Tài liệu Luận văn Vai trò và nội dung của hoạt động xuất khẩu
95 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1023 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vai trò và nội dung của hoạt động xuất khẩu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đề Tài:
VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG CỦA
HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 1
CHƯƠNG I
VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.
I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.
1. Khái niệm
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho
một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền
tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia.
Cơ sở của hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động mua bán trao
đổi hàng hoá giữa các nước. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có
lợi thì các quốc gia đều quan tâm và mở rộng hoạt động này.
Thực tế cho thấy, nếu mỗi quốc gia chỉ đóng cửa nền kinh tế của
mình, áp dụng phương thức tự cung tự cấp thì không bao giờ có cơ hội để
vươn lên, củng cố thế lực của mình trên trường quốc tế và nâng cao đời sống
nhân dân.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương
đã xuất hiện rất lâu đời và ngày càng phát triển. Tuy hình thức cơ bản là trao
đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các nước nhưng hiện nay nó đã được biêủ hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế,
từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến xuất khẩu hàng hoá phục vụ sản
xuất, từ máy móc thiết bị cho đến các công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các
hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu là đem lại lợi ích cho các quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về điều kiện
không gian lẫn điều kiện thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong một hai ngày
hoặc kéo dài hàng năm, có thể được tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một
quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau.
2.TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
Hoạt động xuất khẩu là một tất yếu của mỗi quốc gia trong quá trình
phát triển kinh tế. Do những điều kiện khác nhau, mỗi quốc gia có thế mạnh
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 2
về lĩnh vực này nhưng lại yếu về lĩnh vực khác. Để có thể dung hoà được
nguy cơ và lợi thế, tạo ra được sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu
dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi với nhau, bán những gì mình thừa
và những gì mình thiếu.
Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu không nhất thiết chỉ diễn ra giữa
những quốc gia có lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác mà các quốc gia
thua thiệt hơn về tất cả các điều kiện như: nhân lực, tài chính, tài nguyên
thiên nhiên, công nghệ… thông qua hoạt động trao đổi thương mại quốc tế
cũng sẽ thu được những lợi ích, tạo điều kiện phát triển nền kinh tế nội địa.
Tính tất yếu của hoạt động xuất khẩu đã được chứng minh rất rõ qua
lý thuyết về lợi thế so sánh của nhà kinh tế học David Ricardo.
Theo quy luật lợi thế so sánh, nếu một nước có hiệu quả thấp hơn so
với các nước khác trong việc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm vẫn cần
phải tham gia hoạt động thương mại quốc tế vì có thể tạo ra lợi ích không
nhỏ mà nếu bỏ qua quốc gia có thể mất cơ hội phát triển. Nói cách khác,
trong những điểm bất lợi nhất vẫn có thể tìm ra điểm có lợi để khai thác. Khi
tiến hành xuất khẩu, một quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra tất
cả các loại hàng hoá sẽ có thể chuyên môn hoá vào sản xuất loại hàng hoá ít
bất lợi nhất để trao đổi với các quốc gia khác và nhập về những loại hàng
hoá mà việc sản xuất nó là bất lợi nhất để tiết kiệm được các nguồn lực của
mình và thúc đẩy sự phát triển của sản xuất trong nước…
Mô hình của nhà kinh tế David Ricardo với các giả thiết được đơn giản
hoá như sau:
+ Thế giới chỉ có hai nước chẳng hạn là Việt Nam và Mỹ. Hai quốc gia
này chỉ sản xuất hai chủng loại hàng hoá là vải và máy vi tính. Mỗi quốc gia
chỉ có lợi thế về sản xuất một mặt hàng. Mỹ có lợi thế về sản xuất máy vi
tính và Việt Nam có lợi thế sản xuất vải.
+ Yếu tố sản xuất duy nhất là lao động có thể tự do di chuyển trong một
nước.
+ Công nghệ sản xuất của Mỹ và Việt Nam là cố định.
+ Chi phí sản xuất, không phát sinh các chi phí khác.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 3
Bảng 1: Lợi thế so sánh giữa hai quốc gia Việt Nam và Mỹ.
Quốc gia
Mặt hàng
Việt Nam
Mỹ
Vải( m/giờ công ) 2 4
Máy tính( chiếc/giờ công ) 1 6
Số liệu bảng 1 cho thấy:
Mỹ có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam trong sản xuất cả hai mặt hàng
là vải và máy tính. Tuy nhiên nếu phân tích cụ thể thì khi năng suất lao
động ở ngành chế tạo máy tính của Mỹ gấp 6 lần Việt Nam, năng suất của
ngành dệt chỉ gấp có hao lần. Như vậy giữa chế tạo máy tính và sản xuất vải
thì Việt Nam có lợi thế tương đối trong sản xuất vải. Theo quy luật lợi thế so
sánh thì hai quốc gia sẽ cùng có lợi nếu đi sâu vào chuyên môn hoá sản xuất
một loại sản phẩm( Mỹ chế tạo máy tính, Việt Nam sản xuất vải )và sau đó
hai quốc gia tiến hành trao đổi ngoại thương, đổi một phần vải lấy một phần
máy tính.
Nếu tiến hành trao đổi 6 chiếc máy tính lấy 4 mét vải thì Mỹ sẽ chẳng có
lợi gì vì ngay trong thị trường nội địa của Mỹ cũng trao đổi theo tỷ lệ này.
Tương tự như vậy, nếu trao đổi theo tỷ lệ 2 mét vải lấy một chiếc máy
tính thì Việt Nam cũng sẽ từ chối vì lợi ích ngoại thương không hơn gì trao
đổi trong nước. Do đó, tỷ lệ trao đổi quốc tế phải nằm trong khoảng mà có
thể đem lại lợi ích cho cả hai nước, tức là:
4/6 < Tỷ lệ trao đổi quốc tế Vải/Máy tính < 2/1
Giả sử tỷ lệ trao đổi quốc tế là 1/1 tức là 6 máy tính đổi lấy 6 mét vải.
qua trao đổi này, ta thấy Mỹ có lợi 2 mét vải, tức là tiết kiệm được 1/2 giờ
công. Còn Việt Nam nhận được 6 chiếc máy tính từ Mỹ mà bình thường
Việt Nam phải bỏ ra 6 giờ công để sản xuất. Nếu dùng 6 giờ công này để dệt
thì có thể tạo ra 12 mét vải, như vậy Việt Nam có lợi 6 mét vải hay tiết
kiệm được 3 giờ công.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 4
Qua phân tích ví dụ trên cho thấy hoạt động trao đổi thương mại quốc tế
đã mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia, thông qua việc xuất khẩu những
hàng hoá có lợi thế tương đối và nhập khẩu những hàng hoá không có lợi thế
tương đối. Sự chuyên môn hoá trong sản xuất và trao đổi những hàng hoá sẽ
sử dụng tốt nhất những lợi thế của quốc gia mình, giúp tiết kiệm được những
nguồn lực vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên…trong quá trình sản xuất
hàng hoá phục vụ cho xuất khẩu. Bên cạnh đó cũng làm tăng số lượng và
chất lượng sản phẩm của thế giới tạo điều kiện cho khả năng tiêu dùng của
con người.
3. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.
3.1 Đối với một nền kinh tế
Là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại,
xuất khẩu đã trở thành phương tiện để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Sự tăng trưởng kinh tế đòi hỏi các điều kiện: nhân lực, tài nguyên, vốn
và công nghệ. Song hầu hết các nước đang phát triển và chậm phát triển đều
nằm trong tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ và thừa lao động. Những
yếu tố cơ bản này trong nước chưa có khả năng đáp ứng thì buộc phải nhập
khẩu từ bên ngoài song muốn nhập khẩu được thì phải có ngoại tệ.
Thực tiễn đã xác định xuất khẩu là một mũi nhọn có ý nghĩa quyết
định đối với quá trình phát triển kinh tế của một đất nước. Công tác xuất
khẩu được đánh giá quan trọng như vậy là do:
+Một là, xuất khẩu đã tạo nguồn vốn chính cho nhập khẩu, phục vụ
công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá với những bước đi phù hợp là
con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Tuy nhiên,
công nghiệp hoá đòi hỏi phải có số lưọng lớn vốn để nhập khẩu những máy
móc thiết bị, công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn nhập khẩu có thể tập trung từ các hình thức như: Đầu tư
nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ xuất khẩu…Các nguồn này tuy quan
trọng nhưng sẽ phải trả dù bằng cách này hay cách khác. Như vậy, nguồn
vốn quan trọng cho nhập khẩu phần lớn trông chờ vào xuất khẩu. Xuất khẩu
quyết định quy mô và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 5
Ở những nước kém phát triển với một nguyên nhân chủ yếu là thiếu
tiềm lực về vốn trong quá trình phát triển, nguồn vốn huy động từ nước
ngoài được coi là cơ sở chính nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ của
nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người
cho vay thấy được khả năng trả nợ của đất nưóc, trong đó họ rất chú trọng
tới hoạt động xuất khẩu.
+ Hai là, xuất khẩu đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu nền
kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ nông
nghiệp sang công nghiệp phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thế
giới là tất yếu đối với tất cả các nước kém phát triển.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
- Xuất khẩu chỉ tiêu thụ những sản phẩm thừa so với nhu cầu nội địa.
Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ
bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự “ thừa ra ” của sản
xuất thì xuất khẩu chỉ ở quy mô nhỏ và tăng trưởng chậm.
- Coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất.
Quan điểm này còn tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy sản xuất phát triển, thể hiện ở chỗ:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. Ví
dụ: Khi phát triển ngành dệt phục vụ xuất khẩu thì các ngành chế biến
nguyên liệu như: bông, may mặc… cũng có cơ hội phát triển theo.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp
phần ổn định sản xuất.
Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo ra vốn và thu hút khoa
học công nghệ mới từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội
địa, tạo ra năng lực sản xuất mới.
Hoạt động xuất khẩu đóng vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng
cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Khoa học ngày càng phát triển
thì phân công lao động ngày càng sâu sắc. Ngày nay, với một loại hàng hoá
người ta có thể thiết kế ở nước thứ nhất, chế tạo ở nước thứ hai, lắp đặt ở
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 6
nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và thanh toán cũng có thể ở nước khác.
Như vậy, hàng hoá sản xuất ra ở một nước nhưng có thể tiêu thụ ở nhiều
nước khác nhau cho thấy tác động ngược trở lại của hoạt động xuất khẩu đối
với chuyên môn hoá sản xuất, tạo điều kiện cho các quốc gia tiến hành
chuyên môn hoá một cách sâu sắc.
Với các đặc điểm của đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một
hoặc cả hai bên, xuất khẩu góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Đặc
biệt đối với những nước nghèo, đồng tiền có giá trị thấp, thì đó là nhân tố tác
động rất tích cực tới cung cầu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nền sản xuất trong
nước phát triển. Thực tế đã chứng minh, những nước phát triển là những
nước có nền ngoại thương mạnh và năng động.
Hoạt động xuất khẩu với nhiều hình thức ngày càng đa dạng thể hiện
sự phát triển của phân công lao động quốc tế. Vì vậy, nó đã chiếm lĩnh vị trí
trung tâm trong các hoạt động kinh tế đối ngoại và thực hiện những chức
năng cơ bản sau đây:
- Lưu thông hàng hoá giữa thị trường trong nước với thị trường nước
ngoài.
- Tạo các nguồn lực từ bên ngoài, chủ yếu là vốn và công nghệ để
phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Xuất khẩu hàng hoá mang lại nguồn
ngoại tệ cho đất nước, là nguồn vốn quan trọng cho công nghiệp hoá và hiện
đại hoá đất nước. Trong khi đó, nhập khẩu tạo điều kiện cho việc tiếp nhận
những dây chuyền công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, làm tăng hiệu quả sản xuất
trong nước.
- Xuất khẩu có thể làm thay đổi cơ cấu vật chất của tổng sản phẩm xã
hội và tổng thu nhập quốc dân nhằm thích ứng với nhu cầu tiêu dùng và tích
luỹ.
- Xuất khẩu còn làm tăng hiệu quả của nền kinh tế bằng việc tạo ra
một mội trường kinh doanh thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh, tăng khả
năng khai thác lợi thế của một quốc gia.
+ Ba là, xuất khẩu tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm
và cải thiện đời sống nhân dân.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 7
Tác động của xuất khẩu ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực của cuộc
sống. Sản xuất hàng hoá xuất khẩu sẽ thu hút hàng triệu lao động vào làm
việc, tạo ra thu nhập ổn định, đồng thời tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật
phẩm tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của nhân dân.
+ Bốn là, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại
của nước ta trên cơ sở vì lợi ích của các bên, đồng thời gắn liền sản xuất
trong nước với quá trình phân công lao động quốc tế. Xuất khẩu là một trong
những nội dung chính trong chính sách kinh tế đối ngoại của nước ta với các
nước trên thế giới vì mục tiêu dân giàu nước mạnh.
Như vậy, có thể nói đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo ra động lực cần thiết
giải quyết những vấn đề thiết yếu của nền kinh tế. Điều này nói lên tính
khách quan của việc tăng cường xuất khẩu trong quả trình phát triển kinh tế.
3.2 Đối với một doanh nghiệp
Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia
và tiếp cận vào thị trường thế giới. Nếu thành công đây sẽ là cơ sở để các
doanh nghiệp mở rộng thị trường và khả năng sản xuất của mình.
Xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần sẽ góp phần đẩy mạnh liên doanh liên kết giữa các doanh
nghiệp trong và ngoài nước một cách tự giác, mở rộng quan hệ kinh doanh,
khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hiện có, giải quyết công ăn
việc làm cho người lao động.
Sản xuất hàng hoá xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều
lao động vào làm việc tạo ra thu nhập ổn định, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu
nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng hoá, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Khi tham gia vào kinh doanh quốc tế tất yếu sẽ đặt các doanh nghiệp
vào một môi trường cạnh tranh khốc liệt mà ở đó nếu muốn tồn tại và phát
triển được thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất
lượng, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm. Đây sẽ là một nhân tố thúc
đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 8
II. NỘI DUNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT
KHẨU MẶT HÀNG MÂY TRE ĐAN
1. Nội dung của hoạt động xuất khẩu
Chúng ta đều biết rằng, xuất khẩu là việc bán sản phẩm hàng hoá sản
xuất trong nước ra thị trường nước ngoài. So với hoạt động buôn bán trong
nước thì nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố phức tạp hơn do phải thực
hiện trong môi trường kinh doanh quốc tế. Vì vậy, nó được tổ chức thực hiện
với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu: từ nghiên cứu thị trường nước ngoài, lựa
chọn hàng hoá xuất khẩu, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng, tổ chức thực
hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá đến cảng và chuyển giao quyền sở hữu
cho người mua, hoàn thành thủ tục thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ đều
phải nghiên cứu kỹ lưỡng và đặt trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm
bắt được các lợi thế nhằm đảm bảo xuất khẩu đạt hiệu quả cao nhất.
