước đang phát triển, bên cạnh xu thế ấy bao giờ cũng có một xu thế khác là sự tự phát hình thành các khu, cụm dân cư. Nguyên nhân kinh tế dẫn tới sự di dân tự phát và việc chưa coi trọng công tác quản lý quy hoạch xây dựng của các cấp chính quyền. Nhiều vấn đề thực tiễn liên quan đến quản lý quy hoạch xây dựng ở quận là sự hỗn độn, mất trật tự trong xây dựng, quản lý đất đai, bảo vệ môi trường, ùn tắc giao thông… đã khiến cho nhiều vấn đề trở nên khó khăn, phức tạp trong nhận thức và thực thi các giải pháp đề ra. - Thời gian gần đây công luận đã nói nhiều đến vấn đề quy hoạch "treo", nhưng thực tế cho thấy còn có quy hoạch kết hợp với đầu cơ đất, quy hoạch "điều chỉnh"… Quy hoạch "treo" là loại quy hoạch không mang tính khả thi, làm ra để đó, gây tốn tiền của, thời gian và luôn đe dọa sự ổn định nơi ở của người dân, kìm hãm sự phát triển. Quy hoạch kết hợp với đầu cơ đất được ngụy trang với tên gọi quy hoạch chính danh, không kinh doanh để có thể tiến hành tự đền bù đất trên những diện tích khá rộng, thường dừng ở việc phân lô và tuy có khá đủ các cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, nhưng thường thiếu cơ sở hạ tầng xã hội. Những lô đất được khoanh vùng rồi để đó, không thấy xây dựng mà chỉ được thực hiện việc mua đi bán lại tìm chênh lệch giá, tạo nên một thị trường ảo về nhu cầu nhà ở. Với quy hoạch "điều chỉnh" tuy ban đầu thực hiện quy hoạch chi tiết rất công phu, đầy đủ. Sau thời gian thực hiện quy hoạch, thông qua đền bù, giải tỏa và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các bất cập bắt đầu nảy sinh: đền bù không dứt điểm, lợi nhuận thực tế đối với một số loại hình nhà ở đột biến cao lên, dễ kinh doanh, lợi nhuận siêu ngạch mà không cần bỏ thêm vốn, không cần thực hiện những công trình hạ tầng xã hội mang tính nghĩa vụ, tuy nhiên vẫn phải điều chỉnh lại quy hoạch để đảm bảo cho lợi nhuận siêu ngạch thấy trước. Thông qua những báo cáo, yêu cầu điều chỉnh quy hoạch tại một số điểm của dự án sẽ được xem là sự cần thiết, khả thi hơn… để có được ủng hộ, phê duyệt từ những đơn vị nhà nước quản lý quy hoạch. - Yêu cầu đặt ra là phải đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và sự phối hợp các ngành, các cấp trong quản lý quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận. Việc quản lý quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận phải có một bộ máy thích hợp với các yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Quản lý cấp quận khác với quản lý cấp huyện trên nhiều lĩnh vực, bởi tính phức tạp, đa dạng của nó. Nếu việc quản lý ở cấp quận cũng theo một khung với chế độ quản lý vùng nông thôn thì không thể giải quyết hiệu quả những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn đô thị. Cần phân định rõ chức năng của chính quyền quận và cơ quan chuyên môn, đồng thời nghiên cứu tổ chức bộ máy quản lý ở quận sao cho phù hợp, thể hiện được sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong quản lý quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. - Sự phân cấp quản lý quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận là một yêu cầu quan trọng về đổi mới quản lý, tuy nhiên sự phân cấp cần thể hiện rõ sự thống nhất phối hợp, phân định trách nhiệm, tránh việc đùn đẩy công việc cuối cùng gây khó khăn cho người dân. Cụ thể là, việc quy hoạch phải thông qua Hội đồng nhân dân quận là điều rất cần thiết. Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng việc quy hoạch cần tăng cường tính chuyên trách hay khả năng phản biện tốt của Hội đồng nhân dân. Thực tế cho thấy, nhiều bản quy hoạch thông qua Hội đồng nhân dân rất dễ dàng, dường như các đại biểu ít cho ý kiến hoặc không thể tham gia ý kiến, nhưng sau khi xuất hiện những bất cập trong quá trình triển khai thực hiện chương trình quy hoạch, Hội đồng nhân dân lại phải họp đi họp lại nhiều lần để xem xét các khiếu nại của nhân dân. Đối với việc quản lý quy hoạch cấp quận phải dựa trên một hệ thống thể chế, chính sách cũng như hệ thống tổ chức thực thi pháp luật thống nhất trên một số lĩnh vực của đời sống đô thị như quản lý đất đai, quản lý giao thông, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, chính sách quản lý dân cư, dân số, bảo vệ môi trường, sử dụng các không gian công cộng đô thị… Về lĩnh vực này, thực tế cho thấy đã xuất hiện những vấn đề vừa thiếu lại vừa thừa, không đồng bộ, thay đổi liên tục. Do đó, sự phân cấp nếu không phân định rõ trách nhiệm cụ thể thì việc quy hoạch không thể hiện được tính khả thi và bộ máy quản lý của chính quyền quận dễ sa vào việc giải quyết những hệ lụy nảy sinh. 1.2. Các Yếu Tố Tiềm NĂNG Và Nguồn Lực Phát Triển KINH Tế - Xã Hội Quận LONG BIÊN 1.2.1. Các yếu tố tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên * Về vị trí địa lý Quận Long Biên được thành lập theo Nghị định 132/2003/NĐ-CP ngày 06-11- 2003 trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính của huyện Gia Lâm với 14 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm các phường Gia Thụy, Ngọc Lâm, Bồ Đề, Phúc Đồng, Phúc Lợi, Thượng Thanh, Giang Biên, Ngọc Thụy, Việt Hưng, Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối, Đức Giang, Sài Đồng. Quận Long Biên nằm ở cửa ngõ phía Đông Bắc của Thủ đô Hà Nội, phía Bắc giáp sông Đuống, phía Đông giáp huyện Gia Lâm, phía Tây giáp huyện Đông Anh, phía Nam giáp sông Hồng. Vị trí địa lý đặc thù của quận, nằm giữa hai con sông lớn là sông Hồng và sông Đuống, tạo cho Long Biên có tiềm năng quan trọng cho phát triển các cụm công nghiệp kỹ thuật cao, cho quá trình phát triển đô thị hiện đại, đồng thời tạo được sự giao lưu trong hoạt động kinh tế. Quận Long Biên cũng là nơi tập trung nhiều đầu mối giao thông quan trọng với nhiều đường giao thông lớn như đường sắt, quốc lộ, đường thủy nối liền các tỉnh phía Bắc (Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang), các tỉnh phía Đông Bắc (Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh). Đây là điều kiện thuận lợi cho sự liên kết kinh tế giữa quận với các tỉnh và thành phố lân cận, mở rộng thị trường kinh doanh và dịch vụ. Nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, và ở trên trục tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Vị trí địa lý này tạo nên một sức hút mạnh để quận Long Biên phát triển nhanh về kinh tế - xã hội, theo kịp nhịp độ phát triển chung của Thủ đô Hà Nội. Quận Long Biên có vị trí địa lý rất thuận lợi gần các trục giao thông chính: đường bộ, đường hàng không, đường sông, đường sắt nên rất dễ dàng cho các phương tiện vận chuyển tập kết nguyên vật liệu đầu vào và các sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất. Long Biên là điểm xuất phát của đường quốc lộ số 5, là điểm trung chuyển của quốc lộ 1A và nhiều tuyến đường chiến lược khác, là cửa ngõ nối giữa Hà Nội với các trung tâm công nghiệp lớn của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ như Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh… Long Biên là nơi tập trung các khu công nghiệp lớn của thành phố và cả nước như Đức Giang, Sài Đồng A và B đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch, nhiều doanh nghiệp công nghiệp đã đi vào sản xuất ổn định. Quận Long Biên có nguồn lao động khá dồi dào, nếu được đào tạo tốt sẽ có khả năng đáp ứng được cho phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng. Quận Long Biên mới được thành lập, trên địa bàn đang triển khai các công trình trọng điểm của quốc gia và thành phố, đặc biệt là các công trình xây dựng dân dụng và giao thông, cơ sở hạ tầng đang đứng trước yêu cầu cấn hoàn thiện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển ngành xây dựng trong thời gian tới. Với vị trị địa lý thuận lợi, có tính đặc trưng so với các quận nội thành khác sẽ tạo điều kiện cho quận Long Biên phát triển các ngành kinh tế - xã hội. Vì vậy, tuy mới thành lập, nhưng quận Long Biên có vai trò nhất định đối với sự phát triển của Thủ đô Hà Nội. * Về điều kiện tự nhiên Quận Long Biên nằm trong phạm vi hai tuyến đê sông Hồng và sông Đuống với địa hình lòng máng cao ven theo đê hai sông. Địa hình quận tương đối bằng phẳng, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam theo hướng chung của địa hình và theo hướng của dòng sông Hồng. Địa hình Long Biên khá đa dạng, làm nền tảng cho cảnh quan tự nhiên, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế, xây dựng các công trình hạ tầng, dân dụng và khu công nghiệp. Quận Long Biên mang sắc thái đặc trưng của khí hậu vùng nhiệt đới ẩm, gió mùa. Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là mùa đông lạnh, thời kỳ đầu thường hanh khô nhưng đến nửa cuối của mùa đông lại thường ẩm ướt. Nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 23 - 240C, biên độ dao động nhiệt giữa ngày và đêm khoảng 6-70C. Độ ẩm trung bình hàng năm của quận khoảng 82%, ít thay đổi theo các tháng, thường dao động trong khoảng 78 - 87%. Lượng mưa trung bình khoảng 1.600 - 1.800 mm. Long Biên chịu ảnh hưởng chế độ thủy văn của sông Hồng và sông Đuống: lưu lượng trung bình nhiều năm là 2.710 m3/s, mực nước lũ thường cao từ 9 - 12 m (độ cao trung bình mặt đê là 14 - 14,5 m). Về đất đai: Theo số liệu thống kê đến ngày 1-10-2004, quận Long Biên có diện tích 6.038 ha, là quận có điện tích lớn nhất trong số các quận nội thành Hà Nội. Trong đó đất nông nghiệp là 2.258,01 ha, chiếm 34,17%; diện tích đất canh tác là 1.644,2 ha được chia thành hai vùng: vùng trong đồng là 1.114,8 ha, vùng ngoài bãi là 529,4 ha. Diện tích đất ngoài bãi thuộc loại đất phù sa được bồi đắp hàng năm, chất đất tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Trong tương lai, diện tích đất này có thể chuyển đổi mục đích sử dụng sang nông nghiệp đô thị - sinh thái kết hợp với phục vụ cho du lịch thì đây có thể trở thành một nét độc đáo của quận. Bảng 1.1: Diện tích các loại đất của quận Long Biên (đến 10-2004) [16] STT Loại đất Hiện trạng (2004) 1 Đất nông nghiệp 2.258,01 ha 37,41% 2 Đất chuyên dùng 1809,64 ha 29,97% 3 Đất ở 724,28 ha 11,99% 4 Đất chưa sử dụng 1246,29 ha 20,631% Cộng: 6038,24 ha 100% Diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong tổng diện tích của quận. Tuy nhiên, do tốc độ đô thị hóa nhanh, diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp trung bình 1 năm giảm từ 100 - 120 ha nên phần lớn diện tích còn lại là đất kẹt trong các khu dân cư, khu công nghiệp, ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp và cần có sự chuyển mục đích sử dụng để tăng hiện quả sử dụng đất hiện có của quận. Trong số đất nông nghiệp, quận Long Biên còn có 106,94 ha đất vườn tạp, 7,63 ha đất trồng cây lâu năm và 5,27 ha đất trồng cỏ chăn nuôi. Diện tích đất này không còn phù hợp với một quân nội thành của Thủ đô. Đây là quỹ đất có thể dành cho phát triển nông nghiệp đô thị với nét đặc trưng là nông nghiệp sinh thái. Đồng thời đây cũng là quỹ đất dự trữ cho quá trình đô thị hóa. Đất chuyên dùng là 1.809,64 ha, chiếm 29,9% tổng diện tích đất toàn quận. Trong đó đất dành cho xây dựng cơ bản là 562,42 ha, diện tích đất giao thông là 386,58 ha. Đất ở là 724,28 ha, chiếm 12,85% tổng diện tích của quận, trong đó diện tích đất ở nông thôn chiếm 474,41 ha. Đất chưa sử dụng là 1246,29 ha, chiếm 20,63% diện tích đất tự nhiên toàn quận, trong đó diện tích đất bằng chưa sử dụng là 67,16 ha sẽ là một nhân tố quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các công trình công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị. Việc xây dựng các công trình mới trên địa bàn quận sẽ có thuận lợi hơn so với các quận nội thành khác về giải phóng mặt bằng cũng như ngân sách chi trả tiền đền bù đất. Quận Long Biên đang trong quá trình đô thị hóa với tốc độ khá nhanh, nhu cầu sử dụng đất rất lớn. Đồng thời cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sử dụng đất cũng sẽ có những biến động liên tục. Với quỹ đất hiện có, đặc biệt là với diện tích đất nông nghiệp và diện tích đất chưa sử dụng khá lớn, trong khoảng thời gian từ nay đến năm 2015, việc chuyển đổi chức năng sử dụng đất cho quy hoạch tổng thể trên địa bàn quận còn tương đối thuận lợi. Đây là điều kiện cho sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực và cho xây dựng cơ sở hạ tầng với quy mô, tương xứng với một quận nội thành của Thủ đô Hà Nội. Tài nguyên và khoáng sản: Với hệ thống sông Hồng và sông Đuống có thể làm cơ sở cho phát triển công nghiệp khai thác cát, đáp ứng nhu cầu vật liệu xây dựng trên địa bàn quận. Tuy nhiên, cần phải có quy hoạch và quản lý khai thác để tránh ảnh hưởng đến dòng chảy và sụt lở ở bờ sông. 1.2.2. Nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên Quận Long Biên hiện có hơn 182.000 nhân khẩu. Mật độ dân số bình quân 3.075 người/ km2, thấp hơn so với bình quân chung của toàn thành phố Hà Nội. Chính vì vậy, sức ép về nhà ở, việc làm và một số vấn đề xã hội khác trên địa bàn quận không thực sự là vấn đề bức xúc như một số quận khác của Thủ đô. Tuy nhiên, sự phân bố dân cư không đồng đều giữa các phường trong quận. Đông dân nhất là phường Ngọc Lâm với 18.377 người/ km2 nằm trong lòng thị trấn Gia Lâm cũ, địa bàn trải dài theo trục đường quốc lộ 1. Phường có mật độ dân thấp nhất là phường Cự Khối 1.247 người/ km2. Long Biên là quận mới thành lập, kinh tế đang trong giai đoạn đầu xây dựng và phát triển với nhiều dự án lớn đang được xây dựng và triển khai, nên có nhiều biến động trong quy mô dân số. Năm 2003, tốc độ dân số trung bình toàn quận là 4,24%. Tuy nhiên, tốc độ tăng cơ học cũng có sự chênh lệch rất rõ giữa các phường. Phường Thượng Thanh tốc độ dân số cơ học lên tới 23,29% trong khi đó ở một số phường lại có tình trạng tốc độ dân số cơ học âm. Dân số tăng sẽ làm tăng lực lượng lao động tham gia các hoạt động kinh tế trên các địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, dân số tăng nhanh sẽ kéo theo những yêu cầu về giải quyết việc làm, nhà ở và các vấn đề xã hội khác. Lao động là nhân tố quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế. Theo số liệu Phòng Thống kê quận Long Biên, đến 31-12-2004 dân số trong độ tuổi lao động là 126.133 người (chiếm 69,29% dân số). Đây là lực lượng lao động trực tiếp, là động lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, hiện nay quận Long Biên vẫn còn một lượng lao động chưa được huy động cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Số người chưa có việc làm năm 2004 là 7.651 người, chiếm 6,07 số người trong độ tuổi lao động. Một phần trong số người chưa có việc làm là những lao động nông nghiệp bị mất đất nông nghiệp do ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa. Trong tổng số nguồn lao động, phần lớn vẫn là lao động phổ thông, chiếm tỷ lệ 80%. Số người lao động qua đào tạo năm 2004 đạt 20% tương đương tỷ lệ chung của cả nước. Cơ cấu về trình độ lao động theo tỷ lệ: 1 đại học - 0,68 trung học chuyên nghiệp - 1,67 công nhân kỹ thuật. So sánh với tính toán của các chuyên gia về yêu cầu hiện nay phải là 1 đại học - 4 trung học chuyên nghiệp - 14 công nhân kỹ thuật thì cơ cấu lao động của quận chưa hợp lý, cần chuyển dịch theo hướng tăng nhanh số lượng lao động được đào tạo ở bậc trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Hiện nay, lao động của quận đã đáp ứng được yêu cầu công việc. Song với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì chất lượng lao động của quận chưa đáp ứng được yêu cầu. Là quận nội thành của Thủ đô, Long Biên đã bước đầu thu hút được lao động có trình độ chuyên môn cao đến làm việc tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Với tiềm năng phát triển công nghiệp và dịch vụ, quận sẽ tiếp tục thu hút được đội ngũ lao động có trình độ đến làm việc. Về cơ cấu lao động: Cùng với việc phát triển các thành phần kinh tế, lao động của quận phân bổ 30% vào khu vực kinh tế nhà nước. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước thu hút và tạo việc làm cho một bộ phận lớn lao động trên địa bàn quận (66%). Tuy nhiên, là một quận tập trung nhiều khu công nghiệp, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng số lao động tham gia làm việc trong khu vực này chiếm tỷ trọng rất nhỏ (chiếm 4%). Điều này chứng tỏ, về mặt chất lượng, lao động của quận và còn chưa đáp ứng được yêu cầu cao của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế trong những năm qua chưa có biến đổi tích cực. Lao động trong các ngành kinh tế có sự dịch chuyển từ ngành nông nghiệp sang công nghiệp nhưng vẫn chỉ là thay đổi nhỏ. Lao động trong ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ rất cao (khoảng 50% trong tổng số lao động). Lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ thấp, chưa tương xứng với quận nội thành. Trong khi lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, nhưng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn chỉ đạt khoảng 40%. Như vậy, tình trạng lãng phí lao động còn khá lớn. Số lao động này nếu được đào tạo nâng cao trình độ, sẽ là lực lượng đáp ứng cho mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quận trong những năm tới. Với tiềm năng về vị trí địa lý và đất đai, quận Long Biên đã thu hút được nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Khi tiến hành thủ tục thuê mặt bằng, các doanh nghiệp phải thực hiện cam kết sẽ tuyển dụng lao động trên địa bàn (cụ thể thuê 1 ha mặt bằng doanh nghiệp phải cam kết tuyển dụng ít nhất 10 lao động của quận). Nếu không đủ lao động, doanh nghiệp mới tuyển dụng lao động từ các địa phương khác. Về phía các doanh nghiệp, muốn tuyển dụng lao động địa phương, một mặt góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp cho lao động trên địa bàn quận, mặt khác sử dụng lao động địa phương doanh nghiệp sẽ không phải lo vấn đề nhà ở cho người lao động. Vì vậy, tuy số lượng lao động chưa có việc làm ở quận còn nhiều và tạo việc làm cho người lao động không phải là vấn đề quá phức tạp, nhưng vấn đề quan trọng là người lao động có khả năng đáp ứng yêu cầu của công việc hay không. Hệ thống cơ sở hạ tầng: Quận Long Biên bước đầu có hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật như giao thông, điện, cấp thoát nước nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của một quận nội thành. Hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội tương đối tốt; công tác phổ cập giáo dục, chăm sóc sức khỏe, thể dục thể thao và văn hóa cộng đồng đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng vẫn còn rất lạc hậu, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khả năng về thị trường và quan hệ hợp tác: Sự phát triển kinh tế của cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế trên địa bàn quận. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam và Thủ đô Hà Nội đã đạt được một số kết quả khả quan, đời sống của nhân dân được nâng cao, nhu cầu tiêu dùng các loại hàng hóa dịch vụ ngày càng phát triển nhanh chóng. Nhờ đó, thị trường đối với các loại hàng hóa và dịch vụ ngày càng phát triển và mở rộng. Khu vực nội thành Hà Nội với khoảng 3 triệu dân và hàng nghìn cơ quan, đơn vị sản xuất kinh doanh sẽ là thị trường lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ của quận. Ngoài ra, Hà Nội cũng là trung tâm, đầu mối luân chuyển hàng hóa lớn khu vực Bắc Trung Bộ và cả nước, hàng hóa được tiêu thụ trên địa bàn còn được vận chuyển đi nhiều địa phương khác. Với hệ thống giao lưu hàng hóa thuận lợi, hàng hóa sản xuất trên địa bàn quận có điều kiện tiếp cận thị trường các tỉnh lân cận trong khu vực đồng bằng Bắc Bộ, nhiều sản phẩm có phạm vi tiêu thụ trên địa bàn cả nước. Vì vậy, đối với quận Long Biên, thị trường tiêu thụ trong nước rất lớn. Đây là tiềm năng phát triển kinh tế của quận. Trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, Hà Nội nói chung và quận Long Biên nói riêng sẽ có nhiều thời cơ thuận lợi để thúc đẩy sự hợp tác kinh tế quốc tế. Ngoài thị trường tiêu thụ trong nước, các doanh nghiệp trên địa bàn quận còn có tiềm năng tiêu thụ trên thị trường thế giới, đặc biệt thị trường các nước trong khu vực. Nguồn lực tài chính và khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển: Do tốc độ đô thị hóa trên địa bàn quận tiếp tục diễn ra nhanh, cho nên quận Long Biên sẽ có khả năng thu hút nguồn lực tài chính rất lớn để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội. Long Biên là quận nội thành có vị trí rất thuận lợi cho phát triển công nghiệp và dịch vụ, nên có lợi thế thu hút các nguồn vốn tín dụng, liên doanh, liên kết và các nguồn vốn xã hội nói chung. Với nguồn đất chưa sử dụng, quận Long Biên có thể huy động vốn phát triển cơ sở hạ tầng thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất. Tóm lại, Long Biên nằm trong tam giác phát triển kinh tế phí Bắc, với các tuyến giao thông quan trọng từ Hà Nội đi các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, tạo cho quận có thế mạnh trong phát triển các ngành kinh tế. Điều kiện thời tiết khi hậu tương đối thuận lợi cho phát triển nông nghiệp - đô thị - sinh thái cũng như các ngành và các lĩnh vực khác. So sánh với các quận nội thành khác, Long Biên còn có quỹ đất phát triển đô thị. Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đang được đầu tư xây dựng đồng bộ, hiện đại. Tiềm năng đó tạo thế mạnh cho việc phát triển các khu công nghiệp, các trung tâm dịch vụ trên địa bàn cũng như tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Trên địa bàn tập trung nhiều đơn vị, doanh nghiệp của Trung ương, thành phố cùng với một số lượng lớn các cơ sở sản xuất kinh doanh của quận tạo việc làm cho lao động trong quận. Quận có nguồn nhân lực khá dồi dào, tham gia hoạt động kinh tế trên địa bàn quận, trong khu vực nội, ngoại thành và các tỉnh lân cận. Các cơ sở văn hóa, lịch sử và yếu tố truyền thống cũng là tiền đề quan trọng cho phát triển kinh tế của quận. Nhưng do sức hút của quá trình phát triển kinh tế, với tốc độ đô thị hóa nhanh, quận Long Biên sẽ phải đương đầu với một dòng di cư tự do từ các quận, huyện của thành phố và các tỉnh khác về. Tốc độ tăng dân số cơ học sẽ tạo nên sức ép nhiều mặt cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của quận. Lao động chưa qua đào tạo vẫn chiếm tỷ lệ cao và có sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu lao động cả về trình độ lao động cũng như ngành nghề, một bộ phận lao động chưa có việc làm. Lao động trong quận chưa được thu hút nhiều vào các doanh nghiệp trên địa bàn, đặc biệt doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do mới được hình thành từ huyện ngoại thành nên cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, chưa đồng bộ. Tuy khó khăn còn nhiều nhưng tiềm năng cho phát triển kinh tế - xã hội của quận Long Biên rất lớn. Điều quan trọng là khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả những tiềm năng và lợi thế hiện có cho sự phát triển kinh tế - xã hội của quận, xứng đáng với vị thế của một quận nội thành Thủ đô. Mặt khác, quận Long Biên đang trong quá trình đô thị hóa nhanh, nên sẽ phải giải quyết mâu thuẫn giữa đô thị hóa tự giác nhằm vừa đảm bảo phát huy được các nguồn lực đa dạng, vừa đảm bảo phát triển đô thị văn minh, hiện đại. Đồng thời quận Long Biên sẽ được thụ hưởng những lợi thế do ba cây cầu mới được hình thành, song cũng phải giải quyết nhiều vấn