Tài liệu Luận văn Vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam hiện nay: LUẬN VĂN:
Vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho sinh viên
các trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới
phía Bắc Việt Nam hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong Văn kiện Đại hội Đảng IX Đảng ta khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết
tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa
Mác-Lênin vẫn tiếp tục là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam và là động lực tinh thần to
lớn thúc đẩy sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, tiến bước vững chắc lên CNXH ở nước ta.
Trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá hiện nay, công tác tư tưỏng, lý luận được Đảng ta đặc biệt quan tâm và coi trọng,
nhất là việc giáo dục chính trị, tư tưởng đối với thế hệ trẻ là sinh viên, học sinh. Văn kiện
Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: “Tăng cường giáo dục chính trị, t...
78 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1251 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho sinh viên
các trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới
phía Bắc Việt Nam hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong Văn kiện Đại hội Đảng IX Đảng ta khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết
tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa
Mác-Lênin vẫn tiếp tục là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam và là động lực tinh thần to
lớn thúc đẩy sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, tiến bước vững chắc lên CNXH ở nước ta.
Trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá hiện nay, công tác tư tưỏng, lý luận được Đảng ta đặc biệt quan tâm và coi trọng,
nhất là việc giáo dục chính trị, tư tưởng đối với thế hệ trẻ là sinh viên, học sinh. Văn kiện
Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: “Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
cho học sinh, sinh viên. Cải tiến việc giảng dạy và học tập các bộ môn khoa học Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp
và dạy nghề” [31, tr.110-111]. Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa IX) bàn về nhiệm vụ chủ
yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới đã chỉ ra 6 nhiệm vụ trong đó có
nhiệm vụ: “đổi mới mạnh mẽ chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lý luận,
coi trọng chất lượng và tính hiệu quả”, phải “đề cao và coi trọng giáo dục đạo đức công
dân đặc biệt là trong các trường học, trong thanh thiếu niên” [32, tr.23].
Tuy nhiên, thực tế giáo dục chính trị, tư tưởng trong đó có giáo dục lý luận Mác-
Lênin cho sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng ở nước ta trong thời gian vừa qua,
bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Trong một
bộ phận sinh viên còn tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, sống thiếu hoài
bão lập thân, lập nghiệp. Điều đó đã nói lên một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện
nay của giáo dục, như trong Văn kiện Hội nghị 6 (Khóa 9) đã chỉ ra: “Vấn đề bức xúc
nhất trong giáo dục nước ta hiện nay là chất lượng giáo dục toàn diện, trước hết là chất
lượng giáo dục chính trị, lý tưởng, đạo đức, lối sống, đặc biệt ở bậc cao đẳng, đại học”
[34, tr.40-41]. Tình hình giáo dục lý luận Mác - Lênin trong các trường cao đẳng sư
phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc cũng không nằm ngoài cái chung đó. Để giáo dục lý
luận Mác-Lênin cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc
ngang tầm vị trí của nó thì vẫn còn đứng trước những hạn chế, khó khăn cần khắc phục
đòi hỏi phải cùng với quá trình phát triển kinh tế -xã hội, nâng cao trình độ dân trí của
các tỉnh biên giới, còn phải giải quyết những vấn đề về đội ngũ giảng viên, về đổi mới
phương pháp dạy và học các môn khoa học Mác-Lênin, về cơ sở vật chất, tài liệu,
phương tiện cũng như cần phải có những hình thức, nội dung giáo dục lý luận Mác-Lênin
phù hợp hơn. Vì thế việc nghiên cứu vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho sinh viên
trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc là vấn đề cơ bản và cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục lý luận Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đại học, cao đẳng đang được nhiều người quan tâm cho
nên trong thời gian mấy năm gần đây xuất hiện nhiều bài báo, bài viết xung quanh vấn đề
này ở nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau.
Đăng trên các tạp chí, có nhiều bài quan tâm đến vấn đề này như: Tác giả Nguyễn
Lương Bằng: “Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở các trường đại học
hiện nay” Tạp chí Lý luận chính trị, số 7-2000; Tác giả Trần Tất Hùng: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục lý luận Mác-Lênin” Tạp chí Giáo dục số 30 tháng 5-2002; Tác giả
Lương Minh Cừ: “Một số ý kiến về công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên
hiện nay” Tạp chí Giáo dục số 60 tháng 6-2003; Tác giả Lương Gia Ban: Tư tưởng Hồ
Chí Minh về lý luận và học tập lý luận, Tạp chí Triết học, 1-2004; Tác giả Lê Bình: “Tiếp
tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị” Lý luận chính trị số 3-2004;
“Về phương pháp so sánh trong dạy học các khoa học Mác-Lênin” của tác giả Nguyễn
Văn Hiền, tạp chí Giáo dục số 110 tháng 3-2005…
Nghiên cứu ở trình độ luận văn thạc sĩ triết học có những luận văn: “Vai trò lý
luận đối với qúa trình đổi mới xã hội ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ triết học của
Phạm Đình Đạt 1993; “Giảng dạy triết học Mác-Lênin với việc nâng cao năng lực tư duy
biện chứng cho sinh viên các trường đại học”, luận văn thạc sĩ triết học của Hoàng Thúc
Lân 2003; “Thông tin với hoạt động giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở các trường đại học
(Qua thực tế các trường đại học ở Hà Nội”, luận văn thạc sĩ triết học của Phan Thị Thanh
Hải 2003.
Ngoài ra còn có những công trình tập thể khác: “Công tác tư tưởng và giảng dạy
lý luận trong trường đại học và cao đẳng hiện nay” do Phạm Văn Năng chủ biên, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh; “Quán triệt, vận dụng Nghị quyết Đại hội IX, nâng cao chất
lượng giảng dạy lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia Hà
Nội 2002 của Trung tâm bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh ; “Một số ý kiến trao đổi về phương pháp giảng dạy các môn khoa học lý luận
Mác-Lênin ở đại học và cao đẳng” của tập thể tác giả Lê Xuân Nam, Lê Thanh Sinh,
Nguyễn Thanh, Lương Minh Cừ, Hoàng Trung (Đồng chủ biên), Nxb TP.Hồ Chí Minh
2002; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học môn học Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh trong trường đại học” do Nguyễn Duy Bắc chủ biên, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2004…
Nhìn chung, các công trình trên đã có đóng góp trong việc nêu rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về vai trò và yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận Mác -
Lênin trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, đây là vấn đề
rộng lớn và phức tạp cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Đặc biệt là vấn đề giáo dục lý
luận Mác - Lênin cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc
cũng chưa có công trình nào đề cập một cách có hệ thống dưới góc độ triết học. Vì vậy,
chúng tôi chọn: " Vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho sinh viên các trường cao
đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam hiện nay " làm đề tài nghiên cứu
luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
a. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra của giáo dục lý luận Mác-
Lênin trong một số trường cao đẳng sư phạm biên giới phía Bắc nước ta hiện nay, luận
văn đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
lý luận Mác-Lênin cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía
Bắc.
b. Nhiệm vụ
- Phân tích để làm rõ thực chất và biểu hiện đặc thù của giáo dục lý luận Mác-
Lênin và tầm quan trọng của nó trong mục tiêu giáo dục toàn diện sinh viên các trường
cao đẳng sư phạm nước ta hiện nay.
- Làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra của giáo dục lý luận Mác-Lênin cho
sinh viên ở một số trường cao đẳng sư phạm biên giới phía Bắc.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
c. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục lý luận Mác-Lênin cho
sinh viên các trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu vấn đề giáo dục lý luận Mác-Lênin chủ yếu thông
qua con đường dạy và học các môn khoa học Mác-Lênin (Triết học Mác-Lênin, Kinh tế
chính trị Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học) ở một số trường cao đẳng sư phạm tỉnh
biên giới phía Bắc nước ta hiện nay (Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục và giáo dục lý luận Mác-Lênin. Các quan điểm của Đảng ta về giáo dục-đào
tạo và giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trong giai
đoạn hiện nay. Ngoài ra, luận văn có tham khảo, kế thừa kết quả của các công trình
nghiên cứu, bài viết có liên quan đã được công bố.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, một số phương pháp nghiên cứu khoa học: phân tích-tổng hợp, lịch
sử-lôgíc, thống kê, điều tra xã hội học cũng được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Đề tài góp phần vào việc khảo sát, phân tích thực trạng giáo dục lý luận Mác-
Lênin trong một số trường cao đẳng sư phạm biên giới phía Bắc.
- Góp phần đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được làm tài liệu tham khảo cho các
trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc nghiên cứu trong việc:
- Xây dựng tiêu chuẩn, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy
các môn khoa học Mác-Lênin ở các trường cao đẳng sư phạm các tỉnh biên giới phía Bắc
- Xây dựng kế hoạch thực hiện những hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo
đức cho sinh viên ở nhà trường, xác định tiêu chuẩn đánh giá học sinh-sinh viên.
- Xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục lý luận Mác-Lênin phù
hợp đối tượng sinh viên trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc.
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho đội ngũ giáo viên giảng dạy các môn
khoa học Mác-Lênin ở các trường cao đẳng sư phạm biên giới phía Bắc nghiên cứu trong
quá trình thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học các môn khoa học Mác-Lênin.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên
các trường cao đẳng sư phạm ở nước ta hiện nay
1.1. Một vài nét về giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên ở nước ta hiện
nay
1.1.1. Lý luận Mác-Lênin và những đặc trưng của nó
Để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con người không ngừng tác động vào
thế giới khách quan để cải tạo và chinh phục nó. Muốn làm được điều đó, con người phải
hiểu biết, phải có tri thức về thế giới nhưng những tri thức đó không có sẵn trong con
người, không được đem lại cho con người dưới dạng “bẩm sinh”. Muốn có tri thức con
người phải tiến hành một hoạt động đặc biệt - hoạt động nhận thức - một hoạt động đặc
trưng của loài người. Nhận thức được diễn ra không đơn giản thụ động, máy móc mà là
quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người một cách năng động, sáng tạo
và biện chứng. Sở dĩ như vậy bởi vì sự xuất hiện và bản chất của nhận thức luôn gắn liền
với hoạt động thực tiễn của con người. Chính thông qua quá trình hoạt động thực tiễn, cải
tạo thế giới mà nhận thức của con người mới được hình thành và không ngừng phát triển
từ thấp đến cao, từ tri thức kinh nghiệm đến tri thức lý luận.
Tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận là hai trình độ khác nhau của quá trình
nhận thức, chúng thống nhất với nhau, tác động, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau.
Trong cuộc sống, tri thức kinh nghiệm có vai trò rất to lớn, giúp con người điều chỉnh
hành vi và có những quyết sách đúng đắn, phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh lịch sử
cụ thể. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng rẽ, về
các mối liên hệ bên ngoài của sự vật, chưa nắm được cái tất yếu sâu sắc, mối quan hệ bản
chất giữa các sự vật hiện tượng. Chính vì vậy, không được xem nhẹ tri thức kinh nghiệm,
nhưng càng không được tuyệt đối hoá vai trò của nó. Nhận thức của con người cần phải
phát triển lên một trình độ cao hơn, sâu sắc, đầy đủ hơn, đó là trình độ lý luận.
Lý luận là phạm trù rộng lớn, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của tri thức
loài người. Theo sự phát triển của lịch sử, có rất nhiều cách định nghĩa và khái niệm này
ngày càng được hiểu một cách đầy đủ và phong phú hơn.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Lý luận là hệ thống những tư tưởng được khái
quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lý luận là những kiến thức
được khái quát và hệ thống hoá trong một lĩnh vực nào đó” [74, tr.544-545].
Từ điển triết học định nghĩa “Lý luận là sự tổng hợp các tri thức về tự nhiên và xã
hội tích luỹ được trong quá trình”, là “hệ thống tư tưởng chủ đạo trong một lĩnh vực tri
thức” [76, tr.526].
Từ điển triết học của nhà xuất bản Tiến bộ Matxcơva định nghĩa: “Lý luận là kinh
nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người, là toàn bộ những tri thức về thế
giới khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của các tri thức có tác dụng tái hiện trong
lôgic của các khái niệm cái lôgíc khách quan của các sự vật” [85, tr.342-343].
“Lý luận -theo Hồ Chí Minh - là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là
tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” [55,
tr.497]. Quan niệm này của Hồ Chí Minh đã góp phần làm sáng tỏ quan niệm triết học về
lý luận, nêu ra nguồn gốc, cách thức, con đường hình thành lý luận.
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về lý luận, nhưng đều thống nhất ở chỗ: Lý
luận là sản phẩm của quá trình tư duy của con người, được hình thành trên cơ sở khái
quát kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú đa dạng của con người; là tổng hợp các
tri thức về tự nhiên, xã hội được tích luỹ trong quá trình lịch sử của con người. Xét về
bản chất, lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh
những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của các sự vật hiện tượng trong một lĩnh
vực nào đó của hiện thực khách quan.
Lý luận Mác-Lênin là thuật ngữ chỉ học thuyết cách mạng do Mác-Ăngghen sáng
lập và được Lênin kế thừa, phát triển một cách sáng tạo. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác-
Lênin là sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường của giai
cấp vô sản cách mạng. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác-Lênin là sản phẩm tất yếu của những
điều kiện kinh tế-xã hội TBCN giữa thế kỷ XIX, đồng thời là sự phát triển hợp quy luật
của lịch sử tư tưởng nhân loại.
Thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác” không phải xuất hiện ngay từ đầu mà xuất hiện vào
đầu những năm 80 của thế kỷ XIX. Bản thân Ăngghen đã xác nhận “Nếu không có Mác
thì lý luận thật khó mà được như ngày nay. Vì vậy, lý luận đó mang tên của Mác là điều
chính đáng” [67, tr.428]. Nhận định trên của Ăngghen cho thấy thuật ngữ “Chủ nghĩa
Mác” và thuật ngữ “Lý luận Mác” có nội dung tương đồng nên thuật ngữ này thường
được dùng như nhau.
