Luận văn Vấn đề giải quyết việc làm ở Thái Bình: thực trạng và giải pháp

Tài liệu Luận văn Vấn đề giải quyết việc làm ở Thái Bình: thực trạng và giải pháp: LUẬN VĂN: Giải quyết việc làm ở Thái Bình: thực trạng và giải pháp mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ trước đến nay, vấn đề việc làm luôn được xã hội và mọi người quan tâm. Ngày nay, quan niệm về "phát triển" được hiểu một cách đầy đủ là: tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội; phải xóa đói, giảm nghèo, giảm thiểu thất nghiệp, đảm bảo được công bằng xã hội. Vì vậy, việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm lớn của toàn nhân loại, của tất cả các quốc gia, đặc biệt là của các nước đang phát triển. ở nước ta, vấn đề việc làm cho người lao động được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân" [10, tr. 218]. Tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, một mặt nhằm phát huy...

pdf112 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1087 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề giải quyết việc làm ở Thái Bình: thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Giải quyết việc làm ở Thái Bình: thực trạng và giải pháp mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ trước đến nay, vấn đề việc làm luôn được xã hội và mọi người quan tâm. Ngày nay, quan niệm về "phát triển" được hiểu một cách đầy đủ là: tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội; phải xóa đói, giảm nghèo, giảm thiểu thất nghiệp, đảm bảo được công bằng xã hội. Vì vậy, việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm lớn của toàn nhân loại, của tất cả các quốc gia, đặc biệt là của các nước đang phát triển. ở nước ta, vấn đề việc làm cho người lao động được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân" [10, tr. 218]. Tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, một mặt nhằm phát huy được tiềm năng lao động, nguồn lực to lớn ở nước ta cho sự phát triển kinh tế - xã hội, mặt khác là hướng cơ bản để xóa đói, giảm nghèo có hiệu quả, là cơ sở để cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đất nước tiếp tục đi lên. Thái Bình là tỉnh thuộc lưu vực sông Hồng, "đất chật, người đông" với diện tích tự nhiên 1.546,01 km2, dân số 1,83 triệu người, mật độ dân số 1.188 người/km2, gấp 1,18 lần so với các tỉnh thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng và 5,7 lần so với cả nước; có 915 ngàn người trong độ tuổi lao động, chiếm 50% dân số của cả tỉnh, số dân ở nông thôn chiếm 93,7%, thu nhập bình quân đầu người thấp mới đạt 3.889.000 đồng/người/năm vào năm 2003 [5, tr. 34]. Thu nhập của người lao động cơ bản dựa vào sản xuất nông nghiệp, chất lượng lao động thấp, lao động phổ thông là chủ yếu, chưa qua đào tạo. Những năm 1997 - 1998 ở nông thôn Thái Bình diễn biến phức tạp, tình hình khiếu nại, tố cáo của nhân dân diễn ra diện rộng trên địa bàn của cả tỉnh. Việc khiếu nại đông người của nhân dân Thái Bình có nhiều nguyên nhân khác nhau, song trong đó có nguyên nhân quan trọng là việc làm thiếu, đời sống của người lao động gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, vấn đề việc làm cho người lao động là một trong những vấn đề bức xúc nhất đặt ra với các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân Thái Bình. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVI chỉ rõ: "Coi trọng và phát huy nhân tố con người; chăm lo giải quyết các vấn đề bức xúc về xã hội, giải quyết việc làm, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để góp phần giữ vững ổn định kinh tế - xã hội" [26, tr. 90]. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm ở Thái Bình nhằm đánh giá đúng đắn thực trạng, tìm ra phương hướng và những giải pháp hữu hiệu để sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn lao động của tỉnh là một đòi hỏi bức xúc có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Do đó, tôi chọn đề tài " Giải quyết việc làm ở Thỏi Bỡnh: thực trạng và giải pháp " làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc làm là một trong những vấn đề có tính toàn cầu, là mối quan tâm lớn của các quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng. ở nước ta, từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, liên quan đến chủ đề luận văn đã có nhiều công trình khoa học, nhiều nhà nghiên cứu có bài viết xoay quanh vấn đề này, tiêu biểu như: - Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của TS. Nguyễn Hữu Dũng, TS. Trần Hữu Trung (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997); - ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam của GS.TS Đỗ Thế Tùng (Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 6-2002); - Thị trường lao động ở Việt Nam, định hướng và phát triển của thạc sĩ Nguyễn Thị Lan Hương (Nxb Lao động - xã hội, 2002); - Lao động việc làm những bước tiến quan trọng của Nguyễn Thị Hằng (Tạp chí Cộng sản, số 23 - 8/2003); - Một số vấn đề lao động, việc làm và đời sống người lao động ở Việt Nam hiện nay do thạc sĩ Đinh Đặng Định chủ biên (Nxb Lao động, Hà Nội, 2004); - Vấn đề lao động và việc làm ở Việt Nam từ đổi mới đến nay của GS.TS Phạm Đức Thành, PGS.TS Phạm Quý Thọ, ThS. Thang Mạnh Hợp (Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 298 - 12/2003); Ngoài ra, cũng có một số đề tài luận văn thạc sĩ viết về vấn đề việc làm như ở một số tỉnh: Đồng Nai, Hà Tĩnh, Kiên Giang...; ở Thái Bình, ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh có ban hành "Chương trình mục tiêu giải quyết việc làm từ 2000 - 2005". Song, dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị đến nay chưa có công trình nào viết về vấn đề này dưới dạng luận văn khoa học để tìm ra các giải pháp đồng bộ, hữu hiệu cho giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình. Như vậy, việc nghiên cứu đề tài "Giải quyết việc làm ở Thái Bình: thực trạng và giải pháp" dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị là cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu * Mục đích đề tài Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giải quyết việc làm, phân tích thực trạng việc làm ở Thái Bình, đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết có hiệu quả việc làm ở Thái Bình. * Nhiệm vụ của đề tài - Khái quát những vấn đề cơ bản về lý luận lao động, việc làm và thất nghiệp. Làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay để làm cơ sở cho việc phân tích tình hình giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình. - Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình từ năm 1999 đến nay, rút ra những mặt làm được và chưa được, chỉ rõ những nguyên nhân tồn tại, hạn chế. - Đề xuất những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình trong những năm tới. * Giới hạn của đề tài Đề tài tập trung vào các vấn đề có tính trọng điểm: giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình từ năm 1999 đến năm 2004, xây dựng một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả vấn đề giải quyết việc làm cho lao động Thái Bình trong thời gian từ nay đến năm 2010. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài * Cơ sở lý luận Đề tài được nghiên cứu dựa trên lý luận của khoa học kinh tế chính trị, căn cứ vào quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện trong các Văn kiện Đại hội Đảng và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa xoay quanh vấn đề việc làm. Bên cạnh đó, đề tài có kế thừa, chọn lọc một số đề xuất, số liệu thống kê của một số công trình khoa học có liên quan của các tác giả trong và ngoài nước. * Phương pháp nghiên cứu Đề tài vận dụng phương pháp truyền thống của khoa học kinh tế chính trị: sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu, đồng thời còn sử dụng các phương pháp khác như: khảo sát, điều tra nghiên cứu thực tế, tổng hợp, đối chiếu và phân tích, thống kê… 5. Những đóng góp chủ yếu của đề tài + Làm rõ quan niệm về việc làm và ý nghĩa kinh tế - xã hội của vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình. + Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình từ năm 1999 đến nay. + Đề xuất những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 Việc làm và các nhân tố ảnh hưởng tới tăng, giảm việc làm 1.1. Việc làm và những khó khăn trong quá trình giải quyết việc làm ở nước ta 1.1.1. Khái niệm về lao động, việc làm và thất nghiệp 1.1.1.1. Khái niệm về lao động Có nhiều cách tiếp cận và hiểu khác nhau về lao động nhưng suy cho cùng, lao động là hoạt động đặc thù của con người, phân biệt con người với con vật và xã hội loài người với xã hội loài vật; bởi vì: khác với con vật, lao động của con người là hoạt động có mục đích, có ý thức tác động vào thế giới tự nhiên nhằm cải biến những vật tự nhiên thành sản phẩm phục vụ cho nhu cầu đời sống của con người. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh vai trò quyết định của lao động với sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo C.Mác: "Lao động là một điều kiện tồn tại của con người không phụ thuộc vào bất kỳ hình thái xã hội nào, là một sự tất yếu tự nhiên vĩnh cửu làm môi giới cho sự trao đổi chất giữa con người với tự nhiên, tức là cho bản thân sự sống của con người" [20, tr. 61]. Ph.ăngghen viết: Khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cung cấp những vật liệu cho lao động đem biến thành của cải. Nhưng lao động còn là một cái gì vô cùng lớn lao hơn thế nữa, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người [21, tr. 641]. Trong quá trình lao động, con người đã vận dụng sức lực của mình, sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên nhằm biến đổi tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của cuộc sống. Đó là quá trình sản xuất vật chất được kết hợp bởi ba yếu tố: lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong bất kỳ nền sản xuất nào, kể cả nền sản xuất hiện đại, lao động bao giờ cũng là nhân tố cơ bản, là điều kiện không thể thiếu của sự tồn tại và phát triển đời sống xã hội loài người. Lao động là hoạt động sáng tạo của con người, nhờ có lao động mà con người khẳng định mình là chủ thể sáng tạo mọi giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chỉ rõ: trong các nguồn lực cơ bản (lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn và khoa học công nghệ), mỗi nguồn lực đều có thể bị khan hiếm, cạn kiệt nhưng nguồn lực con người là vô tận nếu quốc gia đó có chính sách đúng đắn về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và khai thác nguồn lực này một cách khoa học. Vì vậy, V.Lênin khẳng định: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là người lao động" [18, tr. 430]. Trong nguồn lao động của mỗi quốc gia hay một địa phương nào đó thì người lao động được xếp vào nguồn lao động. Nguồn lao động là số lượng của dân cư của quốc gia đó hay của địa phương đó có khả năng lao động. Hay có thể hiểu rằng: nguồn lao động là bộ phận dân cư có toàn bộ thể chất và tinh thần có thể sử dụng trong quá trình lao động. Tiềm lực của đất nước mạnh hay yếu trước hết phụ thuộc vào yếu tố nguồn lực lao động; bởi vì, với tư cách là nguồn lực, lao động trực tiếp tham gia tạo cung của nền kinh tế. Với tư cách là bộ phận dân số thực hiện quá trình tiêu dùng, nguồn lao động trở thành nhân tố tạo cầu của nền kinh tế. Điều khác biệt cơ bản giữa nguồn lao động với các nguồn lực khác là vừa tham gia tạo cung và tạo cầu của nền kinh tế, vừa trực tiếp điều tiết quan hệ đó gắn với các thể chế kinh tế xã hội do con người tạo nên. Nguồn lao động vừa có nhu cầu tự thân để phát triển với yêu cầu ngày càng cao và phong phú, vừa là chủ thể sáng tạo ra công nghệ, điều chỉnh cơ bản kinh tế để thá¢a mãn các nhu cầu đó. Hiện nay trên thế giới, tiêu chí cơ bản để bố trí dân cư vào nguồn lao động được dựa trên độ tuổi và tình trạng sức khỏe. Nhưng quy định giới hạn về độ tuổi lao động tối đa và tối thiểu ở các nước có sự khác nhau. Ví dụ, độ tuổi lao động tối thiểu ở Braxin: 10 tuổi, ở Mỹ: 16 tuổi. Qui định về độ tuổi tối đa như: Mêhicô, Malayxia là 65 tuổi; Phần Lan, Đan Mạch là 75 tuổi… Theo Bộ luật lao động hiện hành ở nước ta, nguồn lao động: nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 tuổi, có khả năng lao động (trừ những người tàn tật không có sức lao động). Bộ phận chính của nguồn lao động là lực lượng lao động, bao gồm những người trong độ tuổi lao động, có sức khá¢e đang làm việc và những người thất nghiệp. Đặc trưng của nguồn lao động là các chỉ tiêu về số lượng và chất lượng, bao gồm các chỉ tiêu: số lượng, độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, số người đang đi học, số người đang làm việc và sự phân bố lao động theo lãnh thổ, theo ngành, theo khu vực kinh tế… Trong quá trình phát triển của sản xuất và đời sống xã hội, chất lượng nguồn lao động cũng không ngừng được tăng lên. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động bao gồm: tình trạng sức khá¢e của người lao động, chính sách giáo dục - đào tạo, chính sách tiền lương và các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Như đã đề cập, lao động là quá trình tiêu dùng sức lao động, vậy quá trình đó chỉ có thể tiến hành khi đã được dựa trên những tiền đề vật chất phục vụ cho quá trình đó đầy đủ. Trên bình diện một nước hay một địa phương nào đó thì quá trình lao động của bộ phận dân cư có sức lao động lại được thể hiện ở số lượng việc làm. Việc làm là một phạm trù kinh tế - xã hội, là một chỉ tiêu cơ bản để xem xét, đánh giá sự tiến bộ hay lạc hậu của mỗi quốc gia trong một giai đoạn lịch sử nhất định. 1.1.1.2. Việc làm Khi nghiên cứu quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác có đề cập đến việc làm nhưng chưa đưa ra khái niệm cụ thể về việc làm, như: "Sự tăng lên của bộ phận tư bản khả biến của tư bản, và do đó sự tăng thêm số công nhân đã có việc làm, bao giờ cũng gắn liền với những biến động mạnh mẽ và với việc sản xuất ra số nhân khẩu thừa tạm thời" [20, tr. 159]. Theo cách tiếp cận của C.Mác cho thấy giữa việc làm có liên quan mật thiết với lao động. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với những nơi làm việc cụ thể mà ở đó lao động diễn ra, là điều kiện cần thiết nhằm thá¢a mãn nhu cầu xã hội về lao động, là hoạt động lao động của con người. Dưới góc độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa các yếu tố con người và yếu tố vật chất hay giữa sức lao động và tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất vật chất. Có nhiều cách quan niệm khác nhau về việc làm, song xét cho cùng thực chất của việc làm là sự kết hợp sức lao động của con người với tư liệu sản xuất. ở Việt Nam trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể). Theo cơ chế đó, xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành phần kinh tế khác và cũng không thừa nhận có hiện tượng thiếu việc làm, thất nghiệp… Từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đến nay, quan niệm về việc làm đã được nhìn nhận đúng đắn và khoa học. Điều 13, Chương II Bộ luật lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ rõ: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm" [3, tr. 42]. Với khái niệm này, các hoạt động lao động sau đây được xác định là việc làm, bao gồm: - Toàn bộ các hoạt động tạo ra của cải vật chất hoặc tinh thần không bị pháp luật cấm, được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật; - Tất cả những công việc tự làm mang lại lợi ích cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình, cho cộng đồng, kể cả những công việc không được trả công bằng tiền hoặc bằng hiện vật. Như vậy, khái niệm việc làm theo Bộ luật lao động của nước ta bao gồm một phạm vi rất rộng: từ những công việc được thực hiện trong các doanh nghiệp, công sở đến mọi hoạt động lao động hợp pháp như các công việc nội trợ, chăm sóc con, cháu trong gia đình… đều được coi là việc làm. Khái niệm trên làm cho nội dung của việc làm được mở rộng và tạo ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người. Điều đó được thể hiện ở chỗ: - Thứ nhất, thị trường lao động được mở rộng tới tất cả các thành phần kinh tế, trong mọi hình thức và cấp độ của tổ chức sản xuất kinh doanh và sự đan xen giữa chúng, nó cũng không bị hạn chế về mặt không gian. - Thứ hai, người lao động được tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết, thuê mướn lao động theo khuôn khổ của pháp luật quy định. Quan niệm mới về việc làm như Bộ luật lao động quy định cho thấy đã có sự thay đổi căn bản trong nhận thức về việc làm và giải quyết việc làm. Từ chỗ việc làm phải là người nằm trong guồng máy biên chế của Nhà nước và giải quyết việc làm là trách nhiệm của Nhà nước nay đã chuyển sang nhận thức mới: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Bởi vì, lao động tạo ra nguồn thu nhập không chỉ trong thành phần kinh tế nhà nước mà còn ở cả trong thành phần kinh tế tư nhân, cá thể và hộ gia đình… Với khái niệm đó, nó đã xóa bỏ sự phân biệt đối xử lao động giữa các thành phần kinh tế, động viên mọi tổ chức, mọi cá nhân và toàn xã hội tạo mở nhiều việc làm cho người lao động. Điều đó được Bộ luật lao động quy định rõ ràng: "Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội" [3, tr. 142]. Như vậy, với quan niệm trên đã làm cho nội dung của việc làm được mở rộng, tạo tiền đề để giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người lao động ở các thành phần kinh tế khác nhau; mặt khác còn ngăn chặn những việc làm trái với quy định dễ nảy sinh trong sản xuất kinh doanh. Từ khái niệm việc làm, có thể làm rõ hơn một số khái niệm dẫn suất như: người có việc làm, thiếu việc làm. * Người có việc làm Đối với nước ta, người có việc làm là những người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, đang làm việc để nhận tiền lương (tiền công), hoặc đang làm công việc dịch vụ cho bản thân, gia đình và các việc sản xuất kinh doanh của hộ gia đình. Có việc làm là có thu nhập, là đòi hỏi chính đáng của người lao động. Tạo được việc làm tức là thu hút được nguồn lực lao động vào quá trình sản xuất, làm ra nhiều của cải cho xã hội, tạo ra tiền đề vật chất để giải quyết tốt mối quan hệ gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Trong hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta luôn quan tâm đến con người, tạo mọi điều kiện để con người phát triển. Đảng ta khẳng định: "Phát huy yếu tố con người và lấy con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động" [8, tr. 36]. Thực tiễn những năm qua cho thấy, với các chính sách về lao động và việc làm của Đảng và Nhà nước ta đã có tác động tích cực, tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động; vì vậy, đời sống của đại bộ phận nhân dân lao động được cải thiện, nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động vẫn nổi lên là một trong những vấn đề bức xúc, đặc biệt là đối với những vùng, những địa phương đất chật, người đông, nhiều người lao động còn không có hoặc thiếu việc làm. * Thiếu việc làm Có nhiều cách tiếp cận và cách hiểu khác nhau về vấn đề này, theo TS. Trần Thị Thu đưa ra khái niệm mà nhiều nhà nghiên cứu cho là hợp lý và khoa học: "Thiếu việc làm còn được gọi là bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá hình là hiện tượng người lao động có việc làm ít hơn mức mà mình mong muốn" [25, tr. 17]. Đó là tình trạng có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người lao động, họ phải làm việc không hết thời gian theo pháp luật quy định, hoặc làm những công việc mà tiền công thấp không đáp ứng đủ nhu cầu của cuộc sống, họ muốn tìm thêm việc làm để bổ sung. 1.1.1.3. Thất nghiệp Theo lý thuyết của các nhà kinh tế học hiện đại: trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp là một hiện tượng khách quan gắn liền với một tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên xác định. Người ta không thể loại bỏ được nó mà chỉ có thể hạn chế tỷ lệ thất nghiệp tới mức thất nghiệp tự nhiên. Bởi vì, khi mức thất nghiệp cao (quá mức tự nhiên), tài nguyên bị lãng phí, thu nhập của người dân bị giảm sút và rơi vào tình trạng nghèo đói, dẫn đến nền kinh tế suy thoái, ảnh hưởng đến cuộc sống của cộng đồng dân cư. Tỷ lệ thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá thực trạng của một nền kinh tế, là mối quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia và của mọi thành viên trong xã hội. Có nhiều quan niệm khác nhau về thất nghiệp, nhưng nội dung cơ bản của thất nghiệp là đề cập về việc: người lao động có khả năng làm việc, mong muốn làm việc nhưng không được làm việc. Samuelson - nhà kinh tế học của trường phái hiện đại cho rằng: "Thất nghiệp là những người không có việc làm, nhưng đang chờ để trở lại việc làm hoặc đang tích cực tìm việc làm" [32, tr. 271]. Như vậy, thất nghiệp (không có việc làm) là hiện tượng người lao động bị mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất. Thất nghiệp có nhiều loại:  Thất nghiệp cơ cấu: là thất nghiệp xuất hiện khi không có sự đồng bộ giữa kỹ năng, trình độ của người lao động với cơ hội việc làm do cầu lao động và sản xuất thay đổi.  Thất nghiệp do chuyển đổi: là một dạng của thất nghiệp cơ cấu, đây là loại thất nghiệp do sự mất cân bằng trong một thời kỳ dài giữa cung và cầu lao động. Nó nảy sinh do có những điều chỉnh trong chính sách kinh tế, dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu sản xuất, tiêu thụ trong toàn bộ nền kinh tế, làm cho một số ngành kinh tế truyền thống bị suy thoái và làm nảy sinh một số ngành mới. Những thay đổi này làm cho các kỹ năng, tay nghề cũ của người lao động trở nên không thích hợp với những ngành nghề mới. Họ buộc phải thôi việc hoặc phải mất một thời gian nhất định để đào tạo, huấn luyện lại tay nghề [14, tr. 144]. Thất nghiệp cơ cấu thường xảy ra ở các nước đang phát triển có nền kinh tế đang chuyển đổi như nước ta; loại thất nghiệp này có quy mô lớn hơn, trầm trọng hơn so với thất nghiệp do thay đổi cơ cấu ở các nước phát triển.  Thất nghiệp tạm thời: là thất nghiệp phát sinh do người lao động muốn có thời gian để tìm việc làm thích hợp với chuyên môn và sở thích của mình.  Thất nghiệp theo mùa vụ: là thất nghiệp do cầu lao động dao động giảm, thường vào những thời kỳ nhất định trong năm.  Thất nghiệp chu kỳ: là thất nghiệp gắn liền với sự suy giảm theo thời kỳ của nền kinh tế. ở nước ta, theo khái niệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Người bị coi là thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, hiện tại đang đi tìm việc làm hay không đi tìm việc do không biết tìm việc ở đâu; và những người trong tuần lễ trước thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8 giờ, có mong muốn và sẵn sàng làm thêm giờ nhưng không tìm ra việc [14, tr. 142]. Với khái niệm trên, theo Bộ luật lao động ở nước ta hiện nay: những người trong độ tuổi lao động (nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 tuổi) có khả năng lao động, không có việc làm hoặc đang tìm việc làm là những người thất nghiệp. Tuy nhiên, các đối tượng sau đây mặc dù nằm trong độ tuổi lao động nhưng không thuộc những người thất nghiệp và không nằm trong lực lượng lao động: - Người không có khả năng lao động - Người không có nhu cầu tìm việc làm - Người đang đi học - Người làm công việc nội trợ cho gia đình mình Thất nghiệp là một vấn đề xã hội rất nhạy cảm, là mối quan tâm lớn của tất cả các quốc gia, khi mức thất nghiệp tăng quá mức tự nhiên (cho phép) tài nguyên sẽ bị lãng phí, thu nhập của người lao động giảm và rơi vào tình trạng nghèo đói; nền kinh tế suy thoái, lạm phát cao dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội. Do đó, tỉ lệ thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu trọng yếu để xem xét, đánh giá tình trạng của một nền kinh tế, sự tiến bộ xã hội, là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. 1.1.2. Những khó khăn trong quá trình giải quyết việc làm ở nước ta ở nước ta, nguồn lao động hàng năm vẫn tăng ở mức cao (khoảng 3,4 - 3,5%), số lao động chưa có việc làm ở thành thị rất lớn chiếm khoảng 9 - 12% tổng lao động thành thị, là tỷ lệ vượt quá giới hạn cho phép để đảm bảo an toàn xã hội. Khu vực nông thôn là nơi tập trung 80% dân số và lao động, nhưng do chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, kinh tế hàng hóa còn ở trình độ thấp, do đó nạn thiếu việc làm là rất phổ biến và nghiêm trọng. Trong điều kiện bình quân đất canh tác trên một lao động rất thấp (0,3 ha/1 lao động), nếu làm thuần nông sẽ dư thừa 1/2 số lao động [7, tr. 96]. Theo dự báo, "năm 2005, lực lượng lao động ở nước ta sẽ là 42,4 triệu người, năm 2010 sẽ tăng lên 47,7 triệu người" [17, tr. 147]. Đây là nguồn lực to lớn nhưng đó cũng là sức ép nặng nề đối với vấn đề giải quyết việc làm và là bài toán khó giải. Có thể khái quát những khó khăn như sau: Một là, nhu cầu việc làm ngày càng lớn với khả năng giải quyết còn rất hạn hẹp, chưa gắn kết được giữa lao động với tiềm năng sẵn có. Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải tạo ra điều kiện và môi trường đồng bộ (luật pháp, cơ chế, chính sách) để tác động, khai thác được các nguồn lực (lao động, đất đai, tài nguyên, vốn…) để phát triển thị trường lao động, giải quyết việc làm, làm cho cung và cầu về lao động ăn khớp, phù hợp với nhau ở mức cao nhất. Hai là, vấn đề việc làm vừa là vấn đề kinh tế - xã hội cơ bản, lâu dài có tính chất chiến lược, vừa là vấn đề cấp bách trước mắt mang tính xã hội sâu sắc đòi hỏi cùng một lúc phải tập trung giải quyết việc làm cho một số đối tượng như: con em các gia đình chính sách xã hội, bộ đội xuất ngũ, thanh niên đến tuổi lao động, đối tượng tệ nạn xã hội sau cải tạo, người xuất cảnh trái phép hồi hương…; nếu không giải quyết việc làm cho số đối tượng này sẽ dễ phát sinh những "điểm nóng" về mặt xã hội, dẫn đến nguy cơ mất an toàn xã hội. Ba là, nền kinh tế nước ta vẫn đang trong quá trình chuyển đổi, để có cơ cấu kinh tế tiến bộ đòi hỏi phải tổ chức lại lao động trên phương diện toàn xã hội, tất yếu dẫn đến xu thế đẩy lao động tách khỏi việc làm, dẫn đến dư thừa một bộ phận lớn lao động xã hội. Thực tiễn cho thấy: những năm qua, trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, lao động ở khu vực này dư thừa khoảng 35%, tương đương với 1,2 triệu người, trong khi đó lao động có kỹ thuật lại thiếu nghiêm trọng và đang có xu hướng "bị hút vào" các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài…; tất cả những tác động đó làm cho quá trình giải quyết việc làm gặp phải muôn vàn khó khăn. * Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng thiếu việc làm - Tình trạng giải quyết việc làm ở nước ta gặp phải khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau, song nguyên nhân chủ yếu nhất là: nước ta là nước chậm phát triển, điểm xuất phát thấp, nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, thiếu những tiền đề vật chất cần thiết mà trước hết là nền đại công nghiệp để thay đổi nhanh chóng toàn bộ cơ cấu kinh tế cho phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện đại; hạ tầng cơ sở thấp kém, không đồng bộ; công nghệ lạc hậu, vốn thiếu, chất lượng lao động thấp, quan hệ kinh tế đối ngoại còn ở mức hạn hẹp…; những nguyên nhân đó đã làm hạn chế và gây ra nhiều trở ngại, khó khăn trong quá trình giải quyết việc làm cho người lao động. - Trong cơ chế cũ, chúng ta đã xây dựng một hệ thống chính sách khuyến khích người lao động tìm việc làm trong khu vực Nhà nước là chủ yếu và bao cấp rất nặng nề. Nhà nước bố trí công ăn việc làm đến tận từng người lao động, điều đó đã kìm hãm tiềm năng lao động, triệt tiêu động lực của họ trong phát triển việc làm và tự chịu trách nhiệm về đời sống của chính bản thân mình. Ngày nay, chuyển sang nền kinh tế thị trường đã mở ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động của toàn xã hội, song hệ thống chính sách lại chưa đồng bộ để tạo ra tiền đề, điều kiện và môi trường thuận lợi nhằm giải phóng triệt để mọi tiềm năng (lao động, vốn, đất đai...) để phát triển sản xuất, tạo mở việc làm; chưa có hệ thống đào tạo phù hợp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thị trường sức lao động. - Về tổ chức, chưa xây dựng một hệ thống sự nghiệp hoàn chỉnh giải quyết việc làm; đặc biệt là các Trung tâm xúc tiến việc làm; Trung tâm chuyển giao công nghệ sử dụng nhiều lao động... Chương trình quốc gia về việc làm chưa được tập trung, chỉ đạo còn phân tán. Quỹ quốc gia về việc làm còn nhỏ bé và chưa được đầu tư đúng mức. - Quản lý nhà nước về lao động và việc làm còn nhiều bất cập, năng lực hoạch định chính sách và điều hành thực thi chính sách về lao động và việc làm còn nhiều hạn chế, qua nhiều khâu trung gian, thiếu sự kiểm tra giám sát chặt chẽ. 1.1.3. ý nghĩa của vấn đề giải quyết việc làm Việc làm và thất nghiệp là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm lớn của mỗi quốc gia. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã tổng kết: có ba yếu tố cơ bản nhất để phát triển con người là phải đảm bảo an toàn lương thực, an toàn việc làm và an toàn môi trường. Như vậy, thế giới ngày nay cho rằng, mọi chiến lược phát triển đều phải hướng vào việc phát triển con người, lấy con người làm trung tâm trong phát triển xã hội và tiến bộ xã hội; trong đó việc làm là một tiêu chí quan trọng để xem xét, đánh giá sự phát triển của xã hội, là thước đo tiến bộ của xã hội. Xét về mặt xã hội, mọi người có sức lao động đều có quyền đòi hỏi có được việc làm vì đó là một trong những quyền cơ bản của con người. Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa thế giới đã từng nói: "Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền được sống, quyền được tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc" [23]. Để có được hạnh phúc, con người cần phải được tự do, đặc biệt tự do trong lao động là điều kiện cơ bản để giải phóng sức lao động và là cơ sở để hoàn thiện và phát triển con người. Khi nghiên cứu quá trình sản xuất vật chất của xã hội loài người, C.Mác đã chỉ rõ: "Sản xuất vật chất là cơ sở cho tồn tại và phát triển của con người" [36, tr. 6]. Theo C.Mác, muốn tồn tại và phát triển, con người phải lao động, phải tiến hành sản xuất. Lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của con người, làm biến đổi bản chất tự nhiên của con người, đồng thời hình thành nên và phát triển bản chất xã hội của con người. Nhờ lao động, con người khẳng định được mình là chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần của nhân loại. Hiện nay, công cuộc đổi mới đất nước đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Đảng ta chủ trương lấy phát triển kinh tế làm trọng tâm, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong mỗi bước đi và trong quá trình phát triển. Trong quá trình này, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những vấn đề cấp bách nhất; bởi vì giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm là cơ sở để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta xác định: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân" [10, tr. 210]. 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng, giảm việc làm 1.2.1. Dân số và cơ cấu dân số Số lượng, tốc độ gia tăng và cơ cấu dân số có ảnh hưởng lớn tới nguồn lao động và vấn đề giải quyết việc làm của mỗi quốc gia. Dân số, lao động và việc làm là những vấn đề có liên quan mật thiết với nhau; xem xét mức độ biến động dân số những năm gần đây ở nước ta, cho thấy: "Tốc độ gia tăng dân số hàng năm vẫn tăng 1,3% năm; đến giữa năm 2003, dân số cả nước ta đã lên tới gần 81 triệu người; hàng năm có khoảng 1,5 triệu thanh niên tham gia vào lực lượng lao động xã hội" [14, tr. 24; 29]. Đây là một sức ép lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay. Dân số tăng nhanh dẫn tới việc phân bố dân cư không hợp lý, không gắn kết được lao động với các nguồn lực khác (đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vốn…) khiến cho tạo việc làm mới càng khó khăn, thất nghiệp càng cao. Dân số gia tăng sẽ buộc ngân sách nhà nước nói chung, xã hội nói riêng phải giảm chi cho đầu tư phát triển, tăng chi cho tiêu dùng. Vì vậy, đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng nguồn lao động giảm xuống, cơ hội để tìm việc làm càng gặp khó khăn. Do đời sống của người lao động gặp khó khăn, nhu cầu về việc làm lớn, cơ hội có việc làm ở khu vực nông thôn ít, nhất là những lúc nông nhàn dẫn đến tình trạng di dân tự do từ nông thôn đổ ra đô thị để tìm việc làm kiếm sống. Nguồn lao động này phổ biến là có sức khỏe, có kiến thức, có tay nghề, là lực lượng nòng cốt ở nông thôn; hậu quả làm cho khu vực nông thôn mất đi nguồn lực quan trọng, cần thiết phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Ngược lại, nguồn lao động di cư tự do này gây ra sức ép khó khăn cho các đô thị vì nguồn lao động này khó có thể cạnh tranh và có được việc làm ở những ngành kinh tế hiện đại mà chủ yếu làm những công việc dịch vụ; từ đó gây nên khó khăn trong công tác quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch, hộ khẩu, làm nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội ở đô thị. Dân số là cơ sở hình thành nguồn lao động, là căn cứ để xác định nhu cầu giải quyết việc làm. Bước vào thế kỷ 21, Việt Nam với tư cách là một nước có dân số đông, song đã bước đầu tiến vào thời kỳ ổn định. Tốc độ tăng dân số dự kiến sẽ giảm 1,3% vào năm 2005 xuống còn 1,1% vào năm 2010 [17, tr. 152]. Đây là những thuận lợi rất cơ bản và có những tác dụng sau đây với thị trường sức lao động: - Giảm nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ sử dụng, đặc biệt đối với dịch vụ y tế, sức khá¢e và giáo dục cũng như các chi phí giáo dục có liên quan khác; - Giảm tỷ lệ người ăn theo, thông qua đó tăng thu nhập bình quân đầu người; - Tăng tỷ lệ tiết kiệm của dân cư. Theo quy luật co giãn của thu nhập so với tiết kiệm, khi thu nhập tăng lên thì mức độ tiết kiệm của dân cư tăng lên, tức là tăng khả năng đầu tư mở rộng cầu lao động, từ đó tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động. Tuy nhiên vẫn còn những khó khăn sau đây:  Mặc dù mức sinh và mức chết đã giảm đáng kể trong thời gian qua, song vẫn còn có sự khác biệt lớn giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng. Trong khu vực thành thị, tổng mức sinh đã giảm từ 2,5 xuống còn 1,7 con/phụ nữ. Tuy nhiên, ở khu vực nông thôn mức này vẫn gần như gấp đôi (4,4 và 2,6 con/phụ nữ). Điều này làm tăng sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa hai vùng, tiếp tục tạo ra những lực đẩy kích thích dòng di chuyển lao động tự phát từ nông thôn ra thành thị.  Giữa các vùng tình hình cũng tương tự. Trong khi các vùng phát triển như đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã đạt hoặc thấp hơn mức sinh thay thế (tương ứng là 2,0; 1,9 và 2,1), các vùng kém phát triển nhất như Đông Bắc và Tây Nguyên vẫn còn ở những mức rất cao (3,6 và 3,9) [17, tr. 153].  Ngoài ra, giảm tốc độ tăng dân số sẽ dẫn đến việc "già hóa" dân số, với tỷ lệ người cao tuổi tăng lên và đòi hỏi các chi phí về bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội tăng lên..., ảnh hưởng lớn tới cơ cấu và chất lượng của dân số. Từ những thực tế trên đây, vần đề đặt ra là cần hướng tới việc "bảo tồn tính cân bằng, ổn định bên trong của sự phát triển dân số" nhằm đạt được mục tiêu: ổn định tỷ lệ sinh hợp lý, nâng cao chất lượng dân số, trên cơ sở đó mà phát triển nguồn lực lao động cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của thị trường sức lao động. Công cuộc đổi mới đất nước những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế - xã hội, điểm quan trọng nhất là tăng trưởng kinh tế cao đã tạo ra sự tăng lên không ngừng của nhu cầu sử dụng lao động. Hàng năm số lao động có việc làm đều tăng: "Từ năm 1991 đến 2000, số người có việc làm tăng từ 30,9 triệu lên 40,6 triệu người, tức là tăng 32,2%, bình quân hàng năm tăng khoảng 2,9%" [14, tr. 124]. Mặc dù đạt được những thành tựu trên, song do sức ép về dân số, vấn đề lao động và việc làm vẫn là vấn đề hết sức bức xúc vì do tốc độ gia tăng dân số trước đây quá nhanh nên số người bước vào độ tuổi lao động ngày càng tăng, tốc độ giải quyết việc làm không thể nào tăng kịp với tốc độ tăng rất nhanh của nguồn lao động. Theo dự báo: "Dân số trong độ tuổi lao động năm 2005 đạt 51,5 triệu, chiếm 61% tổng dân số, năm 2010 đạt 56,8 triệu, chiếm 64% tổng dân số" [17, tr. 146]. Đây là bài toán khó giải nhưng bắt buộc chúng ta phải giải quyết có hiệu quả để đất nước ta tiếp tục phát triển nhanh và bền vững; vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội - Con đường duy nhất đúng đắn mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. 1.2.2. Tiến bộ khoa học - công nghệ Tiến bộ của khoa học, công nghệ sẽ làm tăng yêu cầu việc làm cho lao động phức tạp, có kỹ thuật và ngược lại, làm giảm việc làm đối với lao động giản đơn. Quá trình phát triển của mỗi quốc gia ngày nay được cấu trúc lại dựa trên những lợi thế của nguồn lực con người với hàm lượng trí tuệ ngày một gia tăng. Nhờ có sự tiến bộ của khoa học - công nghệ mà phần tỷ lệ lao động chân tay kết tinh vào sản phẩm ngày một giảm rõ rệt, hàm lượng lao động "chất xám" kết tinh vào sản phẩm ngày càng cao. Theo dự báo: "Đến năm 2010, phần tỷ lệ lao động chân tay trong sản phẩm chỉ còn 1/10" [33, tr. 31]. Như vậy, sự phát triển của khoa học - công nghệ mang lại nhiều cơ hội để người lao động tạo ra việc làm, phát huy khả năng cống hiến của mình cho xã hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức. Kinh nghiệm ở các nước đang phát triển cho thấy: khi đưa khoa học, công nghệ tiến bộ vào sản xuất sẽ làm cho những nước có nguồn lao động giản đơn dư thừa nhưng thiếu lao động phức tạp, có kỹ thuật cao như Việt Nam hiện nay mất đi ưu thế của lao động nhiều giá rẻ. Xu hướng chung hiện nay là tăng lao động phức tạp có kỹ thuật cao, giảm lao động giản đơn. Như vậy, vấn đề giải quyết việc làm của mỗi quốc gia phụ thuộc vào chất lượng nguồn lao động (thể lực và trí lực) mà điểm quan trọng có tính quyết định là trí tuệ của nguồn lao động; bởi vì, sự yếu kém của trí tuệ là lực cản nguy hại nhất dẫn đến sự thất bại trong hoạt động của con người. Điều này đã được C. Mác khẳng định: "Sự ngu dốt là sức mạnh của ma quỷ và chúng ta lo rằng, nó sẽ là nguyên nhân của nhiều bi kịch nữa" [22, tr. 438]. Ngày nay, khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão, là lực lượng trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất vật chất. Vì vậy, đòi hỏi người lao động phải có phẩm chất trí tuệ cao; nghĩa là người lao động phải có năng lực sáng tạo, áp dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ tiên tiến, khả năng biến tri thức của mình thành kỹ năng nghề nghiệp, thể hiện qua trình độ tay nghề thành thạo, chuyên môn nghiệp vụ giỏi, làm chủ được công nghệ, hoàn thành tốt công việc mà mình đảm nhiệm. ở nước ta hiện nay có nguồn lao động dồi dào, bước vào năm 2005 lực lượng lao động là 42,4 triệu người [17, tr. 147]. Đây là nguồn lực cơ bản nhất để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, chỉ có lực lượng lao động đông thì không đủ và không thể đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà vấn đề bức bách hàng đầu đặt ra hiện nay là phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đó là giải pháp cơ bản để tạo việc làm, giảm thiểu thất nghiệp, là nhân tố quyết định đảm bảo vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công. Chính vì vậy, Hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX khẳng định: "Đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân nhằm nhanh chóng thoát khỏi tình trạng lao động thủ công, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân và sức mạnh quốc phòng, an ninh. Chú trọng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và thành tựu của khoa học, công nghệ cho nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn" [12, tr. 93-94]. 1.2.3. Tài nguyên thiên nhiên Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất vì nó vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động, là cơ sở quan trọng hàng đầu của sản xuất vật chất, tạo ra việc làm cho người lao động. Tài nguyên thiên nhiên là một phạm trù kinh tế rộng lớn. Đối với một quốc gia, nó bao gồm tất cả những gì có trong vùng trời, vùng biển, trên mặt đất, trong lòng đất, khí hậu, thời tiết, vị trí địa lý… đều tác động đến sự phát triển, giàu có hay nghèo đói của mỗi quốc gia, đặc biệt là có ảnh hưởng lớn đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy: ở quốc gia nào hoặc ở vùng nào có điều kiện thiên nhiên thuận lợi, tài nguyên phong phú thì ở nơi đó có điều kiện thuận lợi hơn đối với vấn đề giải quyết việc làm và cơ cấu việc làm ở những nơi này cũng phong phú đa dạng hơn so với những nơi khác. Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng. Nhờ đó đã góp phần tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội trong những năm qua. Tuy nhiên, do tốc độ gia tăng dân số trong quá khứ quá nhanh nên số người bước vào độ tuổi lao động ngày càng nhiều, tốc độ tạo việc làm không thể tăng kịp với tốc độ gia tăng của nguồn lao động; vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay đòi hỏi phải phát huy và khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng với các nguồn lực khác như lao động, vốn, công nghệ… để tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động, đảm bảo cho nền kinh tế tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, đưa sự nghiệp đổi mới đất nước tiếp tục đi lên. Tuy vậy, có những quốc gia, thậm chí một địa phương nào đó của một quốc gia có nguồn tài nguyên nghèo nàn, khan hiếm như Nhật Bản mà vẫn tạo được nhiều việc làm cho người lao động. Bởi vì, họ đã xây dựng được chính sách và giải pháp về việc làm đúng đắn và khoa học. 1.2.4. Xuất khẩu lao động Xuất khẩu lao động, Liên hợp quốc gọi là "Di dân quốc tế", là hình thức biểu hiện cơ bản của thị trường lao động. Vấn đề giải quyết việc làm, giảm thiểu thất nghiệp về thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu về lao động trên thị trường sức lao động. Theo nghĩa đó, xuất khẩu lao động là hướng đi quan trọng vừa tăng cầu lao động, giải quyết việc làm cho người lao động, vừa tạo ra nguồn thu nhập cho người lao động và tăng thu cho ngân sách nhà nước, vừa nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động và tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến của nhân loại, vừa mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế. Hiện nay, xuất khẩu lao động (đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài) là hiện tượng phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội quốc tế. Nhiều nước đã coi xuất khẩu lao động là một chính sách lớn, một lĩnh vực hoạt động kinh tế quan trọng nhằm giải quyết việc làm, giảm thiểu thất nghiệp. Ngoài hình thức xuất khẩu lao động còn có các hình thức khác như: hợp tác nghiên cứu khoa học, hợp tác triển khai và ứng dụng công nghệ, trao đổi chuyên gia… cũng đang mở rộng. Tất cả những hình thức trên đã tạo nên trào lưu dịch chuyển và phân công lao động quốc tế, giải quyết việc làm, giảm thiểu thất nghiệp, phân bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động của mỗi quốc gia. Vì vậy, xuất khẩu lao động được nhiều nước coi là một hướng quan trọng để giải quyết việc làm cho người lao động. Ví dụ: "Năm 1988, số người lao động của Philippin làm việc tại nước ngoài là 4 triệu người; năm 1995, lượng kiều hối gửi qua các kênh chính thức về Philippin là trên 4 tỷ USD" [36, tr. 232]. ở nước ta, công tác xuất khẩu lao động đã đạt được một số kết quả đáng kể, số lượng lao động xuất khẩu đã tăng dần hàng năm và đang có xu hướng gia tăng. Chúng ta đã mở ra nhiều thị trường mới có thu nhập tương đối cao như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Li Bi… đặc biệt là gần đây, nước ta đã bắt đầu chuyển sang xuất khẩu lao động theo hình thức nhận thầu như ở Lào, Cô-oét, Angiêri… Tuy nhiên, công tác xuất khẩu lao động cũng còn nhiều hạn chế, kết quả xuất khẩu lao động chưa tương xứng với tiềm năng lao động và nhu cầu của đất nước, sức ép về lao động và việc làm vẫn hết sức bức bách. Trong thời gian tới, chúng ta phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xuất khẩu lao động, phát triển và mở rộng hơn nữa thị trường lao động để giải quyết được số lao động dôi dư hiện có, tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân. 1.2.5. Chính sách giải quyết việc làm của Đảng và Nhà nước Để giải quyết việc làm, vấn đề quan trọng hàng đầu là Nhà nước phải tạo ra các điều kiện thuận lợi để người lao động có thể tự tạo việc làm thông qua những chính sách kinh tế - xã hội cụ thể. Các chính sách tác động đến việc làm có nhiều loại, có loại tác động trực tiếp, có loại tác động gián tiếp tạo thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ có quan hệ tác động qua lại, bổ sung cho nhau hướng vào phát triển cả cung lẫn cầu về lao động; đồng thời làm cho cung và cầu về lao động xích lại gần nhau, phù hợp với nhau, thực chất là tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu lao động với cơ cấu kinh tế. Chính sách giải quyết việc làm rất đa dạng đã được nhiều nhà khoa học đề cập đến. Trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả chỉ giới hạn đề cập tới một số chính sách chủ yếu nhất. 1.2.5.1. Chính sách đất đai Đất đai có vị trí đặc biệt quan trong, bởi vì nó vừa là tư liệu lao động, vừa là đối tượng lao động của quá trình sản xuất xã hội. Đối với nước ta, đất đai là đối tượng cơ bản nhất để phát triển sản xuất, tạo mở việc làm, đặc biệt là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Theo Luật đất đai, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân, người nông dân có các quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa IX) khẳng định: "Quyền sử dụng đất đai bước đầu trở thành một nguồn vốn để Nhà nước và nhân dân phát triển sản xuất kinh doanh" [13, tr. 58]. Nhờ có chính sách đúng đắn về đất đai đã tạo ra tiềm năng mới để giải phóng sức sản xuất xã hội, tạo mở việc làm, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Khuyến khích người có điều kiện (kể cả người trong nước và nước ngoài) đến khai hoang và kinh doanh theo mô hình trang trại ở các vùng đất còn hoang hóa, quai đê lấn biển… tạo ra nhiều việc làm mới, góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng với tốc độ cao trong những năm qua. Tuy nhiên, dưới góc độ chính sách việc làm, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai hướng vào các nội dung sau: - Khuyến khích và tạo điều kiện cho hộ nông dân dồn điền, đổi thửa tập trung ruộng đất theo chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước. - Thừa nhận quyền sử dụng ruộng đất là một loại hàng hóa đặc biệt, đòi hỏi phải được lưu thông tự do và đảm bảo khả năng sinh lợi. - Xây dựng khung giá đất phù hợp với thực tiễn khách quan đối với mỗi vùng, mỗi địa phương sát với giá thị trường nhằm chống nạn đầu cơ trục lợi từ đất, chống thất thu cho ngân sách nhà nước... Chỉ trên cơ sở đó mới giải phóng mọi tiềm năng của sản xuất, đặc biệt là tiềm năng lao động để tạo mở việc làm, giảm thiểu thất nghiệp, nâng cao đời sống của nhân dân. 1.2.5.2. Chính sách huy động vốn Vốn có vị trí quan trọng, là yếu tố cơ bản để giải quyết việc làm, nếu vốn được gia tăng sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác như: lao động, tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ… để phát triển sản xuất, tạo mở việc làm. Xuất phát từ vị trí, vai trò của vốn, Đảng ta chỉ rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư vào phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ ở bên ngoài. Chiến lược lâu dài là phải huy động tối đa nguồn vốn trong nước để chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư [9, tr. 228]. Vốn trong nước có vai trò quyết định tới sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế vì nó là yếu tố nội lực để đảm bảo xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ không phụ thuộc vào nước ngoài. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập, mở cửa hiện nay, "Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế" [10, tr. 119], cần phải mở rộng thu hút vốn nước ngoài để bổ sung cho nguồn vốn trong nước là hết sức quan trọng và cần thiết. Hiện nay, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặt ra nhu cầu vốn rất lớn; trong khi đó, nước ta vẫn là một nước nghèo, tích lò°y từ nội bộ nền kinh tế rất thấp, mâu thuẫn giữa tích lò°y và tiêu dùng diễn ra gay gắt. Vì vậy, muốn huy động được tối đa các nguồn vốn để phát triển kinh tế, tạo mở việc làm đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách huy động vốn đúng đắn, hữu hiệu và đồng bộ. Trước mắt, cần phải rà soát, hủy bỏ những cơ chế chính sách không phù hợp với thực tiễn, bổ sung, ban hành cơ chế chính sách mới phù hợp để huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài để phát triển sản xuất, tạo mở nhiều việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đưa sự nghiệp đổi mới đất nước tiếp tục đi lên. 1.2.5.3. Chính sách giáo dục đào tạo Chính sách giáo dục đào tạo có ý nghĩa quyết định tới việc làm của người lao động. Thực tiễn cho thấy, chỉ khi nào được trang bị kiến thức, kỹ năng đầy đủ, người lao động mới có hy vọng có khả năng tìm được việc làm. Nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của giáo dục đào tạo, Đảng ta chỉ rõ: "Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo la quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả" [9, tr. 109]. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào nhưng 70% lực lượng lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, lao động phổ thông là chủ yếu, chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Trong xu thế hội nhập, mở cửa hiện nay, yêu cầu đặt ra với nước ta không chỉ là phải thực hiện chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế công nghiệp mà còn phải chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Đó là thách thức rất lớn dẫn đến dư thừa quá nhiều lao động phổ thông mà lại thiếu quá nhiều lao động có kỹ thuật, đặc biệt là lao động "chất xám". Từ đó, đặt ra cho chính sách giáo dục đào tạo gặp rất nhiều khó khăn: vừa phải đào tạo nguồn nhân lực để đi ngay vào kinh tế tri thức để tiếp thu khoa học công nghệ mới, vừa phải giải quyết việc làm cho hàng chục triệu lao động phổ thông. Vì vậy, công tác giáo dục đào tạo trở nên hết sức bức bách. Để giải quyết được khó khăn trên đòi hỏi Nhà nước phải tập trung đầu tư cho giáo dục đào tạo, phải có chính sách và giải pháp hữu hiệu để khắc phục ngay những yếu kém, bất cập như: sự mất cân đối về cơ cầu đào tạo, "bệnh thành tích" chạy theo số lượng, xem nhẹ chất lượng; cơ sở vật chất thiếu thốn không đồng bộ và những tiêu cực khác đang phát sinh làm cản bước phát triển nguồn nhân lực; phải thật sự coi giáo dục đào tạo là "quốc sách hàng đầu" trong tất cả các chính sách được ưu tiên. Bởi vì, vấn đề giải quyết việc làm, tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội phụ thuộc vào giáo dục đào tạo. Năm 1994, UNESCO tổng kết: "Những quốc gia nào coi nhẹ giáo dục hoặc không đủ tri thức và khả năng cần thiết để làm giáo dục một cách có hiệu quả thì số phận quốc gia đó xem như đã an bài và điều đó còn tồi tệ hơn cả sự phá sản" [2, tr. 13]. 1.2.5.4. Chính sách phát triển công nghiệp, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Đẩy mạnh phát triển công nghiệp, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một trong những chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đó là con đường và hướng đi tất yếu để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ đơn giản là công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đơn thuần mà nó còn có tác dụng làm biến đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội chứ không chỉ giải quyết việc làm. Nhưng nếu chỉ xét riêng trong lĩnh vực giải quyết việc làm, chống thất nghiệp thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa có tác động và ảnh hưởng rất lớn. Điều đó được thể hiện như sau: Một là, tạo ra nhiều việc làm mới một cách trực tiếp; Hai là, kéo theo sự phát triển của các lĩnh vực liên quan tới khu công nghiệp, từ đó làm nảy sinh hàng loạt chỗ làm việc mới một cách gián tiếp như: vùng nguyên liệu, đào tạo nghề, gia công…; Ba là, vì lao động trong công nghiệp thường có thu nhập cao, nhu cầu tiêu dùng tăng lên cả về số lượng và chất lượng sẽ kéo theo sự phát triển của lĩnh vực dịch vụ; Bốn là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải tăng nhanh về chất lượng đội ngũ lao động, thúc đẩy người lao động phải tự học hỏi, nâng cao trình độ nghề nghiệp… Do đó, đánh giá, xem xét tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với vấn đề giải quyết việc làm không thể chỉ dựa vào kết quả số lao động nó thu hút một cách trực tiếp mà phải tính đến việc tác động của nó tới việc phát triển các ngành khác và sức hút lao động của các ngành đó. Thấy rõ được vị trí, vai trò quan trọng của công nghiệp, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng và Nhà nước ta luôn luôn trăn trở, quan tâm và có nhiều Nghị quyết, chính sách về phát triển công nghiệp. Bước vào thập niên mới của thế kỷ XXI, Đảng ta chỉ rõ: Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001 - 2010 là: "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại" [10, tr. 159]. 1.2.5.5. Chính sách khôi phục và phát triển nghề truyền thống, du nhập và phát triển ngành, nghề mới Một trong những tiềm năng và thế mạnh của nước ta là có nhiều nghề truyền thống có từ rất lâu đời. Đó là những nghề: dệt tơ lụa, gốm sứ, đúc đồng, sơn mài, khảm trai, chế biến các món ăn đặc sản… nằm rải rác ở tất cả các vùng, miền trong cả nước. Nghề truyền thống có khả năng thu hút nhiều lao động, tận dụng được lao động tại chỗ, giải quyết được việc làm cho nhiều người với nhiều lứa tuổi khác nhau. Đi đôi với khôi phục và phát triển nghề truyền thống cần phải có chính sách du nhập và phát triển ngành, nghề mới để tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động, đặc biệt là lao động ở khu vực nông thôn đang thiếu việc làm. Để khôi phục và phát triển nghề truyền thống, du nhập và phát triển nhiều ngành nghề mới, Nhà nước cần phải có cơ chế chính sách trợ giúp và khuyến khích các cơ sở sản xuất và hộ gia đình như: cho thuê mặt bằng sản xuất, miễn giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất thấp, phát triển các hội, hiệp hội theo các ngành nghề truyền thống để giúp đỡ nhau về công nghệ, vốn và thị trường, tiếp nhận công nghệ mới và các dự án quốc tế… Thực tiễn cho thấy, những năm qua nhờ có chính sách đúng đắn nên chúng ta đã khôi phục được nhiều nghề truyền thống đã một thời bị mai một, mở mang, phát triển được nhiều ngành, nghề mới. Tuy nhiên, tiềm năng này còn rất lớn, đòi hỏi Nhà nước phải tổng kết để rút kinh nghiệm, có cơ chế chính sách mới hữu hiệu, tiếp tục nhân rộng, phát triển nhiều làng nghề, xã nghề trên mọi miền của đất nước; tạo mở nhiều việc làm, tăng thêm thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống cho người lao động. 1.3. Một số Kinh nghiệm về giải quyết việc làm ở nước ngoài và trong nước Trên thế giới, vấn đề giải quyết việc làm ở mỗi quốc gia có hướng đi không giống nhau. Trong khuôn khổ của bản luận văn này, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu kinh nghiệm giải quyết việc làm của Nhật Bản và Trung Quốc, không có tham vọng đề cập đến cách giải quyết việc làm của các nước khác. 1.3.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã để lại hậu quả nặng nề về người và của cho Nhật Bản. Đất nước bị tàn phá kiệt quệ, Nhật Bản phải tìm hướng đi lên từ "đôi bàn tay trắng". Trước tình hình hụt hậu quá xa về kinh tế và công nghệ so với phương Tây, Nhật Bản đã lựa chọn con đường phát triển từ "đầu tư cho giáo dục". Năm 1947, Nhật Bản chỉ rõ: luật giáo dục được coi là nhiệm vụ của quốc gia và là quyền cơ bản của người dân Nhật. Nền giáo dục dựa vào truyền thống thuần Nhật, chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, kỷ luật, tính kiên trì, lòng yêu lao động, tiết kiệm. Hệ thống giáo dục được ưu tiên đặc biệt: "Từ năm 1960 đến nay đầu tư cho giáo dục công cộng chiếm trên 5% GNP" [35, tr. 5]. Giáo dục phổ cập miễn phí cho tất cả trẻ em từ 6 đến 15 tuổi. Do đặt giáo dục là nhiệm vụ trên hết, Nhật Bản đã tạo được nguồn lực lao động có trình độ tay nghề cao - động lực quyết định làm nên kỳ tích sự tăng trưởng "thần kỳ" của kinh tế, đưa nước Nhật trở thành cường quốc kinh tế. Để học tập kỹ thuật tiên tiến của phương Tây, Nhật Bản thực hiện chính sách "nhập khẩu đại học, du học tại chỗ" bằng cách liên kết với các trường đại học của Mỹ và phương Tây mở các chi nhánh trường đại học tại Nhật với giáo viên, nội dung, chương trình giảng dạy như ở chính quốc, kết hợp bổ sung một số môn học do Nhật Bản xây dựng. Bằng cách đó, sinh viên Nhật Bản vừa tiếp thu được kỹ thuật tiên tiến của phương Tây, vừa gắn với tình hình thực tiễn của nước Nhật. Cùng với chăm lo xây dựng hệ thống giáo dục tiên tiến, Nhật Bản cũng rất quan tâm tới chính sách y tế, chăm sóc sức khá¢e cho người lao động. Tỷ lệ chi tiêu quốc gia cho chăm sóc sức khỏe tăng từ 2,6% GNP năm 1961 lên 4,3% GNP năm 1975. Nhờ đó, thể lực người lao động của Nhật Bản được nâng lên nhiều, chẳng hạn: Chiều cao bình quân của thanh niên nam ở tuổi 17 tăng lên từ 1,57 (mét) vào năm 1950 lên 1,69 (mét) năm 1975; của nữ tương ứng là 1,53 và 1,57 (mét). Tuổi thọ trung bình ở Nhật cũng tăng đáng kể: nam tăng từ 63,5 (tuổi) năm 1955 lên 71,8 (tuổi) năm 1975 và tương ứng của nữ là 67,8 và 77,0 tuổi [35, tr. 69]. Qua nghiên cứu hệ thống và phương pháp giáo dục đào tạo của Nhật Bản cho ta thấy Nhật Bản đã chủ động điều chỉnh mục tiêu giáo dục gắn với sự thay đổi kết cấu kinh tế phù hợp với từng giai đoạn. ở giai đoạn thứ nhất, chú trọng phát triển quy mô nhằm phổ cập giáo dục. Giai đoạn thứ hai, vào những năm 80, do yêu cầu phải chiếm lĩnh kỹ thuật công nghệ cao, Nhật Bản lại tập trung đầu tư cho giáo dục đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao kiến thức cho người lao động. Do đó, so với các nước phát triển, lực lượng lao động của Nhật có trình độ học vấn và tay nghề kỹ thuật cao hơn, trở thành một trong những nước dẫn đầu trong nền công nghệ, kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Nhật Bản đã biết kết hợp tài tình những yếu tố "tâm lý và kinh tế" để khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động, tạo nên đội ngũ những người lao động toàn tâm, toàn ý vì sự phồn vinh của doanh nghiệp (hãng, công ty, xí nghiệp). Ngoài tiền lương, công chức còn được lĩnh tiền thưởng. Mỗi khi có sáng kiến mang lại lợi ích cho doanh nghiệp thì người lao động có tiền thưởng. Mức tiền thưởng nhiều hay ít phụ thuộc vào hiệu quả của sáng kiến và kết quả hoạt động của doanh nghiệp, nhờ đó đã kích thích người lao động có ý thức cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Điều đáng chú ý và là nét đặc thù riêng có là Nhật Bản áp dụng chế độ tuyển dụng lao động suốt đời và chế độ trả lương theo thâm niên công tác. Song có sự khác biệt của chế độ tuyển dụng lao động suốt đời so với một số nước khác (như ở Việt Nam và Trung Quốc ở thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung) là ở chỗ các doanh nghiệp Nhật Bản đã thành công trong việc xây dựng và duy trì lòng trung thành tuyệt đối của người lao động đối với doanh nghiệp mình làm việc. Họ không những luôn luôn cố gắng đạt được chất lượng và năng suất cao mà còn luôn thể hiện kỷ luật lao động chặt chẽ, không tự động thôi việc hoặc từ chối công việc được giao phó. Đây chính là điều quan trọng mà người lao động tự nguyện tuân thủ để đổi lấy sự ổn định về việc làm. Mối quan hệ đó được duy trì suốt cuộc đời làm việc của người lao động, kể từ lúc họ nhận vào làm việc ở một doanh nghiệp cho đến khi nghỉ hưu, được hai bên "ngầm hiểu" và trở thành đạo luật bất thành văn trong quan hệ lao động tại thị trường sức lao động của Nhật, nhất là đối với các hãng hoặc công ty lớn. Một trong những giải pháp quan trọng để giải quyết vấn đề việc làm là: Nhật Bản đã duy trì "cơ cấu kinh tế hai tầng" với sự tồn tại song song của hai khu vực kinh tế: kinh tế truyền thống (gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ) và khu vực kinh tế hiện đại. Vì vậy, Nhật Bản không những đã thu hút đông đảo lực lượng lao động có tay nghề thấp mà còn cho phép sử dụng cả lao động nhàn rỗi ở mọi lứa tuổi phục vụ cho các doanh nghiệp nhỏ, là nơi tiếp nhận lao động của các doanh nghiệp lớn khi thiếu việc làm. Vì vậy, sự tồn tại của khu vực sản xuất kinh doanh nhỏ được ví như chiếc van an toàn cho các xí nghiệp lớn và công nhân của họ. 1.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc [14, tr. 78] Hàng năm, Trung Quốc có khoảng 11 triệu người gia nhập thị trường lao động. Thêm vào đó, hiện có khoảng từ 6 đến 9 triệu lao động dôi dư từ các doanh nghiệp nhà nước có nhu cầu về việc làm. Lao động thiếu việc làm ở khu vực nông thôn có khoảng 150 triệu người. Mặc dù Trung Quốc vẫn giữ được mức tăng trưởng kinh tế cao nhất trong những năm gần đây, nhưng mức tăng trưởng này vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về chỗ làm việc cho người lao động. Nhận thức rõ về tầm quan trọng của vấn đề lao động và việc làm Chính phủ Trung Quốc đã đặt mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất. Các biện pháp cụ thể xác định nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ này là: Thứ nhất, đưa mục tiêu giải quyết việc làm vào trong các kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; cải cách cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển nhanh khu vực dịch vụ, khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ; phát triển khu vực kinh tế phi nhà nước; thực hiện các chính sách tài chính tích cực để tăng độ co giãn của cầu lao động. Thứ hai, xây dựng và phát triển thị trường lao động theo hướng thống nhất, mở cửa, cạnh tranh và quy phạm hóa. Trong đó, các biện pháp được chú trọng là: - Hoàn thiện thể chế thị trường lao động để người lao động thực sự tự do đi tìm việc làm, tạo điều kiện thuận lợi để hàng hóa sức lao động có thể lưu thông dễ dàng trên thị trường, khơi thông các rào cản làm phân mảng thị trường giữa các vùng. - Giảm bớt sự can thiệp của các bộ hoặc cơ quan nhà nước và hoạt động của thị trường lao động. Thứ ba, xác định các chính sách thu hút nhân tài một cách hợp lý. Nhà nước có chính sách ưu tiên hộ khẩu cho các nhân tài để thu hút lao động có trình độ cao. Các nhân tài được ưu đãi đặc biệt về trả công lao động; lương của người lao động có trình độ cao hơn nhiều so với lương của lao động trung bình. Ngoài ra, còn được hưởng các ưu đãi đặc biệt về điều kiện lĩnh vực và sinh hoạt (như: ưu đãi về nhà ở, ưu tiên mua cổ phiếu, được cử đi học tập và tu nghiệp ở nước ngoài...); Trung Quốc coi đây là một biện pháp để giữ chân và thu hút nhân tài cả ở trong và ngoài nước. Thứ tư, tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại người lao động. Đứng trước vấn đề nan giải về trình độ chuyên môn và tay nghề lao động thấp và sự bất hợp lý trong kết cấu kỹ năng lao động. Chính phủ đã đề ra nhiều chính sách điều chỉnh bằng cách huy động cả sức dân vào công tác đào tạo nguồn nhân lực. Bằng các biện pháp cho phép thành lập một số lượng lớn các trường đại học và trường dạy nghề dân lập, phát hành trái phiếu xây dựng trường, mở rộng tuyển sinh của các trường đại học (năm 2000 tăng 50%). Cho thành lập quỹ "Chương trình hy vọng" để giúp đỡ các học sinh vùng sâu, vùng xa, các học sinh có điều kiện khó khăn có cơ hội học hành. Thực hiện phổ cập trung học phổ thông 12 năm tại các khu đô thị lớn. Tăng cường đào tạo lao động cho 12 tỉnh miền Tây (là vùng hiện còn kém phát triển) bằng cách xây dựng các trường đại học và cao đẳng tại các địa phương này hoặc thông qua hệ thống giáo dục từ xa. Thứ năm, cải cách chính sách tiền lương hoặc tiền công lao động có thể tóm gọn trong 8 từ sau: "Ưu tiên hiệu quả, chiếu cố công bằng". Yếu tố hiệu quả trên thị trường lao động đã được đặt nên hàng đầu. Yếu tố công bằng trong trả công lao động chỉ được xếp ở hàng "chiếu cố" và được áp dụng bằng những biện pháp cụ thể và kiên quyết như: - Tăng cường việc thu thuế thu nhập cá nhân. - Hoàn thiện chế độ trợ cấp xã hội và mở rộng phạm vi dịch vụ của hệ thống an sinh xã hội (đảm bảo mức sống tối thiểu của mỗi người dân). - Không áp dụng quy định về mức lương tối thiểu. Thứ sáu, nâng cao hiệu quả hoạt động của các "Trung tâm tái tạo việc làm" cho người lao động dôi dư của các doanh nghiệp nhà nước. Để giải quyết vấn đề này, Chính phủ đã quyết định thành lập và đưa vào hoạt động hệ thống các "Trung tâm tái tạo việc làm" cho người lao động. Theo quyết định này, mọi người lao động thuộc diện dôi dư nếu muốn được tiếp tục có công ăn việc làm và được thụ hưởng các phúc lợi vật chất khác đều phải đến đăng ký tham gia vào các trung tâm tái tạo việc làm. Các trung tâm này được coi là bước đệm (chiếc cầu quá độ) chuyển từ chế độ làm việc suốt đời trong các doanh nghiệp nhà nước sang cơ chế phân bổ lao động theo nhu cầu của thị trường. Hệ thống các trung tâm tái tạo việc làm có mục tiêu cơ bản là giúp giải quyết vấn đề lao động dôi dư bằng cách đào tạo nghề nghiệp mới, giúp người lao động làm quen dần với cơ chế thị trường, giúp họ hình thành các kỹ năng cần thiết để có thể thâm nhập thị trường này một cách dễ dàng hơn. Để đảm bảo cho hệ thống các trung tâm này hoạt động có hiệu quả, nhiều biện pháp, chính sách cụ thể đã được hoạch định và đưa vào áp dụng trên thực tế. Cụ thể là: - Đảm bảo tài chính cho hệ thống các trung tâm này hoạt động. Theo quy định của Chính phủ Trung Quốc, có ba nguồn tài chính được huy động: nếu doanh nghiệp có lao động dôi dư vẫn đang hoạt động bình thường, thì doanh nghiệp đó phải có trách nhiệm bảo đảm đời sống tối thiểu cho người lao động của mình đang tham gia đào tạo tại trung tâm; đối với doanh nghiệp thua lỗ, Nhà nước hỗ trợ 1/3 chi phí, doanh nghiệp phải đóng 1/3 và Quỹ bảo trợ thất nghiệp sẽ bảo đảm 1/3 tổng chi phí cho người lao động tại trung tâm; đối với các doanh nghiệp đã bị phá sản hoặc đóng cửa, Nhà nước đảm bảo 2/3 (thay cho phần của doanh nghiệp), 1/3 còn lại do Quỹ bảo trợ chịu trách nhiệm. - Đào tạo nghề cho người lao động. Người lao động dôi dư (thuộc diện đã nêu trên) "bắt buộc" phải tham gia vào các trung tâm này để được đào tạo lại kỹ năng và tay nghề cho phù hợp. Căn cứ vào nhu cầu việc làm và sở trường của từng người lao động, các trung tâm sẽ đào tạo nghề nghiệp cho họ. Các doanh nghiệp có lao động dôi dư cũng bị bắt buộc phải thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với hoạt động đào tạo lại lao động. Thứ bảy, phát triển hệ thống an sinh xã hội gồm ba bộ phận: bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội và chính sách các gia đình quân nhân. - Trung Quốc đang thí điểm việc xã hội hóa bảo hiểm xã hội bằng cách thiết lập các cơ chế nhằm tách rời hoạt động bảo hiểm ra khỏi các doanh nghiệp với các khoản vốn được huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Ngoài ra, còn quan tâm đến các nhóm người bị thiệt thòi trong xã hội và thực hiện nhiều biện pháp để đảm bảo mức sống tối thiểu của họ. Bên cạnh đó, hệ thống bảo trợ xã hội cho người lao động cũng có những đổi mới đáng kể. Trên thực tế, chính sách bảo trợ xã hội hiện nay được thiết kế nhằm các mục tiêu cụ thể như sau: - Bảo lão: là đảm bảo cuộc sống vật chất cho những người già. Đặc biệt, rất chú trọng việc đưa về hưu sớm những người lao động thuộc các ngành nghề nặng nhọc hoặc độc hại. Trong các ngành này, phụ nữ có thể về hưu ở tuổi 45, nam giới ở tuổi 50. - Phụ trung: là giúp đỡ những người trung niên thông qua việc cấp vốn, đào tạo miễn phí, ưu tiên tuyển dụng vào các công việc tại các chung cư, các cộng đồng đô thị đông đúc. - Đẩy thanh: là khuyến khích, thúc đẩy thanh niên (dưới 35 tuổi) tìm kiếm các công ăn việc làm ở ngoài các doanh nghiệp Nhà nước. - Thoát khó: là giúp đỡ các người nghèo, những người có hoàn cảnh đặc biệt (các hộ độc thân, các hộ ly dị...) vượt qua khó khăn. Ngoài ra, chính quyền còn tạo ra nhiều công việc mang tính công ích để tạo việc làm cho người lao động nhất là các lao động dôi dư, lao động đã có tuổi cao. Thậm chí, chính quyền còn bỏ tiền ra "mua" một số công việc để "tặng" cho những người này, giúp họ có phương tiện để có một cuộc sống an toàn và ổn định. Đó là các loại công việc không cần nhiều kỹ năng như: vệ sinh các khu chung cư, bảo vệ, chăm sóc công viên hoặc các khu cộng đồng, bảo an khu vực tập trung đông dân. Tóm lại, qua nghiên cứu các giải pháp về giải quyết việc làm của Nhật Bản và Trung Quốc cho thấy: mỗi quốc gia có những điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội những tiềm năng giải quyết việc làm khác nhau, song trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cần tham khảo và vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm của các quốc gia, dân tộc, nhất là các quốc gia có truyền thống văn hóa - xã hội "có những nét tương đồng" để giải quyết những vấn đề lao động và việc làm ở Việt Nam. 1.3.3. Kinh nghiệm của tỉnh Nam Định Nam Định là tỉnh đông dân, dân số 1.905.300 người, diện tích tự nhiên 163,7 ha, mật độ dân số cao: bình quân 1.164 người/km2 [31, tr. 173]. Trước thời kỳ đổi mới, Nam Định là tỉnh có ngành công nghiệp nhẹ khá phát triển, đặc biệt là công nghiệp dệt may; đã thu hút tạo mở việc làm đảm bảo đời sống cho trên 2 vạn lao động (chưa tính đến số người theo). Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt vào thời kỳ 1986 - 1995, nền kinh tế của tỉnh Nam Định gặp rất nhiều khó khăn. Thị trường truyền thống của Liên Xô và Đông Âu không còn, công nghệ sản xuất cũ lạc hậu, năng suất lao động công nghiệp thấp, giá thành sản phẩm cao, hàng hóa tồn đọng lớn, kinh doanh thua lỗ…, nhiều doanh nghiệp, xí nghiệp công nghiệp bị phá sản, ngành công nghiệp của Nam Định bước vào thời kỳ suy thoái, trầm trọng. Mặt khác, ngành sản xuất nông nghiệp của tỉnh cũng gặp phải nhiều khó khăn: điều kiện tự nhiên của Nam Định không thuận lợi, là vùng chiêm trũng "chiêm khê, mùa úng" nên năng suất lúa không cao, kinh tế nông nghiệp chậm phát triển so với các tỉnh lân cận. Vì vậy, nhìn chung đời sống của người lao động ở cả hai khu vực: nông nghiệp và công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn; vấn đề sức ép lao động và việc làm trở nên bức xúc, gay gắt. Từ năm 1996 (sau 10 năm đổi mới), đặc biệt là những năm gần đây, tỉnh Nam Định đã có nhiều chính sách đúng đắn để phát triển kinh tế, tạo mở việc làm, bước đầu đã thu được một số kết quả quan trọng. Có thể khái quát kinh nghiệm giải quyết việc làm của Nam Định như sau: 1- Chú trọng đầu tư phát triển công nghiệp vừa và nhỏ thuộc nhiều thành phần kinh tế [16]. ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định đã xây dựng chương trình sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2001 - 2005 với những mục tiêu, giải pháp cụ thể như: khôi phục phát triển làng nghề, xây dựng khu vực công nghiệp của tỉnh và các cụm công nghiệp nông thôn có tính khả thi cao, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương; do đó đã khai thác, huy động được hàng trăm tỷ đồng tiền vốn trong dân và các nguồn vốn khác được tập trung đầu tư cho phát triển sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Hàng nghìn máy móc, thiết bị các loại được các chủ cơ sở mua về phục hồi, cải tiến đưa vào sản xuất. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp khu vực ngoài quốc doanh liên tục tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2001 đạt trên 900 tỷ đồng, tăng 16,6% so với năm 2000. Năm 2002 đạt 1.100 tỷ đồng, tăng 21,2% so với năm 2001; năm 2003 đạt 1.444 tỷ đồng, tăng 31,8% so với năm 2002; năm 2004 đạt trên 1.840 tỷ đồng, tăng 27,4% so với năm 2003 và gấp 2 lần năm 2001. Trong giai đoạn này, sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp khu vực tư nhân đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 24,25% mỗi năm, thật là một bước tăng trưởng ngoạn mục. 2- Khôi phục, phát triển làng nghề, khuyến khích lập doanh nghiệp mới [16]. Sau nhiều năm "chao đảo", các địa phương trong tỉnh đã tập trung khôi phục, phát triển làng nghề truyền thống, nhân thêm được một số nghề mới, khuyến khích thành lập hàng trăm doanh nghiệp tư nhân. Thành công đầu tiên được ghi nhận là các làng nghề dệt may sau khi mất thị trường truyền thống Liên Xô và các nước Đông Âu đã tự vươn lên đổi mới toàn diện từ cơ chế quản lý đến thiết bị công nghệ, cải tiến dây chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đặc biệt là chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm ở các nước tư bản phát triển và đã thành công. Kết quả giai đoạn 2001 - 2005, mỗi năm trên địa bàn tỉnh có thêm từ 35 đến 50 doanh nghiệp tư nhân được thành lập mới. Khối doanh nghiệp tư nhân cùng với 40.000 hộ sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp theo quy mô gia đình nằm rải rác tại 87 làng nghề hàng năm đã và đang có đóng góp rất lớn cho nền kinh tế tỉnh, chiếm tỷ trọng khoảng 60% tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn tỉnh. 3- Tập trung xây dựng cụm công nghiệp, điểm công nghiệp nông thôn [16, tr. 6]. Tính đến thời điểm tháng 4/2005, ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định đã phê duyệt 16 dự án xây dựng cụm công nghiệp nông thôn thuộc các địa phương trong tỉnh (Xuân Trường: 4, Trực Ninh: 2, ý Yên: 3, Nam Trực: 2; các huyện Vụ Bản, Giao Thủy, Nghĩa Hưng, Hải Hậu và thành phố Nam Định mỗi địa phương 1). Đến hết năm 2004 đã có 7/16 cụm công nghiệp đã được cấp giấy phép đi vào hoạt động, thu hút 119 chủ đầu tư với tổng số vốn các dự án thực hiện đạt gần 100 tỷ đồng, thu hút 2.200 lao động vào làm việc. Các cụm công nghiệp tỉnh, cụm công nghiệp và điểm công nghiệp nông thôn ra đời vừa góp phần đẩy mạnh sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở mỗi địa phương, vừa thúc đẩy quá trình phân công lại lao động nông nghiệp, nông thôn theo hướng: "Hướng công bất hướng thị, ly nông bất ly hương", bảo vệ nuôi dưỡng làng nghề, xây dựng nông thôn mới. 4- Đẩy nhanh phát triển nông nghiệp toàn diện, bền vững theo hướng sản xuất hàng hóa trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, tỉnh đã tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ. Thực hiện áp dụng khoa học - công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp để tăng năng suất và chất lượng của cây trồng, vật nuôi; áp dụng luân canh tăng vụ phù hợp, thực hiện tốt và có hiệu quả mối liên kết giữa 4 nhà (Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp); nâng cao năng suất lúa từ 11,12 tấn/ha năm 2000 lên 12,27 tấn/ha năm 2004, đưa nông nghiệp của tỉnh phát triển và bước vào thời kỳ mới: Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm qua của ngành nông nghiệp là 3,28%. Giá trị thu nhập trên 1 ha canh tác tăng từ 28 triệu đồng (năm 2001) lên 33,13 triệu đồng (năm 2004). Toàn tỉnh đã có 8/11 huyện, thành phố, 93/313 hợp tác xã có cánh đồng thu nhập 50 - 100 triệu/ha với diện tích hơn 10.000 ha, chiếm 11,29% diện tích canh tác, trong đó có 1.000 ha đạt 70 triệu đồng trở lên. Phấn đấu đến năm 2010, Nam Định trở thành tỉnh có cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ, giá trị thu nhập bình trên 1 ha canh tác đạt 39 triệu đồng, lực lượng lao động nông nghiệp chỉ còn 50% [15]. 5- Đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thủy sản dưới nhiều loại hình tổ chức sản xuất, quy mô phù hợp [1]. Để giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn, tỉnh đã chú trọng đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. Đến năm 2004, toàn tỉnh đã có tổng diện tích nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 7.700 ha, vùng nước mặn, lợ là 6.400 ha. Năm 2005, toàn tỉnh duy trì 4.500 ha nuôi tôm sú thương phẩm, trong đó nuôi công nghiệp 300 ha, nuôi bán công nghiệp 700 ha, còn lại nuôi quảng canh cải tiến. Sản lượng tôm sú thương phẩm đạt 3.400 tấn, tăng 700 tấn so với năm 2004. Mặt khác, tỉnh khuyến khích việc chuyển đổi ruộng trũng cấy lúa năng suất thấp sang nuôi trồng thủy sản. Hiện nay, một số huyện đã quy hoạch thành khu 10 - 15 ha cho các hộ đấu thầu, nơi nhỏ 1 - 2 ha (theo mô hình VAC) để nuôi cá rô phi đơn tính và tôm càng xanh. Ngoài ra, tỉnh còn đẩy mạnh và phát triển nuôi ngao và đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt: năm 2004, với diện tích 700 ha đã cho sản lượng khá lớn, năng suất ngao đạt 13 tấn/ha. Hiện nay, dự án xuất khẩu ngao đã và đang triển khai và được thị trường nhiều nước tiếp nhận, mở ra nhiều triển vọng mới trong chương trình phát triển, nuôi trồng thủy sản, mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách của tỉnh và và tạo mở được nhiều việc làm cho người lao động. Tóm lại, bằng cách tập trung phát triển kinh tế, "đột phá" ở những khâu trọng điểm như: xây dựng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, điểm công nghiệp phù hợp, khôi phục và phát triển làng nghề, đổi mới công nghệ và mở rộng tìm kiếm thị trường; chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thủy, hải sản…; Nam Định đã thành công trong việc thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh tăng trưởng, giải phóng được mọi tiềm năng, mở ra nhiều ngành nghề mới, tạo mở nhiều việc làm, giảm đáng kể sức ép về lao động và việc làm sau nhiều năm khó khăn "chao đảo", tìm cách đi ra và đi lên cho nền kinh tế của tỉnh; những thành công và những bài học kinh nghiệm trên đây của Nam Định các tỉnh cần nghiên cứu để vận dụng. 1.3.4. Kinh nghiệm của thành phố Hà Nội Hà Nội - Thủ đô - trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước. Theo Cục Thống kê Hà Nội năm 2000, Hà Nội có diện tích 920,97 km2, dân số 2.734.700 người, đông dân nhất khu vực phía Bắc và đứng thứ hai trong cả nước; mật độ dân số cao, bình quân 2.993 người/km2; cơ cấu dân số trẻ, lực lượng lao động chiếm trên 50% dân số trung bình. Lực lượng lao động ở Hà Nội có chất lượng, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn so với các tỉnh phía Bắc. Tuy nhiên, do lực lượng lao động đông, tốc độ phát triển của nguồn nhân lực tăng nhanh nên sức ép về lao động và việc làm thường xuyên diễn ra gay gắt, bức xúc. Trong những năm qua, Hà Nội đã có nhiều giải pháp đúng đắn để phát triển kinh tế, tạo mở việc làm, thu được một số kết quả đáng ghi nhận. Có thể khái quát kinh nghiệm giải quyết việc làm của Hà Nội như sau: 1- Đẩy mạnh công tác giáo dục - đào tạo, đặc biệt là đào tạo lại nghề cho người lao động. Đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện các cấp học, tạo tiền đề cho đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động; Thực hiện các giải pháp đồng bộ trong đào tạo nghề, gắn đào tạo với sử dụng lao động, vừa đảm bảo hiệu quả của giáo dục - đào tạo, vừa phục vụ kịp thời nhu cầu của sản xuất kinh doanh. 2- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với sự phát triển đa dạng các ngành, nghề sử dụng nhiều lao động. Phát triển công nghiệp đã thu hút 20.000 lao động vào làm việc trong năm 2002; phát triển các ngành nghề truyền thống như: gốm sứ Bát Tràng, dệt Yên Thái, đúc đồng Ngũ Xá, vàng Định Công…; phát triển các loại dịch vụ có chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu của khách quốc tế và khách trong nước. 3- Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn ngoại thành, đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi; tạo mở nhiều việc làm, phát triển chăn nuôi và kinh tế vườn; thực hiện đồng bộ chương trình xóa đói, giảm nghèo; phát triển ngành, nghề và dịch vụ nhỏ ở nông thôn. 4- Mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước và đẩy mạnh xuất khẩu lao động. 5- Tạo môi trường thuận lợi, khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn tạo việc làm, đẩy mạnh phát triển thị trường sức lao động, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm. 1.3.5. Kinh nghiệm của Thanh Hóa Thanh Hóa là tỉnh có nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, dân số đông trên 1,8 triệu người, 80% số dân sống ở nông thôn, cơ cấu lao động trẻ, lực lượng lao động dồi dào chiếm trên 50% dân số trung bình của tỉnh. Tuy có số lượng lao động đông nhưng chất lượng của nguồn lao động rất thấp, thể hiện: Năm 1977, tỷ lệ lao động chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học là 13,26%, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật mới đạt 12,18%. Hàng năm, toàn tỉnh có trên 3 vạn người đến tuổi lao động chưa có việc làm, chưa kể số lao động của năm trước chuyển sang, Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn rất lớn, mới sử dụng 70% quỹ thời gian làm việc trong năm [19, tr. 35]. Để giảm sức ép lao động và việc làm, những năm qua Thanh Hóa đã tập trung vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn. Xây dựng và phát triển các vùng nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến như vùng mía đường, vùng cây nguyên liệu sản xuất giấy, vùng nguyên liệu để sản xuất xi măng…; bảo vệ, chăm sóc, trồng rừng; đầu tư đánh bắt xa bờ; đẩy mạnh nuôi trồng thủy, hải sản; phát triển chăn nuôi đại gia súc; gia súc, gia cầm; khôi phục nghề truyền thống và phát triển ngành, nghề mới; phát triển thương mại dịch vụ…; hàng năm đã tạo ra việc làm mới cho trên 10 vạn lao động, là một trong những tỉnh có những giải pháp tốt về giải quyết việc làm cho người lao động. Kinh nghiệm giải quyết việc làm của Thanh Hóa có thể khái quát như sau: 1- Tập trung đầu tư đào tạo nghề cho người lao động để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là ở các lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi, khôi phục các ngành nghề truyền thống; khuyến khích tư nhân và các tổ chức xã hội mở cơ sở dạy nghề. 2- Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tạo mở việc làm, gắn kết chương trình giải quyết việc làm với các chương trình kinh tế - xã hội. 3- Xây dựng chính sách ưu tiên, khuyến khích, hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh, tạo mở việc làm mới như: cho vay vốn ưu đãi, miễn giảm thuế 5 năm thời kỳ đầu đối với các ngành nghề mới, cho thuê, mượn mặt bằng để tổ chức sản xuất. 4- Khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, phân vùng ruộng đất ở những nơi sản xuất nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp, điều hòa lợi ích giữa những người sản xuất nguyên liệu với bên chế biến ra thành phẩm 5- Có kế hoạch và quy hoạch di dân từ các vùng có mật độ dân số đông đến các vùng có mật độ dân số ít người; đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động có hiệu quả. * Những bài học kinh nghiệm rút ra từ giải quyết việc làm ở nước ngoài và trong nước Từ nghiên cứu kinh nghiệm giải quyết vấn đề việc làm có tính điển hình ở nước ngoài (Nhật Bản, Trung Quốc) và một số tỉnh, thành trong nước; đối với Thái Bình là một tỉnh thuần nông, "đất chật, người đông", lao động phổ thông là chủ yếu, để giải quyết việc làm có hiệu quả cần vận dụng những bài học kinh nghiệm sau: 1- Chú trọng đầu tư, phát triển giáo dục - đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo nghề cho người lao động. 2- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. 3- Khôi phục và phát triển nghề truyền thống, du nhập và phát triển ngành nghề mới. 4- Xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách đầu tư thông thoáng để tạo nên "sức hút" đầu tư; lựa chọn đầu tư phát triển những ngành nghề có công nghệ phù hợp với khả năng, trình độ của người lao động Thái Bình như: dệt, may, giày da, hàng mỹ nghệ cao cấp... 5- Đẩy mạnh xuất khẩu lao động. 6- Xây dựng phát triển kinh tế biển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Tùy theo đặc điểm kinh tế - xã hội cụ thể của từng vùng, miền mà sự vận dụng những kinh nghiệm trên có thể được áp dụng một cách sáng tạo, có hiệu quả. Chương 2 Thực trạng giải quyết việc làm và những bức xúc đặt ra ở tỉnh Thái Bình 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng trực tiếp tới việc làm ở Thái Bình 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên - đất chật, người đông, tài nguyên có hạn [38, tr. 1-6] Thái Bình là tỉnh đồng bằng châu thổ sông Hồng; phía Bắc giáp Hải Phòng, phía Nam giáp Nam Định, phía Tây giáp Hưng Yên và Hải Dương, phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ (biển Đông). Trung tâm của tỉnh là thành phố Thái Bình, cách Hà Nội 100km. Tỉnh có 1 thành phố, 7 huyện, 8 phường, 7 thị trấn và 269 xã. Tính đến 31/12/2004, dân số có 1.843.000 người, là tỉnh "đất chật, người đông", 94% dân số sống ở nông thôn, nguồn lao động dồi dào nhưng chủ yếu là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo. Thái Bình được bao bọc bởi các con sông lớn và biển cả, đó là: sông Hồng, sông Hóa, sông Luộc và biển Đông; là tỉnh duy nhất không có đồi núi, đất đai màu mỡ phì nhiêu. Trước đây, địa phương này được ví như "một ốc đảo" nhưng từ năm 2000 đến nay sau khi dự án quốc lộ 10 và quốc lộ 39 được nâng cấp thì Thái Bình trở thành tỉnh có mạng lưới giao thông thủy bộ khá phát triển. Tuyến quốc lộ 10 đã nối Thái Bình với Nam Định - Ninh Bình, Hải Phòng - Quảng Ninh; tuyến quốc lộ 39 đã nối Thái Bình với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ; với Hà Nội và các tỉnh phía Bắc; cảng Diêm Điền được đầu tư trở thành một trong những cảng lớn của quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giao lưu kinh tế biển; các con sông lớn bao quanh tỉnh, tạo điều kiện cho giao thông đường sông phát triển. Mặt khác, điều kiện tự nhiên cũng ưu đãi cho sản xuất nông nghiệp: sông ngòi nhiều, có nhiều cửa sông lớn đổ ra biển như: cửa Ba Lạt, cửa Trà Lý và cửa Thái Bình đã tạo thuận lợi trong việc tưới tiêu, nhất là cho phát triển cây lúa nước và kinh tế biển. - Về tài nguyên đất Tổng diện tích đất tự nhiên là 154.601 ha, trong đó: - Đất nông nghiệp chiếm 62,7%. - Đất nông nghiệp chiếm 3,6%. - Đất chuyên dùng và đất ở chiếm 21,1%. - Đất có mặt nước nuôi trồng thủy, hải sản chiếm 6,34%. - Đất chưa sử dụng chiếm 6,26%. Thái Bình có thuận lợi: bờ biển dài, nước biển nông không sâu, hàng năm phù sa bồi đắp tiến ra biển hàng trăm mét nên rất thuận tiện trong việc quai đê lấn biển và phát triển kinh tế. - Về tài nguyên khoáng sản Nhìn chung, là một tỉnh nghèo về tài nguyên khoáng sản; bù đắp lại sự thiếu hụt đó; Thái Bình có bờ biển dài xấp xỉ 50 km, nước biển lại có độ mặn cao hơn so với các vùng khác nên đã tạo thuận lợi cho nghề muối (diêm nghiệp) phát triển. Trong lòng vùng ven biển có khí đốt, trữ lượng lớn có thể phát triển công nghiệp dầu khí nguồn nước khoáng thiên nhiên ở độ sâu 500m, trữ lượng lớn đang được khai thác với các sản phẩm: "nước khoáng Tiền Hải", "nước khoáng Vital" được thị trường ưa chuộng. Mặt khác, cũng chính từ đặc điểm này buộc Thái Bình phải bứt phá tìm hướng "đi ra và đi lên" để thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh tăng trưởng, đẩy mạnh phát triển sản xuất, tạo mở việc làm cho người lao động. 2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội Tính đặc thù nổi bật của nền kinh tế Thái Bình là sản xuất thuần nông, công nghiệp nhỏ bé lạc hậu, dịch vụ thương mại chậm phát triển. Xét về mặt lịch sử xã hội, Thái Bình là "cái nôi" của nền văn minh lúa nước; là mảnh đất có truyền thống hiếu học, có nhiều bậc hiền tài; mảnh đất mang đậm đà của những nét đẹp văn hóa dân cư đồng bằng châu thổ sông Hồng, lại vừa mang sắc thái văn hóa riêng: đa dạng, trữ tình, cởi mở và phóng khoáng. Thái Bình là miền đất giàu truyền thống yêu nước, con người Thái Bình lao động cần cù, sáng tạo, hiên ngang quật cường trong đấu tranh, luôn đi đầu với cái mới và rất nhạy cảm với cái mới. Sau sự kiện mất ổn định ở nông thôn Thái Bình từ 1997 đến nay, tình hình chính trị đã ổn định. Thành tựu nổi bật nhất về kinh tế - xã hội của tỉnh những năm qua là: "Cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường; văn hóa - xã hội được tiếp tục phát triển; an ninh chính trị; trật tự an toàn xã hội bảo đảm; đời sống nhân dân được cải thiện; bộ mặt nông thôn và đô thị thay đổi nhanh chóng" [26, tr. 33]. Những năm qua, nền kinh tế của Thái Bình đã có những chuyển biến tích cực, phản ánh những cố gắng bước đầu của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Tốc độ tăng trưởng (GDP) liên tục tăng lên qua các năm: từ 103,19% năm 2000 lên 110,25% năm 2004 (xem bảng 2.1). Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Thái Bình qua các năm Đơn vị tính:% Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Tốc độ tăng trưởng +3,19 +4,48 +7,50 +5,72 +10,25 Nguồn: Cục thống kê tỉnh Thái Bình [5, tr. 33], [6, tr. 1]. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, đời sống của người dân trong tỉnh được cải thiện rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng qua các năm; từ 3.189 nghìn đồng/người/năm vào năm 2000 lên 4.494 nghìn đồng/người/năm 2004 (xem bảng 2.2). Bảng 2.2: GDP bình quân đầu người qua các năm Đơn vị tính: nghìn đồng Năm 2000 2001 2002 2003 2004 GDP bình quân/người 3.189 3.341 3.635 3.889 4.494 Nguồn: Cục thống kê tỉnh Thái Bình [5, tr. 34], [6, tr. 1]. Đi đôi với tăng trưởng kinh tế, lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng có nhiều tiến bộ: sự nghiệp giáo dục đào tạo phát triển cả về quy mô và chất lượng, 8 đơn vị cấp huyện và thành phố đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong độ tuổi quy định; các lĩnh vực khác như chăm sóc sức khá¢e nhân dân, hoạt động thể thao, kế hoạch dân số và việc làm, xóa đói giảm nghèo, an ninh - quốc phòng được quan tâm và có nhiều tiến bộ. Tóm lại, nghiên cứu khái quát đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đối với vấn đề lao động và việc làm, Thái Bình có những thuận lợi và khó khăn sau: * Thuận lợi 1- Tiềm năng lớn nhất là con người Thái Bình thông minh, sáng tạo trong lao động, anh dũng quật cường trong đấu tranh cách mạng, nhạy bén với cái mới và biết nhân rộng cái mới. 2- Lực lượng lao động dồi dào, đây là nguồn lực quý để phát triển kinh tế - xã hội, một khi tỉnh có chính sách đúng đắn để phát triển và sử dụng nguồn lực này. 3- Cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm, nước sạch, thông tin ở nông thôn Thái Bình phát triển khá đồng bộ, cảng Diêm Điền; các tuyến quốc lộ 10, 39 được nâng cấp... đã tạo cho Thái Bình có bước nhảy vọt về chất, phá được thế "ốc đảo", trở thành tỉnh có mạng lưới giao thông thủy bộ khá phát triển. Đây là cơ sở thuận lợi để thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm cho người lao động. 4- Là tỉnh có nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm: đất đai màu mỡ là cơ sở thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp hiện đại; nguồn khí đốt với trữ lượng lớn là cơ sở để phát triển công nghiệp dầu khí, phục vụ cho các ngành công nghiệp địa phương phát triển; bờ biển dài, nước biển nông hàng năm phù sa bồi đắp tiến ra biển hàng trăm mét tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế biển và quai đê lấn biển để tăng thêm quỹ đất, phát triển việc làm… * Khó khăn 1- Là tỉnh đất chật người đông, mật độ dân số gấp 5,7% lần so với cả nước, đây là khó khăn, thách thức lớn trong vấn đề giải quyết việc làm của tỉnh. 2- Cơ cấu kinh tế lạc hậu: tỷ trọng nông nghiệp lớn trong khi đó tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ không đáng kể. 3- Nguồn lao động dồi dào nhưng chất lượng thấp, chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo. 4- Nguồn tài nguyên thiên nhiên nghèo, tuy có trữ lượng khí đốt lớn nhưng vẫn ở dạng tiềm năng, đã khai thác nhưng chưa đáng kể. Cần phải tiếp tục đầu tư để có kế hoạch khai thác, sử dụng và phát triển ngành công nghiệp quý hiếm này. 5- Sau sự kiện mất ổn định chính trị ở nông thôn Thái Bình (1997 - 1998), tỉnh đã có nhiều chính sách thông thoáng để thu hút đầu tư nhưng đến nay nhiều nhà đầu tư vẫn có tâm lý ngại về đầu tư ở Thái Bình. Những thuận lợi khó khăn trên đã tác động lớn tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm của tỉnh. 2.2. Thực trạng giải quyết việc làm ở Thái Bình 2.2.1. Quy mô, chất lượng nguồn lao động Thái Bình là tỉnh có diện tích nhỏ nhưng mật độ dân số quá cao 1.118 người/km2 cao gấp 5,7 lần so với mật độ dân số của cả nước, gấp 10 lần so với mật độ dân số của Trung Quốc và gấp 29 lần so với mật độ dân số thế giới. Bảng 2.3: Tỷ lệ tăng dân số của Thái Bình qua các năm Đơn vị: % Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Tỷ lệ tăng 1,082 1,018 0,975 0,945 0,70 Nguồn: Cục thống kê Thái Bình [5, tr. 16], [6, tr. 1]. Những năm gần đây tỉnh đã có nhiều cố gắng trong chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình nên tỉ lệ tăng dân số tự nhiên có xu hướng giảm dần (xem bảng 2.3): từ 1,082% năm 2000 xuống 0.7% năm 2004; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của tỉnh chỉ bằng 1/2 của cả nước (năm 2004 tỷ lệ tăng dân số của cả nước là 1,4%). Bảng 2.4: Cơ cấu độ tuổi của lực lượng lao động Thái Bình Nhóm tuổi Số lượng (người) Tỷ lệ (%) 15 - 24 318.585 24,95 25 - 34 269.649 21,12 35 - 44 267.391 20,94 45 - 54 158.911 12,44 55 - 59 49.438 3,87  60 213.073 16,68 Tổng số 12.770.047 100,00 Nguồn: Điều tra dân số, việc làm và nhà ở Thái Bình [34, tr. 39]. Nghiên cứu cơ cấu độ tuổi của lực lượng lao động tỉnh cho thấy: nhóm lao động trẻ ở độ tuổi 15 - 34 tuổi có 588.234 người, chiếm 46,07%; nhóm lao động ở độ tuổi trung niên 35 - 54 tuổi có 426.302 người, chiếm 33,38%; nhóm ở độ tuổi lao động cao 55 - 59 tuổi có 49.438 người, chiếm 3,7% so với tổng lực lượng lao động xã hội. Điều đó cho thấy, Thái Bình có cơ cấu lao động trẻ chiếm cao nhất 46,07%; đây là tiềm năng và là thế mạnh của nguồn nhân lực Thái Bình, là cơ sở để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động (xem bảng 2.4). Nghiên cứu thực tế cho thấy, Thái Bình là tỉnh đất chật, người đông với sự phát triển và biến động dân số, lao động hàng năm cao nên đã gây ra sức ép lớn và là bài toán khó giải về vấn đề lao động và việc làm. Theo chương trình, kế hoạch giải quyết việc làm của Thái Bình từ 2000 đến 2005 cho thấy: - Số lượng lao động cần phải giải quyết việc làm trong năm 2000 là 39.000 người, bao gồm: số lao động thất nghiệp của năm 1999 chuyển sang là 15.000 người; số người đến tuổi lao động có khả năng lao động là 14.000 người; học sinh, sinh viên ra trường, bộ đội hoàn thành nghĩa vụ trở về 8000 người; lao động mất việc làm trong các doanh nghiệp và các loại khác là 2.000 người. Bảng 2.5: Phân bố dân cư theo địa giới hành chính của tỉnh Thái Bình Đơn vị hành chính Tổng số (người) Chia theo khu vực (%) Thành thị Nông thôn Toàn tỉnh 1.836.776 6,00 94,00 Thành phố Thái Bình 136.022 53,40 46,60 Quỳnh Phụ 244.889 4,30 95,70 Hưng Hà 251.855 6,10 93,90 Thái Thụy 266.513 6,70 93,30 Đông Hưng 256.208 5,80 94,20 Vũ Thư 228.705 6,00 94,00 Kiến Xương 239.870 5,90 94,10 Tiền Hải 212.714 5,80 94,20 Nguồn: Cục thống kê Thái Bình [5, tr. 101]. - Số lao động giảm trong năm là 13.500 người, bao gồm: số người đi nghĩa vụ quân sự là 10.000 người, đi học cao đẳng, đại học, công nhân kỹ thuật là 2000 người; hết tuổi lao động (chỉ tính khu vực nông nghiệp) là 1.500 người. Sau khi đối trừ giữa số lao động tăng và giảm trong năm, cho thấy: năm 2000 số lao động cần phải giải quyết việc làm mới là 25.500 người; ngoài ra còn phải giải quyết thêm việc làm cho 190.800 người thiếu việc làm (chủ yếu ở khu vực nông thôn) [38, tr. 9]. Cũng theo cách tính trên, từ năm 2001 - 2010 bình quân mỗi năm đòi hỏi phải giải quyết việc làm mới cho trên 2 vạn lao động và phải tạo thêm việc cho 140 nghìn người đang thiếu việc làm. Trong khi đó khả năng giải quyết việc làm của tỉnh có hạn, mâu thuẫn về cung - cầu lao động quá lớn, tạo ra sức ép ngày càng nặng nề trong giải quyết việc làm của tỉnh Thái Bình. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng nghèo đói, di dân vô tổ chức, gây xáo trộn xã hội, tàn phá tài nguyên, hủy hoại môi trường, làm phát sinh các tệ nạn xã hội, gây ra biết bao khó khăn cho quản lý nhà nước về kinh tế và xã hội. Mặt khác, dân số của tỉnh chủ yếu sống ở nông thôn, chiếm 94% tổng dân số; lao động trong ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao 76,57%, công nghiệp - xây dựng chiếm 15,7% và thương mại dịch vụ chỉ chiếm 7,73% [38, tr. 3]. Điều này phản ảnh cơ cấu kinh tế rất lạc hậu, mức phát triển công nghiệp và đô thị hóa còn rất thấp. Đây thực sự là khó khăn lớn của tỉnh để chuyển từ cơ cấu lao động nông nghiệp là chủ yếu sang thời kì mới, thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. 2.2.2. Chất lượng nguồn lao động Trong cơ chế thị trường vấn đề việc làm của người lao động phụ thuộc vào chất lượng nguồn lao động. Chất lượng nguồn lao động thể hiện ở các mặt thể lực và trí lực (trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật). * Về mặt thể lực Sức khá¢e, thể trạng của người Việt Nam nói chung, ở Thái Bình nói riêng là nhỏ bé, hạn chế nhiều về mặt thể lực. Theo số liệu điều tra năm 2000: trong khi chiều cao trung bình của người Việt Nam là 1,50m; cân nặng 39kg thì các con số tương ứng của người Philippines là 1,53m và 45,5 kg; người Nhật là 1,64m và 53,3kg. Số người không đủ tiêu chuẩn về cân nặng ở Việt Nam chiếm tới 48,7%. Số lượng người lớn suy dinh dưỡng là 28%, phụ nữ thiếu máu là 40% [14, tr. 108]. Thực tiễn còn cho thấy, vấn đề vệ sinh thực phẩm rất đáng lo ngại, việc sử dụng các hóa chất bừa bãi không đúng quy định về an toàn thực phẩm đang diễn ra hàng ngày làm ảnh hưởng đến sức khá¢e của nhân dân. Ngoài ra, một số chỉ tiêu có liên quan đến y tế, chăm sóc sức khá¢e, vệ sinh môi trường còn ở mức thấp, đặc biệt là ở những nơi vùng sâu, vùng xa có trình độ dân trí thấp... Tất cả những điều đó phải ánh phần nào sự hạn chế về mặt thể lực của lực lượng lao động ở tỉnh Thái Bình nói riêng cũng như lực lượng lao động ở Việt Nam nói chung. * Trình độ học vấn Đối với nguồn lao động thì trình độ học vấn là một trong những tiêu chí cơ bản, là cơ sở quan trọng để đánh giá chất lượng, khả năng và hiệu quả làm việc của nguồn lao động. Trong thời đại ngày nay, khoa học - công nghệ đã thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội thì trình độ học vấn càng trở lên quan trọng. Người lao động chỉ có thể tìm được việc làm ở những nơi có dây chuyền sản xuất ở mức độ trung bình tiên tiến đến hiện đại, một khi họ có trình độ học vấn cao và trình độ chuyên môn kỹ thuật nhất định. Trong những năm qua, trình độ học vấn của lực lượng lao động Thái Bình có tiến bộ rõ rệt: Bảng 2.6: Trình độ học vấn của lực lượng lao động Thái Bình Đơn vị: % Tiêu chí 2000 2001 2002 2003 2004 Chưa tốt nghiệp tiểu học và không biết chữ 7,19 6,75 5,04 2,15 1,13 Tốt nghiệp tiểu học 14,2 10,30 8,50 6,10 3,45 Tốt nghiệp trung học cơ sở 50,75 53,14 54,92 55,28 50,26 Tốt nghiệp phổ thông trung học 27.86 29,81 31,54 36,47 45,16 Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Nguồn: ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình [38, tr. 2]. - Tỷ lệ lao động tốt nghiệp phổ thông trung học liên tục tăng lên qua các năm: từ 27,86% năm 2000 lên 45,16% năm 2004. - Tỷ lệ lao động có trình độ tốt nghiệp tiểu học giảm xuống nhanh chóng từ 14,2% năm 2000 xuống 3,45% năm 2004. - Tỷ lệ lao động chưa tốt nghiệp tiểu học và chưa biết chữ giảm nhanh năm 2000 là 8,5% đến 31/12/2004 chỉ còn 1,13%. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động ở trình độ phổ thông cơ sở vẫn còn cao 50,26% đây là khó khăn lớn đối với công tác đào tạo nghề cho người lao động. Bởi vì những ngành nghề có công nghệ tiên tiến đòi hỏi người lao động phải có trình độ văn hóa tốt nghiệp trung học phổ thông thì mới có thể tiếp thu được chuyên môn kỹ thuật nghề nghiệp. Thực trạng trên đặt ra, nếu tỉnh không có giải pháp hữu hiệu để tăng nhanh tỷ lệ lao động phổ thông trung học thì không thể thực hiện được mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn lực lao động đáp ứng cho yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. * Trình độ chuyên môn kỹ thuật Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá chất lượng và khả năng hoàn thành công việc của người lao động. Qua nghiên cứu bảng 2.7 ta thấy, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động Thái Bình rất thấp,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN-Giải quyết việc làm ở Thái Bình- thực trạng và giải pháp.pdf
Tài liệu liên quan