đề phức tạp về kinh tế - xã hội đặt ra trong quá trình thực hiện ba dự án này. Về vấn đề quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn quận sẽ phát sinh nhiều khó khăn, phức tạp, do quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ, do sự phát triển của nhiều loại hình doanh nghiệp trên địa bàn. Chương 2 thực trạng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận long biên từ năm 2003 đến nay 2.1. Thực Trạng CÔNG Tác QUY Hoạch Và Thực Hiện QUY Hoạch Đầu TƯ Phát Triển Các Ngành KINH Tế 2.1.1. Công tác quy hoạch, quản lý đất đai và đô thị * Công tác quy hoạch và kế hoạch, đầu tư Từ khi thành lập quận đến nay, công tác quy hoạch được các cấp ủy đảng và chính quyền quan tâm chỉ đạo. Quận ủy và Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân quận đã chủ động làm việc với lãnh đạo thành phố, các sở, ban ngành liên quan để triển khai thực hiện công tác quy hoạch. Đồng thời tiếp tục đề nghị thành phố chấp thuận điều chỉnh quy hoạch chi tiết của quận phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới. Tổ chức công bố công khai và bàn giao quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 đường 5 kéo dài, chỉnh trang phố Ngô Gia Tự; quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/200 khu đô thị mới Thượng Thanh cho các phường có liên quan để phối hợp quản lý theo quy hoạch. Công tác kế hoạch, đầu tư được chú trọng, tập trung chỉ đạo theo hướng trọng điểm, thí điểm xã hội hóa trong đầu tư, có ưu tiên; đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Tiến hành giao chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế - xã hội, giao phân bổ ngân sách hàng năm đúng quy định; khẩn trương hoàn thành các dự án chuyển tiếp, đưa vào sử dụng có hiệu quả; thực hiện rà soát các dự án đầu tư, hạn chế dàn trải và tập trung ưu tiên vốn, thủ tục hành chính cho các dự án hạ tầng kinh tế - xã hội, một số dự án trọng điểm của quận và các dự án nhằm đạt chuẩn hóa trong lĩnh vực y tế, giáo dục; các dự án đấu giá quyền sử dụng đất được tập trung chỉ đạo, triển khai tích cực. Chỉ đạo các phòng ban chuyên môn kịp thời tháo gỡ khó khăn trong quá trình thực hiện các Thông tư 03/TT-BXD và Thông tư số 04/TT-BXD hướng dẫn điều chỉnh dự toán công trình xây dựng cơ bản. Thẩm định, phê duyệt 138 dự án đầu tư với tổng số vốn 221,254 tỷ đồng; trong đó 58 dự án với nguồn ngân sách đầu tư 137,817 tỷ đồng; 80 dự án bằng nguồn vốn huy động của địa phương với số vốn 83,437 tỷ đồng. Các dự án xây dựng cơ bản vốn tập trung thành phố năm 2005 ước thực hiện 9,2 tỷ đồng/10,035 tỷ đồng (đạt 91,6% so với kế hoạch). Ngoài ra, các dự án trọng điểm trên địa bàn quận (hạ tầng khu tái định cư cầu Vĩnh Tuy, san nền trung tâm thương mại quận, khu đấu giá…) sử dụng vốn tập trung của thành phố ước thực hiện 73,5 tỷ đồng [32]. Tập trung xây dựng một số đề án, xây dựng các cơ chế thu hút đầu tư trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng chợ, trung tâm thương mại; làm rõ cơ chế điều hành quản lý… * Công tác quản lý đất đai và đô thị Công tác quản lý đất đai được quan tâm chỉ đạo và có nhiều chuyển biến tích cực ở các khu dân cư sinh sống, các khu đất nông nghiệp. Tổ chức quản lý chống lấn chiếm và phối hợp với các ngành có liên quan nghiên cứu phương án sử dụng đất có hiệu quả theo quy hoạch đã duyệt tại các khu vực trong quận. Tổng hợp, thống kê diện tích đất nhỏ lẻ, đất kẹt, đất sử dụng kém hiệu quả. Chỉ đạo các phường lập kế hoạch sử dụng, xây dựng các công trình công cộng và đấu giá quyền sử dụng đất nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách. Hoàn thành công tác kiểm kê đất đai 5 năm theo định kỳ, làm cơ sở xây dựng kế hoạch sử dụng đất năm 2006. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được tập trung tháo gỡ các vướng mắc tồn tại. Tổng số hồ sơ đã hoàn thiện và xét duyệt là 9.272/ 9.175 hồ sơ, đạt 101% so với kế hoạch. Công tác quản lý đô thị được tăng cường, duy trì thường xuyên, làm rõ trách nhiệm trong công tác quản lý trật tự xây dựng của chính quyền cơ sở, hạn chế tối thiểu các vị phạm, không để xảy ra các trường hợp vị phạm nghiêm trọng, xử lý kiên quyết và triệt để các vị phạm ngay từ đầu. Tỷ lệ các công trình xây dựng có phép trên địa bàn quận ngày càng tăng. Trong năm 2005 tiến hành kiểm tra 739 trường hợp, trong đó có 365 trường hợp có giấy phép (đạt 60,2%), 374 trường hợp vi phạm. Xử lý 25 bãi rác thải không đúng quy định tại các phường, tổ chức thu gom xử lý rác sinh hoạt, thực hiện đề án xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường [30]. 2.1.2. Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng * Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Khi thành lập quận, trên địa bàn Long Biên có 38 doanh nghiệp trung ương và thành phố. Trong đó 15 doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hóa và chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Số lượng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuy không nhiều nhưng có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và tạo việc làm trên địa bàn quận. Khối công nghiệp ngoài quốc doanh do quận trực tiếp quản lý là 123 doanh nghiệp và 1.188 hộ cá thể, gồm các ngành nghề: khai thác than, sản xuất chế biến thực phẩm đồ uống, công nghiệp dệt may, công nghiệp gỗ, sản xuất giầy dép, giấy, hóa chất, cao su, nhựa, khóa, đúc đồng, đồ gỗ, thiết bị lọc nước… Đây là những ngành sử dụng nhiều lao động và có tiềm năng phát triển mạnh trong những năm tới. Các cơ sở sản xuất tập trung chủ yếu ở các ngành chế tạo sản phẩm từ kim loại, sản xuất túi, va li, giầy dép, may mặc. Số lượng cơ sở sản xuất các ngành thuộc da, lông thú, đồ gỗ giảm do sản xuất thủ công nên khó cạnh tranh trên thị trường. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp do quận quản lý năm 2003 đạt 1.057.879 triệu đồng, tập trung chủ yếu ở các ngành thực phẩm đồ uống (chiếm 9,4%), may mặc (chiếm 2,6%), sản xuất thiết bị nghe nhìn (chiếm 13,9%), sửa chữa phương tiện vận tải (chiếm 33,1%). Năm 2004 đạt 1.171.376 triệu đồng, tăng 10,73% so với năm 2003 [31]. Đây là một tốc độ tăng trưởng thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng bình quân công nghiệp của thành phố Hà Nội (16,1%). Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp công nghiệp do quận quản lý có quy mô nhỏ, chưa tập trung đầu tư mở rộng sản xuất. Giá trị sản xuất tăng chủ yếu từ những doanh nghiệp mới thành lập trong năm 2004, 2005. Đối với các doanh nghiệp nhà nước đóng trên địa bàn quận, tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân hàng năm giai đoạn 2003-2004 là 29,67%. Giá trị sản xuất công nghiệp ở quận Long Biên chủ yếu là do kinh tế nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp, chiếm 79,6% tổng giá trị sản xuất trên địa bàn quận. Các doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh tuy số lượng lớn (chiếm 98,3% tổng số doanh nghiệp), nhưng chỉ chiếm 20,4% tổng giá trị sản xuất công nghiệp. So với tổng giá trị sản xuất công nghiệp của thành phố Hà Nội, giá trị sản xuất công nghiệp quận Long Biên chiếm tỷ trọng khá cao. Nếu chỉ tính riêng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 7,5% tổng giá trị sản xuất ngoài quốc doanh của thành phố Hà Nội (năm 2004). Tính cả khu vực nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, tỷ trọng này là 13,7%. Nguyên nhân chủ yếu là do trên địa bàn quận có các khu công nghiệp tập trung nhiều doanh nghiệp nhà nước lớn và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh hàng năm tăng nhanh, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2003-2004 là 18,5%, chủ yếu tập trung ở kinh tế cá thể và kinh tế hỗn hợp. Các ngành nghề sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh khá đa dạng và phong