Luận văn Vấn đề đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào

Tài liệu Luận văn Vấn đề đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào: LUẬN VĂN: Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Qua hơn mười lăm năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Nhân dân cách mạng (NDCM) Lào khởi xướng và lãnh đạo, bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1986) mở đường cho một thời kỳ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng NDCM Lào đã đề ra chương trình cải cách hành chính và đổi mới cơ chế, chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước đối với tất cả các lĩnh vực, các ngành, trong đó có thương mại nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Cộng hoà Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào đến năm 2020. Trọng tâm của chương trình cải cách và đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế là hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức bộ máy quản lý kinh tế, nâng cao hiệu lự...

pdf78 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1018 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Qua hơn mười lăm năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Nhân dân cách mạng (NDCM) Lào khởi xướng và lãnh đạo, bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1986) mở đường cho một thời kỳ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng NDCM Lào đã đề ra chương trình cải cách hành chính và đổi mới cơ chế, chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước đối với tất cả các lĩnh vực, các ngành, trong đó có thương mại nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Cộng hoà Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào đến năm 2020. Trọng tâm của chương trình cải cách và đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế là hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức bộ máy quản lý kinh tế, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của bộ máy quản lý, đảm bảo thực hiện những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước đề ra, phù hợp xu thế của thời đại mới. Vì vậy, đòi hỏi tất cả các ngành kinh tế quốc dân nói chung và ngành thương mại nói riêng phải đổi mới cơ chế, chính sách, các công cụ và phương pháp quản lý vĩ mô... cho phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo định hướng XHCN. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong những năm qua, quản lý nhà nước về kinh tế nói chung và đối với thương mại nói riêng đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy vậy, vẫn còn một số hạn chế, vừa chưa định hướng quy hoạch chiến lược phát triển, vừa chưa quản lý kiểm soát chặt chẽ hoạt động thương mại của các thành phần kinh tế tham gia. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, hoạt động thương mại của thành phần kinh tế nhà nước còn bị động, lúng túng chưa phát huy được vai trò chủ đạo, hoạt động thương mại của thành phần kinh tế ngoài nhà nước phát triển nhanh nhưng không đồng đều giữa các vùng, miền, thị trường nông thôn miền núi hầu như bị "bỏ trống". Chính vì lẽ đó đòi hỏi phải có sự tác động của quản lý nhà nước nhằm phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là địa bàn nông thôn miền núi. Bó Kẹo là tỉnh miền núi nhưng có cả đồng bằng và đô thị, hoạt động thương mại có sự đan xen, hỗ trợ lẫn nhau. Ngoài ra, Bó Kẹo còn có vị trí địa lý thuận lợi là cầu nối giữa các tỉnh miền núi phía Tây Đông Bắc, có nhiều tiềm năng để phát triển thương mại. Tuy nhiên, quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu và giải quyết trong thực tiễn. Là người trực tiếp tham gia quản lý trong lĩnh vực này, tôi chọn đề tài: "Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào " làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý nhà nước về thương mại trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung - quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng đã được nhiều nhà khoa học, nhà kinh tế và nhà quản lý quan tâm. ở Việt Nam, đã có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu dưới dạng chuyên đề được đăng trên các báo chí, tạp chí và công trình khoa học đã công bố như: luận văn thạc sĩ: "Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về thương mại trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá" của Nguyễn Xuân Thiện (2000). Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước "Đổi mới và hoàn thiện quản lý nhà nước về thương mại trên thị trường nội địa nước ta thời kỳ đến năm 2010" (2003) của Bộ Thương mại. - Đổi mới, hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý thương mại dịch vụ, Giáo sư Hoàng Đạt (Bộ Thương mại). - Thị trường nội địa thống nhất và quản lý nhà nước về thương nghiệp, Tiến sĩ Hoàng Đức Tảo (Bộ Thương mại). Một số nghiên cứu sinh Lào tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng đã có các công trình nghiên cứu trên những lĩnh vực khác nhau như: - Đề tài về Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào - Những giải pháp cơ bản tạo tiền đề, Luận án tiến sĩ kinh tế của Khăm Pheng SA SOM PHENG, Khoa học Kinh tế chính trị XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2001. - Đề tài về "Phát triển thị trường nông thôn Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào", Luận án tiến sĩ kinh tế của Bun Thi Khưa My Xay, Khoa học Kinh tế chính trị XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1998. - Đề tài về: "Đổi mới quản lý nhà nước về thương mại ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào", Luận án tiến sĩ kinh tế của Chăn Seng Phim Ma Vông, Khoa học Kinh tế chính trị XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003. Tuy nhiên, ở một địa phương cụ thể cấp tỉnh có nhiều đặc thù riêng như tỉnh Bó Kẹo, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống về lĩnh vực này. Để thực hiện đề tài, tôi có kế thừa các ý tưởng lý luận của các công trình đã công bố của Việt Nam và Lào, đi sâu phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp phù hợp cho hoạt động thương mại của tỉnh Bó Kẹo trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích: Làm rõ cơ sở lý luận của quản lý nhà nước đối với hoạt động về thương mại trong nền kinh tế thị trường, đánh giá thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý nhà nước về thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ - Phân tích sự cần thiết khách quan phải tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo. - Đánh giá quá trình đổi mới và thực trạng quản lý nhà nước đối với các thành phần kinh tế tham gia hoạt động thương mại ở tỉnh Bó Kẹo. Từ đó rút ra kết quả, hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về thương mại ở tỉnh Bó Kẹo. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự tác động của quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại ở tỉnh Bó Kẹo. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn là quản lý nhà nước về thương mại đối với tất cả các thành phần kinh tế tham gia hoạt động thương mại, trọng tâm là doanh nghiệp nhà nước thuộc Sở Thương mại quản lý. - Thời gian nghiên cứu từ năm 1996 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn dựa trên cơ sở vận dụng những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Lào từ Đại hội IV đến nay. Đồng thời tham khảo, tiếp thu một cách có chọn lọc các ý kiến của các nhà kinh tế, các nhà hoạt động thực tiễn qua các bài viết, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài này. - Luận văn kết hợp nhiều phương pháp, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp điều tra khảo sát, phân tích thống kê, tổng kết thực tiễn. 6. Những đóng góp khoa học của luận văn - Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận, và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường ở tỉnh Bó Kẹo, đề xuất giải pháp có tính khả thi nhằm đổi mới quản lý nhà nước về lĩnh vực này trong giai đoạn tới. - Luận văn là một công trình nghiên cứu lý luận với tình hình thực tiễn của tỉnh Bó Kẹo, nên có thể làm tài liệu tham khảo để hoạch định những chủ trương, chính sách phát triển thương mại ở tỉnh Bó Kẹo trong những năm tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết. Chương 1 Những vấn đề cơ bản về quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường 1.1. những vấn đề cơ bản về hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động thương mại - Khái niệm: Sản xuất của cải vật chất là hoạt động cơ bản nhất của xã hội loài người, là cơ sở của đời sống xa hội, nhưng của cải vật chất sản xuất ra không đem trao đổi và tiêu dùng thì không phải là hàng hoá. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, sản xuất ngày càng mở rộng làm cho lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự phân công lao động xã hội. Lúc đầu là phân công tự nhiên (mang tính tự phát), sau đó là phân công có ý thức. Chính nhờ sự phân công lao động xã hội đó mà hình thành các ngành kinh tế độc lập khác nhau. Các Mác đã chỉ ra rằng: "nếu xét riêng bản thân lao động thì người ta có thể gọi sự phân chia nền sản xuất xã hội thành những ngành lớn như: công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp... là sự phân công lao động chung, và sự phân chia những ngành sản xuất ấy thành từng loại và như là sự phân công lao động đặc thù" [24, tr.580]. Quá trình phát triển từ công xã nguyên thuỷ đến chủ nghĩa tư bản đã hình thành khá rõ 3 cuộc phân công lao động xã hội lớn: mới đầu chăn nuôi tách ra khỏi trồng trọt, và hình thành một ngành nghề khác trong nông nghiệp, tiếp đó ngành thủ công tách ra khỏi nghề nông, đã hình thành sự chuyên môn hoá trong nông nghiệp và bắt đầu nhen nhóm ngành công nghiệp. Hoạt động trao đổi trở nên phức tạp hơn; bắt đầu xuất hiện tiền tệ làm vật trung gian để trao đổi, hình thành một nhóm người làm công việc mua đi bán lại, đó là thương nhân. Lúc này thương mại tách ra khỏi sản xuất và trở thành một ngành độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Các Mác đã chứng minh rằng, tư bản thương mại đã ra đời trước khi xuất hiện tư bản công nghiệp, hoạt động của tư bản thương mại trong thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa là một tiền đề quan trọng cho việc ra đời của tư bản công nghiệp, nhờ vào việc tích tụ vốn và tạo ra thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các Mác viết: Cho nên, chẳng lấy gì làm khó hiểu, tại sao tư bản thương nhân lại xuất hiện với tư cách là một hình thái lịch sử của tư bản, rất lâu trước khi tư bản khống chế được nền sản xuất. Bản thân sự tồn tại và phát triển tới một mức nào đó của tư bản thương nhân là điều kiện lịch sử của phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN). Vì đó là điều kiện tiên quyết của việc tích tụ tài sản bằng tiền và vì phương thức sản xuất TBCN giả định sản xuất nhằm mục đích buôn bán... [19, tr.77]. Khi tư bản công nghiệp đã giữ vị trí thống trị trong xã hội thì tư bản thương mại trở thành kẻ phục vụ cho tư bản công nghiệp và phụ thuộc vào tư bản công nghiệp. Các Mác đã nhấn mạnh: ở giai đoạn đầu của xã hội tư bản thương mại thống trị công nghiệp, trong xã hội hiện đại ngược lại. Thương mại ra đời đánh dấu một sự phân công lao động trong xã hội, khi đó chức năng trao đổi hàng hoá đã trở thành công việc chuyên môn của một bộ phận lao động thoát ly sản xuất và phục vụ sản xuất bằng cách đưa hàng từ người sản xuất đến người tiêu dùng thông qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Thương mại là cầu nối giữa sản xuất với sản xuất, giữa sản xuất với tiêu dùng, là hình thức trao đổi hàng hoá thông qua việc mua, bán và các dịch vụ thương mại. Thương mại là một ngành kinh tế tương đối độc lập trong nền kinh tế quốc dân, nó không sản xuất ra của cải vật chất nhưng lại phục vụ cho quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế gắn liền với lĩnh vực lưu thông hàng hoá với sản xuất hàng hoá. Việc hình thành và phát triển thương mại phụ thuộc vào sự phân công lao động xã hội và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở từng giai đoạn lịch sử quyết định. Trình độ của lực lượng sản xuất này ngày càng phát triển, phân công lao động ngày càng sâu sắc thì hoạt động thương mại được mở rộng cả về phạm vi, quy mô, cơ cấu hàng hoá, dịch vụ cũng đa dạng và phong phú hơn. - Đặc điểm: + Thương mại là một lĩnh vực kinh tế, trong đó các chủ thể kinh tế thực hiện việc mua bán, trao đổi hàng hoá bằng các phương thức khác nhau. Thương mại ra đời cùng với nền kinh tế hàng hoá và ngày càng phát triển. Cho đến nay, thương mại là một ngành kinh tế phát triển ở trình độ cao với quy mô rộng lớn trong nền kinh tế quốc dân của các nước, chiếm tỷ trọng đáng kể trong cấu thành khu vực dịch vụ. + Thương mại tuy không phải là một ngành sản xuất vật chất độc lập, nhưng lại có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại với sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất và quá trình chuyên môn hoá, giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước. + Thương mại trong điều kiện hiện nay chịu ảnh hưởng của xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và phát triển nền kinh tế tri thức. Nó không chỉ đóng vai trò cung cấp đầu vào và giải quyết đầu ra cho sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về hàng hoá của toàn xã hội mà còn đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc góp phần khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương, từng quốc gia; phân bổ nguồn lực một cách hợp lý và có hiệu quả. Thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Chính vì thế, hoạt động thương mại ngày càng không hạn chế ở việc buôn bán các hàng hoá vật thể truyền thống mà còn mở rộng sang các lĩnh vực mới như cả thương mại dịch vụ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ...ở nhiều nước phát triển, thương mại thường được hiểu rộng đến mức nhiều khi rất khó phân biệt ranh giới hoạt động thương mại với hoạt động khác. + Trong thời đại ngày nay, thương mại có tầm quan trọng đặc biệt với phát triển kinh tế. Do vậy hầu hết các quốc gia và vùng kinh tế trên thế giới đều rất quan tâm đến phát triển hoạt động thương mại. Trong xu hướng chung đó Đảng và Chính phủ Lào cũng rất quan tâm đến quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại của quốc gia. Chính phủ đã có nhiều chính sách quan trọng cho sự phát triển chung của nền kinh tế, trong đó có sự chú ý đặc biệt tới sự phát triển của ngành thương mại, là cơ sở quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế của Lào tăng trưởng và phát triển. Thể hiện ý chí đó, Đại hội lần IV và V của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã xác định chủ trương đổi mới trong phát triển kinh tế. Trong đó coi hoạt động thương mại là cầu nối quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có nhiệm vụ quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển, nhằm phá vỡ kiểu sản xuất tự nhiên, tự cung, tự cấp để chuyển sang phát triển kinh tế. 1.1.2. Vai trò của hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường, thương mại có vai trò quan trọng trong tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xác định rõ vai trò của thương mại cho phép tác động đúng hướng và tạo được những điều kiện cho thương mại phát triển. + Trước hết thương mại là một bộ phận của quá trình tái sản xuất. Thương mại là cầu nối giữa sản xuất với sản xuất và sản xuất với tiêu dùng. Sự vận động của sản phẩm hàng hoá qua khâu thương mại để hoạt động tiếp tục cho sản xuất hoặc đi vào tiêu dùng cá nhân. ở vị trí cấu thành của quá trình tái sản xuất, thương mại được coi như hệ thống dẫn lưu của quá trình tái sản xuất. Khâu này bị ách tắc sẽ dẫn tới sự khủng hoảng của sản xuất và tiêu dùng. Vì vậy thương mại là hợp phần của sản xuất hàng hoá. Sản phẩm hàng hoá có mục đích từ trước là để thoả mãn nhu cầu của người khác, sản xuất ra để trao đổi mua bán. Hoạt động thương mại gắn liền với hoạt động sản xuất hàng hoá. ở đây có thể phát triển ý kiến của ăngghen rằng: sản xuất và thương mại là hai mặt của kinh tế, có thể coi như trục hoành và trục tung của đồ thị kinh tế. + Thương mại làm cho sản xuất hàng hoá phát triển chấn hưng các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Qua hoạt động mua bán tạo ra động lực kích thích đối với người sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, hình thành nên các vùng chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá lớn. Phát triển thương mại cũng có nghĩa là phát triển các quan hệ hàng hoá tiền tệ, làm cho con người năng động, dần thích nghi với cách thức của nền sản xuất hàng hoá, đó là con đường ngắn nhất để chuyển từ sản xuất tự nhiên tự cấp, tự túc thành sản xuất hàng hoá. + Thương mại kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lợi nhuận là mục đích của hoạt động thương mại. Người sản xuất sẽ tìm mọi cách để cải tiến công tác, áp dụng khoa học công nghệ mới, hạ chi phí để thu nhiều lợi nhuận. Đồng thời cạnh tranh trong thương mại bắt buộc người sản xuất phải năng động, phải không ngừng nâng cao tay nghề chuyên môn và tính toán thực chất hoạt động kinh doanh, tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất lao động. Đó là những nhân tố tác động làm cho lực lượng sản xuất phát triển. + Thương mại kích thích nhu cầu và luôn tạo ra nhu cầu mới. Người tiêu dùng bán không xuất phát từ tình cảm mà bằng lý trí, lợi ích của sản phẩm hay mức độ thoả mãn nhu cầu của sản phẩm sẽ tạo ra khả năng tái tạo nhu cầu. Thương mại một mặt làm cho nhu cầu trên thị trường gần với nhu cầu thực tế, mặt khác nó làm bộc lộ tính đa dạng, phong phú của nhu cầu. Thương mại đáp ứng nhu cầu tốt hơn chế độ trao đổi hiện vật. Thương mại luôn buộc các nhà sản xuất phải đa dạng kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng sản phẩm, điều này tác động ngược lại người tiêu dùng làm khơi dậy những nhu cầu tiềm tàng. Tóm lại thương mại làm tăng nhu cầu và đó là gốc rễ cho sự phát triển sản xuất kinh doanh. Trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, thương mại đã góp phần quan trọng trong việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, làm cho quan hệ thương mại giữa các nước không ngừng phát triển. Điều đó giúp cho chúng ta tận dụng được ưu thế của thời đại, phát huy lợi thế so sánh, từng bước đưa thị trường trong nước hội nhập với thị trường thế giới, đó cũng là con đường để phát triển kinh tế. + Thương mại giúp xã hội sử dụng hợp lý và tiết kiệm lao động: Do có thương mại, các nhà sản xuất có thể tiến hành sản xuất liên tục, không phải dùng sản xuất để tiêu thụ sản phẩm, nên có thể tăng hiệu suất sử dụng máy móc, thiết bị tăng năng suất lao động giảm chi phí sản xuất. Do có thương mại nên chi phí lưu thông, bao gồm chi phí bảo quản, đóng gói, chuyên chở, v.v... có thể giảm nhiều so với chi phí lưu thông mà các nhà sản xuất tư làm. + Thương mại thúc đẩy và tạo điều kiện phân công lao động xã hội: Phân công lao động xã hội là một trong nhiều biện pháp tăng năng suất lao động xã hội. Mà việc không ngừng tăng năng suất lao động quan trọng như thế nào thì chúng ta đã biết. Nhờ có thương mại, nhà sản xuất có thể yên tâm sản xuất, nhờ thương mại nhà sản xuất có thể nắm được cầu một cách rộng khắp, nhanh chóng, từ đó sớm có sự lựa chọn chuẩn xác phương án cung của mình sao cho tối ưu. + Thương mại giúp xã hội mở rộng quan hệ hàng hoá trên phạm vi ngày càng rộng lớn, nhờ đó mà nâng cao mức sống vật chất, văn hoá của con người: Nhờ có ngành thương mại, trong đó có ngoại thương, nhân loại toàn cầu có thể thụ hưởng thành quả lao động của nhau. Thông qua hàng hoá, con người có thể giao lưu văn hoá, thúc đẩy trí tuệ phát triển làm cho xã hội sinh động hơn. Chính trên ý nghĩa đó, danh nhân Việt Nam Lê Quý Đôn đã nói: "phi thương bất hoạt". 1.1.3. Mối quan hệ và tác động của hoạt động thương mại 1.1.3.1. Mối quan hệ của hoạt động thương mại * Mối quan hệ giữa thương mại với sản xuất và tiêu dùng trong tái sản xuất xã hội: - Thương mại giữ vị trí trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng trong quá trình tái sản xuất xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, chính thương mại kết nối và thực hiện sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng thông qua hoạt động mua bán bằng tiền. Thương mại là điều kiện không thể thiếu của tái sản xuất xã hội. - Thương mại một mặt chịu sự tác động quyết định của sản xuất và tiêu dùng (quy mô, cơ cấu, tốc độ phát triển của thương mại do quy mô, cơ cấu và sự phát triển của sản xuất và tiêu dùng quy định). Ngược lại sự phát triển của thương mại có tác động trở lại làm biến đổi quy mô, cơ cấu và sự phát triển của cả sản xuất lẫn tiêu dùng. * Thương mại phản ánh tổng hợp nhiều mối quan hệ giữa các chủ thể của nền kinh tế thông qua hoạt động mua bán trên thị trường: - Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ kinh tế của các chủ thể kinh tế được phản ánh chủ yếu trên thị trường thông qua mua bán gắn liền với hoạt động thương mại. - Những mối quan hệ thương mại này có liên quan tới nhiều chủ thể khác nhau (chính phủ, các doanh nghiệp, các hộ gia đình và các cá nhân người tiêu dùng cũng như có liên quan tới mọi thành phần kinh tế khác nhau trong nền kinh tế). - Thương mại chịu ảnh hưởng tác động của các quan hệ quốc tế giữa các chủ thể kinh tế nói trên. Mặt khác, thương mại cũng tác động trở lại góp phần xây dựng và củng cố mối quan hệ, xác lập địa vị của họ về kinh tế thông qua các mối quan hệ mua bán. * Thương mại là một hệ thống mở với môi trường bên ngoài (kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, luật pháp và môi trường tự nhiên) - Thương mại là một hệ thống tập hợp các yếu tốt có mối liên hệ qua lại thực hiện việc trao đổi mua bán hàng hoá và các dịch vụ bằng tiền với mục tiêu kinh doanh hoặc phi kinh doanh như chúng ta đã nói ở trên. - Hệ thống thương mại được hình thành bởi hai hệ thống con, đó là cung và cầu. + Cung được hình thành bởi sản xuất, người bán đại diện cho sức cung trên thị trường. + Cầu được hình thành bởi tiêu dùng dựa trên cơ sở khả năng thanh toán của xã hội. Người mua đại diện cho sức cầu của thị trường. - Hai hệ thống con của hoạt động thương mại được liên hệ với nhau bởi các hoạt động và mối quan hệ qua lại giữa người mua và người bán trên thị trường như: hoạt động Marketing, hệ thống kênh phân phối của thị trường... - Thương mại là một hệ thống mở trong sự tương tác qua lại với môi trường bên ngoài. - Thương mại chịu ảnh hướng tác động của các yếu tố môi trường kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, pháp luật, tự nhiên. Những yếu tố môi trường này có thể tác động thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển của thương mại. - Thương mại cũng tác động trở lại đến tất cả các yếu tố môi trường bên ngoài. Những tác động này khá đa dạng và có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của tái sản xuất. Phạm vi tác động của thương mại rất rộng, nó liên quan đến mọi người, mọi tổ chức, mọi thành viên kinh tế. Những tác động này không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà còn mở rộng ra cả phương diện chính trị, xã hội, luật pháp, văn hoá và môi trường tự nhiên. - Những tác động của thương mại rất phức tạp và đa chiều. Chúng có thể những tác động tích cực (thúc đẩy hoặc đưa lại những lợi ích), cũng có thể là các tác động tiêu cực (cản trở hoặc dẫn đến những tổn thất). Kết quả của những tác động này có thể lượng hoá được (đo lường được) nhưng nhiều trường hợp chúng rất khó định lượng. Tác động của thương mại có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp, phạm vi ảnh hưởng của chúng rất khác nhau. Có nhiều hoạt động thương mại mà ảnh hưởng của chúng chỉ trong một phạm vi hẹp và trong một thời gian ngắn, ngược lại có những tác động mà ảnh hưởng của chúng rất rộng rãi và lâu dài. Trong một số trường hợp, hậu quả của những tác động thương mại là có thể sửa chữa được nhưng một số trường hợp hậu quả lại có thể là vĩnh viễn hoặc nếu sửa chữa được thì phải tốn kém nhiều tiền của và thời gian. - Nghiên cứu những tác động của thương mại rất quan trọng, nó không chỉ giúp cho việc thúc đẩy hoạt động thương mại ở phạm vi doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu kinh doanh mà còn giúp cho việc quản lý các hoạt động thương mại ở phạm vi vĩ mô một cách có kết quả và hiệu quả, góp phần đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội của thương mại cũng như sự phát triển kinh tế bền vững. 1.1.3.2. Những tác động của thương mại * Tác động tích cực của thương mại: Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thương mại có những tác động tích cực sau: - Về kinh tế: + Góp phần tạo ra thu nhập quốc dân là nguồn thu ngoại tệ quan trọng (ngoài thương), góp phần cải thiện cán cân thanh toán của quốc gia, ổn định kinh tế vĩ mô. + Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, ổn định và bền vững. + Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đẩy mạnh xuất khẩu. + Thúc đẩy đầu tư hợp tác kinh tế giữa các vùng, các quốc gia và các khu vực kinh tế thế giới. + Thúc đẩy cạnh tranh và hội nhập kinh tế thế giới. - Về xã hội (văn hoá, xã hội, chính trị, pháp luật): + Góp phần tạo công ăn việc làm, giải quyết những vấn đề dư thừa lao động và nạn thất nghiệp. + Giúp phát triển các vùng lạc hậu, vung sâu, vùng xa. + Xoá bỏ sự chênh lệch phát triển giữa các quốc gia, các khu vực kinh tế trong nền kinh tế thế giới. + Củng cố các mối quan hệ kinh tế giữa các thành phần kinh tế, giữa thành thị và nông thôn, giữa nông nghiệp và công nghiệp. + ổn định và nâng cao mức sống, chất lượng cuộc sống của dân cư. + Trên cơ sở xây dựng và củng cố các mối quan hệ kinh tế, thương mại góp phần thúc đẩy sự hợp tác quốc tế, mở rộng giao lưu văn hoá, củng cố hoà bình, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc và các quốc gia trên thế giới. + Thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng chung. + Tái đầu tư để bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường đảm bảo sự phát triển bền vững. * Tác động tiêu cực của thương mại: Sự phát triển của thương mại một cách tự phát, không có sự quản lý và định hướng đúng đắn của Nhà nước cũng có thể dẫn tới những tác động tiêu cực. - Về kinh tế: + Sự phát triển thương mại một cách tự phát có thể dẫn đến khủng hoảng, gây nên sự lãng phí các nguồn lực trên phạm vi toàn xã hội. + Chạy theo lợi nhuận và cái lợi ích cục bộ một cách mù quáng đi lên những hoạt động thương mại bất hợp pháp, cạnh tranh không lành mạnh, buôn gian bán lận... phá hoại nền kinh tế. + Gia tăng cạnh tranh cũng như sự lệ thuộc của nền kinh tế mỗi quốc gia và bên ngoài... - Về xã hội: + Phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn xã hội. + Nguy cơ xâm nhập các lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền du nhập lối sống và văn hoá ngoại lai xa lạ với lối sống và bản sắc văn hoá dân tộc. + Gia tăng sự chênh lệch giàu nghèo giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển dẫn đến sự bất bình đẳng, làm sâu sắc những mâu thuẫn giữa các quốc gia. + Cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường, chiếm lĩnh các nguồn tài nguyên nhiều khi đã là nguyên nhân trực tiếp của các xung đột giữa các dân tộc và giữa các quốc gia. - Về môi trường tự nhiên: + Khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. + Phá huỷ môi trường tự nhiên và gây ô nhiễm môi trường sống. Để khai thác những mặt tích cực của thương mại và hạn chế những mặt tiêu cực của nó, hoạt động thương mại phải vận động theo cơ chế thị trường và phải chịu sự quản lý, điều tiết vĩ mô của Nhà nước. 1.2. nội dung, yêu cầu quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường 1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại - Hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại: Chiến lược phát triển thương mại được xây dựng nhằm đề ra những mục tiêu phương hướng và hệ thống giải pháp lớn để huy động tối ưu các nguồn lực cho phát triển thương mại của quốc gia bao gồm: chiến lược thương mại trong nước và chiến lược thương mại quốc tế trong một thời gain khá dài (khoảng 10 năm, 20 năm) góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử. Hệ thống chiến lược thương mại trong nền kinh tế quốc dân thuộc nội dung quản lý Nhà nước về thương mại bao gồm: 1. Chiến lược thương mại quốc gia (thường do Bộ Thương mại xây dựng và được Chính phủ thông qua) thể hiện những quan điểm chủ đạo chung của Nhà nước đối với thương mại, mục tiêu tổng quát của ngành thương mại của các giải pháp vĩ mô; 2. Chiến lược thương mại vùng lãnh thổ là bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế vùng lãnh thổ do Bộ Thương mại xây dựng; 3. Chiến lược thương mại của tỉnh, thành phố là bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thành phố. Quy hoạch phát triển thương mại là một cấp độ thực hiện chiến lược thương mại nhằm thể hiện rõ ý tưởng của Nhà nước về bố trí lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lĩnh vực thương mại của quốc gia, gồm các nội dung chủ yếu như: xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng chung cho hoạt động thương mại, bố trí nguồn nhân lực và các loại hình chủ thể tham gia hoạt động thương mại. Hệ thống quy hoạch phát triển thương mại trong nền kinh tế quốc dân bao gồm: 1. Quy hoạch tổng thể phát triển thương mại trong nền kinh tế quốc dân; 2. Quy hoạch phát triển thương mại theo vùng lãnh thổ; 3. Quy hoạch phát triển thương mại của các tỉnh, thành phố; 4. Quy hoạch phát triển thương mại của các ngành hàng chủ yếu. Kế hoạch phát triển thương mại mang tính định hướng trong nền kinh tế quốc dân là việc Nhà nước xác định phương hướng, mục tiêu, cơ cấu phát triển thương mại và thị trường trong từng giai đoạn (thường là 5 năm gọi là kế hoạch dài hạn, 2 - 3 năm gọi là kế hoạch trung hạn, 1 năm gọi là kế hoạch ngắn hạn), cũng như xác định cá biện pháp để đạt mục tiêu đó, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong từng thời đoạn cụ thể. Kế hoạch hoá thương mại vừa là phương pháp vừa là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện vai trò hướng dẫn, định hướng phát triển thương mại và thị trường trong nước và quốc tế. Mục tiêu của kế hoạch hoá định hướng phát triển thương mại là nhằm giữ một sự cân đối lớn của thị trường và thương mại, ổn định thị trường, phát triển lưu thông hàng hoá, phát triển xuất nhập khẩu (XNK) và lợi nhuận. Đối tượng của kế hoạch phát triển thương mại bao quát toàn bộ các quá trình kinh tế trong ngành thương mại, cá hoạt động thương mại trong nước và với nước ngoài, trọng tâm là các quan hệ tổng cung - tổng cầu, quan hệ tiền hàng, quan hệ cung -cầu từng mặt hàng thiết yếu, các cơ cấu thương mại chủ yếu. Kế hoạch phát triển thương mại trong nền kinh tế quốc dân gồm kế hoạch phát triển thương mại quốc gia, kế hoạch phát triển thương mại của vùng lãnh thổ, kế hoạch phát triển thương mại của các tỉnh, thành phố. Chính sách thương mại thuộc hệ thống chính sách kinh tế của Nhà nước, là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc, công cụ và biện pháp thích hợp, mà Nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại trong nước và hoạt động thương mại quốc tế trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu xác định trong chiến lược phát triển thương mại quốc gia nói riêng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia nói chung trong thời kỳ lịch sử. Chính sách thương mại được phân thành nhiều chính sách bộ phận, gồm: chính sách lưu thông hàng hoá, chính sách ngoại thương, chính sách thương nhân, chính sách phát triển thị trường, chính sách thương mại đối với các vùng đặc thù (miền núi, vùng sâu, vùng xa...), chính sách thuế quan, chính sách bảo vệ người tiêu dùng, chính sách hội nhập khu vực và thế giới... Trong mỗi chính sách, bộ phận nói trên lại được phân nhỏ thành các chính sách riêng biệt khác nhau. Ví dụ chính sách ngoại thương được phân thành 3 chính sách bộ phận: chính sách phát triển quan hệ thương mại giữa quốc gia với các nước, các đối tác thương mại chủ yếu; chính sách xuất khẩu, chính sách nhập khẩu. Trong chính sách xuất khẩu lại được phân nhánh thành các chính sách bộ phận như: chính sách thị trường xuất khẩu, chính sách mặt hàng xuất khẩu, chính sách thương nhân tham gia hoạt động xuất khẩu (quyền kinh doanh xuất khẩu), chính sách hỗ trợ xuất khẩu. - Ban hành các quy định pháp luật và văn bản pháp quy về thương mại: Nhà nước phải xây dựng và ban hành hệ thống luật pháp đồng bộ, tạo môi trường và hành lang pháp lý cho hoạt động thương mại theo yêu cầu của cơ chế thị trường. Hệ thống luật pháp này bao gồm luật và các văn bản dưới luật của Chính phủ, Bộ Thương mại các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác. Bảo đảm tính hệ thống, nhất quán và tương đối ổn định của pháp luật là khâu trọng yếu đầu tiên của quản lý Nhà nước. Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy định do Nhà nước ban hành tạo thành một hệ thống thống nhất, bao gồm những văn bản luật và những văn bản quản lý Nhà nước (dưới luật). Các văn bản luật, pháp quy đều chứa đựng các quy phạm pháp luật có tính chất bắt buộc chung với toàn xã hội hoặc một nhóm xã hội và được thực hiện lâu dài. Hệ thống các văn bản pháp luật của một đất nước, thông thường bao gồm: hiến pháp, cá đạo luật, bộ luật, nghị quyết của Quốc hội (hoặc nghị viện), pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước (hoặc tổng thống); nghị quyết, nghị định của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; quyết định, chỉ thị, thông tư của các Bộ, cơ quan ngang Bộ; quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp. Các văn bản pháp luật về thương mại gồm: 1. Luật thương mại; 2. Các luật về tổ chức doanh nghiệp (như luật doanh nghiệp, luật phá sản doanh nghiệp...) các nghị định và quyết định của Chính phủ về tổ chức doanh nghiệp, các thông tư, công văn, chỉ thị, quyết định của Bộ Thương mại (hoặc cơ quan tương tự) và các Bộ ngành hữu quan liên quan đến tổ chức doanh nghiệp; 3. Các văn bản hiện hành về quản lý kinh doanh trong nước; 4. Các văn bản về xuất nhập khẩu, các văn bản về quản lý thị trường; 5. Các văn bản về đầu tư liên quan đến thương mại; 6. Các văn bản về tiêu chuẩn chất lượng về quản lý đo lường chất lượng hàng hoá; 7. Các văn bản về thuế trong nước và về thuế quan; 8. Các văn bản về văn phòng đại diện thương mại; 9. Các văn bản về hải quan; 10. Các văn bản về hợp đồng kinh tế và trọng tài thương mại. - Tổ chức hệ thống quản lý hoạt động thương mại các cấp: Tổ chức hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại ở mỗi nước có những đặc thù riêng theo quy định của Hiến pháp và luật pháp của từng nước, đồng thời, tuỳ thuộc vào thiết chế và thể chế chính trị và hành chính của Chính phủ từng quốc gia. Tuy nhiên điểm chung giữa các nước là đều có Chính phủ, đứng đầu là Thủ tướng (hoặc Tổng thống ở một số nước). Với tư cách là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất nắm quyền hành pháp. Chính phủ ở hầu hết các nước đều có chức năng cơ bản là thống nhất việc quản lý thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; lập quy để thực hiện các luật do quyền lập pháp định ra; quản lý công việc hàng ngày của Nhà nước; quản lý bộ máy hành chính Nhà nước và quản lý nhân sự của bộ máy đó; tham gia quá trình lập pháp. Cơ cấu tổng thể Nhà nước ở các nước đều do Hiến pháp các nước đó quy định và chủ thể quản lý vĩ mô nền kinh tế cũng thuộc cơ cấu tổ chức và cơ chế phân bổ quyền lực do hiến pháp quy định. ở các nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa đều theo nguyên tắc tam quyền phân lập: quyền lập hiến - lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền này phân lập theo chức năng của các cơ quan trong cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước. Do đó việc xác định chủ thể quản lý Nhà nước về kinh tế nói chung, về thương mại nói riêng không quá phức tạp - đó là Chính phủ. Cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động thương mại là cơ cấu của Chính phủ, người đứng đầu cơ quan, Bộ trưởng là thành viên trong Chính phủ. ở một số nước còn phân định cụ thể hơn nữa về chủ thể quản lý vĩ mô nền kinh tế, ví dụ: Bộ Thương mại là cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động thương mại trong phạm vi cả nước (Hoa Kỳ, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc...). Nhưng cũng có một số nước, chức năng quản lý Nhà nước về thương mại lại được giao cho các Bộ như: Bộ Kinh tế (Pháp), Bộ Công thương (Nhật Bản và Philippin), Bộ Ngoại giao và Thương mại (Austraylia)... Vấn đề phân cấp theo ngành, theo lãnh thổ và vùng là vấn đề phức tạp và luôn luôn là vấn đề thời sự của các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi. Cơ quan nào của Nhà nước có vai trò trọng tâm của quản lý Nhà nước về kinh tế ở các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là vấn đề phức tạp, xong có ý nghĩa quan trọng. Vì đây không phải là vấn đề đơn lẻ mà nó là kết quả của chuyển đổi đồng bộ các chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế. Bộ Thương mại có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lý Nhà nước về thương mại hàng hoá và dịch vụ thương mại. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ các cơ quan thuộc Chính phủ khác cũng có nhiệm vụ, quyền hạn quản lý Nhà nước về thương mại đối với một số lĩnh vực được phân công phụ trách và có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thương mại để thực hiện việc quản lý Nhà nước về thương mại theo quy định của Chính phủ. Để giúp cho công tác nghiên cứu, trường đại học trung tâm đào tạo, tập huấn về nghiệp vụ thương mại; các cơ quan tham tấn kinh tế thương mại, đại diện thương mại ở nước ngoài làm nhiệm vụ môi giới, xúc tiến thương mại và tìm kiếm thị trường. Đối với bộ máy quản lý Nhà nước về thương mại ở các địa phương (tỉnh, thành phố, vùng lãnh thổ) ở mỗi nước có những đặc thù riêng, chính quyền các cấp quản lý thương mại trong phạm vi địa phương theo sự phân cấp của Chính phủ. Sở Thương mại là cơ quan tham mưu, trực tiếp giúp chính quyền tỉnh, thành phố thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về thương mại ở địa phương. Đơn vị cuối cùng trong hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về thương mại. ở cấp cơ sở là phòng Thương mại quận, huyện và tổ quản lý thị trường cấp xã, phường làm nhiệm vụ thi hành luật pháp và các chỉ thị, quy định của Nhà nước về hoạt động kinh doanh thương mại trên địa bàn được giao. - Kiểm tra, kiểm soát hoạt động thương mại: Bao gồm những nội dung cụ thể như thanh tra, kiểm tra sự phù hợp của chất lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường với: tiêu chuẩn Lào bắt buộc áp dụng, đăng ký chất lượng hàng hoá, các quy định về an toàn vệ sinh môi trường. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện những quy định về ghi nhãn sản phẩm của hàng hoá lưu thông trên thị trường. Thanh tra, kiểm tra tính hợp pháp của các dụng cụ đo lường có liên quan đến việc kinh doanh hàng hoá trên thị trường và hàng hoá gói sẵn trên định lượng. Thanh tra, kiểm tra các vụ việc về sản xuất hoặc buôn bán hàng giả, buôn lậu, buôn bán không có hoá đơn trên thị trường. Thanh tra, kiểm soát phòng và chống gian lận thương mại trên phạm vi cả nước, phạm vi từng địa bàn lãnh thổ,... 1.2.2. Yêu cầu đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại ở Lào Trong những năm qua CHDCND Lào đã giữ vững và thực hiện đường lối đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại của Lào - Một là: phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế vào hoạt động thương mại, trong đó thương mại Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thực hiện chính sách tự do hoá thương mại, khuyến khích mọi thành viên kinh tế tham gia, khai thác vốn liếng, tái sản xuất, kinh nghiệm nhằm phát triển thương mại, làm cho thị trường sôi động, hàng hoá đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu phụ vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Nhà nước cần đầu tư hỗ trợ cho doanh nghiệp thương mại Nhà nước có đủ tiềm lực kinh tế thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước nói chung và thương mại nói riêng là "làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề xã hội, mở đường hướng dẫn hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tàng cho sản xuất xã hội mới" [26, tr. 93]. - Hai là: xác định đúng chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là vấn đề rất mới mẻ Lào chưa trải qua, chưa có kinh nghiệm... mặt khác hoạt động thương mại với tư cách là đối tượng quản lý lại đang quá trình đổi mới hình thành, phát triển và hoàn thiện. Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà kinh tế và quản lý đã và đang góp phần xác định một cách đúng đắn, có cơ sở khoa học về chức năng và nội dung quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại, trong bước chuyển sang cơ chế thị trường. Điều rất quan trọng là trong thời gian gần đây, Bộ Thương mại đã và đang tổ chức việc nghiên cứu kinh tế thương mại, các công trình nghiên cứu để hoàn thiện chức năng quản lý Nhà nước về thương mại ở Trung ương đến địa phương. Nhờ đó việc xác định đúng đắn và hoàn thiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động thương mại, sẽ có cơ sở khoa học và thực tiễn hơn. Mặt khác luật thương mại đã được Quốc hội khoá V kỳ họp thứ 8 đã thẩm tra ngày 7/10/2005 nhưng chưa thông qua. - Mở rộng thị trường ngoài nước gắn với việc phát triển ổn định thị trường trong nước, lấy thị trường trong nước làm cơ sở, đặt hiệu quả kinh doanh thương mại trong hiệu quả kinh tế xã hội của toàn bộ nền kinh tế. Chủ trương đưa nền kinh tế của Lào vào hội nhập với thị trường thế giới và khu vực, chuyển hoạt động kinh tế đối ngoại hướng mạnh vào xuất khẩu dựa trên sự khai thác các lợi thế so sánh là để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, quốc phòng và đời sống nhân dân. Vì vậy trong khi hết sức coi trọng mở rộng thị trường ngoài nước, hoạt động thương mại phải lấy thị trường trong nước làm cơ sở, gắn ngoại thương với nội thương, đặt các hoạt động thương mại và xuất nhập khẩu trong yêu cầu tạo tiền đề và cơ sở vật chất để thúc đẩy sản xuất, góp phần ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, ổn định nâng cao đời sống, bảo đảm hiệu quả và tăng trưởng lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. - Việc quản lý Nhà nước phải thể hiện trong toàn bộ sự vận động lưu thông hàng hoá. Các cơ quan quản lý Nhà nước phải chủ động tác động đến mọi hoạt động của các doanh nghiệp. Nguyên tắc chung để chỉ đạo là khuyến khích, phát huy mạnh mẽ các mặt tích cực, đồng thời có biện pháp hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển. Nhân tố quyết định nhất bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường là vai trò quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó kế hoạch và thị trường kết hợp chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất, bổ sung hỗ trợ lẫn nhau. Sự vận động của kinh tế thị trường trong mấy năm qua đã giúp chúng ta nhận thức sâu sắc rằng thông qua thị trường và hoạt động thương mại sẽ diễn ra quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, vì vậy sự công bằng xã hội trong nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường không chỉ được thực hiện thông qua phân phối trực tiếp kết quả sản xuất, mà còn được thực hiện ở khâu phân phối lưu thông qua thị trường, giá cả bằng pháp luật, các định chế, ác chính sách; bằng các định hướng trong quy hoạch và kế hoạch phát triển và bằng kiểm kê, kiểm soát Nhà nước tổ chức về thiết lập trật tự thị trường, thúc đẩy hình thành vận động lưu thông hàng hoá giữa các vùng các miền; khuyến khích và phát huy các mặt tích cực của cơ chế thị trường đồng thời có biện pháp ngăn ngừa xu hướng tự phát, nạn đầu cơ buôn lậu và hành vi kinh doanh trái phép; hạn chế sự phân hoá giàu nghèo quá mức, bảo đảm tăng trưởng kinh tế kết hợp với tiến bộ và công bằng xã hội. 1.3. tìm hiểu kinh nghiệm quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại của Việt Nam và bài học vận dụng ở lào 1.3.1. Kinh nghiệm đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại của Việt Nam Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tại Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã đề ra quan điểm, đường lối đổi mới kinh tế - xã hội sâu sắc và toàn diện. Đây là một thực sự cách mạng đổi mới triệt để được tiến hành đồng thời trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Để thực hiện đường lối đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn chiến lược phát triển hợp lý. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực, căn cứ vào điều kiện cụ thể của đất nước, Việt Nam lựa chọn thương mại như sau: Thứ nhất, Việt Nam đã lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, đồng thời thực hiện hợp lý chính sách thay thế hàng nhập khẩu có hiệu quả cao hơn. Thứ hai, Việt Nam thực hiện chiến lược ưu tiên phát triển có trọng điểm, tập trung vào những ngành và vùng trọng điểm có điều kiện thuận lợi, có thế mạnh, tiến tới phát triển các vùng trong cả nước. Nhưng trong giai đoạn đầu giành ưu tiên cho ngành và vùng trọng điểm nhằm đạt hiệu quả đầu tư cao và thu hồi vốn nhanh. Qua đó tạo nguồn hàng xuất khẩu lớn và đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước. Thứ ba, Việt Nam tập trung đầu tư vốn và công nghệ xây dựng các doanh nghiệp Nhà nước với quy mô lớn đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đồng thời phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài Nhà nước. Thứ tư, Việt Nam thực hiện chiến lược ưu tiên phát triển công nghệ tiên tiến và công nghệ cao, xử lý thoả đáng những vấn đề sở hữu trí tuệ, vai trò của thông tin trong quản lý và chất xám trong nền kinh tế tri thức. Thứ năm, Việt Nam thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân ngay từ rất sớm. Phát triển các ngành công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá đất nước. Vì Việt Nam đã có bài học kinh nghiệm của các nước về tầm quan trọng của nông nghiệp trong việc ổn định nền kinh tế và đời sống nhân dân. Thứ sáu, đi đôi với việc xác định lâu dài, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam đã xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động cho từng thời kỳ. Đề ra chỉ tiêu kế hoạch và phương thức thực hiện kế hoạch của Chính phủ và Bộ ngành, địa phương theo mô hình kinh tế mới được tổ chức theo quan điểm kế hoạch hoá mang tính định hướng, kế hoạch không phải chỉ giao chỉ tiêu để thực hiện mà còn là điều phối sự thực hiện theo dự án. Những đổi mới quan trọng của Việt Nam về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế và thương mại thời kỳ mở cửa và hội nhập có thể khái quát như sau: + Về đổi mới cơ chế quản lý: Nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế - chính trị của mình tiếp tục quá trình tự do hoá thương mại, thực hiện xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp (hay còn gọi là cơ chế xin cho) chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Giảm dần độc quyền của doanh nghiệp Nhà nước và xây dựng các đạo luật theo tinh thần đảm bảo bình đẳng trong kinh doanh giữa các thành phần kinh tế, chống cửa quyền, độc quyền tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, tạo lập môi trường pháp lý (hay còn gọi là sân chơi) chung, giảm phân biệt đối xử. Nhà nước tạo điều kiện, tiền đề cho sự ra đời hoạt động của các thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ... + Về xây dựng chính sách thương mại: Nhà nước đóng vai trò tạo lập môi trường và chính sách quản lý phù hợp với quy luật kinh tế thị trường, hướng dẫn các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh theo luật pháp và có hiệu quả. Nhà nước ban hành các chính sách kinh tế, thương mại và đầu tư thông thoáng hấp dẫn để khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư mở rộng sản xuất hàng hoá phục vụ nhu cầu trong nước và tăng kim ngạch xuất khẩu, đổi mới đồng bộ các chính sách thương mại và các chính sách kinh tế liên quan đến thương mại, gồm: Đổi mới chính sách xuất nhập khẩu đối với thương nhân: Nghị định 64/HĐBT (1989) là bước đột phá đầu tiên về quyền kinh doanh, đã xoá bỏ độc quyền của doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) đối với hoạt động ngoại thương mở rộng quyền cho các doanh nghiệp tư nhân được tham gia XNK. Ngày 10/5/1997, Luật thương mại Việt Nam đã được Quốc hội thông qua và tiếp sau đó Chính phủ cũng đã ra Nghị định số 57/1998/NĐ-CP xoá bỏ chế độ cấp phép kinh doanh XNK, nhưng vẫn có giới hạn trong phạm vi ngành nghề nhất định. Khi Luật doanh nghiệp ra đời đã mở rộng quyền tự do kinh doanh XNK cho mọi đối tượng tham gia sản xuất kinh doanh. Ngày 29/4/1999 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 10/1999/CP-TTg quy định "đẩy mạnh xuất khẩu là nhiệm vụ của mọi cấp, mọi ngành và mọi tổ chức". Nghị định 44/CP (2001) về chính sách thương nhân, mở rộng quyền kinh doanh thương mại cho mọi thương nhân đều được trực tiếp XNK tất cả các loại hàng hoá. Đây là một bước phát triển mới của tự do hoá thương mại trong nước. Đổi mới chính sách thương mại thu hút, khuyến khích đầu tư sản xuất kinh doanh XNK: Ngày 8/7/1999 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ra Nghị định số 51/1999/NĐ-CP quy định chính sách ưu đãi với các dự án sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Ngày 3/2/2000 Chính phủ Việt Nam đã có Nghị định số 03/2000/NĐ-CP xoá bỏ thủ tục cấp giấy phép kinh doanh, thay vào đó là thủ tục đăng ký kinh doanh. Cho đến ngày 31/7/2000 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam lại ra chính sách ưu đãi mới, đó là Nghị định số 24/2000/CĐ-CP quy định chính sách ưu đãi với các dự án sản xuất hàng hoá xuất khẩu và kinh doanh xuất khẩu. + Về cơ chế điều hành XNK, Chính phủ Việt Nam đã cải tiến mạnh mẽ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động XNK trong thời kỳ mới, phù hợp với xu thế hội nhập thương mại khu vực và quốc tế. Đổi mới cơ chế điều hành XNK theo hướng từ quy định từng năm sang quy định cho một thời gian dài là 5 năm để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động hoạch định chiến lược và phương án kinh doanh dài hạn. Tại Quyết định số 46/QĐ-TTg ngày 4/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã xoá bỏ hầu hết các hạn chế định lượng về hàng hoá XNK, nhập khẩu 2001 - 2005. Những mặt hàng này sẽ cón duy trì sự quản lý của Bộ Thương mại và hàng hoá thuộc diện quản lý của 07 chuyên ngành do Bộ chủ quản quản lý. Cho đến nay về hàng xuất khẩu chỉ còn 2 mặt hàng phải cấp giấy phép xuất khẩu, về hàng nhập khẩu chỉ còn 8 mặt hàng còn phải cấp giấy phép nhập khẩu. Nhằm tạo lập môi trường thuận lợi và giảm phiền hà cho nhân dân và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và XNK, trong năm 2000 Chính phủ Việt Nam đã xoá bỏ 165 loại giấy phép kinh doanh trong cả nước, đến năm 2003 Chính phủ Việt Nam đã xoá bỏ thêm 246 giấy phép con nữa, trong đó có giấy phép về quản lý thương mại, tạo ra một bước đột phá kỷ lục chưa từng có trong lịch sử cải cách quản lý Nhà nước về kinh tế ở Việt Nam. Trong tiến trình hội nhập và thực hiện chính sách tự do hoá thương mại, tại cuộc toạ đàm ngày 13/8/2003 Chính phủ Việt Nam đã sáng suốt kết hợp vận dụng hệ thống các cơ quan hoạt động ngoại giao đồng thời làm nhiệm vụ kinh tế đối ngoại, các nhà ngoại giao đồng thời cũng là nhà kinh tế, thương mại, nhằm thu hút đầu tư nước ngoài và xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu. + Về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và các chính sách hỗ trợ đầu tư. Nhà nước đầu tư, cung cấp hàng hoá công cộng, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh thương mại; Nhà nước Trung ương cho phép các tỉnh sử dụng toàn bộ (100%) nguồn thu qua các cửa khẩu để đầu tư phát triển hạ tầng và khu kinh tế cửa khẩu biên giới; tỉnh, thành phố được quyền ban hành chính sách ưu đãi riêng của tỉnh nhằm khuyến khích, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, nổi bật nhất là những chính sách sau đây: - Chính sách thưởng xuất khẩu, hoàn thuế xuất khẩu 5% - 10% doanh số. - Chính sách tái đầu tư cho doanh nghiệp, Nhà nước cho phép các địa phương trích 5% - 18% tổng số thuế doanh nghiệp đã nộp vào ngân sách của tỉnh tái đầu tư lại cho doanh nghiệp. - Chính sách hỗ trợ thu hút đầu tư. Hay chính sách xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng bằng cách kết hợp 4 nhà: nhà nước, nhà khoa học, nhà nông và nhà doanh nghiệp, chủ yếu và quan trọng nhất là nhà thương mại, vì vấn đề quyết định của quá trình sản xuất hàng hoá là vấn đề thị trường đầu ra. + Về đổi mới chính sách phát triển thương mại đối với miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo và chính sách trợ giá các hàng hoá đối với khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc tại Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, Quyết định 72/HĐBT, Chỉ thị 525/TTg của Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ Việt Nam đã ra Văn bản số 1960/KTTH (1994) về một số chính sách đối với việc đưa hàng lên miền núi phục vụ đồng bào miền núi - dân tộc. Quy định chế độ trợ cấp không thu tiền 4 mặt hàng chính sách và bổ sung thêm 2 mặt trợ giá, trợ cước là giống cây tròng và than. Nghị định số 22/CP (1998) của Chính phủ về phát triển thương mại miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc, trong đó đã quy định bổ sung về chính sách trợ giá, trợ cước để bán hàng chính sách xã hội, mua sản phẩm sản xuất ở miền núi, hải đảo và vùng đồng bào các dân tộc. Cho đến nay cuộc cải cách cơ chế và chính sách kinh tế của Việt Nam vẫn tiếp tục không ngừng để tạo lập môi trường kinh doanh thương mại cho mọi thành phần kinh tế để theo tiến kịp các nước tiên tiến thế giới. Đặc biệt là trong kỳ họp thứ III (tháng 5 -6/2003) Quốc hội khoá XI của Việt Nam, Nhà nước Việt Nam lại một lần nữa tiến hành cuộc cải cách sửa đổi luật kinh tế nói chung và luật doanh nghiệp nói riêng (trong đó vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước; tính độc lập của doanh nghiệp và trách nhiệm, quyền hạn của giám đốc; bỏ chế độ "Bộ chủ quản đối với doanh nghiệp"... được làm rõ), để phù hợp tình hình kinh tế - xã hội, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam ở thị trường trong nước và trên thị trường khu vực và quốc tế. Nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng, đổi mới cơ chế, chính sách quản lý của Nhà nước về kinh tế nói chung, cải tiến phương thức sản xuất Nhà nước về thương mại nói riêng phù hợp điều kiện thực tiễn của đất nước và xu thế tự do hoá thương mại, hiện nay Việt Nam đã đạt được thành quả cao trong sự nghiệp phát triển kinh tế, làm cho GDP không ngừng tăng lên nhanh, xuất khẩu tăng mạnh mẽ, dự trữ ngoại tệ vững chắc, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao. Đặc biệt là Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai và xuất khẩu cà phê đứng thứ ba của thế giới. Uy tín hàng hoá của Việt Nam ngày càng cao trên thị trường quốc tế. Xây dựng được đội ngũ doanh nghiệp khá vững mạnh, trở thành lực lượng sản xuất mới tiên phong tham gia hội nhập thương mại quốc tế. 1.3.2. Bài học kinh nghiệm có thể vận dụng ở Lào nói chung và tỉnh Bó Kẹo nói riêng Qua thực tiễn đổi mới quản lý Nhà nước về thương mại ở Việt Nam đã trình bày ở trên ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm để vận dụng ở Lào nói chung và tỉnh Bó Kẹo nói riêng như sau: Một là, chuyển đổi từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường không được xem nhẹ mà phải đề cao vai trò của Nhà nước. Cái mới thành công về đổi mới quản lý Nhà nước về thương mại trong những thập kỷ trước đều có sự kết hợp hợp lý giữa điều tiết của Nhà nước và điều tiết của thị trường. Nước này đều nhận thức đúng đắn vai trò của Nhà nước trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hai là, đổi mới quản lý Nhà nước về thương mại luôn được coi là trọng tâm của đổi mới. Việt Nam đã sử dụng thương mại như là khâu đột phá cho toàn bộ quá trình đổi mới kinh tế. Phải kiên trì đường lối đối ngoại rộng mở, phát triển nền kinh tế mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, xoá bỏ độc quyền ngoại thương, tự do hoá thương mại, tự do hoá lưu thông hàng hoá trên thị trường trong nước. Ba là, cần phải có lộ trình cho quá trình đổi mới quản lý. Việt Nam đã xây dựng và thực thi chiến lược thương mại từ thay thế nhập khẩu đến đầu tư hướng vào sản xuất. Sự bảo hộ quá mức và tràn lan hàng hoá trong nước được giảm dần. Chính sách bảo hộ có nguyên tắc và có điều kiện được áp dụng và xoá bỏ dần các hàng rào phi thuế quan. Chế độ nhiều tỷ giá và tỷ giá cứng được loại bỏ và thay vào đó là tỷ giá được hình thành theo quan hệ thị trường. Bốn là, xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách thương mại cho phù hợp với sự phát triển trong nước và bối cảnh quốc tế. Nhà nước phải tạo dựng được môi trường và hành lang pháp lý thuận lợi cho các nhà kinh doanh. Bảo đảm sự công khai, minh bạch trong chính sách. Đồng thời đổi mới toàn diện, đồng bộ nội dung quản lý Nhà nước về thương mại, đổi mới sử dụng các phương pháp và các công cụ, biện pháp quản lý và điều tiết hoạt động thương mại, đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động và cán bộ của các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại. Năm là, giảm sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào thị trường và thương mại. Củng cố và tăng cường thương mại Nhà nước như công cụ để điều tiết thị trường. Nhà nước quản lý và điều tiết kinh tế nói chung, thương mại nói riêng chủ yếu bằng các công cụ, chính sách vĩ mô. Phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế nói chung, về thương mại nói riêng theo hướng tách chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại chuyển hẳn sang hoạch định luật pháp, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển thương mại. Sáu là, bài học của Việt Nam kiên định đường lối kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập thương mại thế giới và khu vực đồng thời giữ vững ổn định chính trị và kinh tế trong nước, bình ổn thị trường nội địa; nhất quán coi xuất khẩu là hướng ưu tiên trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại, trên cơ sở đó xác lập chính sách ưu đãi thích hợp, phát triển thương mại đường biên, phát triển các khu công nghiệp, khu thương mại tự do... là rất bổ ích đối với Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào nói chung và Bó Kẹo nói riêng. Bảy là, cuộc khủng hoảng tài chính châu á năm 1997 - 1998 là một bài học của Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào nói chung, Bó Kẹo nói riêng cần phải rút kinh nghiệm và sớm điều chỉnh cơ chế chính sách và cơ cấu kinh tế, chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư trong nước nói chung, Bó Kẹo nói riêng và thu hút đầu tư nước ngoài và Lào nói chung, Bó Kẹo nói riêng sẽ hợp lý hơn, phát huy nội lực, tiềm năng của tất cả các thành phần kinh tế nhằm phát triển thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp, mở rộng quyền kinh doanh XNK trực tiếp cho tất cả các doanh nghiệp, các thương nhân chưa phải là doanh nghiệp, không hạn chế về ngành nghề, mặt hàng đăng ký kinh doanh, nếu có thị trường và mặt hàng xuất khẩu thì đều được trực tiếp XNK theo pháp luật, phát huy lợi thế so sánh của Lào là yếu tố nhất định. Tám là, Nhà nước đặc biệt quan tâm, hỗ trợ phát triển thương mại ở vùng núi, vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa còn khó khăn về kinh tế Nhà nước có chính sách đưa hàng lên vùng núi cao và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của vùng sâu, vùng xa. Chín là, Nhà nước ban hành chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng kế cấu hạ tầng cho phát triển thương mại, hỗ trợ tài chính cho phát triển thương mại nông thôn, miền núi, cho đẩy mạnh xuất khẩu... cần được thực hiện một cách có hiệu quả, thiết thực, tránh phân tán, chồng chéo. Đặc biệt là việc quản lý, sử dụng các loại quỹ hỗ trợ cùng một lớp đối tượng cần được tập trung vào một đổi mới để thống nhất quản lý để đạt hiệu quả cao. Những kinh nghiệm thành công của Việt Nam nói trên đều là bài học kinh nghiệm vô giá, là cơ sở lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu và hoạch định chính sách, cơ chế quản lý thương mại. Vì đó là bài học kinh nghiệm thiết thực những nước bạn gần gũi với Lào, có nhiều điểm tương đồng có thể học tập và vận dụng được. Chương 2 Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào 2.1. Tình hình hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó kẹo 2.1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội và văn hoá tác động đến hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo - Vị trí địa lý và địa hình: Ngày 15 tháng 6 năm 1983, tỉnh Bó Kẹo được tái lập sau hơn 20 năm, tách ra khỏi tỉnh Luông Nam Thà. Bó Kẹo là tỉnh miền núi, chiếm 70% nằm ở phía Tây Bắc của Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, có diện tích 6.169 km2 (61.690.000 ha), có đường biên giới với các nước láng giềng: Phía tây giáp tỉnh Chiêng Rai Vương quốc Thái Lan, dài 145 km, với đường bộ đất liền dài 48 km, đường sông Mê Kông dài 97 km. Phía đông bắc giáp Mianma. Đường sông Mê Kông dài 98 km, phía đông giáp tỉnh Luông Nam Thà dài 100 km và tỉnh Ou Dom Xay dài 97 km và phía nam giáp tỉnh Sayabauly dài 35 km. Địa hình Bó Kẹo bị chia cắt khá phức tạp do núi chiếm phần lớn, có sông ngòi đan xen chạy qua như Nam Thà, Nam Nhủ, Nam Ngào, Nam Nhôn, Nam Kâng, Nam Tin, Nam Khả, Nam Hạt, Nam Chòng và Nam Can. Có nhiều khúc tạo hành thác, ghềnh thuận lợi xây dựng thuỷ điện và thuỷ lợi phục vụ cho việc tưới tiêu và sử dụng nhân sinh hàng ngày. Quan trọng nhất có 8 vùng đồng bằng như: vùng đồng bằng Thông Phảo Hạo diện tích 11,600 ha, vùng đồng bằng Thông Ngua Đeng diện tích 14,600 ha, vùng đồng bằng Phu U Đôm diện tích 8.400 ha, vùng đồng bằng Chiêng Tòng diện tích 800 ha... rất phù hợp với phục vụ cho sản xuất hàng hoá. Ngoài ra còn có nhiều địa hình bằng phẳng dọc các ven sông có tổng diện tích 12.200 ha phù hợp với việc sản xuất, diện tích rừng chiếm 57,7% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh, còn vùng cao và miền núi phù hợp với trồng cây công nghiệp như: trồng cây tếch, cây hương trầm, gia nhân... và chăn nuôi như nuôi bò, nuôi trâu... Ngoài ra, còn có các khoáng sản, đá quý các loại như: Mỏ ngọc quý, vàng, sắt, tôn, đất keo, măng ka nét... Trong tỉnh còn có nhiều khu du lịch: du lịch lịch sử và du lịch văn hoá. - Dân cư và nguồn lực: Tỉnh Bó Kẹo có dân số 145.919 người, nam 72.313 người, nữ 73.606 người, mật độ bình quân là 24 người/km2, có 5 huyện, 154 bản và 25.632 hộ gia đình. Trên địa bàn tỉnh có 3 dân tộc lớn: Lào Lùm, Lào Thâng và Lào Xung có 15 bộ tộc nhỏ, trong đó dân số chiếm nhiều nhất là bộ tộc Lào Lùm 65%. Các dân tộc đó có phong tục tập quán, tiếng nói và trình độ văn hoá khác nhau, phần lớn là theo đạo phật, các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thương mại. Theo thống kê của Sở Kế hoạch và đầu tư cho biết năm 2005 có hai huyện, 111 bản và 5.147 hộ gia đình còn nghèo. Bó Kẹo có bờ sông Mê Kông khá dài giáp với Thái Lan và Myanmar. Với điều kiện thuận lợi đó giúp cho tỉnh có khả năng trao đổi với Thái Lan và Myanmar rất thuận lợi, tạo điều kiện cho hàng hoá của tỉnh có thể xuất khẩu sang Thái Lan và Myanmar. Và mua hàng hoá của Thái Lan và Myanmar với giá rẻ. Ngoài ra, Bó Kẹo có cửa khẩu chính thức quốc tế và cửa khẩu cấp địa phương với Thái Lan và Myanmar, qua đoạn sông Mê Kông và tuyến đường quốc lộ A3, con đường này nối từ Thái Lan đi Trung Quốc, Myanmar và Việt Nam, đường sông Mê Kông chạy thuyền đi lại với nhau cả 5 nước thành viên sông Mê Kông. Đường thuỷ và đường bộ có vai trò rất quan trọng đối với vận tải đường thuỷ, đường bộ và du lịch để mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực. Bó Kẹo đều có điều kiện thuận dịch vụ hàng qua cảnh và xuất nhập cảnh khách du lịch đi nước thứ ba. - Đặc điểm kinh tế - xã hội văn hoá. Mật độ dân số phân bố không đều, riêng dân số đô thị tập trung gần 40% ở Huổi Sai. Dân cư và các cơ sở sản xuất chỉ tập trung ở một số vùng có mạng lưới giao thông thuận tiện và có sự trao đổi hàng hoá, chủ yếu là sản phẩm tự nhiên, vì sự trao đổi còn hạn chế trong khu vực chưa phát triển rộng rãi trên quy mô quốc gia và quốc tế, nên chưa kích thích sản xuất phát triển. Dân số phần lớn sống ở vùng nông thôn trong đó 1/3 sống ở vùng cao và miền núi quy tụ thành những bản nhỏ vài chục hộ cách xa nhau. Sự phân bố dân số giữa đồng bằng và miền núi, giữa thị xã và nông thôn không đồng đều dẫn đến tình trạng thiếu, thừa đất giả tạo. Chẳng hạn, chỉ tính hai huyện cần bờ sông Mê Kông như huyện Huổi Sai và huyện Tộn Phầng cũng đã chiếm tới 50% tổng số dân cả tỉnh, về mật độ dân số càng có sự chênh lệch lớn: huyện Huổi Xai 23 người/km2, huyện Tộn Phẩng 19 người/km2, còn ba huyện trung bình mỗi huyện 16 người/km2; tính chất không đồng đều của sự phân bố dân số cũng có ảnh hưởng nhất định đến sản xuất nông nghiệp. Trong điều kiện đất rộng người thừa, tài nguyên thiên nhiên phong phú, người dân tốn ít thời gian và công sức tạo ra tư liệu sinh hoạt cần thiết cho đời sống. Các dân tộc thiểu số ở tỉnh có những nét riêng: một nóc nhà là một gia đình được coi là một đơn vị sản xuất hoàn chỉnh riêng rẽ, một cặp vợ chồng hoặc một gia đình với công cụ lao động thô sơ có thể làm ra một khối lượng sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu tối thiểu cho một cuộc sống hết sức đơn giản và nghèo nàn lạc hậu, ngoài ra còn dành một ít để chi phí, nghi lễ đạo phật. Do đó tâm lý tự thoả mãn ý thức dành dụm tiết kiệm sản phẩm chưa ăn sâu và tiềm thức của họ, tính ỷ lại vào sự ưu đãi của thiên còn tồn tại dai dẳng đến ngày nay. CHDCND Lào nói chung ở Bó Kẹo nói riêng vừa mới thoát thai từ chế độ phong kiến, phân quyền, chưa qua giai đoạn phát triển TBCN tiến lên xây dựng đất nước định hướng XHCN trên nền móng kinh tế tự nhiên. Nền kinh tế nói chung nông nghiệp nói riêng đang trong tình trạng lạc hậu và thấp kém, mất cân đối nghiêm trọng. Cả tỉnh có 45 nghìn lao động, trong đó có 75% là lao động - nông nghiệp. Bình quân mỗi gia đình nông dân chỉ sử dụng 35% quỹ thời gian lao động trong năm, hầu hết dân cư đều tập trung ở nông thôn, chăn nuôi kiểu thả rông. Nghề thủ công chưa tách hẳn ra khỏi nông nghiệp. Trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh rất thấp kém, phân công lao động - xã hội chưa phát triển, công cụ lao động thô sơ, trình độ khoa học - kỹ thuật và chuyên môn của người lao động còn thấp, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân ngành nghề quá ít, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, nhập khẩu - nhiều hơn xuất khẩu, công nghiệp hầu như chưa có gì. Lương thực, tính theo bình quân đầu người đạt 391kg thóc/năm. Có thể nói, sản xuất lương thực trong tỉnh thừa ăn, tiêu thụ nội địa, xuất khẩu cho Thái Lan và Trung Quốc, sản phẩm ngô xuất khẩu 30.000 tấn/năm. Về thu nhập quốc dân bình quân đầu người trong tỉnh chỉ đạt 365 USD/người/năm (còn thấp so với một số tỉnh trong nước và tiêu chuẩn quốc tế). Trình độ văn hoá - xã hội, phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng và mức sống của xã hội không chỉ ảnh hưởng gián tiếp mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành và phát triển các hình thức kinh tế gia đình nông dân. Chẳng những thế, đôi khi các nhân tố xã hội lạc hậu lại khó vượt lên vào trình độ xã hội văn minh. Nhưng mà trình độ văn hoá của nhân dân thấp kém, phong tục mê tín dị đoan nặng nề, thì thường vật chất chưa thể thắng thế ngay tức khắc các phong tục lạc hậu, mà phải có thời gian để họ tự nhận thức. Từ đó nói rằng những nhân tố xã hội ảnh hưởng rất lớn đến việc hoạt động thương mại ở trong tỉnh. Tuy điểm xuất phát về kinh tế - văn hoá - xã hội thấp nhưng quá trình thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ, xã hội Lào đã có sự đổi mới từ một chế độ thuộc địa phong kiến chuyển sang chế độ dân chủ nhân dân. Chính quyền đã thuộc về tay nhân dân, nhà nước là người đại diện cho nhân dân quản lý tất cả tài nguyên thiên nhiên và nắm lấy những cơ sở kinh tế quan trọng với kinh nghiệm của các nước đi trước, nhất định Đảng NDCM Lào sẽ đề ra được những chính sách thích hợp nhằm đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại cả nước nói chung và Bó Kẹo nói riêng. - Đặc điểm sản xuất nông nghiệp: Sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Bó Kẹo chủ yếu là của hộ gia đình nông dân, Nhà nước khuyến khích nông dân tiến hành sản xuất trồng trọt và chăn nuôi, chuyển từ lực lượng sản xuất truyền thống thô sơ, phụ thuộc vào tự nhiên sang lực lượng sản xuất, ứng dụng khoa học - kỹ thuật mới, chuyển sản xuất mang tính tự cung tự cấp sang sản xuất mang tính xã hội, nghĩa là nông dân vừa sản xuất cho mình; vừa sản xuất hàng hoá để bán. Trong những năm đổi mới, ở tỉnh Bó Kẹo, Đảng bộ và chính quyền cấp tỉnh đã quan tâm khuyến khích tạo điều kiện cho nông dân sản xuất hàng hoá nông nghiệp bằng cách xây dựng hệ thống thuỷ lợi, xây dựng giao thông vận tải, xây dựng chợ mua bán sản phẩm nông nghiệp, xây dựng ngân hàng khuyến nông để cho nông dân vay vốn bằng hiện vật và tiền tệ trong thời gian ngắn hạn và dài hạn với tỷ lệ lãi thấp. Mặt khác, Nhà nước đã đưa cán bộ chuyên môn nông - lâm nghiệp tổ chức tuyên truyền giới thiệu và giúp đỡ nông dân vận dụng lực lượng sản xuất và khoa học kỹ thuật mới vào quá trình sản xuất nông nghiệp. Trong những năm qua, nền kinh tế nông nghiệp của tỉnh đã phát triển nhanh chóng, nhất là lĩnh vực trồng trọt. Trong 5 năm (2000 - 2005) phong trào sản xuất nông nghiệp của nông dân đã sôi nổi, phong trào ứng dụng khoa học - kỹ thuật mới đã phát triển rộng rãi, sản phẩm nông nghiệp đã tăng lên chiếm 55,33% của GDP, cuộc sống của nhân dân được cải thiện tốt hơn. Diện tích ruộng tăng 13.098 ha năm 2005 so với năm 2000, tăng 27% trong đó diện tích lúa mùa 12.498 ha năm 2005 so với năm 2000 tăng 2.309 ha bằng 23%, diện tích lúa chiêm tăng 600 ha năm 2005 so với năm 2000 tăng gấp 11 lần. Tổng sản lượng tăng 56.719 tấn năm 2005, so với năm 2000 (49.385) tăng 7.334 tấn bằng 15 %, bình quân đầu người 391 kg/người. Thúc đẩy nông dân trồng trọt và chăn nuôi, diện tích sản xuất hàng hoá 8.085 ha, năm 2005 so với năm 2000 tăng gấp 8 lần, sản lượng bằng 30.000 năm 2005, so với năm 2000 tăng 83%. Chăn nuôi của nông dân hiện tại có số con trâu 20.812 con năm 2005, giảm 25% so với năm 2000, bò 24.123 con; năm 2005 so với năm 2000 tăng 48%, gia cầm, thuỷ cầm 369.489 con năm 2005, so với năm2000 giảm 32%. Mạng lưới thuỷ lợi vừa và nhỏ thô sơ tổng số 1.352 chi nhánh, có thể phục vụ cho diện tích tưới tiêu được 10.475 ha mùa mưa trong đó thuỷ lợi kiên cố 48 chi nhánh tưới tiêu được 7.497 ha [37, tr.8]. - Đặc điểm sản xuất công nghiệp và dịch vụ: Sản xuất công nghiệp có sự tăng trưởng khá, nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 10,18%. Một số sản phẩm tăng trên địa bàn có tốc độ tăng nhanh, nhà máy, xí nghiệp tổng số 76 xưởng, trong đó quy mô xưởng, quy mô vừa 13 xưởng; quy mô nhỏ 63 xưởng. Nhà máy lắp ráp xe máy 1 xưởng có tổng giá trị đầu tư là 1.620 tỷ kíp, tổng giá trị sản xuất 16.917 tỷ kíp, tổng giá trị lưu thông 18.870 tỷ kíp. Có xí nghiệp lắp đặt bật lửa ga 1 xưởng, tổng giá trị đầu tư 5.405 tỷ kíp, tổng giá trị sản xuất 1.701 tỷ kíp, tổng giá trị lưu thông 2.530 tỷ kíp. Các xí nghiệp chế biến 70 xưởng, tổng giá trị đầu tư 28.759 tỷ kíp, tổng giá trị sản xuất 1.588 tỷ kíp, tổng giá trị lưu thông 2.603 tỷ kíp [37, tr.11]. Về mạng lưới điện hiện nay hai huyện được tiêu dùng điện 96 bản chiếm 27% trong tổng số 135 bản của tỉnh. Về mạng lưới giao thông: trong thời gian vừa qua Đảng và Nhà nước đã có chính sách tập trung vốn và huy động vốn trong dân để xây dựng những tuyến đường liên huyện, liên bản và liên tỉnh. Hiện nay cả tỉnh có tất cả 35 cây cầu (trong đó có 10 cầu bê tông, 5 cầu sắt, 50 cầu gỗ) với chiều dài 203 km, tổng số xây dựng 92,48 tỷ kíp, trong đó vốn của nước ngoài 59,68 tỷ kíp. Hệ thống giao thông đường bộ của tỉnh Bó Kẹo tạo điều kiện thuận lợi trong việc đi lại, vận chuyển hàng hoá trong cả hai mùa. Mạng lưới thông tin liên lạc của tỉnh Bó Kẹo đến nay nhìn chung vẫn còn nhiều yếu kém. Mạng lưới này tuy đã đảm bảo thông suốt thông tin liên lạc cho việc lưu thông hàng hoá, đáp ứng được nhu cầu của an ninh quốc phòng, nhưng vẫn còn rất lạc hậu. Đến năm 2005 số điện thoại trên toàn tỉnh mới được khoảng 3% dân số kể cả điện thoại của cơ quan nhà nước. Toàn tỉnh hiện nay có 5 bưu cục, do vậy có rất nhiều làng chưa có điện thoại. Do vậy có thể nói hệ thống thông tin liên lạc cần được mở rộng nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn nữa cho sản xuất và lưu thông hàng hoá, cũng như yêu cầu của an ninh quốc phòng. - Đặc điểm thị trường: Thị trường Bó Kẹo đa dạng và phong phú, nhất là trên địa bàn tỉnh có nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, công nghiệp tiểu thủ của địa phương, cả trong nước và nước ngoài nên dịch vụ thương mại phục vụ sản xuất cung ứng vật tư, nguyên nhiên vật liệu có thị trường, có thị trường vừa và nhỏ.Hoạt động thương mại trên địa bàn hiện nay mới chỉ đáp ứng được 30-35% nhu cầu đó. Bó Kẹo có biên giới giáp Thái Lan, Myanma và gần Trung Quốc, là thị trường tiêu thụ hàng hoá của nước ngoài, phần lớn là hàng hoá nhập khẩu do sản xuất trong nước chưa phát triển nói chung Bó Kẹo nói riêng. Cho nên thị trường trên địa bàn tỉnh, thị trường nông thôn và thị trường vùng sâu, vùng xa đều là thị trường tiêu thụ hàng hoá của nước ngoài chiếm trên 90%. Sản phẩm nông nghiệp - công nghiệp sản xuất phục vụ trong tỉnh đáp ứng được chỉ có gạo, nước uống, gạch, thịt trâu, thịt bò và thịt lợn, sản xuất một số lương thực thực phẩm theo mùa như các loại rau. Thị trường vốn ở Bó Kẹo cũng có bước phát triển. Trên địa bàn tỉnh có hệ thống ngân hàng chuyên doanh như: Chi nhánh ngân hàng phát triển, chi nhánh ngân hàng khuyến nông và dịch vụ. Năm 2003 - 2004 tổng vốn huy động tại chỗ đạt 41,39 tỷ kíp, tổng vốn cho vay các thành phần kinh tế đạt 1,7 tỷ kíp. Nhìn chung hoạt động thị trường vốn đảm bảo chính sách của nhà nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống nhân dân. 2.1.2. Thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển thương mại 2.1.2.1. Thuận lợi Một là, Bó Kẹo nằm trên trục quốc lộ A3, trục giao thông đường bộ huyết mạch nối cửa khẩu với các tỉnh miền Bắc của Vương quốc Thái Lan và Myanmar và trở thành trung tâm xuất - nhập khẩu hàng hoá của các tỉnh Bắc trong nước. Bó Kẹo có vùng đồng bằng và núi cao có điều kiện phát triển nông nghiệp như trồng trọt và chăn nuôi. Với đặc điểm của mọi tiểu vùng khí hậu ôn đới, là địa hình lý tưởng cho quy hoạch một khu du lịch rộng lớn với hang động, sông suối dạng "sơn thủy hữu tình". Hai là, Bó Kẹo có điều kiện để vận chuyển hàng hoá không chỉ phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống của tỉnh mà còn có điều kiện mở rộng lưu thông hàng hoá với Luông Pha Bang, tỉnh Luông Nam Tha, tỉnh U Đôm Xay và công hoa nhân Trung Quốc. Khi quy mô của lưu thông hàng hoá lớn lên và tốc độ lưu thông hàng hoá phải nhanh thì Bó Kẹo ngoài hệ thống đường bộ còn có tiềm năng để vận chuyển hàng hoá theo đường Thủy và đường hàng không. Đặc biệt trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế thế giới, Lào đã gia nhập ASEAN; tham gia APEC, AFTA và chuẩn bị gia nhập WTO thì vấn đề mở cửa kinh tế và phát triển kinh tế cửa khẩu có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bó Kẹo có cửa khẩu kinh tế quốc tế Huổi Xài và Bản Mòm để phát triển kinh tế đối ngoại không chỉ với tỉnh Chiêng Rai của Vương quốc Thái Lan và tỉnh Chiêng Tung - Myanma mà có điều kiện trở thành trung tâm giao lưu hàng hoá giữa một số tỉnh phía Bắc của ta. Ba là, Bó Kẹo có hai vùng trung tâm kinh tế đó là huyện Huổi Xai tỉnh lỵ của tỉnh Bó Kẹo và huyện Tổn Phầng, hai huyện này dọc sông Mê Kông và vùng biên giới có thể tạo thế tương hỗ cho nhau trong quá trình phát triển thương mại và mở rộng thị trường. Vùng quốc lộ A3 có điều kiện phát triển mạng lưới cửa hàng đại lý cung ứng và tiêu thụ đến tạn bản, trung tâm cụm bản để vừa kích thích sản xuất, vừa ổn định thị trường giá cả bảo đảm cụm bản để vừa kích thích sản xuất, vừa ổn định thị trường giá cả bảo đảm thuận lợi cho nhu cầu mua bán hàng hoá. Đồng thời sự phát triển mạnh mẽ ở vùng này sẽ tạo ra sức hút cũng như một số tiền đề cho phép phát triển thương mại ở vùng sông Mê Kông và vùng biên giới Thái Lan và Myanma. 2.1.2.2. Khó khăn để phát triển thương mại Một là, kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động thương mại thiếu, chất lượng thấp là hạn chế lớn nhất đến việc phát triển thương mại Bó Kẹo. Hệ thống giao thông của Bó Kẹo ngoại quốc lộ A3 rất khó khăn. Còn nhiều cụm bản chỉ có đường mòn đi trên sườn núi đi lại khó khăn. Đó là trở ngại lớn trong việc vận chuyển hàng hoá cung ứng cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá của nhân dân, các vùng, trong tỉnh, đặc biệt là đối với dân cư các vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Hệ thống điện, lưới điện, hệ thống cung cấp nước sạch còn hạn chế, một số dịch vụ, tư vấn quảng cáo... còn kém phát triển cũng là trở ngại lớn trong việc khai thác lợi thế phát triển thương mại. Hai là, thương mại muốn phát triển được còn phụ thuộc vào sức mua của dân cư. Với mức thu nhập còn hạn chế (mức thu nhập bình quân đầu người của Bó Kẹo chỉ 365 USD/người/năm) cho thấy, đời sống của một bộ phận khá lớn dân cư còn ở mức nghèo và rất nghèo, đặc biệt là dân cư ở các vùng sâu, vùng xa. Mức thu nhập thấp, trình độ dân trí thấp là những cản trở lớn, hạn chế sự phát triển của thị trường và thương mại Bó Kẹo hiện nay. Ngoài ra, sự phân bố dân cư không tập trung, ở những các vùng các dân tộc thiểu số sống quá thưa thớt trên các vùng núi cao cũng là trở ngại cho sự phát triển thương mại và thị trường Bó Kẹo. Ba là, trong điều kiện đẩy mạnh mở cửa và hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới nhưng một số chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước còn thiếu, chưa đồng bộ, chậm được cụ thể hoá hoặc còn thiếu điều kiện khả thi để phát triển thương mại, miền núi nói chung và Bó Kẹo nói riêng. Trình độ và năng lực quản lý của cán bộ nói chung còn chưa đáp ứng kịp cũng là những trở ngại lớn cho sự phát triển thương mại Bó Kẹo. 2.1.3. Tình hình hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo - Tình hình hoạt động thương mại trước năm 1996: Tình hình hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo có những điểm chung với hoạt động thương mại toàn quốc gắn với từng giai đoạn chuyển đổi cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong những năm đổi mới thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và chính sách tự do hoá thương mại theo tinh thần Đại hội lần thứ IV và V của Đảng nhân dân cách mạng Lào đã xác định đổi mới trong phát triển kinh tế, trong đó coi hoạt động thương mại là cầu nối quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có nhiệm vụ quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển, nhằm phá vỡ kiểu sản xuất tự nhiên, tự cung tự cấp để sang phát triển kinh tế hàng hoá, nhằm mục tiêu phát triển sản xuất và đời sống ngày càng nâng cao. Tỉnh Bó Kẹo với điều kiện thuận lợi cơ bản là có biên giới giáp Thái Lan và Myanmar. So với các tỉnh khác, phát huy lợi thế của tỉnh nên trong thời gian qua, tỉnh đã đạt được những kết quả đáng mừng trong hoạt động thương mại. Đến nay tỉnh đã có nhiều biện pháp để thực hiện nhất quán chính sách tự do hoá thương mại theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước, kiên quyết xoá bỏ mọi ranh giới chia cắt thị trường giữa các vùng trong tỉnh và giữa các tỉnh khu vực với bên ngoài... đây là một chính sách tốt để tạo điều kiện cho thương mại phát triển. Đồng thời từ chỗ hoạt động thương mại thuộc khu vực của nhà nước, đến nay với chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế đã thu hút được một lực lượng lớn khu vực tư nhân tham gia vào hoạt động thương mại dịch vụ. Nhìn chung khi chuyển sang kinh tế thị trường hoạt động thương mại với nhiều chủ thể, hình thức sở hữu tham gia, giai đoạn từ trước năm 1996 các doanh nghiệp thương nghiệp và thương nhân mua bán bị chao đảo, lâm vào tình trạng bế tắc, mất vai trò chủ đạo thị trường "các công ty thương nghiệp của nhà nước và tư nhân còn bỏ trống một số lĩnh vực và địa bàn trọng yếu. Dần dần doanh nghiệp thương mại thay đổi phương thức kinh doanh, từng bước thích ứng với cơ chế mới vươn lên nắm khâu bán buôn, chi phối bán lẻ, doanh nghiệp thương mại được chấn chỉnh, tổ chức đổi mới sắp xếp theo hướng gọn nhẹ, các công ty bước đầu đã chặn được thua lỗ kéo dài. Tình hình hoạt động thương mại trong giai đoạn năm 1990-1995 chẳng hạn tình hình luân chuyển hàng hoá năm 1990 - 1995: - Năm 1990-1991 thực hiện được 27.295 triệu kíp, so với kế hoạch năm tăng 10% bằng 47.340 triệu kíp. - Năm 1991-1992 đạt được 354.253 triệu kíp, so với năm 1990 - 1991 tăng 19,73% bằng 58.376 triệu kíp. - Năm 1992-1993 đạt được 460.529 triệu kíp so với năm 1991 - 1992 tăng 30% bằng 106.276 triệu kíp. - Năm 1993-1994 đạt được 619.412 triệu kíp so với năm 1992-1993 tăng 34,5% bằng 158.882 triệu kíp. - Năm 1994 - 1995 đạt được 813.721 triệu kíp so với năm 1993-1994 tăng 32,8% bằng 201.308 triệu kíp [38, tr.2]. - Tình hình phát triển hoạt động thương mại 1996 - 2005: Qua hơn mười năm thực hiện công cuộc đổi mới Đảng và Nhà nước khởi xướng và lãnh đạo, sau nhiều lần củng cố, sắp xếp, triển khai quy hoạch phát triển mạng lưới thương mại, từ năm 1996 đến nay hoạt động thương mại đã hình thành rõ nét từng thị trường, từng loại doanh nghiệp và hình thức sở hữu của mọi thành viên kinh tế tham gia trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo. Nhờ chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần các tổ chức thương mại và các cơ quan chức năng đã chú ý cải cách quản lý các đơn vị kinh doanh đảm bảo kinh doanh đạt hiệu quả. Cụ thể là: + Đã có kế hoạch thúc đẩy các công ty xuất nhập khẩu tìm mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả, đồng thời quản lý nghiêm ngặt hoạt động xuất nhập khẩu. + Có sự quản lý tương đối hiệu quả về giá cả các loại hàng hoá, đặc biệt là đối với các loại hàng hoá chiến lược, tránh tình trạng giá cả leo thang trong những ngày hội, ngày lễ. + Đã có quan hệ với các ngành có liên quan để thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, thực hiện chính sách bảo hộ với một số loại hàng hoá để phát triển những loại hàng hoá này trong giai đoạn đầu. + Quản lý theo dõi chặt chẽ việc thu mua lương thực - thực phẩm của công ty cũng như các hộ kinh doanh lương thực trong tỉnh về giá cả và số lượng nhằm đảm bảo an ninh lương thực, an ninh quốc phòng và thực hiện giá đúng theo hướng dẫn của Bộ Thương mại trong từng giai đoạn. + Tổ chức cho các đơn vị kinh doanh các hộ kinh doanh năm và hiểu biết các nghị quyết, pháp luật, luật lệ trên cơ sở đó họ thực hiện kinh doanh theo đúng luật pháp. Vì vậy các nhà kinh doanh và nhân dân đã chấp nhận, hiểu và làm đúng những chủ trương, chính sách, luật pháp của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Như vậy hoạt động thương mại ở Lào thời gian qua ngày càng phát triển. Về số lượng hàng hoá được luân chuyển trong tỉnh và hàng hoá trong tỉnh đi các tỉnh khác cùng với hoạt động xuất nhập khẩu liên tục gia tăng kể từ khi có đường lối đổi mới của Đảng vào năm 1986 thì có thể nói giai đoạn 1990-1996 mức độ luân chuyển lại giảm so với những năm 1986-1990. Nhưng kể từ năm 1996 đến nay tốc độ luân chuyển hàng hoá liên tục gia tăng, đặc biệt là các năm 2000 đến 2005 tốc độ tăng trưởng như sau: * Tình hình luân chuyển hàng hoá của tỉnh: - Năm 2000 - 2001 thực hiện được 54.835.755 triệu kíp, so với kế hoạch năm tăng 18,48% bằng 46.280.325 triệu kíp. - Năm 2001 - 2002 thực hiện được 55.932.470 triệu kíp, so với năm 2000-2001 tăng 2% bằng 1.096.715 triệu kíp. - Năm 2002 - 2003 đạt được 57.268.830 triệu kíp, so với năm 2002-2003 tăng 2,39% bằng 1.336.786 triệu kíp. - Năm 2003-2004 đạt được 65.468.399 triệu kíp, so với năm 2002-2003 tăng 14,31% tăng 9.368.528 triệu kíp. - Năm 2004 - 2005 đạt được 72.061.066 triệu kíp, so với năm 2003-2004 tăng 10,07% bằng 7.256.549 triệu kíp [55, tr.3-4]. * Tình hình xuất khẩu: - Năm 2000 - 2001 đạt được 1.338.386 USD, so với kế hoạch năm (1.822.087 USD), giảm 26,54% bằng (-483.581,88 USD). - Năm 2001 - 2002 đạt được 2.055.670 USD, so với 2000-2001 (1.338.386 USD) tăng 53,59% bằng (717.284 USD). - Năm 2002 - 2003 đạt được 2.151.562 USD so với năm 2001-2002 (2.055.670 USD) tăng 4,66% bằng (95.794,22 USD). - Năm 2003-2004 đạt được 2.999.922,89 USD so với năm 2002-2003 (2.151.562 USD) tăng 39,43% bằng (848.360,89 USD). - Năm 2004-2005 đạt được 3.299.915,17 USD so với năm 2003-2004 (2.999.922,89 USD) tăng 10% bằng (299.992,28 USD) [55, tr.4-5]. * Hàng hoá nhập khẩu: - Năm 2000 - 2001 đạt được 1.763.580 USD. - Năm 2001 - 2002 đạt được 1.365.580 USD. - Năm 2002 - 2003 đạt được 1.996.977 USD. - Năm 2003 - 2004 đạt được 2.100.000 USD. - Năm 2004 - 2005 đạt được 2.247.000 USD [55, tr.5]. Tổng giá trị nhập khẩu trình bày ở trên là hàng hoá Sở thương mại cấp giấy phép công ty nhập khẩu chủ yếu là những mặt hàng cần thiết như: xe ô tô, xe máy các loại, vật liệu xây dựng cơ sở hạ tầng, công cụ điện lực, máy móc nông nghiệp. Ngoài ra trên thị trường còn nhiều mặt hàng nhập lậu tỉnh không thể nắm vững số liệu cụ thể được. * Dịch vụ hàng quá cảnh Do địa lý, địa hình và đặc điểm của tỉnh có điều kiện thuận lợi, vì vậy việc dịch vụ hàng hoá quá cảnh từ Thái Lan đi Trung Quốc ngược lại Trung Quốc đi Thái Lan phải qua tỉnh Bó Kẹo tổng giá trị hàng hoá quá cảnh năm 2000-2004 đạt 12.564.388 USD, bình quân mỗi năm khoảng 3.141,097 USD [55, tr.5]. 2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại ở tỉnh Bó Kẹo 2.2.1. Quá trình đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại ở Lào nói chung và tỉnh Bó Kẹo nói riêng Thực hiện chức năng của hệ thống quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại đã phải thay đổi một cách căn bản. Từ chỗ đóng vai trò "ông chủ" phân phối hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ đã chuyển sang quản lý theo công cụ mới, phù hợp với nền kinh tế thị trường tự do, mở cửa. Các cơ quan thương mại được sắp xếp lại, các bộ phận kế hoạch, giá cả, lao động và tiền lương được tinh giảm tối đa. Bộ máy quản lý bằng các công cụ hướng dẫn vĩ mô được tăng cường. Do đó, cơ quan quản lý nhà nước về thương mại từ Trung ương đến địa phương đã qua các thời kỳ cải cách và sắp xếp lại như sau: - Cơ quan quản lý cấp Trung ương: Bộ Thương mại Lào được thành lập, là cơ quan quản lý nhà nước, nằm trong cơ cấu thành viên của Chính phủ Lào từ năm 1982, được tách ra từ Bộ Công thương nghiệp trước đó. Từ đó cho đến nay Nhà nước, Chính phủ Lào đã không ngừng cải cách bộ máy quản lý nhà nước về thương mại (5 lần) để phù hợp với nhiệm vụ chính trị và yêu cầu nội dung đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại qua các thời kỳ, cụ thể là: + Năm 1986 sát nhập chức năng và nhiệm vụ về kinh tế đối ngoại và đầu tư nước ngoài vào Bộ Thương mại, đổi thành Bộ Thương mại và kinh tế đối ngoại. + Năm 1991 lại tách bộ phận kinh tế đối ngoại ra và sát nhập ngành du lịch vào thương mại, đổi tên thành Bộ Thương mại và du lịch. + Năm 1996 tách Tổng cục du lịch về trực thuộc Chính phủ, chỉ còn bộ Thương mại. + Đến năm 1999 lại sát nhập Tổng cục du lịch vào Bộ Thương mại thành Bộ Thương mại và dịch vụ. + Từ năm 1999 đến nay, lại tách Tổng cục du lịch trực văn phòng Thủ tướng Chính phủ, thành lập Bộ Thương mại, để làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về thương mại toàn quốc và quản lý hoạt động thương mại với các nước trong khu vực và thế giới. Theo từng bước như trên, Sở Thương mại tỉnh Bó Kẹo được thành lập từ năm 1987 và được thay đổi tên theo Bộ Thương mại cấp Trung ương... Nghị định của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào số 78/TTg, ngày 14/6/2002, quyết định thành lập lại Bộ Thương mại, quy định tổ chức bộ máy, rõ vai trò, chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của Bộ Thương mại về quản lý nhà nước đối với ngành thương mại. Sau đó, Bộ Thương mại được giao nhiệm vụ và quyền hạn cho cơ quan quản lý nhà nước về thương mại cấp tỉnh, thành phố và Sở Thương mại. Đối với bộ máy quản lý nhà nước về thương mại ở các địa phương (tỉnh, thành phố) ở CHDCND Lào, chính quyền các cấp quản lý thương mại trong phạm vi địa phương theo sự phân cấp của Chính phủ; Sở Thương mại là cơ quan tham mưu, trực tiếp giúp chính quyền tỉnh, thành phố thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thương mại ở địa phương. Chức năng của Sở Thương mại ở các tỉnh, thành phố là cơ quan quản lý thương mại ở cấp địa phương, trực thuộc ngành dọc; làm nhiệm vụ tổ chức thực hiện cụ thể chức năng và nhiệm vụ quản lý nhà nước về thương mại trên phạm vi địa bàn địa phương mình. Cho nên, cơ cấu tổ chức và bộ máy của Sở thường thay đổi mỗi khi có sự thay đổi của cơ quan quản lý cấp trên - Bộ Thương mại. Bộ máy quản lý thương mại cấp địa phương (tỉnh, thành phố) trong thời gian qua rất gọn nhẹ, làm nhiệm vụ quản lý do Bộ Thương mại giao cho theo cơ chế quản lý kinh tế nhà nước từng thời kỳ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở cũng thay đổi theo sự phân công, phân cấp quản lý theo hướng tăng cường và mở rộng chức năng nhiệm vụ và quyền hạn cấp tỉnh, thành phố. Hiện nay ở Lào, việc quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại bao gồm một số cơ quan sau: 1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại. 2. Bộ thương mại là cơ quan của Chính phủ thực hiện việc thống nhất quản lý nhà nước về thương mại. 3. Các Bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp với Bộ Thương mại quản lý nhà nước về thương mại. 4. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện việc quản lý nhà nước về thương mại trên địa bàn lãnh thổ theo phân cấp của Chính phủ. Trong hoạt động thương mại rất đa dạng và phức tạp, việc nghiên cứu để đảm bảo quản lý tốt hoạt động này gồm rất nhiều nội dung sau: 1. Ban hành các văn bản pháp luật về thương mại, xây dựng chính sách, chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại. 2. Tổ chức đăng ký kinh doanh thương mại. 3. Tổ chức, thu thập cung cấp thông tin, dự báo và định hướng về thị trường trong và ngoài nước. 4. Hướng dẫn tiêu dùng hợp lý tiết kiệm. 5. Điều tiết lưu thông hàng hoá theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước và theo quy định của pháp luật. 6. Tổ chức các hướng dẫn các hoạt động xúc tiến thương mại. 7. Tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học về thương mại. 8. Đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ hoạt động thương mại. 9. Ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế về thương mại. 10. Đại diện và quản lý hoạt động thương mại của Lào ở nước ngoài. 11. Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển và việc chấp hành pháp luật về thương mại, xử lý vi phạm pháp luật về thương mại, tổ chức việc đấu tranh chống buôn lậu, buôn bán hàng cấm, hàng giả, hàng nhái, đầu cơ lũng loạn thị trường kinh doanh trái phép, và các hành vi khác vi phạm về Luật thương mại. Như vậy, quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại được tập trung thống nhất vào Bộ Thương mại. Bộ Thương mại là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động thương mại (bao gồm: xuất nhập khẩu, kinh doanh vật tư, hàng tiêu dùng dịch vụ thương mại) thuộc mọi thành phần kinh tế trong cả nước, kể cả hoạt động thương mại của tổ chức và cá nhân người nước ngoài được hoạt động tại Lào. Bộ Thương mại có các nhiệm vụ và quyền hạn như sau: 1. Xây dựng trình Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền các cơ chế và quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu. 2. Quản lý hạn ngạch nhập khẩu, cấp hoặc thu hồi giấy phép - kinh doanh xuất nhập khẩu đối với các tổ chức kinh doanh theo sự phân cấp của Chính phủ. 3. Cấp giấy phép xuất khẩu cho các tổ chức liên doanh với nước ngoài theo luật đầu tư. 4. Quản lý các hoạt động tư vấn, môi giới, hội chợ và các hoạt động quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và xúc tiến thương mại ở trong và ngoài nước. 5. Phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc xét duyệt các chương trình dự án đầu tư gián tiếp về thương mại. 6. Xét cho phép các tổ chức kinh tế nước ngoài lập văn phòng đại diện hoặc thành lập công ty chi nhánh tại Lào. 7. Quản lý chỉ đạo nghiệp vụ đối với các cơ quan đại diện kinh tế thương mại của Lào đặt ở nước ngoài. 8. Soạn thảo trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền của Bộ các quy chế quản lý các hoạt động thương mại trong nước, xây dựng kế hoạch và có chính sách phát triển kinh tế thương mại đối với miền núi vùng cao. 9. Tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ trong hoạt động thương mại. 10. Tổ chức tiếp nhận, xử lý, cung cấp các loại thông tin kinh tế, thương mại trong nước và thế giới phục vụ cho sự chỉ đạo của Chính phủ và các tổ chức kinh tế. 11. Quản lý nhà nước về công tác đo lường chất lượng hàng hoá trong hoạt động thương mại thuộc lĩnh vực Bộ Thương mại phụ trách trên thị trường cả nước. 12. Hướng dẫn và chỉ đạo cơ quan quản lý nhà nước về thương mại ở địa phương về nghiệp vụ chuyên môn. Để giúp việc cho Bộ trưởng quản lý có các bộ phận chức năng giúp Bộ trưởng trong việc quản lý nhà nước, các tổ chức sự nghiệp và các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc bộ. Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước là: 1. Vụ xuất nhập khẩu. 2. Vụ Kế hoạch thống kê. 3. Vụ Quản lý thị trường. 4. Vụ Tài chính. 5. Vụ Tổ chức cán bộ. 6. Vụ Than thanh tra bộ. 7. Văn phòng bộ. 8. Vụ Pháp chế. 9. Các cơ quan đại diện kinh tế - thương mại của Lào tại nước ngoài. Bộ máy quản lý nhà nước về hoạt động thương mại ở Lào có thể khái quát bằng sơ đồ sau: Sơ đồ 2.1: Bộ máy quản lý nhà nước về thương mại ở CHDCND Lào 2.2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo + Về xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại. Căn cứ chủ trương chính sách của Đảng và mục tiêu kế hoạch định hướng của nhà nước, xây dựng chiến lược phát triển ngành thương mại. Hoạch định các chương trình mục tiêu phát triển ngành thương mại trong các giai đoạn 2005-2010 và đến năm 2020 bao gồm: chiến lược phát triển trong tỉnh, chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu và hợp tác quốc tế, chiến lược thương mại biên giới, chiến lược dịch vụ tại nhập tái xuất, chiến lược phát triển khu thương mại tự do. Sở Thương mại tỉnh Bó Kẹo là cơ quan tham mưu, giúp việc của tỉnh về quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại; thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Bó Kẹo lần III (1999 - 2000). Sở Thương mại đã được triển khai chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh. Trong bối cảnh tỉnh đang tiếp tục đổi mới, thực hiện cơ cấu kinh tế phát triển nông nghiệp gắn liền với công nghiệp chế biến và dịch vụ, chuyển nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp sang kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích các thành phần kinh tế tự do hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước cấp tỉnh. Trong thời gian thực hiện có nhiều việc quan trọng Chính phủ Lào Các cơ quan ngang bộ Cấp tỉnh Bộ Thương mại Các tổ chức của các cơ quan ngang bộ Sở Thương mại tỉnh Bò Kẹo bức bách cần làm trước để khắc phục hậu quả do lịch sử để lại. Các cơ sở kinh tế mới thành lập, vốn thiếu, trang thiết bị lạc hậu. Nền kinh tế có tăng trưởng nhưng có nhiều yếu tố chưa vững chắc. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng nhưng còn chậm và nhiều mặt chưa cân đối giữa các ngành, các vùng. Trình độ sản xuất lạc hậu, nền kinh tế hàng hoá chậm phát triển, công nghiệp chế biến hầu như chưa có, chủ yếu sản phẩm xuất khẩu ở dạng thô, hệ thống giao thông yếu kém. Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, đó là những trở ngại lớn cho quá trình phát triển đối ngoại của tỉnh. Đồng thời đã chỉ ra phương hướng, mục tiêu về sản xuất mặt hàng xuất khẩu, đó là phát triển kinh tế phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội là chính. Trong giai đoạn hiện nay hàng hoá từ nông, lâm ngư nghiệp vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, tập trung vào phát triển diện tích trồng ngô, cây ăn quả, đậu và bảo vệ rừng để thu hoạch theo mùa thành những vùng tập trung để có điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm đạt yêu cầu của hàng xuất khẩu. Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bó Kẹo đã quy định những vùng sản xuất dựa vào điều kiện địa lý. Cả tỉnh đã chia 3 vùng như vùng đồng bằng là trồng lúa, vùng cao nguyên trồng cây công nghiệp và vùng núi là lâm nghiệp và chăn nuôi, tỉnh Bó Kẹo đã tiến hành hai phong trào: + Phong trào chuyển nền kinh tế tự nhiên, nửa tự nhiên sang kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường. + Phong trào động viên nhân dân sử dụng các thành phần kinh tế để phát triển mọi tiềm năng nhằm phát triển kinh tế hàng hoá và mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, nhất là các nước láng giềng. Trong giai đoạn này, Đảng bộ đã củng cố hệ thống quản lý của nhà nước các cấp và đã sử dụng các công cụ quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là quản lý bằng Hiến pháp, pháp luật, chính sách kế hoạch và những quy định của nhà nước cấp tỉnh. Nhà nước vừa đóng vai trò mở đường cho các thành phần kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường vừa có quyền tổ chức quản lý vĩ mô các thành phần kinh tế, tạo ra môi trường bình đẳng hoạt động đúng định hướng XHCN, đúng Hiến pháp, pháp luật và những thể chế của nhà nước dân chủ nhân dân Lào. Trong giai đoạn năm 1996 đến nay là giai đoạn mà tỉnh Bó Kẹo đã triển khai nội dung của Nghị quyết Đại hội lần thứ VI (18-3-1996), lần thứ VII (2-3-2001) của Đảng NDCM Lào, nội dung phát triển kinh tế - xã hội lần thứ IV - V của Chính phủ và thực hiện nội dung Nghị quyết Đại hội lần thứ II (23-3-1999) của Đảng bộ tỉnh Bó kẹo nói chung và thực hiện 8 chương trình ưu tiên của Chính phủ và 10 chương trình ưu tiên của tỉnh nói riêng, nhằm phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước và của tỉnh ngày càng mạnh mẽ. Những nội dung ưu tiên của Chính phủ: + Chương trình sản xuất lương thực - thực phẩm. + Chương trình sản xuất hàng hoá. + Chương trình chấm dứt phá huỷ cây rừng làm nương và định canh, định cư. + Chương trình phát triển nông thôn toàn diện. + Chương trình chấn hưng con người. + Chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng. + Chương trình dịch vụ. + Chương trình hợp tác và quan hệ kinh tế với nước ngoài. Còn 10 chương trình ưu tiên của tỉnh, tức là đã cụ thể hoá thực hiện tốt cả 8 chương trình ưu tiên của Chính phủ, tỉnh chỉ phát thêm 2 chương trình: chương trình an ninh trật tự xã hội và chương trình động viên vốn. Để đẩy mạnh triển khai những nội dung trên, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các bộ tộc ở tỉnh Bó Kẹo đã tập trung đại đoàn kết một lòng tiếp tục đổi mới, thực hiện cơ cấu kinh tế phát triển nông - lâm nghiệp gắn liền với công nghiệp và dịch vụ, chuyển nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, khuyến khích các thành phần kinh tế tự do hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước cấp tỉnh. Các thành phần kinh tế tự do hoạt động sản xuất kinh doanh dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý nhà nước, có ý nghĩa là tất cả các thành phần kinh tế hoạt động phát triển theo chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng và tuân theo pháp luật, những chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước. Trong thực tiễn ở tỉnh Bó Kẹo, Đảng bộ đã đề ra những đường lối đổi mới phát triển kinh tế - xã hội theo con đường định hướng XHCN. Chính quyền đã triển khai thực hiện những đường lối đổi mới của Đảng bộ tỉnh bằng kế hoạch phát triển và quản lý kinh tế - xã hội trong thời gian dài hạn và ngắn hạn. Trong những năm qua, chính quyền (Nhà nước) các cấp ở tỉnh đã phát huy lợi thế so sánh của Bó Kẹo, phát triển mạnh thương mại và dịch vụ nâng cao dần tỷ trọng giá trị thương mại dịch vụ trong cơ cấu GDP của tỉnh. Phấn đấu đưa thương mại dịch vụ vươn lên trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh đến năm 2010 Sở Thương mại Bó Kẹo chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức nghiên cứu và bảo vệ thành công dự án quy hoạch phát triển thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo đến 2010, trong đó dự báo khả năng tăng trưởng của GDP trên địa bàn tỉnh bình quân là 9,5% năm, khả năng tăng trưởng mức bán lẻ hàng hoá xã hội trên địa bàn tỉnh bình quân 15% năm, từ đó đề ra các bước đi thích hợp, tăng cường cơ sở vật chất tương ứng đáp ứng yêu cầu của kinh doanh. Uỷ ban nhân dân tỉnh cũng đã phê chuẩn đề án "Chương trình phát triển kinh tế cửa khẩu tỉnh Bó Kẹo giai đoạn 2005 - 2010". Đề án đánh giá tiềm năng to lớn của thị trường khu vực miền

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào.pdf
Tài liệu liên quan