Vào giữa những năm 20 của thế kỷ XX, thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác-Lênin” xuất
hiện ở Nga, I.V.Xtalin đã viết “chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và
cách mạng vô sản” là sự “phát triển chủ nghĩa Mác trong những điều kiện mới” [90, tr.6],
là hình thức cao của chủ nghĩa Mác. Từ đó, thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác-Lênin” đã được
các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế thừa nhận.
ở Việt Nam, vào năm 1924 Hồ Chí Minh đã dùng thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác”:
“Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách
thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được” [53, tr.465]. Trong
tác phẩm “Đường cách mệnh”(1927), Hồ Chí Minh đã dùng thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác-
Lênin”: “Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin” [54, tr.280]. Thuật
ngữ “Chủ nghĩa Mác” và thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác-Lênin” được dùng ở nước ta từ đó
đến nay.
Để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình giai cấp vô sản với tư cách là một
giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất trong lịch sử, tất yếu phải có hệ
tư tưởng của mình, phải trang bị cho mình vũ khí lý luận trong cuộc đấu tranh giải
phóng giai cấp, giải phóng nhân loại. Như Lênin nói: “Chỉ Đảng nào được một lý luận
tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong” [59,
tr.32]. Hệ tư tưởng đó của giai cấp vô sản chính là lý luận Mác - Lênin.
Lý luận Mác-Lênin với ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị học và
CNXH khoa học là một học thuyết có hệ thống lý luận và phương pháp luận rất chặt chẽ.
Những phát kiến của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin về quan điểm duy vật về
lịch sử, lý luận về giá trị thặng dư, vai trò sứ mệnh của giai cấp vô sản là những phát kiến
có ý nghĩa vạch thời đại mở ra con đường đi lên của các quốc gia dân tộc và của cả nhân
loại. Những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng vô sản, của con đường xây
dựng XHCN, được các ông đưa ra là những định hướng quan trọng đối với sự nghiệp
cách mạng xây dựng CNXH ở các nước khác nhau trên thế giới. Lý luận Mác-Lênin là “cẩm
nang” cho các Đảng cộng sản và những người cách mạng trong quá trình suy nghĩ và tìm tòi
giải pháp để giải quyết các vấn đề lịch sử cụ thể mà cuộc đấu tranh cách mạng của mỗi nước
và của thời đại đặt ra.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã kế thừa tất cả những giá trị tư tưởng và văn hoá của nhân
loại đã có từ trước, là sự khái quát, đúc kết những kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các
lĩnh vực khác nhau. Lý luận Mác-Lênin luôn luôn gắn liền với thực tiễn phong trào cách
mạng, thực tiễn vận động của lịch sử, của sự phát triển khoa học kỹ thuật với cuộc đấu
tranh tư tưởng lý luận chống lại các học thuyết tư sản, chủ nghĩa cơ hội, xét lại, cải
lương. Sức mạnh của lý luận Mác-Lênin chính là ở chỗ gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã
hội, được kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển trong thực tiễn. Nó hoàn toàn xa lạ với chủ
nghĩa giáo điều xơ cứng, vì bản chất là học thuyết về sự phát triển, của sự phát triển, bao
hàm cả sự phát triển.
Trong thời đại ngày nay, lý luận Mác-Lênin vẫn tiếp tục thể hiện sức sống của nó
trong tiến trình nhân loại xây dựng một thế giới hoà bình và tiến bộ. Với nước ta, trong
văn kiện Đại hội Đảng IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm
xây dựng đất nước Việt nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [31, tr.83]. Lý luận Mác-Lênin cùng với tư tưởng
Hồ Chí Minh tiếp tục là “kim chỉ nam”, là động lực tinh thần thúc đẩy công cuộc đổi mới
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta
tiến bước vững chắc lên CNXH.
Lý luận Mác - Lênin có những đặc trưng sau:
Một là, tính trừu tượng hoá và tính khái quát hoá cao
Trừu tượng hoá, khái quát hoá là hai quá trình có mối liên hệ chặt chẽ không thể
tách rời nhau, chúng xâm nhập lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Thông qua các thao tác này
của tư duy mà con người có được tri thức về mối liên hệ bản chất, tính quy luật của sự
vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
Các hình thức thể hiện của lý luận nói chung, lý luận Mác-Lênin nói riêng như
khái niệm, phạm trù, các nguyên lý... đều là sản phẩm của quá trình trừu tượng hoá, khái
quát hoá cao của tư duy con người trong quá trình nhận thức thế giới.
Nếu tư duy kinh nghiệm nhờ quan sát trực tiếp mà rút ra kết luận, thì tư duy lý
luận dựa trên tri thức đã có để tạo nên tri thức mới bằng con đường trừu tượng hoá, khái
quát hoá. Để hình thành lý luận, tư duy khái quát hoá, trừu tượng hoá những tri thức kinh
nghiệm, “lọc bỏ”, “cải tạo” những hiện tượng phản ánh xa rời bản chất để từ đó hình
thành những khái niệm, phạm trù, các nguyên lý... Với sức mạnh của sự trừu tượng hoá,
khái quát hoá, lý luận trên cơ sở nắm bắt được những mối liên hệ khách quan bản chất
mà phát hiện những quy luật vận động, phát triển của các sự vật hiện tượng, đem lại cho
con người “hình ảnh chân thật của đối tượng” nhờ đó mà con người có thể cải tạo thế giới
theo yêu cầu và mục đích của mình.
Mang đặc trưng này nên lý luận Mác-Lênin là hệ thống tri thức đem lại cho con
người sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính quy luật của các mối liên hệ tất nhiên trong sự
vận động và phát triển của sự vật hiện tượng. Đây là một hệ thống tri thức lý luận khoa
học, đúng đắn cả trong lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Hệ thống lý luận này trở thành
kim chỉ nam cho con người nhận thức và cải tạo thế giới.
Hai là, tính hệ thống, lôgic, chính xác và chặt chẽ
Lý luận là một hệ thống có mối liên hệ bên trong chặt chẽ. Mỗi khái niệm, phạm
trù, nguyên lý phản ánh những khía cạnh khác nhau của sự vật hiện tượng nhưng lại có
quan hệ chặt chẽ với nhau, mang lại cho con người tri thức về sự vật hiện tượng trong
tính chỉnh thể, toàn vẹn của nó, giúp con người có cái nhìn toàn diện, chính xác về sự vật
hiện tượng. Đem lại cho con người một bức tranh chân thật về hiện thực khách quan,
tránh mọi “ảo tưởng” mù quáng mê hoặc, xuyên tạc sự thật, gạt bỏ thần bí siêu tự nhiên.
Do vậy, lý luận trở thành lý luận khoa học khi là một hệ thống mang tính chỉnh thể, toàn
vẹn, thống nhất, với khả năng phản ánh chính xác sự vật hiện tượng như nó đã tồn tại,
vận động và phát triển. Trên cơ sở đó có thể dự báo được xu hướng vận động và phát
triển của sự vật hiện tượng.
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống lý luận điển hình về tính chính xác
và lôgic chặt chẽ, có tác dụng tích cực đối với hoạt động thực tiễn của con người, làm cho
“Trí tuệ” con người tìm thấy nhiều điều kỳ diệu trong tự nhiên và sẽ tìm thấy nhiều hơn
nữa do đó làm tăng thêm quyền lực của mình đối với tự nhiên. Với đặc trưng này đòi hỏi
việc nghiên cứu lý luận Mác-Lênin không được tuỳ tiện, hời hợt, đơn giản, không thể là
sự tuỳ tiện chắp vá, cắt xén.
Ba là, tính gắn bó, liên hệ, thống nhất với thực tiễn
Thống nhất lý luận -thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận
khoa học nói chung và của lý luận Mác-Lênin nói riêng. Thực tiễn -lý luận và lý luận -
thực tiễn là những vòng khâu nối tiếp, vô tận trong sự phát triển không ngừng của cả lý
luận và thực tiễn. Lý luận thuộc lĩnh vực hoạt động tinh thần còn thực tiễn thuộc hoạt
động vật chất. Trong mối quan hệ này, theo tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, thực tiễn
đóng vai trò quyết định. Lênin còn khẳng định: thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) vì
nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà cả tính hiện thực trực tiếp. Lý luận bắt
nguồn từ thực tiễn, lý luận có tồn tại, có sức sống hay không phụ thuộc vào mức độ phù
hợp, vai trò định hướng, gợi mở, chỉ dẫn, giải quyết những vấn đề của đời sống thực tiễn.
Lý luận là sản phẩm của thực tiễn, nó gắn liền với thực tiễn nhưng lý luận một khi
đã hình thành thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo
hoạt động thực tiễn. Lý luận vạch ra phương hướng cho thực tiễn, chỉ ra phương pháp
hoạt động có hiệu quả nhất để đạt mục đích. Lý luận đem lại sức mạnh cho con người
trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Nếu không có nhận thức đúng thì không thể
có hành động đúng. Nhờ có lý luận, hành động của con người trở nên tự giác, tích cực
chủ động và tránh được tự phát, mò mẫm.
Như vậy giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng. Chúng tác động, bổ
sung làm phong phú lẫn nhau, là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của nhau. Hồ Chí
Minh đã khẳng định “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin” [55, tr.496]. Theo Hồ Chí Minh, lý luận sẽ là lý luận suông, lạc
hậu, giản đơn, không có tính khoa học nếu xa rời thực tiễn. Thực tiễn sẽ trở thành mù
quáng, tự phát nếu không có lý luận soi đường. Lý luận Mác-Lênin là sự khái quát
thực tiễn cách mạng và lịch sử xã hội, là sự đúc kết những kinh nghiệm và tri thức lý
luận trên các lĩnh vực khác nhau. Sức mạnh của nó chính là ở chỗ gắn bó hữu cơ với
thực tiễn xã hội, được kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển trong thực tiễn.
Bốn là, thống nhất giữa tính khoa học và tính Đảng
Nói tới tính Đảng là nói tới tính giai cấp, còn tính khoa học là sự phản ánh đúng
thực tế khách quan, tôn trọng sự thật. Lý luận Mác-Lênin bao hàm trong nó đặc trưng
thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học.
Lý luận Mác-Lênin là tư tưởng của giai cấp công nhân, phản ánh khách quan nhu
cầu và lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, phù hợp với nguyện vọng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới, cho nên lý luận đó đảm bảo sự
thống nhất giữa tính khoa học và tính Đảng.
Trong lý luận Mác-Lênin, tính Đảng và tính khoa học có mối quan hệ biện chứng
với nhau. Tính Đảng càng cao thì tính khoa học càng sâu sắc. Lý luận Mác-Lênin có mục
đích cao cả là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng XHCN nên nhiệm vụ quan trọng
của nó là định hướng cho con người nhận thức đúng thế giới để có thể cải tạo được thế
giới. Khi đó tính khoa học là tiền đề, cơ sở và tính Đảng giữ vai trò định hướng để loại
trừ cái cũ, cái đã lỗi thời, lạc hậu, xây dựng cái mới tiến bộ, hợp quy luật. Lênin coi chủ
nghĩa Mác-Lênin là cơ sở lý luận vững như đá hoa cương, có “sức hấp dẫn không gì
cưỡng nổi đã lôi cuốn những người xã hội chủ nghĩa của tất cả các nước theo lý luận đó,
chính là ở chỗ nó kết hợp tính chất khoa học chặt chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của
khoa học xã hội), với tinh thần cách mạng” [58, tr.421]. Do vậy, “Khoa học càng được
tiến hành một cách dũng cảm và vô tư thì nó cũng phù hợp với lợi ích và nguyện vọng
của giai cấp công nhân”
Thực tiễn cho thấy việc xuyên tạc sự thật thường gắn liền với sự xa rời lập trường,
quan điểm, lợi ích của giai cấp công nhân. Mọi cách xem xét, đánh giá hiện thực trái với
quan điểm, lập trường, lợi ích của giai cấp công nhân đều không phản ánh đúng xu hướng
phát triển của lịch sử. Xuất phát từ lợi ích của các giai cấp phi vô sản hoặc chịu ảnh
hưởng của những tư tưởng ấy sẽ không bao giờ phản ánh đúng sự thật lịch sử và như thế
sẽ không có tính Đảng và tính khoa học. Cho nên, là một lý luận, lý luận Mác-Lênin sẽ là
khoa học khi đảm bảo thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học, đây cũng là đặc trưng
cơ bản mang tính chất cách mạng, tính khoa học của lý luận Mác-Lênin.
Ngoài những đặc trưng cơ bản trên lý luận Mác-Lênin còn một số dặc trưng khác
như tính kế thừa, là hệ thống mở có thể bổ sung và phát triển...
Với ý nghĩa là lý luận khoa học, lý luận Mác-Lênin giúp cho các Đảng cộng sản -
Đội tiền phong của giai cấp công nhân hoàn thành được nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng
XHCN. Đảng ta khẳng định quyết tâm giữ vững định hướng XHCN, cho nên rất quan
tâm đến giáo dục lý luận Mác-Lênin với đầy đủ các đặc trưng trên.
1.1.2. Thực chất và biểu hiện đặc thù của giáo dục lý luận Mác-Lênin cho
sinh viên nước ta hiện nay
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt mà bản chất của nó là truyền đạt, lĩnh
hội những kiến thức và kinh nghiệm của các thế hệ loài người. Nhờ đó, các thế hệ nối
tiếp nhau kế thừa, bổ sung và phát triển những kiến thức và kinh nghiệm của thế hệ trước,
trên cơ sở đó mà nhân loại ngày càng phát triển.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: Giáo dục, đó là hoạt động nhằm tác động một cách
có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của đối tượng giáo dục để đối tượng dần
dần có được những phẩm chất và năng lực cần thiết đáp ứng được yêu cầu giáo dục đặt ra
[74, tr.282].