phú, nhưng chủ yếu vẫn là các ngành chế biến. Giá trị sản xuất của công nghiệp chế biến năm 2003 tăng 296,88% so với năm 2000 và tập trung chủ yếu vào các ngành sản xuất thực phẩm đồ uống, sản xuất trang phục, hóa chất, đồ gỗ. Một số ngành hàng có tính tập trung nhỏ như: sản xuất gỗ (ở Đức Giang), may (ở Sài Đồng)… Một số ngành nghề đang có chiếu hướng phát triển nhanh như sản xuất đồ uống, trang phục, sản phẩm từ kim loại. Bên cạnh đó có nhiều ngành nghề phát triển nhưng còn ít được quan tâm đầu tư phát triển: lắp ráp, sửa chữa, chế biến gỗ, sản phẩm từ tre nứa, sản xuất giấy… Các sản phẩm cơ khí sản xuất có sản lượng tương đối cao, sản phẩm đã có vị trí trên thị trường như: sản xuất tôn, cáp điện, phụ tùng xe máy, đúc… Đây là những sản phẩm mà thị trường đang có nhu cầu cao, kể cả thị trường của các tỉnh lân cận. Lắp ráp, sửa chữa là ngành tuy mới nhưng đang có điều kiện thuận lợi để mở rộng sản xuất với các sản phẩm: lắp ráp xe máy, đồ điện dân dụng, máy công nghiệp... như Công ty Phương Đông, Công ty Cường Hậu, Công ty Hương Thành. Hoạt động sản xuất cá thể phong phú, những ngành có thế mạnh là may, sản xuất các sản phẩm từ kim loại, chế biến lương thực, thực phẩm và sản xuất sửa chữa phương tiện vận tài khác. Số lượng các hộ sản xuất ở phường trước là thị trấn và các phường trước là các xã chênh lệch tương đối lớn, nhiều phường có tốc độ đô thị hóa cao, nhưng số hộ đầu tư vốn sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chưa nhiều, quy mô sản xuất nhỏ như phường Bồ Đề, Việt Hưng, Phúc Lợi… Các hộ cá thể có xu hướng phát triển ngành lắp đặt thiết bị viễn thông và dân dụng phục vụ các công trình xây dựng cơ bản. Đây là ngành có tốc độ tăng trưởng cao, giải quyết nhiều việc làm và có cơ hội phát triển mạnh trong những năm tới. Tổng số lao động trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp là 6.684, chiếm khoảng 8,75% lực lượng lao động ngành công nghiệp Hà Nội. Trong đó chủ yếu là lao động thuê ngoài chiếm 86,7%. Năm 2003, trên địa bàn quận chỉ có 26 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với 2.574 lao động, chiếm 36,2%; doanh nghiệp nhà nước có 2.247 lao động, chiếm tới 38,46%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh có 1.537 lao động, chiếm 23,41 tổng số lao động sản xuất công nghiệp trên địa bàn quận. Như vậy, lực lượng lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm ưu thế. So với các quận, huyện khác, lực lượng lao động trong khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh của quận Long Biên còn chiếm tỷ trọng cao, khoảng 8,3% tổng số lao động công nghiệp. Số lao động tập trung ở các ngành sản xuất trang phục chiếm 21,6%, thực phẩm đồ uống chiếm 13,2%, sản xuất sản phẩm từ kim loại chiếm 15,6%, sửa chữa các sản phẩm vật tư khác chiếm 4,5%. Trình độ lao động: công nhân kỹ thuật chiếm 55%, lao động có trình độ đại học, trung cấp chiếm 1,03%, còn lại chưa qua đào tạo nghề. Số lao động có trình độ chủ yếu tập trung ở các công ty trách nhiệm hữu hạn và các chủ hộ sản xuất cá thể. Về thu nhập: Bình quân một người lao động là 820.000 đồng/tháng. Một số ngành sản xuất sản phẩm kim loại và công nghệ thông tin thu nhập đạt 1 triệu đồng/người/tháng; sản xuất máy móc, thiết bị 1 triệu/người/tháng; sửa chữa phương tiện vận tải 920.000đồng/người/tháng… Các ngành sản xuất thực phẩm, đồ uống, trang phục, các sản phẩm từ kim loại, điện tử, hóa chất, vật liệu xây dựng là những ngành thu hút nhiều lao động. Do vậy, cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực và cần được cụ thể hóa trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội của quận. Quận Long Biên có một số ngành có lợi thế phát triển trong thời gian ngắn như khai thác cát, các sản phẩm kim loại. Tuy nhiên, do ý thức của người lao động chưa cao nên quá trình sản xuất đang đặt ra nhiều vấn đề về môi trường. Một số ngành nghề có tiềm năng phát triển dài hạn như ngành công nghiệp cảng sông, sản phẩm gỗ, lắp ráp sửa chữa phục vụ các công trình công nghiệp và dân dụng nhưng đang thiếu lao động lành nghề. Cơ sở vật chất và công nghệ của các cơ sở sản xuất công nghiệp: Hầu hết các cơ sở sản xuất có quy mô lớn thì công nghệ lạc hậu, máy móc quá cũ, trình độ tự động hóa thấp, sản xuất kém hiệu quả. Vì vậy, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém, khó có khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường trước xu thế hội nhập khu vực. Một số ít cơ sở công nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được trang bị công nghệ tương đối hiện đại và kinh doanh có hiệu quả như: Công ty May 10, Công ty Điện tử Hà Nội, Liên doanh Orion - Hanel, Liên doanh Viko, Thạch Bàn... Còn đại bộ phận các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là công nghệ cũ thanh lý hoặc công nghệ tự dựng. Hầu hết các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện về vốn để đầu tư dây chuyền công nghệ hiện đại. Các yếu tố trên đã làm cho hoạt động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp kém hiệu quả, gây ô nhiễm môi trường. Về quy mô: Vốn đầu tư cho sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhỏ do các doanh nghiệp, hộ sản xuất không đủ điều kiện về mặt bằng, thị trường... để đầu tư một cách khoa học. Vốn kinh doanh của các hộ sản xuất nhỏ, bình quân là 106,6 triệu đồng/hộ, trong đó tập trung ở một số hộ lớn như may, gia công kim khí, chế biến các sản phẩm từ kim loại, sản xuất đồ uống… cơ cấu vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào vốn cố định (trên 58%), nên khả năng thay đổi mặt hàng để phù hợp thị hiếu chậm. Quá trình sản xuất chưa có các sản phẩm có chất lượng cao. Tổng số vốn sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là hơn 817.980 tỷ đồng, trong đó vốn cố định là 560.000 tỷ đồng, chiếm 68,5% tổng số vốn. Vốn sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được hình thành bởi một số nguồn chủ yếu: nguồn vốn chủ sở hữu chiếm 71,9%, vay từ nguồn khác chiếm 19,2%, vốn vay ngân hàng chiếm 8,9%. Mức vốn đầu tư cho các ngành sản xuất ở các hộ sản xuất cá thể cũng khác nhau: sản xuất sản phẩm từ kim loại chiếm 2,7%, may mặc chiếm 9,5%, chế biến lương thực, thực phẩm chiếm 2,9%, sản xuất giường, tủ, bàn, ghế chiếm 2,9%, sửa chữa phương tiện vận tải khác chiếm 2,9%. Mặt bằng phục vụ sản xuất kinh doanh: 70% các hộ sản xuất sử dụng diện tích nơi ở làm địa điểm sản xuất, một số hộ thuê đất thổ cư của các hộ gia đình. Điều này gây ảnh hưởng lớn tới hiệu quả và khả năng đầu tư vốn để mở rộng sản xuất hoặc đổi mới công nghệ hết sức khó khăn. Khoảng 80% các đơn vị thuê địa điểm tại các doanh nghiệp nhà nước với thời gian ngắn, giá thuê cao làm ảnh hưởng tới hiệu quả và thu thập của người dân lao động, không đủ điều kiện để lập kế hoạch phát triển dài hạn. Một số có nhu cầu mở rộng sản xuất nhưng không dám thực hiện đầu tư trên mặt bằng thuê. Trên địa bàn hiện có hai khu công nghiệp Đức Giang và Sài Đồng. Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp này hầu hết là doanh nghiệp nhà nước, nhiều doanh nghiệp đã có những bước phát triển phù hợp với cơ chế thị trường: Công ty May 10, Công ty May Đức Giang, Công ty Kim khí Thăng Long… Một số đơn vị hoạt động cầm chừng, kém hiệu quả, công nghệ sản xuất cũ, ít được cải tiến, sản xuất gây ô nhiễm môi trường: Công ty xe lửa Gia Lâm, Công ty Hóa chất Đức Giang, Công ty Gạch Thạch Bàn… Một số doanh nghiệp ngoài nhà nước thuê, có doanh nghiệp cho thuê diện tích lớn với số doanh nghiệp lên tới trên 50 đơn vị (Công ty Xe lửa Gia Lâm), hoạt động trên mặt bằng như một cụm công nghiệp tập trung, nhưng không có sự quản lý của nhà nước, làm ảnh hưởng tới môi trường đô thị và quy hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Với khu công nghiệp mới hình thành: Sài Đồng B, Sài Đồng A, Đài Tư thì chỉ có khu Sài Đồng B đi vào hoạt động tương đối ổn định; khu Sài Đồng A còn nhiều diện tích chưa được sử dụng (khoảng 200 ha); khu Đài Tư chưa được khai thác… Những yếu tố này cũng làm ảnh hưởng tới việc định hướng phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của quận. * Ngành xây dựng Toàn quận có 52 doanh nghiệp xây dựng, chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Bảng 2.1. Số lượng cơ sở, lao động và giá trị sản xuất của ngành xây dựng trên địa bàn quận [16 ] Đơn vị tính 2003 2004 1. Cơ sở Cơ sở 52 54 2. Lao động Người 11.081 12.114 3. Giá trị SX Triệu đồng 260.010 291.521 4. Tổng số vốn Triệu đồng 2.086.363 2.476.524 5. Thu nhập bình quân/năm Triệu đồng 15.760 17.210 Ngành xây dựng đang được củng cố, bước đầu tổ chức tốt việc tiếp nhận và thực hiện các dự án chuyển tiếp từ huyện Gia Lâm. ủy ban nhân dân quận phê duyệt 85 dự án đầu tư. Ra quyết định chuẩn bị đầu tư 62 dự án. Các dự án được đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số lĩnh vực thiết thực phục vụ cho việc cải thiện, nâng cấp hạ tầng cơ sở, chỉnh trang đô thị. Đồng thời đã thỏa thuận vị trí, lập xong quy hoạch cơ cấu sử dụng đất khu trung tâm hành chính quận tại khu đô thị mới Việt hoạch và hoàn thành quy hoạch cơ cấu sử dụng đất trung tâm hành chính của phường mới Gia Thụy. Khởi công xây dựng các khu đô thị mới Sài Đồng (56,4 ha); khu đô thị mới Việt Hưng (210,5 ha); chuẩn bị khởi công xây dựng đô thị mới Thạch Bàn (31,69 ha) [31]. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất hiện nay của các doanh nghiệp xây dựng của quận là công nghệ thi công cũ, chỉ đủ năng lực làm thầu phụ hoặc đảm nhận các công trình nhỏ. Thực trạng này đã chứng tỏ để phát triển ngành xây dựng, vấn đề cơ bản là đầu tư vốn, tập trung mở rộng quy mô, cải tạo và đổi mới trang thiết bị, áp dụng công nghệ hiện đại cũng như việc sử dụng loại nguyên vật liệu mới trong xây dựng, đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, kiện toàn lại bộ máy tổ chức quản lý để có đủ khả năng tham gia và thắng thầu trước hết là các hạng mục xây dựng thuộc công trình ngay trên địa bàn quận. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải tích cực chuẩn bị để có thể đáp ứng tốt xu hướng phát triển mạnh của ngành xây dựng trên địa bàn quận trong những năm tới. 2.1.3. Quy hoạch phát triển ngành nông nghiệp Do sự phát triển nhanh về công nghiệp và đô thị hóa làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, nên cần có sự tổ chức sản xuất nông nghiệp hợp lý, phù hợp với quá trình phát triển đô thị và giải quyết những vấn đề bức xúc về môi trường. Phát triển nông nghiệp ở Hà Nội sẽ khác rất nhiều so với hình thức phát triển nông nghiệp tại các tỉnh khác. Nghị quyết 15/NQ-TW ngày 15/12/2000 của Bộ Chính trị về phương hướng nhiệm vụ phát triển đô thị Hà Nội thời kỳ 2001-2010 đã khẳng định: "Phát triển nông nghiệp Thủ đô theo hướng nông nghiệp - đô thị - sinh thái" [15]. Ngày 28/12/2000, ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa 9) đã thông qua Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội, nhấn mạnh: Chiến lược phát triển kinh tế Thủ đô được hoạch định dài hạn và cho từng giai đoạn, bảo đảm nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, đạt mức tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, phát huy thế mạnh của Thủ đô làm động lực cho vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và cả nước. Phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp - đô thị - sinh thái [17]. Quyết định số 60/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2001 - 2010 tiếp tục khẳng định: "Phát triển nông nghiệp theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cao cấp hóa các sản phẩm nông nghiệp theo hướng nông nghiệp - đô thị - sinh thái, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa đặc sản như rau sạch - hóa - cây cảnh, cây ăn quả, tạo môi trường bền vững trong lành cho Thủ đô Hà Nội…" [22]. Bên cạnh đó, Quyết định 108/CP của Chính phủ phê duyệt điều chỉnh không gian Hà Nội đến năm 2020 là phát triển mở rộng Hà Nội theo hướng Bắc - Tây Bắc và Tây - Tây Nam [23]. Hiện nay, số hộ nông nghiệp của quận chỉ chiếm 18,37%. Thực hiện quy hoạch phát triển Thủ đô, quận Long Biên đã triển khai nhiều dự án đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật trọng điểm: Quốc lộ 1B, cầu Phù Đổng, Thanh Trì… Nhiều khu công nghiệp ra đời, cùng với đó là các khu đô thị mới với quy mô lớn, hạ tầng kỹ thuật đồng bộ đang được khẩn trương triển khai. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, đời sống của người dân đã chuyển mình từng bước từ sản xuất nông nghiệp sang dịch vụ, công nghiệp. - Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp: Trong một thời gian khá dài, nông nghiệp có vị trí quan trọng hàng đầu trong cơ cấu kinh tế của huyện Gia Lâm cũ. Từ năm 1996, Đại hội Đảng bộ huyện Gia Lâm lần thứ 17 (1996 - 2000) đã đề ra phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp, thủ công nghiệp - nông nghiệp - thương mại, dịch vụ. Đại hội Đảng bộ huyện Gia Lâm lần thứ 18 (2001 - 2005) đã đề ra mục tiêu: "Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy tối đa nội lực, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng: Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ" [2]. Do đó, cơ cấu kinh tế bắt đầu có sự thay đổi so với trước năm 1995. Nông nghiệp không còn giữ vị trí hàng đầu nữa, mà đứng ở vị trí thứ hai sau công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Sau khi quận Long Biên được thành lập, do đặc điểm các phường (được nâng lên từ xã của huyện Gia Lâm cũ) gần sát nội thành Hà Nội (quận Hoàn Kiếm) và có các khu công nghiệp, nên số hộ phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ khá cao (trên 80%). Do vậy, từ khi tách thành quận mới, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu các ngành kinh tế giảm mạnh. Thực hiện chủ trương của Quận ủy, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân quận Long Biên về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, tập trung vào chuyển đổi những diện tích đất sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả, diện tích đất trũng, ao hồ sang nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn quả, chăn nuôi kết hợp với dịch vụ… Đến nay, đã có một số trang trại có diện tích lớn như: khu Hồ Miễu (phường Thượng Thanh), khu Hồ Thạch Bàn và Tầm Dâu (phường Phúc Đồng), khu Bể và vườn Trũng (phường Giang Biên). Số trang trại có diện tích trên 3 ha chiếm tỷ lệ 21%, còn lại chủ yếu diện tích từ 1 đến 2,5 ha, tập trung ở các phường có diện tích ao hồ lớn thuộc vùng trũng của phường Thạch Bàn, Phúc Lợi, Phúc Đồng. Việc chế biến tiêu thụ sản phẩm của các trang trại chủ yếu là tiêu thụ tại chỗ, chưa ký hợp đồng xuất khẩu. Hầu như sản phẩm chưa được chế biến, thường là bán thô, vì vậy giá cả và mức tiêu thụ thường không ổn định. Tuy việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp những năm gần đây diễn ra nhanh đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tăng thu nhập cho người dân. Mặc dù vậy, việc đầu tư cho sản xuất còn ít do thiếu vốn, gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. - Cơ cấu và sử dụng đất trong nông nghiệp: Tổng diện tích đất tự nhiên là 6038,24 ha, trong đó đất canh tác là 1.644 ha (chiếm 27,2%). Đất canh tác được chia thành 2 vùng: trong đồng và ngoài bãi. Diện tích đất trong đồng là 1.114,8 ha (chiếm 67,8%), diện tích đất vùng bãi là 529,2 ha (chiếm 32,2%). Ngoài ba phường Ngọc Lâm, Đức Giang, Sài Đồng, toàn bộ 11 phường còn lại đều có diện tích đất canh tác. Ba phường có diện tích đất canh tác không đáng kể là Ngọc Thụy, Bồ Đề và Gia Thụy (từ 20 - 40 ha), còn lại diện tích đất canh tác tập trung ở các phường Thạch Bàn, Cự Khối, Giang Biên và Phúc Lợi là những phường có diện tích đất ngoài bãi lớn. Ngoài ra, các cây rau, màu khác và các loại cây trồng có diện tích đất canh tác nhỏ, khoảng hơn 100 ha. Rau quả trồng chủ yếu ở các phường Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối và Thượng Thanh, diện tích đất trồng là 123 ha (chiếm 7% diện tích đất nông nghiệp). Các loại đất trồng mầu khác tập trung ở Thạch Bàn, Cự Khối, Thượng Thanh, diện tích là 116 ha (chiếm 7%) và ở Long Biên, Cự Khối là 128 ha (chiếm 7,5%). So với quy chuẩn, cơ cấu sử dụng đất của Long Biên có một số điểm đáng chú ý là đất nông nghiệp còn nhiều, trong đó diện tích trồng cây hàng năm trên 1.860 ha, chiếm hơn 31% diện tích toàn Quận. Nếu so diện tích đó với diện tích nghiên cứu (trừ diện tích sông Hồng và sông Đuống thuộc quận), thì tỷ lệ lên gần 38%. Đây là tiềm năng lớn để có thể tiến hành đô thị hóa theo quy hoạch bài bản, xây dựng đô thị hiện đại. Đất mặt nước nuôi trồng thủy sản cũng chiếm tỷ lệ đáng kể. Trong quá trình đô thị hóa, sẽ duy trì diện tích này để tạo môi trường sinh thái và hồ điều hòa nước mưa cho các khu đô thị. Đất cho xây dựng cơ bản và các khu, cụm công nghiệp chiếm tỷ trọng khá cao trong hiện trạng cơ cấu sử dụng đất của quận, chiếm tới trên 53%. Đất giao thông chiếm tỷ lệ thấp, chỉ gần 6% so với tổng diện tích tự nhiên của quận và hơn 7% nếu so với diện tích nghiên cứu (trừ 1017 ha và sông Hồng và sông Đuống). Trong khi Hoàn Kiếm có tỷ lệ là hơn 22% (nếu so với diện tích nghiên cứu) và so với quy chuẩn 25% thì trong tương lai cần bố trí tăng thêm rất nhiều đất dành cho giao thông. Đất quốc phòng chiếm gần 5,7%, chủ yếu thuộc khu vực sân bay Gia Lâm. Diện tích này cơ bản sẽ không thay đổi trong quy hoạch đến năm 2015. Đất ở chiếm tỷ lệ 12,84%, trong đó đất ở đô thị chỉ chiếm 2,46%. Đất sông chưa sử dụng là 1017 ha (17%), diện tích này sẽ không đổi trong quy hoạch đến 2015. Hiện trạng cơ cấu sử dụng đất của quận vẫn mang sắc thái cơ cấu sử dụng đất của một huyện ngoại thành: đất nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, đất ở đô thị và đất giao thông chiếm tỷ trọng thấp. - Hoạt động sản xuất nông nghiệp: Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2004 đạt khoảng 73,7 tỷ đồng, chiếm khoảng 1,5% tổng giá trị sản xuất của các ngành kinh tế (5.525 tỷ đồng). Giá trị sản xuất nông nghiệp có xu hướng giảm. Một trong những nguyên nhân chính là tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh làm diện tích đất sử dụng cho nông nghiệp giảm mạnh. Bảng 2.2. Giá trị sản xuất nông nghiệp trên địa bàn quận Long Biên [16] Đơn vị: Tỷ đồng, giá hiện hành) Chỉ tiêu 2004 2005 Tăng (%) Tổng giá trị (trong đó) 73,7 66,4 10% 1. Trồng trọt 27,2 25,0 9% 2. Chăn nuôi 40,9 36,7 11% 3. Dịch vụ nông nghiệp 2,8 2,3 4. Thủy sản 2,2 2,0 Cơ cấu sản xuất nông nghiệp: chăn nuôi và trồng trọt là hai ngành chính trong sản xuất nông nghiệp. Chăn nuôi đóng góp 56% giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp, trồng trọt chỉ chiếm khoảng 37%, còn lại là giá trị của ngành thủy sản và dịch vụ nông nghiệp, sản xuất lâm nghiệp có giá trị rất nhỏ. Lĩnh vực trồng trọt đã có sự chuyển đổi cơ cấu gieo trồng, diện tích trồng các loại cây có giá trị cao như rau xanh, cây ăn quả có xu hướng tăng trong khi diện tích trồng các cây lương thực có xu hướng giảm nhanh. Tuy nhiên, các loại cây trồng chưa có sự phân bố thành các vùng chuyên canh mà vẫn phân bố đan xen kết hợp giữa các loại cây trồng khác nhau, do đó chưa tạo được thế mạnh trong tiêu thụ sản phẩm. Sản xuất nông nghiệp còn mang tính nhỏ, lẻ và không tập trung. Các phường chủ yếu vẫn canh tác những loại cây trồng thông dụng, có giá trị kinh tế thấp như lúa, ngô, rau màu. Cây rau sản xuất ít và tập trung chủ yếu ở ba phường Giang Biên, Long Biên, Cự Khối. Về sản xuất những cây trồng có giá trị kinh tế cao chỉ có hai phường Cự Khối (cây Táo) và phường Ngọc Thụy (cây Khế). Diện tích gieo trồng lúa cả năm khoảng 1.500 ha, trong đó vụ xuân 800 ha, vụ mùa 700 ha, tập trung chủ yếu ở các phường Thạch Bàn, Giang Biên, Phúc Lợi, Phúc Đồng. Giống lúa trồng chủ yếu là C70, C71 và Khang Dân. Những giống lúa cho năng suất cao như lúa lai, Xi23 khó gieo trồng trên địa bàn quận. Nguyên nhân chủ yếu là do chân ruộng cao, điều kiện canh tác khó. Lúa nếp hoa vàng được trồng ở các phường Thạch Bàn, Long Biên và trồng chủ yếu để bán non làm cốm. Năng suất lúa trung bình khoảng 38 tạ/ha. Sản lượng lúa cả năm đạt 7743 tấn (năm 2003), đạt giá trị sản xuất khoảng 25 tỷ đồng. Cây ngô chủ yếu được gieo trồng ở vùng bãi sông Hồng và sông Đuống. Giống gieo trồng ngô khá đa dạng (DK888, P11, VN10…). Giống ngô lai chiếm tỷ trọng chủ yếu (75%) diện tích. Diện tích gieo trồng ngô ngoài bãi do điều kiện nước tưới khó khăn và nạn chuột phá hại nên năng suất bình quân hàng năm chỉ đạt từ 13 - 150kg/sào. Sản lượng ngô hạt cả năm 2003 đạt 3.600 tấn, giá trị khoảng 8 tỷ đồng. Diện tích trồng rau hàng năm 400 ha, trong đó diện tích rau muống khoảng 45 ha, tập trung chủ yếu ở các phường Bồ Đề, Thượng Thanh, Phúc Lợi. Diện tích rau khác có khoảng 355 ha, tập trung ở các phường Cự Khối, Long Biên, Giang Biên, Thạch Bàn. Trong tổng số 400 ha rau có khoảng 45 ha rau được gieo trồng ở những vùng, khu vực được quy hoạch sản xuất rau an toàn (phường Giang Biên, Thạch Bàn). Ngoài ra, ở Long Biên còn có trồng các cây ăn quả khác như cam, chanh, chuối, vải, nhãn, hồng xiêm, táo và trồng hoa. Tuy nhiên giá trị sản xuất thấp, chưa tương xứng với tiềm năng. Về chăn nuôi: Tổng đàn lợn trên 2 tháng tuổi toàn quận có khoảng trên 17 nghìn con, trong đó lợn nạc có khoảng 1,5 nghìn con, tập trung chủ yếu ở các phường Long Biên, Thượng Thanh, Việt hưng, Ngọc Thụy. Sản lượng xuất chuồng ước đạt 1079 tấn. Đàn trâu có khoảng 60 con, chủ yếu là trâu cày kéo, tập trung ở các phường Thượng Thanh, Giang Biên, Phúc Lợi. Đàn bò hiện có khoảng 1.740 con, trong đó bò sữa là 159 con, tập trung ở các phường Phúc Lợi, Cự Khối, Long Biên. Chăn nuôi gia cầm chủ yếu là gà vịt. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch cúm gà, số lượng đàn gia cầm bị tiêu hủy lên đến 58 nghìn con nên đến thời điểm 1/4/2004 tổng đàn gia cầm còn trên 7000 con. Nuôi trồng thủy sản: Tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản hiện có 172 ha, trong đó tập trung chủ yếu ở các phường Thạch Bàn (40 ha), Thượng Thanh (30 ha), Việt Hưng (28 ha), còn lại ở các phường khác. Diện tích mặt nước để thả cá chiếm 72%, diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản kết hợp với dịch vụ du lịch sinh thái chiếm 20%. Tuy nhiên, diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản được cải tạo đưa vào sử dụng có hiệu quả chỉ chiếm 45% diện tích, còn lại là nuôi trồng mang tính tận dụng, chưa được đầu tư. - Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp: Hệ thống tổ chức cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nông nghiệp trong điều kiện mới (nông nghiệp gắn với phục vụ nhu cầu dân cư đô thị). Những năm trước đây, cơ sở hạ tầng được đầu tư ở khu vực trong đồng như hệ thống đường giao thông nội đồng, hệ thống mương tưới, tiêu… Khu vực ngoài bãi gần như chưa được đầu tư, chỉ có vùng bãi phường Giang Biên được đầu tư hệ thống kênh tưới vào năm 2004 (2 tỷ đồng). Mức độ cơ giới hóa trong nông nghiệp còn hạn chế, sức kéo trâu bò vẫn chiếm phần lớn. Sức kéo cơ giới chủ yếu ở các loại xe kiểu công nông công suất nhỏ và một số loại xe vận tải nhỏ do Trung Quốc sản xuất. Các hợp tác xã cơ khí - cơ giới nông nghiệp hầu như không còn tồn tại, hoặc có tồn tại nhưng hoạt động không hiệu quả. Các loại hình dịch vụ nông nghiệp chưa phát triển tương xứng