Luận văn Vấn đề bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam

Tài liệu Luận văn Vấn đề bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam: LUẬN VĂN: Bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam Lời mở đầu Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức tín dụng hoạt động đa năng, đầy sôi động. Sự thay đổi cơ cấu nguồn vốn và sử dụng vốn diễn ra hàng ngày cộng thêm sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá, lạm phát khiến cho hoạt động ngân hàng trở nên vô cùng mạo hiểm, tiềm ẩn nhiều rủi ro. ở các nước kinh tế phát triển, rủi ro ngân hàng là điều không thể tránh khỏi, ngân hàng được ví ngân hàng như là một chỗ trũng cho rủi ro ở mọi hướng đổ về. ở nước ta, thực tế cho thấy hoạt động rủi ro trong ngân hàng càng cao hơn, bởi lẽ: môi trường kinh tế chưa ổn định, kinh nghiệm tiếp cận của các tổ chức tín dụng còn non yếu, tình trạng chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh không lành mạnh, kém văn minh diễn ra khá phức tạp. Chính vì vậy, bất kỳ một nứơc nào cũng phải có một hệ thống luật pháp và đưa ra các biện pháp để quản lý, điều chỉnh hoạt động của ngân hàng, giữ cho hệ thống ngân hàng hoạt đ...

pdf52 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1115 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam Lời mở đầu Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức tín dụng hoạt động đa năng, đầy sôi động. Sự thay đổi cơ cấu nguồn vốn và sử dụng vốn diễn ra hàng ngày cộng thêm sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá, lạm phát khiến cho hoạt động ngân hàng trở nên vô cùng mạo hiểm, tiềm ẩn nhiều rủi ro. ở các nước kinh tế phát triển, rủi ro ngân hàng là điều không thể tránh khỏi, ngân hàng được ví ngân hàng như là một chỗ trũng cho rủi ro ở mọi hướng đổ về. ở nước ta, thực tế cho thấy hoạt động rủi ro trong ngân hàng càng cao hơn, bởi lẽ: môi trường kinh tế chưa ổn định, kinh nghiệm tiếp cận của các tổ chức tín dụng còn non yếu, tình trạng chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh không lành mạnh, kém văn minh diễn ra khá phức tạp. Chính vì vậy, bất kỳ một nứơc nào cũng phải có một hệ thống luật pháp và đưa ra các biện pháp để quản lý, điều chỉnh hoạt động của ngân hàng, giữ cho hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh, an toàn và có hiệu quả. Từ thực tế trên cho thấy, sự ra đời của tổ chức tín dụng có vai trò hết sức quan trọng, nó bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo cho các tổ chức tín dụng hoạt động một cách lành mạnh và hiệu quả. Tuy nhiên, thị trường bảo hiểm tiền gửi Việt Nam vừa mới thành lập (ttháng 7/2000) còn rất non trẻ, nhưng đã từng bước khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân và trong tương lai thị trường bảo hiểm tiền gửi sẽ là một thị trường đầy triển vọng với những tiềm năng được khai thác triệt để. Mặt khác, thị trường bảo hiểm tiền gửi thế giới cũng khá phát triển trong vài thập kỷ qua với nhiều hình thức khác nhau. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải nghiên cứu thật kỹ lưỡng và đưa ra phương hướng phát triển thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam sao cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đất nước và hoà nhập với thị trường bảo hiểm tiền gửi thế giới. Trên cơ sơ đó, em chọn đề tài: "Bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam ". Ngoài phần mở đầu và kết luận ra bài viết gồm ba phần: CHƯƠNG I: Những vấn đề cơ bản của bảo hiểm tiền gửi CHƯƠNG II: Thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam CHƯƠNG III: Một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam chương I: những vấn đề cơ bản về bảo hiểm tiền gửi I. giới thiệu chung về bảo hiểm tiền gửi 1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm tiền gửi Trong hoạt động kinh tế, tín dụng là một trong những hoạt động phát triển khá mạnh mẽ. Mặc dù hoạt động tín dụng đem lại lợi nhuận, cao nhưng những "rủi ro tín dụng " như rủi ro mấtt khả năng thanh toán, rủi ro lãi suấtt, rủi ro do tỷ giá hối đoái. . . có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào gây tổn thất cho các quỹ tín dụng như mất mát, thiệt hại về tài sản, thu nhập. . . làm cho quỹ tín dụng bị thua lỗ, thậm chí bị phá sản. Rủi ro tín dụng có thể do nhiều nguyên nhân: -Do môi trường kinh tế chưa ổn định làm cho một số doanh nghiệp không đứng vững trên thị trường; -Do quản lý nhà nước còn sơ hở, tạo điều kiện cho một số cá nhân, doanh nghiệp có hành vi lừa đảo; -Do trình độ quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp còn hạn chế v. v. . Cùng với những nguyên nhân trên, khách hàng cũng góp phần tạo ra rủi ro tín dụng. Chẳng hạn: khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, sản xuất kinh doanh thua lỗ; hoặc người vay cố tình không trả nợ; hoặc tài sản thế chấp, giấy tờ pháp lý của khách hàng không đảm bảo. Bản thân ngân hàng và các tổ chức tín dụng cũng gây ra những rủi ro như: không chấp hành nghiêm túc các thể lệ tín dụng và vi phạm quá trình xét duyệt cho vay; không kiểm tra được việc sử dụng vốn của người vay; quá chú trọng về lợi nhuận, đặt tiêu chuẩn về lợi nhuận lên trên các nguyên tắc, điều kiện của tín dụng; việc xem xét cho vay không chuẩn xác như cho vay sai mục đích, chẳng hạn vay để đánh quả hoặc để đầu cơ tích luỹ hàng hoá chờ giá tăng, cho vay không có biện pháp đảm bảo thích hợp. Ngoài ra còn có nhuyên nhân khác tác động đến rủi ro tín dụng như có sự thay đổi, điều chỉnh về chính trị, chính sách, chế độ luật pháp của Nhà nước, thay đổi địa giới hành chính của các địa phương. . . Những rủi ro tín dụng xảy ra có thể để lại hậu quả khôn lường. -Đối với kinh tế:hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng có liên quan trực tiếp đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các tổ chức, các doanh nghiệp, người gửi tiền. Nếu có rủi ro gây thiệt hại lớn hoặc làm phá sản một vài tổ chức tín dụng sẽ tạo tâm lý không an tâm đối với nhân dân, họ đua nhau rút tiền làm phá sản hàng loạt ngân hàng và tổ chức tín dụng, làm cho nhiều doanh nghiệp mất vốn làm ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung. -Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng: Rủi ro tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của họ như: giảm lợi nhuận, thua lỗ hoặc mất khả năng chi trả. -Đối với khách hàng: có thể mất vốn dẫn đến khó khăn trong sản xuất kinh doanh. . . Để đối phó với những rủi ro tổn thất khong lường trước được do các rủi ro gây ra, có rất nhiều biện pháp khác nhau nhưng biện pháp tốt nhất là bảo hiểm, nghĩa là chuyển những rủi ro mà mình có thể gặp phải cho các tổ chức bảo hiểm. Chính vì vậy, sự ra đời của bảo hiểm tiền gửi là một tất yếu khách quan. 2. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là sự đảm bảo bằng vật chất đối với các khoản tiền gửi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng (TCTD) trong trường hợp tổ chức tín dụng gặp rủi ro không thanh toán được tiền cho người gửi. Hoạt động BHTG dựa trên cơ sở xác lập và sử dụng quỹ bảo hiểm của các tổ chức BHTG mà các TCTD tham gia. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi bao gồm: Thứ nhất: BHTG bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Điều đó được thực hiện trực tiếp thông qua việc sử dụng quỹ bảo hiểm để bồi thường cho người gửi tiền khi TCTD tham gia bảo hiểm bị vỡ nợ. Thông thường, các tổ chức BHTG chỉ bồi thường số tiền trong một giới hạn nhất định. Đối với người gửi tiền vượt quá mức giới hạn nào đó (như ở Mỹ là 100. 000 USD) cũng được bồi thường một phần. Hoạt động của BHTG cũng mang tính trợ giúp hạn chế, ngăn ngừa rủi ro xảy ra đối với các TCTD chính là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Thứ hai: BHTG bảo vệ các TCTD tham gia bảo hiểm. Thể hiện trực tiếp thông qua hoạt động ngăn ngừa, trợ giúp các TCTD tham gia bảo hiểm khi gặp khó khăn. Sự trợ giúp có thể dưới hình thức cho vay, khuyến khích các TCTD khác cho vay, yêu cầu thay đổi về quản lý, mua nợ các TCTD khó khăn. Mặt khác, sự bảo vệ đó còn thể hiện gián tiếp thông qua việc tổ chức BHTG bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Khi người gửi tiền không được bảo hiểm, nếu một TCTD bị phá sản thì gửi tiền sẽ không đòi lại được đầy đủ giá trị tiền gửi, thậm trí có khả năng bị mất trắng. Nếu vì một lý do nào đó, những người gửi tiền nghi ngờ về sự vỡ nợ của TCTD họ sẽ rút tiền ngay lập tức. Điều này dễ dẫn đến một phản ứng dây chuyền mọi người đổ xô đến rút tiền làm cho TCTD đó bị phá sản. Chính sự cam kết bồi thường của các tổ chức BHTG khi TCTD tham gia làm yên lòng người gửi tiền, hạn chế và chấm dứt cảnh lan truyền dòng người đi rút tiền, từ đó hạn chế sự vỡ nợ của các TCTD. Thứ ba:BHTG bảo vệ hệ thông các TCTD. Sự đổ vỡ của một tổ chức tín dụng có thể lan truyền sang các TCTD khác do người gửi tiền ở các TCTD khác nghi ngờ rằng TCTD của họ không có khả năng trả lại tiền họ đã gửi được. Việc một tổ chức tín dụng bị phá sản có thể châm ngòi cho các TCTD khác bị phá sản theo. Điều này có thể nhân rộng tới khi có một vụ hoảng loạn ngân hàng dẫn tới cả hệ thông bị phá sản. Khi có một TCTD tham gia BHTG, không những sẽ có tác dụng ngăn chặn sự vỡ nợ của một TCTD mà còn có tác dụng ngăn chặn cả những vụ hoảng loạn ngân hàng, góp phần bảo vệ cho cả hệ thống TCTD. Thứ tư: BHTG góp phần ổn định kinh tế - xã hội. Với vai trò chuyển vốn từ người có vốn đến người cần vốn, các TCTD đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhịp nhàng, hiệu quả. Khi hệ thống các tổ chức tín dụng mất ổn định, hoảng