Dưới góc độ triết học, giáo dục được xem là một quá trình hai mặt, một mặt đó là
sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục (sự tác động của tri thức, văn hoá nhân
loại thông qua nhà sư phạm đến đời sống của học sinh, sinh viên); mặt khác (chủ yếu hơn) là
thông qua sự tác động này mà làm cho đối tượng tự biến đổi bản thân mình, tự hoàn thiện, tự
nâng mình lên qua giáo dục.
Ngày nay, giáo dục được coi là một yếu tố giải phóng tiềm năng con người, được coi
như một lực lượng sản xuất trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội, đào tạo lớp người
có đủ khả năng giải quyết các mâu thuẫn của thời đại. Phát triển giáo dục trở thành đòn bẩy
phát triển kinh tế xã hội bền vững.
Giáo dục lý luận Mác-Lênin có nghĩa là quá trình tác động vào đối tượng giáo dục
bằng cách giải thích, tuyên truyền những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, phân tích
một cách khoa học những khái niệm, những quy luật, những quan điểm... nhằm làm cho
họ nắm được những kiến thức về lý luận Mác-Lênin, trên cơ sở đó, xây dựng cơ sở khoa
học cho nhận thức và niềm tin vững chắc vào con đường đi lên CNXH và CNCS. Giáo
dục lý luận Mác-Lênin giúp hình thành và nâng cao phẩm chất chính trị và đạo đức cách
mạng, hướng dẫn đối tượng giáo dục biết vận dụng những hiểu biết ấy vào thực tiễn cách
mạng.
Giáo dục lý luận Mác-Lênin, theo Lênin, chủ yếu là đem lại cho quần chúng nhân
dân lao động những hiểu biết về quy luật phát triển của xã hội, về thế giới quan khoa học,
biến nó thành niềm tin, lý tưởng, những nguyên tắc đạo đức, giúp gạt bỏ những tàn dư
của tư tưởng cũ, lạc hậu, tiếp thu tư tưởng mới, tư tưỏng tiên tiến.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn quan tâm
đến công tác giáo dục nói chung, giáo dục lý luận Mác-Lênin nói riêng. Theo Người, giáo
dục lý luận Mác-Lênin tác động trực tiếp đến con người, đến tư tưỏng, đạo đức và khả
năng thực hành công việc của mỗi người, giúp họ khắc phục những tư tưởng lạc hậu,
nâng cao tư tưởng chính trị, tinh thần tự giác và tính tích cực trong quá trình cải tạo và
xây dựng xã hội mới.
Thực chất của giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên ở nước ta là đưa một lý
luận khoa học tiên tiến nhất xâm nhập vào lực lượng xã hội ưu tú, hình thành ở đội ngũ
trí thức tương lai của đất nước có đủ phẩm chất chính trị, bản lĩnh và trí tuệ để bảo vệ và
xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Giáo dục thông qua giảng dạy sẽ là con đường ngắn nhất và có hiệu quả nhất làm
cho giáo dục đạt đến chiều sâu vững chắc. Vì thế, tính đặc thù của giáo dục lý luận Mác-
Lênin cho sinh viên chủ yếu được biểu hiện thông qua tính đặc thù của môn học, của đội
ngũ giáo viên giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin đồng thời làm công tác giáo dục lý
luận Mác-Lênin trong các nhà trường đại học, cao đẳng ở nước ta. Cụ thể là:
Thứ nhất, đặc thù của môn học. Khoa học Mác-Lênin là một nhóm ngành khoa
học thuộc khoa học xã hội và nhân văn nghiên cứu những quy luật, tính quy luật làm cơ
sở khoa học để phản ánh và phục vụ sự nghiệp cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH
và CNCS trên phạm vi toàn thế giới. Nội dung cốt lõi của khoa học Mác-Lênin là các
quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Phương pháp nghiên cứu của khoa học
Mác-Lênin là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Hiện nay, khoa học Mác-Lênin được giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng ở
nước ta bao gồm các môn học chính: Triết học Mác-Lênin, Kinh tế chính trị Mác-Lênin,
CNXH khoa học, Lịch sử Đảng cộng sản Việt nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là các
bộ môn cứng (bắt buộc ) với thời lượng chiếm khoảng 8,5% tổng quỹ thời gian đào tạo
của một khoá học.Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu vấn
đề giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên chủ yếu thông qua việc dạy và học ba môn
khoa học Mác-Lênin cơ bản là: Triết học Mác-Lênin, Kinh tế chính trị Mác-Lênin và
CNXH khoa học.
Về nội dung, các môn khoa học Mác-Lênin là một hệ thống lý luận thống nhất của
ba môn khoa học: Triết học Mác-Lênin, Kinh tế chính trị Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội
khoa học. Trong đó: Triết học là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã
hội và tư duy, nó đem lại cho con người thế giới quan khoa học và phương pháp luận
nhận thức đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới. Kinh tế chính trị Mác-Lênin nghiên
cứu phương thức sản xuất TBCN, vạch rõ sự bóc lột của nhà tư bản với giai cấp công
nhân lao động, chỉ rõ những quy luật kinh tế chủ yếu đưa CNTB tới chỗ diệt vong, nêu
những tiền đề kinh tế và xã hội của chế độ mới được hình thành trong lòng chế độ xã hội
cũ và quá trình xây dựng và phát triển kinh tế theo định hướng XHCN. CNXH khoa học
nghiên cứu những quy luật chuyển biến từ xã hội TBCN lên CNXH và phương hướng
xây dựng xã hội mới. Quá trình xã hội hoá lao động dưới CNTB đã tạo ra cơ sở vật chất
chủ yếu cho sự ra đời có tính tất yếu của CNXH. Động lực trí tuệ và tinh thần của sự
chuyển biến này là chủ nghĩa Mác-Lênin, lực lượng xã hội thực hiện sự chuyển biến này
là giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Các môn lý luận Mác-Lênin tuy có đối tượng, phương pháp và nội dung nghiên
cứu riêng, song đều nhằm mục đích chung là trang bị cho sinh viên một hệ thống lý luận
khoa học, tiên tiến, mang bản chất của giai cấp công nhân, để sinh viên có một trình độ
nhận thức nhất định về lý luận Mác-Lênin, trên cơ sở đó hình thành niềm tin vào sự đúng
đắn của lý luận Mác-Lênin, nhất là tin tưởng vào con đường đi lên CNXH của đất nước
ta.
Thứ hai, đặc thù của đội ngũ giáo viên lý luận Mác-Lênin. Trong hệ thống giáo
dục ở nước ta, bất cứ người giáo viên giảng dạy một môn khoa học nào cũng đều phải có
phẩm chất chính trị của giai cấp công nhân, đặc biệt là ở người giáo viên lý luận Mác-Lê
nin. Yêu cầu này xuất phát từ bản chất của lý luận Mác-Lênin là thống nhất giữa tính
khoa học và tính cách mạng. Đối với người giáo viên lý luận Mác-Lênin thì phẩm chất
chính trị đòi hỏi phải là một chiến sĩ cộng sản rất mực trung thành với lý luận Mác-Lênin,
tư tưởng HCM và sự nghiệp cách mạng XHCN của dân tộc. Thực hiện và quán triệt
nguyên tắc tính Đảng là yêu cầu cơ bản, thường xuyên đối với đội ngũ này. Người giáo
viên lý luận Mác-Lênin không những phải nắm vững lý luận đó mà còn phải tin tưởng
tuyệt đối vào nó. Họ phải là người làm gương trước mọi người về phẩm chất chính trị,
lập trường của giai cấp công nhân, nếu không sẽ rất khó thuyết phục được người học.
Khác với giáo viên các môn khoa học khác, các giáoviên lý luận Mác-Lênin dù đã
là Đảng viên hay đang phấn đấu trở thành Đảng viên thì đều được coi là những chiến sĩ
của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng, nhất là trong tình hình hiện nay. Người giáo viên lý luận
Mác-Lênin phải luôn quan tâm, bám sát, nhạy cảm với tình hình chính trị xã hội, gắn lý
luận Mác-Lênin và đường lối của Đảng với thực tiễn cách mạng và đời sống.
Người giáo viên lý luận Mác-Lênin vừa phải có phẩm chất chính trị, đạo đức cách
mạng trong sáng - đó là “cái gốc cơ bản”, vừa phải có kiến thức khoa học - đó là điều
kiện cơ bản nhất để người giáo viên thực hiện thành công chức năng giáo dục của mình.
Kiến thức này đòi hỏi hai mặt: Một mặt, phải đạt trình độ nhuần nhuyễn về lý luận Mác-
Lênin; mặt khác, phải có kiến thức nhất định về các khoa học cơ bản, về khoa học bổ trợ.
Lý luận Mác-Lênin là môn khoa học lý luận chính trị - xã hội có tính trừu tượng,
khái quát hoá cao. Tính trừu tượng, khái quát hoá cao của các môn khoa học Mác-Lênin
được biểu hiện ở nhiều khía cạnh. Nhìn từ tổng thể từ đối tượng, phạm vi, phương pháp
nghiên cứu cho đến hệ thống khái niệm, phạm trù với tư cách là kết quả vận dụng phương
pháp để khảo sát đối tượng đều mang tính đặc thù đó. Chính vì vậy, để việc giáo dục lý
luận Mác-Lênin đạt hiệu quả, người giáo viên không những cần có phẩm chất chính trị,
đạo đức cách mạng, nắm vững kiến thức chuyên ngành, đa ngành, kiến thức về thực tiễn
chính trị xã hội, am hiểu và trải nghiệm thực tiễn chính trị xã hội mà còn phải có kỹ năng
phương pháp giảng dạy, kỹ năng tuyên truyền, tổ chức vận động, hướng dẫn sinh viên.
Giảng dạy lý luận Mác-Lênin không chỉ phải đảm bảo tính khoa học còn phải
đảm bảo tính Đảng, tính giai cấp sâu sắc.Tính Đảng, tính giai cấp và tính khoa học là tiền
đề tồn tại, là điều kiện thúc đẩy nhau phát triển.
Ngoài ra, tính đặc thù của giáo dục lý luận Mác-Lênin còn được biểu hiện trong
mục tiêu giáo dục toàn diện: đức, trí, thể, mỹ...cho sinh viên, giáo dục lý luận Mác-Lênin
có tầm quan trọng bao trùm để hình thành một con người phát triển toàn diện.
Điểm chú ý của giáo dục lý luận Mác-Lênin là rất nhạy cảm với mọi sự đổi thay
của môi trường xã hội, chịu ảnh hưởng trực tiếp của môi trường xã hội. Mọi sự biến đổi
của đất nước cũng như quốc tế đều có ảnh hưởng mạnh mẽ đến giáo dục lý luận Mác-
Lênin. Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và xu hướng toàn
cầu hoá đang đặt ra những cơ hội cũng như thách thức cho nền kinh tế còn kém phát triển
của nước ta. Bên cạnh đó nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN cùng với những mặt tích cực thì cũng kéo theo những hiện
tượng tiêu cực như: tình trạng suy thoái đạo đức, nạn tham nhũng, quan liêu, phân hoá
giàu nghèo...Tất cả những cái đó đều tác động rất lớn đến việc giáo dục lý luận Mác-
Lênin cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng.
1.2. Tầm quan trọng của giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên các trường
cao đẳng sư phạm ở nước ta hiện nay
Trước hết phải khẳng định vai trò của công tác giáo dục lý luận Mác-Lênin bắt
nguồn từ vai trò của lý luận Mác-Lênin đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định
rằng, nếu tiến hành cách mạng một cách tự phát thì giai cấp công nhân và nhân dân lao
động không thể lật đổ được chế độ xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới. CNXH là kết
quả hoạt động tự giác của hàng triệu người lao động. Trình độ hoạt động tự giác của quần
chúng cao hay thấp tuỳ thuộc ở trình độ giác ngộ của họ về mục tiêu cần đạt tới, về con
đường và phương pháp để thực hiện mục tiêu ấy. Chính công tác giáo dục lý luận Mác-
Lênin góp phần quan trọng vào việc nâng cao trình độ giác ngộ đó, thúc đẩy nhân dân
hoàn thành tốt những nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khi được truyền bá vào Việt nam đã tạo nên bước ngoặt vĩ
đại cho cách mạng Việt nam. Đi theo con đường của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhân dân ta,
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam đã làm nên những trang sử oanh liệt. Như
vậy rõ ràng là:
Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân
Việt nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ
nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối
cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản [52, tr.128]
Giáo dục là tương lai của dân tộc. Như Hồ Chí Minh nói “Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu”. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta nhận thức rõ tầm quan trọng của chiến
lược giáo dục đào tạo trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. Hội nghị Trung ương 4
khoá VII đã đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình phát triển giáo dục của nước
ta. Đại hội đạibiểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã đưa ra một chủ trương đúng đắn là
coi “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài” [28, tr.107]. Đến Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng
định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [31, tr.108-109].
Muốn xây dựng một xã hội mới về chất, cao hơn xã hội cũ - xã hội XHCN và
CSCN cần phải có những con người XHCN. Chính vì vậy, Đảng ta xác định, nhiệm vụ
của giáo dục Việt nam trong giai đạon hiện nay là phải “xây dựng những con người và
thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng ĐLDT và CNXH, có đạo đức trong sáng, có ý chí
kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; CNH-HĐH đất nước” “là những người kế thừa
xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ” [29,
tr.28-29].
Mục tiêu đào tạo của các trường CĐSP là đào tạo ra đội ngũ các nhà giáo tương lai
ở các cấp học mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Họ là những người làm nghề dạy
học, đây là một nghề đặc biệt, đối tượng là con người và sản phẩm cũng chính là con
người. Vì vậy, nghề dạy học được coi là một nghề cao quý nhưng cũng có trách nhiệm rất
nặng nề, luôn được cả xã hội quan tâm. Theo mục tiêu giáo dục hiện nay, sinh viên các
trường CĐSP phải đáp ứng được những yêu cầu: Có đủ năng lực chuyên môn và nghiệp
vụ (dạy hệ tiểu học với sinh viên cao đẳng tiểu học, dạy hai môn thuộc chuyên ngành đào
tạo đối với sinh viên hệ cao đẳng trung học cơ sở, làm giáo viên chủ nhiệm...); Ngoài ra,
còn phải có những phẩm chất cơ bản của giáo viên nhà trường XHCN là phải thấm nhuần
thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước, yêu CNXH, yêu học sinh,
yêu nghề, có ý thức trách nhiệm xã hội, đạo đức, tác phong người thầy giáo.