với tiềm năng thực tế. Đến nay toàn quận có 8 hợp tác xã nông nghiệp, trong đó có 4 hợp tác xã hoạt động khá (Giang Biên, Thượng Thanh, Việt Hưng, Thạch Bàn), 2 hợp tác xã hoạt động kém (Long Biên, Phúc Lợi). Hầu hết các dịch vụ nông nghiệp chỉ làm nhiệm vụ cung ứng giống, phân bón, thuốc trừ sâu… dịch vụ đầu ra không có và chưa được quan tâm. - Lao động trong nông nghiệp: Long Biên được thành lập trên cơ sở các phường gần nội thành và khu công nghiệp phía bắc Hà Nội nên số lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ không cao trong cơ cấu lao động của quận. Số hộ làm nông nghiệp còn khoảng 33-34 ngàn người, chiếm 50% tổng số người lao động đang làm việc trên địa bàn quận. Số người trong độ tuổi lao động chiếm 42%, số người trên độ tuổi lao động chiếm 45%, còn lại là dưới độ tuổi lao động. Do điều kiện thuận lợi tiếp giáp nội thành Hà Nội nên lao động nông nghiệp của quận có cơ hội tiếp thu và ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, do có đặc điểm chung của khu vực nông thôn thuộc huyện Gia Lâm trước đây và sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam nói chung nên chất lượng lao động nông nghiệp ở Long Biên còn thấp, trình độ kỹ thuật kém, thâm canh chủ yếu là cây lúa, chưa có tập quán, kinh nghiệm sản xuất những loại cây trồng có hiệu quả kinh tế cao như hoa, cây cảnh, cây ăn quả, rau an toàn… Điều này gây ảnh hưởng không tốt đến khả năng thực hiện phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, nông nghiệp sinh thái, phục vụ nhu cầu dân cư đô thị và thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi. 2.1.4. Quy hoạch phát triển ngành thương mại - dịch vụ Cùng với quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh và đời sống nhân dân càng được nâng cao, ngành thương mại dịch vụ trong quận đang phát triển với tốc độ nhanh, đặc biệt tại một số phương: Đức Giang, Ngọc Lâm, Bồ Đề. Năm 2004, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ ước đạt 3.554 tỷ đồng, tăng 17,5% so với năm 2003. Giá trị sản xuất ngành thương nghiệp, dịch vụ, khách sạn, nhà hàng năm 2004 ước đạt 332,8 tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2003 [31]. Năm 2005, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ ước đạt 6.031 tỷ đồng, tăng 22,2% so với năm 2004 [32]. Quận đang có chủ trương tập trung tạo điều kiện để các ngành kinh doanh kim khí, sản phẩm gỗ, bao bì… phát triển mạnh và đẩy nhanh các ngành dịch vụ như nhà nghỉ, ăn uống và y tế. - Các loại hình kinh doanh dịch vụ: Loại hình kinh doanh phổ biến ở quận Long Biên là kinh doanh tổng hợp. Các doanh nghiệp khi đăng ký đều xác định mặt hàng kinh doanh nhưng trên thực tế, những hàng hóa nào trên thị trường có nhu cầu và thu được lợi nhuận là kinh doanh. Rất ít các doanh nghiệp kinh doanh một loại hàng hóa. Đến đầu năm 2005, toàn quận có 369 doanh nghiệp hợp tác xã kinh doanh thương mại, dịch vụ và khách sạn, nhà hàng. Số doanh nghiệp kinh doanh thương mại là 286 doanh nghiệp và 20 hợp tác xã kinh doanh thương mại (do quận quản lý). Trong đó có 196 công ty trách nhiệm hữu hạn, 44 công ty cổ phần và 46 doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp tập trung chủ yếu là kinh doanh thương mại hàng phi lương thực thực phẩm và hàng hóa tổng hợp. Số doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ là 38 và khách sạn, nhà hàng là 40 doanh nghiệp. Tổng số hộ kinh doanh thương mại, khách sạn, nhà hàng là 6.059 hộ. Trong đó kinh doanh thương mại là 3.513 hộ. Trong năm 2004, có khoảng 13% trong tổng số 3.513 hộ kinh doanh thương nghiệp là bán buôn, số còn lại là bán lẻ. Các hộ bán lẻ tập trung chủ yếu kinh doanh hàng phi lương thực, thực phẩm, chiếm 82.2% trong tổng số 2.050 hộ bán lẻ. Điểm đặc biệt là số các cơ sở kinh doanh khách sạn, nhà hàng ở quận Long Biên rất nhiều, có khoảng 2.002 cơ sở kinh doanh loại hình này, chủ yếu là các hộ kinh doanh nhà nghỉ và nhà hàng. Số hộ kinh doanh là 1.962 hộ, chiếm 98% số lượng các cơ sở. Trong đó kinh doanh nhà hàng có tới 1.789 hộ. - Phân bố các cơ sở kinh doanh và lao động dịch vụ: Các cơ sở kinh doanh thương mại dịch vụ và khách sạn, nhà hàng, các doanh nghiệp chủ yếu tập trung ở phường Ngọc Lâm, Đức Giang, Gia Thụy, Bồ Đề có các trục đường lớn thuận tiện cho việc mở văn phòng giao dịch của các doanh nghiệp. Số doanh nghiệp tập trung ở 4 phường này lên đến 273 đơn vị (chiếm 3/4 số lượng các công ty, doanh nghiệp). Các hộ kinh doanh cá thể tập trung nhiều nhất ở phường Đức Giang là 1.539 hộ, chiếm 1/4 tổng số hộ kinh doanh. Tổng số lao động làm việc trong lĩnh vực dịch vụ là 11.815 người. Trong đó làm việc trong các công ty là 4.316 người, trong hợp tác xã là 149 người và 7.350 người làm việc trong các hộ cá thể. Trung bình một công ty dịch vụ có 12 lao động. - Kết quả hoạt động kinh doanh dịch vụ: Các doanh nghiệp kinh doanh thương mại, khách sạn và dịch vụ khác trên địa bàn quận (năm 2003) đã tạo ra mức doanh thu 2.906,7 tỷ đồng. Trung bình mỗi doanh nghiệp tạo ra được 7,87 tỷ đồng. Trong số doanh nghiệp kinh doanh thương mại thì các công ty trách nhiệm hữu hạn có số lượng đông nhất và cũng có mức doanh thu cao nhất. Trong năm 2003, các công ty trách nhiệm hữu hạn có doanh thu gần 2.483,2 tỷ đồng, tính trung bình một công ty có doanh thu là 10,3 tỷ đồng. Bán buôn là lĩnh vực thu nhiều lợi nhuận nhất, trung bình 1 công ty trách nhiệm hữu hạn bán ra ngần 14 tỷ đồng năm 2003. Các công ty cổ phần có mức doanh thu là 188 tỷ đồng, trung bình một công ty có doanh thu là 3,5 tỷ đồng. Các doanh nghiệp tư nhân có mức doanh thu là 221,5 tỷ đồng, trung bình một doanh nghiệp tư nhân đạt doanh thu gần 14 tỷ đồng, một hợp tác xã chỉ thu về 1,16 tỷ đồng. Đối với các hộ kinh doanh thương nghiệp, hoạt động của các hộ sôi động hơn so với hoạt động của các doanh nghiệp do số lượng mặt hàng kinh doanh đa dạng, phục vụ các nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hoặc nhu cầu xây dựng của đời sống dân cư. Tổng doanh thu của các hộ kinh doanh năm 2003 là 298 tỷ đồng, tính trung bình một hộ kinh doanh tạo ra 49,2 triệu đồng/năm. Các hộ bán lẻ hàng lương thực thực phẩm có mức doanh thu trung bình cao nhất, mỗi hộ bán ra khoảng 203 triệu đồng/năm, sau đó là các hộ bán buôn hàng phi lương thực thực phẩm 136 triệu đồng/năm và kinh doanh nhà nghỉ 146 triệu đồng/năm. - Quy hoạch mạng lưới chợ: Hệ thống cơ sở vật chất của các ngành dịch vụ quận Long Biên vẫn còn nghèo nàn lạc hậu, chưa có các công trình thương mại, dịch vụ có quy mô lớn và tầm cỡ. Hiện nay trên địa bàn quận có 47 chợ lớn, nhỏ và tụ điểm buôn bán, trong đó 3 chợ đã có dự án đầu tư xây dựng là chợ Thượng Cát, Gia Quất, Vũ Xuân Thiều. Bốn chợ cần có phương án đầu tư nâng cấp do đã xuống cấp và quá tải: chợ Ô Cách (phường Đức Giang) diện tích 1.600 m2, có 150 hộ kinh doanh. Chợ Việt Hưng (phường Việt Hưng), diện tích 3.000 m2, có 268 hộ kinh doanh. Chợ Gia Lâm (phường Ngọc Lâm), diện tích 4.751 m2, có 186 hộ kinh doanh. Chợ Mới (phường Thạch Bàn), diện tích 2.294 m2, diện tích xây dựng 690 m2 đã xuống cấp cần phải đầu tư nâng cấp với quy mô lớn hơn. Chợ Đức Hòa (phường Thượng Thanh) được xây dựng theo hình thức BOT, diện tích 1.329m2, diện tích xây dựng 564 m2, có 90 hộ kinh doanh. Số tiền thu được từ cho thuê địa điểm kinh doanh là 40 triệu đồng/năm, tiền thu từ bán vé chợ là 40,08 triệu đồng/năm. Đặc thù của các chợ là bán lẻ phục vụ đời sống hàng ngày của cán bộ và nhân dân trong khu vực, với quy mô nhỏ, cơ sở hạ tầng của các chợ đều xuống cấp, gây ra tình trạng hàng hóa chậm luân chuyển, các hộ kinh doanh phải ng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN-Hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế xã hội quận Long Biên, thành.pdf
Tài liệu liên quan