1.1 Nghiên cứu thị trường quốc tế
Có thể nói, đây là hoạt động đầu tiên cần tiến hành hết sức cẩn thận,
chu đáo. Nghiên cứu thị trường tốt tạo khả năng cho các nhà kinh doanh
nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự
biến đổi nhu cầu cung cấp và giá cả hàng hoá đó trên thị trường, giúp cho họ
giải quyết được những vấn đề thực tiễn kinh doanh, theo yêu cầu thị trường,
khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá.
Công việc này bao gồm:
a) Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới:
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu
thông hàng hoá, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó có thị
trường.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới phải bao gồm việc nghiên cứu
toàn bộ quá trình sản xuất của một ngành sản xuất cụ thể, tức là việc ngiên
cứu không chỉ giới hạn ở lĩnh vực lưu thông mà cả ở lĩnh vực sản xuất, phân
phối và tiêu dùng hàng hoá. Những biến đổi trong quá trình tái sản xuất của
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 9
một ngành sản xuất hàng hoá cụ thể được biểu hiện tập trung trong lĩnh vực
lưu thông hàng hoá đó.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá nhằm đem lại sự hiểu biết về quy luật
vận động của chúng. Mỗi thị trường hàng hoá cụ thể có quy luật vận động
riêng, quy luật đó được thể hiện qua những biến đổi nhu cầu, cung cấp và
giá cả hàng hoá trên thị trường, nắm chắc các quy luật của thị trường hàng
hoá để vận dụng giải quyết hàng loạt các vấn đề của thực tiễn kinh doanh
liên quan ít nhiều đến vấn đề thị trường như thái độ tiếp thu của người tiêu
dùng, yêu cầu của thị trường đối với hàng hoá các ngành tiêu thụ mới, các
hình thức và biện pháp thâm nhập thị trường.
Trong nghiên cứu thị trường thế giới, đặc biệt khi muốn kinh doanh
xuất khẩu thành công, điều không thể thiếu được là phải nhận biết sản phẩm
xuất khẩu có phù hợp với thị trường và năng lực của doanh nghiệp hay
không.
Muốn vậy, ta phải xác định các vấn đề sau:
- Thị trường cần mặt hàng gì?
- Tình hình tiêu dùng mặt hàng đó như thế nào?
- Mặt hàng ở thời kỳ nào của chu kỳ sống?
- Tình hình sản xuất mặt hàng đó như thế nào?
- Tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng đó?…
b) Dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng:
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên
một phạm vi thị trường nhất định. Nhưng nó không xác định mà thay đổi
tình hình theo những nhân tố tổng hợp theo những giai đoạn nhất định. Có
thể chia làm ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đối với dung lượng thị trường.
+Nhóm 1: Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi có tính
chất chu kỳ như sự vận động của tình hình kinh tế của các nước trên thế giới,
đặc biệt là các nước phương Tây, tính chất thời vụ trong quá trình sản xuất,
phân phối và lưu thông hàng hoá.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 10
+Nhóm 2: Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi của dung
lượng thị trường như tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, các biện pháp,
các chế độ chính sách của Nhà nước, thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng
và ảnh hưởng của hàng hoá thay thế…
+Nhóm 3: Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời tới dung lượng thị trường.
Nhóm nhân tố này có thể kể ra như: hiện tượng đầu cơ trên thị trường gây ra
những biến đổi về cung cầu, bão lụt hạn hán… cũng có thể gây ra những
biến đổi về cung cầu đối với những loại hàng hoá nhất định.
Như vậy, khi nghiên cứu thị trường các loại hàng hoá khác nhau phải
căn cứ vào đặc điểm của chúng để đánh giá đúng ảnh hưởng của các nhân tố,
xác định nhân tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới xu hướng vận động của
thị trường trong giai đoạn hiện tại và tương lai. Đặc biệt, trong kinh doanh
quốc tế nói chung và kinh doanh xuất khẩu nói riêng, việc nắm vững dung
lượng thị trường giúp cho các nhà kinh doanh cân nhắc để đề ra những quyết
định kịp thời chính xác, nhanh chóng chớp lấy thời cơ, nhằm đạt được hiệu
quả cao nhất trong kinh doanh.
Cùng với việc nghiên cứu dung lượng thị trường, người kinh doanh
còn phải nắm được nhiều thông tin khác như: tình hình kinh doanh các mặt
hàng đó trên thị trường, các đối thủ cạnh tranh của mình. Quan trọng hơn
nữa là phải nắm và hiểu được các điều kiện chính trị, luật pháp, văn hoá, tập
quán buôn bán ở từng khu vực để có thể hoà nhập với thị trường, nhằm giảm
tối đa những sơ xuất trong giao dịch kinh doanh.
c) Lựa chọn đối tác buôn bán:
Mục đích của hoạt động này là lựa chọn bạn hàng sao cho công tác
kinh doanh an toàn và có lợi. Nội dung cần thiết để nghiên cứu lựa chọn đối
tác bao gồm:
- Quan điểm kinh doanh của thương nhân đó.
- Lĩnh vực kinh doanh của họ.
- Khả năng vốn và cơ sở vật chất của họ.
- Uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 11
- Những người được uỷ quyền và phạm vi chịu trách nhiệm của họ
đối với nghĩa vụ của công ty.
Lựa chọn đối tác giao dịch để xuất khẩu tốt nhất nên chọn những
người nhập khẩu trực tiếp, hạn chế các hoạt động trung gian vì nó chỉ thích
hợp khi thâm nhập thị trường mới, mặt hàng mới… cần nắm bắt các thông
tin thị trường. Có thể nói, việc lựa chọn đối tác giao dịch có căn cứ khoa học
là điều kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi các hoạt động mua bán trong
thương mại quốc tế. Song việc lựa chọn đối tác giao dịch cũng tuỳ thuộc một
phần vào kinh nghiệm của người nghiên cứu và truyền thống trong mua bán
của mình.
d) Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới:
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời biểu hiện
một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền
kinh tế quốc dân như: quan hệ cung cầu hàng hoá, tích luỹ tiêu dùng…giá cả
luôn gắn liền với thị trường và chịu tác động của nhiều nhân tố. Trong kinh
doanh quốc tế, giá cả thị trường càng trở nên phức tạp do buôn bán ở các
khu vực khác nhau, thời gian dài hơn, hàng vận chuyển qua nhiều nước với
các chính sách thuế khác nhau. Để thích ứng với sự biến động của thị
trường, các nhà kinh doanh tốt nhất là thực hiện định giá linh hoạt, phù hợp
với mục đích cơ bản của doanh nghiệp.
Thông thường việc định giá dựa vào:
- Giá thành sản xuất sản phẩm.
- Sức mua và nhu cầu của người tiêu dùng.
- Giá cả các hàng hoá cạnh tranh.
Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải xem xét đến các quy định của
chính phủ nước chủ nhà và nước xuất khẩu để có thể định giá sản phẩm đáp
ứng đòi hỏi của các quy định này.
Khi định giá cần tuân thủ các bước:
- Bước 1: Phân tích chi phí.
- Bước 2: Phân tích, dự đoán thị trường.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 12
- Bước 3: Vùng giá và các mức giá dự kiến.
- Bước 4: Lựa chọn giá tối đa.
- Bước 5: Xác định cơ cấu giá.
- Bước 6: Báo giá cho khách hàng.
Nghiên cứu giá cả được coi là vấn đề chiến lược vì nó ảnh hưởng trực
tiếp tới sức tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp. Định giá đúng sẽ đem lại
thắng lợi cho nhà xuất khẩu, tránh cho họ những rủi ro và thua lỗ.
e) Thanh toán trong thương mại quốc tế:
Thanh toán quốc tế là một khâu rất quan trọng trong kinh doanh xuất
nhập khẩu hàng hoá. Hiệu quả kinh tế trong kinh doanh xuất khẩu phần
nhiều nhờ vào sự lựa chọn phương thức thanh toán. Thanh toán là bước đảm
bảo cho người xuất khẩu thu được tiền và người nhập khẩu nhận được hàng.
Thanh toán quốc tế có thể hiểu đó là việc chi trả những khoản tiền tệ,
tín dụng có liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hoá đã được thoả thuận
trong hợp đồng kinh tế. Trong xuất khẩu hàng hoá việc thanh toán phải xem
xét đến các vấn đề:
- Tiền tệ trong thanh toán quốc tế: Việc sử dụng tiền tệ nào được hai
bên thoả thuận và được ghi rõ trong hợp đồng. Đồng tiền được
chọn thường là tiền tệ có khả năng chuyển đổi cao và ổn định.
Ngoài ra còn cần phải xác định tỷ giá dùng trong thanh toán và
thời điểm xác định tỷ giá để tránh được những rủi ro và tranh chấp
có thể xảy ra sau này.
- Địa điểm thanh toán: Có thể ở nước người nhập khẩu hoặc ở nước
người xuất khẩu hoặc ở nước thứ ba. Nhưng trong thực tế việc xác
định địa điểm thanh toán là do sự so sánh lực lượng giữa hai bên
quyết định, đồng thời cũng còn thấy rằng dùng đồng tiền thanh
toán của nước nào thì địa điểm thanh toán thương ở nước ấy.
- Thời hạn thanh toán: Trong thanh toán quốc tế, điều kiện thời hạn
thanh toán trong các nghiệp vụ ngoại thương là phức tạp hơn cả,
thường theo các cách sau: thanh toán trước khi giao hàng( CBD ),
thanh toán khi giao hàng( COD ), thanh toán ngay sau khi giao bộ
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 13
chứng từ( CAD ), thanh toán sau khi giao hàng… tuỳ thuộc vào
mối quan hệ làm ăn giữa các bên và điều kiện của người bán cũng
như người mua mà có thể chọn một trong các cách đó hay cũng có
thể vận dụng kết hợp các kiểu thanh toán đó.
- Phương thức thanh toán: tức là chỉ người bán dùng cách nào để
thu tiền về, người mua dùng cách nào để trả tiền. Trong buôn bán,
người ta có thể lựa chọn nhiều phương thức thanh toán khác nhau
để thu tiền về hoặc trả tiền, nhưng xét cho cùng việc lựa chọn
phương thức nào cũng đều xuất phát từ yêu cầu của người bán là
thu tiền nhanh, đầy đủ, đúng và yêu cầu của người mua là nhập
hàng đúng số lượng, chất lượng, đúng hạn. Các phương thức thanh
toán thường dùng trong ngoại thương gồm:
+ Phương thức chuyển tiền: là phương thức mà trong đó khách
hàng( người trả tiền )yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một
số tiền nhất định cho một người khác( người hưởng lợi )ở một
địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng
yêu cầu. Có thể chuyển tiền bằng điện, bằng thư…
+ Phương thức ghi sổ: Người bán mở một tài khoản( hoặc một
quyển sổ ) để ghi nợ người mua sau khi người bán đã hoàn
thành giao hàng hay dịch vụ, đến từng định kỳ( tháng, quý,
năm) người mua trả tiền cho người bán.
+ Phương thức nhờ thu: Người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ cho khách hàng thì uỷ
thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ
sở hối phiếu của người bán lập ra. Nhờ thu có hai loại là nhờ
thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
+ Phương thức tín dụng chứng từ: là một sự thoả thuận, trong
đó một ngân hàng( ngân hàng mở thư tín dụng )theo yêu cầu
của khách hàng( người yêu cầu mở thư tín dụng )sẽ trả một số
tiền nhất định cho một người khác( người hưởng lợi số tiền của
thư tín dụng )hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 14
trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân
hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định
đề ra trong thư tín dụng.
+ Phương thức thư uỷ thác mua( Authority to purchase, viết tắt
là A/P )
+ Thư đảm bảo trả tiền( Letter of Guarantee-L/G )
+ Thanh toán qua tài khoản treo ở nước ngoài(Escrow Account)
1.2 Lập phương án kinh doanh
Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu thị
trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án
này là kế hoạch hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt tới những mục tiêu
xác định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương án này bao gồm:
+ Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, phác hoạ bức tranh
tổng quát về hoạt động kinh doanh và những thuận lợi khó khăn.
+ Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.
Sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có
liên quan.
+ Đề ra mục tiêu cụ thể: khối lượng, giá bán, thị trường xuất khẩu. Đề
ra và thực hiện các biện pháp để đạt được mục tiêu đó. Những biện pháp này
bao gồm : đầu tư vào cải tiến bao bì, ký kết hợp đồng kinh tế, quảng cáo,
tham gia hội chợ quốc tế, mở rộng đại lý…
+ Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua các
chỉ tiêu chủ yếu như: Tỷ suất ngoại tệ, thời gian hoàn vốn, tỷ suất doanh lợi,
điểm hoà vốn…
1.3 Nguồn hàng cho xuất khẩu
Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một công ty hoặc một
địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và bảo đảm điều
kiện xuất khẩu được. Khi nói đến nguồn hàng cho xuất khẩu phải gắn với
một địa danh cụ thể, không thể nói đến một nguồn hàng chung chung, không
phải là của ai, có đảm bảo chất lượng quốc tế hay không. Do vậy, không
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 15
phải toàn bộ khối lượng hàng hoá của một đơn vị, một công ty, một địa
phương, một vùng đều là nguồn hàng cho xuất khẩu mà chỉ một phần hàng
hoá đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu mới là nguồn hàng cho xuất khẩu.
Một nguồn hàng xuất khẩu mạnh là rất quan trọng đối với doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh xuất khẩu vì nó góp phần đáp ứng kịp thời, chính xác nhu
cầu thị trường, thực hiện đúng hợp đồng với chất lượng tốt. Vì vậy, công
việc tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một công việc rất quan trọng đối với
mỗi doanh nghiệp.
Để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, các doanh nghiệp có thể đầu tư trực
tiếp hoặc gián tiếp cho sản xuất, có thể là thu gom hoặc có thể ký kết hợp
đồng mua với các chân hàng, các đơn vị sản xuất. Tuỳ theo đặc điểm của
ngành hàng mà người ta có thể tự sản xuất hoặc ký hợp đồng mua kết hợp
với việc hướng dẫn kỹ thuật.
Công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu bao gồm các công
đoạn:
- Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu: là nghiên cứu khả năng cung cấp
hàng xuất khẩu trên thị trường như thế nào? Khả năng cung cấp hàng được
xác định bởi nguồn hàng thực tế và nguồn hàng tiềm năng. Nguồn hàng thực
tế là nguồn hàng đã có và đang sẵn sàng đưa vào lưu thông. Với nguồn hàng
này chỉ cần thu mua, phân loại, bao gói là có thể xuất khẩu được. Nguông
hàng tiềm năng là nguồn hàng chưa xuất hiện, nó có thể xuất hiện hoặc
không xuất hiện trên thị trường. Đối với nguồn hàng này các doanh nghiệp
ngoại thương phải có đầu tư, có đơn hàng, có hợp đồng kinh tế…thì người
sản xuất mới tiến hành sản xuất.
Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu là nhằm xác định chủng loại mặt
hàng, kích cỡ, mẫu mã, công dụng, chất lượng, giá cả, thời vụ, những đặc
điểm riêng của từng loại mặt hàng.
Mặt khác, nghiên cứu nguồn hàng phải xác định được giá cả trong
nước của hàng hoá so với gia cả quốc tế. Sau khi đã tính đủ chi phí vào giá
thu mua như chi phí thu mua hàng, vận chuyển, bao gói, phân loại thì lợi
nhuậnthu về là bao nhiêu.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 16
Cuối cùng, việc nghiên cứu nguồn hàng phải nắm được chính sách
quản lý của Nhà nước về mặt hàng đó. Mặt hàng đó có được phép xuất khẩu
hoặc có chính sách khuyến khích xuất khẩu hay không. Trong thực tế các
chính sách này có thể thay đổi do vậy, công tác dự báo có ý nghĩa hết sức
quan trọng.
- Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu
Hệ thống thu mua bao gồm mạng lưới các đại lý, hệ thống kho hàng ở
các địa phương, các khu vực có mặt hàng thu mua. Hệ thống thu mua phải
gắn với các phương án vận chuyển hàng hoá, với điều kiện giao thông của
các địa phương. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa thu mua và vận chuyển là cơ
sở đảm bảo tiến độ thu mua và chất lượng hàng hoá.
- Ký kết hợp đồng: Thông thường, các doanh nghiệp ngoại thương
bằng các hoạt động marketing của mình tìm được đối tác nước ngoài có nhu
cầu về một mặt hàng nào đó mà trong nước có khả năng sản xuất được rồi
ký kết hợp đồng xuất khẩu với họ sau đó mới giao dịch ký hợp đồng với các
nhà sản xuất, các chân hàng để thực hiện hợp đồng ngoại thương. Hai hợp
đồng này có nhiều điều khoản giống nhau, hợp đồng ngoại thương là cơ sở
cho hợp đồng thu mua tạo nguồn.
Tuy nhiên trong buôn bán quốc tế không phải lúc nào các doanh
nghiệp cũng tìm được khách hàng trước rồi mới tiến hành thu mua tạo nguồn
nên các doanh nghiệp có thể chủ động thu mua theo kế hoạch, đồng thời tiến
hành tìm kiếm bạn hàng để tiêu thụ hàng hoá.
- Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu: Sau khi ký kết hợp đồng
với các chân hàng và các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp ngoại thượng phải
lập kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo
các bộ phận thực hiện kế hoạch.
- Tiếp nhận, bảo quản và giao hàng cho xuất khẩu: Phần lớn các hàng
hoá trước khi xuất khẩu đều phải trải qua một số kho để phân loại, đóng gói
hoặc đợi làm các thủ tục xuất khẩu. Bảo quản hàng hoá nhằm giữ gìn hàng
hoá đủ về số lượng, chất lượng và giảm thiểu các hao hụt mất mát cho hàng
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 17
xuất khẩu. Giao hàng là khâu cuối cùng, khi giao hàng cần quan tâm tới quy
cách thủ tục giao hàng và phải có đầy đủ giấy tờ, hoá đơn hợp lệ.
1.4 Đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng:
a) Các hình thức đàm phán
Đàm phán là việc bàn bạc trao đổi với nhau về các điều kiện mua bán
giữa các nhà doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến ký kết hợp đồng.
Thường có các hình thức sau:
Đàm phán qua thư tín: ngày nay việc sử dụng hình thức này vẫn là
phổ biến để giao dịch giữa các nhà điều kiện xuất khẩu. Những cuộc tiếp xúc
ban đầu thường qua thư tín. Ngay cả sau này khi hai bên đã có điều kiện gặp
gỡ trực tiếp thì việc duy trì quan hệ cũng phải qua thư tín. Sử dụng thư tín để
giao dịch đàm phán phải luôn nhớ rằng thư là sứ giả của mình đến với khách
hàng bởi vậy, viết thư, gửi thư cần thể hiện tính lịch sự, chính xác, khẩn
trương.
Đàm phán qua điện thoại: bằng hình thức này sẽ giảm bớt thời gian,
giúp cho các nhà kinh doanh tiến hành đàm phán khẩn trương, kịp thời cơ.
Nhưng trao đổi qua điện thoại không có gì làm bằng chứng cho những thoả
thuận, quyết định nên sau khi trao đổi bằng điện thoại cần có thủ tục xác
nhận nội dung đã đàm phán.
Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp: Đây là hình thức cẩn thận, có
tác dụng đẩy nhanh tốc độ giải quyết các vấn đề mà các bên cùng quan tâm
tuy nhiên phương pháp này rất tốn kém.
Các bước tiến hành đàm phán:
+ Bước 1: Chào hàng( phát giá )là lời đề nghị ký kết hợp đồng từ phía
người bán đưa ra. Trong buôn bán thì chào hàng là việc người xuất khẩu thể
hiện ró ý định bán hàng của mình. Tuỳ vào loại đơn chào hàng nào mà
chúng có tính chất pháp lý khac nhau.
+ Bước 2: Hoàn giá là một đề nghị mới do bên nhận chào hàng đưa ra
sau khi đã nhận được đơn chào hàng của bên kia nhưng không chấp nhận
hoàn toàn giá chào hàng. Khi hoàn giá thì coi như chào hàng trước đó bị huỷ
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 18
bỏ. Trong kinh doanh quốc tế, mỗi lần giao dịch thường phải qua nhiều lần
hoàn giá mới đi đến kết thúc.
+ Bước 3: Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện chào
hàng mà phía bên kia đưa ra, khi đó tiến hành ký kết hợp đồng.
+ Bước 4: Xác nhận: sau khi hai bên đã thoả thuận với nhau về điều
kiện giao dịch thì ghi lại tất cả những điều đã thoả thuận gửi cho bên kia. Đó
là văn bản có chữ ký của cả hai bên.
b) Hợp đồng kinh tế về xuất khẩu hàng hoá:
Sau khi các bên mua và bán tiến hành giao dịch, đàm phán có kết quả
thì đi đến lập và ký kết hợp đồng. Hợp đồng có quy định rõ ràng và đầy đủ
quyền hạn và nghĩa vụ của các bên tham gia.
Hợp đồng thể hiện bằng văn bản là hình thức bắt buộc đối với các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của nước ta. Đây là hình thức tốt
nhất để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên và tránh được những biểu hiện
không đồng nhất trong ngôn từ hay quan niệm vì các đối tác tham gia thuộc
các quốc tịch khác nhau.
Các điểm cần lưu ý khi ký kết hợp đồng:
- Hợp đồng cần trình bày rõ ràng, sáng sủa, nội dung phải phản ánh
đúng, đầy đủ các vấn đề đã thoả thuận.
- Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng là thứ ngôn ngữ phổ biến mà hai
bên cùng thông thạo.
- Chủ thể ký kết hợp đồng phải là người có đủ thẩm quyền ký kết.
- Hợp đồng nên đề cập đầy đủ các vấn đề về khiếu nại, trọng tài để
giải quyết tranh chấp nếu có tránh tình trạng tranh chấp kiện tụng
kéo dài.
c) Thực hiện hợp đồng:
Sau khi hợp đồng đã được ký kết thì đơn vị sản xuất kinh doanh xuất
khẩu phải thực hiện theo các quy định đã ký kết trong hợp đồng, tiến hành
sắp xếp những phần việc phải làm, ghi thành bảng theo dõi tiến độ thực hiện
hợp đồng, ghi lại những diễn biến kịp thời, những văn bản phát đi và nhận
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 19
được để xử lý và giải quyết cụ thể. Đồng thời phải đảm bảo được quyền lợi
quốc gia và lợi ích kinh doanh của doanh nghiệp.
Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu như sau:
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác xuất khẩu:
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường dều có một môi
trường kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh có thể tạo ra những
thuận lợi cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển, đồng thời nó cũng ảnh
hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xuất khẩu tham gia kinh
doanh thương mại quốc tế cho nên môi trường kinh doanh phức tạp hơn
nhiều so với môi trường trong nước. Do đó, có thể nói ngoài yếu tố chủ quan
là trình độ của người tham gia kinh doanh xuất khẩu thì các yếu tố khác ảnh
hưởng tới công tác xuất khẩu chủ yếu là các yếu tố thuộc về môi trường kinh
doanh.
Dưới đây là một số nhân tố tác động chủ yếu:
Ký kết
HĐXK
Kiểm
tra L/C
Xin giấy
phép
Chuẩn
bị h ng
L m thủ tục
hải quan
Kiểm nghiệm
h ng hoá
Uỷ thác
thuê t u
Giao
h ng lên
Mua bảo
hiểm
L m thủ
tục thanh
Giải
quyết
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 20
2.1 Các công cụ và chính sách kinh tế vĩ mô:
Mặc dù thương mại quốc tế nói chung đem lại những lợi ích to lớn,
nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên hầu hết các quốc gia đều có những
chính sách thương mại riêng để thể hiện ý trí và mục tiêu của nhà nước đó
trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế có liên
quan đến nền kinh tế quốc gia. Để nền kinh tế quốc dân vận hành có hiệu
quả thì một chính sách thương mại thích hợp là sự cần thiết. Trong lĩnh vực
xuất khẩu những công cụ, chính sách chủ yếu thường được nhà nước sử
dụng để điều tiết, quản lý các hoạt động này là:
2.1.1Thuế quan
Trong hoạt động xuất khẩu thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn
vị hàng xuất khẩu so với mức giá quốc tế nên đem lại bất lợi cho các nhà sản
xuất kinh doanh xuất khẩu vì nó sẽ làm tăng giá thành xuất khẩu, làm giảm
sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Do đó với mục tiêu nhằm đẩy mạnh
xuất khẩu hầu hết các mặt hàng thuộc diện khuyến khích xuất khẩu đều có
thuế xuất rất thấp hoặc bằng không. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng
được khuyến khích xuất khẩu nên có thuế suất xuất khẩu bằng không.
2.1.2 Các công cụ phi thuế quan
Hạn ngạch( quota ) được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng
cao nhất của một mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng được phép xuất khẩu
sang một thị trường nhất định trong một thời gian nhất định thông qua hình
thức cấp giấy phép.
Mục đích của việc sử dụng công cụ hạn ngạch xuất khẩu là nhằm
quản lý hoạt động kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả và điều chỉnh các loại
hàng hoá xuất khẩu. Hơn thế nữa có thể bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo
vệ tài nguyên và cải thiện cán cân thanh toán.
Trong khi thuế quan rất linh hoạt, mềm dẻo thì quota lại mang tính
cứng nhắc, cố định lượng hàng hoá xuất khẩu. Việc sử dụng hạn ngạch xuất
khẩu một mặt không mang lại thu nhập cho Chính phủ như thuế quan, mặt
khác hạn ngạch có thể biến một doanh nghiệp trong nước thành một nhà
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 21
xuất khẩu độc quyền có thể định mức giá cao hay thấp nhằm thu lợi nhuận
lớn nhất. Hạn ngạch xuất khẩu được quy định theo mặt hàng, theo nước và
theo thời gian nhất định. Ở Việt Nam hiện nay hạn ngạch xuất khẩu chỉ quy
định đối với mặt hàng gạo.
Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm: Các quốc gia đặt ra những tiêu
chuẩn về chất lượng hàng hoá hay về các thông số kỹ thuật quy định cho
hàng hoá xuất khẩu hay nhập khẩu.
Giấy phép xuất khẩu: Nhà nước cấp giấy phép xuất khẩu cho các
doanh nghiệp ránh việc xuất khẩu lung tung…
2.1.3 Trợ cấp xuất khẩu: là những ưu đãi tài chính mà Nhà nước
dành cho người xuất khẩu khi họ bán được hàng hoá ra thị trường nước
ngoài. Mục đích của sự trợ cấp xuất khẩu là giúp cho nhà xuất khẩu tăng thu
nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và do đó đẩy
mạnh được xuất khẩu. Có hai loại trợ cấp xuất khẩu: gián tiếp và trực tiếp.
- Trợ cấp xuất khẩu trực tiếp như: áp dụng thuế xuất ưu đãi đối với
hàng xuất khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với các nhà xuất khẩu để
sản xuất hàng xuất khẩu… Cho các nhà xuất khẩu được hưởng các
giá ưu đãi các đầu vào sản xuất như điện, nước, vận tải, thông tin
liên lạc, trợ giá xuất khẩu.
- Trợ cấp xuất khẩu gián tiếp như: dùng ngân sách Nhà nước để giới
thiệu, triển lãm, quảng cáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao
dịch xuất khẩu hoặc Nhà nước giúp đỡ kỹ thuật và đào tạo chuyên
gia.
Mức độ trợ cấp phụ thuộc vào: chính sách của Nhà nước đối với từng
mặt hàng và mức độ cạnh tranh trên thị trường. Trợ cấp xuất khẩu trực tiếp
có xu hướng bị thu hẹp do sự đấu tranh giữa các Chính phủ có quan hệ buôn
bán với nhau. Ngược lại, trợ cấp gián tiếp có xu hướng tăng lên và thường
được che dấu.
2.1.4 Tỷ giá và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm đẩy
mạnh xuất khẩu:
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 22
Đây là nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đến quy mô và cơ cấu mặt hàng
xuất khẩu. Một chính sách tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu là chính
sách duy trì tỷ giá tương đối ổn định và ở mức thấp. Kinh nghiệm của các
nước đang phát triển thực hiện chiến lược xuất khẩu( sản xuất hướng về xuất
khẩu )cũng như ở Việt Nam trong thời gian qua là phải tiến hành phá giá
thường kỳ để đạt được mức tỷ giá cân bằng được thị trường chấp nhận và
sau đó duy trì tỷ giá tương quan với chi phí và giá cả đang bị lạm phát trong
nước.
Bên cạnh đó, nếu Chính phủ muốn các nhà sản xuất kinh doanh hướng
ra thị trường thế giới thì phải giảm bớt sức hấp dẫn tương đối của việc sản
xuất cho thị trường nội địa. Điều này đòi hỏi phải giảm thuế quan có tính
chất bảo hộ đối với các ngành công nghiệp được ưu đãi và tránh quy định
hạn ngạch số lượng nhập khẩu, các nhà sản xuất kinh doanh thường đầu tư
vào lĩnh vực có lợi nhuận sản xuất thay thế nhập khẩu phải giữ ở mức độ
phù hợp với lợi nhuận xuất khẩu. Điều này có nghĩa là bảo hộ bằng thuế
quan không được cao hơn mức trợ cấp xuất khẩu và cũng phải thấp nhất đối
với các mặt hàng.
Muốn hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì chính sách đẩy
mạnh xuất khẩu phải duy trì giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất trong
nước ở mức độ phản ánh sự khan hiếm của chúng. Nguyên tắc cơ bản là xuất
khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều nhất yếu tố sxcó sẵn của nền kinh tế.
Để đảm bảo cho các doanh nghiệp thuộc bất cứ thành phần kinh tế nào của
nền kinh tế quyết định đầu tư hay sản xuất phù hợp với nguyên tắc đó thì giá
cả tương đối họ trả cho lao động, vốn, đất đai không được quá chênh lệch
với giá được hình thành bởi những lực lượng thị trường cạnh tranh trên cơ sở
quan hệ cung cầu các nguồn lực đó.
2.1.5 Chính sách đối với cán cân thanh toán quốc tế và cán cân
thương mại:
Trong hoạt động thương mại quốc tế giữ vững được cán cân thanh
toán và cán cân thương mại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng góp phần cungr cố
nền độc lập và tăng trưởng kinh tế nhanh. Tuy nhiên để giữ có cán cân thanh
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 23
toán quốc tế cân bằng không có nghĩa là hạn chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu
hoặc vay vốn. Cân bằng theo kiểu đó là cân bằng tiêu cực. Vấn đề đặt ra là
Nhà nước phải có chính sách thích hợp để khuyến khích các tổ chức và cá
nhân tham gia làm hàng xuất khẩu với chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh với
thị trường quốc tế.
Song song với việc đó là mở rộng quy mô xuất khẩu là đa dạng hoá
các mặt hàng xuất khẩu teong đó chú trọng đến những mặt hàng xuất khẩu
chủ lực. Có như vậy, quốc gia mới có thể giảm dần nhập siêu, tiến tới cân
bằng xuất nhập khẩu. Như vậy, vô hình chung việc giữ cân bằng cán cân
thanh toán và cán cân thương mại đã chứa đựng những yếu tố thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu của một quốc gia.
2. Các quan hệ kinh tế quốc tế:
Trong hoạt động kinh doanh quốc tế, các mối quan hệ kinh tế quốc tế
có tác động và ảnh hưởng cực kỳ mạnh mẽ. Đối với hoạt động xuất khẩu
cũng vậy,, khi xuất khẩu hàng hoá sang một nước nào đó tức là đưa hàng
hoá thâm nhập vào một thị trường quốc gia khác, người xuất khẩu thường
phải đối mặt với những rào cản như thuế thu nhập hay sự phân biệt đối sử
với cá nhà kinh doanh nước ngoài, các tiêu chuẩn sản phẩm mang tính chất
phân biệt đối sử với hàng nước ngoài… và đặc biệt là hạn ngạch nhập khẩu.
Các rào cản này là chặt chẽ hay nới lỏng phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ
kinh tế song phương giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu.
Trong khi đó, với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế như hiện nay
nhiều liên minh kinh tế ở mức độ khác nhau được hình thành, nhiều hiệp
định thương mại song phương, đa phương giữa các nước các khối kinh tế
cũng đã được ký kết với mục tiêu là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham
gia, giảm giá cả và thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và toàn thế
giới. Nếu một quốc gia tham gia vào liên minh kinh tế và những hiệp định
thương mại ấy thì đó sẽ là tác nhân tích cực đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu
của một quốc gia. Bằng không chính nó sẽ trở thành rào cản đối với việc
tham nhập thị trường nước ngoài của hàng hoá nước đó.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 24
Tóm lại, có được những mối quan hệ kinh tế quốc tế mở rộng, bền
vững và tốt đẹp sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho việc đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu của một quốc gia. Để làm được điều đó các quốc gia cần tăng cường
tham gia vào các liên minh kinh tế khu vực cũng như quốc tế và ký kết các
hiệp định thương mại song phương cũng như đa phương với các quốc gia
khác.
2.3 Các yếu tố khoa học công nghệ
Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ trong thời gian
qua, nhiều công nghệ tiên tiến đã ra đời tạo ra các cơ hội, nhưng cũng gây
nên những nguy cơ đối với tất cả các ngành nghề nói chung và các đơn vị
kinh doanh hàng xuất khẩu nói riêng.
Đối với các lĩnh vực sản xuất hàng xuất nhập khẩu, việc nghiên cứu
và đưa vào ứng dụng các công nghệ mới, các thành tựu mới của khoa học kỹ
thuật sẽ giúp các đơn vị sản xuất tạo ra được nhiều sản phẩm hơn với chất
lượng cao hơn, giá thành rẻ hơn, hợp thị hiếu tiêu dùng hơn. Nhờ đó mà sức
cạnh tranh của sản phẩm được nâng cao và lợi nhuận thu được cũng cao hơn.
Bên cạnh đó, khoa học công nghệ còn tác động tới các lĩnh vực như
vận tải hàng hoá, bảo quản hàng hoá, ngân hàng tài chính… làm cho các lĩnh
vực này ngày càng được mở rộng và phát triển góp phần thúc đẩy xuất khẩu.
Hơn nữa, ngày nay với sự phát triển của công nghệ thông tin, thương mại
điện tử đã giúp xoá bỏ sự ngăn cách về lãnh thổ, về thời gian nên các giao
dịch thương mại diễn ra rất nhanh chóng, thuận lợi và bớt tốn kém.
2.5 Điều kiện chính trị, xã hôi và quân sự
Sự ổn định hay bất ổn định về chính trị, xã hội cũng là những nhân tố
ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh và kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp.Hệ thống chính trị và các quan điểm về chính trị, xã hội suy cho cùng
đều trực tiếp tác động đến phạm vi, lĩnh vực hay mặt hàng, đối tác kinh
doanh. Chẳng hạn các cuộc xung đột lớn nhỏ về quân sự trong nội bộ quốc
gia và giữa các quốc gia sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn về các mặt hàng sản
xuất. Cụ thể là xung đột quân sự đã phá vỡ những quan hệ kinh doanh truyền
thống, làm thay đổi hệ thống vận tải và chuyển hướng sản xuất tiêu dùng
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 25
sang phục vụ chiến tranh. Chính việc chuyển snag phục vụ chiến tranh đã
làm gián đoạn hoạt động xuất khẩu do các điều kiện sản xuất thay đổi và
quan hệ giữa các quốc gia bị xấu đi dần dần tạo nên hàng rào vô hình ngăn
cản hoạt động kinh doanh quốc tế.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 26
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU MẶT HÀNG MÂY TRE ĐAN Ở UNIMEX HÀ TÂY
I. KHÁI QUÁT VỀ UNIMEX HÀ TÂY
1. Quá trình hình thành và phát triển:
Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là doanh nghiệp Nhà nước do Uỷ ban
nhân dân tỉnh Hà Tây quyết định thành lập có nhiệm vụ: tổ chức sản xuất,
kinh doanh xuất nhập khẩu trong các lĩnh vực tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu
dùng.
Công ty có tư cách pháp nhân do Uỷ ban nhân dân ra quyết định thành
lập doanh nghiệp số 471/QĐ-UB ngày 01 tháng 12 năm 1992.
- Tên bằng tiếng việt: Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây .
- Tên giao dịch tiếng Anh:
HA TAY IMPORT- EXPORT COMPORATION.
- Công ty có trụ sở chính tại: 16A Trần Đăng Ninh thị xã Hà Đông
tỉnh Hà Tây.
Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây tiền thân là Chi sở ngoại thương của
hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây được thành lâpj tháng 8 năm 1951
Ngày 07/01/1961: Bộ ngoại thương quyết định thành lập Công ty liên
doanh hàng xuất khẩu tỉnh Hà Đông. Đến tháng 06/1965 thì đổi tên thành
Công ty kinh doanh hàng xuất khẩu tỉnh Hà Tây.
Năm 1976 do sát nhập hai tỉnh Hà Tây và Hoà Bình thành tỉnh Hà
Sơn Bình nên công ty xuất nhập khẩu Hà Tây sát nhập với công ty xuất nhập
khẩu Hoà Bình thành liên hiệp Công ty xuất nhập khẩu Hà Sơn Bình.
Tháng 09/1991 tách tỉnh Hà Sơn Bình thành hai tỉnh Hoà Bình và Hà
Tây. Liên hiệp công ty xuất nhập khẩu Hà Sơn Bình được bàn giao các công
ty thu mua hàng xuất khẩu các huyện thuộc tỉnh Sơn Tây cũ do Hà Nội bàn
giao và đổi tên thành Công ty xuất nhập khẩu tỉnh Hà Tây trực thuộc sở
Thương Mại.
Kể từ khi thành lập công ty đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm
nhưng dù ở giai đoạn nào công ty vẫn không ngừng phấn đấu hoàn thành và
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 27
hoàn thành vượt mức kế hoạch của Nhà nước giao trong từng giai đoạn lịch
sử.
Từ khi thành lập cho đến năm 1985, đây là thời kỳ bao cấp, Chính phủ
ta và Chính phủ Liên Xô ký kết Hiệp định thương mại, sau đó ký kết với các
nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa và các nước không liên kết. Chức
năng nhiệm vụ của công ty là thu mua hàng hoá vật tư theo kế hoạch cung
ứng cho các Tổng công ty thuộc Bộ thực hiện hiệp định ký kết với các nước.
Từ năm 1981 đến 1985 nhiệm vụ chính vẫn là tổ chức thu gom vật tư,
hàng hoá cung ứng cho các Tổng công ty Trung ương theo kế hoạch, giá
mua, phí và lãi định mức do các Tổng công ty quy định, được nhận trở lại
vật tư hàng hoá nhập khẩu do Bộ ngoại thương phân phối theo giá bao cấp,
giá trị ngoại tệ năm sau cao hơn năm trước từ 10% đến 30%. Năm 1980 đạt
1,47 triệu rúp, năm 1985 đạt 8,5 triệu rúp bằng 5,8 lần so với năm 1980.
Trong 3 năm( 1983-1985 )nhập khẩu 5,85 triệu RUP/USD cung cấp
cho nông dân 8,531 tấn đạm urê, nhập 60 tấn rayon và go chải dệt lụa trị giá
252.000USD…
Trong thời kỳ này hợp tác xã thủ công phát triển, nhiều ngành nghề
mới được mở rộng ở nông thôn thu hút hàng chục vạn lao động thủ công
chuyên nghiệp và người lao động nông nghiệp, tận dụng thời gian nông nhàn
tham gia sản xuất hàng xuất khẩu như dệt lụa Vạn Phúc và La Khê, thêu ren
ở Thường Tín, Phú Xuyên, Thanh Oai…, thảm len ở Sài Sơn, Cát Quế,
Dương Liễu… mây tre đan ở Phú Vinh, Trương yên, Quảng Bị, Phú
Nghĩa…các mặt hàng sơn mài, khảm điêu khắc ở Chuyên Mỹ, Bình Minh,
Vạn Điển…
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công ty luôn phấn đấu hoàn thành
xuất sắc kế hoạch, đạt được nhiều thành tích, năm 1987 được vinh dự đón
nhận huân chương lao động hạng 3.
Từ năm 1986 đến nay, thực hiện chủ trương đường lối đổi mới kinh tế
của Đảng và Nhà nước công ty xuất nhập khẩu Hà Tây cũng chuyển mình và
từng bước đi lên.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 28
Trong 4 năm đầu 1986-1989, kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty
tăng bình quân từ 11%-14%/năm, các mặt hàng thảm len, mỹ nghệ, mây tre
đan vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng hàng năm của thời kỳ trước đó. Các
mặt hàng nông sản xuất khẩu tăng nhanh.
Trong 3 năm 1990-1992 đây là giai đoạn khó khăn nhất về kim ngạch
xuất nhập khẩu, giá trị kim ngạch giảm sút, cán bộ cônng nhân viên không
đủ việc làm, các hợp tác xã và tổ hợp tan vỡ, đời sống thợ thủ công lâm vào
tình cảnh khó khăn, nguyên nhân là do:
+ Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, thị trường quen thuộc bị mất,
thị trường mới chưa có.
+ Từ cơ chế quản lý kế hoạch tập trung bao cấp chuyển đổi sang cơ
chế thị trường, cán bộ đảng viên nhận thức về cơ chế thị trường không đầy
đủ, tổ chức quản lý vận hành theo cơ chế thị trường chưa theo kịp với sự
biến đổi nhanh chóng của nền kinh tế.
Từ năm 1993 đến nay đã mở rộng quan hệ buôn bán với trên 30 nước,
kim ngạch xuất nhập khẩu từng bước phát triển, tốc độ tăng bình quân là
trên 15%/năm.
Thực hiện nghị định 338 của Chính phủ, công ty xuất nhập khẩu Hà
Tây là một đơn vị kinh doanh, hạch toán độc lập với số vốn năm 1992 là
3,927 tỷ đồng, trong đó vốn cố định là 2,599 tỷ và vốn lưu động là 1,285 tỷ
đồng.
2. Cơ cấu tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của công
ty:
2.1 Sơ đồ tổ chức quản lý
Bộ máy gồm:
- Giám đốc.
- Phó giám đốc.
- Các phòng ban chức năng:
+ Phòng kế hoạch thị trường.
+ Phòng kế toán tài chính.
+ Phòng tổ chức hành chính.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 29
+ Các văn phòng đại diện ở các tỉnh và nước ngoài.
- Các đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh trong công ty:
+ Các phòng nghiệp vụ kinh doanh.
+ Xí nghiệp tơ thảm thêu xuất khẩu.
+ Các trạm kinh doanh.
+ Các chi nhánh.
Sơ đồ:
Chú thích: Quan hệ chỉ đạo trực tiếp.
Quan hệ chỉ đạo phối hợp.
2.2 Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban trong bộ máy:
Giám đốc, Phó giám đốc do Uỷ ban nhân dân tỉnh bổ nhiệm để thay
mặt Nhà nước điều hành toàn bộ hoạt động của công ty. Có trách nhiệm
quản lý và sử dụng tài sản, tiền vốn đưa vào sản xuất kinh doanh có hiệu
quả. Tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước tại công ty, thường xuyên chăm lo bồi dưỡng giáo dục đào tạo đội ngũ
Giám đốc
Phòng
TCHC
Phòng
Kế
toán
V.phòng
đại diện
Phó
giám
Các
chi nhánh
Các trạm
K. doanh
Xí nghiệp
Tơ thảm
thêu
Các phòng
Nghiệp vụ
KD
Phòng
KH-TT
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 30
cán bộ công nhân viên chức, chăm lo việc làm, đời sống của cán bộ công
nhân viên chức. Thực hiện thiết chế dân chủ trong doanh nghiệp.
+ Giám đốc là người đại diện cho công ty trước pháp luật. Giám đốc
là người chịu trách nhiệm chính về mọi công việc tổ chức và điều hành công
ty. Trực tiếp phụ trách phòng Kế hoạch tổng hợp, phòng Kế toán tài chính,
phòng Tổ chức hành chính, các phòng nghiệp vụ kinh doanh và xí nghiệp tơ
thảm thêu xuất khẩu.
+ Phó giám đốc là người giúp việc cho Giám đốc, được Giám đốc
phân công trực tiếp phụ trách điều hành các chi nhánh, các trạm và tham gia
chỉ đạo kinh doanh các mặt hàng có tính thời vụ, giá trị lớn.
Các phòng ban của công ty có chức năng nhiệm vụ sau:
+ Phòng kế hoạch thị trường:
- Xây dựng định hướng phát triển kinh doanh dài hạn( 5 năm- 10
năm ) của toàn công ty.
- Tổng hợp kế hoạch quý, năm của các đơn vị trực tiếp kinh doanh
- Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch và phối hợp với phòng kế
toán tài chính giám sát việc sử dụng vốn của các đơn vị thành viên.
- Kiểm tra các hợp đồng kinh tế, thẩm định các phương án sản xuất
kinh doanh, đề xuất ý kiến với giám đốc, kiểm tra thẩm định thời gian không
quá 2 ngày kể từ khi nhận được hợp đồng và phương án các đơn vị gửi đến.
- Chịu trách nhiệm liên đới khi xảy ra kinh doanh thua lỗ hoặc thất
thoát vốn do yếu tố chủ quan gây ra.
+ Phòng kế toán tài chính:
- Phối hợp với phòng KH-TT xây dựng kế hoạch tài chính toàn
công ty và kế hoạch từng đơi vị thành viên.
- Các phương án kinh doanh đã được giám đốc duyệt trong thời
hạn 3 ngày phải đáp ứng vốn để các đơn vị thực hiện hợp đồng.
- Thanh toán tiền hành với bạn hàng trong nước và nước ngoài.
- Giám sát việc sử dụng vốn của các đơn vị, đôn đốc thu hồi vốn,
lãi tiền vay.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 31
- Lựa chọn phương án hạch toán phù hợp và hướng dẫn kế toán
các đơn vị trong công tác hạch toán. Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ báo
cáo kế toán, thống kê thuế kịp thời chính xác đúng quy định.
- Kế toán trưởng từng quý báo cáo ban giám đốc tình hình quản lý
sử dụng vốn, các khoản công nợ trong hạn, đến hạn và nợ quá hạn, đề xuất
biện pháp sử lý.
- Tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của từng đơn vị và đề xuất
giám đốc khen thưởng.
- Kế toán trưởng liên đới chịu trách nhiệm khi để các đơn vị trực
thuộc sử dụng vốn sai mục đích, làm thất thoát vốn.
+Phòng tổ chức hành chính:
*Tham mưu giúp Giám đốc về công tác tổ chức cụ thể.
- Xây dựng phương án bố trí sắp xếp cán bộ viên chức toàn công
ty và từng đơn vị.
- Xây dựng quy hoạch cán bộ và kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán
bộ.
- Làm công tác khác về tổ chức: quản lý hồ sơ cán bộ viên chức,
làm các thủ tục về tiếp nhận, nghỉ hưu thôi việc, thuyên chuyển, khen
thưởng và kỷ luật cán bộ.
*Tham mưu giúp Giám đốc về công tác hành chính quản trị cụ thể:
- Xây dựng phương án bảo vệ đảm bảo công tác an ninh trật tự an
toàn cơ quan.
- Làm tốt công tác văn thư, lưu trữ, quản lý dấu Công ty, dấu chức
danh.
- Quản lý nhà khách, đảm bảo các yêu cầu vật chất cho công tác
điều hành hàng ngày.
- Đảm bảo công tác vệ sinh môi trường cơ quan.
+Văn phòng đại diện ở các tỉnh:
- Giúp Giám đốc làm công tác tiếp thị. Trong một số trường hợp
đặc biệt trưởng văn phòng đại diện được giám đốc uỷ nhiệm ký một sốvăn
bản của Công ty. Tổ chức xuất nhập khẩu hàng hoá do tự khai thác được thị
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 32
trường đảm bảo có hiệu quả, chấp hành tốt chính sách và các quy định của
nhà nước, của địa phương nơi đặt văn phòng đại diện.
+ Các đơn vị trực tiếp sản xuất-kinh doanh trong công ty:
Các đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh hoạt động trên nguyên tắc
khoán với 3 hình thức:
* Đối với hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện( do giám đốc công ty
giao)giám đốc công ty khoán các chi phí, 100% lợi tức nộp công ty.
* Đối với hàng hoá xuất nhập khẩu do các đơn vị tự khai thác: giám
đốc công ty khoán lợi tức phải nộp cho công ty( mức nộp tuỳ theo từng mặt
hàng ).
* Đối với hàng xuất nhập khẩu uỷ thác qua công ty và hàng hoá kinh
doanh nội địa Giám đốc công ty quy định mức lợi tức phải nộp cho công ty
( % )tính trên hoa hồng uỷ thác hoặc tính trên doanh số kinh doanh đối với
hàng nội địa.
Với sự hoạt động trên nguên tắc khoán, trong phạm vi của mình các
dơn vị có thể tự trực tiếp xuất nhập khẩu, xuất nhập khẩu uỷ thác qua các
đơn vị khác, xuất khẩu, nhập khẩu mặt hàng của đơn vị khác, hợp đồng gia
công, kinh doanh mua bán hàng nội địa, nhận đại lý mua bán hàng dưới sự
chỉ đạo và giám sát của ban lãnh đạo công ty. Tuy vậy,, hàng năm cawn cứ
vào kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty các đơn vị được giao một
phần kế hoạch sản xuất kinh doanh đó. Điều này cho chúng ta thấy rõ hai
nhiệm vụ cơ bản của các đơn vị trong công ty là hoàn thành nhiệm vụ sản
xuất kinh doanh do công ty giao và đáp ứng nhu cầu thị trường. Đây là
hướng đi táo bạo và đúng đắn của công ty nhằm từng bước gắn hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty với thị trường trong điều kiện mới của cơ
chế thị trường nói chung điều kiện nước ta hiện nay nói riêng và nó phát huy
tối đa sự năng động, sự sáng tạo của các đơn vị trong công ty. Các đơn vị
trực tiếp sản xuất kinh doanh thuộc công ty gồm có:
- Các phòng nghiệp vụ kinh doanh: Công ty hiện có 6 phòng nghiệp
vụ kinh doanh tổng hợp và phòng mây tre đan.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 33
- Xí nghiệp tơ thảm thêu xuất khẩu chuyên sản xuất các mặt hàng
thảm len, thêu may, quần áo dệt kim… xuất khẩu.
- Các trạm Ba Vì, Chương Mỹ…
- Các chi nhánh Lạng Sơn, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nhiệm vụ và quyền hạn của công ty
Tuỳ từng giai đoạn lịch sử cũng như tuỳ theo kế hoạch, nhiệm vụ mà
Nhà nước giao cho cũng như sự thay đổi của các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ mà công ty có nhiệm vụ cũng như
quyền hạn khác nhau tương ứng. Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ và
quyền hạn của công ty là:
3.1 Nhiệm vụ:
Để thực hiện tốt được chức năng của mình, công ty xuất nhập khẩu Hà
Tây đặt ra cho mình những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh.
- Nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường, kiến nghị và đề
xuất với Bộ thương mại và Nhà nước các biện pháp giải quyết các
vấn đề vướng mắc trong sản xuất kinh doanh.
- Tuân thủ pháp luật Nhà nước về quản lý kinh tế tài chính, quản lý
xuất nhập khẩu và đối ngoại. Nghiêm chỉnh chấp hành và thực
hiện tốt các hợp đồng mua bán ngoại thương cũng như các hợp
đồng sản xuất kinh doanh trong nước của công ty.
- Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kết hợp với việc tự tạo
ra nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh, mở rộng sản xuất, đổi mới
trang thiết bị, tự bù đắp chi phí, tự cân đối giữa xuất và nhập đảm
bảo thực hiện sản xuất kinh doanh có lãi và làm tròn nghĩa vụ nộp
ngân sách Nhà nước.
- Quản lý chỉ đạo và tạo điều kiện thuận lợi để các đơn vị trực thuộc
Công ty được chủ động trong sản xuất kinh doanh theo quy chế
luật pháp hiện hành của Bộ thương mại và Nhà nước.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 34
- Nghiên cứu và thực hiện có hiệu quả các biện pháp nâng cao chất
lượng các mặt hàng do công ty sản xuất, kinh doanh làm tăng sức
cạnh tranh và mở rộng thị trường tiêu thụ.
3.2 Quyền hạn:
Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây có các quyền cơ bản sau:
- Được chủ động đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán
ngoại thương, hợp đồng kinh tế và các văn bản hợp tác liên doanh, liên kết
đã ký với khách hàng trong và ngoài nước thuộc phạm vi hoạt động của
công ty.
- Được vay vốn( cả ngoại tệ ), huy động và sử dụng vốn ở trong và
ngoài nước nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
theo đúng pháp luật hiện hành của Nhà nước.
- Được lập các phương án kinh doanh và tiến hành kinh doanh trêncơ
sở tự đảm bảo cân đối thu chi, làm ăn có lãi.
- Được liên doanh liên kết, hợp tác sản xuất với các tổ chức Hà Tây và
cá nhân kể cả các đơn vị khoa học kỹ thuật trong và ngoài nước để đầu tư,
khai thác nguyên liệu sản xuất, gia công huấn luyện tay nghề trên cơ sở bình
đẳng cùng có lợi.
- Được lập các văn phòng đại diện, các chi nhánh của công ty ở trong
nước cũng như nước ngoài. Được quyền tham gia các hoạt động kinh tế, văn
hoá của Trung ương như được tham gia hội chợ, triển lãm…
- Được tham dự hội thảo chuyên ngành hoặc các ngành có liên quan
tới sản xuất hoặc kinh doanh của công ty. Được phép đóng góp ý kiến để
hoàn thiện công tác quản lý kinh tế của Nhà nước. Được cử cán bộ công
nhân viên của công ty đi học tập, công tác ngắn hạn hoặc dài hạn ở trong và
ngoài nước hoặc được mời nước ngoài về Việt Nam làm việc theo quy chế
của Bộ, hiểu được những nhiệm vụ và quyền hạn cũng như mục tiêu phấn
đấu của công ty trong năm tới. Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây đã tạo cho
mình một cơ chế hoạt động gọn nhẹ, hiệu quả, phù hợp với pháp luật.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 35
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG
MÂY TRE ĐAN Ở CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU HÀ TÂY
1. Đặc điểm của mặt hàng mây tre đan
1.1 Đặc điểm của mặt hàng mây tre đan:
Mặt hàng mây tre đan là một trong những mặt hàng thủ công mỹ nghệ
truyền thống của Việt Nam và là một trong 5 mặt hàng xuất khẩu có thế
mạnh của hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu trong suốt thời gian qua.
Có thể nói mặt hàng mây tre đan xuất khẩu không xa lạ gì với mọi
người dân Việt Nam từ già đến trẻ, từ thành thị đến nông thôn bởi một lẽ nó
được làm ra từ các nguyên liệu rất gần gũi với cuộc sống, và mang đậm
những nét đặc trưng của các làng quê nông thôn Việt Nam. Từ bao đời nay,
người dân Việt Nam đã biết sử dụng những cây tre, mây, cói… để đan thành
những vật dụng thường ngày cho sinh hoạt như cái rổ, cái rá, nong, nia, dần,
sàng… cho đến những vật như mũ đội đầu hay những rỏ, lãng hoa và các vật
dụng trang trí nhà của rất đẹp và tao nhã. Trên khắp đất nước Việt Nam còn
hình thành các làng nghề chuyên làm hàng mây tre đan từ rất lâu đời như ở
Chương Mỹ( Hà Tây ), Thái Bình, Nam Định, Vĩnh Long, thành phố Hồ Chí
Minh…Mặt hàng mây tre đan có đặc điểm là nó được làm ra hầu như toàn
bộ bằng phương pháp thủ công truyền thống, bằng tài hoa, sự khéo léo và óc
thẩm mỹ tinh tế của những người thợ thủ công tài hoa của các làng nghề, nó
không chỉ là những sản phẩm mang hơi thở của cuộc sống thường ngày mà
nó còn thể hiện cái tâm của người thợ, thể hiện cả một bản sắc văn hoá của
dân tộc Việt Nam. Đây chính là điều khiến cho mặt hàng mây tre đan được
rất nhiều nơi trên thế giới ưa chuộng.
Việc sản xuất mặt hàng mây tre đan không đòi hỏi nhiều vốn cũng
như không cần đầu tư vào nhà xưởng hay đào tạo thợ lâu vì có thể sản xuất
ngay tại các hộ gia đình, thời gian đào tạo rất nhanh và không tốn kém,
nguyên liệu lại là các thứ rất sẵn và rẻ tiền. Do việc canh tác nông nghiệp
được tiến hành theo mùa vụ nên những lúc nông nhàn là thời điểm mặt hàng
mây tre đan được sản xuất rất nhiều, vì vậy, mà nó đã góp phần giải quyết
một số rất lớn lao động nhàn rỗi trong nhân dân.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 36
Tuy nhiên do tính chất sản xuất phân tán nhỏ lẻ theo quy mô hộ gia
đình nên việc đảm bảo chất lượng hàng hoá một cách đồng đều, việc thu
mua và bảo quản hàng hoá gặp phải rất nhiều khó khăn. Hơn nữa mặt hàng
này rất công kềnh nên rất khó cho việc vận chuyển. Các sản phẩm làm ra
còn chưa phong phú về chủng loại và kiểu dáng chưa thật phù hợp với thị
trường do còn thiếu đội ngũ thiết kế được đào tạo, đây cũng là vấn đề mà các
làng nghề thủ công mỹ nghệ của chúng ta còn yếu kém và phải tìm cách
khắc phục trong thời gian sớm để có thể đáp ứng với nhu cầu thị trường,
củng cố được vị trên thị trường thế giới. Từ những đặc điểm trên chúng ta có
thể thấy được những ưu điểm và nhược điểm của mặt hàng mây tre đan như
sau:
* Ưu điểm:
♦ Đầu tư cho sản xuất thấp. Về vốn nó không đòi hỏi phải đầu tư quá
lớn lại tận dụng được những trang thiết bị thô sơ, nhỏ, nhẹ. Tận dụng được
nguồn nguyên liệu tại chỗ. Phát triển nghề mây tre đan sẽ tạo ra nhiều sản
phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của thị trường quốc
tế, làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, tăng thu nhập quốc dân.
♦ Thuận lợi lớn trong nguồn lao động dồi dào cho sản xuất, góp phần
giải quyết công ăn việc làm cho người lao động cả thành thị lẫn nông thôn.
♦ Tăng thu nhập cải thiện đời sống cho người lao động.
♦ Kỹ thuật sản xuất và quy trình sản xuất hàng mây tre đan đơn giản,
tầng lớp nào cũng có thể tham gia sản xuất được, thời gian học nghề ngắn,
nhanh chóng có sản phẩm hàng hoá.
* Nhược điểm:
♦ Khó kiểm soát được chất lượnghh.
♦ Phương tiện kỹ thuật cho việc sản xuất hàng hoá còn nghèo nàn ảnh
hưởng tới chất lượng hàng hoá.
♦ Thu gom hàng hoá không được nhanh bởi sản xuất không tập trung
dễ ảnh hưởng tới thời gian thực hiện hợp đồng.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 37
♦ Yêu cầu kỹ thuật về vận chuyển loại hàng hoá này khá phức tạp
nhưng thời gian không được kéo dài và đặc biệt phải chú ý các biện pháp
chống mối mọt.
♦ Sản xuất hàng mây tre đan phải gắn chặt với thị trường. Thị trường
là vấn đề then chốt, điều này được thể hiện ở cả hai mặt: sản xuất phải có thị
trường và sản xuất phải theo yêu cầu của thị trường.
Bất cứ hàng hoá muốn xuất khẩu đều phải tuân thủ yêu cầu này,
nhưng đối với hàng mây tre đan điều này lại càng quan trọng, không phải tất
cả mọi thị trường đều có sở thích, nhu cầu giống nhau. Nên việc tìm hiểu
nhu cầu, thị hiếu của thị trường trước khi tiến hành sản xuất hàng loạt là điều
cần thiết. Không ai dám sản xuất khi không có thị trường tiêu thụ, sản xuất
bao nhiêu, sản xuất mặt hàng gì, chủng loại nào? và sản xuất lúc nào đều do
thị trường quyết định. Hơn nữa không thể áp đặt nhu cầu của nước này cũng
như nước khác mà phải thay đổi sản phẩm cho phù hợp với từng thị trường.
1.2 Tình hình thị trường mây tre đan thế giới:
* Tình hình cung trên thị trường mây tre đan thế giới:
Hàng năm kim ngạch trao đổi hàng mây tre của thế giới ước tính hơn
20 tỷ USD. Điều đó chứng tỏ thị trường quốc tế đang rất nhộn nhịp và sôi
động. Các nước cung cấp mặt hàng này hầu hết tập trung ở khu vực Châu Á.
Các nước nhập khẩu trước kia phần lớn tập trung ở Châu Âu, hiện nay đã
mở rộng ra các nước Châu Á, Mỹ, Phi và Úc. Có thể nói, ngày nay hàng
mây tre đan đã trở nên quen thuộc và thông dụng trên khắp thế giới.
Trong thập niên 90, tình hình cung hàng mây tre đan trên thế giới hầu
như không có gì biến động đáng kể. So với những năm 80, lượng cung trung
bình của những năm gần đay tăng rất chậm, chỉ tăng trung bình 0,23%/năm.
Trong khi đó những năm 80 đạt tới 3%/năm.
Trên thế giới các nước xuất khẩu mây tre đan tập trung hầu hết ở
Châu Á, trong đó có một số quốc gia đáng chú ý như Indonexia, Malaysia,
Thailand, Singapore, Philipine, Ấn Độ, Trung quốc…Giữa các nước này, tỷ
lệ thị trường mỗi nước chiếm giữ khá đồng đều, tỷ lệ phầm trăm kim ngạch
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 38
xuất khẩu của mỗi nước so với tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn thế giới
trong 5 năm qua hầu như không thay đổi:
Indonexia: 16,9% Trung quốc: 10%
Malaysia: 15,5% Đài Loan: 7,2%
Thailand: 12,7% Singapore: 6,4%
Philipine: 11,5% Hong kong: 5,6%
Ấn Độ: 10,3% Các nước khác: 3,9%
Khoảng cách giữa các nước này là rất xít xao, chắc chắn trong những
năm tới sẽ có sự cạnh tranh gay gắt để tìm kiếm vàchiếm lĩnh thị trường.
Ngoài ra kim ngạch của mỗi nước tăng rất đều đặn, không hề có sự tăng
giảm đột biến nào, điều này chứng tỏ cung về mặt hàng này trên thế giới là
rất ổn định
Nhiều nước dồi dào về mây tre trong giai đoạn đầu phát triển ngành
mây tre đều đi lên từ xuất khẩu nguyên liệu và bán thành phẩm( Indonexia,
Malaysia ), ngoài ra một số nước lại nhập thêm nguyên liệu về để chế biến
thành thành phẩm như Đài Loan, Hongkong. Tuy nhiên cho đến nay hầu như
tất cả các nước trên đều đã có luật cấm xuất khẩu nguyên liệu, một số nước
còn cấm xuất khẩu bán thành phẩm( Indonexia, Malaysia ) và việc quản lý
khai thác nguyên liệu cũng rất chặt chẽ.
Việt Nam chúng ta cũng là nước xuất khẩu hàng mây tre đan. Tuy
nhiên, kim ngạch xuất khẩu của ta còn quá nhỏ so với các nước khác, chỉ
đạt 0,15% kim ngạch của thế giới. Nước ta tuy có chính sách giảm thuế để
khuyến khích xuất khẩu mặt hàng này nhưng lại chưa tạo điều kiện thuận
lợi, đầu tư thích đáng để phát triển ngành công nghiệp sản xuất mây tre. So
với các nước trong khu vực, tiềm năng của ta không phải là nhỏ, cần áp dụng
các biện pháp hữu hiệu nhằm thúc đẩy xuất khẩu, tăng kim ngạch chứ không
chỉ dừng lại ở mức sau:
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre đan của Việt Nam
Đơn vị: 1000USD
Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 39
Kim ngạch 37727 42823 48455 54851 62201 70474
Hiện nay, nước ta có khoảng hơn 20 doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh xuất khẩu hàng mây tre đan. Trong đó có một số đơn vị lớn như:
BAROTEX, LICOLA, ARTEXPORT, NAFORIMEX, Công ty mỹ thuật
Thành Mỹ, Công ty mây tre nứa lá thành phố Hồ Chí Minh, Công ty
Danatiber…Mấy năm gần đây, khi chuyển đổi nền kinh tế, thực hiện chính
sách mở cửa, tiềm năng của đất nước bắt đầu được khơi dậy. Ngành hàng
thủ công mỹ nghệ nói chung và ngành mây tre nói riêng như bùng lên. Các
doanh nghiệp được phép giao dịch trực tiếp với nước ngoài. Với chính sách
khuyến khích xuất khẩu, Nhà nước đã giảm thuế xuất khẩu xuống rất thấp,
thậm chí nhiều mặt hàng còn được miễn thuế xuất khẩu. Nhờ đó, kim ngạch
xuất khẩu hàng mây tre cả nước đã tăng lên. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng
khối lượng xuất đi của nước ta là quá khiêm tốn, chưa tận dụng hết tiềm
năng trong nước. Nếu như Nhà nước và các bộ ngành chủ quản không đề ra
được một chiến lược phát triển ngành hàng này lâu dài thì Việt Nam khó có
thể len được vào hàng những nước đứng đầu.
* Tình hình cầu trên thị trường mây tre thế giới:
Có thể nói rằng, các sản phẩm mây tre đang trở thành mốt trêntg. Người
tiêu dùng đã quá nhàm chán với những bộ bàn ghế nhôm, sắt…có kích thước
lớn và thô. Trong khi đó, họ lại tìm thấy vẻ mảnh mai, thanh thoát cũng như
rất sang trọng ở những bộ bàn ghế, đồ trang trí song mây. Mặt khác, ngành
sản xuất này từ lâu đã thoát khỏi trình độ sản xuất thủ công chuyển một phần
sang sản xuất với công nghệ kỹ thuật cao, góp phần tạo nên nhiều sản phẩm
mây tre bền đẹp, tinh sảo, mẫu mã phong phú ngày càng hấp dẫn người tiêu
dùng. Chính vì thế, nhu cầu về hàng mây tre đang tăng lên nhanh chóng.
Ngoài mức tăng về số lượng, nhu cầu về hàng mây tre cũng rất đa dạng. Các
sản phẩm kiểu cách đơn điệu, vẫn để ở dạng thô hiện nay không được người
tiêu dùng ưa chuộng. Sở thích gọn nhẹ, bền, tiện lợi. Dự báo trong thời gian
tới những sản phẩm có độ tiện dụng cao sẽ có nhu cầu cao nhất. Đó là những
sản phẩm nội thất, đồ đạc trong nhà như giường, tủ, bàn ghế… được sản
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 40
xuất theo bộ với các bộ phận được tách rời mà người tiêu dùng có thể tự lắp
ráp lấy được. Trên thế giới, buôn bán đồ dùng gia đình đã chiếm từ 75-80%
tổng lượng buôn bán hàng mây tre.
Theo các chuyên gia trong ngành dự báo, cung cầu trong 10 năm tới có
thể sẽ mất cân đối gay gắt hơn, mức giá của phần lớn sản phẩm mây tre sẽ
cao hơn hiện nay. Điều đó sẽ kích thích các nước xuất khẩu gia tăng sản
lượng nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của các nước nhập khẩu mặt hàng này.
Trên thế giới, các nước nhập khẩu mặt hàng này tập trung nhiều nhất ở
Châu Âu và Châu Á. Ởmột vài nước thuộc Châu Mỹ, khối lượng nhập khẩu
mây tre cũng tăng đáng kể. Mấy năm gần đay, Châu Úc và Châu Phi cũng
bắt đầu nhập khẩu mặt hàng này. Về cơ cấu nhập khẩu của các khu vực trên
thế giới trong thời gian qua, nói chung là không có sự thay đổi nào lớn và
được phân bổ như sau:
Châu Âu: 46,1% Châu Á: 33,5%
Châu Mỹ: 15,2% Châu Phi: 4%
Châu Úc: 1,2%
Qua số liệu trên ta thấy Châu Á mặc dù nhập khẩu với tỷ lệ cao nhưng
những nước này hầu hết là nhập dưới dạng nguyên liệu và bán thành phẩm
để về nước chế biến thành sản phẩm hoàn thiện phục vụ tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu. Còn như thị trường Châu Âu hầu như là nhập thành
phẩm, kim ngạch nhập khẩu năm (số liệu )…
Từ một số phân tích trên thị trường mây tre thế giới, chúng ta thấy thị
hiếu tiêu dùng nói chung trên thế giới đang chuyển biến theo hướng có lợi.
Hàng mây tre đang dần dần được ưa chuộng kéo theo nó là nhu cầu ngày
càng gia tăng. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc thị trường xuất khẩu sẽ
được mở rộng và cơ hội tìm kiếm thị trường cũng lớn hơn.
2. Thực trạng tình hình xuất khẩu hàng mây tre đan ở công ty
2.1 Tình hình chung của công ty:
Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là một doanh nghiệp Nhà nước, chuyên
kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng phục vụ chi sự nghiệp phát triển
của đất nước nói chung và tỉnh Hà Tây nói riêng. Trong một thời kỳ dài kinh
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 41
doanh trong chế độ quản lý tập trung, bao cấp do đó khi chuyển sang cơ chế
thị trường công ty gặp không ít khó khăn như bao doanh nghiệp khác. Tuy
vậy, Công ty đã nhanh chóng thích ứng với tình hình mới, phát huy được
tính năng động, sáng tạo của các thành viên trong công ty. Công ty đã tự trụ
được trong kinh doanh, hoạt động trên nguyên tắc lấy thu bù chi, đảm bảo có
lãi và nộp ngân sách Nhà nước.
Sau khi chuyển sang cơ chế thị trường, tới đầu những năm 90, công ty
lại gặp phải một biến động rất lớn nữa ảnh hưởng nặng nề tới tình hình hoạt
động của công ty, đó là sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu vào lúc
này hầu như toàn bộ thị trường xuất khẩu của công ty bị mất. Công ty trở lại
với hai bàn tay trắng để tìm kiếm cho mình thị trường mới.
Vật lộn trong kinh doanh, phải đối chọi với tình hình cạnh tranh, tranh
mua tranh bán mất ổn định của thị trường và đồng thời lại phải tích cực tìm
kiếm thị trường cho sản phẩm xuất khẩu, Công ty đã từng bước đi lên và
ngày càng phát triển.
Hiện nay, công ty xuất nhập khẩu Hà Tây đang còn phải đối mặt với một
số khó khăn trong đó nổi cộm lên là tình trạng thiếu vốn để hoạt động, tính
đến cuối năm 2002 vốn của công ty mới đạt được 9,1 tỷ đồng.
Ta có thể xem xét tình hình về vốn của công ty qua một số năm như sau:
Bảng 3: Tình hình vốn của công ty.
Đơn vị: tỷ đồng
1998 1999 2000 2001 2002 Năm
Chỉ tiêu
Giá
trị
% Giá
trị
% Giá
trị
% Giá
trị
% Giá
trị
%
Tổngvốn 5,2 100 7,2 100 8,0 100 8,15 100 9,1 100
VLĐ 2,1 38 3,6 50 4,3 54 4,4 54 5,1 56
VCĐ 3,1 62 3,6 50 3,7 46 3,75 46 4,0 44
Qua bảng trên ta thấy, với số vốn 9,1 tỷ của Công ty vào cuối năm 2002
có thể nói rằng đó là một số vốn nhỏ, đặc biệt với hoạt động xuất nhập khẩu
thì số vốn đó càng nhỏ hơn. Vốn nhỏ cho nên, Công ty xuất nhập khẩu Hà
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 42
Tây gặp không ít những khó khăn trong cạnh tranh và trong quá trình thực
hiện hợp đồng ngoại thương.
Cơ cấu vốn của công ty cũng có một đặc điểm khá nổi bật đó là tỷ trọng
vốn lưu động của công ty luôn tăng nhanh hơn vốn cố định và thường chiếm
hơn 50% tổng vốn. Đây là một đặc trưng của doanh nghiệp thương mại so
với doanh nghiệp công nghiệp. Trong những năm tới với sự phát triển không
ngừng của công ty thì đòi hỏi vốn lưu động của công ty cần phải nhiều hơn
nữa.
Về nguồn vốn của công ty, công ty huy động từ nhiều nguồn khác nhau
để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty bao gồm: Vốn ngân
sách Nhà nước cấp, vốn tự có của công ty bổ xung từ lợi nhuận hàng năm,
vốn vay ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác, vốn vay của cán bộ công
nhân viên trong công ty hoặc bên ngoài.
Với điều kiện về vốn hạn chế như vậy, Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây
đã đặt ra cho mình câu hỏi “ Vậy phải sử dụng đồng vốn như thế nào cho có
hiệu quả cao nhất ”. Công ty đã tự tìm ra cho mình con đương hợp lý là hoạt
động theo cơ chế khoán quản như đã nói ở trên và kinh doanh dựa trên
nguyên tắc lấy thu bù chi. “ Hàng vào tiền ra ” và “ Hàng ra, tiền vào ” do đó
đã đẩy nhanh được tốc độ lưu chuyển vốn tăng kim ngạch và hiệu quả trong
kinh doanh. Mặt khác, kinh doanh phải dựa trên cơ sở nghiên cứu kỹ tình
hình thị trường đầu vào cũng như thị trường đầu ra của sản phẩm để đạt
được hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Bảng dưới đây nói lên tình hình kinh doanh của công ty qua một số năm
gần đây.
Bảng 4: Kim ngạch xuất nhập khẩu ở công ty xuất nhập khẩu Hà Tây.
Đơn vị: USD
Năm
Chỉ tiêu
1999 2000 2001 2002
Tổng kim
ngạch XNK
10.195.000 13.521.994 14.293.400 16.784.515
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 43
Kim ngạch
XK
5.156.000 7.000.589 7.321.400 8.864.000
Kim ngạch
NK
5.039.000 6.521.405 6.972.000 7.920.515
Qua bảng trên ta thấy kim ngạch hoạt động xuất nhập khẩu của công ty
qua các năm đều tăng. Điều này chứng tỏ sự đi lên vững chắc của Công ty.
Ta có thể tìm hiểu sâu hơn một chút về các mặt hàng xuất khẩu và nhập
khẩu chính của Công ty. Số liệu phân tích là năm 2002.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 44
Bảng 5: Tình hình thực hiện kế hoạch XNK của công ty năm 2002
Đơn vị: USD.
Chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện % so với KH
I. Xuất khẩu 8.011.288.89 8.863.999,95 110,64
Mây tre đan 1.200.000 1.395.447 116,28
Thảm len 133.898,89 132.890,89 99,25
Thêu ren 18.000 16.000 88,89
Bàn ghế 18.170 17.504,52 96,33
Quần áo dệt kim 1.040.200 1.140.344 109,63
Tơ tằm 1.700.000 1.871.193,54 110,07
Chè 180.520 173.720 96,23
Lạc nhân 320.500 317.500 99,06
Hoa quả 2.400.000 2.800.000 116,66
Hàng hoá khác 1.000.000 999.400 99,94
II. Nhập khẩu 7.092.500 7.920.515 111,67
Thuốc trừ sâu 250.500 247.738 98,89
Ôtô 90.000 85.000 94,44
Xe máy 450.000 483.100 107,35
Sợi acrylic 902.000 926.700 102,74
Hàng điện lạnh 3.000.000 3.700.000 123,33
Hàng điện tử 2.400.000 2.477.977 103,25
Như trên đã thấy, trong tình hình khó khăn chung cả về thị trường đầu
vào và thị trường đầu ra cho hàng hoá, đặc biệt là sự khó khăn về đồng vốn
eo hẹp của mình. Bảng trên đã chỉ ra rằng, tình hình kinh doanh của công ty
ngày càng phát triển, sự đa dạng của các hàng hoá trong kinh doanh và sự
quan tâm tới một số mặt hàng và thị trường chủ lực đã tạo cho công ty môtj
thế đứng vững chắc và ngày càng đi lên.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty tăng khoảng 20%/năm
trong giai đoạn từ 1998 đến 2002. Khách quan mà nhận xét, mức tăng
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 45
trưởng như vậy là tương đối cao. Sự tăng lên nhanh chóng của kim ngạch
xuất nhập khẩu đồng nghĩa với việc công ty ngày càng thực hiện tốt nghĩa vụ
của mình đối với ngân sách Nhà nước.
Bảng 6: Tình hình nộp ngân sách của công ty trong những năm gần đây.
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 1998 1999 2000 2001 2002
Nộp ngân sách 19,455 16,774 10,901 12,852 31,481
Song nếu chỉ nhìn vào các số liệu trên đây thì chưa thể đánh giá chính
xác được công việc làm ăn của công ty như thế nào, bởi các chỉ tiêu tren mới
chỉ phản ánh kết quả hoạt động, còn muốn phản ánh chính xác hoạt động của
công ty thì ta còn phải dựa vào các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động của
công ty như: lợi nhuận, lợi nhuận trên vốn, tỷ suất lợi nhuận trên doanh
thu…Sự phân tích sau sẽ làm rõ tình hình hoạt động của công ty xét về mặt
hiệu quả.
Bảng 7: Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của công ty
Năm
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
2002
Lợi nhuận(tr) 347 401 301,223 360,219 464
Doanh thu(tỷ) 87,3 91,6 88,7 92,1 109,4
LN/DT 0,00397 0,00437 0,00339 0,00391 0,00424
DT/Vốn 16,79 12,72 11,08 11,30 12,02
LN/Vốn 0,0667 0,05569 0,0376 0,0442 0,051
Bảng trên cho ta biết rằng công việc làm ăn nói chung là đạt hiệu quả.
Việc tỷ suất lợi nhuận trên vốn là 0,0667 năm1998 và giảm xuống 0,0376
năm 2000 là do Công ty phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt nên đã tăng
chi phí đầu vào và giảm giá bán ra, cùng với nó là sự khó khăn về kinh tế
trên thế giới đã làm cho giá cả của đa số các mặt hàng xuất khẩu của Việt
Nam đều bị mất giá. Tuy nhiên, với sự cố gắng khắc phục khó khăn công ty
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 46
đã vượt qua được những biến động của thị trường nên tỷ suất lợi nhuận trên
vốn từ 0,0376 năm 2000 đã tăng lên 0,051 năm2002 và điều đó cũng chứng
tỏ công ty ngày càng kinh doanh có hiệu quả hơn.
Để đạt được những kết quả trên ta có thể nêu lên một số lý do chính sau
đây:
+ Có sự chỉ đạo của tỉnh uỷ, UBND tỉnh, sự giúp đỡ của các ngành tài
chính, ngân hàng, cục thuế, bộ thương mại…
+ Có sự lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ, Bna giám đốc, sự quản lý của
công đoàn, sự phấn đấu nỗ lực của các phòng kinh doanh, các xí nghiệp và
các trạm, trong đó yếu tố đầu tiên là sự gương mẫu của các đồng chí cán bộ
đảng viên, cùng toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty.
2.2 Tình hình kinh doanh mặt hàng mây tre đan
Trong kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh xuất nhập khẩu, mọi doanh
nghiệp muốn tồn tại và phát triển đều phải phát triển cho mình mặt hàng
chiến lược. Sự ôm đồm nhiều mặt hàng tỏ ra là không thích hợp nhất là
trong điều kiện đồng vốn hạn hẹp như hiện nay và đội ngũ cán bộ chưa thật
sự có đủ kinh nghiệm. Việc phát triển một số mặt hàng chủ lực tạo ra cho
công ty một thị trường lớn và ổn định nhờ đó mở rộng được quy mô và có
thể chuyên môn hoá tạo điều kiện thuận lợi cho việc cạnh tranh. Tuy nhiên,
việc tập trung lớn vào một số mặt hàng lại có thể dẫn tới sự rủi ro, khó
chuyển đổi kinh doanh khi thị trường biến động.
Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là một doanh nghiệp Nhà nước, kinh
doanh xuất nhập khẩu rất đa dạng, nhiều mặt hàng song nhận thức được phải
có mặt hàng xuất khẩu chiến lược nên Công ty đã lựa chọn cho mình một số
mặt hàng xuất khẩu chiến lược trong đó mặt hàng mây tre đan được chọn là
mặt hàng đầu tiên. Việc lựa chọn mặt hàng mây tre đan là mặt hàng xuất
khẩu chiến lược dựa trên những cơ sở sau:
◊ Hiện nay, nhu cầu trên thế giới về mặt hàng mây tre là rất lớn. Đây là
mặt hàng có nhu cầu gần như vô tận chỉ có điều ở mỗi giai đoạn phát triển
khác nhau, mỗi thị trường khác nhau thì nhu cầu về mặt hàng này cũng khác
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 47
nhau. Điều đáng lo không phải là không có thị trường tiêu thụ mà chính là
sản phẩm của ta có phù hợp với nhu cầu thị trường hay không mà thôi.
◊Nguồn nguyên liệu và nhân công để sản xuất ra hàng mây tre đan rất
nhiều, sẵn có và rẻ tiền, chi phí sản xuất rẻ lợi nhuận cao. Hơn nữa, công ty
xuất nhập khẩu Hà Tây còn có lợi thế là một doanh nghiệp Nhà nước đóng
trên tỉnh Hà Tây nơi có làng nghề thủ công này rất phát triển. Đây sẽ là một
thuận lợi lớn trong việc đảm bảo nguồn hàng ổn định cho xuất khẩu.
◊Hàng mây tre đan của Việt Nam rất đa dạng về mẫu mã, hình thức, màu
sắc, có sức cạnh tranh lớn trên thị trường thế giới.
◊Phát triển mặt hàng mây tre xuất khẩu góp phần tạo một khối lượng
công việc lớn cho lực lượng lao động nông thôn lúc nông nhàn, tăng thêm
thu nhập cho lao động nông thôn.
◊Trong những năm qua, mặt hàng mây tre xuất khẩu ngày càng chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng số các mặt hàng xuất khẩu của công ty, đem lại hiệu
quả kinh tế và hiệu quả xã hội cao.
Kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng mây tre đan tăng lên không ngừng
trong các năm vừa qua, chứng tỏ tính chiến lược của nó trong các mặt hàng
xuất khẩu.
Bảng 8: Tình hình kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre đan “ 1999-2002 ”
1999 2000 2001 2002
Giá trị
(USD)
Tốcđộ
tăng%
Giá trị
(USD)
Tốcđộ
tăng%
Giá trị
(USD)
Tốcđộ
tăng%
Giá trị
(USD)
Tốcđộ
tăng%
619.667
24,56
726.095
17,17
957.507
31,87
1.395.447
45,74
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 48
Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng mây tre đan năm 1998 là 497.500USD.
Ta thấy kim ngạch xuất khẩu mặt hàng nàyđã tăng lên một cách nhanh
chóng, nếu lấy năm 2002 so với năm 1998 thì kim ngạch xuất khẩu đã tăng
lên 4 lần. Bên cạnh sự tăng lên của kim ngạch xuất khẩu mặt hàng mây tre,
tỷ trọng của nó trong các mặt hàng xuất khẩu cũng được nâng cao hơn.
Trong những năm vừa qua, mỗi năm công ty xuất nhập khẩu Hà Tây
xuất khẩu rất nhiều mặt hàng, sau đây ta xét một số mặt hàng chính được
xuất khẩu trong các năm vừa qua.
Bảng 9: Tình hình một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Công ty
Đơn vị: USD
1999 2000 2001 2002 Mặt
hàng Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị %
Mây
tre
619667 10,06 726995 10,37 957507 13,07 1305447 15,75
Tơ
tằm
1024850 16,66 924760 13,2 1240050 16,93 1524850 21,11
Thả 101800,7 1,65 120300 1,71 110700 1,51 132898 1,49
0
200000
400000
600000
800000
1000000
1200000
1400000
1998 1999 2000 2001 2002
Gi¸ trÞ 497500
619667
72609
95750
1395447
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 49
m len
Lạc
nhân
300750 4,88 350000 4,99 302400 4,13 317500 3,58
Chè 200450 3,25 190804 2,72 170400 2,32 173120 1,95
Qua bảng trên ta thấy, kim ngạch mặt hàng mây tre đan tăng lên rất
nhanh qua các năm, tỷ trọng mặt hàng mây tre đan trong tổng kim ngạch
xuất khẩu cũng luôn tăng qua các năm và thường đạt trên 10% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó, một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
khác của Công ty lại có kim ngạch và tỷ trọng luôn biến động và có xu
hướng biến động giảm qua các năm như Lạc nhân, Chè.
Ta có thể thấy được một số nguyên nhân chính dẫn đến kết quả tăng kim
ngạch xuất khẩu mặt hàng mây tre đan là:
◊Công tác tiếp thị được coi trọng, tham gia tích cực vào triển lãm, hội
chợ của đị phương, Trung ương và cả ở nước ngoài. Có in các Catalog về
mặt hàng mây tre đan cũng như gửi trực tiếp mẫu mã sản phẩm sang nước
ngoài để tìm bạn hàng và ký hợp đồng.
◊Cử lãnh đạo, cán bộ sang tìm hiểu thị trường Đài Loan, Nga để tìm hiểu
nhu cầu thị trường và ký kết được các hợp đồng kinh tế.
◊Cán bộ công nhân viên hoạt động trong cơ chế mới nên rất tích cực,
năng động, sáng tạo, làm việc có hiệu quả cao.
◊Công tác tạo nguồn hàng được củng cố, tăng cường quan hệ giữa Công
ty với các cơ sở sản xuất mây tre như: Phú Vinh, Phú Nghĩa, Trung Hoà,
Trường Yên, Đông Phương Yên… thuộc huyện Chương Mỹ, Phú Túc, Phú
Xuyên, trạm Thường Tín gắn với cơ sở ở Ninh Sở, tạo mối quan hệ tốt giữa
chủ hàng và Công ty.
◊Bản thân mặt hàng mây tre ngày càng được đa dạng về hình thức, mẫu
mã, đẹp lại bền do đó được khách hàng rất ưa thích.
◊Sự quản lý và chỉ đạo thường xuyên và quan hệ chặt chẽ giữa công ty
với Bộ thương mại, Sở thương mại, Bộ kế hoạch đầu tư, Tổng công ty Trung
ương cũng có tác dụng lớn tới hoạt động của Công ty.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 50
2.3 Cơ cấu mặt hàng mây tre đan xuất khẩu
Với nguồn nguyên liệu sẵn có, đa dạng, mềm, dẻo và dai, bền song cũng
rất cứng cáp và chắc, mặt hàng mây tre đan khá đa dạng về chủng loại,
phong phú về mẫu mã và hình thức.
Song để thích hợp với tình hình Công ty, hiện nay sản phẩm mây tre đan
xuất khẩu được phân thành các nhóm chính sau:
Nhóm 1: Các sản phẩm nội thất gồm bàn ghế, giường, tủ được làm chủ
yếu từ các loại nguyên liệu như song mây, guộc, có kết phối với gỗ để làm
tăng thêm độ bền và tính thẩm mỹ. Loại này chiếm khoảng 15% kim ngạch
xuất khẩu hàng mây tre đan của công ty. Nhóm này đem lại lợi nhuận tương
đối vì sản xuất đơn giản, nguyên liệu sẵn có, hàng dễ tiêu thụ.
Nhóm 2: Bao gồm các loại đồ trang trí thủ công như lẵng hoa, lộc bình,
làn, giỏ, chao đèn, khay, mũ du lịch… có nhiều kích cỡ, màu sắc khác nhau
được kết phối từ các loại nguyên vật liệu hay đơn thuần là một loại nguyên
liệu. Sản phẩm này chủ yếu được làm từ cây có sợi như song mây, guộc,
giang, loại này rất đa dạng và đẹp. Lợi nhuận của nhóm hàng này rất cao và
đay là nhóm chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch hàng mây tre đan xuất khẩu
của Công ty, chiếm khoảng 75%.
Nhóm 3: Các sản phẩm gia đình như mành trúc, mành tre, buông các
loại cụ thể là mành thô, mành lụa, mành bỏ, mành khuyên. Các loại chiếu
mây, đũa tre, tăm và các loại sản phẩm khác… phục vụ cho nhu cầu thiết
thực của người tiêu dùng. Loại này đem lại lợi nhuận không cao như các
nhóm hàng trên và chiếm khoảng 10% kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre
đan của công ty.
2.4 Tình hình thị trường mặt hàng mây tre đan của Công ty
Ta biết rằng hoạt động kinh doanh luôn diễn ra trên thương trường và
phải bắt nguồn từ thị trường, các sản phẩm mây tre đan là sản phẩm luôn gắn
liền với thị trường và xuất phát từ thị trường, sản xuất theo yêu cầu của thị
trường. Có thể nói rằng, thị trường cho mặt hàng mây tre đan là rất lớn, hầu
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 51
như trên toàn thế giới, các quốc gia đều có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm này.
Tuy nhiên rất khó có một điều kiện cho bất cứ một công ty nào có đủ sức
mạnh vươn ra thị trường trên toàn thế giới, các công ty chỉ có thể quan tâm
tới một số thị trường trọng điểm.
Cho tới những năm đầu của thập kỷ 90 công ty xuất nhập khẩu Hà
Tây vẫn chủ yếu làm nhiệm vụ thu gom hàng hoá xuất khẩu qua trung gian
là tổng công ty trung ương. Vào thời gian này tỷ trọng xuất nhập khẩu trực
tiếp là rất nhỏ do vậy thị trường xuất khẩu rất hạn chế. Thêm vào đó, cũng
vào những năm đầu của thập kỷ 90, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước
Đông Âu cũng báo hiệu rằng thị trường xuất khẩu của công ty hoàn toàn
mất. Công ty trở lại với hai bàn tay trắng đi tìm kiếm thị trường mới.
Cùng với việc không có thị trường mới, thị trường cũ đã mất, Công ty
xuất nhập khẩu Hà Tây phải đối đầu với các cơ sở sản xuất và xuất khẩu mặt
hàng mây tre đan mới được bung ra và các cơ sở cũ. Đặc biệt là sự cạnh
tranh gay gắt của các công ty lớn như BAROTEX, ARTEXPORT, LICOLA,
NAORIUEX, Công ty mỹ thuật Thành Mỹ, Công ty mây tre nứa lá thành
phố Hồ Chí Minh và một loạt các cơ sở, các công ty sản xuất và kinh doanh
xuất khẩu mặt hàng mây tre đan này.
Trước tình hình cực kỳ khó khăn đó, Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây
đã từng bước mò mẫm, tìm kiếm thị trường mới, củng cố thị trường tìm
được và không ngừng tìm cách mở rộng thị trường. Mặt khác chính sách
kinh tế mới hướng vào xuất khẩu đã tạo cho Công ty vươn mạnh hơn ra thị
trường thế giới, tăng dần kim ngạch xuất khẩu mây tre đan.
Sau đây ta xem xét một số thị trường có ảnh hưởng lớn tới hoạt động
xuất khẩu của Công ty.
Thị trường Nga và Đông Âu
Đây là khu vực thị trường rộng lớn và đặc biệt có quan hệ làm ăn với
ta rất lâu đời, vào trước thập kỷ 90, chủ yếu sản phẩm mây tre đan xuất khẩu
sang thị trường này. Mặc dù có sự biến động lớn vào đầu những năm 90
song đây vẫn là thị trường quan trọng và đáng được lưu ý, kim ngạch của thị
trường này vẫn tăng qua các năm. Việc quan hệ ngoại thương với các nước
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 52
này ta có thuận lợi lớn là sự hiểu biết lẫn nhau, yêu cầu về sản phẩm không
khắt khe, nhu cầu tiêu thụ lớn.
Hiện nay, các nước Đông Âu có sự thay đổi cơ cấu chính trị và cơ cấu
kinh tế, đây là cơ hội cho nước ta nói chung và của công ty xuất nhập khẩu
Hà Tây nói riêng mở rộng thị trường và trao đổi sản phẩm. Thông qua thị
trường này để tạo ra các sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường quốc tế, từ
đó làm chỗ dựa để mở rộng quan hệ kinh tế sang các thị trường khác.
Thị trường Châu á - Thái Bình Dương
Châu á là khu vực kinh tế năng động, có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao,
mặc dù có cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ xảy ra nửa cuối năm 1997
song Châu á vẫn được coi là khu vực kinh tế có tốc độ phát triển nhanh và
trong thế kỷ 21 Châu á sẽ là trung tâm kinh tế thế giới với một tỷ lệ phát
triển cao hơn các khu vực khác. Tại Châu á, kim ngạch nhập khẩu hàng mây
tre đan đứng thứ hai trên thế giới. Các nước nhập khẩu nhiều nhất là Nhật
Bản, Hongkong, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc. Đây là những nước chủ
yếu nhập khẩu nguyên liệu vag bán thành phẩm về để chế biến thành sản
phẩm hoàn thiện phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên hiện
nay các nước xuất khẩu mây tre nguyên liệu (Indonexia, Malaysia, Việt
Nam) đã và đang sẽ có chính sách hoàn thiện hơn để hạn chế xuất khẩu
nguyên liệu, do vậy trong những năm tới lượng nhập khẩu của các nước trên
sẽ giảm.
Tại thị trường Châu á tỷ trọng xuất khẩu mây tre đan của Công ty xuất
nhập khẩu Hà Tây là rất lớn, xuất khẩu sang các nước Châu á chúng ta có lợi
thế là gần nhau về mặt địa lý, phong tục tập quán do vậy đây đã đang và sẽ
vẫn là thị trường chính và còn nhiều tiềm năng.
Thị trường Tây Âu
Đây là một thị trường có tiềm lực về kinh tế và là những nước đóng
vai trò cung cấp nền công nghệ, kỹ thuật cho các nước trên thế giới. Đối với
những nước này, nhu cầu về sản phẩm mây tre đan là khá lớn nhưng đòi hỏi
khắt khe về chất lượng. Hàng mây tre đan từ lâu đã chinh phục người tiêu
dùng ở khu vực này. Phần lớn các nước Tây Âu là nhập khẩu mây tre định
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 53
dạng thành phẩm, trong đó đồ nội thất chiếm 80-85%. Những nước nhập
khẩu lớn và ổn định là Tây Ban Nha, Hà Lan, Ý, Pháp…
Muốn làm ăn lâu dài với thị trường này thì phải chú trọng đến việc nâng
cao chất lượng, đa dạng hoá mẫu mã và hình thức sản phẩm. Đây là thị
trường đầy hứa hẹn nhưng lại khó thâm nhập.
Thị trường Châu Mỹ
Châu Mỹ chiếm khoảng 15% lượng nhập khẩu mây tre đan trên toàn thế
giới. Các nước nhập khẩu chính là Mỹ, Canada, Achentina. Người tiêu dùng
Châu Mỹ rất thích thú với hàng mây tre đan. Trong tương lai, Châu Mỹ
được đánh giá là thị trường rất có triển vọng.
Để thâm nhập thị trường mới công ty đã sử dụng nhiều biện pháp, song
vì đây là thị trường ngoài nước nên chi phí để tìm hiểu và tiếp cận thị trường
tương đối lớn. Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây đã sử dụng đồng vốn có hạn
của mình để tìm ra phương pháp tiếp cận hợp lý tiết kiệm được chi phí đồng
thời cũng không kém phần hiệu quả, chẳng hạn như:
◊Tham gia các hội chợ triển lãm ở trong và ngoài nước để giới thiệu và
ký kết các hợp đồng ngoại thương.
◊Chụp ảnh, in Catalog sau đó gửi ra nước ngoài nhằm giới thiệu sản
phẩm với các khách hàng nước ngoài. Công ty cũng trực tiếp gửi sản phẩm
mẫu đi chào hàng để tìm kiếm khách hàng và ký kết hợp đồng.
◊Công ty còn trực tiếp cử cán bộ ra nước ngoài để tìm hiểu thị trường,
nắm vững tình hình biến động của thị trường về sản phẩm để có những thay
đổi hợp lý nhằm phù hợp với yêu cầu thị trường.
◊Song quan tâm nhất phải kể đến việc công ty đã thường xuyên đổi mới
nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã sao cho thật phong phú, đa
dạng để thích ứng với những yêu cầu mới và thoả mãn cả những khách hàng
khó tính nhất.
◊Bên cạnh các biện pháp trên, công ty còn cố gắng hoàn thiện mọi công
việc có liên quan tới công tác xuất nhập khẩu như tạo nguồn hàng, các thủ
tục, phương thức thanh toán.
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 54
Với tất cả nỗ lực đó, cho tới nay Công ty đã có quan hệ làm ăn buôn bán
với trên 20 nước trên thế giới. Mối quan hệ của Công ty với bạn hàng nước
ngoài ngày càng được cải thiện. Công ty đặc biệt chú trọng tới các khách
hàng trong khu vực Châu á, đồng thời không ngừng mở rộng mối quan hệ
của mình với khu vực Châu Âu và các nước thuộc khối Đông Âu cũ, mặc dù
hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa cũ ở Đông Âu còn gặp nhiều khó khăn
về kinh tế, chính trị, song đây là thị trường đã từng quen thuộc và rất có triển
vọng nên trong thời gian tới mục tiêu của công ty là cố gắng tìm cách khôi
phục lại các thị trường Nga và Đông Âu cũ. Điều này cũng phù hợp với mục
tiêu phát triển thị trường xuất khẩu của Đảng và Nhà nước đề ra.
Trong mối quan hệ với trên 20 nước thì tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng mây
tre đan sang các nước thuộc Châu á vẫn chiếm tỷ trọng lớn như Nhật khoảng
15%, Đài Loan khoảng gần 20%. Bảng dưới đây cho biết tỷ trọng của mặt
hàng mây tre sang một số nước chủ yếu:
Bảng 10: Một số thị trường chính của sản phẩm mây tre
Đơn vị: USD
1999 2000 2001 2002 Năm
Nước
KN
(USD)
TT
%
KN
(USD)
TT
%
KN
(USD)
TT
%
KN
(USD)
TT
%
Nhật 72.204 11,49
105.792 14,57 142.860 14,92 221.178 15,85
Đông
Âu
342.420 55,25 378.513 52,13 481.817 50,32 692.839 49,65
Đài
Loan
88.304 14,25 110.437 15,21 161.627 16,88 272.112 19,50
Nước
#
117.739 19,00 113.351 18,09 171.203 17,88 209.317 15,00
KN: kim ngạch
TT: tỷ trọng
3. Đánh giá tình hình xuất khẩu của Công ty
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý
Quúnh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 55
Phần trên mới trình bày được thực trạng của công tác xuất khẩu hàng
mây tre đan ở công ty xuất nhập khẩu Hà Tây, để có cái nhìn rõ hơn dưới
đây ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về Công ty thông qua những thuận lợi và khó khăn
mà Công ty gặp phải trong hoạt động xuất khẩu, sau đó đánh giá những mặt
được và chưa được trong lĩnh vực này.
3.1 Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động kinh doanh
Những thuận lợi
Về phía Nhà nước và các cấp chính quyền
◊Từ những năm 1990 trở lại đây, hơn bao giờ hết, chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước hướng về xuất khẩu lại được Nhà nước
cùng toàn thể các cấp, các ngành quan tâm và thực hiện một cách rộng khắp.
Chính sách mở cửa nền kinh tế với phương châm “ Việt Nam muốn làm bạn
với tất cả các nước ” đã góp phần to lớn thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát
triển. Việt Nam đã tạo cho mình một chỗ đứng trên trường quốc tế và tham
gia ngày càng sâu vào phân công lao động quốc tế. Từ năm 1995 trở lại đây
có
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.pdf