Giáo dục lý luận Mác-Lênin có tầm quan trọng đặc biệt đến việc học tập và rèn
luyện của sinh viên các trường CĐSP, đến việc giáo dục của nhà trường và đến sự nghiệp
giáo dục đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Khẳng định điều
đó là do:
Thứ nhất, giáo dục lý luận Mác-Lênin góp phần hình thành thế giới quan,
nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa và phương pháp luận khoa học cho sinh viên
Sự hình thành và phát triển thế giới quan được coi là một trong những tiêu chí
quan trọng của quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Trong thế giới
quan có sự thống nhất của tri thức, niềm tin, lý trí và tình cảm. Nhưng tri thức chỉ gia
nhập thế giới quan khi chuyển thành niềm tin và trên cơ sở có niềm tin, tri thức mới trở
thành cơ sở cho hành động. Như vậy niềm tin có vai trò rất quan trọng trong đời sống con
người, nhờ có nó, giúp con người có nghị lực, vượt mọi khó khăn trong cuộc sống để
phấn đấu cho một lý tưởng cao đẹp.
Nhân sinh quan cách mạng là hệ thống quan niệm về cuộc đời, về ý nghĩa mục
đích cuộc sống của người cộng sản. Nhân sinh quan cách mạng được hình thành trên cơ
sở thế giới quan khoa học Mác-Lênin. Theo Hồ Chí Minh: “Không có lý luận về chủ
nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng” [57, tr.92]. Sinh
viên là một loại đối tượng rất nhạy cảm, khát khao khám phá cái mới để tự khẳng định vị
thế xã hội của mình. Chính thông qua việc giáo dục lý luận Mác-Lênin sẽ là tiền đề cho
sinh viên xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan khoa học và cách mạng; xây dựng niềm
tin khoa học, củng cố định hướng chính trị, tăng cường lập trường giai cấp vững vàng,
giúp họ sống, lao động và học tập vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ văn minh, kiên trì độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Trong tình hình chính trị xã hội trong nước và quốc tế sau sự kiện sụp đổ CNXH ở
Liên xô và các nước Đông Âu đang diễn ra những diễn biến rất phức tạp. Lợi dụng sự
khủng hoảng tạm thời của các nước XHCN, các thế lực thù địch đã tấn công vào sự
nghiệp xây dựng CNXH của nước ta bằng con đường diễn biến hoà bình, được gọi là
cuộc chiến không tiếng súng để nói lên tính chất thâm độc và quyết liệt của nó. Chúng
âm mưu thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam, nhằm làm tan rã ta từ bên
trong để xoá bỏ chế độ XHCN ở nước ta: Chúng rêu rao rằng con đường đi lên CNXH
mà chúng ta lựa chọn là không thể thực hiện được, chúng vu cáo Đảng ta chuyên quyền
độc đoán, nhằm chia rẽ nhân dân với Đảng và Nhà nước; lợi dụng cuộc đấu tranh chống
tham nhũng, quan liêu để nói xấu, bôi nhọ Đảng và nhà nước nhằm tách dân với Đảng.
Đặc biệt chúng còn tấn công vào lực lượng ưu tú của xã hội, những người chủ tương lai
của đất nước- thanh niên sinh viên. Nguy hiểm nhất là chúng đánh vào chính tư tưởng,
lối sống, đạo đức của sinh viên nhằm lung lạc tinh thần kiên định CNXH của thanh niên,
sinh viên. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, công tác giảng dạy và giáo dục lý luận Mác-
Lênin phải làm nhiệm vụ giúp sinh viên hiểu rõ bản chất và cảnh giác trước những âm
mưu “diễn biến hoà bình, giúp sinh viên có sức “đề kháng” tốt, chiến thắng được âm mưu
của các thế lực thù địch.
Giáo dục lý luận Mác-Lênin không chỉ cung cấp cho sinh viên thế giới quan, nhân
sinh quan cộng sản chủ nghĩa mà còn cung cấp cho họ phương pháp nhận thức và hành
động một cách khoa học đó là phương pháp biện chứng. Ăngghen đã nói: “Toàn bộ quan
điểm của C.Mác không phải là một học thuyết, mà là một phương pháp, nó không đưa ra
những giáo điều định sẵn, mà là những điểm xuất phát cho việc nghiên cứu thêm và
phương pháp cho việc nghiên cứu này” [65, tr.545]. ở đây, Ăngghen đã nhấn mạnh điểm
giá trị đích thực của chủ nghĩa Mác là phương pháp cùng với những giá trị khác. Đến
Lênin cũng cho rằng: "Những người mác xít chắc chắn là chỉ vay mượn của học thuyết
Mác những phương pháp quý báu mà nếu không có thì không thể hiểu được những quan
hệ xã hội” [58, tr. 239]. Hồ Chí Minh sau khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác cũng nhận thấy
điểm mạnh nhất của chủ nghĩa Mác là phép biện chứng duy vật. Người nói:
Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có
ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên
có ưu điểm của nó là chính sách thích hợp với điều kiện nước ta…Tôi cố gắng
làm học trò nhỏ của các vị ấy [79, tr.134].
Có thể nói, mỗi môn khoa học trong chương trình đào tạo ở các trường CĐSP đều
góp phần hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho sinh viên ở những
mức độ khác nhau. Nhưng thông qua giáo dục lý luận Mác-Lênin sẽ cung cấp cho sinh
viên sư phạm phương pháp luận chung nhất và khoa học để giải thích tự nhiên và lịch sử
một cách đúng đắn, cũng như trang bị cho họ phương pháp luận đúng đắn trong nghiên
cứu khoa học và giảng dạy. Đối với sinh viên, nắm được tinh thần của chủ nghĩa Mác-
Lênin cũng là để tiếp thu các môn khoa học khác có hiệu quả và chất lượng cao hơn. Bởi
vì chủ nghĩa Mác-Lênin là thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung cần thiết
cho sự phát triển của các khoa học. V.I.Lênin viết: “Triết học của Mác là một chủ nghĩa
duy vật triết học hoàn bị, nó cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân
những công cụ nhận thức vĩ đại”
[59, tr.54]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: nắm được “tinh thần của chủ
nghĩa Mác-Lênin; học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-
Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những
vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta” [55, tr.497].
Như vậy, thông qua học tập các môn khoa học Mác-Lênin, ở các góc độ, khía cạnh
khác nhau của mỗi môn học đã trang bị cho sinh viên một thế giới quan duy vật biện
chứng và phương pháp luận khoa học, truyền thụ cho họ một học thuyết cách mạng triệt
để nhất, có tính khoa học và nhân văn sâu sắc nhất, giúp họ có những công cụ nhận thức
và hoạt động trong thực tiễn luôn vận động và phát triển không ngừng. Trên cơ sở đó
giúp sinh viên có thái độ đúng đắn đối với hiện thực, có phương hướng chính trị vững
vàng trong cuộc sống.
Thứ hai, Giáo dục lý luận Mác-Lênin góp phần định hướng các giá trị, chuẩn
mực tư tưởng, đạo đức lối sống mới cho sinh viên
Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ là vũ khí lý luận để cải tạo thế giới mà còn là vũ
khí lý luận để cải tạo con người. Xét về chiều sâu bản chất nhân văn, chủ nghĩa Mác-
Lênin là khoa học làm người, là khoa học góp phần hình thành phẩm chất chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống mới cho con người. Điều này đã được Hồ Chí Minh khẳng định:
Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ khi có
Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình
nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Hiểu chủ
nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu
sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là chủ nghĩa Mác-Lênin
[57,tr.554].
Phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống mới là những yếu tố cấu thành
nhân cách của con người. Công tác giáo dục lý luận Mác-Lênin là công tác giáo dục con
người, tác động đến tư tưởng, tình cảm đạo đức của sinh viên, giúp họ nâng cao trình độ
chính trị, tinh thần tự giác và tính tích cực trong sự nghiệp giáo dục của nước nhà. Giáo
dục lý luận Mác-Lênin còn giúp sinh viên hình thành hệ thống giá trị với những nội dung
mới phù hợp với sự biến đổi và phát triển của đất nước. Đó là biến những giá trị đề cao
tinh thần hy sinh xả thân vì dân, vì nước trong lịch sử hào hùng của dân tộc thành giá trị
với nội dung mới là phải làm tất cả những gì để cho dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ, văn minh; Phát huy ý thức cộng đồng, truyền thống đoàn kết, khai thác
mọi tiềm năng để nước ta thoát khỏi đói nghèo; Trong lao động, không chỉ là chăm chỉ,
cần cù mà còn phải là lao động có tri thức khoa học, có lương tâm trách nhiệm, là phải
chú ý đến năng suất, chất lượng, hiệu quả...Với tất cả những nhận thức mới về hệ thống
giá trị sẽ có tác dụng rất lớn đối với sinh viên, giúp cho họ hình thành nếp nghĩ, lối sống,
phong cách của người lao động mới đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá của nước nhà.
Giáo dục lý luận Mác-Lênin hướng vào mục tiêu giáo dục cho sinh viên phẩm chất
chính trị của sinh viên nói chung là có lòng yêu nước nồng nàn, trung thành với Tổ quốc,
với nhân dân, phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng CNXH, có ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức
đoàn kết, có tinh thần tập thể, gắn bó lý luận với thực tiễn. Thông qua giáo dục lý luận
Mác-Lênin giúp sinh viên sư phạm từng bước hình thành những phẩm chất cơ bản của
người giáo viên nhà trường XHCN.
Thứ ba, giáo dục lý luận Mác-Lênin góp phần hình thành nhân cách con người
mới xã hội chủ nghĩa, con người phát triển toàn diện
Nhân cách của sinh viên ở đây được hiểu một cách toàn diện là đức và tài, năng
lực thể chất và năng lực trí tuệ; là trạng thái tinh thần, tình cảm của mỗi người gồm: nhận
thức, tình cảm, hành động, phong thái, tính khí, lối sống của mỗi người. Đó là sự thống
nhất giữa mặt cá nhân và mặt xã hội, là thái độ ứng xử trước hiện thực cuộc sống của mỗi
con người cụ thể. Như vậy, nhân cách là tư cách và phẩm chất của con người.
Nhân cách con người mới XHCN được bộc lộ ở cả đạo đức và tài năng, phẩm chất
và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tự lập, tự chủ, có hoài bão và ước mơ, năng
động và sáng tạo bước vào cuộc sống. Để hình thành nhân cách con người mới XHCN ở
sinh viên không thể một sớm một chiều mà phải thông qua quá trình giáo dục toàn diện
trong suốt thời gian sinh viên ngồi trên nghế nhà trường sư phạm và suốt cuộc đời phấn
đấu với tư cách là người thầy giáo nhân dân. Mỗi môn khoa học được giảng dạy trong
chương trình đào tạo của nhà trường đều có vai trò của mình trong việc giáo dục và phát
triển nhân cách cho sinh viên. Trong đó, giáo dục lý luận Mác-Lênin đóng vai trò nền
tảng như những viên gạch góp phần quan trọng để hình thành nhân cách con người mới
XHCN ở sinh viên để họ có một bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức tự lập, tự chủ,
năng động và sáng tạo.
Tình cảm được coi như động lực của hành động, không có tình cảm thì không thể
có hành động, nhưng phải là tình cảm cách mạng mới có hành động đúng. Lúc này “ngọn
lửa của trái tim làm sáng lên ngọn lửa của trí tuệ”. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá
vận hành theo cơ chế thị trường hiện nay, mặt trái của nó đã hướng người ta thiên về lợi
nhuận, có khi lấy lợi nhuận để bất chấp tất cả, kể cả tình người làm cho mối quan hệ giữa
người với người, với đồng loại có nguy cơ trở nên nguội lạnh, vô cảm một cách tệ hại. Từ
đó sẽ dẫn đến chủ nghĩa thực dụng, ích kỷ trong thế hệ trẻ nhất là đối với sinh viên hiện
nay đang được hưởng cuộc sống hoà bình do thế hệ cha anh để lại mà dễ quên đi một quá
khứ hào hùng của dân tộc. Thông qua giáo dục lý luận Mác-Lênin, sinh viên sẽ được
trang bị những tri thức xã hội và nhân văn cơ bản, giúp họ nâng cao tình cảm, ý chí và
đạo đức cách mạng. Đó là ý chí học tập, trong đó có việc ra sức học tập lý luận Mác-
Lênin, để hiểu sâu sắc đường lối cách mạng của Đảng ta; có ý thức tự giác tham gia các
phong trào chính trị xã hội do Đoàn thanh niên và Hội sinh viên phát động; tự giác rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức, sống có niềm tin và hoài bão, lý tưởng cộng sản đồng thời xác
định được trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp “trồng người” của đất nước. Đây cũng
chính là mục tiêu giáo dục và đào tạo con người của nước ta hiện nay là những con người
được phát triển toàn diện, vừa có đức vừa có tài đáp ứng yêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN.
Chương 2
Giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên
các trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta hiện nay - Thực trạng và
những vấn đề đặt ra
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên
các trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc
2.1.1. ảnh hưởng của tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của các tỉnh
biên giới phía Bắc
Với tư cách là một chức năng của xã hội, giáo dục chịu sự quy định của các quá
trình khác: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội … Vì vậy, luận văn sẽ đề cập tới những yếu
tố thuộc lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của các tỉnh biên giới phía Bắc có liên
hệ, tác động đến giáo dục nói chung và giáo dục lý luận Mác-Lênin nói riêng cho sinh
viên trường CĐSP ở các tỉnh.
Hiện nay, các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta gồm 8 tỉnh thuộc vùng Đông bắc và
Tây bắc là: Cao bằng, Điện biên, Hà giang, Lào cai, Lạng Sơn, Lai châu, Quảng ninh,
Sơn La. Tổng diện tích của các tỉnh biên giới phía Bắc là 67.669 km2 (chiếm 20,6 % diện
tích cả nước), với tổng dân số tính đến đầu năm 2004 (Nguồn: Atlat Địa lý Việt nam,
Nxb Giáo dục-Tranh ảnh GD năm 2004) là 5.083.490 người, chiếm 6,4% tổng dân số của
cả nước. Đây là các tỉnh có quy mô và mật độ dân số không cao so với mức bình quân
của cả nước: 36 người/km2 (Lai châu); 43 người/km2(Điện biên); 76 người/km2(Cao
bằng); 77 người /km2(Lào cai); 89,4 người/km2(Lạng Sơn)…
Các tỉnh biên giới phía Bắc có đường biên giới dài 2.100,3 km giáp với hai nước
bạn CHDCND Lào và CHND Trung Hoa giữ một vị trí chiến lược quan trọng cả về kinh
tế, chính trị, an ninh và quốc phòng. Đặc biệt là từ tháng 11-1991 khi quan hệ Việt Trung
bình thường hoá quan hệ trở lại và mậu dịch biên giới chính thức được mở cửa thông
thương, với hệ thống các cửa khẩu quốc tế, quốc gia và nhiều cặp chợ biên giới là lợi thế
để các tỉnh phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ, góp phần phát triển kinh tế -xã hội của
các tỉnh. Trong đó phải kể đến các cửa khẩu ở Lạng Sơn, Quảng Ninh, Lào Cai… mấy
năm gần đây thực sự trở thành những cửa khẩu giao lưu kinh tế quan trọng và sầm uất
trên biên giới giữa nội địa quốc gia với nước bạn Trung quốc.
Các tỉnh biên giới phía Bắc có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, tuy nhiên, do
địa hình bị chia cắt mạnh nên có đan xen một số tiểu vùng khí hậu á nhiệt đới và ôn đới ở
vùng cao núi đất và núi đá. Cùng điều kiện khí hậu đặc trưng là các nguồn tài nguyên đa
dạng về: đất, rừng, khoáng sản, biển… sẽ là điều kiện thuận lợi cho các Tỉnh biên giới
phía Bắc phát triển các ngành công, nông, lâm, ngư nghiệp đa dạng và phong phú. Hiện
nay, với những tiềm năng kinh tế đó các tỉnh đang từng bước khởi sắc trên nhiều lĩnh
vực. Nền nông nghiệp đang chuyển dần từ thế độc canh, tự cung tự cấp sang sản xuất
kinh doanh hàng hoá. Trong công nghiệp, một số ngành có tốc độ tăng trưởng khá nhanh
và chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Bên cạnh đó, cơ cấu các thành phần kinh tế của các tỉnh
cũng có chuyển biến rõ nét. Các khu vực kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư nhân, cá thể và
các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh kiểu mới cũng được hình thành trong điều kiện
kinh tế thị trường. Khu vực kinh tế nhà nước tăng trửơng với tốc độ nhanh và ngày càng
khẳng định vị trí vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển kinh tế và tạo điều
kiện để thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế của các tỉnh.
Những thành tựu về kinh tế-xã hội của các tỉnh đã góp phần làm cho tình hình
chính trị ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao, trong đó
phải kể đến sự thay đổi diện mạo cuộc sống của đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa.
Với kết quả của công cuộc xoá đói giảm nghèo, số hộ đói nghèo ở các tỉnh biên giới phía
Bắc đã giảm. Cụ thể: Hà giang năm 1997 có 34% số hộ đói nghèo, 1998 giảm xuống còn
28,3%, 1999 còn 22,2% và 2002 đánh giá theo tiêu chí mới, tỷ lệ đói nghèo còn 18%.
Lào cai năm 2000 có 29,96% số hộ đói nghèo, 2003 toàn tỉnh còn 13,3% số hộ đói
nghèo. Lạng Sơn năm 2003 còn 12,5% số hộ đói nghèo. Cùng với những thành tựu đó, hệ
thống điện, đường, trường, trạm được xây dựng tới các địa phương đã thực sự đem ánh
sáng văn hoá của Đảng đến với đồng bào. Trước những thành tựu đó, đồng bào các dân
tộc rất tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Với truyền thống cách mạng, yêu nước, đoàn
kết, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào các dân tộc ở các tỉnh biên giới phía Bắc đang
quyết tâm xây dựng vùng biên cương ngày càng giàu mạnh.
Về văn hoá-giáo dục, với những thành tựu đạt được trong kinh tế và sự quan tâm
đến sự nghiệp phát triển giáo dục, các tỉnh biên giới phía Bắc đã thực hiện tốt nhiệm vụ
xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, nâng cao dân trí cho đồng bào các dân tộc. Đến
nay các tỉnh biên giới phía Bắc đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và
phổ cập giáo dục tiểu học, tỷ lệ người dân biết chữ tăng lên, số trẻ em đi học đúng độ tuổi
và tốt nghiệp tiểu học ngày càng tăng. Trình độ dân trí của đồng bào các dân tộc được
nâng lên so với trước đây. Phổ cập giáo dục THCS bắt đầu được thực hiện từng bước ở
các tỉnh biên giới phía Bắc. Đã có những giáo viên người dân tộc thiểu số có trình độ ĐH
và sau ĐH, đây là một nguồn nội lực quan trọng để phát triển giáo dục và nâng cao trình
độ dân trí cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở cả những vùng sâu vùng xa và vùng khó
khăn.
Chính sách đầu tư cho giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu ở các tỉnh
bgpb đã tác động đến sinh viên các trường CĐSP. Chủ trương không thu học phí đối với
sinh viên các trường sư phạm đã giúp nhiều sinh viên thuộc diện chính sách, diện nghèo,
học giỏi có điều kiện được đi học ở các trường CĐSP của tỉnh. Nhiều sinh viên đã khắc
phục khó khăn trong điều kiện sống xa nhà để học tập tốt. Nhờ có chính sách ưu tiên
ngành giáo dục, đặc biệt là chính sách thu hút giáo viên vào phục vụ sự nghiệp giáo dục ở
vùng sâu vùng xa, những năm gần đây đã tạo sức hấp dẫn đáng kể đối với học sinh tốt
nghiệp PTTH nhất là con em các dân tộc thiểu số ở các vùng khó khăn trong tỉnh. Số
lượng học sinh PTTH thi tuyển sinh vào trường ngày càng nhiều, làm chất lượng đầu vào
của các trường được nâng cao, tuyển được nhiều học sinh giỏi vào ngành sư phạm của
tỉnh. Đồng thời góp phần giải quyết được tình trạng thiếu giáo viên trong những năm qua.
Hiện nay các tỉnh đang đi vào chuẩn hoá, nâng cao trình độ giáo viên phổ thông. Đời
sống vật chất và tinh thần của giáo viên trong những năm gần đây đã được ổn định và cải
thiện hơn, do đó đã tạo ra động lực cho sinh viên các trường CĐSP yên tâm học tập phấn
đấu rèn luyện trở thành người giáo viên tương lai.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, điều kiện thuận lợi và những thành tựu đạt
được trong những năm qua thì nền kinh tế các tỉnh vẫn đứng trước nhiều khó khăn, trở
ngại và thách thức. Đó là nền kinh tế cơ bản vẫn là nền sản xuất nhỏ, phân tán. Trình độ
lực lượng sản xuất và trình độ khoa học kỹ thuật còn thấp, cơ cấu kinh tế chậm đổi mới.
Các điều kiện vật chất-kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội còn thiếu hụt và lạc
hậu. Lực lượng lao động của các tỉnh biên giới phía Bắc khá dồi dào, số lao động trong
độ tuổi chiếm trên 50 % tổng dân số, nhưng lực lượng lao động của các tỉnh chủ yếu là
lao động nông nghiệp, tính đến năm 2002 vẫn chiếm trên 80% lao động mỗi tỉnh (Lạng
Sơn 82%; Cao bằng 89,3%; Hà giang 93,17%). Mặt khác, chất lượng nguồn nhân lực và
trình độ của lao động các tỉnh nhìn chung còn ở trình độ thấp, số lao động qua đào tạo
chiếm tỷ trọng rất nhỏ, số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao ít.
Trong khi đó mức sống và điều kiện sống của đồng bào ở các xã vùng cao, vùng
xa, vùng biên giới còn gặp rất nhiều khó khăn. Các điều kiện để phát triển y tế, giáo dục,
văn hoá, xã hội còn nhiều hạn chế. ở một số địa phương trong các tỉnh còn tồn tại các tập
quán sinh hoạt cũ. Giữa các hộ dân cư, giữa các cộng đồng hoặc giữa thành thị và nông
thôn có sự chênh lệch về mức sống, điều kiện sống từ đó nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc
về mặt xã hội. Cũng từ khi các tỉnh bước vào thời kỳ đổi mới và chuyển sang kinh tế thị
trường, việc mở cửa biên giới, thông thương với nước bạn Trung Quốc, cũng như mở
rộng giao lưu kinh tế thu hút các nguồn lực từ bên ngoài, các tỉnh có cơ hội hơn để phát
triển nhanh các ngành công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ. Tuy nhiên cũng đã
làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Số người đi lại qua biên giới tương đối đông để làm
ăn, buôn bán, tham quan, du lịch… Đồng thời tình trạng buôn lậu, trốn thuế, buôn hàng
quốc cấm đều diễn ra phức tạp. Cùng với đó là sự nảy sinh một số tệ nạn xã hội khác như
ma tuý, gái mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới đã tác động và ảnh hưởng
không nhỏ đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Các tỉnh biên giới phía Bắc là nơi cư trú của hơn 30 dân tộc, với nhiều nhóm địa
phương ở nhiều ngữ hệ khác nhau. Bên cạnh đồng bào dân tộc Kinh là đồng bào các dân
tộc ít người gồm những dân tộc Nùng, Tày, Dao, Hoa, Sán chay, H.Mông và một số dân
tộc ít người khác chiếm hơn 70% dân số của các tỉnh. Mỗi dân tộc có những sắc thái
riêng trong phong tục tập quán cũng như đời sống văn hoá tinh thần, từ đó tạo nên nền
văn hoá phong phú, đa dạng. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, những
tập tục lạc hậu được loại bỏ dần và tăng cường đẩy mạnh nếp sống mới trong đời sống
nhân dân. Tuy nhiên, đây là một quá trình lâu dài, bởi vì các tục lệ, nghi lễ trong sinh đẻ,
hôn nhân, ma chay… và các hình thức tín ngưỡng, các quan niệm truyền thống còn tồn
tại trong đồng bào rất đa dạng, phức tạp. Cũng chính từ những phong tục tập quán lạc
hậu, những lễ nghi phiền phức đã góp phần làm hạn chế trình độ nhận thức, khả năng
hiểu biết và sự tiếp cận những yếu tố tích cực, tiến bộ của một bộ phận không nhỏ trong
đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là ở các xã vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh trình độ
dân trí còn thấp, còn chênh lệch so với các vùng tập trung dân cư như thị trấn, thị xã. Bên
cạnh đó các thế lực thù địch lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo, phao tin đồn nhảm, gieo rắc
mê tín dị đoan trong đồng bào các dân tộc thiểu số để chống lại Đảng và Nhà nước ta.
Những hiện tượng đó gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống của đồng bào, ảnh
hưởng đến tình hình an ninh trật tự và tốc độ phát triển kinh tế xã hội ở khu vực và cả
nước.
Trong những năm qua, ở những vùng sâu vùng xa của các tỉnh biên giới phía Bắc,
do địa hình phức tạp và dân cư sống thưa thớt rải rác nên nhiều xã vẫn chưa có điện, chưa
có đường ô tô đến xã và chưa có trạm bưu điện và dịch vụ công cộng khác như chưa có
hệ thống thông tin liên lạc và cả loa truyền thanh công cộng…làm cho hoạt động văn
hoá, tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, khoa học kỹ
thuật khó đến được với người dân và đó cũng là những trở ngại lớn đối với quá trình xây
dựng và phát triển kinh tế -xã hội. Do nền nông nghiệp sản xuất giản đơn thu hút cả lao động
trẻ em, dẫn đến tình trạng trẻ em bỏ học thất học còn nhiều, làm cho tỷ lệ mù chữ của nhiều
huyện, nhiều dân tộc trong các tỉnh còn tồn tại, nhiều người còn chưa biết tiếng nói phổ
thông. Đời sống kinh tế, văn hoá xã hội như vậy ảnh hưởng rất lớn đến đặc điểm tư duy,
tâm lý của sinh viên các trường CĐSP.
Tóm lại, tình hình phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục của các tỉnh biên giới phía
Bắc đã tác động đến việc giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên các trường CĐSP có
cả mặt thuận lợi và cả khó khăn. Một mặt, việc phát triển kinh tế văn hoá, giáo dục ở các
tỉnh biên giới phía Bắc đã chứng minh cho đường lối đúng đắn và sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước ta. Nhân dân các tỉnh biên giới phía Bắc và sinh viên CĐSP phấn khởi, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên CNXH, con đường ĐLDT và
CNXH, mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Những điều
đó góp phần khơi dậy ở sinh viên lý tưởng hoài bão lập nghiệp kiến quốc bằng sự nghiệp
“trồng người” của mình. Mặt khác, tình hình kinh tế -xã hội đang biến đổi từng ngày từng
giờ có ảnh hưởng phức tạp đến tâm lý con người nói chung và người học nói riêng. Đây
là vấn đề bức xúc và là mối quan tâm của tất cả các lực lượng giáo dục trong nhà trường
khi làm công tác giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên các trường CĐSP biên giới
phía Bắc.
2.1.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục lý luận Mác-Lênin
cho sinh viên
Để đáp ứng được yêu cầu của cách mạng Việt nam trong thời kỳ mới, hơn lúc nào
hết, sự nghiệp giáo dục phải có nhiệm vụ cải tạo toàn bộ hệ thống giáo dục, khắc phục
những yếu kém lạc hậu trì trệ của hệ thống đó, mở ra hướng đi mới cho sự nghiệp giáo
dục toàn diện.
Xuất phát từ thực tiễn phát triển giáo dục - đào tạo hiện nay, tại Hội nghị lần thứ 6
Ban chấp hành Trung ương khoá IX Đảng ta đã chỉ ra những yếu kém bất cập, trong đó nổi
lên vấn đề bức xúc nhất trong giáo dục nước ta hiện nay là “chất lượng giáo dục toàn diện,
trước hết là chất lượng giáo dục chính trị, lý tưởng, đạo đức lối sống, đặc biệt ở bậc cao
đẳng, đại học” [33, tr.40-41].
Giáo dục đào tạo phải gắn liền dạy chữ với dạy nghề, trong đó dạy người là mục
đích cao nhất. Coi trọng trí tuệ tài năng, lấy đạo đức làm gốc, tất yếu phải nâng cao chất
lượng dạy và học lý luận Mác-Lênin và tư tưỏng Hồ Chí Minh ở các trường đại học, cao
đẳng. Công tác giảng dạy-học tập lý luận Mác-Lênin nói riêng, công tác giáo dục lý luận
Mác-Lênin nói chung là một nội dung thuộc bản chất của nhà trường XHCN, cùng với
các bộ môn khoa học và các lĩnh vực giaó dục khác phải góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục và đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài:
Thực hiện giáo dục toàn diện, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo
dục, nhất là trong các trường cao đẳng,đại học; đặc biệt chú trọng giáo dục tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống, bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu
quê hương, gia đình, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, bản lĩnh chính trị, lòng nhân
ái, ý thức tôn trọng pháp luật, lối sống văn hoá, tác phong công nghiệp, tinh
thần học hỏi, chí tiến thủ, lập thân lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn; đào
tạo lớp người lao động năng động, sáng tạo, có sức khoẻ, có kiến thức, làm
chủ kỹ năng nghề nghiệp, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên nắm bắt
thành tựu mới về khoa học và công nghệ [33, tr.46-47].
Theo tinh thần chỉ đạo của Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá IX
về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới là cần phải “đổi
mới mạnh mẽ chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lý luận, coi trọng chất
lượng và tính hiệu quả”, phải “đề cao và coi trọng giáo dục đạo đức công dân đặc biệt là
trong các trường học, trong thanh thiếu niên” [32, tr.23]. Nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị tạo nên sự thống nhất cao hơn nữa trong
Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân đó là nhiệm vụ của công tác lý luận trong tình hình mới.
Nhằm triển khai thực hiện nghị quyết Trung ương lần thứ năm khóa IX, cần thiết
phải thực hiện nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy, học tập các môn khoa học
Mác-Lênin trong các trường đại học và cao đẳng. Ban khoa giáo Trung ương đã phối hợp
với Bộ GD& ĐT xây dựng đề án nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy và học tập
các môn khoa học Mác-Lênin. Ngày 24-6-2002 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định
số 494/QĐ-TTg phê duyệt đề án "Một số biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả
giảng dạy, học tập các bộ môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các
trường đại học, cao đẳng". Đây là cơ sở chỉ đạo để việc giảng dạy, học tập các môn khoa
học Mác-Lênin ở các trường đại học, cao đẳng ngày càng được nâng cao và chuẩn bị cho
những bước phát triển tiếp theo.
Bộ GD&ĐT đã phối hợp với Ban khoa giáo Trung ương, Ban Tư tưởng-Văn hoá
Trung ương chỉ đạo việc xây dựng chương trình, đề cương, giáo trình đổi mới phương
pháp của các môn học, các chế độ chính sách đối với lĩnh vực giáo dục này cùng với các văn
bản hướng dẫn thực hiện để tạo môi trường thuận lợi cho công tác giáo dục lý luận Mác-
Lênin ở các trường đại học, cao đẳng.
Để khẳng định vị trí của các môn khoa học Mác-Lênin trong các trường đại học,
cao đẳng, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 02/2004QĐ-BGD&ĐT về
việc thi cuối khoá các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo quyết định
này các trường cao đẳng sẽ tổ chức thi từ năm học 2005 theo công văn hướng dẫn của
Bộ.
2.1.3. Sự tác động của đội ngũ làm công tác giáo dục lý luận Mác-Lênin trong
nhà trường
Giáo dục là quá trình chịu ảnh hưởng tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách
quan trong môi trường đầy biến động. Sản phẩm giáo dục là thành quả chung của nhiều
lực lượng giáo dục, mỗi lực lượng giáo dục có những tác động ở mức độ và bình diện
khác nhau. Các tác động này theo hai hướng: Tích cực khi có nhiều lực lượng cùng tham
gia giáo dục, với những tác động theo cùng một hướng, chúng sẽ hỗ trợ nhau tạo nên
bước nhảy vọt về chất trong nhận thức, thái độ, tổ chức, hành vi của các đối tượng giáo
dục. Tiêu cực khi nhiều lực lượng tham gia có tác động ngược chiều, mâu thuẫn nhau làm
hạn chế kết quả giáo dục, thậm chí gây “phản giáo dục”. Chính vì vậy các nhà giáo dục
phải chú ý đến tính phức tạp, tính biện chứng của quá trình giáo dục để tìm ra phương
pháp giáo dục thích hợp và có hiệu quả.
Nói đến đội ngũ làm công tác giáo dục lý luận Mác-Lênin, trước hết phải nói tới
đội ngũ giáo viên Mác-Lênin. ảnh hưởng của đội ngũ giáo viên Mác-Lênin đối với việc
giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên là rất quan trọng. Muốn sinh viên nắm vững hệ
thống tri thức khoa học Mác-Lênin, hình thành được niềm tin vào CNXH, vào đường lối
đổi mới thì trước hết họ phải được thuyết phục bởi đội ngũ giáo viên về cả năng lực
chuyên môn, phương pháp sư phạm lẫn phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng.
Ngoài đội ngũ giáo viên lý luận Mác-Lênin, trong nhà trường còn có Phòng tổ
chức-quản lý HS-SV có chức năng trực tiếp quản lý HS-SV, có những biện pháp có tính
định hướng giáo dục lý luận, tác động đến sinh viên thông qua các hoạt động ngoài giờ
lên lớp hoặc kết hợp với đội ngũ giáo viên các môn khoa học Mác-Lênin để quản lý về ý
thức tổ chức, kỷ luật, diễn biến tư tưởng chính trị của HS-SV. Sự phối kết hợp đó góp
phần tác động đến việc giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên, xác lập được phương
hướng chính trị đúng, bảo đảm ổn định về tư tưởng, tạo được nề nếp, kỷ cương trong học
tập, sinh hoạt, nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo của nhà trường. Có thể nói, những tri
thức các môn khoa học Mác-Lênin mà sinh viên được học sẽ được bổ sung hoàn thiện,
được củng cố thông qua các hoạt động tổ chức, quản lý và phát động phong trào của
phòng tổ chức-quản lý HS-SV.
Tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên ở các trường
CĐSP cũng có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức và
giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên. Trong giai đoạn hiện nay, đứng trước những
diễn biến phức tạp của thế giới hiện nay, Đoàn thanh niên cùng với Hội sinh viên luôn
phát huy vai trò là lực lượng xung kích cách mạng, là trường học XHCN của tuổi trẻ Việt
nam. Thông qua những hình thức, phương pháp hoạt động ngày càng thiết thực và phong
phú, đã có tác động hiệu quả tới tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của sinh viên, góp phần
nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận Mác-Lênin.
Một lực lượng giáo dục quan trọng nữa là đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. Họ là
những người có năng lực chuyên môn, tốt, có kinh nghiệm làm công tác giáo dục, quản lý
sinh viên, có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình công tác và có uy tín trước sinh viên và tập
thể sư phạm. Họ là người thay mặt hiệu trưởng quản lý một lớp học, gần gũi và sát sao
với sinh viên nhất về mọi mặt. Với tư cách là giáo viên chủ nhiệm, họ phải đứng ra điều
phối, tổ chức các hoạt động giáo dục cùng với các lực lượng giáo dục khác một cách có
hiệu quả nhất.
2.1.4. Sự tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta và ảnh hưởng của các nhân tố quốc tế
Môi trường giáo dục trong xã hội hiện đại ngày nay không khép kín trong một gia
đình, một nhà trường, một địa phương mà là cả xã hội sôi động với nền kinh tế thị trường
đang mở cửa nhìn ra thế giới trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá. Mặt khác với sự bùng
nổ của thông tin ngày nay đã đưa ra một hệ thống thông tin đa dạng, nhiều chiều đang tác
động hàng ngày, hàng giờ vào thế hệ trẻ. Đó là những yếu tố khách quan tác động đến
giáo dục nói chung, giáo dục lý luận Mác-Lênin nói riêng, đòi hỏi các nhà giáo dục phải
tính đến để có giải pháp phát huy mặt tích cực, thuận lợi, hạn chế những mặt tiêu cực của
nó.
Thứ nhất, sự tác động của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đến giáo
dục lý luận Mác - Lênin cho sinh viên
Khi nền kinh tế của nước ta chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh
tế thị trường đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhưng đồng thời cũng làm nảy sinh những
yếu tố tiêu cực, tác động đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có lĩnh vực giáo dục.
Một mặt kinh tế phát triển sẽ tạo ra những điều kiện cần thiết để trang bị, thúc đẩy sự
nghiệp giáo dục phát triển, mặt khác, nền kinh tế đó làm cho thị trường lao động được
mở rộng, nhu cầu học tập tăng lên, đòi hỏi giáo dục phải phục vụ đắc lực cho nó, phải kịp
thời điều chỉnh cơ cấu và qui mô, nâng cao trình độ đào tạo đáp ứng nhu cầu nhân lực ngày
càng cao. Nền kinh tế thị trường tác động vào thế hệ trẻ ngày nay, họ trở nên tích cực, tự
giác, năng động hơn trong học tập, quan tâm hơn đến kết quả học tập để có thể đáp ứng được
yêu cầu của nền kinh tế đầy tính năng động này.
Nền kinh tế thị trường do chịu sự tác động của quy luật giá trị, động lực của nó là
lợi nhuận. Xét về bản chất, giáo dục XHCN không thống nhất với định hướng giá trị của
kinh tế thị trường. Nền kinh tế này làm thay đổi quan niệm về giá trị, lối sống của sinh
viên, giảm đi tác dụng của giáo dục tư tưởng chính trị đạo đức và giáo dục lý luận Mác-
Lênin. Đảng ta đã xác định: "Kinh tế thị trường có những mặt tiêu cực, mâu thuẫn với
bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là xu thế phân hoá giàu nghèo quá mức, là tâm lý sùng
bái đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm"[26, tr.72]. Bên cạnh thúc đẩy nền kinh
tế phát triển mạnh mẽ thì nền kinh tế thị trường cũng dẫn đến sự phân hoá sâu sắc về thu
nhập trong nhân dân, dẫn đến sự chênh lệch về hưởng thụ đời sống vật chất và tinh thần
trong nhân dân, làm tăng thêm sự cách biệt về cơ hội học tập giữa các tầng lớp dân cư.
Trước những diễn biến thực tế đó, tác động đến sinh viên làm ảnh hưởng đến niềm tin đối
với lý tưởng công bằng, bình đẳng, nhân ái của CNXH. Vì vậy, giáo dục cần phải định
hướng quan niệm về các giá trị, bồi dưỡng phẩm chất nhân cách mới, năng lực mới và
đảm bảo công bằng về cơ hội học tập của mọi người.
ở nước ta, nền kinh tế thị trường đang ở giai đoạn sơ khai, mang nhiều yếu tố tự
phát. Hiệu lực quản lý của Nhà nước còn thấp, vừa chưa phát huy đầy đủ sức mạnh của
nền kinh tế thị trường, vừa chưa hạn chế được nhiều mặt tiêu cực của nó. Những hiện
tượng tiêu cực của xã hội như nạn tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính và những tệ
nạn xã hội khác phát triển nghiêm trọng đã kéo theo sự biến đổi trong tâm lý và nếp nghĩ
của con người. Con người chạy theo lợi nhuận trước mắt, không quan tâm đến lợi ích lâu dài,
nảy sinh chủ nghĩa cá nhân,không quan tâm đến lợi ích của người khác. Lối sống thực dụng,
chạy theo đồng tiền, chạy theo thị hiếu tầm thường của không ít người làm nảy sinh các tệ
nạn xã hội như sống xa hoa truỵ lạc, buôn bán ma tuý, sử dụng thuốc lắc… đã có tác động
xấu đến dư luận xã hội, làm cho nhiều người dao động, giảm sút niềm tin, nhận thức không
đúng về chủ nghĩa Mác-Lênin và CNXH, với đường lối chủ trương, chính sách đổi mới của
đất nước. Những yếu tố này đều ảnh hưởng đến tư tưởng của sinh viên vì họ xuất thân từ
nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, lại đang trong giai đoạn còn bị phụ thuộc gia đình cả về
kinh tế lẫn kinh nghiệm sống vì thế không thể không ảnh hưởng cách sống, cách suy nghĩ và
hành động của các nhóm người trong xã hội và của gia đình.
Thứ hai, ảnh hưởng của các nhân tố quốc tế đến giáo dục lý luận Mác - Lênin
cho sinh viên
Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, theo đánh giá của Đại hội Đảng IX thì:
Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có
bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá
trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách
quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia…Đấu tranh dân tộc và đấu
tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt…Thế giới đứng trước những vấn đề
toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không
có sự hợp tác đa phương như: bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ về
dân số, đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế… [31,
tr.64-65].
Trong bối cảnh đó, các nước vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau để phát triển và
bảo vệ lợi ích quốc gia. Xu thế toàn cầu hoá kinh tế cùng với việc phát triển các phương
tiện truyền thông như mạng viễn thông Internet đã tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu và
hội nhập văn hoá, đồng thời cũng diễn ra cuộc đấu tranh để bảo tồn bản sắc dân tộc.
Nhưng, tình hình quốc tế ảnh hưởng lớn nhất đến giáo dục lý luận Mác-Lênin vẫn là sự
sụp đổ chế độ XHCN ở Liên xô và Đông Âu dẫn đến sự khủng hoảng hệ thống XHCN
trên thế giới.
Đứng trước những biến đổi của thế giới, thế hệ trẻ hiện nay có ý thức hơn về tầm
quan trọng của vấn đề hoà bình và ổn định, của môi trường, dân số, trăn trở với cái nghèo
của đất nước, ý thức được về việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong sự mở cửa với
bên ngoài, biết tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại, có ý thức vươn lên để nắm
được khoa học và công nghệ hiện đại…Nhưng đứng trước sự khủng hoảng của các nước
XHCN cũng tác động đến lòng tin vào CNXH dẫn đến dao động về định hướng chính trị
trong thế hệ trẻ.
Như vậy, bối cảnh của thời đại vừa tạo thời cơ lớn, vừa đặt ra những thách thức;
vừa có những ảnh hưởng tích cực, vừa có những ảnh hưởng tiêu cực đến công tác giáo
dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên.
2.1.5. Đặc điểm sinh viên các trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới
phía Bắc
Trong thời kỳ biến đổi phức tạp của nền kinh tế thị trường, khoa học và công
nghệ, thông tin phát triển mạnh mẽ dẫn đến sự biến đổi sâu sắc trên mọi mặt đời sống xã
hội kéo theo sự biến đổi về tâm lý, tư tưởng của thế hệ trẻ Việt Nam. Sinh viên các
trường CĐSP ở các tỉnh biên giới phía Bắc cũng như sinh viên các trường đại học và cao
đẳng trong cả nước, bên cạnh những nét tâm lý, tư tưởng nói chung của truyền thống dân
tộc, còn mang những nét dấu ấn của thời đại. Có thể thấy một số đặc điểm nổi bật sau:
- Đây là tầng lớp xã hội đặc biệt vừa mang đặc điểm của tầng lớp trí thức vừa
mang đặc điểm của tầng lớp thanh niên. Họ chủ yếu là học sinh vừa tốt nghiệp trường
phổ thông trung học, ở độ tuổi từ 18 đến 22, đang ở giai đoạn trưởng thành về thể chất và
xã hội. Đây là lứa tuổi giàu ước mơ hoài bão nhưng ít hướng tới lý tưởng cao cả, chỉ lưu
tâm đến những nhu cầu thiết thực như có ý thức học tập rèn luyện với mong muốn khi ra
trường có công ăn việc làm ổn định.
- Lứa tuổi dồi dào thể lực, trí tuệ, thích tìm tòi cái mới, ưa sáng tạo. Đây cũng là
lứa tuổi phát triển tình cảm phong phú.
- Đa số sinh viên tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên
CNXH, vào công cuộc đổi mới, có nhiều sinh viên tích cực phấn đấu để được đứng trong
hàng ngũ của Đảng. Mong muốn tự khẳng định mình nên rất tích cực tham gia các hoạt
động xã hội, nhiệt tình hăng hái trước những khó khăn và thử thách trong học tập và cuộc
sống.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, sinh viên chủ yếu thực hiện nhiệm vụ chính là
học tập, nhiều sinh viên chưa trải qua thực tiễn lao động sản xuất, chiến đấu...cho nên ở
họ còn thể hiện rõ sự thiếu vốn sống, sự trải nghiệm cuộc đời biểu hiện như: bồng bột,
chủ quan, dễ hoang mang, dao động khi gặp khó khăn, tiếp thu thông tin ít chọn lọc,
hướng tới các giá trị mới hiện đại nhưng chóng quên quá khứ, truyền thống... Đây là đặc
điểm mà khi giáo dục lý luận Mác-Lênin cho họ cần phải chú ý để có nội dung, hình thức
giáo dục phù hợp mới đạt hiệu quả.
Từ khi nước ta chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, sinh viên có xu
hướng chú trọng về chuyên môn và xem nhẹ mặt phẩm chất chính trị. Một bộ phận sinh
viên định hướng chính trị - xã hội còn mờ nhạt, niềm tin chưa vững chắc, ý thức tổ chức
kỷ luật và trách nhiệm công dân chưa cao. Nhìn nhận con người và các hiện tượng xã hội
một cách siêu hình, cực đoan.
Ngoài những đặc điểm chung như đã nêu trên, do ảnh hưởng của điều kiện kinh tế,
văn hoá, xã hội của các tỉnh biên giới phía Bắc, sinh viên CĐSP ở các tỉnh biên giới phía
Bắc còn có những đặc điểm riêng.
Do sống ở biên giới, sinh viên các trường CĐSP biên giới phía Bắc được kế thừa
truyền thống và có ý thức sâu sắc về việc bảo vệ, giữ gìn an ninh biên cương của Tổ
Quốc. Ngoài ra, sinh viên còn mang những phẩm chất, lối sống tốt đẹp của người dân tộc
miền núi như: hiền lành, thật thà, chăm chỉ…. Trong môi trường sư phạm, sinh viên chấp
hành tốt những quy định của nhà trường, lễ phép với thầy cô giáo, thân ái với bạn bè. Do
điều kiện sống và học tập của nhiều sinh viên khó khăn từ những năm học phổ thông nên
biểu hiện ở các em là có tinh thần vượt khó rất cao.
Các trường CĐSP biên giới phía Bắc là những trường đào tạo đa hệ. Đối tượng
tuyển sinh đầu vào rất đa dạng, điểm chuẩn đầu vào tính theo vùng miền khác nhau, trong
khi đó khoảng cách về chất lượng giáo dục giữa các vùng thành thị và vùng nông thôn,
đặc biệt là vùng sâu vùng xa có sự chênh lệch rất lớn. Đặc điểm này ảnh hưởng đến tính
không đồng đều về trình độ nhận thức của sinh viên CĐSP các tỉnh biên giới phía Bắc.
Đặc biệt, sinh viên là người dân tộc thiểu số chiếm hơn 70 %, trong đó có những sinh
viên ở vùng sâu, vùng xa. Do sử dụng tiếng mẹ đẻ (Tày, Nùng..) một cách phổ biến trong
cuộc sống nên so với những sinh viên dân tộc Kinh, những sinh viên này có khả năng tiếp
thu, diễn đạt, giao tiếp bằng tiếng phổ thông là hạn chế hơn, ảnh hưởng đến khả năng
nhận thức kiến thức của sinh viên, nhất là đối với những môn học trừu tượng như môn
Triết học Mác-Lênin.
Các sinh viên ở những vùng miền khác nhau thuộc nhiều thành phần dân tộc khác
nhau, khi đến trường mang theo những phong tục tập quán, lối sống, đời sống tâm lý của
vùng quê mình, nên có khó khăn bước đầu trong việc đưa sinh viên vào nền nếp chung
của nhà trường. Do điều kiện sống ở miền núi biên giới còn nhiều khó khăn, nghèo nàn
lạc hậu, cùng với việc cập nhật thông tin rất hạn chế đã phản ánh vào ý thức của sinh viên
ở vùng sâu vùng xa là hiểu biết xã hội hạn hẹp, còn những tàn dư của nếp nghĩ, cách sống
lạc hậu. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc sinh viên tiếp nhận tri thức Mác-Lênin
là khoa học tiên tiến được xây dựng và luôn phải chứng minh bằng những thành tựu khoa
học hiện đại.
Do còn quen với cách tư duy ở phổ thông, cộng với đặc thù tư duy thiên về trực
quan của người miền núi, sinh viên gặp khó khăn khi tiếp thu những môn học mang tính
trừu tượng hoá cao như các môn khoa học Mác-Lênin. Giao tiếp trong môi trường sống
của đồng bào miền núi là ít va chạm, hướng nội là chủ yếu nên biểu hiện trong học tập
của sinh viên là sự rụt rè, thiếu mạnh dạn, chậm chạp.
Trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của cơ chế thị trường, lại là những tỉnh
miền núi, biên giới, việc buôn bán qua lại với nước bạn diễn ra nhộn nhịp, bên cạnh sự
phát triển về kinh tế thì cũng kéo theo những tệ nạn xã hội như cờ bạc, ma tuý, rượu
chè… Dẫn đến hiện tượng có một bộ phận nhỏ sinh viên sao nhãng việc học tập và rèn
luyện.
2.2. Thực trạng giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên các trường cao
đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta hiện nay
2.2.1. Thực trạng giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin
Thứ nhất, về số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ giáo viên các môn khoa học
Mác-Lênin trong 7 trường CĐSP biên giới phía Bắc, tính đến 31-5-2005 (Xem phụ lục 1)
cho thấy: đội ngũ giáo viên các môn khoa học Mác-Lênin của nhiều trường CĐSP biên
giới phía Bắc là còn thiếu về số lượng, đặc biệt là về chất lượng của đội ngũ giáo viên
Mác-Lênin. Do đa số các trường CĐSP biên giới phía Bắc mới được nâng cấp lên trình
độ cao đẳng (Trừ CĐSP Quảng Ninh được nâng lên từ năm 1980, còn lại các trường
khác: Lạng Sơn 1997; Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai 10-2000, Điện Biên 12-2000) nên
giáo viên Mác-Lênin chủ yếu có trình độ cử nhân. Trong tổng số giáo viên các trường
CĐSP biên giới phía Bắc tính đến năm học 2004-2005 có số tiến sĩ là: 3; thạc sĩ 212 / 860
GV, chiếm 25,8%. Trong đó, số giáo viên Mác-Lênin ở các trường CĐSP biên giới phía
Bắc có trình độ thạc sĩ mới chiếm 10 %, còn nhiều trường cho đến thời điểm năm học
2004-2005 chưa có giáo viên Mác-Lênin đạt trình độ thạc sĩ (Lạng Sơn, Lào cai, Điện
Biên, Sơn La)
Chiếm 45,8% giáo viên Mác-Lênin ở các trường là người dân tộc thiểu số. Về độ
tuổi, 70 % giáo viên ở độ tuổi từ dưới 30 tuổi đến 40 tuổi. Nếu so với nhiều trường đại
học (theo dự thảo báo cáo tổng kết 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX
của Bộ GD&ĐT số giáo viên dưới 35 tuổi rất thấp chiếm 12%) thì đội ngũ giáo viên
Mác-Lênin ở các trường CĐSP biên giới phía Bắc đang được trẻ hoá. Đội ngũ này được
đào tạo cơ bản tại ba trung tâm giáo dục lớn là ĐHSP Thái Nguyên, ĐHSP Hà Nội và
ĐH Quốc gia. Thế mạnh của đội ngũ này là trẻ, khoẻ, nhiệt tình, nhanh nhạy và sáng tạo.
Tuy nhiên, hạn chế của đội ngũ giáo viên trẻ là còn thiếu kinh nghiệm giảng dạy, trình độ
chuyên môn chưa cao. Đội ngũ giáo viên có độ tuổi trên 40 đến 50 tuổi chiếm 30% đồng
thời là những Đảng viên có số tuổi Đảng nhất định là điểm tựa vững chắc cho đội ngũ
giáo viên trẻ, nhất là về kinh nghiệm giảng dạy và phẩm chất chính trị, đạo đức cách
mạng. Song hạn chế của đội ngũ này về trình độ ngoại ngữ và tin học rất hạn chế, kiến
thức chuyên môn, theo thời gian, nếu không được thường xuyên củng cố bồi dưỡng thì dễ
bị mai một, lạc hậu, việc tiếp cận và ứng dụng phương pháp giảng dạy hiện đại chậm
chạp, khó khăn.
Đội ngũ giáo viên Mác-Lênin các trường CĐSP biên giới phía Bắc thực hiện
nhiệm vụ giảng dạy tất cả các môn khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với số
lượng là trên 10 môn học trong chương trình đào tạo CĐSP. Đội ngũ giáo viên Mác-
Lênin còn tham gia vào công tác giáo dục trong "Tuần sinh hoạt công dân-sinh viên " đầu
khoá, đầu năm học, tham gia các tuần thi tìm hiều pháp luật, thi Ôlimpic các môn khoa
học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tham gia công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
trong các đợt học tập Nghị quyết của Đảng, các phong trào thi tìm hiểu về các sự kiện
chính trị xã hội nhân các dịp kỷ niệm…góp phần đảm bảo cho việc giáo dục lý luận Mác-
Lênin cũng như hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng trong nhà trường đi đúng định
hướng phát triển của đất nước.
Trong những năm gần đây, Bộ GD&ĐT luôn quan tâm, chỉ đạo việc thực hiện kế
hoạch nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên Mác-Lênin, chú trọng việc đổi mới phương
pháp giảng dạy để dần nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy-học các môn khoa học Mác-
Lênin trong các nhà trường. Đảng uỷ, Ban giám hiệu các nhà trường luôn tạo điều kiện
để giáo viên các môn Mác-Lênin tham dự những đợt tập huấn, bồi dưỡng do Bộ GD&ĐT
tổ chức; tăng cường quản lý dạy và học các môn Mác-Lênin trong nhà trường. Đây chính
là những điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Mác-Lênin
các trường CĐSP biên giới phía Bắc.
Do yêu cầu của việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho sinh viên, nhận
thức được trách nhiệm trong việc nâng cao chất lượng giáo dục lý luận Mác-Lênin, nhiều
giáo viên đã vượt khó khăn vươn lên trong tự bồi dưỡng, giảng dạy và nghiên cứu khoa
học.Trong những năm gần đây, số lượng giáo viên đi học cao học đã tăng đáng kể, một
số giáo viên tích cực học tập ngoại ngữ, vi tính để đáp ứng yêu cầu giáo dục trong giai
đoạn mới. Điều này góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy lý luận
Mác-Lênin các trường CĐSP biên giới phía Bắc.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu tài liệu chuyên ngành, việc cập nhật thông tin để nâng
cao trình độ chuyên môn cũng như để bổ sung tài liệu thực tiễn vào bài giảng của đội ngũ
giáo viên chưa thường xuyên, liên tục. Điều này do nhiều nguyên nhân: hạn chế về trình
độ của bản thân giáo viên; thiếu những phương tiện hỗ trợ cần thiết như sách báo chuyên
ngành, những phương tiện thông tin hiện đại.
Giáo viên Mác-Lênin các trường CĐSP biên giới phía Bắc hầu như không đi thỉnh
giảng như giáo viên ở các Thành phố lớn, nguồn thu nhập chủ yếu dựa vào lương và phụ
cấp theo quy định của Nhà nước, nên đời sống còn gặp khó khăn. Để tăng thu nhập, giáo
viên chạy theo số lượng giờ dạy và giảng dạy kiêm môn, điều đó ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng giờ dạy.
ở nhiều trường CĐSP biên giới phía Bắc (Lào cai, Cao bằng, Điện Biên, Sơn La)
còn tình trạng chưa có Tổ Mác-Lênin độc lập (nằm trong Tổ các bộ môn chung trực
thuộc Ban giám hiệu nhà trường), thể hiện tính chuyên môn hoá chưa cao, điều này cũng
ảnh hưởng không nhỏ đến nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy Mác-Lênin.
Do đội ngũ giáo viên trẻ chiếm số đông, nên công tác phát triển Đảng trong đội ngũ
giáo viên Mác-Lênin ở các trường CĐSP biên giới phía Bắc còn có tiến độ chậm. Số lượng
giáo viên Mác-Lênin là Đảng viên còn ít (Trường CĐSP Lào Cai: 14,2%; Trường CĐSP
Điện Biên: 22,2%) (xem phụ lục 1) ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng giáo
viên Mác-Lênin về mọi mặt cũng như đến việc nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận Mác-
Lênin trong nhà trường.
Về phương pháp giảng dạy
Trong những năm gần đây, việc dạy và học các môn khoa học Mác-Lênin ở các
trường CĐSP biên giới phía Bắc đã từng bước thực hiện theo hướng chuyển dần từ việc
truyền đạt tri thức thụ động, sang lối giảng đối thoại, gợi mở; chú trọng dạy cho sinh viên
phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống, phát triển năng lực cá
nhân sinh viên; tăng cường tính chủ động, tự chủ của sinh viên trong quá trình học tập,
hoạt động tự quản trong nhà trường. Bước đầu ở một số trường đã xây dựng quy trình lên
lớp theo phương pháp mới gồm các bước: giáo viên yêu cầu sinh viên tự đọc tài liệu
trước ở nhà - Lên lớp sinh viên tập trung nghe giảng và chủ động ghi chép bài giảng -
Sinh viên tự hệ thống bài dưới sự định hướng của giáo viên - Sinh viên ôn tập thường
xuyên. Theo phương pháp học tập mới này, sinh viên phải nghiên cứu giáo trình trước
khi lên lớp, trong giờ học sinh viên thảo luận sôi nổi, nâng cao chất lượng giờ dạy. Với
phương pháp học mới, sinh viên được đọc nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn, thảo luận nhiều
hơn.
Giáo viên chú trọng hướng dẫn sinh viên vận dụng kiến thức vào thực tiễn, kết
hợp giảng dạy lý luận với giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức nâng cao trình độ nhận
thức, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho sinh viên.
Tuỳ theo đối tượng, điều kiện cụ thể, yêu cầu của mỗi bài, giáo viên bước đầu chú
ý kết hợp sử dụng nhiều hình thức phong phú, sinh động như vừa diễn giải vừa lấy ví dụ
chứng minh, vừa thuyết minh vừa nêu vấn đề, vừa sử dụng đèn chiếu, mô hình sơ đồ
bước đầu gây hứng thú cho sinh viên. Nhưng phương thức này còn ít được giảng viên
thực hiện (chủ yếu là tiết thao giảng hoặc tiết đăng ký giáo viên giỏi) vì giáo viên phải
mất nhiều thời gian chuẩn bị, kinh phí không có, lại không có chế độ khuyến khích.
Khâu kiểm tra, thi, đánh giá kết quả là một khâu quan trọng trong đổi mới phương
pháp dạy và học các môn khoa học Mác-Lênin. Để chống thái độ học tủ, học lệch, mang
tài liệu vào phòng thi và để đảm bảo đánh giá đúng thực chất trình độ của sinh viên, các
trường đang nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp ra đề thi theo hình thức trắc nghiệm.
Chẳng hạn, trường CĐSP Lạng Sơn đang nghiên cứu, thực hiện phương pháp này ở một
số môn khoa học Mác-Lênin.
Có thể nhận thấy, việc giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở các trường CĐSP biên giới
phía Bắc trong thời gian gần đây đã có sự chuyển biến nhất định, song nhìn một cách
tổng thể còn chậm được cải tiến và đổi mới; chưa tạo được điều kiện phát huy tính tích
cực của sinh viên; những nhận thức mơ hồ, sai trái của sinh viên, ít được nêu lên để kịp
thời được uốn nắn. Phần lớn số giờ lên lớp vẫn được giáo viên dạy theo phương pháp
thuyết trình, phương pháp đối thoại, nêu vấn đề còn ít được sử dụng. Qua điều tra trong
giáo viên Mác-Lênin ở ba trường CĐSP (Lạng Sơn, Cao bằng, Lào cai) cho thấy: 100%
sử dụng phương pháp thuyết trình thường xuyên, phương pháp nêu vấn đề, thảo luận
nhóm, động não chỉ chiếm từ 20% đến 32,4% (Xem phụ lục 4, bảng 1).
Đội ngũ giáo viên Mác-Lênin các trường CĐSP biên giới phía Bắc còn bộc lộ
những hạn chế như: giáo viên ở độ tuổi trẻ chiếm số đông lại ít được thâm nhập thực tế
do chế độ đi thực tế hàng năm của giáo viên Mác-Lênin ở các trường hầu như chưa được
thực hiện, khả năng và điều kiện cập nhật thông tin hạn chế nên vốn sống, vốn hiểu biết
thực tiễn xã hội của giáo viên còn nghèo nàn dẫn đến bài giảng của giáo viên thường bị
bó hẹp trong nội dung sách giáo khoa, ít mở rộng, bổ sung số liệu, chất liệu của cuộc
sống. Trình độ ngoại ngữ, tin học của giáo viên thấp dẫn đến khó khăn trong việc cập
nhật thông tin, nắm bắt các phương tiện giảng dạy hiện đại làm cho giờ dạy các môn lý
luận Mác-Lênin trở nên khô khan, ít sức thuyết phục, khiến sinh viên thiếu hứng thú
trong học tập các môn lý luận Mác-Lênin. Qua điều tra sinh viên ba trường CĐSP biên
giới phía Bắc, 80% sinh viên cho rằng các môn khoa Mác-Lênin là rất trừu tượng, khô
khan và thiếu sinh động; chỉ có 8,9% sinh viên thấy hài lòng, hứng thú khi nghe giáo viên
giảng, bình thường 78,6% và 12,5% là không hứng thú (Xem phụ lục 4, bảng 2).
Thảo luận (xêmina) đạt hiệu quả chưa cao, ít sử dụng hình thức tham quan, thực
tế, viết tiểu luận cho sinh viên do khó khăn về kinh phí hỗ trợ đã làm ảnh hưởng đến chất
lượng, hiệu quả giảng dạy bộ môn.
Phương pháp đánh giá kết quả học tập của sinh viên, nhìn chung vẫn chưa thật sự
đảm bảo tính khách quan, chưa phát huy được tính tích cực sáng tạo của sinh viên.
Tóm lại, trước yêu cầu của việc thực hiện giáo dục toàn diện trong đó có việc nâng
cao chất lượng giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên các trường CĐSP ở các tỉnh
BGPB, đáp ứng yêu cầu giáo dục trong thời kỳ CNH-HĐH, phát triển kinh tế -xã hội của
các tỉnh BGPB thì đội ngũ giáo viên lý luận Mác-Lênin còn bộc lộ những hạn chế về
trình độ chuyên môn, am hiểu thực tiễn xã hội, cập nhật thông tin, phương pháp giảng
dạy, trình độ tin học, ngoại ngữ…Điều đó đòi hỏi đội ngũ giáo viên Mác-Lênin trong thời
gian tới cần được sự quan tâm của các cấp, các ngành, của nhà trường cùng với sự nỗ lực
của bản thân để tạo nên sự phát triển về chất.
2.2.2. Thực trạng học tập và rèn luyện của sinh viên
Thứ nhất, về ý thức học tập các môn khoa học Mác - Lênin
Trong quá trình học tập và rèn luyện, sinh viên CĐSP chịu sự quy định bởi mục
tiêu đào tạo của nhà trường CĐSP. Có thể nói, ngay từ khi có nguyện vọng thi vào các
trường CĐSP, họ đã có ý thức về nghề giáo viên là một nghề cao quý, bên cạnh phải có
kiến thức, có kỹ năng sư phạm còn luôn phải là tấm gương sáng về mọi mặt để những thế
hệ học sinh noi theo. Khi đã trở thành sinh viên CĐSP, với những hoạt động học tập, rèn
nghề, rèn người của nhà trường sư phạm thì ý thức về việc phấn đấu trở thành người giáo
viên mẫu mực càng được định hình rõ hơn. Đây là đặc điểm thuận lợi cho việc giáo dục
lý luận Mác-Lênin cho sinh viên các trường CĐSP.
Nhận thức được tầm quan trọng của các môn khoa học Mác-Lênin trong mục tiêu
giáo dục toàn diện, một bộ phận sinh viên có thái độ học tập đúng đắn, chăm chỉ học tập,
tích cực tham gia các kỳ thi học sinh giỏi môn học và kỳ thi Ôlimpic các môn khoa học
Mác-Lênin.
Tuy nhiên, còn một bộ phận sinh viên chưa nhận thức đầy đủ về sự cần thiết phải
học tập lý luận Mác-Lênin, đồng nhất việc giáo dục lý luận Mác-Lênin với công tác tư
tưởng chính trị chung chung dẫn đến chỉ tập trung vào học các môn chuyên ngành và
nghiệp vụ sư phạm mà coi thường các môn khoa học Mác-Lênin. Biểu hiện về thái độ
học tập đối với các bộ môn khoa học Mác-Lênin của bộ phận sinh viên này là không hào
hứng, học đối phó, cầm chừng, cốt đạt được điểm 5. Qua điều tra sinh viên của 3 trường
CĐSP có 28,3% sinh viên cho rằng học các môn khoa học Mác-Lênin cốt sao để không
phải thi lại (Xem phụ lục 4, bảng 1). Bắt nguồn từ thái độ đó, những sinh viên đó có biểu
hiện là không soạn bài trước khi lên lớp, trên lớp không tham gia phát biểu xây dựng bài,
học tủ, học đối phó trước các kỳ thi học trình và học phần. Thái độ học tập tiêu cực này
của sinh viên tác động không nhỏ đến tâm lý của giảng viên, gây ức chế, làm giảm khả
năng sáng tạo và nhiệt huyết của người dạy, không khí lớp học trở nên nặng nề, căng
thẳng.
Là trường CĐSP, các trường CĐSP biên giới phía Bắc không có khoa giáo dục
công dân (giáo dục chính trị hay khoa lý luận Mác-Lênin), nếu có ở hệ cao đẳng THCS
thì là đào tạo hai chuyên ngành như: Văn-GDCD, Địa - GDCD, sử- GDCD, GDCD- công
tác đội, GDCD- Nhạc, GDCD- Sử...có thể nói không có sinh viên học tập lý luận Mác-
Lênin để chuyên hành nghề lý luận. Do vậy, không thể tránh khỏi một số sinh viên chưa
nhận thức đúng đắn về ý nghĩa lý luận và thực tiễn của các môn khoa học Mác-Lênin.
Trong khi đó, một nhóm xã hội và dư luận xã hội chưa nhận thức đúng về vị trí của
việc giáo dục lý luận Mác-Lênin, cho rằng nó không có tác dụng thực sự đối với
người học mà chỉ là một sự áp đặt, mang tính thuần tuý lập trường chính trị, tư tưởng.
Từ nhiều năm nay, trong nhận thức của nhiều người vẫn cho đó là tính đặc thù của
việc giảng dạy, giáo dục lý luận Mác-Lênin. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tâm
lý của đối tượng giáo dục lý luận Mác-Lênin là sinh viên.
Thứ hai, về phương pháp học tập các môn khoa học Mác - Lênin
Mặc dù công cuộc đổi mới phương pháp dạy và học ở các trường CĐSP đã được
thực hiện và đẩy mạnh trong những năm học qua, nhưng sinh viên tìm tòi phương pháp
học mới đối với các môn Mác-Lênin vẫn còn chậm và lúng túng. Qua điều tra sinh viên
cho thấy, việc học các môn Mác-Lênin một cách tích cực chủ động mới đạt 3,9%, tích
cực nhưng chưa chủ động là 50%, không tích cực chủ động là 45,1%(Xem phụ lục 4,
bảng 1). Phương pháp học tập của sinh viên nhìn chung vẫn còn thụ động, kém năng
động, học vẫn theo lối cũ: học chấp nhận, chưa chuyển sang lối học tích cực, chủ động
sáng tạo. Do điều kiện sách tham khảo nghèo nàn, không được bổ sung thường xuyên,
kịp thời; phương tiện thông tin hiện đại còn ít, sự hướng dẫn của giáo viên bộ môn chưa
sâu sát, sinh viên không có kế hoạch sử dụng thời gian tự học cho
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam hiện nay.pdf