Tài liệu Luận văn Vai trò của ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc triển khai thực hiện dự án thu hồi đất bồi thường hỗ trợ tái định cư Thực tiễn tại Thành phố Cần Thơ: Luận văn
Vai trò của UBND cấp tỉnh trong việc triển khai thực hiện dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư – Thực tiễn tại Thành phố Cần Thơ
Mục Lục
LỜI NÓI ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Đất nước ta hiện nay đứng trong nền kinh tế phát triển như vũ bão, đòi hỏi phải hoạch định một chiến lược phát triển đất nước theo hướng phát triển bền vững, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính vì những yêu cầu phát triển mạnh mẽ đó ta cần phải thực hiện một nhiệm vụ rất là quan trọng, đó là vấn đề xây dựng chỉnh trang đô thị đây là một trong những tiêu chí hàng đầu đánh giá một đất nước phát triển, vì thế trong những năm gần đây Nhà nước ta luôn quan tâm và chú trọng đến vấn đề xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị cũng như xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, cũng không quên nhắc đến vấn đề xây dựng các căn cứ địa quốc phòng để đáp ứng vai trò bảo vệ đất nước là một vấn đề đặc biệt quan trọng vì một đất nước phát triển thì phải cần có một nền Q...
74 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1024 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vai trò của ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc triển khai thực hiện dự án thu hồi đất bồi thường hỗ trợ tái định cư Thực tiễn tại Thành phố Cần Thơ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Vai trò của UBND cấp tỉnh trong việc triển khai thực hiện dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư – Thực tiễn tại Thành phố Cần Thơ
Mục Lục
LỜI NÓI ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Đất nước ta hiện nay đứng trong nền kinh tế phát triển như vũ bão, đòi hỏi phải hoạch định một chiến lược phát triển đất nước theo hướng phát triển bền vững, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính vì những yêu cầu phát triển mạnh mẽ đó ta cần phải thực hiện một nhiệm vụ rất là quan trọng, đó là vấn đề xây dựng chỉnh trang đô thị đây là một trong những tiêu chí hàng đầu đánh giá một đất nước phát triển, vì thế trong những năm gần đây Nhà nước ta luôn quan tâm và chú trọng đến vấn đề xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị cũng như xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, cũng không quên nhắc đến vấn đề xây dựng các căn cứ địa quốc phòng để đáp ứng vai trò bảo vệ đất nước là một vấn đề đặc biệt quan trọng vì một đất nước phát triển thì phải cần có một nền Quốc phòng vững mạnh đáp ứng được nhu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới hiện nay. Một khi nói đến vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng thì vấn đề thu hồi đất là một vấn đề quan trọng và rất là cấp thiết, để đáp ứng cho nhu cầu xây dựng phát triển đất nước, ta cần phải đảm bảo có một quỹ đất đáp ứng được nhu cầu trên. Một trong những vấn đề quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng hiện nay luôn có sự quan tâm sát sao của các ngành, các cấp là vấn đề thu hồi đất để thực hiện quá trình xây dựng, vì vai trò quan trọng của vấn đề thu hồi đất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của đại bộ phận những người dân trong vùng bị quy hoạch, cho nên Luật đất đai 2003 hiện hành quy định chỉ có hai chủ thể có thẩm quyền thu hồi đất đó là (Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện). Theo đó Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quy định chủ thể có thẩm quyền thu hồi đất cũng là chủ thể thực hiện vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Trong quá trình triển khai thực hiện dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Ủy ban nhân dân luôn nhận được sự quan tâm cũng như hỗ trợ nhiệt tình của các ngành, các cấp có liên quan và vấn đề triển khai, thực hiện Ủy ban nhân dân tỉnh giao nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho các cơ quan chuyên môn: Hội đồng bồi thường thiệt hại và giải phóng mặt bằng, Tổ chức phát triển quỹ đất nhưng trên thực tế không phải vì vậy mà ta không thấy được vai trò đặc biệt quan trọng của ủy ban nhân dân tỉnh trong vấn đề chỉ đạo thực hiện trong toàn bộ quá trình thực hiện của dự án, bởi vì trong quá trình triển khai thực hiện luôn gặp phải những khó khăn vướng mắc thì chính lúc này Ủy ban nhân dân tỉnh đóng một vai trò then chốt sẽ quyết định giải quyết những khó khăn, vướng mắc vấp phải trong quá trình thực hiện.
Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính địa phương sẽ giải quyết toàn bộ công việc liên quan đến kinh tế, xã hội của địa phương và là chiếc cầu nối quan trọng với trung ương và sẽ chịu trách nhiệm chính với trung ương những công việc mà Ủy ban nhân dân đảm nhiệm thi hành. Qua quá trình tìm hiểu những quy định của pháp luật cũng như và thực tế người viết nhận thấy, trong quá trình triển khai thực hiện các dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì Ủy ban nhân dân tỉnh sẽ đóng một vai trò chỉ đạo trực tiếp và chịu mọi trách nhiệm trong quá trình thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Đây chính là lý do khiến người viết chọn đề tài “Vai trò của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc triển khai thực hiện dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư”.
2. Tình hình nghiên cứu
Thu hồi đất luôn là vấn đề được mọi người quan tâm đến đặc biệt từ các ngành, các cấp cũng như từ những người dân bị thu hồi đất. Vì vai trò quan trọng của vấn đề thu hồi đất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của đại bộ phận những người dân trong vùng bị quy hoạch. Vì tính chất đặc biệt quan trọng này cho nên Luật đất đai 2003 hiện hành chỉ quy định có hai chủ thể có thẩm quyền thu hồi đất (Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện). Với vai trò đặc biệt quan trọng của Ủy ban nhân dân trong vấn đề triển khai, thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, cùng với vai trò quan trọng của Ủy ban nhân dân tỉnh trong việc triển khai, thực hiện nhiệm vụ thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, nên luôn được sự quan tâm và hỗ trợ của rất nhiều chủ thể có liên quan trong quá trình thực hiện cũng như người có đất bị thu hồi và tất cả những ai có nhu cầu tìm hiểu về vấn đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Qua sự tìm hiểu về “Vai trò của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc triển khai thực hiện dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư”, góp phần cho quá trình triển khai thực hiện được diễn ra một cách suôn sẻ, với một trình tự được phân cấp rõ ràng, quy định chức trách nhiệm vụ của từng chủ thể sẽ giúp cho quá trình thực hiện không bị chồng chéo, mỗi chủ thể đều phải có trách nhiệm thực hiện một nhiệm vụ cụ thể. Do vậy với sự phân cấp rõ ràng từ trên đến dưới như vậy sẽ tạo điều kiện cho dự án hoàn thành đúng tiến độ đặt ra đảm bảo được quyền lợi của người dân có đất bị thu hồi cũng như lợi ích của nhà đầu tư cũng như lợi ích của doanh nghiệp. Với sự phân cấp rõ ràng hoàn thiện trong quá trình thực hiện giúp cho dự án hoàn thành sớm nhất sẽ góp phần xây dựng đất nước phát triển bền vững theo đúng con đường đã vạch ra.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình tìm hiểu về những quy định chung của pháp luật về vấn đề thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, cũng như vai trò rất cần thiết của Ủy ban nhân dân tỉnh trong quá trình triển khai, thực hiện dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Trong quá trình nghiên cứu còn gặp khó khăn về mặt chủ quan, khách quan trong nghiên cứu thực tiễn về “vai trò của Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ trong triển khai, thực hiện dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư” người viết không đi sâu cụ thể vào vai trò của Ủy ban nhân dân thành phố trong triển khai thực hiện. Mà chỉ nghiên cứu những khó khăn và bất cấp tồn tại trong quá trình triển khai thực hiện, từ đó thấy được vai trò cần thiết của Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ trong việc chỉ đạo giải quyết những khó khăn, bất cấp cụ thể đó.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành bài luận văn của mình, người viết đã sử dụng các phương pháp so sánh, phương pháp phân tích Luật viết, phương pháp đánh giá bình luận và phương pháp sưu tầm tài liệu.
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung gồm ba chương:
Chương 1: Phần khái quát đầu tiên về vấn đề nghiên cứu, người viết chỉ đưa lên những khái niệm chung do pháp luật quy định trong vấn đề thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Từ đó làm căn cứ cho quá trình phân tích trong chương tiếp theo
Chương 2: Chương này người viết tập chung phân tích nội dung về “Vai trò của UBND cấp tỉnh trong việc triển khai thực hiện dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư”, trên phương diện những quy định chung của pháp luật, nhằm thấy rõ được vai trò quan trọng của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quá trình triển khai, thực hiện dự án.
Chương 3: Người viết nêu lên những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn thành phố Cần Thơ. Từ đó nêu lên được tầm quan trọng của Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ trong việc chỉ đạo giải quyết những khó khăn, vướng mắc vấp phải trong quá trình thực hiện thông qua việc ban hành những quy định để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Mặc dù qua bài viết thì người viết đã dành rất nhiều thời gian cũng như tâm quyết của mình trong quá trình tìm hiểu thực tế và các quy định chung của pháp luật, nhưng vẫn còn hạn chế rất nhiều do thiếu thốn về mặt tài liệu để giúp cho Luận văn hoàn chỉnh hơn, cho nên Luận văn chỉ chứa đựng những kiến thức và tầm nhìn căn bản về vai trò của UBND cấp tỉnh trong việc triển khai thực hiện dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Do đó trong quá trình viết người viết không tránh khỏi những thiếu sót nên rất mong được sự góp ý chân thành của quý Thầy Cô cũng như của tất cả các bạn sinh viên giúp cho người viết có hướng hoàn chỉnh hơn kiến thức của mình. Xin cảm ơn tất cả quý Thầy Cô cũng như các bạn sinh viên đã giúp đỡ mình trong quá trình hoàn thành Luận văn này.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THU HỒI ĐẤT, BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ,
TÁI ĐỊNH CƯ.
1.1 Khái niệm
Thu hồi đất Điều 4 khoản 5 Luật đất đai năm 2003
Theo quy định hiện hành thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất thu lại đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý.
Như vậy ta có thể hiểu định nghĩa về thu hồi đất như sau: Là văn bản hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm chấm dứt một quan hệ pháp Luật đất đai để phục vụ lợi ích của Nhà nước, của xã hội hoặc xử lý hành chính hành vi vi phạm pháp Luật đất đai của người sử dụng đất.
Thu hồi đất cần phải hiểu dưới các góc độ như sau:
- Là một quyết định hành chính của cơ quan có thẩm quyền nhằm chấm dứt mối quan hệ sử dụng đất đối với người sử dụng. Mang tính chất chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, tổ chức sang cho Nhà nước.
- Quyết định hành chính thể hiện quyền lực Nhà nước nhằm thực thi một trong những nội dung của quản lý Nhà nước về đất đai.
- Việc thu hồi đất phát điểm từ nhu cầu của Nhà nước và xã hội hoặc là biện pháp chế tài được áp dụng nhằm xử lý các hành vi phạm pháp Luật đất đai của người sử dụng.
- Và để phục vụ cho mục đích công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong giai đoạn vừa qua, Nhà nước ta đã tiến hành thu hồi có đền bù một số tài sản của cá nhân, tổ chức, trong đó có đất đai để dùng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế. Việc thu hồi này dựa trên cơ sở pháp lý hiện hành quy định tại Khoản 1 Điều 38 Luật đất đai năm 2003.
Để thực hiện theo đúng Hiến pháp 1992, Luật đất đai 1993 và 2003 đều thể chế rõ ràng hình thức sở hữu về đất đai. đất đai là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm chủ thể đại diện sở hữu đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Nhà nước ta là Nhà nước của dân và dân làm chủ, đặt mọi quyền lợi về tay nhân dân. Tuy nhiên đất đai là tài sản đặc thù đôi khi việc định đoạt quyền sử dụng không thuộc về người chủ sở hữu quyền sử dụng đất. Nhà nước sẽ thu hồi đất vì một mục đích để phục vụ cho nhu cầu chung của xã hội thì Nhà nước đứng ra đại diện nhân dân định đoạt thay cho dân về quyền sử dụng đất hoặc mục đích sử dụng đất thông qua hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền sẽ đứng ra thu hồi và chuyển dịch quyền sử dụng đất từ người dân sang Nhà nước cho phù hợp yêu cầu đặt ra Xem Điều 38 Luật đất đâi năm 2003
.
Bồi thường Khoản 6 điều 4 Luật đất đai năm 2003
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.
Điều 5, Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính Phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (Gọi tắt là Nghị định 197/2004/NĐ-CP).
Bồi thường hoặc hỗ trợ đối với toàn bộ diện tích đất Nhà nước thu hồi.
Bồi thường hoặc hỗ trợ về tài sản hiện có gắn liện với đất và các chi phí đầu tư vào đất bị Nhà nước thu hồi.
Bồi thường là việc Nhà nước trả lại tất cả những thiệt hại mà chủ thể gây ra một cách tương xứng với giá trị quyền sử dụng đất đã bị thu hồi và những tài sản gắn liền với đất và cả các chi phí đầu tư vào đất bị Nhà nước thu hồi.
Người bị thu hồi đất thuộc loại đất có mục đích sử dụng đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi.
Hỗ trợ Khoản 7 điều 4 Luật đất đai năm 2003
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới.
Cụ thể như sau Điều 17, Nghị định 69/2009/NĐ-CP
:
- Hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở; Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp. Hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp trong khu dân cư; đất vườn, ao không được công nhận là đất ở;
Từ những căn cứ trên cho thấy, Nhà nước sẽ hỗ trợ cho những hộ bị thu hồi đất tạo những điều kiện thuận lợi nhất để họ có khả năng phát triển về mặt đời sống cũng như điều kiện về kinh tế thuận lợi hơn tại khu tái định cư. Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp tạo việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp, sẽ tạo ra cơ hội cho những người dân trong diện giải tỏa có được việc làm mới ổn định tại vì một khi mà Nhà nước thu hồi hết đất nông nghiệp thì người dân sẽ không còn đất để canh tác, sinh sống cho nên hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp là một trong những chính sách ổn định đời sống cho người dân rất hay, giúp cho người dân tin tưởng hơn và an tâm hơn vào chính sách phát triển của Nhà nước
Tái định cư Khoản 3 điều 43 Luật đất đai năm 2003
Là việc Nhà nước lập và thực hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở, đất ở cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở. Khu tái định cư được quy hoạch chung do nhiều dự án trên cùng một địa bàn và phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.
Trường hợp không có khu tái định cư thì người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền và được ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước đối với khu vực đô thị; bồi thường bằng đất ở đối khu vực nông thôn, trường hợp giá trị quyền sử dụng đất ở bị thu hồi lớn hơn đất ở được bồi thường thì người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền đối với phần chênh lệch đó.
“Như vậy, hỗ trợ, tái định cư nhằm trợ giúp thêm cho người bị thu hồi đất để tái lập cuộc sống mới, để chuyển đổi nghề nghiệp, để giải quyết khó khăn về mặt kinh tế. Riêng tái định cư đặt ra đối với chủ thể bị quy hoạch trắng và không còn đất ở sau khi bị thu hồi nhằm tái lập nơi ở mới “bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ”.” Trang 55 Giáo trình Luật Hành chính đô thị, nông thôn, biên soạn: TS. Phan Trung Hiền
Đây là những khái niệm cơ bản được dùng trong các quy định pháp luật hiện hành.
Giá quyền sử dụng đất: (khoản 23 điều 4 Luật đất đai 2003).
Giá quyền sử dụng đất (sau đây gọi là giá đất) là số tiền tính trên một đơn vị diện tích đất do Nhà nước quy định hoặc được hình thành trong giao dịch về quyền sử dụng đất.
Giá trị quyền sử dụng đất: (khoản 24 điều 4 Luật đất đai 2003)
Là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất đối với một diện tích đất xác định trong thời hạn sử dụng đất xác định.
1.2. Lịch sử về tình hình thực hiện công tác thu hồi đất – bồi thường hỗ trợ tái định cư.
Khi đất nước ta bắt đầu hội nhập và chuyển sang nền kinh tế thị trường thì vấn đề đền bù và giải phóng mặt bằng được đặt ra một cách nghiêm túc hơn. Và mặc dù Luật đất đai phát triển qua nhiều giai đoạn, song vấn đề thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có thể tạm được chia thành 03 giai đoạn:
1.2.1. Giai đoạn I: Trước Luật đất đai 1993
Trong giai đoạn này công tác giải phóng mặt bằng còn rất là đơn giản, Nhà nước sẽ đặt lợi ích chung, lợi ích công cộng và lĩnh vực quốc phòng, an ninh lên trên lợi ích của cá nhân, người sử dụng đất trước năm 1993 có những quyền rất hạn chế mặt khác đất trong giai đoạn này lại không được xem là tài sản có giá trị được lưu thông trên thị trường nên khi có giải tỏa cho những dự án công cộng thì tài sản gắn liền với đất được bồi hoàn cho chủ sở hữu tài sản, nhưng trong giai đoạn này đất đai chủ yếu mang tính chất hoán đổi, tượng trưng cung cấp những điều kiện để người sử dụng đất có thể sống được. Điều này dựa trên cơ sở lý luận: Đất đai thuộc sở hữu của toàn dân, do Nhà nước quản lý; người sử dụng đất được Nhà nước giao, nên khi cần thì Nhà nước có thể “lấy lại” và “giao lại” một thửa đất khác.
1.2.2. Giai đoạn II: Từ Luật đất đai 1993 đến Luật đất đai 2003
Thể chế hóa Nghị quyết VI (1986) của Ban chấp hành Trung ương Đảng, trên cơ sở Hiến pháp 1992, Luật đất đai năm 1993 bắt đầu có ghi nhận quyền năng của người sử dụng đất trong một nền kinh tế thị trường. Đất đai có giá và vì vậy phải được bồi thường tương xứng khi Nhà nước thu hồi đất vào mục đích công cộng, quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia.
Nghị định 22/CP năm 1998 (thay thế cho Nghị định 90/CP năm 1994) là văn bản pháp quy cụ thế hóa các quy phạm liên quan đến thu hồi đất, đền bù, hỗ trợ tái định cư. Nhiều vấn đề căn cơ về bồi thường được đặt ra, điều kiện để được bồi thường về đất, về tài sản gắn liền với đất.
Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ mà đền bù và giải phóng mặt bằng trở thành một vấn đề “nóng trong xã hội”. Sự không “bắt kịp” về giá đất trong quy định so với giá đất trên thực tế tất yếu sẽ dẫn đến vấn đề tiền được Nhà nước bồi thường sẽ không đủ để người dân có thể xây dựng một chỗ ở mới đảm bảo thuận lợi về cuộc sống của họ so với chỗ ở cũ, một phần cũng do nhận thức của một bộ phận cán bộ thực thi công tác này chưa được đầy đủ dẫn đến sự chuyển biến về giá cả nhanh chóng trong các cơn “sốt” đất dẫn đến sự bất bình ngày càng cao trong vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng trở thành vấn đề khiếu nại, khiếu kiện với số lượng đông đảo nhất, với mức độ gay gắt nóng bỏng nhất. Để góp phần đảm bảo đúng luật, nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ trong quá trình thực hiện dự án, thực hiện theo đúng phương châm dân chủ hóa, công khai hóa và minh bạch hóa là nhân tố quyết định thành công trong việc thu hồi đất một cách nhanh và hiệu quả.
1.2.3. Giai đoạn III: Từ Luật đất đai 2003 đến nay
Do nhu cầu đáp ứng tình thế cấp bách đó Luật đất đai 2003 ra đời và có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 07 năm 2004 góp phần bổ sung và thay thế những khiếm khuyết trong Luật đất đai năm 1993, bên cạnh sự ra đời của Luật đất đai 2003 còn có Nghị định 181/CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 quy định chi tiết Luật đất đai 2003, từ đó tạo các cơ sở pháp lý chi tiết về các mục đích thu hồi đất, hướng dẫn cách thức giải quyết khiếu nại, khiếu kiện phát sinh trong quá trình thu hồi đất. Song song đó Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 ra đời “bổ khuyết” những điểm còn hạn chế của Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 22/04/1998 quy định chi tiết hơn về các khái niệm thị trường bất động sản, về giá đất. Tiếp theo đó Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 dành nhiều vi phạm để hướng dẫn trình tự, thủ tục thu hồi đất, thực hiện bồi thường, hỗ trợ tái định cư. Và hiện nay Nghị định 69/2009/NĐ-CP có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 10 năm 2009 là Nghị định mới nhất hiện nay của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Xem trang 55 Giáo trình Luật Hành chính đô thị, nông thôn Biên soạn: TS Phan Trung Hiền
.
1.3. Mục đích thu hồi đất
1.3.1. Thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng Xem Điều 39 Luật đất đai năm 2003
.
Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng trong những trường hợp sau: Sử dụng đất cho mục đích quốc phòng, an ninh; Xây dựng trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất; Xây dựng trụ sở của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao; Xây dựng các công trình công cộng không nhằm mục đích kinh doanh, sử dụng đất để chỉnh trang; Phát triển khu đô thị và khu dân cư nông thôn; Sử dụng đất để phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; Sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo, Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa Xem khoản 1 Điều 36 Nghị định 181/2004/NĐ-CP
.
Hiến pháp năm 1992 quy định: đất đai là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý (Điều 17, Điều 18) đây là những nguyên tắc chủ đạo và là nền tảng quan trọng nhất về quyền sở hữu đối với đất đai được Hiến pháp nước ta quy định cho đến nay, từ đó ta có thể hiểu Nhà nước giao đất, cho thuê đất đối với tổ chức, cá nhân chỉ với tư cách là người sử dụng đất và Nhà nước là chủ sở hữu đối với đất đai.
Nhà nước sẽ ra quyết định thu hồi đất để nhằm phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Bởi vì vai trò quốc phòng, an ninh đối với xã hội là vô cùng quan trọng vì một đất nước mà muốn được phát triển mạnh thì điều tất yếu nhất là phải có trang bị cho mình một nền quốc phòng an ninh vững chắc để làm nơi đóng quân hoặc tập luyện làm căn cứ địa quân sự, xây dựng hệ thống phòng thủ,… Tuy nhiên, để làm được điều đó thì cần có quỹ đất nhất định, vì vậy việc thu hồi đất phục vụ cho mục đích trên là vấn đề rất là quan trọng và cần thiết, người dân có đất bị thu hồi phải nghiêm chỉnh chấp hành vì ta hiểu rằng “nước còn thì nhà còn” cho nên người dân phải đặt lợi ích của quốc gia lên hàng đầu.
Tất cả những dự án quy hoạch đều xuất phát từ lợi ích của Nhà nước, quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng, để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có cuộc sống ổn định thuận lợi hơn, tạo diện mạo phát triển cho đô thị, cho nên mọi người sử dụng đất phải chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Hiện nay trên thực tế một số địa phương khi áp dụng và tổ chức thực hiện chính sách thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được triển khai thực hiện rất đồng bộ và đáp ứng được cả tiến độ của công trình đã đề ra và được sự ủng hộ nhiệt tình từ phía người dân, song bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những trường hợp một số địa phương thực hiện chính sách bồi thường thiệt hại chưa thích hợp dẫn đến tình trạng bất bình trong nhân dân gây ra vấn đề người dân không chấp hành nghiêm chỉnh theo quyết định thu hồi đất làm cho quá trình giải phóng mặt bằng gặp khó khăn, trậm tiến độ, nhiều dự án vẫn còn treo phải chờ đợi khâu giải phóng mặt bằng.
Khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất để sử dụng vào mục đích công cộng, an ninh, quốc phòng mà người bị thu hồi đất đã bị Nhà nước thu hồi trắng hoặc diện tích đất còn lại không đủ để sử dụng vào mục đích để ở mà buộc phải di chuyển chổ ở thì Nhà nước sẽ tiến hành tái định cư cho những hộ dân trong diện thu hồi này bằng các hình thức sau: Bồi thường bằng nhà ở, bồi thường bằng giao đất ở mới, bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới.
Trên thực tế để đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị thì một phần lớn đất nông nghiệp buộc phải chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp dẫn đến tình trạng khó khăn cho những người bị thu hồi đất nông nghiệp không còn đất để canh tác nữa buộc họ phải có hướng chuyển đổi nghề nghiệp. Vì thế vấn đề làm sao để hoàn chỉnh chính sách về đất đai luôn được mọi người quan tâm và được đặt lên hàng đầu.
Luật đất đai 2003 có quy định phạm vi, điều kiện áp dụng, nguyên tắc bồi thường… khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế (Mục 4, chương II, Luật đất đai năm 2003). Nhưng để thi hành Luật đất đai vào thực tế vẫn phải cần có Nghị định của Chính phủ hướng dẫn như Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Luật đất đai năm 2003 khi đưa vào thi hành cho tới nay đã đạt được nhiều thành tựu rất là quan trọng, tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều được phê duyệt kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và định hướng kế hoạch sử dụng đất đến năm 2020. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai 2003 đã được thúc đẩy mạnh mẽ làm giảm bớt đi những tình trạng người dân không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gây khó khăn cho quá trình tiến hành quy hoạch sau này. Quy hoạch sử dụng đất đã được công khai hóa giúp cho người dân có thể kiểm tra giám sát được quá trình quy hoạch của Nhà nước tạo được những luồng phản ứng tích cực trong nhân dân.
1.3.2. Thu hồi đất sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế do Nhà nước thu hồi Điều 40 Luật đất đai năm 2003
Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế trong trường hợp đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế và các dự án đầu tư lớn theo quy định của Chính phủ. đất để thực hiện các dự án đầu tư có nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); dự án có một trăm phần trăm (100%) vốn đầu tư nước ngoài đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt hoặc cho phép đầu tư mà dự án đó không thể đầu tư trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế Xem khoản 2 điều 36 Nghị định 181/2004/NĐ-CP
.
“Sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư thăm dò, khai thác khoáng sản theo quy định của pháp luật về đầu tư và pháp luật về khoáng sản; sử dụng đất để làm mặt bằng di dời các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ theo yêu cầu bảo vệ môi trường hoặc theo quy hoạch mà không thể bố trí vào khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
Sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ công cộng bao gồm các công trình giao thông, điện lực, thuỷ lợi, cấp nước, thoát nước, vệ sinh môi trường, thông tin liên lạc, đường ống dẫn xăng dầu, đường ống dẫn khí, giáo dục, đào tạo, văn hoá, khoa học kỹ thuật, y tế, thể dục, thể thao, chợ” Khoản 3 Điều 2 Nghị định 17/2006/NĐ-CP
.
Nhà nước bổ sung vấn đề cho phép nhà đầu tư được phép thỏa thuận với các hộ dân có đất để xây dựng các dự án nhằm mục đích phát triển kinh tế giúp cho các cơ quan tiến hành thu hồi đất phần nào giảm được những khó khăn khi tiến hành thu hồi đất.
1.3.2.1 Thu hồi đất sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế theo quy định của Nghị định 181/2004/NĐ-CP
Khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất phục vụ cho quy hoạch vào mục đích gì thì giá để bồi thường về đất và những tài sản gắn liền với đất cũng được áp dụng chung một bảng giá bồi thường do Nhà nước quy định, chứ không phải là thỏa thuận với người dân về giá cả bồi thường. Bên cạnh đó những dự án quy hoạch nhằm phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế thì không phải dự án nào Nhà nước cũng tiến hành thu hồi đất, Nhà nước chỉ tiến hành thu hồi đất để xây dựng các dự án phát triển kinh tế trong những trường hợp theo quy định của Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2003.
Sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư thăm dò, khai thác khoáng sản theo quy định của pháp luật về đầu tư và pháp luật về khoáng sản; sử dụng đất để làm mặt bằng di dời các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ theo yêu cầu bảo vệ môi trường hoặc theo quy hoạch mà không thể bố trí vào khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế Xem Điểm c khoản 2 điều 36 Nghị định 181/2004/NĐ-CP
.
Sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ công cộng bao gồm các công trình giao thông, điện lực, thuỷ lợi, cấp nước, thoát nước, vệ sinh môi trường, thông tin liên lạc, đường ống dẫn xăng dầu, đường ống dẫn khí, giáo dục, đào tạo, văn hoá, khoa học kỹ thuật, y tế, thể dục, thể thao, chợ Xem Điểm d khoản 2 điều 36 Nghị định 181/2004/NĐ-CP
Với những trường hợp trên thì Nhà nước sẽ tiến hành thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế chung cho cả đất nước, ngoài ra những trường hợp nhà đầu tư tự thỏa thuận với người dân thì Nhà nước sẽ không tiến hành thu hồi đất mà sẽ giao thẳng cho nhà đầu tư tự thỏa thuận với người dân có đất.
1.3.2.2 Thu hồi đất theo quy định của Nghị định 84/NĐ-CP về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất
Khi thu hồi đất quy hoạch xây dựng những dự án có mục đích sản xuất kinh doanh, hoặc xây dụng kinh doanh nhà ở quy định tại Điều 42 Nghị định 84/2007/NĐ-CP: “Trường hợp đất thuộc diện thu hồi để đầu tư dự án có mục đích sản xuất, kinh doanh hoặc xây dựng kinh doanh nhà ở mà người đang sử dụng đất (hoặc nhiều người đang sử dụng đất liền kề nhau) có đơn xin đầu tư và có đủ các điều kiện sau đây thì được quyền tự đầu tư hoặc được chọn tổ chức, cá nhân để góp vốn lập dự án đầu tư” Khoản 1 Điều 42 Nghị định 84/2007/NĐ-CP
. Để đảm bảo quyền và lợi ích của người dân bị thu hồi đất trong những trường hợp này Nhà nước sẽ không tiến hành thu hồi đất mà giao cho nhà đầu tư tự thỏa thuận với người dân, đây là một trong những điểm nổi bật trong Nghị định 84/2007/NĐ-CP góp phần đảm bảo hài hòa lợi ích giữa nhà đầu tư và người dân, giảm bớt tình trạng nhà đầu tư lợi dụng chính sách của Nhà nước để lấy tiền của người dân bỏ vào túi riêng một phần cũng làm giảm bớt tình trạng kiện tụng vì không hài lòng với mức giá bồi thường đối với đất cũng như những tài sản gắn liền với đất.
Nhưng trên thực tế do lợi nhuận quá lớn mà làm mờ mắt cho nên một số nơi không thực hiện nghiêm theo những quy định của pháp luật mà thu hồi đất của những người dân sử dụng đất hợp pháp với giá rẻ sau đó tổ chức đấu giá quyền sử dụng, rồi bàn giao đất cho những công ty bất động sản cắt nền, phân lô ra bán với giá kinh doanh trên thị trường để lấy tiền lãi từ đó gây ra tâm lý bất bình nhân dân dẫn đến việc khiếu nại tràn làng đặc biệt là những trường hợp khiếu nại tập thể, Nhà nước cần quan tâm thật kỹ đến những trường hợp cá biệt này để có hình thức xử lý đúng mức để đảm bảo được an tâm của người dân.
Với những lý do như trên nên khi tiến hành thu hồi đất để thực hiện dự án cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần có kế hoạch triển khai đến toàn thể người dân thật kỹ để người dân biết được chính sách thu hồi đất của Nhà nước thu hồi đất vào mục đích gì, nếu là thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế thì cần triển khai căn cứ pháp lý trong thu hồi đất rõ ràng vì mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế để người dân có được tinh thần chấp hành theo chính sách của Nhà nước. Còn ngoài những mục đích trên thu hồi đất để đầu tư dự án có mục đích sản xuất, kinh doanh hoặc xây dựng kinh doanh nhà ở thì cho nhà đầu tư tự giác thỏa thuận với người dân theo quy định tại Điều 42 Nghị định 84/2007/NĐ-CP trong trường hợp này cơ quan Nhà nước có thẩm quyền không được can thiệp vào việc tự thỏa thuận giữa nhà đầu tư và người dân quy định tại Khoản 2 Điều 41 Nghị định 84/2007/NĐ-CP “Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan nhà nước không được ra quyết định thu hồi đất hoặc thực hiện các biện pháp không phù hợp với quy định của pháp luật để can thiệp vào việc thoả thuận giữa nhà đầu tư và người sử dụng đất trong trường hợp đất không thuộc diện thu hồi” Khoản 2 Điều 41 Nghị định 84/2007/NĐ-CP
Từ những căn cứ được quy định tạo không gian mở cho nhà đầu tư có thể tự thỏa thuận với người dân xây dựng dự án đảm bảo hài hòa lợi ích cho cả hai bên, một phần nữa cũng tháo dỡ đi một phần gánh nặng cho cơ quan Nhà nước.
Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án khu dân cư trung tâm thương mại, khách sạn cao cấp Điều 34 Nghị định 84/2007/NĐ-CP
Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án khu dân cư (bao gồm dự án hạ tầng khu dân cư và dự án nhà ở), trung tâm thương mại, khách sạn cao cấp trong các trường hợp sau đây:
- Các dự án trong khu đô thị hiện có được thể hiện trong quy hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt chủ trương đầu tư đối với từng dự án
- Các dự án trong khu vực mở rộng khu đô thị hiện có hoặc khu đô thị mới được thể hiện trong quy hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch chung xây dựng đô thị hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;
- Các dự án trong khu dân cư nông thôn hiện có, khu dân cư nông thôn mở rộng hoặc khu dân cư nông thôn xây dựng mới được thể hiện trong quy hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt
Thu hồi đất để xây dựng các khu kinh doanh tập trung có cùng chế độ sử dụng đất Điều 35 Nghị định 84/2007/NĐ-CP
Các khu kinh doanh tập trung khác có cùng chế độ sử dụng đất quy định tại khoản 1 Điều 40 và khoản 1 Điều 90 của Luật Đất đai bao gồm:
- Khu thương mại - dịch vụ tổng hợp với nhiều loại hình mua bán, dịch vụ và có nhiều chủ thể cùng kinh doanh
- Khu du lịch có mối liên kết về kết cấu hạ tầng, về loại hình kinh doanh và có nhiều chủ thể cùng kinh doanh (không bao gồm khu du lịch sinh thái)
- Khu vui chơi giải trí ngoài trời phục vụ rộng rãi các đối tượng thuộc mọi lứa tuổi với nhiều loại hình vui chơi, giải trí có đông người tham gia và có nhiều chủ thể cùng kinh doanh
- Khu chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung theo hình thức chăn nuôi công nghiệp, có hạ tầng đồng bộ và có nhiều chủ thể đầu tư chăn nuôi
Khu kinh doanh tập trung như trên cần phải đáp ứng các điều kiện như sau:
- Đã thể hiện trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt;
- Đã có chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ hoặc đã có quyết định đầu tư của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc đã thể hiện trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
- Không bố trí đất ở, nhà ở; không bố trí xen lẫn với đất ở, nhà ở
1.4. Thẩm quyền thu hồi đất:
Nếu ta dẫn vấn đề từ thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng thì ta có thể nhận ra được rằng thẩm quyền thu hồi đất được quy đinh tại Điều 44 Luật đất đai năm 2003.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 44 Luật đất đai năm 2003.
Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
Cũng như giao đất, cho thuê đất, các thẩm quyền về thu hồi đất không được phép ủy quyền cho cơ quan cấp dưới và cơ quan có thẩm quyền phải trực tiếp thực hiện đúng chức trách quyền hạn và nghĩa vụ của cấp mình chính vì vậy mà thẩm quyền nó luôn đi đôi và gắn liền với trách nhiệm trực tiếp của từng cấp chính quyền và nhất quán thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất tương đương với thẩm quyền thu hồi đất của cấp có thẩm quyền đó.
Từ các quy định trên, việc thu hồi đất đã thể hiện rõ một nội dung quan trọng trong quản lý Nhà nước đối với đất đai đồng thời thể hiện chính sách nhất quán của Nhà nước ta trong việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư sử dụng đất Mục 6 trang 147 Giáo trình Luật đất đai Hà Nội
.
Song song với những quy định của Luật đất đai 2003 thì Nghị định 69/2009/NĐ-CP có những quy định thẩm quyền thu hồi đất trường hợp khu đất thu hồi có cả thẩm quyền thu hồi của Ủy ban nhân dân tỉnh và Ủy ban nhân dân huyện thì “khu đất thu hồi có cả tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài và giao đất, cho thuê đất theo dự án cho chủ đầu tư trong cùng một quyết định” Xem Điều 31 Nghị định 69/2009/NĐ-CP
.
1.5. Các điều kiện để được bồi thường đất.
Để đáp ứng đủ điều kiện để Nhà nước bồi thường đất khi Nhà nước tiến hành quy hoạch thì người sử dụng đất phải đáp ứng những điều kiện sau.
- Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai
- Có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai
- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có các loại giấy tờ sau đây: Những giấy tờ về quyền sử dụng đất đai được cấp trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính; Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất; Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật; Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất
- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị định 197/2004/NĐ-CP mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến thời điểm có quyết định thu hồi đất chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp.
- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất đất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo nay được Ủy ban cấp xã nơi có đất xác nhận là người sử dụng đất ổn định không có trang chấp.
- Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.
- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà trước đây Nhà nước đã có quyết định quản lý trong quá trình thực hiện chính sách đất đai cuả Nhà nước, nhứng trong thực tế Nhà nước chưa quản lý mà hộ gia đình, cá nhân đó vẫn sử dụng.
- Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, đền, chùa, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp
- Tổ chức sử dụng đất trong các trường hợp sau đây: Đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước; đất nhận chuyển nhượng của người sử dụng đất hợp pháp mà tiền trả cho việc chuyển nhượng không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước; đất sử dụng có nguồn gốc hợp pháp từ hộ gia đình, cá nhân
- Nếu người sử dụng đất không đáp ứng đủ những điều kiện nêu trên thì sẽ không được bồi thường hoặc người sử dụng đất vì các lý do đương nhiên hoặc bị thu hồi do vi phạm pháp Luật đất đai thì cũng sẽ không được bồi thường. Việc không được bồi thường còn liên quan đến những trường hợp đất bị Nhà nước thu hồi để sử dụng vào mục đích công cộng, đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng, đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà các khoản tiền đó có nguồn gốc từ Ngân sách Nhà nước hoặc đất nông nghiệp được sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.
Đối với người được bồi thường bằng nhà ở, đất ở tại các khu tái định cư, ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền sẽ lập và thực hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất. Điều kiện sống ở khu tái định cư cho người bị thu hồi đất tối thiểu phải có khả năng phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.
Nếu không có đất để thực hiện việc tái định cư cho người bị thu hồi đất thì người bị thu hồi đất sẽ được bồi thường bằng tiền và sẽ được ưu tiên mua hoặc thuê nhà thuộc sở hữu của Nhà nước đối với khu vực đô thị, bồi thường bằng đất ở đối với khu vực nông thôn, trường hợp giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi lớn hơn phần đất ở được bồi thường thì người bị thu hồi đất sẽ được bồi thường phần chênh lệch.
Đối với người bị thu hồi đất mà không còn đất trực tiếp để sản xuất thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền, người bị thu hồi còn được Nhà nước hỗ trợ để ổn định đời sống, đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp, bố trí việc làm mới.
1.6 Nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất:
Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP quy định như sau:
Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng có đủ điều kiện quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9, 10 và 11 Điều 8 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (sau đây gọi là Nghị định số 197/2004/NĐ-CP) và các Điều 44, 45 và 46 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai (sau đây gọi là Nghị định số 84/2007/NĐ-CP) thì được bồi thường; trường hợp không đủ điều kiện được bồi thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét để hỗ trợ.
Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất; trường hợp bồi thường bằng việc giao đất mới hoặc giao đất ở tái định cư hoặc nhà ở tái định cư, nếu có chênh lệch về giá trị thì phần chênh lệch đó được thanh toán bằng tiền theo quy định sau:
- Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ lớn hơn tiền sử dụng đất ở hoặc tiền mua nhà ở tại khu tái định cư thì người tái định cư được nhận phần chênh lệch;
- Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ nhỏ hơn tiền sử dụng đất ở hoặc tiền mua nhà ở tái định cư thì người tái định cư phải nộp phần chênh lệch, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 19 Nghị định 69/2009/NĐ-CP.
Trường hợp người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả ngân sách nhà nước.
Nghĩa vụ tài chính bao gồm: tiền sử dụng đất phải nộp, tiền thuê đất đối với đất do Nhà nước cho thuê, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng các thửa đất khác của người có đất bị thu hồi (nếu có), tiền thu từ xử phạt vi phạm pháp luật về đất đai, tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý và sử dụng đất đai, phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai.
Trong trường hợp các khoản nghĩa vụ tài chính về đất đai phải nộp lớn hơn hoặc bằng tiền bồi thường đất thì số tiền được trừ tối đa bằng số tiền bồi thường đất.
Nhà nước điều tiết một phần lợi ích từ việc thu hồi, chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện các khoản hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi quy định tại Điều 17 Nghị định 69/2009/NĐ-CP.
Diện tích đất được bồi thường là diện tích được xác định trên thực địa - thực tế đo đạc diện tích thu hồi của từng người sử dụng đất Điều 47 Nghị định 84/2007/NĐ-CP
.
Những trường hợp nào bị thu hồi đất mà không được bồi thường: người sử dụng đất không đủ điều kiện được bồi thường đất như đã nêu ở trên.
Nguyên tắc để được bồi thường về tài sản khi Nhà nước thu hồi đất được quy định tại Điều 18 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP:
- Chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất mà bị thiệt hại thì được bồi thường.
- Chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất mà đất đó thuộc đối tượng không được bồi thường thì tùy từng trường hợp cụ thể được bồi thường hoặc hỗ trợ tài sản.
- Nhà, công trình khác gắn liền với đất được xây dựng sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dựng được công bố mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép xây dựng thì không được bồi thường.
Nhà, công trình khác gắn liền với đất được xây dựng sau ngày 01 tháng 07 năm 2004 mà tại thời điểm xây dựng đã trái với mục đích sử dụng đất đã được xét duyệt trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được xét duyệt thì không được bồi thường
- Tài sản gắn liền với đất được tạo lập sau khi có quyết định thu hồi đất được công bố thì không được bồi thường.
- Hệ thống máy móc, dây chuyền sản xuất có thể tháo dời và di chuyển được thì chỉ bồi thường chi phí tháo dỡ, vận chuyển, lắp đặt và thiệt hại khi tháo dỡ, vận chuyển, lắp đặt; mức bồi thường do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định phù hợp với pháp luật hiện hành và thực tế ở địa phương.
Chương 2
VAI TRÒ CỦA UBND CẤP TỈNH TRONG QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN DỰ ÁN THU HỒI ĐẤT, BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
VÀ TÁI ĐỊNH CƯ
Thông qua các khái niệm đã được trình bày ở chương 1 và các cơ quan có thẩm quyền trong việc triển khai thực hiện dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Trong chương 2 này người viết đi sâu vào phân tích vấn đề về “Vai trò của UBND cấp tỉnh trong việc triển khai thực hiện dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư” thông qua các văn bản pháp luật như: Luật đất đai 2003, Luật khiếu nại tố cáo, Luật tố tụng hành chính…. Nghị định số 69/2009/NĐ-CP quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, Nghị định 84/2007/NĐ-CP quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất. Đầu tiên người viết sẽ đi sâu vào tìm hiểu về trình tự thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhằm có phương hướng nắm bắt những vấn đề của đề tài nghiên cứu một cách rành mạch hơn.
2.1 Trình tự thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
2.1.1 Ý nghĩa của trình tự, thủ tục thu hồi đất.
Trình tự thủ tục thu hồi đất không chỉ là các bước thực hiện nhằm tạo điều kiện thu hồi đất được tiến hành thuận lợi, nhanh chóng, mà còn nhiều mục đích ý nghĩa lớn về phương diện pháp lý Trang 61 Luật hành chính đô thị, nông thôn biên soạn TS Phan Trung Hiền
.
Thứ nhất, trong quá trình chuyển quyền sử dụng đất không mong muốn từ phía người sử dụng đất hợp pháp sang Nhà nước, thông qua các cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền, trình tự thủ tục là ranh giới, phạm vi để thực hiện quy trình này một cách công bằng, bình đẳng giữa các chủ thể trong một xã hội dân sự.
Thứ hai, trình tự, thủ tục là điều kiện chuẩn, là căn cứ để các chủ thể có thẩm quyền giám sát, kiểm tra việc thực thi pháp luật trong suốt quá trình thu hồi đất và giải quyết các hệ quả sau này.
Thứ ba, trình tự, thủ tục góp phần bảo đảm cho việc đền bù được công bằng, tương xứng. Các thời điểm thực hiện việc thu hồi, đền bù luôn có những ảnh hưởng nhất định đến giá trị đền bù.
Việc ấn định ra trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì vẫn phải đi đến lý do cuối cùng là đảm bảo cho quá trình diễn ra một cách công bằng, dân chủ, đúng pháp luật, đạt tiến độ đã được đề ra của quá trình thực hiện dự án. Trình tự, thủ tục được đặt ra từ lúc chuẩn bị cho qúa trình thu hồi đất đến lúc giao đất cho chủ đầu tư và thời hạn để giải quyết mọi khiếu nại và thắc mắc của người bị thu hồi đất.
2.1.2 Các bước tiến hành thu hồi đất
Trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được quy định từ Điều 29 đến Điều 32 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP được thực hiện từng bước cụ thể sau:
Bước 1: Chủ đầu tư hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ chuẩn bị dự án đầu tư nộp hồ sơ tại cơ quan tiếp nhận hồ sơ về đầu tư tại địa phương. Cơ quan tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến các cơ quan có liên quan đến dự án đầu tư để xem xét giới thiệu địa điểm theo thẩm quyền hoặc trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét giới thiệu địa điểm.
Bước 2: Hoàn chỉnh phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư:
Hết thời hạn niêm yết và tiếp nhận ý kiến, Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản, nêu rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác đối với phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; hoàn chỉnh và gửi phương án đã hoàn chỉnh kèm theo bản tổng hợp ý kiến đóng góp đến cơ quan tài nguyên và môi trường để thẩm định; Trường hợp còn nhiều ý kiến không tán thành phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thì Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng cần giải thích rõ hoặc xem xét, điều chỉnh trước khi chuyển cơ quan tài nguyên và môi trường thẩm định, và tiến hành chuyển lên cho ỦY ban nhân dân tỉnh phê duyệt phương án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
Bước 3, bước 4: Cơ quan tài nguyên và môi trường chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư và chuẩn bị hồ sơ thu hồi đất theo quy định sau:
Sở Tài nguyên và Môi trường chuẩn bị hồ sơ thu hồi đất trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài;
Phòng Tài nguyên và Môi trường chuẩn bị hồ sơ thu hồi đất trình Ủy ban nhân dân cấp huyện ra quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư.
Bước 5: Thẩm quyền quyết định thu hồi đất, giao đất hoặc cho thuê đất thực hiện theo quy định tại Điều 37 và Điều 44 của Luật Đất đai.
Trường hợp thu hồi đất và giao đất hoặc cho thuê đất thuộc thẩm quyền của một cấp thì việc thu hồi đất và giao đất hoặc cho thuê đất được thực hiện trong cùng một quyết định.
Trường hợp khu đất thu hồi có cả tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài và giao đất,
Bước 6, bước 7: Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định thu hồi đất, giao đất hoặc cho thuê đất, cơ quan tài nguyên và môi trường trình Ủy ban nhân dân cùng cấp phê duyệt và công bố công khai phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo quy định sau:
Sở Tài nguyên và Môi trường trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất liên quan từ hai quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên;
Phòng Tài nguyên và Môi trường trình Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với trường hợp không thuộc quy định tại điểm a khoản 2 Điều 31 Nghị định 69/2009/NĐ-CP;
Trong thời hạn không quá ba (03) ngày, kể từ ngày nhận được phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được phê duyệt, Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương án bồi thường tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và địa điểm sinh hoạt khu dân cư nơi có đất bị thu hồi; gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người có đất bị thu hồi, trong đó nêu rõ về mức bồi thường, hỗ trợ, về bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và thời gian bàn giao đất đã bị thu hồi cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Bước 8: Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hoặc Tổ chức phát triển quỹ đất thực hiện chi trả bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư.
Bước 9: Trong thời hạn hai mươi (20) ngày, kể từ ngày Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thanh toán xong tiền bồi thường, hỗ trợ cho người bị thu hồi đất theo phương án đã được xét duyệt thì người có đất bị thu hồi phải bàn giao đất cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Trường hợp việc bồi thường được thực hiện theo tiến độ thì chủ đầu tư được nhận bàn giao phần diện tích mặt bằng đã thực hiện xong việc bồi thường, hỗ trợ để triển khai dự án.
Căn cứ pháp lý từng bước cụ thể như sau Nghị định 69/2009/NĐ-CP cụ thể các điều khoản sau:
Bước 1 Khoản 1 Điều 29
Bước 2 Khoản 3 Điều 30
Bước 3, 4 Khoản 4 Điều 30
Bước 5 Khoản 1 Điều 31
Bước 6, 7 Khoản 2 Điều 31
Bước 8 Khoản 3 Điều 31
Bước 9 Khoản 4 Điều 31
:
Đặc biệt đối với những dự án có tầm quan trọng quốc gia sau khi được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư; dự án nhóm A, dự án xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi, đê điều phù hợp với quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì không phải thực hiện các công việc quy định tại khoản 1 Điều 29 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP.
Với những cơ sở như đã trình bày ở trên thì ta có thể thấy được những điểm khác biệt và vượt trội hơn của Nghị định 69/2009/NĐ-CP so với Nghị định 84/2007/NĐ-CP ở những điểm là giới thiệu địa điểm được hoàn thành xong, nhà đầu tư sẽ bắt đầu lập dự án đầu tư. Tức là dự án đầu tư phải được thể hiện rõ phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Đối với những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thu hồi đất “Trường hợp khu đất bị thu hồi vừa có thửa đất thuộc thẩm quyền thu hồi của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, vừa có thửa đất thuộc thẩm quyền thu hồi của Ủy ban nhân dân cấp huyện thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thu hồi chung đối với toàn bộ các thửa đất trên khu đất và ra quyết định thu hồi đối với từng thửa đất thuộc thẩm quyền thu hồi của mình Xem Điểm c khoản 1 Điều 53 Nghị định 84/2007/NĐ-CP
;
Như quy định trên ta thấy được có điểm không hợp lý vì theo quy định của Luật thì UBND cấp tỉnh chỉ có thẩm quyền thu hồi đất của tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài. Ngược lại trong trường hợp này thì UBND tỉnh lại ra quyết định thu hồi chung đối với toàn bộ thửa đất trên khu đất, rồi lại UBND cấp huyện lại ra quyết định thu hồi đất nữa đối với phần đất thuộc thẩm quyền thu hồi của mình như vậy thì ta lại thấy quá gườm rà với lại tại điều 44 Luật đất đai 2003 đã quy định rõ ràng thẩm quyền thu hồi của cấp tỉnh và cấp huyện, Nghị định 84/2007/NĐ-CP lại quy định ngược lại với Luật đất đai vô tình tạo sự mâu thuẫn làm cho việc triển khai trong công tác còn gặp không ít những khó khăn cần có hướng giải quyết cho rành mạch đúng như tinh thần của điều 44 Luật đất đai 2003 đã quy định.
Ủy ban nhân cấp tỉnh ra quyết định thu hồi đất chung cho toàn thể khu đất bị thu hồi, sau đó theo thẩm quyền được quy định mới bắt đầu ra thêm quyết định thu hồi đất thứ hai nữa. Ta thấy với việc quy định trình tự thu hồi đất theo quy định tại Nghị định 84/2007/NĐ-CP có điểm bất cập vì theo Luật đất đai 2003 đã phân định rõ thẩm quyền thu hồi đất của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện, mà theo quy định tại Nghị định 84/2007/NĐ-CP Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thu hồi chung xong lại ra tiếp thêm một quyết định thu hồi đất theo thẩm quyền của mình nữa như vậy với quyết định thu hồi đất chung ấy tình cờ không có ý nghĩa gì cả theo quy định của Luật đất đai 2003.
Thấy được sự mâu thuẫn đó thì Nghị định số 69/2009/NĐ-CP được ra đời bổ sung thay đổi cho khuyết điểm đó “Trường hợp khu đất thu hồi có cả tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài và giao đất, cho thuê đất theo dự án cho chủ đầu tư trong cùng một quyết định” Khoản 1 Điều 31 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP
2.2 Vai trò của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong trình tự thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan Nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn. Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính Nhà nước từ trung ương tới cơ sở. Điều 2 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
Trong quá trình triển khai thực hiện các dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì UBND cấp tỉnh có những vai trò và nhiệm vụ như sau:
Căn cứ vào những quy định tại Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định trình tự thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và các bước được thực hiện như sau:
Bước 1: Giới thiệu địa điểm và thông báo thu hồi đất
Vai trò của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong bước 1 này sẽ tiến hành xem xét giới thiệu địa điểm.
Chủ đầu tư hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ chuẩn bị dự án đầu tư nộp hồ sơ tại cơ quan tiếp nhận hồ sơ về đầu tư tại địa phương. Cơ quan tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến các cơ quan có liên quan đến dự án đầu tư để xem xét giới thiệu địa điểm theo thẩm quyền hoặc trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét giới thiệu địa điểm. Trong bước 1 này Ủy ban nhân dân tỉnh đóng vai trò là cơ quan chủ quản sẽ quyết định chọn địa điểm cho nhà đầu tư
Sau khi Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện mọi công tác giới thiệu địa điểm đã được thực hiện xong , chủ đầu tư tiến hành lập dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư và xây dựng; lập hồ sơ xin giao đất, thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Nội dung dự án đầu tư phải thể hiện phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Trong giai đoạn Thông báo thu hồi đất này Ủy ban nhân dân tỉnh sẽ tiến hành thực hiện hoặc sẽ ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện thông báo thu hồi đất, Nội dung thông báo thu hồi đất gồm: lý do thu hồi đất, doanh thu và vị trí khu đất thu hồi trên cơ sở hồ sơ địa chính hiện có hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng được duyệt và dự kiến về kế hoạch di chuyển.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ ra quyết định thu hồi đất đối với những trường hợp thu hồi đất thuộc thẩm quyền của mình, sau hai mươi (20) ngày kể từ ngày thông báo, Sở Tài nguyên và Môi trường trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất và trong thời hạn không quá năm (5) ngày làm việc kể từ khi nhận được tờ trình của Sở Tài nguyên và Môi trường, thì UBND cấp tỉnh có trách nhiệm xem xét và ký quyết định thu hồi đất.
Sau khi phương án tổng thể về quy hoạch đã được xét duyệt xong, UBND cấp huyện nơi có đất bị thu hồi phải có trách nhiệm thông báo ngay bằng văn bản cho những người dân bị thu hồi đất biết được nguyên nhân bị thu hồi đất và mức bồi thường và chính sách tái định cư, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp như thế nào để tất cả những hộ dân trong diện quy hoạch đó có dự kiến chuyển đổi nghề nghiệp của mình và có hướng tìm ra những việc làm ổn định giúp họ ổn định trong đời sống, và điều quan trọng nhất là trong phương án tổng thể nhất thiết phải có quy định thời gian để họ có thể di chuyển và bàn giao đất cho chủ đầu tư để đảm bảo cho quá trình thi công diễn ra nhanh chóng, thuận lợi đạt tiến độ đã đề ra trong phương án tổng thể.
Việc thông báo thu hồi đất theo quy định hiện nay có nhiều điểm khác biệt so với trước đây cụ thể: Sau khi xem xét giới thiệu địa điểm đầu tư Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thông báo thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện thông báo thu hồi đất; có điểm khác biệt hơn ở Nghị định 69/2009/NĐ-CP so với Nghị định 84/2007/NĐ-CP ở chỗ tại Điều 52 Nghị định 84/2007/NĐ-CP quy định “Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm thông báo cho người đang sử dụng đất biết lý do thu hồi đất; dự kiến về mức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư” còn tại điều 29 Nghị định 69/2009/NĐ-CP thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thông báo thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện thông báo thu hồi đất với những thay đổi như trên được quy định tại Nghị định 69/2009/NĐ-CP phần nào làm giảm bớt đi gánh nặng cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giúp cho Ủy ban nhân dân đảm bảo được thẩm quyền của mình khi thực hiện.
Sau khi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã qua xem xét, duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng, thu hồi đất và lập phương án bồi thường tổng thể, hỗ trợ, tái định cư thì Ủy ban nhân dân tỉnh sẽ tiến hành chỉ đạo cho Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư và phương án đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp để có thể đáp ứng được kịp thời nhu cầu của người dân trong diện giải tỏa khi đã bị thu hồi đất. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với chủ đầu tư phổ biến kế hoạch khảo sát, đo đạc cho người sử dụng đất trong khu vực dự án và yêu cầu người sử dụng đất tạo điều kiện để chủ đầu tư thực hiện việc điều tra, khảo sát, đo đạc xác định diện tích đất để lập dự án đầu tư. Để đảm bảo cho quyền lợi cho người dân cũng như đạt tiến độ đã được đặt ra trong phương án tổng thể về quy hoạch thì UBND xã và chủ đầu tư phải có kế hoạch khảo sát cũng như đo đạc nắm lại diện tích xác thực trên thực tế để không xảy ra những tình trạng sai xót trong vấn đề đền bù xảy ra sau này.
Trường hợp đặc biệt “Đối với dự án quan trọng quốc gia sau khi được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư; dự án nhóm A, dự án xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi, đê điều phù hợp với quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì không phải thực hiện các công việc quy định tại khoản 1 Điều 29 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP.
Thời hạn ra văn bản giới thiệu địa điểm đầu tư; thông báo thu hồi đất; thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 29 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP thì không quá 30 ngày, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ về đầu tư hợp lệ” khoản 4,5 điều 29 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP
.
Bước 2: Hoàn chỉnh phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư:
Hết thời hạn niêm yết và tiếp nhận ý kiến ít nhất là hai mươi (20) ngày, Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản, nêu rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác đối với phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; hoàn chỉnh và gửi phương án đã hoàn chỉnh kèm theo bản tổng hợp ý kiến đóng góp đến sở Tài nguyên và Môi trường để thẩm định và trình Ủy ban nhân dân tỉnh sẽ có trách nhiệm quyết định đối với phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Đáp ứng được sự chỉ đạo sâu sát và kịp thời của Ủy ban nhân tỉnh trong việc tiếp nhận ý kiến từ người dân để chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh có hướng chỉ đạo đúng đắn nhằm góp phần hoàn chỉnh hơn nữa về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. điểm đặc biệt đáng quan tâm ở quy định trên là chỗ lấy ý kiến từ người dân về phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đảm bảo được tính dân chủ, công bằng trong việc thực hiện các chính sách của nhà nước
Bước 3 và 4: Chuẩn bị hồ sơ thu hồi đất.
Theo thẩm quyền của mình Ủy ban nhân dân tỉnh sẽ tiến hành ra quyết định thu hồi đất đối với những trường hợp thuộc thẩm quyền thu hồi đất của Ủy ban nhân dân tỉnh
Cơ quan tài nguyên và môi trường chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư và chuẩn bị hồ sơ thu hồi đất theo quy định, Sở Tài nguyên và Môi trường chuẩn bị hồ sơ thu hồi đất trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, còn Phòng Tài nguyên và Môi trường chuẩn bị hồ sơ thu hồi đất trình Ủy ban nhân dân cấp huyện ra quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư
Bước 5: Quyết định thu hồi đất
Ủy ban nhân dân tỉnh tiến hành ra quyết định thu hồi đất đối với phần đất được thu hồi theo thẩm quyền.
Sau khi Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất thuộc thẩm quyền trong thời gian không quá năm (05) ngày làm việc, thì sau đó Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định thu hồi đất thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân tỉnh
Trường hợp thu hồi đất và giao đất hoặc cho thuê đất thuộc thẩm quyền của một cấp thì việc thu hồi đất và giao đất hoặc cho thuê đất được thực hiện trong cùng một quyết định.
Với việc phân cấp thẩm quyền rõ ràng như thế tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện giúp cho các chủ thể có thẩm quyền thu hồi đất có thể chủ động trong việc quyết định thu hồi đất, so với Nghị định 84/2007/NĐ-CP Nghị định 69/2009/NĐ-CP có quy định phân cấp thẩm quyền thu hồi đất rõ ràng hơn không có sự chồng chéo, còn Nghị định 84/2007/NĐ-CP quy định đối với trường hợp thu hồi vừa có thửa đất thuộc thẩm quyền thu hồi của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, vừa có thửa đất thuộc thẩm quyền thu hồi của Ủy ban nhân dân cấp huyện thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thu hồi chung đối với toàn bộ các thửa đất trên khu đất với quy định này tình cờ lại có sự mâu thuẫn về thẩm quyền quy định theo phân cấp thu hồi đất trong khi những phần đất thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện thu hồi mà đằng này Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lại ra quyết định thu hồi chung vô tình đã đi ngược lại với tinh thần mà Luật đất đai 2003 quy định.
Bước 6 và 7: Trong bước này Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ tiến hành phê duyệt và công bố công khai phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Trong thời hạn không quá 5 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định thu hồi đất, giao đất hoặc cho thuê đất, Sở tài nguyên và Môi trường sẽ tiến hành trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt và công bố công khai phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Trường hợp thu hồi đất liên quan từ hai quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên Sở tài nguyên và Môi trường sẽ trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Khi Ủy ban nhân dân tỉnh đã phê duyệt xong phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, trong thời hạn không qua ba (03) ngày sau khi đã nhận được phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có sẽ trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương án bồi thường tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và địa điểm sinh hoạt khu dân cư nơi có đất bị thu hồi.
Bước 8: Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hoặc Tổ chức phát triển quỹ đất thực hiện chi trả bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư.
Ta thấy trong giai đoạn này chỉ thấy Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hoặc Tổ chức phát triển quỹ đất thực hiện nhiệm vụ, nhưng không phải như vậy mà ta không thấy được vai trò thật cần thiết của Ủy ban nhân dân tỉnh, lúc này Ủy ban nhân dân đóng vai trò chỉ đạo cho việc thực hiện khi có những việc rắc rối trong quá trình thực hiện sẽ trình cho Ủy ban nhân dân tỉnh Quyết định phê duyệt
Bước 9: Trong thời hạn hai mươi (20) ngày khi mà tổ chức làm nhiệm vụ đã chi trả tiền bồi thường xong thì người dân có đất bị thu hồi phải giao đất cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.
2.2.1 Giao nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Căn cứ Điều 25 Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 quy định giao nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương thì UBND cấp tỉnh sẽ giao nhiệm vụ thực hiện công tác giải phóng mặt bằng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho UBND cấp huyện, từ đó UBND cấp huyện sẽ thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sẽ được giao cụ thể cho:
Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cấp quận, huyện.
Trung tâm Phát triển Quỹ đất thành phố.
+ Hội đồng bồi thường, hỗ trợ tái định cư (gọi tắt là Hội đồng Bồi thường của dự án) được thành lập ở cấp quận, huyện cho từng dự án để thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư, kể cả việc tham gia giải quyết khiếu nại tố cáo có liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư của dự án. Có các thành viên gồm:
Chủ tịch hội đồng: Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận, huyện;
Phó chủ tịch hội đồng: Trưởng hoặc phó phòng Tài chính – Kế hoạch quận, huyện;
Uỷ viên thường trực: Đại diện chủ đầu tư;
Các ủy viên:
Trưởng hoặc Phó phòng Quản lý đô thị;
Trưởng hoặc Phó phòng Tài nguyên và Môi trường;
Trưởng ban bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng quạn, huyện;
Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn nơi có dự án;
Đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cấp quận, huyện;
Đại diện những người bị thu hồi đất (từ 01 đến 02 người).
Hội đồng hoạt động theo nguyên tắc tập trung quyết định theo đa số. Tuy nhiên căn cứ vào thành phần Hội đồng có thể nhận thấy quyền lợi người dân chưa thật sự được đảm bảo tại vì nhìn vào cơ cấu của hội đồng ta chỉ thấy hầu hết thành viên trong hội đồng đều là đại diện cơ quan Nhà nước và chủ đầu tư như vậy cơ quan Nhà nước chiếm thế chủ động, còn người bị thu hồi đất thì lại rơi vào tình trạng bị động chỉ được thực hiện theo những quyết định do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đưa ra. Như vậy người bị thu hồi đất là chủ thể chịu thiệt thòi nhiều nhất, cho nên việc quyết định một số vấn đề của hội đồng đôi khi còn mang tính chủ quan, thiếu dân chủ. Từ đó dẫn đến một thực tế là người có đất bị thu hồi lại bị thiệt thòi trong các quyền lợi mà họ được hưởng.
+ Tổ chức phát triển quỹ đất: Là đơn vị sự nghiệp có thu do UBND tỉnh ra quyết định thành lập ở cấp tỉnh và cấp huyện và thực hiện các nhiệm vụ được quy định tại điều 35 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP.
Đây là một trong những điểm được sửa đổi, bổ sung đáp ứng kịp thời so với nhu cầu của tình hình và là một trong những điểm hay của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP so với Nghị định 84/2007/ NĐ-CP thì Nghị định số 69/2009/NĐ-CP có điểm ưu việt ở chỗ quy định rõ ràng giao nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho những chủ thể nhất định là Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và Tổ chức Phát triển Quỹ đất. Làm giảm được tình trạng đùng đẩy trách nhiệm và chồng chéo trong quá trình thực hiện, qua những vấn đề đã được phân tích như trên ta thấy được vai trò của UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện luôn đóng vai trò chỉ đạo xuyên suốt quá trình triển khai cũng như thực hiện của toàn thể dự án. Từ những sự chỉ đạo của UBND cấp có thẩm quyền ta thấy được quá trình thực hiện dự án được chuyên môn hóa cao hơn giúp cho công tác thu hồi đất, cũng như vấn đề về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đạt được những hiệu quả cao và thiết thực hơn là do cơ chế phân công nhiệm vụ rất rành mạch quy định cụ thể những chủ thể có nhiệm vụ rõ ràng và luôn có sự giám sát và chỉ đạo kịp thời của UBND có thẩm quyền.
2.2.2 Quyết định thu hồi đất, phê duyệt và thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Thẩm quyền quyết định thu hồi đất, giao đất hoặc cho thuê đất được thực hiện theo quy định của Điều 37 và Điều 44 Luật đất đai 2003
“Trường hợp thu hồi đất và giao đất hoặc cho thuê đất thuộc thẩm quyền của một cấp thì việc thu hồi đất và giao đất hoặc cho thuê đất được thực hiện trong cùng một quyết định
Trường hợp khu đất thu hồi có cả tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài và giao đất, cho thuê đất theo dự án cho chủ đầu tư trong cùng một quyết định” khoản 1 điều 31 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP.
“Trong thời hạn không qua bảy (07) ngày, kể từ ngày nhận được tờ trình của cơ quan Tài chính, Ủy ban nhân dân đã có chủ trương thu hồi đất hoặc chấp thuận về địa điểm đầu tư có trách nhiệm xem xét, ký quyết định xét duyệt phương án tổng thể
So với Nghị định số 84/2007/NĐ-CP Nghị định số 69/2009/NĐ-CP quy định rõ thời gian và trách nhiệm của từng cơ quan trong việc phê duyệt và thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cụ thể” Trang 29 Luận văn SVTH Hà Thanh Tùng
Không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày bắt đầu có quyết định thu hồi đất, giao đất hoặc cho thuê đất, cơ quan tài nguyên và môi trường trình Ủy ban nhân dân cùng cấp phê duyệt và công bố công khai phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo quy định sau: Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất liên quan từ hai quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên; ngoài ra những trường hợp nằm ngoài thẩm quyền thu hồi đất của UBND tỉnh thì Phòng Tài nguyên và Môi trường sẽ làm tham mưu và sẽ trình cho UBND cấp huyện phê duyệt và công bố công khai phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thuộc thẩm quyền của UBND cấp mình.
“Trong thời hạn không quá ba (03) ngày, kể từ ngày nhận được phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được phê duyệt, Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương án bồi thường tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và địa điểm sinh hoạt khu dân cư nơi có đất bị thu hồi; gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người có đất bị thu hồi, trong đó nêu rõ về mức bồi thường, hỗ trợ, về bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và thời gian bàn giao đất đã bị thu hồi cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng” khoản c điều 31 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP
Ta thấy được một khi phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được phê duyệt thì tổ chức làm nhiệm vụ sẽ phối hợp với UBND cấp xã phổ biến và niêm yết công khai phương án mà quên một chỗ là trong quá trình phổ biến không hẳn tất cả những người trong diện quy hoạch sẽ có mặt và tham gia đầy đủ để có ý kiến về phương án bồi thường hỗ trợ và tái định cư thiết nghĩ để đa số những người trong diện quy hoạch có thể biết được rõ ràng, thấu đáo về phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thì ta cần phải có kế hoạch thông tin trên báo đài và phương tiện thông tin đại chúng để toàn thể những người dân trong diện bị giải tỏa họ sẽ biết rõ ràng thấu đáo về chính sách bồi thường hỗ trợ tái định cư của Nhà nước để họ có thể thực hiện theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền một cách tự nguyện giúp cho việc thi công dự án đạt tiến độ tránh những tình trạng mà những hộ dân trong diện quy hoạch đó hiểu chưa rõ mà dẫn đến khiếu nại, khiếu kiện, gây ra tâm lý xôn sao trong dân chúng.
2.2.3 Giá đất
Giá quyền sử dụng đất (sau đây gọi là giá đất) là số tiền tính trên một đơn vị diện tích đất do Nhà nước quy định hoặc được hình thành trong giao dịch về quyền sử dụng đất Khoản 23 Điều 4 Luật đất đai 2003
. Các quy định về giá đất được quy định cụ thể từ điều 11 đến điều 13 Nghị định 69/2009/NĐ-CP.
Khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất, cho thuê đất, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và trường hợp doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa lựa chọn hình thức giao đất mà giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tại thời điểm giao đất, cho thuê đất, thời điểm quyết định thu hồi đất, thời điểm tính giá đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường để xác định lại giá đất cụ thể cho phù hợp Khoản 1 Điều 11 Nghị định 69/2009/NĐ-CP
.
Căn cứ vào những quy định tại Điều 55 Luật đất đai 2003, giá đất được hình thành trong các trường hợp sau đây:
Do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định giá theo quy định tại khoản 3 Căn cứ vào nguyên tắc định giá đất quy định tại khoản 1 Điều 55 Luật đất đai 2003, phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất do Chính phủ quy định, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng giá đất cụ thể tại địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp cho ý kiến trước khi quyết định
và khoản 4 Giá đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định được công bố công khai vào ngày 01 tháng 01 hàng năm được sử dụng làm căn cứ để tính thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; tính tiền sử dụng đất và tiền thuê đất khi giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất; tính giá trị quyền sử dụng đất khi giao đất không thu tiền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; tính tiền bồi thường đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai mà gây thiệt hại cho Nhà nước.
Điều 56 của Luật này
Do đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất;
Do người sử dụng đất thoả thuận về giá đất với những người có liên quan khi thực hiện các quyền chuyển nhượng giá trị quyền sử dụng đất.
Việc định giá đất của Nhà nước phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây:
- Sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường, khi có chênh lệch lớn so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường thì phải điều chỉnh cho phù hợp.
- Các thửa đất liền kề nhau, có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, kết cấu hạ tầng như nhau, có cùng mục đích sử dụng hiện tại, cùng mục đích sử dụng hiện tại, cùng mục đích sử dụng theo quy hoạch thì mức giá như nhau.
- Đất tại khu vực giáp ranh giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, có điều kiện tự nhiên, kết cấu hạ tầng như nhau, có cùng mục đích sử dụng hiện tại, cùng mục đích sử dụng theo quy hoạch thì mức giá như nhau Khoản 1 Điều 56 Luật đất đai 2003
.
Quy định tại Nghị định 69/2009/NĐ-CP và Luật đất đai 2003 vẫn còn tại những vấn đề bất cập, vướng mắc:
Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định “giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tại thời điểm giao đất, cho thuê đất, thời điểm quyết định thu hồi đất, thời điểm tính giá đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường để xác định lại giá đất cụ thể cho phù hợp” Khoản 1 Điều 11 Nghị định 69/2009/NĐ-CP
. căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường để xác định lại giá đất cụ thể cho phù hợp, với những ý nghĩa như vậy thì làm sao mà ta biết được giá Ủy ban nhân dân tỉnh quy định là như thế nào mới phù hợp và hợp lý với giá thị trường, và không có một văn bản pháp luật nào quy định vấn đề này. Đây là những vấn đề bất cập mà các nhà chức năng luôn tìm cách tháo gỡ tìm một hướng đi có lợi nhất cho người dân. Nhưng trên thực tế vấn đề giá đất làm sao để thích hợp với giá thị trường là vấn đề nan giải khó có cách giải quyết triệt để được vì muốn đất nước phát triển thì ta phải tiến hành quy hoạch đô thị nhưng quy hoạch đô thì cần nhà đầu tư, nhưng nếu giá bồi thường đất quá cao thì các nhà đầu tư không đủ mạnh dạn để bỏ vốn vào đầu tư đó là vấn đề gây khó khăn rất nhiều cho người dân cũng như gây trở ngại lớn quá trình phát triển đô thị của ta.
Luật đất đai 2003 quy định giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định được công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm. Như ta biết giá đất trong những năm gần đây mức giá tăng rất cao với tốc độ chóng mặt, giá đất có thể tăng hàng ngày, hàng tháng nhưng theo quy định thì bảng giá đất tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ ban hành một năm một lần với quy định như vậy có hợp lý không đây là vấn đề cần có hướng giải quyết cụ thể, có thể một năm sẽ ban hành bảng giá đất hai lần để tránh tình trạng lạc hậu, lỗi thời của bảng giá đất.
2.2.4 Việc tách nội dung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thành tiểu dự án riêng và trách nhiệm tổ chức thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với dự án đầu tư thuộc các Bộ, ngành.
“Căn cứ quy mô thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư, cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư có thể quyết định tách nội dung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thành tiểu dự án riêng và tổ chức thực hiện độc lập.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo tổ chức thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với dự án đầu tư thuộc diện Nhà nước thu hồi đất của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty, đơn vị sự nghiệp thuộc Trung ương (trong Điều này gọi là Bộ, ngành).
Bộ, ngành có dự án đầu tư phải phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong quá trình tổ chức thực hiện; bảo đảm kinh phí cho việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo quy định” Điều 33 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP
Trong những trường hợp dự án đầu thuộc Bộ, ngành do dự án đầu tư quá lớn và để đảm bảo tình hình thực hiện dự án được trôi chảy thì có thể uyển chuyển ra quyết định tách một phần nội dung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thành tiểu dự án riêng và tổ chức thực hiện độc lập. Việc tách một phần nội dung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thành tiểu dự án riêng và tổ chức thực hiện độc lập thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong quá trình tổ chức thực hiện đảm bảo được vận hành như mong muốn đạt tiến độ mà kế hoạch đã đề ra.
2.2.5 Giải quyết khiếu nại về đất đai
Người sử dụng đất một khi chưa đồng ý với quyết định của cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc thu hồi đất có quyền khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai.
2.2.5.1 Trình tự giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Giải quyết khiếu nại trước ngày 01/7/2011:
“Người sử dụng đất có quyền khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai.
Việc giải quyết khiếu nại được thực hiện như sau: Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân hoặc tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Trong trường hợp khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng;
Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân;
Thời hiệu khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai là ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính đó. Trong thời hạn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân” Điều 138 Luật đất đai 2003
.
“Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần đầu, người giải quyết khiếu nại phải gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại. Trong trường hợp người khiếu nại nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật thì luật sư có quyền tham gia trong quá trình giải quyết khiếu nại.Người giải quyết khiếu nại lần đầu phải ra quyết định giải quyết khiếu nại bằng văn bản và gửi quyết định này cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan. Quyết định giải quyết khiếu nại phải được công bố công khai” Điều 37 Luật khiếu nại tố cáo 1998 sửa đổi bổ sung năm 2004
Nhìn chung những quy định của Luật đất đai 2003 và quy định của Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 sửa đổi bổ sung năm 2004 có những điểm tương đồng về thời hiệu giải quyết khiếu nại nhưng khác nhau ở chỗ Luật đất đai 2003 không có quy định việc “người giải quyết khiếu nại phải gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại”, còn một điểm nữa mà Luật đất đai 2003 không có quy định là ở chỗ “người khiếu nại nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật thì luật sư có quyền tham gia trong quá trình giải quyết khiếu nại” đây là những điểm thiếu xót của Luật đất đai 2003 vì khi người dân đi khiếu nại mà cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại không gặp gỡ trực tiếp người dân thì sẽ dẫn đến cán bộ giải quyết khiếu nại không nắm bắt được vấn đề cần khiếu nại của người dân dẫn dến việc giải quyết không thấu đáo và tình trạng khiếu nại cứ day dưa không có hướng giải quyết dứt điểm. Luật đất đai 2003 không có quy định cho phép luật sư được tham gia vào quá trình giải quyết khiếu nại của người dân, vì trong quá trình giải quyết khiếu nại của người dân để giúp việc khiếu nại được thực hiện đúng nơi đúng chỗ, tránh tình trạng người dân không hiểu biết pháp luật gửi đơn khiếu nại lung tung đây là vấn đề quan trọng vì Luật sư là những người hiểu biết về luật sẽ giúp cho người dân bênh vực được quyền lợi cơ bản của mình giúp cho việc thực thi pháp luật đảm bảo được sự công bằng.
Giải quyết khiếu nại từ ngày 01/7/2011:
Từ ngày 01/7/2011: Không phải khiếu nại trước khi khởi kiện vụ án hành chính
Đại biểu Huỳnh Nghĩa - TP Đà Nẵng cũng đánh giá, việc quy định cá nhân, tổ chức có thể khởi kiện mà không cần qua giải quyết khiếu nại lần đầu là một hướng mở rất nhân văn nhằm trao cho người dân quyền được tự lựa chọn một trong hai trường hợp là kiện cơ quan hành chính hoặc kiện ra Tòa án, không bắt buộc phải qua thủ tục khiếu nại trước khi khởi kiện.
Theo đại biểu Nghĩa, việc quy định cơ chế thông thoáng như trên không những tạo điều kiện thuận lợi cho người dân mà cho cả Tòa án trong việc thụ lý giải quyết các vụ án hành chính. Đồng thời, hạn chế, khắc phục những biểu hiện lạm dụng quyền lực, thiếu trách nhiệm của một số cơ quan, công chức nhà nước trong việc giải quyết công việc cho người dân, tạo cho công chức nhà nước ý thức tôn trọng pháp luật và biết sợ pháp luật
Những mặt thuận lợi của việc khiếu kiện mà không cần thông qua khiếu nại: “Trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết theo sự lựa chọn của người khởi kiện” Khoản 1 Điều 31 Luật tố tụng hành chính năm 2010
.
Luật tố tụng hành chính có những quy định trường hợp người khởi kiện cùng một lúc người dân đã gửi đơn khởi kiện vụ án hành chính tại tòa án có thẩm quyền, và ngay lúc đó người dân lại tiếp tục có đơn khiếu nại đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành giải quyết theo sự lựa chọn của người khởi kiện với những thuận lợi trên cho người khởi kiện thì những quy định của Luật tố tụng hành chính đã bảo vệ được quyền lợi của người dân cũng như đảm bảo được sự tôn trọng trong việc tự lựa chọn cơ quan Nhà nước sẽ tiến hành giải quyết khiếu kiện cho mình, mới những điểm mới trên góp phần đảm bảo cho tính dân chủ của Nhà nước ta với những quy định mở đầy tính thuyết phục như thế đã góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện cũng như đảm bảo sự công bằng của pháp luật.
Bên cạnh đó tại điều 264 Luật tố tụng hành chính được ban hành vào ngày 24 tháng 10 năm 2010 có hiệu lực thi hành vào ngày 1 tháng 7 năm 2011 quy định sửa đổi bổ sung một số điều Luật đất đai “Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện theo quy định của Luật tố tụng hành chính” Khoản 2 Điều 264 Luật tố tụng hành chính
tại điều 264 Luật tố tụng hành chính là sự cải cách mới tạo không gian mở cho đương sự có quyền khiếu nại tận đến Bộ trưởng bộ Tài nguyên và Môi trường tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng đất đảm bảo được quyền lợi của mình cũng như đảm bảo được sự công bằng của pháp luật.
CHƯƠNG 3
VAI TRÒ CỦA UBND TP. CẦN THƠ TRONG QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN DỰ ÁN THU HỒI ĐẤT, BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
VÀ TÁI ĐỊNH CƯ
Do trong quá trình nghiên cứu gặp phải nhiều khó khăn và bị hạn chế về tài liệu cũng như kiến thức nên chương 3 này người viết không thể tìm hiểu từng giai đoạn chi tiết về vai trò của UBND thành phố Cần Thơ trong quá trình triển khai và thực hiện dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Chủ yếu chỉ nêu lên được những khó khăn và bất cập trong quá trình triển khai thực hiện dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, và từ những căn cứ trên góp phần làm rõ về vai trò cũng nhiệm vụ của UBND thành phố Cần Thơ thông qua vấn đề ban hành và triển khai những quy định góp phần giải quyết những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Ngày 01/01/2004, tỉnh Cần Thơ được chia thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và tỉnh Hậu Giang. Thành phố Cần Thơ hiện nay được chia thành 8 đơn vị hành chính gồm 5 quận (Ninh Kiều, Bình Thủy, Ô Môn, Cái Răng, Thốt Nốt) và 4 huyện (Phong Điền, Cờ Đỏ, Thới Lai, Vĩnh Thạnh), trong đó có 5 thị trấn, 44 phường và 36 xã. Hiện thành phố Cần Thơ đang trên đà phát triển mạnh với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trở thành thành phố trọng điểm của khu vực đồng bằng sông Cửu Long. “Ngay vào thời khắc quan trọng này thành phố Cần Thơ tiến hành xây dựng Kế hoạch sử dụng đất điều chỉnh bổ sung năm 2004-2005 của thành phố theo Luật đất đai năm 2003, được Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt tại Quyết định số: 1168/QĐ.TTg ngày 05/11/2004, thành phố Cần Thơ đã công bố và triển khai và tổ chức thực hiện. Thành phố Cần Thơ cũng đã hoàn thành lập Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thành phố giai đoạn 2006- 2010 và định hướng đến năm 2020; Dự án được Hội đồng thẩm định Nhà nước thông qua và Bộ Tài nguyên Môi trường đã có tờ trình số 46/TTr-BTNMT ngày 25/9/2006 trình Chính phủ phê duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2006-2010) thành phố Cần Thơ. Song song đó, thành phố cũng đang xúc tiến thực hiện lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và định hướng sử dụng đất đến năm 2020 của 08 quận, huyện”
Công tác kiểm kê đất đai đến năm 2010 đã triển khai thực hiện theo kế hoạch, một số quận, huyện đã triển khai đến cấp xã và đơn vị thi công đang khảo sát thực địa chuẩn bị cho tổng kiểm kê theo biểu mẫu quy định.
Bên cạnh những thuận lợi và những khó khăn và thách thức khi thành phố Cần Thơ trở thành đô thị loại 1 trực thuộc Trung ương thì vấn đề quy hoạch phát triển đô thị là một vấn đề quan trọng, quá trình kêu gọi đầu tư vào đầu tư tại thành phố đòi hỏi ta phải có một chính sách thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hoàn thiện để những nhà đầu tư có được tâm lý an tâm khi đầu tư vào Cần Thơ, kết quả thực hiện các dự án trên địa bàn thành phố tính đến cuối năm 2009 đầu năm 2010 cụ thể như sau: “Năm 2010, theo kế hoạch, bên cạnh giải quyết những tồn đọng của năm 2009, công tác bồi thường, GPMB sẽ tiếp tục được đẩy mạnh ở gần 100 công công trình, dự án trên địa bàn thành phố. Điển hình như: Dự án kè sông Cần Thơ; Dự án mở rộng quốc lộ 91; Khu TĐC An Bình, đường Nguyễn Văn Cừ (đoạn Cách Mạng Tháng 8- Mậu Thân), đường Vành đai phi trường; Trung tâm điện lực Ô Môn,... Để công tác này trong năm mới đạt kết quả, ông Dương Tấn Hiển, Giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất TP Cần Thơ, kiến nghị: Thành phố cần sớm ban hành quy trình bồi thường, hỗ trợ TĐC và GPMB thống nhất thực hiện trên toàn thành phố.
Theo Trung tâm Phát triển quỹ đất TP Cần Thơ, năm 2009, trên địa bàn TP Cần Thơ đã triển khai thực hiện 150 dự án với diện tích khoảng 2.521,4 ha, ảnh hưởng đến trên 15.000 hộ dân. Đến đầu năm 2010, các đơn vị hữu quan đã bàn giao mặt bằng cho các chủ đầu tư khoảng 1.553,9/2.521 ha, đạt tỷ lệ trên 61,63%. Đặc biệt, các địa phương như quận Ninh Kiều, huyện Thới Lai, Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh tỷ lệ bàn giao mặt bằng đạt từ 90-100%. Theo lãnh đạo TP Cần Thơ, kết quả này là một nỗ lực lớn trong bối cảnh ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới cũng như sự kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc của các ngành hữu quan trong quá trình tổ chức thực hiện. Đặc biệt, một số chính sách được lãnh đạo UBND thành phố mạnh dạn ban hành như: TĐC phân tán, sử dụng 10% quỹ đất của các doanh nghiệp bàn giao cho thành phố để bố trí TĐC cho dân... Những giải pháp này đã góp phần giảm áp lực, thắc mắc của người dân khi nhà nước thu hồi đất chưa đảm bảo nền TĐC, góp phần đẩy nhanh tiến độ GPMB, bàn giao mặt bằng cho các chủ đầu tư để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, dự án.
Cần quy định rõ trách nhiệm công tác GPMB là của các cấp, các ngành nhằm phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Ngoài ra, cơ quan tài nguyên và môi trường các cấp, chủ đầu tư và các đơn vị có tư cách pháp nhân về đo đạc cần nâng cao trách nhiệm hơn nữa trong công tác đo đạc lập hồ sơ kỹ thuật đất, thu hồi và chỉnh lý biến động về đất của các dự án... Đặc biệt, UBND TP Cần Thơ cần sớm cụ thể hóa các văn bản quy định về bồi thường, hỗ trợ và TĐC; giao các sở, ngành chức năng nghiên cứu, đề xuất để sớm ban hành quy trình xác định giá đất bồi thường theo Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13-8-2009 của Chính phủ (Quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và TĐC) có hiệu lực từ ngày 1-10-2010”
. Ngoài những thuận lợi trong quá trình thực hiện các dự án quy hoạch thì vẫn còn tồn tại những khó khăn cơ bản như sau:
3.1 Khái quát chung về quá trình triển khai thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ở thành phố Cần Thơ
3.1.1 Thuận lợi trong quá trình thực hiện
Ý thức được tầm quan trọng trong quá trình thực hiện công tác thu hồi của các dự án quy hoạch cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thành phố trọng điểm của đồng bằng Sông cửu Long đặc biệt là phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn thành phố Cần Thơ. Nên khi trở thành thành phố trực thuộc Trung ương thì Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố luôn không ngừng tổ chức chỉ đạo các Sở, ban, ngành thực hiện công tác có hiệu quả thực hiện theo đúng tinh thần trong chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong triển khai thực hiện công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại địa phương.
Song song những thuận lợi đó ta phải nói đến vấn đề chấp hành của những người dân trong khu đất bị quy hoạch giải phóng mặt bằng luôn quan tâm và thực hiện theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như các quy định của các cơ quan có thẩm quyền, ngoài ra còn có những hộ dân vì lợi ích chung của toàn xã hội mà hiến đi phần đất riêng của mình cho Nhà nước xây dựng các công trình phục vụ cho nhu cầu của xã hội đảm bảo cho quá trình thực hiện dự án đạt được những thuận lợi đáng kể. Lý do để vấn đề thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tạo được sự đồng thuận lớn trong nhân dân như vậy là một phần cũng nhờ vào sự quan tâm và chỉ đạo sâu sát từ cấp trên đến cấp dưới, đảm bảo được sự “tập trung dân chủ” trong quá trình triển khai thực hiện dự án mà từ đó lợi ích của những người dân trong diện giải tỏa được đảm bảo tạo được sự tín nhiệm trong nhân dân đối với Nhà nước. Vấn đề này được thể hiện qua Luật đất đai, Nghị định số 197/2004/NĐ-CP, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP thể hiện được sự quan tâm của Nhà nước đối với nhân dân trong diện bị thu hồi đất ngày càng cao, bên cạnh đó sự ra đời của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP được đưa vào thực tế đã đảm bảo được sự hài hòa về quyền lợi cũng như lợi ích giữa những người dân có đất bị thu hồi với những doanh nghiệp và chủ đầu tư.
Trong quá trình triển khai cũng như đưa vào thực hiện thì Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ban hành vào ngày 13/8/2009 quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong giai đoạn hiện nay được coi là khá hoàn chỉnh góp phần giải quyết được những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mà điểm nổi bật của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP vấn đề định giá đất để bồi thường làm sao cho sát với giá thị trường đáp ứng kịp thời được sự quan tâm cũng như mong chờ từ nhân dân trong diện bị thu hồi đất, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP quy định “Khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất, cho thuê đất, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và trường hợp doanh nghiệp Nhà nước tiến hành cổ phần hóa lựa chọn hình thức giao đất mà giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tại thời điểm giao đất, cho thuê đất, thời điểm quyết định thu hồi đất, thời điểm tính giá đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường để xác định lại giá đất cụ thể cho phù hợp” Khoản 1 Điều 11 Nghị định 69/2009/NĐ-CP
vấn đề giá đất được cụ thể hóa và được xác định lại theo quy định tại khoản 1 Điều này không bị giới hạn bởi các quy định tại khoản 5 Điều 1 Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
Từ những nguyên nhân của sự thay đổi hợp lý đó đáp ứng kịp thời tình hình phát triển góp phần đảm bảo lợi ích của người dân cúng như lợi ích của những nhà đầu tư tạo được tín nhiệm trong nhân dân.
Nhờ vào công tác tuyên truyền vận động kịp thời giúp người dân am hiểu thấu đáo được chính sách của Nhà nước làm giảm bớt được những vấn đề không chấp hành theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hay gây cản trở trong quá trình thực hiện dự án.
3.1.2 Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện
Bên cạnh những thuận lợi đạt được bao giờ cũng tồn tại những khó khăn vướng mắc chưa có biện pháp tháo gỡ, từ những thuận lợi đó trong quá trình thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mà UBND thành phố Cần Thơ luôn không ngừng tìm cách giải quyết những khó khăn tồn tại đó những khó khăn vướng mắc cụ thể đó xuất hiện trong cơ chế, chính sách dẫn đến sự khó khăn trong quá trình đưa vào thực hiện.
Thực hiện theo các quy định pháp luật về giá đất cũng như mức bồi thường, hỗ trợ đều do UBND cấp Tỉnh (Thành phố) ban hành vào ngày 01 tháng 01 hàng năm, dù cho Luật đất đai và các Nghị định hướng dẫn thi hành luật đất đai 2003 đều quy định trong quá trình định giá đất để tính bồi thường đối với đất tại thời điểm thu hồi đất phải sát với giá thực tế chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường. Nhưng với những quy định nữa vời đó thì ta thấy không có căn cứ pháp lý nào được quy định vấn đề định giá đất sát với giá thị trường là sát như thế nào và thực hiện như thế nào đó là vấn đề còn đặt dấu chấm hỏi trong cơ chế, chính sách định giá đất khi bồi thường.
“Trường hợp giá đất do UBND thành phố công bố chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì UBND thành phố giao cho cơ quan chức năng xác định lại giá đất cụ thể để quyết định giá đất tính bồi thường cho phù hợp và không bị giới hạn bởi quy định về khung giá các loại đất” Quyết định số 12/2010/QĐ-UBND
Trên thực tế khi UBND thành phố công bố giá đất chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì UBND thành phố sẽ giao cho Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định xác định lại giá đất và khi Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định đã xác định được giá đất thích hợp thì phải trình cho UBND thành phố xem xét phê duyệt thì trong quá trình chờ được phê duyệt đó vẫn phải sử dụng theo bảng giá do
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn - Vai trò của UBND cấp tỉnh trong việc triển khai thực hiện dự án thu hồi đất bồi thường hỗ trợ tái định cư Thực tiễn tại Thành phố Cần Thơ.doc