loạn thì tác hại của nó với nền kinh tế cũng rất nghiêm trọng, có thể làm ngưng trệ, gián đoạn sản xuất gây mất trật tự an toàn xã hội. Thông qua vai trò bảo vệ an toàn các TCTD cũng như cả hệ thống TCTD, BHTG đã góp phần quan trọng vào ổn định của nền kinh tế - xã hội. Tóm lại, vai trò của BHTG rất quan trọng, nó không chỉ duy trì sự an toàn cho các TCTD, bảo vệ người gửi tiền mà còn là động lực tạo đà cho nền kinh tế phát triển nhịp nhàng, ổn định. 3. Sơ lược về lịch sử ra đời và phát triển của BHTG Lịch sử hoạt động ngân hàng trên thế giới cho thấy, BHTG trở thành vấn đề tất yếu và dược các nước thực hiện từ rất lâu. Hệ thống quỹ tín dụng Desjardins của Canada được thành lập từ năm 1900 tại Quebéc (Canada). Bên ngoài hệ thông Desjardins, nhà nước lập ra ba tổ chức: cơ quan bảo hiểm nông nghiệp của Quebéc, cơ quan tín dụng và cơ quan BHTG của Quebéc. Nếu tính từ năm 1933 (ở Mỹ), năm 1937 (ở Đức) và năm 1938 (ở Nauy) là những nước đã thành lập, tổ chức BHTG đã có gần 70 năm. nhưng thời gian mà BHTG phát triển mạnh nhất là thập kỷ 80, có trên 10 nước đã lần lượt cho ra đời tổ chức BHTG. BHTG phát triển hết sức phong phú và đa dạng, ban đầu các nước chỉ có tổ chức bảo toàn tiền gửi nằm trong hệ thông ngân hàng, sau đó mới phát triển thành tổ chức BHTG hoạt động tách biệt. Ngày nay, BHTG phát triển hết sức mạnh mẽ với nhiều hình thức khác nhau. Theo một tài liệu nghiên cứu của Đài Loan ở 25 hệ thống BHTG của 22 nước, cho thấy tính đa dạng của mô hình và những phương thức BHTG, mặc dù mục tiêu của những mô hình đó gần như đều thống nhấtvới nhau: bảo vệ người gửi tiền, duy trì sự an toàn của hệ thống ngân hàng. Tính đa dạng thể hiện ở: trên thế giới có nhiều dạng mô hình và trong một nước cũng có nhiều tổ chức độc lập, cùng hoạt động theo pháp luật, mỗi tổ chức đó thực hiện BHTG cho hệ thống theo những phạm vi nhất định. Nhìn tổng quát trong số 22 nước đã nghiên cứu: có 11 tổ chức công, là những tổ chức thuộc nhà nước (Canada, Aixơlen, ấn Độ, Hà Lan, Nigenia, Philippin, Đài Loan, Mỹ, Trinidad & Tobaco); 8 tổ chức tư của các ngân hàng lập nên (Đan Mạch, Pháp, Đức, Aixơlen, ý, Lucxambua, Nauy, Thuỵ Sỹ); 4 tổ chức là hỗn hợp công tư (Bỉ, Hung gari, Nhật, Anh). Cũng có quốc gia hiện nay có nhiều tổ chức BHTG (Aixơlen, Nauy, Pháp, Mỹ, Đức). Aixơlen: Có quỹ BHTG cho các ngân hàng thương mại, là một tổ chức bán công, thành lập từ năm 1986, lại có quỹ BHTG cho các ngân hàng tiết kiệm, là một tổ chức tư cùng thành lập năm 1986. Nauy, có 3 quỹ BHTG riêng biệt, đều là những tổ chức tư (1921, thành lập quỹ BHTG ngân hàng thương mại; 1938, thành lập quỹ BHTG ngân hàng tiết kiệm; 1991, thành lập quỹ BHTG ngân hàng chính phủ). Pháp cũng có nhiều tổ chức BHTG theo từng loại hình TCTD (mỗi hệ thống TCTD có tổ chức BHTG của hiệp hội của tổ chức đó. Riêng các ngân hàng tương tế, ngân hàng HTX không phải ra nhập BHTG, vì họ đã được bảo đảm khả năng thanh toán ngay trong hệ thống). Nhìn vào lịch sử phát triển BHTG ở Đức, thấy có ba loại hình: Thứ nhất là của nhà nước, tức là nhà nước đứng ra bảo hiểm cho những người gửi tiền (đến nay, nhà nước chỉ thực hiện đối với người gửi tiền ở các quỹ tiết kiệm); Thứ hai, thông qua hệ thống bảo hiểm chung (SBIC) thuộc công ty bảo toàn liên bang; Thứ ba, hình thức bảo hiểm do TCTD kết hợp với nhau, đó là mô hình bảo toàn tiền gửi, do các hiệp hội lập ra. Chỉ riêng loại này ở Đức có 3 mô hình bảo toàn tiền gửi của ba nhốm tổ chức tín dụng khác nhau: Nhóm tổ chức tiết kiệm, các hợp tác xã tín dụng và các ngân hàng tư nhân. Có thể thấy rằng, BHTG phát triển tương đối mạnh mẽ ở các nước trên thế giới qua các thời kỳ với nhiều hình thức và mô hình khác nhau cùng hoạt động bổ sung, tương hỗ cho nhau. II. nội dung của bhtg 1. Đối tượng tham gia BHTG Đối tượng tham gia bảo hiểm là các quỹ tín dụng nhân dân. Bảo hiểm chỉ bảo hiểm trách nhiệm của quỹ đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn. 2. Phạm vi của BHTG Trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như trong đời sống, con người có thể gặp rủi ro như: thiên tai, hoả hoạn, ốm đau, tai nạn. . . Đặ biệt trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế ngoài các rủi ro trên còn có thể gặp các rủi ro do quy luật cạnh tranh mang lại. Các rủi ro này có thể làm doanh nghiệp bị phá sản. Các ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp khác cũng có thể gặp các rủi ro và hơn thế nưã với hoạt động đặc biệt là kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, hệ số rủi ro của các ngân hàng thương mại cao hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp khác. Các chuyên gia ngân hàng đã đề cập rất nhiều đến vấn đề rủi ro trong kinh doanh ngân hàng dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Có những rủi ro khách quan do các hiện tượng thiên nhiên và xã hội diễn biến phát triển phức tạp ngoài tầm kiểm soát của con người, khả năng dự tính, dự báo của con người còn bị hạn chế, có những rủi ro chủ quan do sự bất cập của con người, có những rủi ro do cơ chế, do đạo đức của cán bộ ngân hàng. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại rủi ro này đều được bảo hiểm. Chính vì vậy, tổ chức BHTG đã quy định những rủi ro nào được bảo hiểm, những rủi ro nào không được bảo hiểm. a. Các rủi ro được bảo hiểm Trong bảo hiểm tiền gửi các rủi ro sau được bảo hiểm:  Sự phá sản của quỹ tín dụng Phá sản là trường hợp quỹ tín dụng không thể trả nợ một cách đầy đủ hoặc quỹ tín dụng không thể tiếp tục kinh doanh vì bị thiếu vốn. Trong trường hợp này, các công việc của quỹ phải giao cho ban thanh lýtài sản xử lý các tài sản còn lại theo đúng quy định pháp lý về phá sản của Nhà nước.  Sự giải thể bắt buộc của quỹ tín dụng Giải thể bắt buộc là do không tuân thủ các quy tắc, luật lệ của Nhà nước hoặc có thể do chủ nợ đề nghị toà án ra lệnh tuyên bố giải thể vì quỹ tín dụng từ chối thanh toán và chỉ có cách này mới hi vọng thu hồi được tiền.  Phải chấp hành lệnh thanh lý vì một lý do khác với việc phá sản hay mất khả năng thanh toán của quỹ tín dụng Trường hợp này xảy ra khi cơ quan có thẩm quyền xét thấy quỹ mặc dù vẫn có khả năng thanh toán nhưng không đúng mục đích đã đề ra, không muốn toà án can thiệp mà quyết định thanh lý quỹ không cho hoạt động tiếp. Trong trường hợp này, bảo hiểm sẽ giải quyết bồi thường cho những người gửi tiền nhưng sẽ được thế quyền để hưởng số tiền thanh lý tài sản hay đòi nợ.  Giải thể tự nguyện do bị đặt trong tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản của quỹ tín dụng Tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản của quỹ tín dụng là tình trạng quỹ tín dụng bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh hoặc gặp khó khăn khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên không muốn toà án can thiệp, các cổ đông của quỹ chấp nhận tuyên bố giải thể. Trong trường hợp này, bảo hiểm cũng có trách nhiệm bồi thường đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn mà quỹ không thanh toán hết sau khi có quyết định giải thể.  Không thể thựcc hiện việc thanh toán cho những người gửi tiền vì một mệnh lệnh của toà án đối với quỹ tín dụng Xảy ra trong trường hợp quỹ tín dụng cố ý không thanh toán nợ và chủ nợ đệ đơn lên toà án để có lệnh bắt buộc quỹ phải tuyên bố phá sản hay thanh lý để trả nợ các chủ nợ cho rằng chỉ có cách này họ mới thu được nợ. Lệnh của toà án cũng được áp dụng khi: -Quỹ tín dụng không có phương án hoà giải và có giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của quỹ theo yêu cầu của toà án. -Quỹ tín dụng không tham gia hội nghị chủ nợ để trình bày các phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của quỹ tín dụng. -Trong thời hạn tổ chức lại kinh doanh, quỹ tín dụng vi phạm nghiêm trọng những thoả thuận tại hội nghị của chủ nợ và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản. -Hết thời hạn tổ chức lại kinh doanh mà quỹ tín dụng vẫn kinh doanh khônh có hiệu quả và các chủ nợ yêu cầu toà án phải có tuyên bố phá sản quỹ tín dụng. b. Các rủi ro loại trừ Những rủi ro loại trừ (không thuộc phạm vi bảo hiểm) là những rủi ro gây ra sự phá sản, thanh lý hay giải thể một quỹ tín dụng trong các trường hợp:  Vi phạm nghiêm trọng các quy định về tiền tệ tín dụng, thanh toán đã nêu trong pháp lệnh ngân hàng của quỹ tín dụng. Quỹ tín dụng có điều lệ và quy chế hoạt động riêng nhưng cũng phải tuân thủ các quy định hiện hành của Nhà nước. Nếu quỹ tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quy định về tiền tệ, tín dụng thanh toán của ngân hàng dẫn đến phá sản thì bảo hiểm không bồi thường.  Giải thể tự nguyện vì nguyên nhân -Do cổ đông nhận thức thấy mục tiêu khi thành lập quỹ không đạt được. -Do cổ đông muốn thu hồi lại vốn hoặc có nhu cầu cải tổ lại cơ cấu của quỹ tín dụng.  Ngừng hoạt động do những nguyên nhân Quỹ tín dụng ngừng hoạt động vì chiến tranh, đình công, bạo loạn dân sự, nội chiến. Đây là những rủi ro loại trừ thông thường, không liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ. Khi quỹ tín dụng bị phá sản, thanh lý, giải thể do các rủi ro này bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm cho những người gửi tiền có kỳ hạn. 3. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm a. Số tiền bảo hiểm Số tiền bảo hiểm là số dư tiền gửi có kỳ hạn trong báo cáo số dư tiền gửi mỗi quý của quỹ tín dụng. b. Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm là số tiền quỹ tín dụng phải trả cho người bảo hiểm để bảo hiểm số dư tiền gửi có kỳ hạn của quỹ tại thời điểm cuối mỗi quý. Phí bảo hiểm mà quỹ tín dụng trả cho người bảo hiểm theo từng quý được tính theo công thức: 90x 365 R mxP  Trong đó: P: Phí bảo hiểm theo quý; m: Số dư tiền gửi có kỳ hạn; R: Tỷ lệ phí bảo hiểm; 90: Số ngày của một quý; 365: Số ngày trong năm; Vì bảo hiểm chỉ bảo hiểm các khoản tiền gửi có kỳ hạn. Do đó khi báo cáo số dư tiền gửi, các quỹ tín dụng phải phân loại: -Những khoản tiền gửi không kỳ hạn. -Những khoản tiền gửi có kỳ hạn. Trên cơ sở phân loại quỹ, cuối mỗi quý, quỹ tín dụng có thể tính phí bảo hiểm và trả cho người bảo hiểm. 4. Các hình thức của BHTG a. BHTG bắt buộc Chính vì BHTG có vai trò quan trọng đặc biệt nên nó luôn là một bộ phận trong chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước về tài chính tiền tệ của mỗi quốc gia. ở hầu hết các nước, việc tham gia BHTG của các TCTD là bắt buộc theo pháp luật như "luật BHTG ngân hàng của Canada", "Luật về ngành tín dụng" của Đức, "Luật BHTG " của Nhật, "Luật DDO EF No 94-6" của Pháp. . . Trong đó, luật quy định rất cụ thể buộc các ngân hàng và các TCTD phải tham gia BHTG. Chẳng hạn, "Luật DDO EF No 94-6" của Pháp thông qua ngày 08/08/1994 bắt buộc tất cả các TCTD được cấp giấy phép hoạt động trên lãnh thổ của Pháp phải có nghĩa vụ tham gia vào hệ thống BHTG. ở Việt Nam, tổ chức BHTG tuy mới được thành lập năm 2000 nhưng nó cũng bắt buộc các ngân hàng và các TCTD phải tham gia. b. BHTG tự nguyện Ngoài hình thức BHTG ra, các TCTD và các ngân hàng còn tự lập cho mình hệ thống bảo toàn tiền gửi nhằm tương hỗ nghề nghiệp giữa các hội viên ngân hàng. Đây cũng là một tổ chức có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các ngân hàng thương mại, giữ cho hoạt động của hệ thống ngân hàng luôn ổn định, và bảo vệ uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, đảm bảo độ tin cậy của người gửi tiền vào các ngân hàng thương mại. Quỹ của tổ chức bảo toàn tiền gửi do các hội viên của hiệp hội ngân hàng tự nguyện đóng góp. Chính vì vậy, việc tham gia tổ chức bảo toàn tiền gửi là không bắt buộc mà mang tính tự nguyện. Tóm lại, BHTG dù có tồn tại dưới hình thức bắt buộc hay tự nguyện nó đều có một mục tiêu là bảo đảm an toànvừa cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, vừa cho người gửi tiền. Nó chỉ khác ở chỗ, ở hình thức BHTG thì tiền gửi được bảo đảm trực tiếp, còn ở hình thức bảo toàn tiền gửi thì tiền gửi lại được bảo đảm một cách gián tiếp. chương II: thị trường bhtg ở việt nam I. tính tất yếu khách quan hình thành thị trường Bhtg việt nam Như chúng ta đã biết, mọi khoản tiền gửi ở hệ thống ngân hàng thương mại và các TCTD là tài sản của người gửi tiền. Họ gửi vào ngân hàng với nhiều động cơ và mục đích khác nhau: tiết kiệm, để dành hay tích luỹ; lấy lãi để thanh toán hoặc đảm bảo an toàn tài sản của mình. Nguồn vốn huy động được từ tầng lớp dân cư và thành phần kinh tế, xã hội là nguồn vốn kinh doanh chủ yếu trong hoạt động của ngân hàng thương mại và các TCTD theo phương thức "đi vay để cho vay". Thông qua đó, ta thấy rõ mối quan hệ trách nhiệm giữa người đi huy động vốn và người đi gửi tiền có sự bảo đảm pháp lý cao nhất của nhà nước theo nguyên tắc, người gửi tiền vào ngân hàng phải được ngân hàng có trách nhiệm bảo đảm an toàn vốn một cách tuyệt đối. Thêm vào đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ rất phức tạp và có nhiều rủi ro ; tập trung chủ yếu, thường xuyên xảy ra và lớn nhất là rủi ro trong đầu tư vốn tín dụng. Trong đó, có những rủi ro do nguyên nhân bất khả kháng. Năm 1990, ở nước ta có 7. 660 HTX tín dụng nông thôn và quỹ tín dụng đô thị. Song "cơn lốc" đổ vỡ tín dụng trong khoảng thời gian này đã làm tan rã hầu hết số HTX tín dụng và quỹ tín dụng nói trên. Hàng nghìn tỷ đồng không có khả năng thanh toán, hậu quả của nó rất nghiêm trọmg đối với kinh tế xã hội và đến nay vẫn chưa giải quyết dứt điểm được. Chính phủ và ngân hàng nhà nước đã phải trực tiếp can thiệp để làm dịu tình hình, giữ vững ổn định kinh tế xã hội. Trong năm 1996, sau hơn 20 năm chúng ta mới gặp lại trận lũ lịch sử trên khắp cả nước. Thiên tai xảy ra ở 43 tỉnh, thành phố, chỉ tính riêng thiệt hại về vật chất ước tính trên 7. 283 tỷ đồng. Thêm vào đó, từ năm 1997 đến nay, cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của một số nước trong khu vực. Việt Nam là một trong số các nước chịu ảnh hưởng nhẹ của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á. Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi ở các ngân hàng thương mại còn cao. Nguyên nhân do hệ thống tài chính- ngân hàng phát triển không đồng bộ, còn lỏng lẻo trong quản lý ngân hàng cũng như quản lý vốn, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Ngân hàng chi vay thế chấp bằng bất động sản, khi thị trường bất động sản Việt Nam suy giảm, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sản xuất kinh doanh không lường hết được nhu cầu thị trường nên không tiêu thụ được hàng hoá. Doanh nghiệp trong nước hiệu quả kinh doanh thấp, khả năng tài chính và sự cạnh tranh yếu, việc mở rộng bảo lãnh nhập hàng trả chậm, cho vay thanh toán đối ngoại tràn lan, khi doanh nghiệp thua lỗ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thanh toán với nước ngoài. Rủi ro của khách hàng sẽ kéo theo sau là rủi ro của chính ngân hàng. Vì vậy, rủi ro trong hoạt động tín dụng là điều dễ xảy ra hơn bất kỳ lĩnh vực hoạt động kinh tế nào khác. Sự đổ vỡ trong hoạt động tín dụng sẽ để lại những hậu quả mang tính dây chuyền và công phạt khôn lường về kinh tế, chính trị và xã hội. Nó liên quan đến lợi ích của nhà nước và nhiều tầng lớp dân cư. Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay, khi những tổ chức kinh doanh tiền tệ, tín dụng ngoài quốc doanh như các ngân hàng thương mại cổ phần, các HTX tín dụng, các quỹ tín dụng nhân dân mới bước vào nghề thì mọi việc còn quá sớm, niềm tin của khách hàng chưa có là bao, trong khi đó dư âm về sự đổ vỡ hàng loạt HTX tín dụng trước đây vẫn còn "ám ảnh" trong dân. Trước tình hình đó, một vấn đề nghiêm túc đặt ra với nhà nước và xã hội là tìm những giải pháp hữu hiệu để đề phòng và ngăn chặn sự đổ bể, sự mất an toàn của hệ thống ngân hàng, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng cho người gửi tiền. Do đó, cách bảo toàn chọn vẹn, có hiệu quả nhất để đảm bảo cho người gửi tiền là áp dụng biện pháp BHTG cho người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng thương mại và các TCTD. Thực tế trên đây cho thấy việc ra đời một công ty BHTG ở Việt nam đã trở thành nhu cầu bức xúc. Nó sẽ là chỗ dựa vững chắc để khắc phục rủi ro tín dụng và làm lành mạnh hoạt động tín dụng của ngân hàng, giúp cho thị trường tài chính của ta phát triển ổn định hơn, từ đó tạo đà cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhanh hơn, đưa nước ta rút ngắn khoảng cách so với các nước trong khu vực cũng như các nước phát triển trên thế giới. II. Thực trạng BHTG ở việt nam 1. Thực trạng về hoạt động BHTG ở Việt Nam hiện nay Hệ thống ngân hàng ở Việt nam hiện nay là hệ thống ngân hàng hai cấp, bao gồm ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại hoạt động theo cơ chế thị trường, tuan theo "pháp lệnh ngân hàng nhà nước Việt Nam" và " pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính". Hệ thống các tổ chức tín dụng đã có một mạng lưới rộng lớn, bao gồm ngân hàng nhà nước, 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, 51 ngân hàng cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh với nước ngoài, 2 công ty tài chính cổ phần, 1 quỹ tín dụng nhân dân trung ương, 5 quỹ tín dụng nhân dân khu vực, 900 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Năm 1996 so với năm 1995, vốn huy động tiền gửi của các ngân hàng tăng 659%, dư nợ cho vay tăng 883%. Để củng cố niềm tin của người gửi tiền đối với các quỹ tín dụng nhân dân, tạo cơ sở cho các quỹ tín dụng nhân dân hoạt động ổn định và phát triển, ngày 1/ 3/ 1994 Bộ tài chính đã ban hành quyết định 101/ TCQĐ-BH về quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản tiền gửi. Với quyết định này, lần đầu tiên nước ta có một tổ chứclà Bảo Việt thực hiện nghiệp vụ BHTG. Song người gửi tiền được bảo hiểm chỉ giới hạn gửi tại các quỹ tín dụng nhân dân, loại tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên, mức tối đa là 100 triệu đồng đối với một thể nhân, 500 triệu đồng đối với một pháp nhân, và chỉ bồi thường tiền gốc không bồi thường tiền lãi. Thực tế triển khai BHTG của Bảo Việt còn nhiều hạn chế, đến cuối năm 1995 mới chỉ có 162 quỹ tín dụng tham gia với sổ tiền bảo hiểm là 100 tỷ đồng, chiếm 33, 22% tiền gửi tại các quỹ tín dụng nhân dân, và chỉ chiếm 0, 2% tổng số dư tiền gửi tại các TCTD trong cả nước, cuối năm 1996 có 300 quỹ tham gia bảo hiểmvới số tiền bảo hiểm hơn 854 tỷ đồng và cuối quý 1 năm 1997 có 370 quỹ tham gia với số tiền bảo hiểm hơn 322 tỷ đồng. Hiện nay hiệp hội ngân hàng Việt Nam đang chuẩn bị thành lập quỹ BHTG của hiệp hội. Nghiên cứu dự thảo Điều lệ hoạt động quỹ BHTG của các TCTD Việt nam và quy chế hoạt động quỹ bảo toàn tiền gửi của hiệp hội ngân hàng Việt Nam, chúng ta thấy rằng: -Quỹ BHTG là quỹ của các thành viên hiệp hội, có mục đích bảo vệ an toàn cho các thành viên. Song quỹ là một tổ chức tương hỗ, không có vốn ban đầu, chỉ khi nào đi vào hoạt động các ngân hàng tham gia mới đóng lệ phí nên nguồn vốn của qũy rất nhỏ bé, do đó nếu rủi ro lớn quỹ sẽ không đủ vốn để thực hiện trách nhiệm đền bù của mình. -Quỹ bảo toàn tiền gửi là một quỹ tương hỗ nên việc đóng góp vốn lập quỹ, đặc biệt là các khoản đong góp bất thường sẽ bị ràng buộc bởi chế độ tà chính của nhà nước quy định. -Quỹ bảo toàn tiền gửi của hiệp hội ngân hàng Việt Nam chỉ là quỹ của các hội viên hiệp hội, do đó các chi nhánh nước ngoài, các ngân hàng liên doanh và các ngân hàng khác sẽ không được tham gia BHTG. -Do đặc điểm phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam, hiện nay vốn tiền gửi do 4 ngân hàng quốc doanh huy động đã chiếm khoảng 90% tổng doanh số huy động trong toàn hiệp hội. Điều đó có nghĩa là quỹ bảo toàn tiền gửi nếu được hình thành thì chủ yếu do 4 ngân hàng thương mại quốc doanh đóng góp, song nếu các ngân hàng quốc doanh có rủi ro thì quỹ sẽ gặp khó khăn về vốn để đền bù, thập chí không thực hiện được vì doanh số hoạt động của các ngân hàng quốc doanh rất lớn. Song, nếu các ngân hàng khác gặp rủi ro thì quỹ sẽ thực hiện đền bù dễ dàng hơn. Đây chính là điểm bất bình đẳng về lợi ích giữa các thành viên trong hiệp hội. Cho đến nay, mặc dù tổ chức BHTG mới được thành lập vào tháng 7/2000 nhưng trình độ chuyên môn chưa cao, quy mô hoạt động vẫn còn nhỏ hẹp, vốn tự có chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu BHTG đối với các ngân hàng lớn mạnh. Mặt khác đại bộ phận tiền gửi tại các ngân hàng thương mại và các TCTD chưa được bảo hiểm. Số tiền được bảo hiểm mới chỉ là một bộ phận tiền gửi tại các quỹ tín dụng nhân dân, tập trung chủ yếu tại các vùng nông thôn và chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng số dư tiền gưỉ mà hệ thống ngân hàng huy động trong toàn quốc. Thêm vào đó, việc Bảo Việt BHTG cho các quỹ tín dụng nhân dântheo quyết định 101/TCQ-BH với giới hạn chỉ bảo hiểm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên. Trên thực tế số tiền gửi không kỳ hạn của cá nhân và các tổ chức kinh tế xã hội là rất lớn nhưng không được bảo hiểm, điều đó sẽ hạn chế khả năng huy động vốn của các TCTD. Theo quy định hiện hành Bảo Việt chỉ trả bồi thường sau khi quỹ tín dụng tham gia bảo hiểm ngừng hoạt động 1 tháng, và chỉ trả tiền gốc. Như vậy, nếu là người gửi tiền chỉ cần nghe tin quỹ tín dụng khó khăn về tài chính thì họ sẽ đổ xô đến để rút tiền nhằm lấy lại cả gốc lẫn lãi, đồng thời tránh được phải chờ đợi lâu trong trường hợp phải nhận tiền bồi thường từ bảo hiểm. Rõ ràng trong tình huống này hoạt động bảo hiểm cũng không có mấy tác dụng ngăn ngừa sự hoảng loạn ngân hàng khi gặp rủi ro. Ngoài ra quyết định trường hợp quỹ tín dụng tham gia bảo hiểm nếu vi phạm nghiêm trọng pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính thì rủi ro sẽ không được bồi thường. Điều này là chưa thoả đáng, bởi vì bồi thường rủi ro là bảo vệ lợi ích cho người gửi tiền. Khi hợp đồng bảo hiểm chưa bị huỷ bỏ, khi vi phạm pháp luật là do lỗi của TCTD và lỗi của cơ quan bảo hiểm thiếu kiểm tra giám sát để phát hiện, chấn chỉnh kịp thời thì hậu quả không nên để cho người gửi tiền gánh chịu. Nhìn chung, hiện nay ở Việt Nam nghiệp vụ BHTG rất còn mới mẻ và chưa phát triển như các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Nó vẫn trong thời gian thử nghiệm và hoàn thiện dần cho phù hợp với điều kiện cũng như hoàn cảnh của đất nước. Chính vì vậy, Chính phủ và ngân hàng nhà nước cần coi hoạt động BHTG là một mắt xích quan trọng trong chính sách tiền tệ quốc gia, nó có vai trò đòn bẩy thu hút tiền gửi và đảm bảo tạo ra sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng thương mại. Đồng thời phải có những quy định cụ thể về các nội dung của BHTG. 2. Nội dung hoạt động nghiệp vụ BHTG áp dụng ở Việt Nam a.Tổ chức kinh doanh BHTG Tổ chức BHTG là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động dưới sự điều tiết của Thủ tướng Chính phủ, được nhà nước cấp vốn điều lệ, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí, có tư cách pháp nhân và được miễn nộp các loại thuế. Trong trường hợp thiếu vốn tạm thời, tổ chức BHTG phải báo cáo ngân hàng nhà nước để ngân hàng nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ xem xét cho phép tổ chức BHTG được vay từ các TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ. Tuy nhiên, trong thời gian đầu của bước sơ khai thì ngân hàng nhà nước có thể giúp đỡ BHTG nhưng về lâu dài ngân hàng nhà nước không thể làm thay (vì đó là tác nghiệp cụ thể của BHTG Việt Nam) không thuộc chức năng của ngân hàng nhà nước. b. Phí bảo hiểm tiền gửi Phí BHTG được điều chỉnh theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, mức hiện hành là 0, 15%/ năm trên số dư tiền gửi bình quân tại các tổ chức tham gia BHTG, được nộp làm 4 lần trong năm tài chính. Có thể thấy rằng, mức phí này áp dụng chung cho các tổ chức tín dụng là chưa hợp lý. Vì mức độ rủi ro của mỗi loại hình tổ chức tín dụng có khác nhau, do mục đích và tính chất hoạt động khác nhau, do trình độ quản trị, điều hành, kinh nghiệm khác nhau. Ngân hàng thương mại quốc doanh trung ương với quy mô huy động vốn của cá nhân có thể lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng, với mức phí này thì phí bảo hiểm có thể lên đến con số rất lớn trong lúc mức độ rủi ro của các cá nhân tại các ngân hàng này không đáng kể, ngược lại ở ngân hàng cổ phần thì cao hơn mhiều, quỹ tín dụng nhân dân do tính chất giúp đỡ thành viên trong cộng đồng, hơn nữa mới ra đời nên rủi ro không phải là ít, ngân hàng chính sách thì rủi ro có thể lớn hơn v. v. . . Thêm vào đó, phí phạt đối với các trường hợp nộp chậm là 0, 1% số tiền nộp chậm một ngày; nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài tới 30 ngày, tổ chức BHTG có quyền yêu cầu ngân hàng nhà nước (hoặc các TCTD, kho bạc nhà nước) trích tài khoản tiền gửi của các TCTD (hoặc các tổ chức khác có tham gia hoạt động ngân hàng) để chuyển nộp phí bảo hiểm và các khoản tiền phạt. Tổ chức BHTG sẽ quyết định chấm dứt việc bảo hiểm và thông báo ra công chúng nếu tổ chức tham gia bảo hiểm không nộp phí bảo hiểm quá thời hạn 3 tháng, trách nhiệm bảo hiểm đối với tiền gửi trong trường hợp này tiếp tục được bảo tồn với thời hạn là 6 tháng. c. Mức tiền được bảo hiểm tiền gửi Mức tiền tối đa mà một người gửi tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi được BHTG Việt Nam trả là 30 triệu (cả gốc và lãi) lớn hơn 30 triệu đồng tại một tổ chức tham gia BHTG thì phần vượt so với quy định trên đây sẽ được hoàn trả trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG phù hợp với quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp. Như vậy mức tiền mà BHTG Việt Nam trả ngay cho một người gửi tiền của tất cả các khoản tiền gửi tối đa chỉ 30 triệu đồng, bất chấp người đó gửi nhiều hay ít. Sự cào bằng đó sẽ dẫn đến hạn chế múc tiền của mỗi người gửi vào các TCTD. Nếu gửi trên mức 30 triệu thì khi TCTD rơi vào tình trạng bị phá sản thì chỉ là sự thiệt thòi đáng kể. Sự chênh lệch trên mức 30 triệu có thể rất lớn, nếu đợi chờ hoàn trả trong quá trình thanh lý tài sản thì quả là "ế ẩm". Không chỉ vì thời gian kéo dài mà có thể rơi vào nhiều tình huống: Nếu giá trị tài sản còn lại của TCTD đủ thanh toán các khoản nợ của các chủ nợ thì mỗi chủ nợ (cá nhân) được thanh toán đủ số nợ của mình. Nhưng ngược lại không đủ thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng. Thế thì dại gì họ gửi trên mức 30 triệu để phải thấp thỏm lo âu! d. Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi Bảo hiểm tiền gửi là một tổ chức tài chính nhà nước được thành lập nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD, bảo đảm sự an toàn, lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Chính vì vậy, đối tượng tham gia BHTG là tất cả các TCTD và các tổ chức không phải là TCTD nhưng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của luật các TCTD bắt buộc phải tham gia BHTG. e. Đối tượng được bảo hiểm Theo điều 3 của NĐ 89/1999/NĐ-CP quy định " tiền gửi được bảo hiểm là đồng Việt Nam của các cá nhân gửi tại tổ chức tham gia BHTG" như vậy là: -Đối tượng chính được điều chỉnh của NĐ này là cá nhân. Vậy thì tiền gửi là đồng Việt Nam của các pháp nhân thì giải quyết như thế nào? Các ngân hàng thương mại thì có quan hệ với các pháp nhân rất nhiều và họ có một khối lượng tiền gửi khổng lồ. Nhưng nếu theo quy định trên thì không được BHTG. Đây còn là vấn đề bất hợp lý và không công bằng trước pháp luật. Điều đó tất yếu sẽ hạn chế pháp nhân gửi vốn vào TCTD. -Chỉ BHTG là đồng Việt Nam. Như vậy tiền gửi ngoại tệ không được bảo hiểm. Trong lúc đó NĐ63/1988 NĐ-CP của Chính Phủ về quản lý ngoại hối hiện hành thì cho phép: tổ chức cá nhân có ngoại tệ tiền mặt hợp pháp được bảo đảm quyền sử dụng ngoại tệ của mình. Rõ ràng giữa NĐ 89/1999 NĐ-CP và NĐ 63/1988 có một nghịch lý! Ngoại tệ không được bảo hiểm sẽ có tác động ngược lại, không nhưng không khuyến khích tổ chức, cá nhân có ngoại tệ hợp pháp gửi, bán cho các TCTD được phép kinh doanh ngoại hối hay cá nhân có ngoại tệ (không kể nguồn gốc) gưỉ tiền tiết kiệm vào ngân hàng, mà thậm chí còn tạo "sơ hở", "điều kiện" để họ mua bán ngoại tệ ở thị trường tự do trái với yêu cầu mục đích của chủ trương quản lý ngoại hối của ta hiện nay. f. Loại tiền gửi cần được bảo hiểm Như chúng ta đều biết, tiền gửi thông thường được chia làm hai loại: tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn. BHTG lại là một nghiệp vụ hoàn toàn mới mẻ ở nước, chúng ta còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong tổ chức kinh doanh BHTG, Mặt khác do tính luân chuyển vốn, tiền gửi không kỳ hạn mang tính chất thất thường nên việc tính toán phí rất phức tạp. Do đó, ở thời kỳ đầu của việc thử nghiệm bảo hiểm tiền gửi, chúng ta chỉ nên bảo hiểm tiền gửi loại có kỳ hạn và là bản tệ thì phù hợp hơn. Thực tế trên thế giới, việc bảo hiểm các loại tiền gửi cũng không giống nhau, chẳng hạn các nước Mỹ, Italy, Hà Lan, Đức, Tây Ban Nha thì bảo hiểm tất cả các loại tiền gửi. Nhưng ở các nước Nhật, Pháp, Anh thì bảo hiểm tiền gửi bằng bản tệ. g. Hình thức áp dụng bảo hiển tiền gửi Để thực sự đảm bảo niềm tin cho khách hàng khi gửi tiền, khai thác tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư phù hợp với thực tế nước ta hiện nay là quỹ tín dụng nhân dân mới ra đời, (hợp tác xã tín dụng cũ đổ vỡ còn để lại dư âm, trình độ quản lý, trình độ dân trí nhiều mặt còn hạn chế), cần áp dụng hình thức bảo hiểm tiền gửi bắt buộc mà không nên dùng cơ chế tự nguyện mua bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên, theo quyết định 101/TCQD- BH ngày 1 tháng 2 năm 1994 của Bộ tài chính, thì việc mua bảo hiểm tiền gửi dựa trên cơ sở ký kết hợp đồng giữa đôi bên. Điều này cũng không hoàn toàn mâu thuẫn với ý kiến cho rằng mua BHTG là bắt buộc đối với quỹ tín dụng nhân dân; không mâu thuẫn với mục tiêu của các nhà kinh doanh bảo hiểm tiền gửi. Vì rằng hệ thống quỹ tín dụng nhân dân theo mô hình mới đang ở giai đoạn làm thử thì việc hướng dẫn, chỉ ra cho các quỹ tín dụng nhân dân thấy rõ trách nhiệm của mình, thấy rõ mua BHTG là cần thiết và hoàn toàn phù hợp với thực tế. Hơn nữa tính bắt buộc ở đây là đối với quỹ tín dụng nhân dân nơi nhận tiền gửi. Họ phải có trách nhiệm đảm bảo an toàn tiền gửi cho khách hàng, chứ không phải bắt buộc người gửi tiền mua bảo hiểm; có thể coi như một "nguyên tắc" trong những "điều kiện cần và đủ" để quỹ tín dụng nhân dân ra đời và hoạt động an toàn. Trên thế giới ngay cả nước tiên tiến, đã có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh bảo hiểm như Nhật, Pháp, Anh, Hà Lan. . cũng vẫn dùng hình thức bảo hiểm bắt buộc với tiền gửi. Như vậy, việc dùng hình thức bảo hiểm bắt buộc hay tự nguyện trong kinh doanh bảo hiểm tiền gửi là tuỳ thuộc điều kiện tình hình, đặc điểm, trình độ tổ chức quản lý v. v. . của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng, không có một khuôn mẫu thống nhất cho mọi nước. 3. Những điểm còn tồn tại thị trong thị trường BHTG ở Việt Nam Mặc dù BHTG có vai trò to lớn trong việc bảo vệ người gửi tiền và góp phần làm sôi động thêm các hoạt động ngân hàng ở nước ta. Tuy nhiên, còn thấy một số điểm còn tồn tại sau: Thứ nhất: đây là loại hình bảo hiểm, bảo hiểm bắt buộc và là tổ chức bảo hiểm duy nhất, điều này sẽ nảy sinh sự bắt bình đẳng trong cơ chế thị trường và sự độc quyền. Thứ hai: tỷ lệ phí bảo hiểm 0, 15% tính trên số tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Theo nhiều ý kiến (cả những người quan tâm và các TCTD) là cao và chưa phù hợp với tình hình thực tế, ảnh hưởng đến hoạt động, đặc biệt trong trường hợp các TCTD vừa phải xử lý tồn tại cũ, vừa phải trích dự phòng rủi ro và như vậy sẽ ảnh hưởng tới hoạt động thu chi tài chính và đời sống cán bộ, nhân viên của TCTD. Đối với các tổ chức tín dụng nhà nước hiện nay thì phí đóng BHTG là lớn nhất, nhưng việc bảo hiểm tiền gửi phải can thiệp thì hầu như ít xẩy ra do có những đặc thù riêng (năng lực huy động vốn thường xuyên dồi dào, do là ngân hàng của nhà nước. . . ). Thứ ba: những quy định về trích và nộp phí bảo hiểm còn cứng (do là bảo hiểm bắt buộc). Mặt khác, một tổ chức tài chính của nhà nước ( thực chất như là một công ty) không có chức năng quản lý nhà nước (vừa thực hiện hoạt động bảo hiểm, vừa có tính kinh doanh) nhưng lại được phép xử lý vi phạm hành chính đối với các đơn vị tham gia BHTG (cảnh cáo, phạt tiền. . . ). Thứ tư: việc tổ chức giám sát rủi ro của BHTG đối với các đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi là vấn đề cần phải xem xét. Chúng ta thấy rằng, bất cứ một tổ chức nào khi mới đi vào hoạt động không thể không có những thiếu sót. Chính vì vậy, trước khi đưa vào hoạt động chúng ta phải phân tích kỹ càng và nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của những nước đi trước. 4. Kinh nghiệm hoạt động BHTG ở một số nước trên thế giới và định hướng tổ chức BHTG ở Việt Nam a. Kinh nghiêm hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở một số nước trên thế giới Hoạt động BHTG rất phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Trong mỗi nước do điều kiện kinh tế xã hội và lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng có những nét khác nhau nên hệ thống bảo hiểm tiền tệ của các nước rất đa dạng. ở Canada, hệ thống quỹ tín dụng Desjardins của Canada được thành lập từ năm 1900 tại Quebéc (Canada) đến nay hệ thống quỹ tín dụng này hoạt động rất an toàn, bởi có một môi trường pháp lý và các điều kiện, yếu tố về kinh tế, về tổ chức hết sức chặt chẽ và có hiệu quả. Về môi trường pháp lý, nhà nước đã ban hành các đạo luật có liên quan để các hoạt động của người cho vay, người đi vay, người gửi tiền và người sản xuất kinh doanh đều trong hành lang pháp luật, mọi hoạt động trong lĩnh vực này đều được pháp luật điều chỉnh. Để điều chỉnh các hoạt động của quỹ tín dụng có: "luật về quỹ tiết kiệm và tín dụng"; "Luật về tổng thanh tra các định chế tài chính". Để điều chỉnh các hoạt động vay nợ, cho vay, gửi tiền có: "Luật về công ty tài chính nông nghiệp"; "Luật về bảo hiểm cho vay nông nghiệp" và "Luật về bảo hiểm tiền gửi". Về bộ máy thực thivà nguồn tài chính bảo đảm an toàn cho hoạt động của các quỹ tín dụng, phải kể đến cả hai hệ thống: bên ngoài hệ thống quỹ tín dụng và bên trông hệ thống quỹ tín dụng Desjardins. Bên ngoài hệ thống Desjardins, nhà nước lập ra ba tổ chức, cơ quan ảo hiểm nông nghiệp của Quebéc, cơ quan tín dụng và cơ quan BHTG của Quebéc. Cơ quan bảo hiểm nông nghiệp của Quebéc làm dịch vụ bảo hiểm thị trường và bảo hiểm mùa màng. Bảo hiểm thị trường là bảo hiểm về giá cả. Nếu giá bán nông phẩm trên thị trường bị giảm sút so với mức giá tính bảo hiểm thì cơ quan này sẽ trả cho phần chênh lệch giá đó, với mức bảo hiểm 80%. Cơ cấu nguồn bảo hiểm được chia làm ba phần: một phần cho nông dân đóng góp, hai phần còn lại do chính phủ tiểu bang tài trợ. Bảo hiểm mùa màng tức là bảo hiểm về năng suất thu hoạch của cây trồng. Nếu do những yếu tố khách quan làm cho năng suát thu hoạch giảm sút, thì cơ quan bảo hiểm trả cho phần giảm đó. Nguồn kinh phí bảo hiểm loại này do nông dân đóng góp 50%, Chính phủ tiểu bang Quebéc: 25% và Chính phủ Canada tài trợ 25%. Cơ quan tín dụng của Quebéc chỉ làm nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng. Cơ quan này bảo lãnh cho người đi vay quỹ tín dụng, hoặc vay của các ngân hàng, Nếu người đi vay không trả được nợ thì cơ quan tín dụng trả thay. Từ năm 1990 trở về trước, người đi vay phải nộp phí bảo lãnh là 2% trên số tiền vay. Nhưng từ năm 1991 trở lại đây, người vay được miễn phí hoàn toàn. Theo luật của Canada, Bộ tài chính tạm ứng cho cơ quan tín dụng này 10 triệu đô la canada, với lãi suất rất thấp và có những điều kiện nhất định do chính phủ tiểu bang Quebéc quy định để làm nguồn bảo lãnh. Đến năm 1993 cơ quan tín dụng này được đổi tên thành Cônh ty tài chính nông nghiệp. Cơ quan BHTG của Quebéc có trách nhiệm bảo hiểm cho những người gửi tiền ở các ngân hàng hoặc ở quỹ tín dụng Desjardins. Mức tiền bảo hiểm tối đa cho một người là 60. 000 đô la Canada. Nguồn tài chính cho quỹ bảo hiểm này là tất cả các quỹ tín dụng Desjardins phải đóng góp 1/15 của 1% tổng số các loại tiền gửi ngắn hạn và dài hạn tại quỹ tín dụng (1. 327 quỹ tín dụng Desjardins hàng năm phải đóng góp 11 triệu đo la canada cho quỹ bảo hiểm này). Người gửi tiền phải đống góp 1/15 trên 1% của tổng số tiền được bảo hiểm. Trong hệ thống quỹ tín dụng Desjardins có công ty an toàn vốn và quỹ bảo hiểm nhân thọ. Công ty an toàn vốnlà một tổ chức của tổng liên đoàn quỹ tín dụng được thành lập từ năm 1949. Công ty này chỉ bảo hiểm tiền gửi cho những người gửi tiền trong hệ thống quỹ tín dụng Desjardins. Công ty có vai trò rất quan trọng nó không để cho bất kỳ quỹ tín dụng nào mất khả năng chi trả, tức là gián tiếp bảo vệ những người gửi tiềnvào quỹ tín dụng. Nguồn tài chính để bảo hiểm là phí do các quỹ tín dụng nộp cho công ty an toàn vốn theo mức 0, 65 tiền gửi và cá nhân người gửi tiền đóng phí 1/15 của 1% tiền gửi được bảo hiểm. Khi quỹ tín dụng gặp tình huống khủng hoảng, công ty an toàn vốn gửi người đến xem xét để xử lý việc trợ giúp quỹ tín dụng để có nguồn trả cho người gửi tiền. Ngoài ra còn có tổ chức bảo hiểm nhân thọ để mỗi xã viên của quỹ tín dụng mua bảo hiểm đề phòng lúc ốm đau, tuổi già. Như vậy, ở Canada, để đảm bảo an toàn cho sự hoạt động của các quỹ tín dụng Desjardins và bảo đảm an toàn về tiền gưỉ cho người gửi tiền, người ta tổ chức đồng thời nhiều cơ quan bảo hiểm khác nhau và có nhiều hình thức bảo hiểm khác nhau. Về nguồn phí bảo hiểm thì có sự tài trợ lớn của chính phủ bang và tiểu bang và có sự đóng góp cuả quỹ tín dụng, còn người gửi tiền chỉ đóng góp một phần. ở Cộng hoà Liên bang Đức năm 1937, liên minh hệ thống bảo đảm tiền gửi của HTX tín dụng cũng được thành lập. Sau đó đổi tên quỹ bảo đảm người gửi tiền của hiệp hội HTX tín dụng và ngân hàng tiết kiệm CHLB Đức. Luật của CHLB Đức quy định, việc HTX tín dụng Tham gia hiệp hội là tự nguyện, nhưng việc tham gia vào quỹ bảo đảm người gửi tiền là bắt buộc. Khi cấo giấy phép thành lập HTX tín dụng, Nhà nước quy định HTX tín dụng phải tham gia bảo đảm tiền gửi. Hàng năm các thành viên (HTX tín dụng) phải đóng góp cho quỹ này 0, 05% tổng số tiền cho vay, hay tổng tài sản có 90% khoản đóng góp của HTX tín dụng được giữ lại ở các hiệp hội khu vực, 10% giữ lại ở hiệp hội liên bang. Do có quỹ bảo đảm người gửi tiền, nên từ năm 1937 đến nay không có bất kỳ HTX tín dụng nào bị phá sản và chưa có ai bị mất tiền khi gửi vào các HTX tín dụng. Như vậy, thực chất của quỹ bảo đảm người gửi tiền là quỹ bảo hiểm tiền gửi. Người có trách nhiệm mua BHTG ở CHLB Đức là các HTX tín dụng. Trên đâylà hai ví dụ cụ thể về việc tổ chức bảo hiểm tiền gửi cho những người gửi tiền trong hệ thống quỹ tín dụng nhân dân và HTX tín dụng. Nhìn chung, trên toàn thế giới, hình thức của loại bảo hiểm này cũng khá đa dạng. Trước hết là việc bảo hiểm các loại tiền gửi không giống nhau. Chẳng hạn như ở các nước Mỹ, Italia, Hà Lan, Đức và Tây Ban Nha thì bảo hiểm tất cả các loại tiền gửi. Nhưng ở các nước Nhật Bản, Bỉ, Pháp, Anh và Cộng hoà Ai Len thì chỉ bảo hiểm tiền gửi nội tệ. Thứ hai là ngay cả các nước tiên tién trên thế giới, mặc dù có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động bảo hiểm vẫn dùng hình thức bắt buộc đối với bảo hiểm tiền gửi, như: Nhật Bản, Pháp, Anh, Hà Lan, và Cộng hoà Liien Bang Đức. Sau nữa là việc xác định mức tiềm gửi là bao nhiêu. Tất nhiên nó phụ thuộc vào yếu tố rủi ro, nguồn phí bảo hiểm huy động được, nhưng các nước đều quy định số tiền gửi tối đa được bảo hiểm, chẳng hhạn như: Mỹ:100. 000 USD; Nhật Bản:10 triệu JPY; Bỉ 5 triệu BEF; Pháp:4 triệu Fre; Anh: 20 triệu GBP; Canada 60. 000 đôla Canada. Về mức phí đóng bảo hiểm, mỗi quốc gia cũng có tỷ lệ quy định khác nhau, chẳng hạn như ở Mỹ, tỷ lệ này là 0, 15% trên tổng số tiền gửi có kỳ hạn; Bỉ:0, 2%; Anh: 0, 3%; Ai len: 0, 2%; Tây Ban Nha: 0, 2%; Nhật Bản: 0, 125 và CHLB Đức: 0, 05%. . . Đồng thời ở các nước Canada, Mỹ, Bỉ, Ai Len, Anh và Tây Ban Nha, Chính phủ đều tài trợ một phần phí bảo hiểm cho các tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Tóm lại, BHTG ở các nước khác nhau là khác nhau, song nhìn một cách khái quát thì hoạt động BHTG của nhiều nước đều có một số điểm chung sau đây: -Các nước đều có luật quy định về lĩnh vực hoạt động BHTG. Công ty BHTG liên bang Mỹ hoạt động theo luật ngân hang 1933. Các tổ chức BHTG ở Canada hoạt động theo luật BHTG năm 1990. Các hệ thống BHTG cộng hoà liên bang Đức hoạt động theo luật BHTG năm 1971. . . -Nhiều nước có tổ chức BHTG lớn, độc lập, chuyên môn hoá và được nhà nước quan tâm trợ giúp đặc biệt. Công ty BHTG Liên bang Mỹ thực hiện BHTG cho các thành viên trong hệ thống dự trữ liên bang và moọt số ngân hàng không phải là thành viên. Khi cần thiết công ty BHTG liên bang có quyền ưu tiên được vay tại kho bạc 3 tỷ USD, trường hợp đặc biệt có thể được quốc hội tăng thêm hạn mức. Công ty BHTG Nhật Bản hoạt động trong phạm vi toàn quốc có vốn tự có ban đầu là 455 triệu yên, trog đó chính phủ cấp 150 triệu yên, phần còn lại do các tổ chức tài chính tham gia bảo hiểm tiền gửi đóng góp. Khi cần thiết công ty được quyền vay từ ngân hàng Nhật đến hạn mức 500 tỷ yên. -Nhìn chung hệ thống bảo hiểm tiền gửi của các nước đều gồm nhiều tổ chức độc lập, cùng hoạt động theo luật pháp và mỗi tổ chức thực hiện bảo hiểm tiền gửi cho các tổ chức tín dụng trong phạm vi nhất định. -Loại tiền gửi được bảo hiểm và số lượng được bồi thường được quy định có mức độ tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước và dần được mở rộng theo quý trình phát triển của hệ thống bảo hiểm. Công ty BHTG Liên bang Mỹ khi mới thành lập chỉ bảo hiểm cho mỗi người gửi tiền là 2. 500 USD, ngày nay nâng lên mức 100. 00 USD. -Hệ thống BHTG của các nước đều tiến hành bồi thường khi bên tham gia bảo hiểm gặp rủi ro bảo hiểm, không phải chờ xác minh mức độ thiệt hại như những loại bảo hiểm thông thường khác. -Các tổ chức BHTG của các nước đều có quyền kiểm tra, yêu cầu các tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro theo quy định. Tuy nhiên mức độ về quyền hạn được quy định khác nhau phù hợp với hệ thống luật của từng nước. Qua bảng sau, chúng ta càng thấy rõ những nét riêng biệt cũng như những điểm chung khi triển khai nghiệp vụ BHTG ở các nước. Một số chỉ tiêu về BHTG của 12 nước thuộc uỷ ban Basle và Việt Nam Quốc gia Mức BH tối đa cho 1 cá nhân Căn cứ để tính phí BH Mức phí BH Tiền được BH Hình thức BH Mô hình Cơ quan quản lý Anh 28. 000USD Số dư tiền gửi Tính Bản tệ & Bắt Công Chính được bảo hiểm toán sau(2) ngoại tệ buộc ty BHTG phủ Canad a 50. 000USD Số dư tiền gửi được bảo hiểm 0, 02% Bản tệ Bắt buộc Công ty BHTG Chính phủ Đức 30% vốn pháp định của NH Dư nợ cho vay 0, 03% Bản tệ & ngoại tệ Bắt buộc bảo toàn tiền gửi Hiệp hội ngân hàng Bỉ 28. 000USD Số dư tiền gửi được bảo hiểm 0, 06% Bản tệ Bắt buộc Công ty BHTG Viện bảo lãnh & chiết khấu Hà Lan 28. 000USD Số dư tiền gửi được bảo hiểm Tính toán sau(2) Bản tệ & ngoại tệ Bắt buộc Bảo toàn tiền gửi Chính phủ Mỹ 100. 000USD Số dư tiền gửi được bảo hiểm 0, 00%đế n 0, 27% Bản tệ & ngoại tệ Bắt buộc Công ty BHTG Quốc hội Luxe m- bourg 28. 000USD Số dư tiền gửi được bảo hiểm Tính toán sau(2) Bản tệ Bắt buộc Công ty BHTG Chính phủ Nhật 80. 000USD Số dư tiền gửi được bảo hiểm 0, 084% Bản tệ & ngoại tệ Bắt buộc Công ty BHTG Bộ tài chính Pháp 70. 000USD Số dư tiền gửi được bảo hiểm Tính toán sau(2) Bản tệ & ngoại tệ Bắt buộc Bảo hiểm tiền gửi Hiệp hội ngân hàng Thuỵ Điển 31. 000USD Số dư tiền gửi được bảo hiểm 0, 5% Bản tệ Bắt buộc Công ty BHTG Chính phủ Thuỵ Sỹ 19. 700USD Tổng tài sản có Tính toán sau(2) Bản tệ Tự nguyệ n Bảo toàn tiền gửi Hiệp hội ngân hàng Italy 125. 000 Số dư tiền gửi được bảo hiểm Tính toán sau(2) Bản tệ & ngoại tệ Bắt buộc Bảo toàn tiền gửi Ngân hàng trung ương Việt Nam 30triệu VND tương đương 2. 142USD Số dư tiền gửi được bảo hiểm 0, 15% Bản tệ Bắt buộc BHTG Việt Nam Chính phủ (2) Tính toán sau: Khi có khủng hoảng mới cụ thể b. Định hướng tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam ở nước ta, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân đang được thành lập và mới đi vào hoạt động, trong khi hậu qủa đổ vỡ của hệ thống HTX tín dụng vẫn còn ám ảnh lớn trông nhân dân. Nước ta mới bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường, hộ nông dân nhìn chung còn nghèo, sản xuất nông nghiệp phân tán, năng suất thấp, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên và mang tính bấp bênh. Công nghệ ngân hàng còn lạc hậu, trình độ kinh doanh tiền tệ - tín dụng còn hạn chế nhiều mặt. . . Để tiến tới hoà nhập nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thế giới, để phù hợp với xu hướng phát triển nhanh hệ thống ngân hàng, của các tổ chức tín dụng và của hoạt động bảo hiểm ở Việt Nam, việc sớm tiến hành bảo hiiểm tiền gửi là tất yếu khách quan. Đồng thời do đặc điểm cụ thể của Việt Nam, Trong giai đoạn đầu chỉ nên bảo hiểm loại tiền gửi có kỳ hạn của quỹ tín dụng nhân dân. Trách nhiệm mua bảo hiểm thuộc về quỹ tín dụng nhân dân và cần có sự tài trợ của nhà nước. Nhà nước cũng nên quy định mức phí đóng bảo hiểm tương ứng với mức của các nước trên thế giới và cũng cần phải quy định mức tiền gửi tối đa được bảo hiểm với người gửi tiền. Việc tổ chức BHTG phải đi đôi với việc mở rộng bảo hiểm sản xuất nông nghiệp, bảo hiểm kinh doanh nông sản và bảo hiểm tai nạn cho nông dân. Về mô hình của tổ chức bảo hiểm, chúng ta cần có sự liên doanh, liên kết giữa ngân hàng nhà nước trung ương và tổng công ty bảo hiểm Việt nam, thành lập một công ty bảo hiểm riêng. Nhà nước không nên thu thuế đối với công ty bảo hiểm tiền gửi này. Phần lợi nhuận của công ty này cần được đầu tư trở lại cho chính các quỹ tín dụng nhân dân. Tiếp theo việc thực hiện đối với hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, Chính phủ cũng nên quy định BHTG đối với ngân hàng thương mại cổ phần. Hiện nay cả nước có 30 ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, 16 ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn và 2 công ty tài chính. Các tổ chức tín dụng này đang có xu hướng phát triển nhanh trong thời gian tới. Chính vì vậy, cần phải có quy định bảo hiểm tiền gửi. Ngoài ra, để đảm bảo an toàn và khuyến khích mọi người dân gửi tiền vào các tổ chức tín dụng cổ phần, nhà nước sớm xem xét quy định bảo hiểm tiền gửi bắt buộc đối với họ. Hoặc có thể, các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng thương mại quốc doanh và các công ty tài chính cổ phần, nên tự nguyện cùng nhau tthành lập quỹ BHTG tại hiệp hội ngân hàng Việt nam. 5. Giải pháp nâng cao hiệu quả của BHTG a. Vi mô Để phát huy trọn vẹn mặt tích cực của loại BHTG quốc gia, kinh nghiệm thực tiễn một số quốc gia trên thế giới chúng ta có thể đưa ra một số giải pháp sau: Cải tiến và tăng cường hoạt động thanh tra ngân hàng. Trước hết là cần phải đẩy mạnh thường xuyên và tiến hành thanh tra tại chỗ. Nội dung thanh tra cần phải tập trung vào các vấn đề: Chất lượng tài sản có, cụ thể là chấtt lượng các khoản cho vay (bao gồm cả hồ sơ, tính pháp lý đầy đủ); các yêu cầu về vốn theo quy định của ngân hàng nhà nước; chất lượng quản lý kinh doanh và nhân sự (bao gồm cả việc thu thập và xử lý thông tin) ; lợi nhuận và khả năng sinh lời; khả năng thanh toán và tính thanh khoản. Nội dung thanh tra cần phải xây dụng bảng điểm đánh giá. Dựa vào thang điểm đánh giá, ngân hàng nhà nước có biện pháp kịp thời, răn đe đối với những tổ chức tín dụng nằm dưới mức điểm chuẩn. Sự răn đe, chấn chỉnh kịp thời của ngân hàng nhà nước sẽ góp phần làm hạn chế các tiêu cực. Công tác thanh tra cần phải kết hợp hình thức có và không có thông báo trước, cũng như phải có trọng điểm, tránh dàn đều. Đơn vị yếu kém, có vấn đề cần được trú ý và thanh tra nhiều hơn so với các đơn vị tốt. Cần có biện pháp khen thưởng đối với hoạt động giám sát nội bộ của TCTD nếu như kết quả phù hợp với đánh giá của thanh tra ngân hàng. Từ đó sẽ nâng cao vai trò, hiệu quả công tác giám sát nội bộ và giảm nhẹ khối lượng thanh tra ngân hàng. Bổ sung và thực hiện nghiêm các quy định về vốn và tín dụng. Cho đến nay, ngân hàng nhà nước đã có nhiều quy định về vốn, xét cấp tínn dụng, hạn chế việc cho vay tập trung quá mức. Tuy nhiên, những quy dịnh này chưa được thực hiện nghiêm túc và công tác thanh tra, xử lý các vấn đề này vẫn còn nhẹ tay mặc dù những quy định này là biện pháp tốt nhất để hạn chế rủi ro cũng như sự liều lĩnh của các TCTD. Do vậy ngân hàng nhà nước cần bổ sung và yêu cầu các TCTD thực hiện nghiêm ngặt quy định về vốn và cấp tín dụng như: vốn điều lệ tối thiểu, tỷ lệ huy động vốn, vốn cấp 1 (Tier 1 capital), cấp 2 (Tier 2 capital), hạn mức cho vay một cá nhân và một pháp nhân, hạn mức cho vay một ngành nghề. . . Các quy định này cần gắn với các thông lệ quốc tế, đặc biệt là hiệp định Basel. Hiệp định quy định các khoản mục trong phần tài sản Có và ngoại bảng được phân chia thành 4 nhóm chính với hệ số rủi ro tương ứng là 0%, 20%, 50%, và 100%. Kế đó tính tổng giá trị tài sản Có được điều chỉnh theo mức độ rủi ro bằng cách nhân giá trị các khoản mục tài sản Có với hệ số rủi ro (đối với các khoản mục ngoại bảng, trước đó phải quy đổi ra thành khoản mục trong bảng theo một tỷ lệ phần trăm nào đó, ví dụ: tín dụng dụ phòng (standby L/C) bảo lãnh cho một khoản vay hoặc thương phiếu được quy đổi 100% thành một khoản vay, sau đó nhân với hệ số rủi ro tương ứng). Theo hiệp định nàyc các ngân hàng phải thoả mãn hai yêu cầu vầ vốn như sau: vốn cấp 1 (vốn cổ phần) phải đạt tối thiểu là 4% so với tổng tài sản Có được điều chỉng theo mức độ rủi ro; tổng vốn bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2 (bao gồm vốn dự phòng thua lỗ và các khoản nợ thứ cấp (là khoản nợ chỉ được chi trả sau khi đã chi trả xong cho người gửi tiền và các chủ nợ khác) phải đatj ít nhất là 8% so với tổng tài sản Có chịu rủi ro. Ngoài ra, ngân hàng nhà nước phải chú ý và bổ xung thêm các quy định về các khoản mục, hoạt động ngoại bảng. Bởi vì, các khoản mục ngoại bảng (cam kết, bảo lãnh, kinh doanh các công cụ tài chính) tuy không thể hiện trong bảng cân đối nhưng cũng dễ dẫn các TCTD đến các rủi ro, thua lỗ lớn. Tách biệt hoạt động ngân hàng và hoạt động chứng khoán, bảo hiểm. Các TCTD (ngân hàng) không được tham gia thực hiện các hoạt động chứng khoán rủi ro (như bảo lãnh phát hành, kinh doanh chứng khoán) và bảo hiểm, nhưng có thể thực hiện các nghiệp vụ khác như lưu ký, môi giới, tư vấn. Ngược lại, các công ty chứng khoán, bảo hiểm và các tổ chức phi ngân hàng cũng không được tham gia các hoạt động ngân hàng truyền thống. Mục đích là ngăn ngừa rủi ro và giữ mức cạnh tranh vừa phải cho hệ thống ngân hàng. ở Việt Nam, các ngân hàng đã dược tách biệt với các công ty chứng khoán, nhưng cần phải xem xét đến tính độc lập của các công ty chứng khoán nguyên là các công ty con cuả các ngân hàng. Duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, thích hợp. Sự cạnh tranh buộc các TCTD hoạt động có hiệu quả hơn và phục vụ khách hàng tốt hơn. Tuy nhiên, sự cạnh tranh quá mức sẽ dẫn đến nhiều nguy cơ và làm tăng sự liều lĩnh của các TCTD. Khi mức lợi nhuận bị giảm mạnh do cạnh tranh khốc liệt sẽ dễ hướng các TCTD lao vào các hoạt động có rủi ro cao. Do vậy, cần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh bằng cách duy trì số lượng thích hợp của các TCTD, kiểm soát việc cho ra đời các TCTD mới cũng như việc mở thêm chi nhánh, văn phòng giao dịch. Công khai thông tin và hoạt động của các TCTD. Ngân hàng nhà nước cần quy định cụ thể các thông tin, số liệu về hoạt động mà các TCTD bắt buộc phải công khai cho công chúng (ít nhất là cho khách hàng và cổ đông) biết theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, trước mắt là các số liệu về các chỉ tiêu bắt buộc theo quy định của ngân hàng nhà nước. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ đem lại nhiều lợi ích cho bản thân TCTD và cho xã hội. Đối với cổ đông, người gửi tiền, khách hàng có được nhiều thônh tin chính xác về chất lượng và hoạt động của TCTD sẽ giúp cho họ có được quyết định đúng đắn trong việc đầu tư, giao dịch với ngân hàng. Đây là cách tốt nhất để bảo vệ quyền lợi cho công chúng (thường không có đủ và rất khó để có được thông tin chính xác về các TCTD). Đồng thời phản ứng của khách hàng, chủ nợ trước các thông tin này sẽ buộc tài chính tín dụng định hướng hoạt động của mình. Đối với các TCTD, việc công khai chất lượng và hoạt động của mình sẽ làm giảm bớt sự liều lĩnh, bất hợp pháp (nếu có) trong tổ chức mình. Đối với cơ quản lý và pháp luật sẽ giảm được khối lượng công việc giám sát, theo dõi do được chia sẻ với công chúng đồng thời phát hiện nhanh và ngăn chặn kịp thời các hành vi nguy cơ. Hiện nay, thực hiện công tác này vẫn còn khá yếu kém ở Việt Nam và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các vụ đổ bể kinh tế lớn và thua lỗ nặng của một vài ngân hàng. Xây dựng phí bảo hiểm và tỷ lệ bồi thường tương ứng với mức độ rủi ro. Để giảm thiểu tình trạng sự liều lĩnh sau bảo hiểm và buộc người bảo hiểm pjải tiếp tục quan tâm đến hoạt động của các TCTD, một số nước đã bãi bỏ việc bồi hoàn 100%. Nghĩa là bất kỳ gửi nhiều hay ít, người gưit tiền vẫn phải gánh chịu một tỷ lệ nhất định thua lỗ trong trường hợp TCTD mất khả năng thanh toán. Tỷ lệ bồi hoàn còn gắn với mức độ rủi ro (chất lượng hoạt động) của TCTD. Ngoài ra, phí bảo hiểm không giàn đều mà tuỳ vào mức độ rủi ro của các tổ chức tín dụng theo hướng phí bảo hiểm thấp khi rủi ro thấp và ngược lại. Như vậy, một TCTD có nhiều hoạt động rủi ro sẽ phải gánh chịu phí bảo hiểm cao và tỷ lệ bồi hoàn thấp. Đây cũng là hình thức thưởng phạt và khuyến khích các TCTD hoạt động thận trọng, lành mạnh. Đồng thời, căn cứ vào mức phí và tỷ lệ bồi hoàn, công chúng sẽ có ý thức hơn và thận trọng hơn trong việc giao dịch với các TCTD. Ngoài những vấn đề cần quan tâm trên, cần phải khẩn trương đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi để xây dụng phí bảo hiểm, tỷ lệ bồi thường thích hợp. Bên cạnh nhữnh giải pháp vi mô chúng ta không thể không kể đến giải pháp vĩ mô góp phần hoàn thiện BHTG ở Việt Nam. b. Vĩ mô Một là: Chúng ta cần sớm có luật về BHTG, có thể là một phần trong luật ngân hàng, hoặc cũng có thể ban hành đạo luật BHTG riêng. Hai là: Chúng ta cần xây dựng hệ thống BHTG gồm những tổ chức BHTG lớn mạnh, độc lập, chuyên môn hoá có đủ sức BHTG cho các ngân hàng lớn ở nước ta. Trước tên chúng ta có thể xây dựng công ty BHTG nhà nước cho các ngân hàng thương mại. Công ty này thuộc sở hữu nhà nước, được cấp vốn ban đầu để hoạt động. VViệc thành lập công ty bảo hiểm tiền gửi nhà nước phù hợp với đặc điểm hiện nay của hệ thống ngân hàng nước ta nói riêng, của nên kinh tế Việt Nam nói chung. Vì đại bộ phận tiền gửi trong phạm vi cả nước là do các ngân hàng quốc doanh huy động, và doanh số hoạt động của các ngân hàng quốc doanh chiếm khoảng 90% toàn bộ doánhố hoạt động của cả hêj thống ngân hàng. Nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và trong đó kinh tế quốc doanh chiếm vị trí chủ đạo. Trên thực tế ngân hàng quốc doanh đang chiếm vị trí chủ đạo trong ngành. Hệ thống BHTG phải đảm bảo được sự phát triển lành mạnh cho các ngân hàng quốc doanh vì sự nghiệp đó. Ba là: Hệ thống BHTG có tác dụng quan trọng trong việc bảo đảm an toàn cho hệ thống các ngân hàng do đó góp phần ổn định và phát triển nên tài chính quốc gia. Với ý nghĩa đó, sự phát triển của hệ thống BHTG cần được nhà nước quan tâm đặc biệt. Điều đó có thể được thực hiện thông qua việc nhà nước cấp vốn và cử người điều hành các tổ chức vào BHTG nhà nước hoặc nhà nước tài trợ, hoặc cho các tổ chức bảo hiểm vay vốn khi gặp khó khăn, Hoặc nhà nước có chính sách ưu tiên về thuế đối với các tổ chức BHTG trông thời gian đầu mới thành lập v. v. . . Bốn là: Cần tiếp tục phát triển hoạt động BHTG của Bảo Việt đối với quỹ tín dụng nhân dân. Bao gồm triển khai hoạt động bảo hiểm cho tất cả các quỹ tín dụng nhân dân trên mọi miền đất nước; Hoàn thiện quy chế bảo hiểm trên tất cả các phương tiện cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay. Tóm lại, dù là giải pháp vi mô hay vĩ mô chúng ta cần phải tạo cho thị trường bảo hiểm tiền gửi những ưu thế hơn so với thị trường khác và có sân chơi lành mạnh cho chúng hoạt động. cHƯƠNG III: MộT Số KIếN NGHị NHằM PHáT TRIểN thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam. I. NHữNG THUậN LợI KHI TRIểN KHAI bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam Cũng như các loại hình bảo hiểm khác, bảo hiểm tiền gửi mặc dù mới triển khai ở Việt Nam nhưng nó cũng có một số thuận lợi sau: Thứ nhất: nó được đông đảo người gửi tiền ủng hộ vì nó tạo ra sự an tâm cho những người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng và làm lá chắn cho họ khi xảy ra rủi ro tín dụng . Đặc biệt là những tổ chức tín dụng vừa mới được thành lập, vẫn còn non trẻ, chưa có uy tín trên thị trường thì nhu cầu tham gia bảo hiểm tiền gửi càng cao. Thứ hai: như chúng ta đã biết Việt Nam là một nước có hệ thống tổ chức tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân rộng khắp trên cả nước và số lượng tương đối lớn. Vì vậy bảo hiểm thị trường ra đời thu hút một lượng lớn các quỹ tín dụng nhân dân và các tín dụng tổ chức này tham gia. Đây là một thị trường có sức hút lớn có khả năng lôi kéo một số lượng khách hàng hiện tại cũng như tiềm năng khá lớn. Thứ ba: khi đất nước phát triển càng mạnh thì nhu cầu bảo hiểm nói chung và nhu cầu bảo hiểm tiền gửi nói riêng ngày càng gia tăng, do họ thấy rõ được vai trò và tác dụng của bảo hiểm thị trường là bảo vệ người gửi tiền và bảo đảm cho các tổ chức tín dụng hoạt động có hiệu quả hơn. Thứ tư: bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước khác trên thế giới, vì vậy chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm của họ, tiếp thu những cái tinh hoa nhất và biết sàng lọc những điểm bất hợp lý. Thứ năm: mặt khác bảo hiểm tiền gửi của ta là một tổ chức tín dụng của Nhà nước, hoạt động dưới sự điều tiết của thủ tướng chính phủ, được Nhà nước cấp vốn điều lệ, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, đảm bảo an toàn vốn và tự bù đắp chi phí, được miễn nộp thuế. Chính vì được sự ưu đãi lớn của chính phủ dành cho nên các tổ chức bảo hiểm tiền gửi có một lợi thế hơn hẳn so vơí các loậi hình bảo hiểm khác. II. NHững khó khăn khi triển khai bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam Bên cạnh những thuận lợi thì việc triển khai bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam cũng gặp phải những khó khăn: Như chúng ta đã biết loại hình bảo hiểm tiền gửi ở nước ta còn rất mới mẻ và non trẻ nên đội ngũ cán bộ trong ngành bảo hiểm tiền gửi chưa có trình độ chuyên môn cao (chủ yếu là cán bộ chuyển từ ngành ngân hàng sang), số lượng người hiểu biết về nghiệp vụ này quá ít. Do đó khi triển khai nghiệp vụ này, chúng ta đã gặp nhiều khó khăn và lúng túng trong khâu quản lý và thực hiện. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng của ta chưa thấy hết được tác dụng của bảo hiểm tiền gửi, họ cho rằng việc tham gia bảo hiểm tiền gửi sẽ làm tăng chi phí trung gian (không tính chi phí đầu vào). Vì vậy hiện nay mặc dù số các tổ chức tín dụng trong cả nước khá lớn nhưng số lượng các tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi là rất ít. Họ chỉ nghĩ tới lợi ích trước mắt mà không nghĩ tới lợi ích lâu dài. Do đó, chúng ta phải có biện pháp để khuyến khích họ tham gia nhiều hơn. Thêm vào đó, bảo hiểm tiền gửi chưa hình thành một hệ thống luật riêng đồng bộ, mà nó mới chỉ được điều chỉnh bởi "luật tổ chức tín dụng ", nghị định 89 /1999/NĐ- CP về bảo hiểm tiền gửi và một số thông tư khác nhưng chưa được quy định cụ thể, rõ ràng, và phạm vi quá hẹp, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên khi thực hiện vẫn còn tạo ra nhiều khe hở dẫn tới nhiều hiện tượng tiêu cực như: -Sự liều lĩnh sau khi được bảo hiểm, đó là tình trạng người đóng bảo hiểm (trong trường hợp này là các tổ chức tín dụng) sẽ trở nên bất cẩnvà dễ dàng thực hiện hành vi có độ rủi ro cao vì nghĩ rằng, mọi rủi ro sẽ được cơ quan bảo hiểm gánh chịu và đền bù. -Tiếp đến chúng ta phải kể đến là sự lựa chọn ngược, hiện tượng mà trong đó những người bất cẩn có nhiều hành vi rủi ro lại muốn tham gia bảo hiểm hơn so với người cẩn trọng. Từ đó sẽ thu hút các doanh nhân có máu mạo hiểm, liều lĩnh tham gia vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó dẫn đến tình trạng cào bằng giữa tổ chức tín dụng tốt, hiệu quả với tổ chức tín dụng yếu kém. -Hiện nay còn xuất hiện hiện tượng lách luật, né tránh giới hạn bảo hiểm tối đa dưới hình thức người gửi tiền tự mình hoặc nhờ tổ chức tín dụng hoặc một bên thứ ba chia nhỏ số tiền đem gửi đi nhiều nơi sao cho mỗi phần tương ứng với mức tối đa được bảo hiểm. Hiện tượng này làm tăng gánh nặng tài chính cho bảo hiểm tiền gửi và liều lĩnh của người gửi tiền. III. một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam Ngày nay, hội nhập quốc tế đã và đang là một xu thế tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của các nước nói chung và nước ta nói riêng. Trong những năm qua, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao, thương mại với nhiều nước trên thế giới đạc biệt là việc ra nhập tổ chức quốc tế như ASEAN, APEC. . . Trong điều kiện đó, bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tiền gửi nói riêng phải chuẩn bị mọi tiền đề đủ mạnh về tài chính, kỹ thuật, con người. . . nhằm góp phần phát triển kịp với thị trường bảo hiểm tiền gửi của thế giới. Do ngành bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam mới thành lập, khả năng tài chính và kinh nghiệm còn hạn chế. Là một sinh viên với kiến thức và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế em xin đưa ra một số kiến nghị sau: Tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cần có tổ chức mạng lưới ở các địa phương. Trước mắt nên có ở từng khu vực và lâu dài nên có ở tất cả các tỉnh (đủ số lượng và mạnh về chất lượng) để có thể thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình (theo uỷ quyền) với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi ở các địa phương. Ngân hàng nhà nước tỉnh cần chấm dứt vai trò làm thay những tác nghiệp cụ thể của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Nghị định 89 /1999 / NĐ- CP và thông tư 03 /2000/TTNH7 nên sửa đổi bổ sung một số nội dung cơ bản sau: -Đối tượng thuộc diện điều chỉnh của NĐ này ngoài cá nhân còn có pháp nhân. -Không chỉ bảo hiểm tiền gửi là đồng Việt Nam mà cả ngoại tệ. -Mức phí bảo hiểm nên chăng có nhiều mức khác nhau áp dụng cho các loại hình tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. -Mức được bảo hiểm trả cho đồng nội tệ và ngoại tệ của một cá nhân và pháp nhân của tất cả những loại tiền gửi có kỳ hạn sẽ được tính theo tỷ lệ phần trăm, số còn lại sẽ được bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tiếp tục hoàn trả trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản phù hợp với quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp. Trên đây là một vài kiến nghị của bản thân em qua quá trình nghiên cứu đề tài này, tuy chưa nhiều vì vậy em rất mong được thầy cô góp ý nhằm hoàn thiện thêm kinh nghiệm, kiến thức cho bản thân. Kết luận Thị trường bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam ra đời và phát triển mới chỉ được một năm nhưng nó được rất nhiều người quan tâm. Đây là một sự kiện quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói riêng vàc đóng góp vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế đất nước nói chung. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi hết sức quan trọng bảo vệ người gửi tiền, đảm bảo cho các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn và lành mạnh, mặt khác nó không chỉ đem lại lợi ích cho công chúng, doanh nghiệp, ngân hàng, mà còn cho cả quỹ tín dụng. Ngoài những vai trò to lớn và những thuận lợi của bảo hiểm tiền gửi, chúng ta không thể phủ nhận rằng khi triển khai nhgiềp vụ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam chúng ta gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu những kiến thức lý thuyết vững vàng để có thể vận dụng nó một cách khôn khéo, linh hoạt và năng động trong mọi tình huống góp phần phát triển thị trường bảo hiểm tiền gửi trong nước. Qua nghiên cứu đề tài này, chúng ta thấy thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam hiện nay mới ở giai đoạn đầu, thị trường diễn biến phức tạp cùng với sự phát triển không ổn định của thị trường tài chính-tiền tệ nhưng thị trường tiềm năng của nó lại khá lớn. Do đó chúng ta phải phát triển thị trường này sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh kinh tế của đất nước và tiến tới đưa thị trường bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát triển ngang bằng với thị trường bảo hiểm tiền gửi thế giới. mục lục Lời mở đầu 1 Chương I: Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm tiền gửi 2 I. Giới thiệu chung về bảo hiểm tiền gửi 2 1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm tiền gửi 2. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi 3 3. Sơ lược về lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm tiền gửi 4 II. Nội dung của bảo hiểm tiền gửi 5 1. Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi 5 2. Phạm vi của bảo hiểm tiền gửi 5 3. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm 8 4. Các hình thức của BHTG 9 Chương II:Thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 11 I. Tính tất yếu khách quan khách quan hình thành thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 11 II. Thực trạng thị trường bảo hiểm thị trường ở Việt Nam 12 Thực trạng thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 12 1. Nội dung hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi áp dụng tại Việt Nam 14 2. Những điểm còn tồn đọng trong thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 17 3. Kinh nghiệm hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở một số nước trên thế giới và định hướng tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 18 4. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hiểm tiền gửi 24 Chương III: Một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 27 I. Thuận lợi khi triển khai bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 27 II. Khó khăn khi triển khai bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 28 III. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bảo hiểm tiền gửi 29 Kết luận 33 tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế bảo hiểm - Nhà xuất bản thống kê 2. Tạp chí kinh tế phát triển 3. Luật các tổ chức tín dụng 4. Nghị định 89/NĐ-CP về bảo hiểm tiền gửi 5. Tạp chí ngân hàng 6. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ 7. Tạp chí thị trường tài chính 8. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan