Luận văn Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay

Tài liệu Luận văn Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay: LUẬN VĂN: Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đang trong quá trình đổi mới đất nước, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Điều đó tạo ra nhiều cơ hội, cho sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta cũng gặp không ít những thách thức, khó khăn. Bởi vì, trong bối cảnh hiện nay trước sự biến đổi phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới, trước chiến lược diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang tìm mọi cách chống phá chủ nghĩa xã hội trên mọi lĩnh vực, đặc biệt chúng thường xuyên chống phá chúng ta trên lĩnh vực tư tưởng nhằm làm cho hệ tư tưởng tư sản chiếm vị trí thống trị trong đời sống tinh thần của cán bộ và nhân dân ta. Hơn nữa, do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường đang hình thành lối sống thực dụng trong một bộ phận c...

pdf82 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1150 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đang trong quá trình đổi mới đất nước, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Điều đó tạo ra nhiều cơ hội, cho sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta cũng gặp không ít những thách thức, khó khăn. Bởi vì, trong bối cảnh hiện nay trước sự biến đổi phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới, trước chiến lược diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang tìm mọi cách chống phá chủ nghĩa xã hội trên mọi lĩnh vực, đặc biệt chúng thường xuyên chống phá chúng ta trên lĩnh vực tư tưởng nhằm làm cho hệ tư tưởng tư sản chiếm vị trí thống trị trong đời sống tinh thần của cán bộ và nhân dân ta. Hơn nữa, do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường đang hình thành lối sống thực dụng trong một bộ phận cán bộ. Trong cơ chế thị trường xuất hiện sự may rủi làm nảy sinh tư tưởng cầu may dễ dẫn đến thế giới quan tôn giáo, duy tâm. Để đưa đất nước phát triển sánh kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng và năng lực lãnh đạo và chỉ đạo những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, tư tưởng của Đảng và nhà nước. Đại hội X của Đảng đã nêu lên những tiêu chí về cán bộ trong thời kỳ mới Cán bộ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lũng phấn đấu vỡ lợi ớch của nhõn dõn, của dõn tộc; cú bản lĩnh chớnh trị vững vàng, không dao động trước những khó khăn, thử thách; có năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tụn trọng tập thể, gắn bú với nhõn dõn [16, tr.136]. Với ý nghĩa như vậy, yêu cầu bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng không chỉ là quan trọng và cấp thiết đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp Trung ương, cấp tỉnh, thành, huyện mà còn quan trọng đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn). Bởi vì, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người trực tiếp lãnh đạo và tổ chức thắng lợi mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước tại cơ sở. Đồng thời, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cũng là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, thường xuyên lắng nghe, giải quyết và đề đạt ý kiến, nguyện vọng chính đáng của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Mặt khác thế giới quan duy vật biện chứng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong công cuộc đổi mới vừa qua tuy đã có bước phát triển nhưng nhìn chung vẫn còn thấp, chưa ngang tầm nhiệm vụ đòi hỏi của địa phương, điều đó cũng đã gây cản trở không ít cho công cuộc đổi mới ở cơ sở. Thái Nguyên là một tỉnh miền núi, nằm trong vùng trung du và miền núi Bắc bộ, ở phía Đông bắc của Tổ quốc. Tỉnh Thái Nguyên mới được tái lập tháng 1/1997, có vị trí chiến lược an ninh - quốc phòng thuận lợi, tài nguyên khoáng sản khá phong phú và là nơi có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống. Khai thác những tiềm năng, thế mạnh của Thái Nguyên để đưa đồng bào dân tộc thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bước xây dựng cuộc sống văn minh, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế là nhiệm vụ vô cùng khó khăn đặt ra trước Đảng và nhân dân ta mà trực tiếp là Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên có một vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, tư tưởng và an ninh - quốc phòng của tỉnh Thái Nguyên. Tuy vậy, đứng trước yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước họ đã biểu hiện những hạn chế về trình độ, phẩm chất, năng lực tư duy sáng tạo, tổ chức thực tiễn…trong đó có sự hạn chế về thế giới quan duy vật biện chứng. Để đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình mới, đội ngũ này phải không ngừng học tập, rèn luyện về mọi mặt, trong đó cần phải nâng cao trình độ lý luận; thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm xây dựng niềm tin, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của Đảng. Đây chính là lý do tác giả luận văn chọn đề tài: “Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Triết học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Gắn liền với quá trình làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, do yêu cầu thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước đặt ra, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay đã có một số bài viết, đề tài nghiên cứu ở những góc độ khác khau liên quan đến tình hình nghiên cứu đề tài: - Lê Xuân Vũ (1986), “Thế giới quan Mác-Lênin trong đời sống tinh thần của nhân dân ta”, Tạp chí Cộng sản, 1986, (6). - Trần Thanh Hà (1993), Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ đảng viên người dân tộc Khơ-Me ở đồng bằng sông Cửu long trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Trần Thước (1993), Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Bùi ỉnh (1998), Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đối với cán bộ đảng viên là người dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Nguyễn Thái Bình (2000), “Triết học Mác-Lênin với việc năng cao thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho sinh viên”, Tạp chí sinh hoạt lý luận Phân viện Đà Nẵng, (43). - Nguyễn Văn Vinh (2001), Phát triển thế giới quan duy vật biện chứng cho sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện chính trị quân sự, Hà Nội. - Trần Viết Quân (2002), Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Bùi Kiến Thưởng (2004), Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên trường chính trị tỉnh Hà Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Nguyễn Thị Luyến (2005), Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tất cả những bài viết, đề tài nghiên cứu trên đã đề cập tới: - Khái niệm thế giới quan nói chung, thế giới quan Mác-Lênin nói riêng, cấu trúc, chức năng của chúng. - Vai trò và tính tất yếu xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. - Những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình thành thế giới quan duy vật biện chứng. Những nguyên tắc phương pháp luận chung trong việc xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho nhân dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. - Đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho một số đối tượng cụ thể đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu “Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay”. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở phân tích thực trạng thế giới quan của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay, luận văn đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước. 3.2. Nhiệm vụ - Phân tích làm rõ vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với hoạt động của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên. - Đánh giá thực trạng thế giới quan của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên. - Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn chỉ nghiên cứu thế giới quan của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) ở tỉnh Thái Nguyên. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thời gian từ năm 2006 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của triết học Mác-Lênin như: Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội, mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Luận văn còn dựa trên quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước cũng như nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên. Luận văn kế thừa, chọn lọc những tư tưởng của các bài viết, các công trình nghiên cứu của các tác giả có liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phân tích và tổng hợp; quy nạp - diễn dịch; lịch sử - logíc và phương pháp điều tra xã hội học (khảo sát thực tế). 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn Góp phần làm sáng tỏ vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay. Bước đầu đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ này. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay. Về mặt thực tiễn luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy cho Trường Chính trị tỉnh Thái Nguyên. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. Chương 1 thế giới quan duy vật biện chứng và những nhân tố ảnh hưởng tới thế giới quan duy vật biện chứng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay 1.1. quá trình hình thành Thế giới quan duy vật biện chứng và vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở 1.1.1. Quá trình hình thành thế giới quan duy vật biện chứng Để tồn tại, loài người phải thích nghi với thế giới xung quanh và tìm cách biến đổi thế giới đó theo những yêu cầu cuộc sống của mình. Muốn vậy, con người cần phải hiểu biết về thế giới cũng như về chính bản thân mình. Trong quá trình tìm hiểu đó, con người gặp hàng loạt vấn đề cần được làm rõ, ví dụ như: Thế giới quanh ta là gì? Nó có bắt đầu và kết thúc không? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và biến đổi của nó? Con người là gì? Quan hệ của nó với thế giới bên ngoài ra sao? Nó có thể biết gì và làm gì với thế giới đó? Vì sao có người tốt, kẻ xấu? Cuộc sống con người có ý nghĩa gì?…Những câu hỏi như vậy được đặt ra với mức độ khác nhau đối với con người từ thời nguyên thuỷ cho đến ngày nay và cả mai sau. Giải đáp những vấn đề cơ bản thiết thực nói trên, sẽ hình thành ở con người những quan điểm, quan niệm của họ về thế giới, về vai trò của con người trong thế giới. Đó chính là thế giới quan. Thế giới quan xuất hiện từ thời nguyên thuỷ nhưng khái niệm thế giới quan có tính lịch sử, nó xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XVIII do nhà triết học cổ điển Đức là Cantơ nêu ra. Sau đó khái niệm thế giới quan được sử dụng rộng rãi trong tất cả các tác phẩm của các nhà triết học Đức nửa đầu thế kỷ XIX. C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng khái niệm thế giới quan trong các tác phẩm của mình. Sau C.Mác và Ph.Ăngghen các nhà triết học duy vật khác cũng sử dụng khái niệm này. Vào thế kỷ XX khái niệm thế giới quan được các nhà triết học Liên Xô và các nhà triết học các nước nghiên cứu và định nghĩa dưới nhiều cấp độ khác nhau. Chẳng hạn, G-Getx cho rằng: “Chúng tôi hiểu thế giới quan như một hệ thống nhất định những lời giải đáp những vấn đề về cội nguồn của thế giới về nguồn gốc, về ý nghĩa cuộc sống và đặc trưng của tiến bộ xã hội” [18, tr.42]. Hoặc trong Từ điển triết học (Liên Xô) bản dịch ra tiếng việt có ghi như sau: “Thế giới quan là toàn bộ những nguyên tắc, quan điểm và niềm tin quy định hướng hoạt động và quan hệ của từng người, của một tập đoàn xã hội, của một giai cấp hay của xã hội nói chung đối với thực tại”[62, tr.539]. Trong Từ điển triết học có viết: “Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, khái niệm và quan niệm về toàn bộ thế giới xung quanh con người; đó là toàn bộ những quan điểm về thế giới, về những hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội, các quan điểm triết học xã hội và chính trị, luân lý, mỹ học, khoa học”[63, tr.906]. Từ điển tiếng Việt đã nêu rõ: “Thế giới quan là quan niệm thành hệ thống về thế giới, về các hiện tượng tự nhiên và xã hội”[64, tr.901]. Từ những quan niệm khác nhau về thế giới quan ở trên, ta có thể hiểu: Thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một chủ thể (có thể là của một người, một tập đoàn người, một giai cấp hay toàn xã hội) về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trước thế giới đó, tạo thành cơ sở lý luận định hướng hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Thế giới quan bao hàm cả nhân sinh quan, tức toàn bộ những quan niệm về cuộc sống của con người và loài người. Thế giới quan ra đời, hình thành phát triển, luôn luôn gắn với sự phát triển của thực tiễn xã hội và sự hiểu biết thế giới, nhận thức khoa học của con người nhằm giúp con người khám phá, chinh phục và cải tạo thế giới khách quan. Cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, thế giới quan được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, song có ba hình thức cơ bản đó là: thế giới quan thần thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học. Trong ba hình thức thế giới quan chủ yếu nói trên thì thế giới quan triết học là hình thức thế giới quan có trình độ phát triển cao hơn, sâu sắc hơn so với thế giới quan thần thoại và tôn giáo. Trong thế giới quan triết học lại bao gồm nhiều loại khác nhau như: thế giới quan duy tâm, thế giới quan duy vật siêu hình và thế giới quan duy vật biện chứng. Thế giới quan thần thoại là phương thức cảm nhận thế giới rất đặc trưng cho “tư duy nguyên thuỷ”; đó là hình thái biểu hiện một cách tập trung và khái quát thế giới quan của người nguyên thuỷ. Trong thần thoại các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng, cái có thật và cái hoang đường…hoà quyện vào nhau, diễn tả thế giới quan của cả một cộng đồng người, một dân tộc. Với sự ra đời của tôn giáo, thế giới quan tìm được hình thái mới để thể hiện tính đa dạng cũng như để củng cố và thâm nhập sâu hơn vào cuộc sống thường ngày của con người. Thế giới quan thần thoại còn tiếp tục được tồn tại ở nhiều giai đoạn phát triển về sau này của xã hội và ở nhiều nơi trên thế giới với những hình thức, mức độ khác nhau. Trên cơ sở của thế giới quan thần thoại, thế giới quan tôn giáo xuất hiện. Thế giới quan tôn giáo là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách hư ảo, hoang đường. Nó ra đời khi xã hội loài người có sự phân chia giai cấp, khi trình độ hiểu biết, nhận thức của con người về hiện thực khách quan còn hết sức thấp kém, khi con người còn bất lực trong việc giải thích và tìm ra bản chất của các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Vì vậy con người đã thần thánh hoá các hiện tượng tự nhiên xã hội, đã gán cho chúng một bản chất “siêu tự nhiên”, một sức mạnh “siêu thế gian”, lấy niềm tin không có cơ sở khoa học thay cho tri thức. Về thực chất, thế giới quan tôn giáo có quan hệ rất chặt chẽ với thế giới quan duy tâm. Tuy nhiên, cần thấy một khía cạnh khác của tôn giáo đó là sự thể hiện nguyện vọng được giải thoát khỏi những đau khổ và vươn tới hạnh phúc của con người. Nền tảng trong thế giới quan tôn giáo là niềm tin tôn giáo bao hàm cả niềm tin vào khả năng đạt được một cuộc sống tốt đẹp. Mặt tích cực đó làm cho tôn giáo đã tồn tại trong hầu hết các dân tộc trên thế giới và ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của xã hội với nhiều mức độ khác nhau. Như vậy, về bản chất, thế giới quan thần thoại thống nhất với thế giới quan tôn giáo. Nhưng nếu thế giới quan thần thoại chưa có hệ thống, hỗn độn thì thế giới quan tôn giáo có hệ thống nhất định. Có thể nói thế giới quan tôn giáo là sự hệ thống hoá thế giới quan thần thoại và do đó cao hơn thế giới quan thần thoại. Tính quy luật chung của sự hình thành thế giới quan tôn giáo là đi từ đa thần tới nhất thần. Do đó thế giới quan thần thoại và thế giới quan tôn giáo cùng đồng hành cho tới ngày nay. Tính tích cực của tư duy con người có bước chuyển biến về chất nhờ sự xuất hiện của tầng lớp lao động trí óc trong xã hội cổ đại. Con người bước đầu có ý thức về mình như một thực thể tách khỏi tự nhiên. Tư duy con người hướng sự “phản tư” (tiếng Hy Lạp reflxio nghĩa là suy ngẫm, đánh giá) vào chính hoạt động của bản thân mình; từ đó một phương thức mới của tư duy để nhận thức thế giới được hình thành - tư duy triết học. Khác với thần thoại, triết học diễn tả thế giới quan của con người không phải bằng những biểu tượng thần thoại hoặc niềm tin tôn giáo mà bằng một hệ thống các phạm trù. Các phạm trù triết học đóng vai trò như những bậc thang trong quá trình nhận thức thế giới. Nó không chỉ nêu ra các quan niệm của mình về thế giới, mà còn chứng minh các quan điểm đó bằng lý tính, bằng lý luận khoa học. Ngay từ khi ra đời, triết học đã tồn tại như là hệ thống những quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó. Chỉ có triết học mới có thể giải quyết được những vấn đề duy nhất của thế giới quan mà không một khoa học cụ thể nào có thể làm được. ở đây, triết học đóng vai trò là cơ sở lý luận, “hạt nhân” lý luận của thế giới quan. Vì ngoài các quan điểm triết học, thế giới quan còn thể hiện ở các quan điểm chính trị, kinh tế, đạo đức, thẩm mỹ…Tuy nhiên, các quan điểm đó đều dựa trên cơ sở lý luận chung, đó là triết học. Với ý nghĩa như vậy, triết học được xem như một trình độ tự giác trong quá trình phát triển thế giới quan, là học thuyết về thế giới quan. Đương nhiên thế giới quan được hình thành từ toàn bộ tri thức và kinh nghiệm sống của con người và xã hội loài người. Tri thức do các khoa học cụ thể đưa lại là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành những quan niệm nhất định về từng mặt, từng bộ phận của thế giới. Với phương thức tư duy đặc thù của mình, triết học tạo nên hệ thống lý luận bao gồm những quan điểm chung nhất về thế giới như một chỉnh thể, trong đó có con người và mối quan hệ của nó với thế giới xung quanh. Triết học bao giờ cũng đóng vai trò hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học là sự thể hiện cô đọng tập trung nhất thế giới quan của mỗi giai cấp, mỗi thời đại lịch sử nhất định. Nó thể hiện chiều sâu của tư tưởng, thể hiện trình độ cao của trí tuệ con người. Thế giới quan triết học luôn giữ vai trò chủ đạo định hướng các hành vi và đạo đức, lối sống của con người. Nó giúp cho con người nhận thức và hành động theo mục tiêu lý tưởng của mình. Như vậy, chúng ta thấy tình độ phát triển và hình thức biểu hiện của thế giới quan phát triển từ thấp đến cao, từ chưa khoa học đến khoa học, từ thế giới quan thần thoại đến thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học. Từ thời cổ đại đến nay, cả ba hình thức thế giới quan này vẫn đồng thời tồn tại trong sự đan xen, thâm nhập vào nhau. Chúng có vị trí, vai trò khác nhau, ở các chế độ xã hội khác nhau, ở các cộng đồng người, các nhóm xã hội và các cá nhân khác nhau. Vấn đề trung tâm của mọi thế giới quan đều là mối quan hệ giữa con người với thế giới, cho nên tất cả các hình thức thế giới quan ở giai đoạn tương đối phát triển của nó đều có liên quan đến vấn đề cơ bản của triết học: đó là vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định cái nào từ đó có thể phân chia ra hai loại thế giới quan chủ yếu đối lập nhau là thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm. Lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa hai đường lối triết học cơ bản: thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm. Thế giới quan duy tâm thường gắn liền với tôn giáo và không thể đi đôi với khoa học. Thế giới quan duy vật gắn bó hữu cơ với khoa học tự nhiên và thể hiện tư tưởng của các lực lượng xã hội tiến bộ, đang lên.Thế giới quan duy vật cổ đại phản ánh thế giới một cách chất phác, mộc mạc nhưng về cơ bản đúng với những hiện tượng khách quan muôn màu, muôn vẻ. Kế thừa những tinh tuý của thế giới quan duy vật cổ đại, thế giới quan duy vật cận đại bằng phương pháp phân tích qua thực nghiệm đã giải phóng khoa học tự nhiên ra khỏi thần học, khẳng định trí tuệ con người đối với sự phản ánh hiện thực khách quan. Thế giới quan duy vật cận đại là hệ tư tưởng của giai cấp tư sản cách mạng đang lên đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ lúc bấy giờ nên nó là vũ khí tư tưởng đấu tranh lật đổ phong kiến. Với việc giai cấp vô sản bước lên vũ đài lịch sử và sự ra đời của chủ nghĩa Mác, thế giới quan duy vật đã phát triển lên giai đoạn cao của nó là thế giới quan duy vật biện chứng. Nhờ sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng khoa học, chủ nghĩa duy vật triết học của Mác là chủ nghĩa duy vật triệt để, duy vật không chỉ trong tự nhiên mà cả trong xã hội. Thế giới quan duy vật biện chứng đã giải quyết mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội một cách đúng đắn nhất. 1.1.2. Cấu trúc của thế giới quan duy vật biện chứng Thế giới quan duy vật biện chứng được xây dựng trên những tiền đề kinh tế xã hội và những tư tưởng, văn hoá tiên tiến của nhân loại, của thời đại, mà trực tiếp nhất là được dựa trên cơ sở phản ánh khái quát, đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc về mặt triết học những tư liệu do khoa học và thực tiễn mang lại. Thế giới quan duy vật biện chứng bao gồm ba nhân tố cơ bản đó là tri thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng. - Tri thức khoa học Tri thức là yếu tố cơ bản để hình thành thế giới quan. Thế giới quan không thể có được nếu không có tri thức. Bất kỳ thế giới quan nào trước hết cũng chứa đựng những tri thức nhất định về thế giới. Tri thức khoa học là sự hiểu biết đúng đắn sâu sắc của con người về thế giới, là kết quả của quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn đúng đắn của con người trong hiện thực khách quan. Tri thức khoa học của con người có nhiều loại khác nhau như những tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người hoặc cũng có thể đi sâu vào một lĩnh vực chuyên ngành hẹp như: tri thức về kinh tế, chính trị, văn hoá, tri thức về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, tri thức về ngôn ngữ, tin học…Trong nội dung tri thức khoa học của thế giới quan duy vật biện chứng, tri thức triết học Mác-Lênin đóng vai trò hạt nhân. Bởi vì, chính triết học lý giải về mặt thế giới quan và phương pháp luận của toàn bộ các sự kiện mà khoa học và thực tiễn đem lại và biểu hiện chúng dưới bức tranh khái quát về hiện thực khách quan. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở tri thức thì chưa hẳn đã có thế giới quan duy vật biện chứng. Tri thức khoa học chỉ gia nhập vào thế giới quan duy vật biện chứng khi nó trở thành niềm tin khoa học của con người. Chỉ khi đó thì tri thức mới trở nên bền vững và sâu sắc, mới có giá trị định hướng và là sức mạnh cho con người vươn lên cải tạo hiện thực. - Niềm tin khoa học Niềm tin khoa học là một nhân tố cơ bản trong cấu trúc của thế giới quan duy vật biện chứng. Niềm tin khoa học là đúng đắn và vững chắc bởi nó có cơ sở là tri thức lý luận khoa học với thực tiễn. Đó là sự hoà quyện một cách hữu cơ giữa tri thức, tình cảm và ý chí cá nhân trong mỗi con người hay mỗi cộng đồng xã hội. Toàn bộ những tri thức mà chủ thể đã lựa chọn và chấp nhận tạo nên sự rung cảm, cảm xúc, thái độ và ý chí sẵn sàng, quyết tâm hành động theo những mục tiêu xác định. Niềm tin khoa học được hình thành trên cơ sở tri thức khoa học. Niềm tin khoa học là nguồn gốc tích cực của mỗi cá nhân, mỗi tập đoàn người, mỗi giai cấp xã hội. Nó có vai trò như là một động lực thúc đẩy con người vươn tới khát vọng nhận thức và cải tạo thế giới hiện thực với tư cách chủ thể của thế giới quan. Niềm tin khoa học chi phối một cách mạnh mẽ nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và hành động cách mạng của mỗi con người. Nó đòi hỏi hành động của mỗi người phải dựa trên cơ sở tri thức khoa học và tuân theo những giá trị và chuẩn mực đúng đắn của xã hội. Nếu con người làm một việc gì đó mà không có niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức, của tư tưởng, thì họ sẽ bị mất đi những xung động của ý chí, nghị lực, lòng nhiệt tình và sự cổ vũ cần thiết đối với hiệu quả của bất kỳ công việc gì, đặc biệt là công việc có ý nghĩa to lớn đối với xã hội và giai cấp của mình. Con người trở thành người với ý nghĩa cao quý của nó chỉ khi nào được khích lệ bởi một niềm tin chân chính: C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh…là những con người điển hình đã có một niềm tin khoa học vững chắc vào giai cấp vô sản. Các bậc vĩ nhân đó không chỉ nắm vững chân lý mà còn là tấm gương sáng ngời về lối sống theo niềm tin khoa học. Niềm tin khoa học giúp cho con người tăng thêm nghị lực, củng cố ý chí, quyết tâm, giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách, những phút giây hiểm nghèo, thậm chí sẵn sàng hy sinh bản thân mình vì những mục tiêu mà mình cho là cao cả. Do vậy, niềm tin được xác lập trên cơ sở một tri thức khoa học sẽ có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển. - Lý tưởng cách mạng Lý tưởng là hình thức đặc biệt của thế giới khách quan, là ý thức về cái đang tồn tại và triển vọng phát triển của nó; là niềm tin nhìn vào thế giới như cái cần phải có theo khát vọng của cá nhân, của một tập đoàn người hoặc là của một giai cấp hay của cả một cộng đồng người rộng lớn. Trong cuộc sống của mình, con người không thể sống mà không có lý tưởng. Lý tưởng là trạng thái hoàn hảo nhất mà người ta mong muốn đạt tới. Lý tưởng thôi thúc con người hành động để thoả mãn các nhu cầu lợi ích. Những quan niệm của con người về tương lai, về lý tưởng sẽ hình thành một hình thức tâm lý với tư cách là niềm hy vọng cao cả tạo nên một sự khát khao hiến dâng cả bản thân mình cho tương lai. Lý tưởng mang tính lịch sử, nó có thể tiến bộ hay lạc hậu tuỳ thuộc vào hình thái của các quan hệ xã hội. Trong xã hội có giai cấp, lý tưởng cũng mang tính giai cấp và mang tính đảng nhất định. Lý tưởng của giai cấp vô sản khác với lý tưởng của giai cấp tư sản; lý tưởng của Đảng cộng sản khác với lý tưởng của các đảng phản cách mạng… Lý tưởng cách mạng là một nhân tố quan trọng trong thế giới quan duy vật biện chứng về mặt định hướng cho toàn bộ hoạt động sống của cá nhân và tập đoàn xã hội hoặc giai cấp. Nó là một nhân tố kích thích sự phấn đấu vươn lên làm chủ của con người, làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình. Sự phát triển của một cá nhân hay của tập đoàn người nào đó không chỉ quy vào sự tăng lên tri thức về thế giới, mà còn phụ thuộc vào sự tăng cường khả năng cải tạo thế giới, biến thế giới đang có thành thế giới cần phải có để đáp ứng nhu cầu phát triển của con người, của một tập đoàn hay của một giai cấp nào đó. Các nhà kinh điển Mác-Lênin đặc biệt nhấn mạnh tính tất yếu phải chú ý đến quá trình biến tri thức thành niềm tin, thành lý tưởng nhằm hướng chủ thể vào việc đạt tới chân lý và cải tạo hiện thực. Sống có lý tưởng đúng đắn, cao thượng sẽ làm cho mỗi người cách mạng có thái độ, lập trường sống, lao động, học tập và công tác tích cực, lành mạnh. Từ đó giúp họ vươn tới những giá trị, mục tiêu cao đẹp, đích thực như: lòng nhân ái, lòng vị tha và những phẩm chất chân, thiện, mỹ; đồng thời giúp cho họ biết đấu tranh phòng chống, ngăn chặn và đẩy lùi mọi cái ác, cái xấu, cái tiêu cực và lạc hậu trong xã hội. Tóm lại, ba nhân tố cơ bản trong cấu trúc của thế giới quan duy vật biện chứng luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động, đan xen và thâm nhập vào nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Trong ba nhân tố cơ bản cấu thành thế giới quan duy vật biện chứng, nhân tố “tri thức khoa học”, là nhân tố quan trọng nhất, có vai trò quyết định sự hình thành và phát triển thế giới quan duy vật biện chứng. Còn nhân tố “niềm tin khoa học” và “lý tưởng cách mạng” có vai trò trong quá trình biến tri thức thành hoạt động cải tạo thế giới phục vụ cho con người. 1.1.3. Đặc điểm của thế giới quan duy vật biện chứng Thế giới quan duy vật biện chứng là sản phẩm tinh thần của con người, phản ánh hiện thực thông qua nhu cầu, lợi ích, lý tưởng của cá nhân và xã hội, phát triển cùng với sự phát triển của nhận thức và thực tiễn xã hội. Thế giới quan duy vật biện chứng còn được hiểu là một hệ thống những tri thức về tự nhiên, xã hội và con người cùng những định hướng giá trị của con người trong quan hệ với hiện thực dựa trên việc giải quyết một cách duy vật biện chứng vấn đề cơ bản của triết học. Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của thế giới quan triết học nói riêng, thế giới quan nói chung. Vì vậy, thế giới quan duy vật biện chứng có những khác biệt căn bản với các thế giới quan khác đã hình thành trong lịch sử. Trước hết, thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học. Thế giới quan duy vật biện chứng được hình thành trên cơ sở phản ánh khái quát về mặt triết học những thành tựu khoa học và thực tiễn. Toàn bộ các tri thức của nhân loại, đặc biệt là các tư tưởng triết học phương Tây từ thời cổ đại đã được C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin kế thừa có phê phán. Các ông đã tìm ra những hạt nhân hợp lý không chỉ của chủ nghĩa duy vật mà cả trong chủ nghĩa duy tâm, đặc biệt là chủ nghĩa duy tâm của Hêghen. Những tư tưởng về kinh tế - chính trị, về chủ nghĩa xã hội không tưởng xuất hiện từ các thế kỷ trước đều được C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa có chọn lọc. Chính điều đó đã làm cho chủ nghĩa duy vật biện chứng như là sự kết tinh những tư tưởng tiến bộ của loài người. Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan mang tính cách mạng. Tính cách mạng thể hiện ở chỗ, thế giới quan duy vật biện chứng nó là cơ sở khoa học để phê phán chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức của nó, nó đối lập với chủ nghĩa duy vật tầm thường và cả chủ nghĩa duy vật siêu hình. Nó không thừa nhận bất cứ một cái gì là tuyệt đích, cuối cùng. Nó khẳng định sự phát triển là một nguyên lý phổ biến của thế giới khách quan. Nó chống lại mọi sự bảo thủ, trì trệ, ngưng đọng từ tư duy cho đến hành động. Vì vậy, nó tạo ra tinh thần cách mạng cho con người, tạo ra ý thức cải biến thế giới khách quan để phục vụ cuộc sống của con người. Thế giới quan duy vật biện chứng là vũ khí tư tưởng sắc bén nhất cho các ngành khoa học chống lại các tư tưởng phản khoa học. Đó là “một thế giới quan hoàn chỉnh, không thoả hiệp với bất cứ sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản”[32, tr.50]. Tính cách mạng của thế giới quan duy vật biện chứng còn thể hiện ở chỗ nó phục vụ nhu cầu cải tạo thế giới tư bản chủ nghĩa thành thế giới mới cộng sản chủ nghĩa mà giai cấp vô sản là người đi đầu trong cuộc cải tạo đó. C.Mác đã viết: “các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”[37, tr.12]. Như vậy, thế giới quan duy vật biện chứng có tính phê phán, tính chiến đấu cao. Thế giới quan duy vật biện chứng không chỉ giúp con người khám phá và giải thích thế giới mà còn giúp con người tìm ra cách cải tạo thế giới. Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học và cách mạng. Nó không hình thành một cách tự phát ở mỗi người cách mạng; trái lại, nó chỉ có thể được hình thành, phát triển một cách tự giác thông qua quá trình được giáo dục, bồi dưỡng, học tập, rèn luyện và hoạt động thực tiễn cách mạng của chủ thể thế giới quan. Bởi vậy, tuỳ theo trình độ nhận thức, học vấn, kinh nghiệm, và cương vị công tác của mỗi người mà việc học tập, nghiên cứu và lĩnh hội tri thức khoa học nhằm nâng cao trình độ thế giới quan duy vật biện chứng có những cấp độ khác nhau. Cho nên, việc giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, thế giới quan duy vật biện chứng nói riêng cho đội ngũ cán bộ phải được tiến hành đồng thời với việc bồi dưỡng, nâng cao tri thức khoa học và khả năng, trình độ hoạt động thực tiễn của họ. 1.1.4. Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở 1.1.4.1. Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm cán bộ được hiểu như sau: “Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước. Cán bộ nhà nước. Cán bộ khoa học. Cán bộ chính trị. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường không có chức vụ. Cán bộ tổ chức”[64, tr.109]. Cán bộ còn có bộ phận được coi là lực lượng chủ chốt là “cái khung, sườn” - “bộ phận nòng cốt” trong các quá trình hoạt động của xã hội. Đó là bộ phận “chủ chốt, quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào”[64, tr.174]. Cán bộ chủ chốt là “những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong một tập thể, có quyền ra những quyết định về chủ trương, có trách nhiệm và quyền điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức để thực hiện những nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ chức ấy, thậm chí có thể chi phối, dẫn dắt toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định”[39, tr.35-36]. Có thể hiểu cán bộ chủ chốt là những người giữ vững cương vị lãnh đạo hay quản lý cao nhất có tác dụng làm nòng cốt trong các tổ chức thuộc một hệ thống tổ chức đặc biệt là trong hệ thống chính trị. Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) cơ cấu tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nước ta được phân chia thành bốn cấp: Trung ương; tỉnh, thành phố, huyện, quận và cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn). Trên một ý nghĩa nhất định, cấp cơ sở là tế bào của xã hội, sự phát triển của toàn xã hội là do sự phát triển của các đơn vị cơ sở hợp thành. Khi cơ sở còn yếu kém thì chưa thể nói đến sự vững mạnh của xã hội được. Ngược lại sự phát triển của xã hội cũng sẽ là điều kiện đảm bảo cho các cơ sở còn yếu kém phấn đấu vươn lên. Mối quan hệ giữa cấp cơ sở và toàn xã hội là mối quan hệ giữa cái bộ phận và cái toàn thể. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở được xác định bao gồm cấp uỷ viên mà trước hết là bí thư, phó bí thư Đảng uỷ, chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch, phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân, uỷ viên thường trực và những trưởng đầu ngành ở cơ sở là người quyết định mọi công việc ở cơ sở và là người chịu trách nhiệm trước Đảng và nhân dân về sự thành công hay thất bại của sự nghiệp đổi mới ở cơ sở. Trong quan niệm của người Việt Nam, danh xưng “cán bộ” càng có ý nghĩa cao đẹp. Đó là một lớp người tiên phong, sẵn sàng chịu đựng mọi gian khó, hy sinh cho cách mạng, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân và dân tộc; là những người lãnh đạo và tổ chức các phong trào cách mạng đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Như vậy, trong mọi trường hợp, cán bộ chính là lực lượng chủ chốt trong đội ngũ những người sử dụng lực lượng thực tiễn để hiện thực hoá các tư tưởng, tổ chức thực hiện ý tưởng trong cuộc sống. Trong lĩnh vực hoạt động chính trị, cán bộ là những người “đứng mũi chịu sào” trong việc hoạch định thực thi các chính sách, quyết định không chỉ riêng lĩnh vực hoạt động chuyên ngành, mà hơn thế nữa, họ là những người đầu tiên chịu trách nhiệm về sự phát triển của xã hội. Cấp cơ sở là nơi nhân dân cư trú, sinh sống gắn bó chặt chẽ trong các quan hệ kinh tế, dòng tộc và văn hoá. Cấp cơ sở có vị trí rất quan trọng, là cấp gần dân nhất, là cầu nối giữa Đảng, nhà nước với nhân dân, là nơi trực tiếp tổ chức thực thi pháp luật, chính sách của nhà nước, đưa đường lối chủ trương của Đảng vào thực tiễn đời sống xã hội. Đồng thời phản ánh tính hiệu lực của hệ thống thể chế, chính sách. Do đó, chất lượng hiện thực hoá các chính sách của các thể chế nhà nước, hành chính phụ thuộc rất lớn vào cấp này. Mọi đường lối chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước đều bắt nguồn từ cơ sở và hướng về cơ sở. Cấp cơ sở đồng thời là nơi trực tiếp thoả mãn, đáp ứng các nhu cầu hợp pháp của nhân dân, cung cấp dịch vụ cho nhân dân; là nơi xây dựng và phát triển tiến trình dân chủ, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; là nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất; là nền tảng cơ bản của xã hội; là nơi có thể tổ chức huy động, phát huy cao độ nội lực của quần chúng nhân dân. Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cấp cơ sở là nơi động viên triệt để sức người, sức của cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc. Trong công cuộc xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cấp cơ sở càng có vị trí vô cùng quan trọng. Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng xây dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) đã nhấn mạnh: “Đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước”[14, tr.165]. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vai trò hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay Cấp cơ sở là nơi trực tiếp tổ chức mọi hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội ở địa phương, bảo đảm an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội; là nơi kiểm nghiệm, phản ánh và cung cấp một cách khách quan những căn cứ cho việc bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Do đó, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vị trí, vai trò cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, luôn tăng cường xây dựng, củng cố, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn đều khẳng định, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vững, có mạnh thì địa phương mới mạnh, quốc gia mới mạnh được. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở giữ vai trò quyết định trong việc triển khai tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở tại cơ sở. Đồng thời, đội ngũ này còn tạo nên những thành tựu, cung cấp những bài học kinh nghiệm có giá trị, góp phần quan trọng cho sự phát triển chung của đất nước. Trên thực tế hiện nay, một số xã, phường, thị trấn đang diễn ra tình trạng có một số chủ trương, nghị quyết, chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước đã thực hiện không đến nơi đến chốn, thậm chí có lúc vi phạm nghiêm trọng gây hậu quả xấu. Nguyên nhân chính ở những nơi đó là do thiếu những cán bộ có năng lực tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng một cách năng động, sáng tạo và phù hợp với địa phương mình. Cấp cơ sở là địa bàn sinh sống của đại bộ phận dân cư; nơi diễn ra mọi hoạt động kinh tế xã hội của nhân dân; nơi trực tiếp và chủ yếu thể hiện sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện sự quản lý của Nhà nước đối với nhân dân. Cho nên, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là cấp cuối cùng gần dân nhất, trực tiếp tiếp xúc với bà con, là chỗ dựa của Đảng và Nhà nước, là nhịp cầu quan trọng nối Đảng với dân, đưa tư tưởng của Đảng đến với dân và phản ánh tình hình, nguyện vọng của nhân dân cho Đảng. Nhân dân tin Đảng, theo Đảng hay không, phần lớn và trực tiếp thông qua cán bộ cơ sở mà trước hết là cán bộ chủ chốt. Thông qua đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ý Đảng - lòng dân được thống nhất, làm cho Đảng và Nhà nước có sơ sở ăn sâu, bám rễ trong quần chúng, tạo nên máu thịt giữa Đảng với nhân dân, trực tiếp củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và chế độ. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy vững mạnh và phong trào cách mạng quần chúng ở cơ sở. Đối với hệ thống tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những trụ cột, là trung tâm đoàn kết, tổ chức, sắp xếp, tập hợp lực lượng, là linh hồn của các tổ chức đó. Họ tác động đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ cơ sở, đến năng lực và hiệu quả quản lý của chính quyền, lực lượng vũ trang và hoạt động của các đoàn thể quần chúng ở cơ sở. Hệ thống tổ chức bộ máy ở cơ sở có hoàn thành được nhiệm vụ của mình hay không, trước hết là tuỳ thuộc vào đội ngũ cán bộ chủ chốt. Vì thế, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức cách mạng là góp phần vào việc thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Đối với phong trào quần chúng tại địa phương, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở không những là người dẫn dắt, định hướng các phong trào, mà còn biết tổng kết kinh nghiệm nhân lên các điển hình tiên tiến trong lao động sản xuất, trong xây dựng nếp sống văn hoá và trong nhiều phong trào khác nữa tại cơ sở. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vững mạnh sẽ là một trong những nguồn cán bộ quan trọng cung cấp cho Đảng và Nhà nước. Thật vậy, cán bộ cơ sở đều ở khâu đầu tiên của hoạt động sản xuất, công tác, chiến đấu…nên họ có thực tế, có tri thức và bề dày kinh nghiệm. Cơ sở còn là môi trường quan trọng tạo điều kiện cho cán bộ rèn luyện và trưởng thành. Khi đề cập đến đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, Hồ Chí Minh từng khẳng định: Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở “không những là cái khâu liên hệ, mà là cái kho dồi dào cho Đảng lấy thêm lực lượng. Nếu đội ngũ cán bộ này phát triển và củng cố thì Đảng sẽ phát triển và củng cố; bằng không thì Đảng sẽ “khô héo”[43, tr.273-274]. Người còn căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”[44, tr.510]. Đặc biệt đội ngũ cán bộ ở cơ sở được Người rất coi trọng: “Cấp xã là người gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi”. Cho nên, tại Hội nghị cán bộ miền núi tháng 9-1962, Người nhấn mạnh: “Phải ra sức bồi dưỡng cán bộ địa phương, cán bộ nữ và cán bộ xã về mọi mặt”. Từ những điều đã trình bày ở trên, có thể khẳng định đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có tầm quan trọng đặc biệt về nhiều mặt và là một trong những vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành công hay thất bại trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đứng trước những nhiệm vụ to lớn của thời kỳ đổi mới, trước những hoàn cảnh và tình hình mới, đòi hỏi đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải là người rất trung thành, luôn hăng say phấn đấu làm tròn nhiệm vụ, kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng. Mặt khác họ phải có đủ sức phụ trách, giải quyết những công việc được giao phó. Vì vậy, họ phải hiểu biết toàn diện trên mọi lĩnh vực, không chỉ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị mà còn phải có kiến thức quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội…có khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin nhạy bén phục vụ cho công tác lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và chính quyền tại địa phương. Có như vậy họ mới đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra hiện nay. Bước vào thế kỷ XXI, khi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng phát triển một cách toàn diện cả về quy mô, tính chất và chiều sâu thì thực tiễn càng cấp bách đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn một sự đột phá có tính chất quyết định là tạo lập cho được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cấp cơ sở, đảm bảo ngang tầm nhiệm vụ cách mạng mới. Trong những đòi hỏi gay gắt của công tác cán bộ, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nổi lên như một nhiệm vụ quan trọng và bức thiết. Xuất phát từ yêu cầu phát triển nóng bỏng của thực tiễn qua các giai đoạn, đồng thời trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm và truyền thống từ lịch sử mà ngay từ Đại hội VI,VII,VIII và được cụ thể hoá tại Đại hội IX, Đảng ta xác định tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: “Xây dựng, chỉnh đốn hệ thống các học viện, trường và trung tâm chính trị, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết đối với cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp” [16, tr. 142]. Đào tạo, bồi dưỡng là khâu có ý nghĩa quyết định đến trình độ, chất lượng cán bộ. Công việc này gồm nhiều hình thức khác nhau, nhưng trong đó việc đào tạo, bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Bởi vì, thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ có phương pháp nhận thức đúng đắn sự vật, đề ra kế hoạch, định hướng và biện pháp thực hiện khoa học và hiệu quả. 1.1.4.2. Thế giới quan duy vật biện chứng ảnh hưởng tới phẩm chất đạo đức và năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở C.Mác viết: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình” [35, tr.34]. Triết học mà C.Mác đề cập ở đây chính là triết học duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Quan điểm cơ bản trên đây của C.Mác là cơ sở để hiểu rõ vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. - Thế giới quan duy vật biện chứng giúp người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở định hướng đúng đắn trong cuộc sống Thế giới quan duy vật biện chứng giúp người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nhìn rõ xu thế phát triển tất yếu của thời đại, của đất nước, mở rộng tầm nhìn và từ đó họ cũng xác định được tương lai tốt đẹp của chính địa phương mình. Trên cơ sở đó, họ sẽ hình thành lý tưởng sống tốt đẹp, quyết tâm tu dưỡng, rèn luyện để đạt mục tiêu đó. Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở xác định rõ được quyền hạn và trách nhiệm của mình từ đó mà họ cố gắng rèn luyện đạo đức, không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Việc thấm nhuần thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tự phấn đấu rèn luyện để không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng, giúp họ hiểu rõ vai trò của quần chúng nhân dân do đó mà có thái độ tôn trọng dân, gần dân, đi sâu, đi sát tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của dân, tuyên truyền vận động dân thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lôi cuốn dân vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội làm giàu đẹp quê hương, đất nước. Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở biết nêu cao tinh thần bảo vệ cái đúng, cái tốt, lên án cái ác, cái xấu, cái tiêu cực; biết tỏ rõ thái độ kiên quyết, dứt khoát trong dấu tranh phòng chống, ngăn chặn và đẩy lùi mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái về đạo đức, lối sống đang tồn tại ở những hình thức, mức độ khác nhau tại cơ sở. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho họ tin tưởng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, tin vào đường lối của Đảng, của giai cấp công nhân và sức mạnh của toàn dân. Từ đó họ sẽ hăng hái, quyết tâm vươn lên để đạt tới những mục đích đã xác định. Nói cách khác, thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở định hướng những giá trị ở tương lai tốt đẹp hơn. Chỉ có rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, vượt qua những cám dỗ của đời thường, tỉnh táo vượt qua lối sống xa lạ; có những định hướng giá trị đúng đắn, biết trân trọng những giá trị văn hoá, lịch sử, truyền thống cách mạng, của dân tộc, biết tôn trọng và nắm bắt những quy luật khách quan mới giúp họ trở thành những con người có đức, có tài, cống hiến sức lực của mình cho đất nước. Từ đó người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở sẽ ra sức học tập, nghiên cứu về lý luận cũng như tổng kết thực tiễn để nâng cao khả năng của mình về mọi mặt nhằm hoàn thành các nhiệm vụ được giao. - Thế giới quan duy vật biện chứng rèn luyện khả năng tư duy năng động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Việc phát triển thế giới quan duy vật biện chứng sẽ góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận, khắc phục tư duy siêu hình cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới. Thật vậy, đặc điểm của công tác lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở khác với cấp trung ương, tỉnh, huyện, những cấp chiến lược, trung gian. Cấp cơ sở là cấp chiến thuật, cấp hành động, nên tư duy cán bộ cơ sở thiên về tư duy hành động, tư duy cụ thể. Tất cả những công việc ở cơ sở hầu hết đều mang tính cụ thể, từ việc ký tên, đóng dấu, tiếp dân, xử lý các tranh chấp…đến các công việc chung hơn như ra các nghị quyết, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cũng như là sự cụ thể hoá các nghị quyết, chính sách của Đảng và nhà nước. Do quá trình quen với việc giải quyết những sự vụ, sự việc gần như không gắn bó với nhau và do hạn chế về thế giới quan duy vật biện chứng, nên tư duy cán bộ chủ chốt cấp cơ sở dễ rơi vào siêu hình, kinh nghiệm chủ nghĩa, phiến diện… Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có kinh nghiệm phong phú, đây là mặt mạnh trong của đội ngũ này, càng quan trọng hơn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, đặc biệt là ở cơ sở. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, công cuộc đổi mới ở cơ sở là những công việc hết sức mới mẻ và vô cùng khó khăn, phức tạp, chúng ta không thể tìm mọi lời giải đáp từ trong sách vở hoặc trong lý luận có sẵn cho những yêu cầu của thực tiễn cách mạng đặt ra. Chính phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở đã đề ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho phong trào cách mạng vượt qua khó khăn và cũng từ đó, Đảng ta có cơ sở rọi lại lý luận, bổ sung, sửa đổi, điều chỉnh lý luận, tổng kết, khái quát thành lý luận mới, định hướng, chỉ đạo cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cán bộ cơ sở nói chung và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng rất cần tri thức kinh nghiệm. Kinh nghiệm đã giúp cho cán bộ cơ sở trong thời gian qua giải quyết được nhiều vấn đề cụ thể, giản đơn ở cơ sở, nhưng nếu chỉ dừng lại ở kinh nghiệm hoặc tuyệt đối hoá tri thức kinh nghiệm sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm, phương pháp tư duy siêu hình, tuyệt đối hoá cái cụ thể, cái đơn nhất đem áp dụng nó vào cái phổ biến cái đa dạng, cái toàn thể. Như vậy, cán bộ cơ sở không thể tránh khỏi lúng túng, bất lực, thậm chí giải quyết sai lầm những vấn đề khó khăn, phức tạp do yêu cầu của công cuộc đổi mới ở cơ sở đặt ra. Chỉ có trên cơ sở trang bị thế giới quan duy vật biện chứng, người cán bộ mới nâng cao được trình độ, khả năng tư duy năng động, sáng tạo của mình, đi từ kinh nghiệm đến lý luận khoa học, khắc phục tư duy siêu hình đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới ở cơ sở. Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại phát triển như vũ bão. Những thành tựu vĩ đại của nó được nhanh chóng áp dụng vào đời sống xã hội, đem lại những bước phát triển kỳ diệu cho nhân loại, đưa loài người lên một trình độ văn minh mới - văn minh trí tuệ. Nền văn minh đó đòi hỏi trình độ trí tuệ, khả năng tư duy năng động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ phải được nâng lên. Thế giới quan duy vật biện chứng sẽ đảm bảo cho đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng có được phương pháp tư duy khoa học, nắm được quy luật, xu hướng phát triển của thế giới, có cái nhìn toàn cục, phát hiện và xử lý tình huống kịp thời các vấn đề nảy sinh ở cơ sở, đảm bảo sự phát triển kinh tế xã hội, giữ vững được an ninh - chính trị và định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, ngăn cản các thế lực thù địch đang chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, những diễn biến phức tạp, khó khăn và thuận lợi đan xen nhau, càng đòi hỏi đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước vào thực tiễn, vào từng tình huống cụ thể. Đồng thời, đòi hỏi người cán bộ phải nhạy bén, linh hoạt, dám nghĩ dám làm, đấu tranh với những hủ tục, lạc hậu tạo điều kiện cho cái mới, cái tiến bộ phát triển. - Thế giới quan duy vật biện chứng ảnh hưởng tới phương pháp lãnh đạo, điều hành của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những người vừa trực tiếp chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước lại vừa kiểm tra, uốn nắn những khuynh hướng lệch lạc trong quá trình tổ chức thực hiện. Do đó, thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp cho đội ngũ này có phương pháp biện chứng trong quá trình lãnh đạo, điều hành. Nó giúp cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở khi xem xét, đánh giá, lãnh đạo, điều hành công việc trong tình hình hiện nay một cách khoa học và hiệu quả. Nó giúp cho cán bộ xem xét, đánh giá và phân tích các vấn đề, sự vật hiện tượng trong xã hội và trong lãnh đạo điều hành theo các nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể, phát triển và thực tiễn. Những nguyên tắc này giúp cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong lãnh đạo điều hành công việc phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ bản thân sự vật, từ đặc điểm tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của địa phương mà không xuất phát từ ý muốn chủ quan của mình. Đồng thời nó còn giúp cho họ nhận thức được tính khách quan của những quan hệ lợi ích để từ đó có chủ trương, biện pháp giải quyết đúng đắn. Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là cán bộ chỉ đạo thực tiễn, trực tiếp tham gia hoạt động thực tiễn, do đó mà quá trình hoạt động thực tiễn của họ đòi hỏi năng lực nắm bắt, hiểu biết thực tiễn. Đó là điều kiện để các quyết định của người lãnh đạo bám sát đời sống hiện thực, tổ chức thực hiện các chương trình công tác đạt hiệu quả. Nó tạo cho họ khả năng giải quyết tình huống nhanh, thoả đáng. Không một nghị quyết, chương trình, chính sách…nào có thể đề cập đến chi tiết cách thức, nội dung triển khai từng xã, từng phường, từng thị trấn…Vì vậy, khi nắm được thực tiễn địa phương, bao quát được tình hình các mặt của địa phương, người lãnh đạo có khả năng triển khai có hiệu quả đường lối, chính sách của cấp trên tại địa phương mình, giải quyết tốt các công việc của địa phương. Hơn nữa, với những công việc có tính thực tiễn cao, tính năng động lớn tại cơ sở, luôn thường trực các tình huống biến động, phát sinh, người cán bộ lãnh đạo cần phải có tác phong làm việc nhanh nhạy, sáng tạo và quyết đoán. Mặc dù là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị xét về thang bậc quyền lực, nhưng những vận động của cuộc sống ở cơ sở luôn có tính độc lập và năng động cao khiến cho các hoạt động tại đây cũng phải có tính thích ứng cao độ. Theo đó, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cũng phải sáng tạo, năng động và dám nghĩ dám làm. Tóm lại, từ những vấn đề cơ bản trên đây cho thấy rằng thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò rất to lớn trong hoạt động nhận thức, ảnh hưởng tới phẩm chất đạo đức và năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp cho đội ngũ này nâng cao được năng lực lãnh đạo, bản lĩnh chính trị, tầm nhìn và khả năng xử lý các vấn đề nảy sinh trong công cuộc đổi mới ở cơ sở một cách khoa học, đáp ứng yêu cầu thúc đẩy sự nghiệp cách mạng ở cơ sở phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.2. những nhân tố ảnh hưởng tới thế giới quan của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh thái nguyên Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, tư tưởng của con người là tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, hoặc do những lực lượng “siêu tự nhiên” chi phối. Ngược lại, chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử xã hội. C.Mác viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”[39, tr.15]. Như vậy nghiên cứu thế giới quan của một xã hội, của một giai cấp, của một tập đoàn xã hội…cần phải tính đến các nhân tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và khoa học công nghệ của đất nước, của địa phương; đặc điểm lịch sử của dân tộc cũng như các cộng đồng dân tộc, trình độ phát triển văn hoá tinh thần của xã hội cũng như trạng thái phát triển thực tế của chủ thể mang thế giới quan. Do đó, khi xem xét trạng thái thế giới quan của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sơ ở tỉnh Thái Nguyên với tư cách là một bộ phận xã hội đặc thù thì không thể không xem xét những nhân tố ảnh hưởng nêu trên. Tuy nhiên, luận văn chỉ dừng lại ở một số nhân tố cơ bản nhất ảnh hưởng tới thế giới quan. 1.2.1. ảnh hưởng của điều kiện địa lý tự nhiên Thái Nguyên là một tỉnh miền núi nằm trong vùng trung du và miền núi Bắc bộ khu vực đông bắc Việt Nam có giới hạn từ 20˚ 20' đến 22˚ 03' vĩ tuyến Bắc, từ 105˚ 28' đến 106˚ 14' kinh tuyến Đông. Như vậy, từ bắc xuống nam có chiều dài 43 phút vĩ độ (bằng 80km). Từ tây sang đông có chiều rộng 46 phút kinh độ (bằng 85km). Phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, phía nam giáp Hà Nội, phía tây giáp với tỉnh Tuyên Quang, phía đông giáp với tỉnh Lạng Sơn. Tỉnh Thái Nguyên có tổng diện tích đất tự nhiên 3.541,10 km² bao gồm thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công và 7 huyện (Định Hoá, Phú Lương, Đồng Hỷ, Võ Nhai, Đại Từ, Phú Bình, Phổ Yên). Toàn tỉnh có 144 xã, 36 phường, thị trấn. Địa hình tỉnh Thái Nguyên mang đặc trưng ba vùng: vùng trung du gồm thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công và các huyện Phổ Yên, Phú Bình. Đây là vùng có mật độ dân cư đông đúc, giao thông thuận lợi cả đường bộ, đường sắt, đường sông; vùng núi gồm huyện Định Hoá, Đại Từ, Phú lương, Đồng Hỷ. Vùng này có các thung lũng rộng, giao thông thuận lợi, có nhiều điều kiện tự nhiên để khai thác và phát triển kinh tế; vùng cao là huyện Võ Nhai có địa hình phức tạp hiểm trở nhiều núi đá vôi. Có các thung lũng, sông, suối hẹp, sâu, mật độ sông hồ thưa thớt. Do địa hình phức tạp nên giao thông đi lại ở vùng này khó khăn, trở ngại lớn đến phát triển kinh tế xã hội. Tỉnh Thái Nguyên nằm trong khu vực Đông Bắc, thuộc vùng trung du miền núi Bắc Bộ, hội tụ phần phía nam của cánh cung các dãy núi đông - bắc, nên chịu ảnh hưởng khí hậu lục địa châu á, nhất là về mùa đông, đồng thời còn chịu ảnh hưởng của khí hậu và gió mùa từ biển Đông và Vịnh Bắc Bộ thổi vào. Diện tích tự nhiên của tỉnh không lớn nhưng cấu trúc địa tầng khá phức tạp, đa dạng và có nhiều nguồn gốc khác nhau. Điều đó quy định chất lượng đất và sự phong phú của nhiều loại khoáng sản, bao gồm cả nhiên liệu, kim loại, phi kim loại. Nhiều dãy núi cao chạy theo hướng bắc - nam, thấp dần xuống phía nam. Cấu trúc vùng núi phía bắc chủ yếu là đá phong hoá mạnh, tạo thành nhiều hang động, thung lũng nhỏ. Phía tây - nam có dãy núi Tam Đảo với đỉnh cao nhất 1590m. Phía bắc có dãy núi Ngân Sơn tạo nên một vùng ít mưa; dãy núi Bắc Sơn chạy theo hướng tây bắc - đông nam. Cả ba dãy núi này đều là những dãy núi cao, che chắn gió mùa đông bắc về mùa đông, tác động đến khí hậu của các vùng toàn lãnh thổ của tỉnh. Thái Nguyên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm và gió mùa, hình thành hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Theo địa hình, khí hậu được phân thành ba vùng rõ rệt: phía tây nóng và mưa nhiều, phía đông lạnh và ít mưa, phía nam khí hậu có tính trung gian. Giữa hai hai vùng đông và tây là vùng chuyển tiếp từ trung du sang đồng bằng. Do điều kiện địa lý tự nhiên mang đặc trưng ba vùng, khí hậu nhiệt đới nóng ẩm và gió mùa làm cho lối sống, suy nghĩ, lối tư duy của người dân có sự khác biệt. ở vùng trung du do có điều kiện thuận lợi về giao thông, dân cư tập trung đông đúc và sinh sống bằng nhiều nghề khác nhau như: sản xuất nông nghiệp, thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp…đã tạo ra cho cư dân ở vùng này có đời sống khá hơn và năng động hơn so với vùng khác, lối suy nghĩ, tư duy của người dân không chỉ dừng lại ở tư duy kinh nghiệm mà đang có sự chuyển dịch lên tư duy tiền khoa học và khoa học. ở vùng núi có điều kiện tự nhiên thuận lợi để cư dân ở đây sống chủ yếu bằng nghề sản xuất nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi gia súc…với phương thức sản xuất nhỏ làm cho nếp suy nghĩ và tư duy của người dân thiển cận, hẹp hòi; cung cách làm ăn tủn mủn; đầu óc mang nặng tính tư hữu; hoặc những biểu hiện của tư tưởng cục bộ địa phương, cũng như tư tưởng “đèn nhà ai nhà ấy rạng”. ở họ đã và đang gặp những vật cản không nhỏ đối với việc học tập tiếp thu tri thức khoa học, rèn luyện tác phong công nghiệp. ở vùng cao, do địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, phương thức sản xuất lạc hậu, thiếu áp dụng khoa học kỹ thuật, cư dân sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, săn bắt, khai thác lâm thổ sản quý ở rừng…lối sống của người dân giản đơn, tư duy trực quan cảm tính. Họ còn tin vào sự tồn tại của các vị thần linh. Đó cũng là cơ sở cho hiện tượng mê tín dị đoan phát triển. Tất cả những yếu tố đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành, phát triển thế giới quan của người dân Thái Nguyên nói chung, của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng từ xưa cho đến ngày nay. 1.2.2. ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội Thực tiễn lịch sử xã hội loài người đã chứng minh: con người vừa là chủ thể của hoàn cảnh, đồng thời vừa là sản phẩm của hoàn cảnh. Đúng như C.Mác đã viết: “con người trong chừng mực mà họ là hiện thân của những phạm trù kinh tế, là kẻ đại biểu cho những quan hệ và những lợi ích giai cấp nhất định”[65, tr.46]. Thế giới quan có nguồn gốc trực tiếp hoặc gián tiếp từ sự biến đổi của tồn tại xã hội mà quan trọng nhất là sự biến đổi của tố phương thức sản xuất. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến thế giới quan của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, mỗi một địa phương, cơ sở có những hoàn cảnh, điều kiện kinh tế xã hội khác nhau, có những chủ trương, phương pháp khác nhau trong quá trình cách mạng xây dựng đất nước; thế giới quan của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở không những chịu sự chi phối của những quy luật chung được đặc thù hoá qua hoàn cảnh cụ thể của mỗi địa phương, cơ sở mà còn chịu sự chi phối của những điều kiện riêng của mỗi địa phương, cơ sở. Trong giai đoạn hiện nay những điều kiện kinh tế xã hội tỉnh Thái Nguyên đã, đang và sẽ có tác động, ảnh hưởng tới đời sống tinh thần nói chung và thế giới quan nói riêng của nhân dân và của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, song song với nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, Đảng bộ Thái Nguyên lãnh đạo nhân dân từng bước triển khai chủ trương cải tạo các thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thái Nguyên là một tỉnh vừa miền núi, vừa trung du nên tiềm năng đất đai rất đa dạng cả về đất nông nghiệp, đất công nghiệp, đất rừng và tài nguyên khoáng sản. Tuy nhiên nhiên người dân Thái Nguyên trước đây chủ yếu làm nông nghiệp. Đến năm 1975 với 80% dân số sống chủ yếu bằng nghề nông. Tập quán sản xuất nhỏ từ ngàn đời đã ăn sâu trong tiềm thức, trở thành thói quen, nếp nghĩ, tình cảm cách làm ăn sinh sống của người dân Thái Nguyên, trong khi đó trình độ văn hoá, kiến thức, kinh nghiệm quản lý sản xuất nông nghiệp của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Thái Nguyên còn nhiều hạn chế. Chính nền sản xuất nhỏ ấy với tính chất manh mún, tản mạn, khép đã làm cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có tầm nhìn hạn hẹp. Điều kiện kinh tế xã hội cũ đã đẻ ra những tư tưởng bảo thủ, tính tư hữu nhỏ hạn chế tính tích cực sáng tạo của con người. Các Mác viết: “Phương thức sản xuất của người tiểu nông không làm cho họ liên hệ với nhau mà lại làm cho họ cô lập với nhau (…!). Trường hoạt động sản xuất của họ, một miếng đất nhỏ bé không cho phép áp dụng một sự phân công lao động cũ, một sự áp dụng khoa học nào cả. Do đó cũng không cho phép một sự phát triển nhiều màu, nhiều vẻ nào cả, một sự phân biệt tài năng nào cả, cũng không cho phép có một sự phong phú nào về các quan hệ xã hội [30, tr.375]. Như vậy nghề nông nghiệp lạc hậu ấy không thúc đẩy việc hình thành phát triển tư duy trừu tượng, tư duy lôgíc mà chủ yếu là tư duy cảm tính, tư duy kinh nghiệm. Do đó nghề sản xuất nông nghiệp cũng không có nhu cầu khách quan cho tư duy khoa học nảy nở. Từ đó con người thường hoài nghi cái lạ, dè dặt với cái mới, trong phương pháp suy nghĩ của họ nặng về tình cảm, nhẹ về lý trí. Vì vậy, họ dễ mắc bệnh chủ nghĩa kinh nghiệm, bệnh chủ quan duy ý chí, dễ rơi vào ảo tưởng, tạo điều kiện để các thế giới quan duy tâm, tôn giáo dễ xâm nhập. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đất nước (1986) đến nay, nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã nỗ lực phấn đấu, tổ chức lại phương thức sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, từng bước cải thiện đời sống vật chất, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân. Do đặc điểm là tỉnh trung du, miền núi Thái Nguyên đã xác định cơ cấu kinh tế là công nghiệp, xây dựng - dịch vụ - nông nghiệp, lâm nghiệp. Đến nay tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 3 năm (2006-2008) đạt 12,03%; trong đó công nghiệp - xây dựng tăng 16,77%, dịch vụ tăng 12,72%, nông, lâm nghiệp tăng 4,33%. GDP bình quân đầu người tăng từ 7,13 triệu đồng năm 2006 lên 11,48 triệu đồng năm 2008. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực phù hợp với quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Cơ sở hạ tầng được củng cố một bước quan trọng. Các hoạt động xúc tiến thu hút đầu tư được triển khai tích cực và đạt kết quả khá. Đến nay, đã thu hút được 128 dự án, tổng vốn đăng ký gần 48.000 tỷ đồng, tổng vốn đã thực hiện khoảng 8.000 tỷ đồng. Sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao, trong 3 năm (2006-2008) tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân đạt 21,21%, trong đó kinh tế khu vực nhà nước tăng 11,35%, kinh tế khu vực ngoài nhà nước tăng 48,69%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,63%. Các thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất công nghiệp ngày càng tăng, đã góp phần làm cho cơ cấu sản xuất công nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực. Các nhóm ngành phát huy thế mạnh của tỉnh như luyện kim, khai khoáng, cơ khí chế tạo, sản xuất vật liệu xây dựng, may mặc đạt tốc độ tăng trưởng cao. Các doanh nghiệp đã quan tâm đầu tư mở rộng sản xuất, ứng dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh trên thị trường. Với những kết quả đạt được trong những năm qua, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao. Do đó, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận thế giới quan duy vật cho người cán bộ nói riêng và người dân nói chung. Về xã hội, dân số và cơ cấu dân số Thái Nguyên đã trải qua những biến động lớn gắn liền với quá trình điều chỉnh địa giới hành chính. Tỉnh Thái Nguyên sau hơn 30 năm hợp nhất với tỉnh Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái, đã được lập lại năm 1997. Dân số của tỉnh vào thời điểm cuối năm 1997 là 1.040.123 người. Tính đến hết năm 2006 tổng số dân của tỉnh Thái Nguyên là 1.135.035 người mật độ dân cư trung bình 306 người/km², dân số thành thị chiếm 23,41%; nông thôn chiếm 76,59%. Do địa hình Thái Nguyên được chia thành 3 vùng: trung du, vùng núi, vùng cao nên khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng khá rõ rệt. Thái Nguyên là tỉnh có 8 dân tộc sinh sống ổn định lâu đời là: Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, Dao, Cao Lan, H’Mông và Hoa. Nhìn chung các dân tộc đều sống gắn bó với nhau, hoà nhập thành một cộng đồng thống nhất, cùng sống xen kẽ trên lãnh thổ với nền văn hoá chung về tính chất nhưng đa dạng về hình thái, do từ nhiều nguồn gốc nhân văn tập hợp lại. Các dân tộc đều chung tiến trình phát triển lịch sử, văn hoá, ý thức tâm lý… Thái Nguyên cũng là một tỉnh có vị trí chiến lược an ninh, quốc phòng và chính trị quan trọng nên các thế lực thù địch cũng thường xuyên thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” nhằm chia rẽ, gây mất đoàn kết giữa các đồng bào dân tộc. Chính vì vậy, nó đặt ra cho đội cán bộ các cấp nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng phải có trình độ trí tuệ thực sự, luôn giữ được bản lĩnh chính trị, nâng cao cảnh giác, có khả năng nhạy cảm xử lý nhạy bén với vấn đề dân tộc trong tình hình mới. Nhìn chung, mặt bằng dân trí Thái Nguyên tuy cao hơn so với một số tỉnh miền núi, nhưng phân bố không đều. Một bộ phận trong cán bộ, đảng viên và phần lớn nông dân ở các vùng nông thôn, miền núi dù đã trải qua hơn 20 năm đổi mới, nhưng vẫn còn mang nặng nếp nghĩ, cách làm thời bao cấp với tập quán canh tác lạc hậu…Đó chính là những khó khăn không nhỏ đối với một tỉnh mới được chia tách, lại phải san sẻ một bộ phận cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành cho tỉnh bạn. Trong những năm qua Thái Nguyên đã từng bước khắc phục khó khăn, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, qua đó đã từng bước xoá bỏ nền kinh tế tự nhiên, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, từng bước xoá bỏ những quan niệm duy tâm thần bí, phong tục, tập quán lạc hậu, xác lập những quan niệm duy vật khoa học, củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng. 1.2.3. ảnh hưởng của văn hoá, giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ Bên cạnh những điều kiện địa lý tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội thì văn hoá, giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ cũng ảnh hưởng đến sự tiếp thu, phát triển thế giới quan duy vật biện chứng. Nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên vốn có truyền thống văn hoá lâu đời. Đến nay hiện còn lưu giữ được rất nhiều chứng tích vật chất để xác định đã có sự sống của loài người cách đây chừng 2-3 vạn năm. Khu di tích Thần Sa thuộc xã Thần Sa, huyện Võ Nhai với các di chỉ Phiêng Tụng, các hang Đá Ngườm, Thăm Chong, Nà Ngần đã chứng minh sự tồn tại của một nền văn hoá cổ ở Việt Nam nói riêng và cả ở vùng Đông Nam á nói chung. Đó là văn hoá Thần Sa. Ngoài ra, các nhà khảo cổ học còn phát hiện ở một số xã của huyện Võ Nhai chính là quê hương của các nền văn hoá thời kỳ đồ đá: văn hoá Hoà Bình, văn hoá Bắc Sơn…và phát hiện ra trống đồng Đông Sơn ở Võ Nhai. Điều đó chứng tỏ Thái Nguyên không chỉ là quê hương của người Việt, mà còn là quê hương của nền văn hoá đa sắc tộc. Thái Nguyên là một vùng đất văn hoá của nhiều dân tộc. Mỗi dân tộc đều có truyền thuyết về địa danh, các câu chuyện cổ tích, truyện thơ, phong phú hơn cả là kho tàng ca dao, tục ngữ, câu đố…Dân ca của các dân tộc có các làn điệu đặc sắc như hát sli, lượn, hát pảdzung… Mỗi dân tộc đều có những phong tục tập quán riêng, thể hiện rất rõ trong việc cưới, việc tang, thờ cúng…Mặc dù mỗi thành phần dân tộc ở Thái Nguyên mang những đặc điểm riêng về tiếng nói, trình độ sản xuất, bản sắc văn hoá, song tất cả đều có những nét tương đồng, hoà nhập trong một cộng đồng và chung sống trên một lãnh thổ. Vì là tỉnh nằm ở trung tâm khu vực miền núi Đông - Bắc, là cửa ngõ nối liền các tỉnh biên giới phía bắc với vùng đồng bằng rộng lớn Bắc Bộ. Thái Nguyên là điểm hội tụ bản sắc văn hoá của các dân tộc thiểu số cư trú trong vùng, vừa là nơi giao lưu, hội nhập với nền văn hoá của cộng đồng dân tộc miền xuôi, tạo nên một nền văn hoá phong phú, đa dạng và đậm bản sắc dân tộc. Với nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên, nền văn hoá vật thể luôn là niềm tự hào và là tài sản vô giá phản ánh truyền thống kiên cường dựng nước và giữ nước của Thái Nguyên và của cả dân tộc. Đến nay Thái Nguyên đã có 780 điểm di tích lịch sử, trong đó có 23 điểm được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia. Tiêu biểu là khu di tích lịch sử văn hoá Thần Sa (Võ Nhai); di tích lịch sử núi Văn- núi Võ (Đại Từ); di tích lịch sử đền Đuổm (Phú Lương), khu di tích lịch sử khởi nghĩa Thái Nguyên (trung tâm thành phố); khu di tích lịch sử An toàn khu (Định Hoá); di tích kiến trúc nghệ thuật đình Phương Độ (Phú Bình); hang Phượng Hoàng, suối Mỏ Gà (Võ Nhai); di tích lịch sử nhà tù “căng” Bá Vân (thị xã Sông Công). Nói đến Thái Nguyên là nói đến sản phẩm chè có hương vị thơm ngon nổi tiếng. Đồng bào các dân tộc đều có tập quán trồng chè búp và sành uống chè. Ngoài ra, Thái Nguyên còn có các sản phẩm như cơm lam, bánh trà lam của người tày, bánh trứng kiến của người Sán Dìu…Tất cả những yếu tố về văn hoá đã có ảnh hưởng tới việc hình thành thế giới quan của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Trong quá trình đổi mới, Thái Nguyên có điều kiện vừa bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá của mỗi dân tộc, vừa có điều kiện tiếp thu tinh hoa văn hoá của các vùng, miền trong nước và thế giới, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc. Thái Nguyên là vùng đất có truyền thống hiếu học. Từ những thế kỷ trước, khi quê hương, đất nước còn triền miên trong cảnh tranh giành quyền lực của các triều đình phong kiến, nạn ngoại xâm thường xuyên đe doạ, nhân dân phải sống trong đói khổ, áp bức thì ở Thái Nguyên đã có nhiều vị khoa bảng, đỗ đại khoa, tiến sĩ là học vị cao nhất dưới thời phong kiến, góp phần vào nền văn minh và sự hưng thịnh của quốc gia. Tiêu biểu là ông Đỗ Cận (quê ở Minh Đức, Phổ Yên), đỗ tiến sĩ năm 45 tuổi (1478) đã nêu một tấm gương sáng về tinh thần ham học. Ông đã từng giữ chức Tham nghị xứ Quảng Nam; chức phó sứ trong Đoàn sứ bộ Đại Việt sang nhà Minh (Trung Quốc); chức Thượng thư (đứng đầu một bộ trong triều)…Tác phẩm của ông khá phong phú như Kim Lăng ký, Xuân yến, Thái Thạch vãn bạc. Là một tỉnh miền núi nhưng sự nghiệp giáo dục đào tạo ở Thái Nguyên khá phát triển. Thái Nguyên đã và đang trở thành một trung tâm giáo dục - đào tạo lớn của cả nước. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 20 trường bao gồm đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, đào tạo khá đa dạng về ngành nghề, lưu lượng gần 3 vạn sinh viên đại học và cao đẳng, gần 2 vạn học sinh trung học và công nhân kỹ thuật. Toàn tỉnh có trên 200 tiến sỹ và tiến sỹ khoa học, gần 50 giáo sư và phó giáo sư, khoảng 600 thạc sỹ, với trên 2.000 cán bộ nghiên cứu khoa học và giảng dạy đại học và hàng chục vạn sinh viên, học sinh đã và đang trở thành một nguồn lực khoa học, công nghệ lớn của tỉnh. Đến nay các huyện, thành phố, thị xã đều có trường trung học phổ thông; tất cả các xã, phường, thị trấn đều có trường tiểu học, trung học cơ sở và trường mầm non. Tổng số trường phổ thông là 435 trường, với 11.669 giáo viên và 22 vạn học sinh các cấp. Trong những năm qua giáo dục Thái Nguyên đã đạt được một số thành tựu: đến năm 2000, hoàn thành chương trình xoá mù chữ, phổ cập cấp tiểu học; năm 2004, phổ cập trung học cơ sở. Đến tháng 8 năm 2008, toàn tỉnh có 203 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt 35,46%. Tỉnh Thái Nguyên hiện có tổng số cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ đại học trở lên là: 16.732 người. Bình quân 10 nhân lực khoa học và công nghệ trên 665 người dân tăng từ 14.972 năm 2002 người lên 16.732 người năm 2006. Tỉnh hiện có 21 trung tâm nghiên cứu triển khai, trạm trại thực nghiệm đã hoạt động, tích cực đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất và đời sống. Tổ chức các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến công… Những thành tựu trong giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ tạo ra những thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội, tạo điều kiện trực tiếp cho việc nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên nói chung và cho đội ngũ cán bộ nói riêng. Trong đời sống xã hội, những nhân tố duy vật từng bước được khẳng định, đẩy lùi những quan niệm thần bí, mê tín, những phong tục tập quán lạc hậu; đặc biệt sự phát triển của giáo dục - đào tạo và kinh tế cũng từng bước phá vỡ lối nhìn hạn hẹp của người dân nói chung và của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng. 1.2.4. ảnh hưởng của qúa trình mở cửa, hội nhập và phát triển kinh tế thị trường Trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay, việc mở cửa, hội nhập và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là xu thế tất yếu khách quan. Việc mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật với nhiều nước trên thế giới của Đảng, Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học hỏi và kế thừa những tư tưởng tiến bộ, văn minh, những thành tựu về khoa học kỹ thuật và văn hoá của nhân loại và của thời đại. Điều này có ảnh hưởng tích cực tới việc tiếp thu, lĩnh hội, nâng cao trí tuệ, hình thành và phát triển thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cở sở ở tỉnh Thái Nguyên nói riêng. Từ đó giúp cho họ có nhãn quan chính trị đúng đắn, nhạy bén và tầm nhìn rộng hơn và sâu sắc hơn về mọi vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. Song, bên cạnh đó nó cũng có những tác động tiêu cực không nhỏ đến đời sống xã hội, đến việc tiếp nhận và phát triển thế giới quan duy vật biện chứng. Bên cạnh những tác động tích cực của quá trình mở cửa, hội nhập và phát triển kinh tế thị trường là chủ yếu, mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động tiêu cực ở những mức độ nhất định tới quá trình phát triển thế giới quan duy vật ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Thái Nguyên. Cơ chế thị trường làm nảy sinh một số tệ nạn xã hội và các hiện tượng tiêu cực khác. Đó là do đề cao lợi ích cá nhân đã làm cho nhiều người, trong đó có một số ít cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nảy sinh tư tưởng và lối sống thực dụng, sống vì tiền, chạy theo đồng tiền. Vì tiền, có người đã bất chấp mọi giá trị đạo đức, văn hoá, kỷ cương, tốt xấu nhằm đạt được những lợi ích cá nhân của mình, xem nhẹ lợi ích tập thể, đơn vị và xã hội; đề cao giá trị hiện tại mà coi nhẹ giá trị truyền thống; chỉ thấy lợi ích trước mắt mà không thấy lợi ích cơ bản lâu dài, đặc biệt không ít người đã mang nặng tư tưởng sùng ngoại. Tất cả những biểu hiện này dù nhiều hay ít đã đang ảnh hưởng xấu tới việc xây dựng, củng cố niền tin của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay. Trong cơ chế thị trường, do xuất hiện những yếu tố rủi ro ngẫu nhiên về kinh tế, làm ăn thua lỗ hoặc không có hiệu quả đã xuất hiện tư tưởng “cầu may” trong một số cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong cuộc sống hằng ngày, những người này thường không quan tâm tới việc học tập, rèn luyện để nâng cao kiến thức, năng lực, cải tiến phương pháp làm việc đạt chất lượng, hiệu quả công việc cao hơn. Trái lại, họ chỉ chú ý và quan tâm nhiều tới vấn đề đi chùa, khấn vái, cầu may để mong được ban phước lành, nhanh được lên chức, lên cấp, lên lương…Điều đó, nó cũng làm ảnh hưởng không nhỏ tới việc học tập, rèn luyện, phấn đấu vươn lên để không ngừng nâng cao tri thức khoa học, bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống cách mạng, năng lực công tác và bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thái Nguyên hiện nay. Chương 2 Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay - Thực trạng và giải pháp 2.1. thực trạng việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh thái nguyên hiện nay 2.1.1. Các biện pháp để bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay Sau khi tỉnh Thái Nguyên được tái lập, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ lâm thời tỉnh Thái Nguyên đã sớm ra quyết định thành lập Trường Chính trị tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở Trường Chính trị tỉnh Bắc Thái. Kể từ ngày 1-3-1997, Trường Chính trị tỉnh Thái Nguyên được chuyển về trực thuộc Tỉnh uỷ Thái Nguyên, là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh. Đối tượng chủ yếu là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, chuyên viên, cán sự của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện; cán bộ công chức cơ sở, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện. Nhiệm vụ của trường là đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, về công tác xây dựng Đảng, quản lý hành chính nhà nước và công tác dân vận. Mục tiêu là đào tạo đội ngũ cán bộ các cấp trong tỉnh có bản lĩnh chính trị vững vàng, nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước. Tháng 6-1997, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã thông qua Nghị quyết về chiến lược cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội nghị nhận xét tổng quát về đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo nói riêng từ Trung ương đến cơ sở có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng động, sáng tạo, hăng hái thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; có trình độ, kiến thức và năng lực quản lý xã hội. Đại bộ phận cán bộ có đức, phẩm chất cách mạng, có lối sống lành mạnh, quan hệ gắn bó với dân. Nhưng trước yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới, đội ngũ cán bộ này còn bất cập, đặc biệt “xét về chất lượng, số lượng và cơ cấu có nhiều mặt chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá” [12, tr.68-69]. Mục tiêu của công tác cán bộ được Hội nghị Trung ương xác định là: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ Trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội [12, tr.78-79]. Quán triệt tinh thần các Nghị quyết trên, tháng 11-1997, Đại hội đại biểu lần thứ XV của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã được tổ chức. Đại hội đã rất chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trên tất cả các lĩnh vực để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong quá trình hội nhập và hợp tác với các nước trong khu vực và quốc tế. Về công tác giáo dục chính trị tư tưởng và nghiên cứu học tập lý luận, Đại hội nêu rõ: “Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao bản chất giai cấp công nhân của Đảng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ nhận thức đúng đắn và phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới”. Thực hiện yêu cầu trên tỉnh Thái Nguyên đã có nhiều biện pháp tích cực để giáo dục, đào tạo cán bộ các cấp, trong đó có việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Thứ nhất, công tác đào tạo Trường Chính trị tỉnh Thái Nguyên đã sớm xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ đổi mới. Trường chính trị tỉnh đã chủ trương đa dạng hoá các loại hình đào tạo và mở rộng quy mô đào tạo, bao gồm cả trung cấp, cao cấp lý luận chính trị và đại học, cả đào tạo và bồi dưỡng, cả tập trung và tại chức với số lượng lớn. Nhà trường tập trung mở các lớp tại trường và ở hầu hết các huyện, thị xã trong tỉnh, các lớp đào tạo hệ tập trung theo chỉ đạo của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, liên kết với Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I, Học viện Báo chí -Tuyên truyền, các trường đại học, cao đẳng mở các lớp đào tạo trung cấp lý luận chính trị, trung cấp hành chính, trung cấp chuyên môn, cử nhân và cao cấp lý luận chính trị…đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, đảng viên trong tỉnh. Số lượng cán bộ trong trong tỉnh được đào tạo, bồi dưỡng từ năm 2006 đến năm 2008 là 7.746 học viên. Công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao thế giới quan duy vật biện chứng cho cán bộ nói chung và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng bao gồm nhiều nội dung: giáo dục đào tạo nâng cao tri thức khoa học nói chung, giáo dục kiến thức chuyên ngành. Song nội dung đào tạo, bồi dưỡng vẫn chủ yếu là nâng cao trình độ lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đào tạo bồi dưỡng lý luận chính trị gắn liền với công tác giáo dục đạo đức, lối sống. Một trong những yêu cầu của chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh là góp phần nâng cao niềm tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, kiên định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, hình thành và phát triển ở người học thế giới quan và phương pháp luận khoa học. Từ đó giúp họ hiểu đúng, bảo vệ và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng vào thực tiễn công tác. Tuy nhiên, chương trình và giáo trình đào tạo, bồi dưỡng chưa thực sự bám sát từng đối tượng người học, chưa có chương trình dành riêng cho đối tượng là cán bộ cơ sở. Các học viên trong một lớp học thường có trình độ không đồng đều nên cũng gây khó khăn cho quá trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị. Trong giáo trình các môn khoa học Mác-Lênin, chương trình trung cấp lý luận chính trị vẫn còn nặng nêu các quan điểm chính trị, hàm lượng khoa học chưa cao, chủ yếu là yêu cầu người học thừa nhận một cách xuôi chiều; tính phê phán chiến đấu còn thấp. Một số chỗ trích kinh điển còn mang tính “tầm chương trích cú” mà chưa làm rõ ý nghĩa, giá trị từng luận điểm đối với thực tiễn Việt Nam. Do đó, các vấn đề lý luận và thực tiễn còn chưa có sự thống nhất, lý luận chưa có sự thuyết phục cao đối với người học, chưa thực sự gây được cảm xúc tình cảm đối với môn học, bởi vấn đề thực tiễn cuộc sống ở cơ sở đang đặt ra chưa được giải quyết. Một thực tế mà chúng ta cũng cần phải nghiêm túc nhìn nhận đó là trong số cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên có trình độ trung cấp lý luận chính trị thì phần lớn đào tạo theo hình thức vừa học vừa công tác (một tháng học 10 ngày) cho nên thời gian học tập, nghiên cứu lý luận rất hạn chế. Hơn thế, việc nhận thức thế giới quan duy vật biện chứng đòi hỏi người cán bộ phải hiểu rõ những quan điểm cơ bản của triết học Mác- Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học, kinh tế chính trị Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh…Trong đó triết học là cơ sở lý luận chung nhất, là hạt nhân cơ bản của thế giới quan. Mọi quan điểm khác đều xuất phát từ cơ sở lý luận triết học. Tuy vậy, trên thực tế việc học tập, nghiên cứu triết học đang đặt ra nhiều vấn đề bức thiết cần giải quyết từ cả phía người dạy, người học và nội dung chương trình và thời gian đào tạo, bồi dưỡng…Vì vậy, thế giới quan khoa học của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên cũng chưa thực sự được nâng cao. Tuy nhiên, do chủ động và tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nên trình độ, kiến thức, năng lực công tác của đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng được nâng lên một bước đáng kể. Phần lớn đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh khi được đào tạo xong đã có những sự chuyển biến về mặt nhận thức, tư tưởng, phẩm chất đạo đức cũng như năng lực lãnh đạo, quản lý điều hành công việc trên địa bàn của mình. Họ đã nắm những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có sự kiên định hơn về lập trường tư tưởng, góp phần nâng cao niềm tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, kiên định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời, việc nắm bắt kịp thời những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, nguyên tắc khoa học của thế giới quan duy vật biện chứng đã giúp cho họ nâng cao năng lực nhận thức, giải quyết, xử lý kịp thời những tình huống phức tạp trên địa bàn, có sự vận dụng sáng tạo đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước vào điều kiện cụ thể. Mặc dù vậy, đứng trước yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước, một bộ phận cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỏ ra lúng túng trong việc vận dụng lý luận vào thực tiễn. Họ còn nặng về sách vở. Bệnh giáo điều, quan liêu, cục bộ địa phương vẫn là hiện tượng đáng lo ngại. Một bộ phận cán bộ đứng trước những biến đổi phức tạp của tình hình kinh tế xã hội đã tỏ ra thiếu sự tin tưởng vào đường lối đổi mới đất nước. Điều đó đã phản ánh trực tiếp hay gián tiếp những hạn chế về thế giới quan khoa học của họ. Thứ hai, công tác giáo dục đạo đức, lối sống Giáo dục lối sống và đạo đức là vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản và lâu dài đến đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay. Bởi trong thời kỳ đổi mới, với sự biến đổi nhanh chóng của tình hình kinh tế xã hội, với sự tác động trái chiều của nền kinh tế thị trường, những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chưa được khắc phục. Một số ít cán bộ có biểu hiện suy thoái về ý thức chính trị, thoái hoá về đạo đức, lối sống, lợi dụng chức quyền, quan liêu, thiếu trách nhiệm, xa rời cuộc sống của dân, kèn cựa địa vị, cục bộ địa phương. Họ có ý thức tổ chức kỷ luật kém, phát ngôn và làm việc tuỳ tiện, gây mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng ảnh hưởng tiêu cực đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Nhiều cán bộ lãnh đạo không nghiêm túc tự phê bình và tiếp thu phê bình, tính chiến đấu kém. Tình trạng nể nang né tránh, không nói thẳng, nói thật với nhau, bằng mặt không bằng lòng vẫn còn phổ biến. Đó là biểu hiện của tầm nhìn hạn hẹp, sự tách biệt giữa lời nói với việc làm. Đứng trước thực trạng đó, công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ đảng viên nói chung và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng trong tỉnh luôn được cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương quan tâm. Trường chính trị tỉnh và các trung tâm bồi dưỡng chính trị của các huyện thị trong tỉnh đã tích cực thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục về đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Tại các cơ sở tổ chức quán triệt đầy đủ và nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, triển khai việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh góp phần nâng cao nhận thức, tạo sự nhất trí trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân và có tác dụng giáo dục, rèn luyện cho cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, trên thực tế ở các địa phương, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình của một số cán bộ đảng viên còn yếu. Thứ ba, công tác tổng kết thực tiễn Có thể nói, tổng kết thực tiễn là vòng khâu cuối cùng của quá trình tổ chức hoạt động thực tiễn, đồng thời là mở đầu cho quá trình tổ chức hoạt động thực tiễn ở giai đoạn mới. Tổng kết thực tiễn là một mắt khâu của quá trình tổ chức hoạt động thực tiễn, không chỉ nhằm tổng kết lý luận mà còn có tác dụng đào tạo cán bộ, nâng cao vai trò thế giới quan khoa học. Tổng kết thực tiễn chỉ có giá trị, chỉ có ý nghĩa khi những bài học kinh nghiệm được rút ra có tác dụng chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn tiếp theo. Hiệu quả của tổng kết thực tiễn đạt đến mức độ nào, cao hay thấp, khách quan hay không khách quan, theo hướng tích cực hay tiêu cực còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trước hết là năng lực tổng kết thực tiễn của chủ thể tiến hành tổng kết thực tiễn; phẩm chất đạo đức của chủ thể tổng kết thực tiễn. Không có có cách nhìn đúng đắn thì chủ thể tổng kết thực tiễn khó mà tổng kết thực tiễn một cách khoa học và không rút ra được những bài học kinh nghiệm có tính khái quát, có giá trị chỉ đạo thực tiễn. Không có phẩm chất đạo đức thì chủ thể tổng kết thực tiễn khó mà tổng kết thực tiễn một cách khách quan, trung thực. Những yếu tố này quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung cho nhau, cùng nhau ảnh hưởng tới chất lượng tổng kết thực tiễn. Mặt khác, cũng qua tổng kết thực tiễn mà tầm nhìn của cán bộ chủ chốt cấp cơ sơ được mở rộng, trở nên thực tế, có thể khắc phục được những ảo tưởng, tránh được chủ nghĩa chủ quan. Mặc dù còn nhiều hạn chế trong công tác tổng kết thực tiễn song có thể nói, thông qua công tác tổng kết thực tiễn mà đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên đã có những quyết định đúng đắn trong việc lãnh đạo, quản lý phù hợp với thực tiễn địa phương, trong việc vận dụng sáng tạo mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, tránh được bệnh giáo điều, sách vở cũng như bệnh kinh nghiệm. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên là những người trực tiếp triển khai tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước ở tại cơ sở. Đồng thời, đội ngũ này còn cung cấp những bài học kinh nghiệm có giá trị, góp phần quan trọng cho sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Trong hoạt động lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở mặc dù là ở cấp thấp nhất nhưng hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ này cũng toàn diện, bao quát mọi lĩnh vực từ chính trị, đến kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng đảng…Đối với phong trào quần chúng tại địa phương, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên là những người dẫn dắt, định hướng các phong trào, tổng kết kinh nghiệm, nhân lên các điển hình tiên tiến trong lao động sản xuất, trong xây dựng nếp sống văn hoá và trong nhiều phong trào khác nữa tại cơ sở. Tuy nhiên, công tác tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên chủ yếu mới dừng lại ở nhận thức. Việc đúc kết kinh nghiệm còn mang tính hời hợt, giản đơn, thường chỉ biết liệt kê, tổng hợp các số liệu một cách đơn thuần. Bởi lẽ trình độ tư duy lý luận của đội ngũ này còn hạn chế, vẫn bị ảnh hưởng bởi bệnh kinh nghiệm, bệnh chủ quan, chủ nghĩa thành tích cùng với thói quen ỷ lại, trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp trên. Sự suy thoái về phẩm chất đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã tác động tiêu cực tới đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên và đã làm ảnh hưởng tới hiệu quả công tác tổng kết thực tiễn. Thứ tư, vai trò của Đảng, nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội ở các cấp uỷ đảng tại cơ sở đã tập trung làm tốt công tác xây dựng Đảng, tạo bước chuyển biến rõ nét về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tổ chức quán triệt các chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, tổ chức báo cáo thời sự trong nước và quốc tế, các chuyên đề về kinh tế - chính trị, văn hoá, xã hội giúp cho đội ngũ cán bộ chủ chốt nắm vững các quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Thông qua đó mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức được những thành tựu trong sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, củng cố niềm tin của họ vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, việc phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước có lúc không được làm thường xuyên, kịp thời, không cụ thể thấu đáo trong Đảng ở cấp cơ sở. Vai trò của các đoàn thể chính trị xã hội trong việc giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục ý thức chính trị nói chung có lúc, có nơi còn mờ nhạt. Có tình trạng là, cơ sở là cấp chỉ đạo thực hiện, cấp tổ chức các phong trào hoạt động của quần chúng để đưa nghị quyết vào cuộc sống, nhưng việc phổ biến nghị quyết và chính sách ở mắt khâu rất quan trọng này lại thường bị xem nhẹ. Do cán bộ kém hiểu biết nên làm sai. Đó là do những hạn chế của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng. 2.1.2. Thực trạng thế giới quan của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay Đảng ta đã xác định, công tác cán bộ đóng vai trò hết sức quan trọng, đây là vấn đề then chốt trong xây dựng đảng, là mắt xích quan trọng của công cuộc đổi mới, nhân tố quyết định thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải có đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực trong đó một lực lượng quan trọng là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Do đó, ngay sau khi tái lập tỉnh, đội ngũ cán bộ trong tỉnh Thái Nguyên đã được đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị. Điều đó đã ảnh hưởng tích cực đến thế giới quan của đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng. Khi tỉnh Thái Nguyên được tái lập năm 1997, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phần đa là cán bộ đã nhiều tuổi. Trong những năm gần đây, công tác trẻ hoá đội ngũ cán bộ cơ sở đã được khởi động và đạt những kết quả bước đầu. Theo số liệu thống kê về cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh thái Nguyên (nhiệm kỳ 2005 - 2010) trong đó cán bộ trẻ dưới 35 tuổi là 7,0%, từ 35 đến 45 tuổi là 20%, từ 45 đến 55 tuổi là 58% và trên 55 tuổi là 15%. Trên thực tế, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở từ 45 tuổi trở lên có những thế mạnh nhất định, đó là phần lớn thuộc lớp người được trải nghiệm qua đấu tranh cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tình cảm cách mạng sâu sắc, gắn bó, tâm huyết với sự nghiệp cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, bước vào thời kỳ mới, đặc biệt trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khi cuộc sống trở nên năng động, mở rộng với những biến đổi hàng ngày, hàng giờ, thì bên cạnh bản lĩnh cách mạng, bên cạnh kinh nghiệm và uy tín tuổi tác, xã hội rất cần sự thích nghi năng động, sự chuyên nghiệp, các kiến thức phát triển mới, tư duy chủ động, sáng tạo, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm…những ưu thế đó thuộc về tuổi trẻ. Do đó, việc trẻ hoá đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là xu hướng tất yếu của đội ngũ cán bộ. Mặc dù công tác này đã được chú trọng vài năm gần đây, song cho đến nay, đây vẫn là bất cập lớn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên. Do ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế - xã hội chưa vững chắc, cơ chế tổ chức và chính sách cán bộ một số nơi vẫn theo kiểu quan liêu bao cấp, công tác giáo dục đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa thực sự được đẩy mạnh. Vì vậy, trong thế giới quan của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên vẫn tồn tại những nhân tố thế giới quan tiền khoa học, pha tạp yếu tố duy vật và duy tâm, còn tồn tại các loại hình thế giới quan và phương pháp luận phi khoa học. Điều đó được biểu hiện cụ thể như sau: Một là, thế giới quan của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi tri thức kinh nghiệm và các tri thức tiền khoa học. Nhìn chung trình độ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên còn hạn chế cả về học vấn, lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ. Đa số trúng cử rồi mới được đi bồi dưỡng ngắn hạn. Tại nhiều xã, nhất là các xã miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa của tỉnh cán bộ chủ chốt cấp cơ sở yếu cả về phương pháp tổ chức thực hiện; thường trông chờ sự hướng dẫn của cấp trên theo kiểu “cầm tay chỉ việc”. Theo số liệu thống kê về số lượng, chất lượng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Thái Nguyên năm 2008 của Sở nội vụ thì cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tính trung bình vẫn còn 33% có trình độ học vấn tiểu học và trung học cơ sở. Trình độ học vấn đại học là 6,5% còn lại là trình độ trung cấp và cao đẳng, có 26,% cán bộ chủ chốt là người dân tộc thiểu số (xem phụ lục 01 và 02). Về trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên chủ yếu đánh giá ở trình độ học tập lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước. Theo số liệu thống kê của Sở nội vụ tỉnh Thái nguyên năm 2008 số cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có trình độ cử nhân và cao cấp lý luận chính trị chỉ chiếm 0,07%, trình độ trung cấp lý luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan