Luận văn Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Tài liệu Luận văn Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: LUẬN VĂN: Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam lời mở đầu Lợi nhuận là một phạm trù kinh tế lớn, nó tồn tại song song với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Là mục tiêu cho chiến lược phát triển doanh nghiệp nói riêng và toàn xã hội nói chung. Vì vậy, lợi nhuận có một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang phát triển nền kinh tế theo cơ chế mới – Cơ chế thị trường, chúng ta cần phải xem xét vấn đề này một cách đúng đắn để từ đó thấy được xu hướng vận động của nền kinh tế và tìm ra các chính sách phù hợp để phát triển kinh tế nước nhà. Xuất phát từ tầm quan trọng của lợi nhuận như đã trình bày trên. Đề án kinh tế chính trị của em sẽ tập trung đi vào nghiên cứu một só vấn đề sau đây: 1. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. 2. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. 3. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. N...

pdf37 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1505 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam lời mở đầu Lợi nhuận là một phạm trù kinh tế lớn, nó tồn tại song song với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Là mục tiêu cho chiến lược phát triển doanh nghiệp nói riêng và toàn xã hội nói chung. Vì vậy, lợi nhuận có một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang phát triển nền kinh tế theo cơ chế mới – Cơ chế thị trường, chúng ta cần phải xem xét vấn đề này một cách đúng đắn để từ đó thấy được xu hướng vận động của nền kinh tế và tìm ra các chính sách phù hợp để phát triển kinh tế nước nhà. Xuất phát từ tầm quan trọng của lợi nhuận như đã trình bày trên. Đề án kinh tế chính trị của em sẽ tập trung đi vào nghiên cứu một só vấn đề sau đây: 1. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. 2. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. 3. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Nội dung Chương I: Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. I. Quan điểm của các trường phái kinh tế học về lợi nhuận: 1. Quan điểm của các nhà kinh tế học trước Mac: a. Quan điểm của chủ nghĩa trọng thương về lợi nhuận: Chủ nghĩa trọng thương là hệ tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản. Ra đời vào khoảng những năm 1450_1650, phát triển mạnh nhất ở Anh sau đó là ở Pháp và ý. Về mặt lịch sử, chủ nghĩa trọng thương ra đời khi phương thức sản xuất phong kiến suy tàn và những mầm mống đầu tiên của phương thức sản xuất TBCN hình thành và phát triển, trong thời kỳ chuyển từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn sang nền kinh tế thị trường. Đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản, chính vì vậy ngành thương mại_đặc biệt là ngoại thương được tôn vinh lên vị trí thống trị, nó như một phương thuốc hữu hiệu cho sự giàu có của các quốc gia Tư Bản. Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa trọng thương từ lĩnh vực lưu thông và trao đổi hàng hoá, mà họ cho rằng:" lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông mua bán, trao đổi sinh ra. Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có.1 Do hạn chế của lịch sử nên họ mới chỉ thấy được lợi nhuận từ lĩnh vực lưu thông hàng hoá mà chưa thấy được nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận là trong sản xuất. Chính vì vậy mà họ đã làm cho các doanh nghiệp xác định sai mục tiêu phấn đấu và hậu quả là thất bại thị trường TBCN như: tình trạng sản xuất dư thừa, lừa đảo, gian lận thương mại, không tập chung sản xuất để hoàn thiện sản phẩm, không lấy chất lượng sản phẩm làm mục tiêu phát triển bền vững...Tư tưởng này đã nhanh chóng đưa nền kinh tế lâm vào chỗ suy thoái, khủng hoảng và việc tháo gỡ chúng càng trở nên bế tắc. Mặc dù sai lầm nhưng quan điểm về "lợi nhuận" của trường phái trọng tiền cổ điển lại có một giá trị lịch sử hết sức to lớn. Đó là những viên gạch đầu tiên để xây dựng nên khái niệm khoa học, đầy đủ và chính xác về lợi nhuận và đồng thời cũng là những viên gạch đầu tiên để xây dựng lên hệ thống các quan điểm, các quy luật và các học thuyết kinh tế sau này. b. Quan điểm về lợi nhuận của trường phái kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh. Trong thời kỳ chủ nghĩa trọng thương, sự hoạt động của tư bản chủ yếu là trong lĩnh vực lưu thông. Do quá trình phát triển của công trường thủ công,CNTB chuyển sang quá trình sản xuất, lúc này các vấn đề kinh tế của sản xuất đã vượt quá khả năng giải thích của lý thuyết chủ nghĩa trọng thương và học thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện. Các nhà kinh tế học của trường phái này lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Lần đầu tiên họ xây dựng một hệ thống các phạm trù và quy luật của nền kinh tế thị trường: như phạm trù lợi nhuận, lợi tức, địa tô...Trong đó có một số quan điểm về lợi nhuận nổi bật là quan điểm của william Petty, Adam Smith,David Ricardo. + W_Petty:2 Trong lý thuyết về thu nhập của mình, W_Petty không trực tiếp trình bày lợi nhuận của doanh nghiệp mà ông trình bày hai hình thái giá trị thặng dư là lợi tức và địa tô. Theo ông địa tô là số chênh lệch giữa thu nhập bán hàng và chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất bao gồm tiền lương và giống má. Trong khái niệm này, ông đã đồng nhất giữa địa tô và lợi nhuận, từ đó ta có thể suy ra rằng: số chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất là giá trị thặng dư. Từ luận điểm này, theo Mac, công lao của W_Petty là đã chỉ ra nguồn gốc giá trị thặng dư, mầm mống lý luận về bóc lột theo lối TBCN. Về lợi tức, W_Petty cho rằng đó là phần thu nhập phát sinh của địa tô, lợi tức là tô của tiền, lợi tức phụ thuộc vào địa tô, như vậy ông cho rằng : phần lợi nhuận dôi ra phụ thuộc vào nhà tư bản là hợp lý, nó như phần thưởng xứng đáng cho những mạo hiểm, rủi ro của nhà tư bản khi bỏ tiền ra để sản xuất kinh doanh. 1 Trích Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế,Trường ĐHKTQD(1999), trang 46 ChươngIII. + A_Smith:3 Ông cho rằng lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sảm phẩm của người lao động, chùng đều có nguồn gốc là lao động không được trả công của công nhân. Ông chỉ ra lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động bằng tiền đi vay phải trả cho chủ của nó để được quyền sử dụng tư bản. Ông nhìn thấy xu hướng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và xu hướng tỷ suất lợi nhuận bình quân giảm dần do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên. Xuất phát từ sự phân tích giá trị hàng hoá do người công nhân tạo ra A_Smith thấy một thực tế là công nhân chỉ nhận được một phần tiền lương, phần còn lại là lợi nhuận địa tô thì của nhà tư bản. + D_Ricardo:4 Nếu như A_Smith sống trong thời kỳ công trường thủ công phát triển mạnh thì D_Ricardo lại sống trong thời kỳ cách mạng công nghiệp, đó là điều kiện khách quan để ông vượt được ngưỡng giới hạn mà A_Smith dừng lại. Trên cơ sở kế thừa học thuyết kinh tế của A_Smith,về lợi nhuận, D_Ricardo cho rằng:" lợi nhuận là số còn laị ngoài tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân". Bằng quan điểm này ông đã thấy lợi nhuận là một sản phẩm của lao động,và ông nhìn thấy quan hệ bóc lột giữa chủ tư bản và người công nhân. Đồng thời ông chỉ ra xu hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân do sự vận động, biến đổi giữa ba giai cấp: Địa chủ , công nhân và tư bản. 2 Dựa theo Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế,Trường ĐHKTQD(1999), trang 54-55 ChươngIII. 3 Dưa theo Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế,Trường ĐHKTQD(1999), trang 65-67 ChươngIII. 4 Dưa theo Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế,Trường ĐHKTQD(1999), trang 71-72 ChươngIII. 2. Quan điểm về lợi nhuận của John Keyes: Keyes được Mác đánh giá là cha đẻ của kinh tế cổ điển và ông có công lao to lớn trong lĩnh vực kinh tế. Khi phân tích phần thưởng cho sự gánh chịu rủi ro nói chung chúng ta không tính đến cái rủi ro do vỡ nợ hay cái rủi ro có bảo hiểm. Có một dạng rủi ro đặc biệt phải lưu ý là rủi ro đầu tư không được bảo hiểm, nó phải được tính vào trong quá trình tính lợi nhuận doanh thu của công ty phụ thuộc rất lớn vào thăng trầm trong chu kỳ kinh doanh. Do các nhà đầu tư không thích các trường hợp rủi ro nên họ đòi hỏi phải có mức phí dự phòng rủi ro cho những đầu tư không chắc chắn nhằm bù đắp cho những rủi ro của họ. Keyes cho rằng lợi nhuận bằng doanh thu trừ đi chi phí, lợi nhuận kinh doanh được báo cáo chủ yếu là thu nhập công ty. 3. Học thuyết về lợi nhuận của Mac: a. Sự hình thành giá trị thặng dư :5 Kế thừa có phê phán những quan điểm của A.Smith và D.Ricendo, Mac đã xây dựng nên học thuyết giá trị thặng dư học thuyết chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Khi xem xét quá trình lưu thông trong CNTB, Mac đã thấy tiền với tư cách là tư bản đã vận hành theo công thức T-H-T'. ở đây cho ta thấy rằng nếu số tiền thu về T' bằng số tiền bỏ raT thì quá trình vận động này trở nên vô nghĩa. Mục đích của lưu thông tiên tệ ở đây không phải là giá trị sự dụng màlà giá trị tăng thêm bởi vậy số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra. Vậy T'= T+ T hay T'=T+m . Trong số T(m), được Mac gọi là giá trị thặng dư. 5 Dưa theo Giáo trình Kinh tế chính trị, Trường ĐHKTQD(1998),ChươngIV &Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế,Trường ĐHKTQD(1999), trang 107-123 ChươngV. Vậy từ công thức vận hành trên , phải chăng m sinh ra từ lưu thông? để trả lời câu hỏi này, Mac đã tiếp cận và giải quyết 3 trường hợp . + Nếu hàng hoá được trao đổi ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái giá trị chứ tổng giá trị của mỗi bên là không thay đổi vậy trường hợp này m được loại bỏ. + Nếu người bán mua với giá thấp và bán với giá cao, thì chỉ làm giầu cho một hay một số người nào đó chứ không thể giải thích được sự giầu có cho một quôc gia tư bản, có nghĩa là đây chỉ là hình thức phân phối lại giá trị cho toàn bộ xã hội. Do đó không tạo được m. + Nếu người mua mua với giá cao và cũng bán được với giá cao thì xét trong toàn bộ xã hội tư bản gía trị không tăng lên, m phải được loại bỏ. Như vậy dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì lưu thông cũng không thể tạo ra m. Còn nếu là một sản phẩm thuần tuý chỉ cho sản xuất không được đem ra lưu thông trao đổi thì nó chỉ là một vật phẩm không hơn không kém, sẽ không tạo ra giá trị và như vậy sẽ không tạo ra giá trị thặng dư. Vì vậy để tìm hiểu nguồn gốc của m thì Mac phải đi sâu để giải thích đầy đủ công thức vì sự xuất hiện của giá trị thặng dư. Nhìn vào công thức này bản chất của vấn đề đều được bộc lộ. Đi sâu nghiên cứu qúa trình sản xuất TBCN là sản xuất ra giá trị tín dụng . Để tiến hành sản xuất nhà tư bản phải bỏ ra mua tư liệu sản xuất và thuê công nhân (đi mua hàng hoá sức lao động). Sức lao động là một loại hàng hoá đặc biệt mà nhà tư bản đã tìm T-H TLSX SLĐ SX-H'-T' thấy trên thị trường. Ngoài hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng như các hàng hoá thông thường khác, việc tiêu dùng hàng hoá sức lao động còn tạo ra cho nhà tư bản một giá trị lớn hơn chi phí mà nhà tư bản bỏ ra. Như vậy giá trị sử dụng của sức lao động chính là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư, nhưng để thực hiện giá trị thặng dư thì nó phải thông qua lưu thông trao đổi quá trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động có hai đặc trưng. - Người lao động chịu sự kiểm soát của chủ tư bản. - Sản phẩm cho họ làm ra hoàn toàn phụ thuộc vào tay nhà tư bản. Chính hai đặc chưng trên đã dẫn đến giá trị sức lao động mà nhà tư bản phaỉ trả khi mua (giá cả sức lao động) luôn luôn nhỏ hơn giá trị mà sức lao động đó có thể tạo ra. Điều này có thể giải thích được như sau: ngày lao động của công nhân được chia thành 2 phần: phần lao động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động của mình gọi là thời gian lao động cần thiết phần còn lại của ngày lao động là thời gian lao động mà nhà tư bản được hưởng mà không phải trả tiền. Trên thực tế, trong quá trình lao động người công nhân sáng tạo ra một giá trị mới: (v+m) trong đó: + v là giá trị sức lao động (tư bản khả tiến) + m là giá trị thặng dư. Tuy nhiên, người công nhân chỉ nhận đượctiền công bằng giá trị (giá cả sức lao động), phần còn lại là giá trị thặng dư thuộc về nhà tư bản. Từ những lập luận trên , ta thấy giá trị thặng dư là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động cho người công nhân sáng tạo ra bị nhà tư bản chiếm không ". TRong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, các bộ phận khác nhau của tư bản có tác dụng khác nhau. Có bộ phận tư bản được sử dụng trang nhiều quá trình sản xuất. Có bộ phận được sử dụng vào sản xuất lại tiêu hao toàn bộ và chuyển biến giá trị của nó vào sản phẩm trong một chu kỳ sản xuất. Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo toàn và chuyển từng phần vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi vì lượng trong quá trình sản xuất được Mac gọi là tư bản bất biến (ký hiệu c). Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên, tức là biến đổi về lượng được Mác gọi là tư bản khả biến (Ký hiệu Q). Vậy tư bản khả biến là điều kiện cần để tiến hành sản xuất giá trị thặng dư nhưng quyết định cho giá trị thặng dư lại là tư bản khả biến, vì nó là bộ phận tư bản không ngừng tăng lên từ đó Mác cho rằng giá trị hàng hoá = c+v+m. b. Quá trình chuyển hoá giá trị thặng dư lợi nhuận:6 Như chúng ta đã biết muốn tạo ra giá trị hàng hoá tất yếu phải chi phí một số lao động nhất định bao gồm: lao động sống và lao động quá khứ. + Lao động quá khứ: là giá trị của tư liệu sản xuất(c). + Lao động sống(lao động hiện tại) là lao động tạo ra giá trị mới (v+m). Đứng trên quan điểm xã hội mà xét thì đó là chi phí thực tế để tạo thành giá trị của hàng hoá (c+v+m). Tuy nhiên nhà tư bản chỉ ứng tư bản để sản xuất hàng hoá tức là họ chỉ ứng ra một số tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Chi phí đó, Mác gọi là chi phí sản xuất TBCN (ký hiệu K) K=c+v. Chúng ta có thể thấy ngay một điều là chi phí sản xuất TBCN luôn nhỏ hơn chi phí thực tế (giá trị hàng hoá). Rõ ràng rằng K=c+v < giá trị hàng hoá (GTHH) =c+v+m. Như vậy giữ giá trị hàng hoá và K luôn có một khoảng chênh lệch cho nên sau khi bán hàng hoá, nhà tư bản không nhưng bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra mà còn thu được một số tiền lời bằng m, số tiền này được gọi là lợi nhuận (p). Vậy GTHH = c+v+m = K+m hay GTHH = K+p 6 Dựa theo Giáo trình Kinh tế chính trị, Trường ĐHKTQD(1998), ChươngVI & Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia(1999), ChươngVI , trang 162-185. Liệu p và m có gì khác nhau? Chỉ khi nào hàng hoá bán đúng giá trị thì p=m. Sự khác nhau giữ p và m được thể hiện ở chỗ nếu hàng hoá bán với giá cả > GTHH thì p>m, còn nếu hàng hoá bán với giá cả < GTHH thì p<m như vậy nhà tư bản có thể bán giá trị hàng hoá dưới giá trị của nó mà vẫn có lợi nhuận chừng nào giá bán của hàng hoá còn cao hơn chi phí sản xuất của nó. Nếu xét dưới toàn bộ tư bản xã hội, thì tổng gía trị thặng dư bằng tổng mức lợi nhuận .Do vậy về mặt xã hội mà xét thì giá trị thặng dư chính là lợi nhuận. Còn nếu xét với từng nhà tư bản riêng lẻ thì lợi nhuận lại có xu hướng lên xuống xung quanh gia trị thặng dư, điều này được giải thích do giá cả lên xuống xung quanh giá trị hàng hoá. Chính vì vậy có thể nói, lợi nhuận không phải là giá trị thặng dư mà nó chỉ là hình thức biểu hiện khác đi của giá trị thặng dư mà thôi. Tuy nhiên, sự tồn tại của lợi nhuaqạnlại che dấu đi bản chất bóc lột của CNTB, bởi nó được sinh ra từ k. Vàcũng chính vì thế, W_petty cũng như A_smith mới nhầm tưởng rằng lợi nhuận là phần thưởng xứng đáng cho những rủi ro trong kinh doanh mà nhà tư bản phải gánh chịu . Trên thực tế các nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận(p'): p'= vc m  100%, "tỷ suất lợi nhuận đó là tỷ số tính theo % giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước". Nếu tỷ suất giá trị thặng dư(m'= v m 100%) phản ánh trình độ bóc lột của giai cấp tư bản thì tỷ suất lợi nhuận p' chỉ phản ánh mức đầu tư có hiệu quả như thế nào? Do đó việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuậ là động lực thúc đẩy của nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản. II. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư.7 1. Lợi nhuận công nghiệp: Trong công nghiệp để cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho thị trường, các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trínhản xuất và kinh doanh. Họ muốn chi phí cho các đầu vào ít nhất và bán hàng hoá với với gía cao nhất để khi trừ đi các chi phí còn số dư dôi ra. Số dư hay số chênh lệch giữa giá đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất gọi là lợi nhuận công nghiệp. Phần lợi nhuận này giúp nhà tư bản không những nuôi được bản thân và gia đình mình mà một phần trong đó còn được dùng để tích luỹ và tái sản xuất mở rộng, củng cố, phát triển và tăng cường vị trí của mình trên thị trường. Từ đó ta có thể hiểu một cách rõ ràng, lợi nhuận công nghiệp chính là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu bán hàng và tổng mức chi phí bỏ ra của những đơn vị sản xuất kinh doanh mang tính công nghiệp.8 2. Lợi nhuận thương nghiệp: Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, họ cho rằng lợi nhuận là kết quả của sự trao đổi không ngang giá hoạt động thương mại như một trò lừa đảo"bịt bợm":"không một người nào thu lợi nhuận mà không làm là khác". Đây là quan điểm sai lầm và nguyên nhân là do chủ nghĩa trọng thương đã tách hai quá trình sản xuất và lưu thông thành hai lĩnh vực khác biệt. Khác với những quan điểm trước, tư bản thương nghiệp dưới CNTB (tu bản thương nghiệp hiện đại) là một bộ phận của tư bản công nghiêph tách rời ra, phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của tư bản công nghiệp. Vai trò của tư bản công nghiệp chỉ hạn chế ở mức năng mua và bán, hay nói cách khác nó không sáng tạo 7 Dựa theo Giáo trình Kinh tế chính trị, Trường ĐHKTQD(1998), ChươngVI & Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia(1999), từ ChươngVII đến ChươngXIII , trang 192-385 &Tư Bản Luận QuyểnI tập 1 trang 162-167. ra giá trị và giá trị thặng dư, nó chỉ thực hiện giá trị và giá trị thặng dư mà thôi. Nhìn bề ngoài thì lợi nhuận thương nghiệp là chênh lệch giữa việc mua và bán hàng hoá. Nhưng thực chất:"lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp. " nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp" là vì: + Tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng quy mô sản xuất: + Tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng thị trường. + Tư bản thương nghiệp có tính chuyên môn hoá cao trong lưu thông tạo điều kiện cho tư bản công nghiệp rảnh tay tập chung vào sản xuất. + Tư bản thương nghiệp làm tăng tốc độ chu chuyển hàng hoá và chu chuyển tư bản làm tăng lợi nhuận do đó làm tăng tích luỹ cho tư bản công nghiệp. Tóm lại : lợi nhuận thương nghiệp (hay phần nhường giữa hai nhà tư bản này) chính là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá). 3. Lợi tức: Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp luôn có sóp tư bản tiền tệ ứng trước tạm thời nhàn rỗi , Ví dụ như: tiền lương nhưng chưa đến kỳ trả, tiền dùng để mua nguyên nhiên vật liệu nhưng chưa đến kỳ mua, bộ phận giá trị thặng dư tích luỹ mà chưa sử dụng để thực hiện tái sản xuất mở rộng...Tất cả số tư bản nhàn rỗi đó không đem lại một thu nhập nào cho nhà tư bản. Nhưng đối với nhà tư bản thì tiền phải đẻ ra tiền. Chính vì vậy mà nhà tư bản sử dụng số tư ản nhàn rỗi đó cho vay lấy lãi, và phần lãi ấy gọi là lợi tức. Vậy lợi tức là gì? "lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay căn cứ vào món tiền mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay". 8 Kinh tế hoc David Begg. Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Phạn trù lợi tức tồn tại đã che dấu đi bản chất bóc lột của CNTB. Nhưng quá trình vận động của tư bản cho vay đã vạch trần được điều đó. 4. Lợi nhuận ngân hàng: Ngân hàng TBCN là tổ chức kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay. Ngân hàng có hai nhiệm vụ chính: nhận gửi và cho vay, còn trong nghiệp vụ cho vay, ngân hàng thu lợi tức của người đi vay. Lợi tức nhận gửi nhỏ hơn lợi tức cho vay. "Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và nhận gửi trừ đi những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng cộng với các khoản thu nhập khác về kinh doanh tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng". 5. Lợi nhuận độc quyền. Độc quyền ra đời từ tự do cạnh tranh, nó loại bỏ sự thống trị về tự do cạnh tranh nhưng không thủ tiêu được cạnh tranh mà cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Cạnh tranh dẫn đến độc quyền, độc quyền cũng để cạnh tranh tốt hơn Bản chất kinh tế của CNTB là dụa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Việc phân phối lợi nhuận dựa trên sở hữu tư bản. Tuy nhiên đến giai đoạn của CNTB độc quyền thì việc phân phối lợi nhuận không chỉ dựa trên sở hưũ tư bản nói chung mà trước hết dựa trên cơ sở quyền lực chi phối tư bản của người khác, dựa trên sở hữu tư bản về tài chính. Do tư bản độc quyền, nhất là tư bản tài chính,giữ vị trí thống trị trong sản xuất và lưu thông, nên nó có thể không chỉ sử dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, cạnh tranh, lợi nhuận bình quân và tỷ suất lợi nhuận bình quân...là những phạn trù kinh tế quen thuộc trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, mà nó sử dụng phương pháp cưỡng bức siêu kinh tế để thu lợi nhuận cao_lợi nhuận độc quyền. Vậy lợi nhuận độc quyền là gì ? " lợi nhuận độc quyền là hình thức biểu hiện mới của giá trị thặng dư, hình thành trong giai đoạn CNTB độc quyền". Lợi nhuận độc quyền = lợi nhuận bình quân(  p ) + lợi nhuận siêu ngạch do độc quyền mà có: pĐQ=  p +pSNĐQ Trong đó pSNĐQ gồm : m của công nhân trong nội bộ độc quyền : m của công nhân ngoài tổ chức độc quyền : m do sản xuất hàng hoá nhỏ trong nước. : m do xuất khẩu tư bản và sản xuất hàng hoá bán ra nước ngoài : m do quân sự hoá kinh tế. ChươngII: Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. I. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường :9 1. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: Lợi nhuận đó là nguồn giầu có của giai cấp tư bản. Chính vì vậy các nhà tư bản sản xuất kinh doanh với mục đích thu được càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Trước đây họ có thể tạo ra lợi nhuận bằng cách kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân.(phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối). Tuy nhiên phương pháp này chỉ có hiệu quả lúc ban đầu của CNTB thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản- khi mà trình độ người lao động con thấp kém. Đến khi lực lượng sản xuất phát triển, phương pháp này tỏ ra không hữu hiệu và gặp phải sự chống đối mãnh liệt của công nhân. Chính vì lẽ đó các chủ tư bản chuyển sang bóc lột một cách tinh vi hơn. Đó là biện pháp tăng năng suất lao động của người công nhân thông qua việc đầu tư khoa học kỹ thuật mới. Nhưng chính mục đích áp dụng kỹ thuật mới đã làm cho CNTB ngày càng chú trọng vào khoa học công nghệ đặc biệt cho vấn đề nghiên cứu và triển khai công nghệ...đã khuyến khích các tài năng, những nhà khoa 9 Dựa theo A.Paul Samuellson Kinh tế học tập 1,2. học phát huy sức mạnh của mình. Mà đỉnh cao là những phát minh sáng chế lần lượt ra đời, đặc biệt là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX . Chính vì điều đó đã làm cho lực sản xuất xã hội phát triển hết sức mạnh mẽ. Người lao động có trình độ tay nghề cao có tính chuyên môn hoá trong ngành nghề lao động đã đem lại cho các chủ tư bản không chỉ thu được lợi nhuận đơn thuần mà còn thu được cả lợi nhuận siêu ngạch. Đối với người công nhân, họ là người trực tiếp sử dụng,vận hành công nghệ mới vì vậy đẻ quá trình sử dụng được tiếp diễn với hiệu quả kinh tế cao thì người công nhân bắt buộc phải nâng cao trình độ, nâng cao tay nghề nếu không họ sẽ bị đào thải bởi quy luật phát triển. Còn về mặt nhà tư bản họ cũng hiểu rằng để đạt được hiệu quả kinh tế cao, tận dụng được hết các chức năng của công nghệ tiên tiến thì họ phải có đội công nhân lành nghề với trình độ kỹ thuật cao. Vì vậy quá trình đầu tư cho chiến lược nâng cao trình độ lao động của nhà tư bản và yêu cầu cấp thiết người lao động phải không ngừng nâng cao khả năng của mình. Để đạt được lợi nhuận siêu ngạch,nhà tư bản cần nâng cao năng suất lao động cá biệt của người công nhân. Từ đó nâng cao năng suất lao động xã hội,có nghĩa là thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. 2. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển. Ta đã biết lực lượng sản xuất và quan hệ sản suất có mối quan hệ biện chứng với nhau. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, chính vì lẽ đó lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển thì ắt phải khiến cho quan hệ sản xuất phát triển theo. Do tác động của lợi nhuận, do sự phân chia lợi nhuận dưới nhiều hình thức khác nhau mà chủ yếu là dựa trên chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, đã làm cho quan hệ sản xuất giữa chủ doanh nghiệp và người lao động ngày càng thắt chặt hơn. Bên cạnh đó mục đích doanh nghiệp luôn đặt các doanh nghiệp trước yêu cầu "hiệu quả".Làm thế nào để chi phí là ít nhất mà lợi nhuận thu về là lớn nhất. Điều đó đòi hỏi tính chuyên môn hoá cao và sự sắp xếp lại các tổ chức quản lý. Có thể giảm biên chế một số bộ phận không cần thiết, hoạt động kém hiệu quả. Tổ chức lại các bộ phận quản lý và thiết lập mối quan hệ giữa chúng để quá trình hoạt động được nhịp nhàng, thông suốt tránh sự trì trệ không cần thiết trong một số khâu nào đó làm ảnh hưởng đển cả hệ thống quản lý. Hạn chế bớt một số bộ phận quản lý cồng kềnh còn giúp cho nhà kinh tế giảm bớt một phần chi phí đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận. Xuất phát từ mục tiêu ổn định và phát triển kế hoạch phân bố lực lượng lao động hợp lý, trong nền kinh tế phải cân đối tốt nguồn tài nguyên ,kết hợp chặt chẽ và thích đáng lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân người lao động,giáo dục quan điển và kỹ thuật cho người lao động. Tất cả những vấn đề đặt ra ở trên đều xuất phát từ"lợi nhuận" chính nó thúc đẩy quá trình phân phối theo lao động diễn ra mạnh mẽ theo nguyên tắc làm nhiều thì hưởng nhiều,làm ít thì hưởng ít. Nhưng cùng với sự phát triển về kinh tế thì ngoài phân phối theo lao động còn có sự phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội...Trong thời kỳ quá độ hiện nay ở nước ta còn xuất hiện hình thái phân phối theo vốn và tài sản dưới hình thái công ty và cổ phần, công ty TNHH.... Lợi nhuận làm chuyển đổi từ nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Theo quá trình phát triển của lịch sử nền kinh tế đã trải qua rất nhiều hình thức khác nhau từ lạc hậu đến hình thức tiên tiến hiện đại. Đi từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hành hoá mà đỉnh cao là kinh tế thị trường, quá trình này phát triển song song với mục đích thu lợi nhuận ngày càng nhiều, nhằm đảm bảo nhu cầu tốt hơn cho cuộc sống. Bắt đầu từ nền kinh tế tự nhiên đó là nền kinh tế tự cung,tự cấp sản phẩm lao động sản xuấ ra để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng nội bộ của từng cá nhan, từng gia đình hay công xã_nhưng nhu cầu của con người thì không ngừng phat triển và quá trình phát triển luôn hướng tới những gì phù hợp hơn.10 Họ không chỉ muốn cái mà họ làm ra mà còn muốn cái mà người khác có, họ không muốn sản phẩm vừa đủ mà muốn dư thừa để dự trữ,điều đó dẫn đến quá trình trao đổi hàng hoá đơn thuần diễn ra. Cùng với những nhược điểm của nó con người ta đã qua quá trình quy đổivà cuối cùng quá trình mua bán với một đồng tiền chung được quy định. Kinh tế hàng hoá xuất hiện với mục tiêulà đem cung ưngsanr phẩm để thu được nhiều lợi nhuận làm cho thị trường ngày càng được mỏ rộng. Cơ sở của sự ra đời và tồn tại của sản xuất là phaan công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này với người sản xuất khác, do quan hệ về tư liệu sản xuất quyết định. Khi kinh tế hàng hoá phát triển đến trình độ cao sẽ làm cho quá trình sản xuất mua bán diễn ra mạnh mẽ và các nhà kinh doanh luôn tìm kiếm và năng động hơn trong hoạt động sản xuất cũng như phân phối lưu thông. Lợi nhuận là động lực thúc đẩy những động cơ đó. Cùng một lúc mà có nhiều nhà tư bản cùng tham gia thì vấn đề thời cơ càng trở nên cấp thiết. Lúc này nhà kinh tế sẽ có nhiều hình thức khác nhau để thu lợi nhuận cao. Sự cản trở một khâu nào dó trong quá trình hoạt động sẽ làm gián đoạn các bước tiếp theo và lúc này thời cơ không còn nữa. Chính điều này đã làm nảy sinh ra mật số yêu cầu là cần phải tách ra sự quả lý vi mô của nhà nước.Với sự phát triển phng phú của thị trường thì nhà nước không thể có những chính sách đúng đắn trong tầm vi mô. Do đó nhà nước phải quản lý ở tầng vĩ mô vì cũng do lợi nhuận mà các nhà kinh tế có thể bất chấp các thủ đoạn dẫn tới sự mất an toàn cho các nhà kinh doanh khác, hay vì lợi nhuận mà gây ra sự 10 Trích tài liệu trên mang theo địa chỉ: bất ổn về chính trị xã hội. Nhà nước cần áp dụng và đưa ra chính sách pháp luật đúng đắn trong kinh doanh để xử lý những tranh chấp trong kinh doanh và các vụ vi phạm luật kinh tế. Tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển lành mạnh. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. 3. Vai trò của lợi nhuận trong quá trình tái sản xuất xã hội: Để biết được vai trò của lợi nhuận đối với quá trình tái sản xuất xã hội như thể nào thì trước tiên ta hãy xem xét quá trình tái sản xuất diễn ra như thế nào?. Như ta đã biết muốn tái sản xuất mở rộng ngày càng hiện đại thì phải có nhiều vốn. Muốn có nhiều vốn thì phải có một thời tích luỹ lâu dài. Do vậy tích luỹ vốn gắn liền với tái sản xuất mở rộng đã trở thành quy luật chung của các hình thái kinh tế xã hội có tái sản xuất mở rộng . Tích luỹ vốn nói chung, xét về mặt lý thuyết thực chất đó là sự chuyển hoá một phần giá trị thặng dư thành tư bản mới để mở rộng sản xuất. Do vậy nguồn tích luỹ vốn là giá trị của sản phẩp thặng dư do lao động thặng dư tạo ra trong quá trình sản xuất (nhờ năng xuất lao đọng cao bảo đảm ngày lao động vượt quá phần giá trị của sản phẩp tất yếu) và được thực hiện trong quá trình lưu thông. Sự tích luỹ này do các chủ sở hữ và tư liệu san xuất quyết định. Như vậy, dù ở trạng thái nào thì vốn cũng là một phần lợi nhuận tạo thành. Và lợi nhuận đóng vai trò quyết địng trong quá trình tái sản xuất xã hội. 4. Lợi nhuận có vai trò quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế: Lợi nhuận là lý do làm phát sinh và phát triển nền kinh tế thị trường. Nó thúc đẩy quá trình mở rộng và trao đổi hàng hoá cùng khoa học kỹ thuật. Mở cửa nền kinh tế nhằm thu hut nguần lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế giaoduc/ kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về trình độ khoa học công nghệ trong nước, Mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết làm cơ sở tăng cường tính độc lập và phụ thuộc lẫn nhau trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. Để phát huy được sự tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế thì đòi hỏi trong các mối quan hệ kinh tế đó phải có lợi nhuận, bởi trong cơ chế thị trường một vấn đế đặt ra phải xét tới tính"hiệu quả". Có nghĩa là không có lợi thì không làm. Do vậy, trong mối quan hệ này đòi hỏi phải có lợi nhuận và nó là động lực thúc đẩy các mối quan hệ ngày càng tốt hơn. 5. Lợi nhuận là động lực thúc đẩy mọi mặt của đời sống xã hội: Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản vốn đều là tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ hiện nay vì các hình thức đó đều nhằm mục đích thúc đẩy nền sản xuất phát triển và tạo lập sự công bằng đối với tất cả các thành viên trong xã hội. Nhưng ngoài những người có sức lao động và được cộng theo thành quả của chính mình, những người có vốn đóng góp vào quá trình sản xuất để thu được một phần lợi tức,lợi nhuận thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này hay lẽ khác không thể tham gia lao động và không được trả công. Đời sống phần lớn số người này hoặc là do gia đình hoặc là do trợ cấp xã hội đảm bảo. Mặt khác mức sống của cán bộ công nhân viên chức nhà nước và những người làm việc trong tất cả các ngành nghề khác...cũng không phải chỉ dựa nguyên vào tiền công, tiền lương. Họ cần dụa vào một phần các quỹ phúc lợi công cộng của nhà nước, các xí nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội khác. Đó còn gọi là các hình thức phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Hình thức phân phối này đặc biệt phù hợp trong thời kỳ quá độ và nó luôn phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội. Nó chẳng những bảo đảm cho mọi thành vien trong xã hội có mức sống tối thiểu mà còn có tác động kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội. Tại một số nước phát triển, nhà nước có chính sách về tiền lương và trợ cấp thất nghiệp, phúc lợi xã hội. Đi tiên phong trong chính sách này là ở châu Âu mà tiêu biểu là ở Anh, Pháp , Thuỵ Điển... Khi cần, thì nền kinh tế phát triển sẽ là nền tảng cho việc củng cố quốc phòng, an ninh, giáo dục... bởi vì:với tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật mạnh mẽ như vũ bão trong giai đoạn hiện nay. Quân sự quốc gia ngày càng được trang bị những vũ khí tối tân, hiện đại. Giáo dục được chú trọng đầu tư,là quốc sách hàng đầu. Yêu cầu đặt ra là chúng ta phải nắm bắt được những khoa học kỹ thuật và phải có một sự dầu tư để nhập các thiết bị phục vụ cho sử dụng cho nghiên cứu trong tất cả các lĩnh vực,mà đặc biệt cho quốc phòng, an ninh và giáo dục. Vì vậy khi lợi nhuận cao chúng ta sẽ có điều kiện để đầu tư để phát triển nhân tố con người cả về lý luận và thực tiễn. II. Những hậu quả do theo đuổi lợi nhuận: 1. Hậu quả về mặt kinh tế: "Tấm huy chương nào cũng đều có mặt trái của nó" lợi nhuận tạo điều kiện cho kinh tế thị trường phát triển nhưng nó cũng tạo điều kiện để cho những thói hư tật xấu của nền kinh tế này tồn tại song hành với sự phát triển đó. Theo Mac những thói hư tật xấu này là những "Khuyết tật cơ chế thị trường" những khuyết tật không thể tránh được trong sự phát triển chung của nền kinh tế hàng hoá - Việc sử dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật đòi hỏi quy mô sản xuất và lượng tư bản phaỉ lớn. Trước yêu cầu đó, các doang nghiệp phải tích tụ hay tập trung sản xuất để hình thành nên những xí nghiệp lớn. Do mục tiêu lợi nhuận, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ tiềm năng về công nghệ để nâng cao chấtl ượng sản phẩm nên cũng không đủ tiềm năng cạnh tranh với những doanh nghiệp lớn. Vì vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động ngày càng xa sút và kém hiệu qủa, tư bản vừa và nhỏ đứng trên bờ vực phá sản còn những doanh nghiệp lớn những tư bản lớn ngày càng trở nên giầu có với vị trí của mình trên thị trường. Đó là tất yếu của quy luật phát triển và đào thải và khi tập trung tích tụ đên một trình độ nhất định họ sẽ trở thành các tổ chức độc quyền. Chủ nghĩa độc quỳên càng phát triển thì lợi nhuận độc quyền thu về cành nhiều. Nhưng hậu quả do họ gây ra như tình trạng: Lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng lại làm cho cả một nền kinh tế phải gánh chịu trong đó những người phải gánh chịu nặng nề nhất lại là giai cấp công nhân và mọi tầng lớp nhân dân lao động. Theo đuổi lợi nhuận cũng đồng nghĩa với qúa trình bần cùng hoá những người lao động. - Vào cuối thế kỷ 19 các nước tư bản đã tích luỹ được một lượng tương đối lớn "tư bản thừa". Số này đầu tư trong nước thì thu được lợi nhuận thấp. Vì thế họ có nhu cầu xuất khẩu tư bản tới các nướclạc hậu đang cần vốn đầu tư hay một số nước khá phát triển nhưng cần trang thiết bị mới để nâng cao suất lao động. Tất cả những động cơ đó của các nước tư bản giầu có là đều nhằm thu dược lợi tức hay tỷ suất lợi tức lợi nhuận hay tỷ suất lợi nhuận cao. Song cả hai phía do mục tiêu về lợi nhuận đã dẫn đến quá trình xuất khẩu diễn ra gây hậu quả lớn cho cả hai bên. ở nước xuất khẩu tư bản , các tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận lớn nhưng nền kinh tế các nước này bị giảm tốc độ phát triển vì sự cạnh tranh trong việc xuất khẩu tư bản đã tác động xấu tới nền kinh tế các nước này làm tăng sự phân hoá giầu nghèo. Còn ở các nước nhập khẩu tư bản giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị bóc lột nặng nề hơn trước bởi những khoa học công nghệ mới. Bên cạnh đó những nước kém phát triển thì tình trạng cạnh tranh ngày càng trở nên tồi tệ. Để đạt được mục tiêu vì lợi nhuận, các doanh nghiệp không từ một thủ đoạn nào để thủ tiêu đối thủ cạnh tranh của mình. Họ sẵn sàng tung ra trên thị trường những hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng.... hay những thông tin cục bộ để bôi xấu, phản ánh sai lệch về đối thủ cạnh tranh của mình. Tình trạng buôn lậu thường xuyên xảy ra, gây thất thu thuế cho ngân sách nhà nước. Từ đó chính phủ không đảm bảo được các quỹ phúc lợi và trợ cấp xã hội, không đảm bảo được mức sống đối với những thành viên của xã hội. - Một vấn đề nữa liên quan đến cung cầu. Các doanh nghiệp khi thấy thu được nhiều lời, họ tăng cường sản xuất để cung ứng ra thị trường mà không tính đến khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Gây ra tình trạng dư thừa sản phẩm mà hậu quả gánh chịu lớn nhất vẫn là những người công nhân những người lao động khi công ty không đủ khả năng thanh toán tiền lương cho họ. - Các doanh nghiệp luôn hướng đến mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của mình mà họ không tính đến ích lợi tối đa cho xã hội. Họ luôn tìm cách giảm chi phí cho doanh nghiệp và cắt bớt những khâu trung gian không cần thiết như sử lý chất thải, sử lý ô nhiễm môi trường- nguồn nước.... gây ra tình trạng thất bại thị trường mà hậu quả và những chi phí sử lý lại do nhân dân và nhà nước gánh chịu.... Những hậu quả về mặt kinh tế do các doanh nghiệp theo đuổi lợi nhuận mang lại tồn tại như những cỗ máy vận hành song song với sự phát triển kinh tế thị trường. Đó là những mặt trái của nền kinh tế này , mà chúng ta cần có một bàn tay hữu hình điều tiết và khắcphục những khuyết tật đó trong cơ chế thị trường. 2. Hậu quả về mặt chính trị xã hội: Theo quan điểm đã nói trên, vì lợi nhuận mà người ta có thể làm tất cả những gì miễn là biến được nhiều tiền cho bản thân mình còn tất cả những hậu quả mang lại thì "để phần" cho nhà nước và nhân dân cùng đuợc "hưởng" . Đó là gì? đó là những vấn đề về môi trường đố là những vấn đề về y tế và cả những tệ nạn xã hội nảy sinh khác. Việc chạy đua theo lợi nhuận sẽ làm cho các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau. Quá trình cạnh tranh đó cũng là quá trình đào thải những doanh nghiệp lạc hậu và tạo môi trường phát triển vững chắc đối với những doanh nghiệp tiên tiến. Tuy là công bằng về mặt kinh tế, song đối với những doanh nghiệp đứng trên bờ phá sản thì công nhân của họ lại đứng trước một tình thế phũ phàng. Thất nghiệp đồng nghĩa với nó là không có thu nhập và có nghĩa cuộc sống không được đảm bảo . Đíong hành với nạn thất nghiệp gia tăng là các tệ nạn xã hội khác cũng không ngừng tăng theo. Và cũng song hành với thất nghiệp là giá dục cũng xa sút, nhân tài của đất nước bị chảy máu chất xám.... Chạy theo lợi nhuận, các doanh nghiệp luôn tìm cách cắt bổ những khâu không cần thiết để giảm chi phí, đặc biệt là khâu xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường sinh thái. Vì lợi nhuận , tất cả vì đồng tiền, mà những tư tưởng về văn hoá xã hội bị mài mòn. Bên cạnh những tư tưởng suy tồi về đạo đức của một số người có thế lực trong xã hội như tệ nạn tham nhũng,nền văn hoá,truyền thống dân tộc cũng bị suy đồi một cách trầm trọng. Những ngành nghề cổ truyền may đậm bản sắc dân tộc bị mất đi dần. Nền văn minh, văn hoá lâu đời của dân tộc cũng bị mai một. Những quan niệm sống thực dụng, "tiền tệ hoá" các mối quan hệ xã hội cũng ngày càng được phổ biến. Con người ta sẽ quan tâm nhiều đến vật chất và sẽ ít quan tâm đến thoả mãn nhu cầu cho nhau". Kinh tế là yếu tố quan trọng nhất nó quyết định tất cả các sự phát triển chung của nhân loại. Theo đuổi lợi nhuận gây ra những hậu quả lớn đến với nền kinh tế thì tất yếu nó sẽ gây hậu quả rất nghiêm trọng đến với các mặt đời sống chính trị - xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, dù có phát triển đến đâu, dù có tốt đến mấy cũng không thể loại bỏ hết những mặt hạn chế tiêu cực trong xã hội. Vai trò của một nhà nước trong sạch lành mạnh trong nền kinh tế thị trường sẽ như một phương thuốc hữu hiệu để đưa nền kinh tế này phát triển bền vững và đồng thời sẽ là phương thuốc hữu hiệu để tiệt trừ hay hạn chế những hâụ quả đó. Chương III: Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở việt nam. I. Tình hình kinh tế Việt Nam 1. Kinh tế Việt Nam trước năm 1986:11 Sau nhiều tập kỷ thống trị tính ưu việt của cơ chế kế hoạch hoá tập trung về nền kinh tế chỉ huy do nhà nước điều hành cũng đến hồi kết thúc. Nước Nga và hầu hết các nước Đông Âu khác đã phải bắt đầu một thời kỳ chuyển đổi đầy khó khăn song nền kinh tế thị trường phi tập trung hoá. Trung Quốc, tuy vốn do Đảng Cộng Sản lãnh đạo đã có những thành tựu rực rõ về kinh tế vào những năm 1980-1990 nhờ cho phép thị trường được phát triển. Việt Nam hoà chung với sự thay đổi của thế giới cũng đã chuyển nền kinh tế từ (tập trung quan liêu bao cấp) bước sang nền "kinh tế thị trường dưới sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa" được khởi sướng vào năm 1986 đã đem lại một số thành tự đáng khích lệ. Mặc dù vậy tình trạng thất nghiệp lạm phát và khó khăn trong việc đạt được cân bằng thương mại quốc tế vẫn còn đang là vấn đề nhức nhối. Nhìn lại những năm trước năm 1986 nền kinh tế nhà nước là nền kinh tế chỉ huy. ở đó nhà nước kiểm soát hầu hết các phương tiện kiểm soát để đảm bảo cho điều đó thực hiện được nhà nước cần phải kiểm soát giá cả tiền lương và sự phân phối dịch vụ sao cho doanh nghiệp nhà nước có thể chiếm đoạt được lợi nhuận độc quyền mà phần lớn nguồn lợi nhuận đó phải được chuyển vào ngân sách nhà nước. Về phía mình, các doanh nghiệp và người lao động phải cống hiến sức lao động của họ vào việc tạo ra lợi nhuận, mà họ chỉ được một phần thông qua hàng hoá và dịch vụ do nhà nước cấp. Trong hệ thống " phân phối - phân phối lại" sự phân phối thu nhập không dựa trên sự đóng góp của các thành viên trong xã hội biểu hiện thông qua thị trường mà lại dựa trên định mức, kế hoạch để đánh giá sự cống hiến của mỗi tập thể cá nhân tương ứng với vị trí, quyền lực của nó trong hệ thống "phân phối-phân phối lại" điều đáng nói là hệ thống " phân phối - phân phối lại"là đặc trưng cho mọi nền kinh tế chỉ huy nhưng mức độ "tập trung hoá" càng cao thì hệ thống đó càng phình ra càng có nhiều doanh nghiệp khổng lồ, mà sản phẩm của nó không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy nền kinh tế đó sẽ gặp khó khăn lớn. Ngược lại , trong nền kinh tế đang phát triển, nơi mà sự tồn tại cả khu vực vô hình ngăn cản mọi sự nỗ lục gia tăng mức độ tập trung hoá quản lý kinh tế thì quan hệ thị trường có thể phát triển một cách tự phát. Quá trình cải cách tự phát như vậy thường nảy sinh khi những ảnh hưởng của hệ thống " phân phối-phân phối lại" làm cạn kiệt mọi nguồn lực hiện có để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư. Tuy nhiên, quá trình cải cách tự phát sẽ không thể khắc phục được một loại các yếu điểm chẳng hạn như: sự mở rộng các loại thị trường nơi mà giá cả cao hơn 11 Dựa theo Giáo trình Lịch sử KTQD, Trường ĐHKTQD(1999), Chương XIII & nhiều lần giá chính thức. Điều đó thúc đẩy gia tăng nạn tham nhũng, dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách. Sự mất cân đối kinh tế vĩ mô ngày càng nặng nề hơn vì các doanh nghiệp và hộ gia đình đổ xô vào đầu cơ vàng và ngoại tệ mạnh. Kết quả là tỉ lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa, với sự mất cân đối với nền kinh tế tự nó đi chệch khỏi trạng thái cân bằng và ngày càng lao sâu vào khung hoảng. Đó chính là điều sảy ra với Việt Nam năm 1985, khi tình hình kinh tế xấu đi đã buộc Nhà nước phải tiến hành công cuộc đổi mới nhằm ổn định lại nền kinh tế. Và sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường được bắt đầu. 2. Quá trình chuyển đổi cơ chế cũ sang cơ chế mới- Cơ chế thị trường:12 Do những hậu quả mà cơ chế kế hoạch hoá tập trung để lại cho nền kinh tế Việt Nam, do xu hướng phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường trên thế giới, do tính năng động của cơ chế thị trường. Tất cả các yếu tố đó trở thành yếu tố khách quan của sự chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam. Đại hội VI(12/1986) của Đảng là bước lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nước ta, trong đó có sự đổi mới về các quan điểm kinh tế. Quá trình cải cách kinh tế đã đem lại cho đất nước một số thành tựu đáng khích lệ như: - Nâng cao đời sống nhân dân - Tăng tính năng động của nền kinh tế - Xoá bỏ tình trạng bao cấp trì trệ của nền kinh tế cũ - Bước đầu phát huy nội lực, kiềm chế đẩy lùi lạm phát. Từng bước thực hiện quá trình mang tính quy luật của bước chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có điều tiết vĩ mô của nhà nước với sự tự do hoá thương mại và tự do hoá giá cả làm trọng tâm đột phá XIV, Nghiên cứu Kinh tế số 254 tháng 7/99 trang 13-17. 12 Dựa theo Giáo trình Lịch sử KTQD, Trường ĐHKTQD(1999), XIV, Nghiên cứu Kinh tế số 254 tháng 7/99 trang 17,Văn kiện Đại hội ĐảngIX(2001) NXB Chính trị quốc gia Trang 156-158. từng bước tiến tới cơ chế thị trường đích thực. Cơ chế này phát huy vai trò điều tiết của thị trường hình thành bước đầu một thị trường cạnh tranh, làm cho hàng hoá được lưu thông thông suốt, cung cầu được cân đối, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng thiếu, giá cả ổn định dần. Lạm phát được ngăn chặn. Cơ chế thị trường đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tính tự chủ của hộ gia đình và các doanh nghiệp, ngay phần lớn các doanh nghiệp cũng đã được giải phóng khỏi các chỉ tiêu pháp lệnh để thích ứng theo nhu cầu thị trường. Cơ chế này cũng đã thúc đẩy việc sử lý các vấn đề mấu chốt làm đảo lộn các hệ thống tư duy và quan điểm kinh tế cũ, như về vấn đề sở hữu. Với sự thừa nhận và đánh giá cao những thành tựu của kinh tế nhiều thành phần: cơ chế thị trường nước ta còn thiếu đồng bộ mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn của một nền kinh tế chưa thoát khủng hoảng, mà cơ bản là nền sản xuất nhỏ, sự yếu kém của bộ máy quản lý nhà nước, tình trạng quan liêu cửa quyền thiếu hiểu biết thậm chí trì trệ bảo thủ trước bước ngoặt chuyển đổi kinh tế. Trước hết, cơ chế thị trường nước ta còn thiếu kinh nghiệm, chưa tạo được môi trường ổn định và an toàn cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt là những yếu kém trong kinh tế tài chính tiền tệ, tín dụng đang là lực cản của quá trình chuyển đổi. Sự chuyển biến khá mạnh trên thị trường chấp nhận tự do kinh doanh theo pháp luật, nhưng lại chưa giải quyết đủ những tiền đề cơ bản cho sự tự do này, đó là sự tự do vì sở hữu, sự hình thành và vận động của nền kinh tế thị trường còn mang nhiều yếu tố tự phát. cơ chế vận hành còn thô sơ, tạo điều kiện cho làm ăn bất chính. Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế định hướng XHCN là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền đề trong lịch sử và không có mô hình vạch sẵn. Do vậy ngay từ đầu không thể hình dung toàn bộ các chi tiết của mô hình thị trường, cũng không thể vạch ngay được một lịch trình cứng nhắc của quá trình chuyển biến. Mà chúng ta phải thực hiện cơ chế thị trường cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và các điều kiện chính trị, kinh tế xã hội nước ta. Không áp dụng các biện pháp xốc. Tất cả những điều đó vừa là đặc điểm, vừa là quan điểm quan trọng của quá trình chuyển đổi kinh tế. Xuất phát từ đặc điểm kinh tế trong nước và quan hệ kinh tế nước ngoài , chúng ta đã và đang thực hiện cơ chế kinh tế thị trường từng bước vững chắc. Điều quan trọng là cơ chế này được nhân dân đồng tình và phát huy ứng dụng. II. Vấn đề lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam13 Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao. Là kiểu tổ chức kinh tế – xã hội mà toàn bộ quá trình từ sản xuất đến tiêu dùng gắn liền với thị trường. Kinh tế thị trường phụ thuộc vào hình thức sở hữu mà trong đó nó phụ thuộc vào chế độ sở hữu thống trị. ở nước ta chế độ sở hữu là chế độ sở hữu toàn dân. Cho nên mọi lợi ích được quyết định là phụ thuộc vào dân. Không có kinh tế thị trường chung chung, thuần tuý trừu tượng tách khỏi các hình thái kinh tế xã hội. Những mặt tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường còn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vai trò Nhà nước các chính sách và hệ thống pháp luật. . . . Mục đích của kinh tế thị trường ở nước ta là lợi nhuận nhưng không phải theo đuổi lợi nhuận một cách đơn thuần. Mà xuất phát từ đặc điểm nước ta là nước XHCN. Vì vậy chúng ta theo đuổi lợi nhuận phải đẩm bảo hai điều kiện: 13 Nghiên cứu Kinh tế số 254 tháng 7/99 trang 17,Văn kiện Đại hội ĐảngIX(2001) NXB Chính trị quốc gia Trang 156-158, Tài liệu tham khảo phục vụ nhgiên cứu nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, NXB Chính trị quốc gia Trang 161-227 & Thời báo kinh tế Việt Nam- Kinh tế 2001-2002 Việt Nam & thế giới. + Bảo đảm hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh- nghĩa là sản xuất kinh doanh phải có lãi. + Kết hợp giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội để cho nó đảm bảo hiệu quả kinh tế nhưng các lợi ích xã hội vẫn được duy trì. Trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang phấn đấu xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đạt trình độ kinh tế thị trường phát triển với đặc trưng: - Hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ:thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường công nghệ, các dịch vụ thông tin, tư vấn, tiếp thị, pháp lý, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm...; thị trường sức lao động; thị trường khoa học, kỹ thuật, công nghệ, thị trường bất động sản; thị trường vốn; thị trường chứng khoán...Tất cả các loại thị trường đó liên kết chặt chẽ với nhau, tạo thành một chỉnh thể hữu cơ.Hệ thống thị trường này trở thành đầu mối mọi tác động qua lại của hoạt động kinh tế - xã hội. - Mỗi thực thể kinh tế có lợi ích riêng (bao gồm xí nghiệp, tập đoàn xã hội và cá nhân) và là các chủ thể của thị trường, tham gia hoạt động của thị trường và cạnh tranh với nhau. - Việc vận hành kinh tế – xã hội được thực hiện trong sự kết hợp giữa đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch...vói việc sử dụng các loại tín hiệu kinh tế mà thị trường cung cấp, việc lưu thông tài nguyên được điều tiết bởi thông tin thị trường và kế hoạch cân đối sản xuất. Kinh tế thị trường có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế – xã hội. Để phát triển kinh tế thị trường thì phải phát huy thế mạnh của các doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Để phát huy được thế mạnh của các doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư nước ngoài thì tất yếu phải tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh; mà ở đó lấy lợi nhuận của các doanh nghiệp làm chiến lược phát triển lâu dài. Việc các doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận cũng sẽ làm tăng lên cho Ngân sách Nhà nước, để từ đó phân bổ cho các quỹ phúc lợi và quỹ phát triển được nhiều hơn. Các quỹ này khi được tăng cường Ngân sách sẽ hoạt động có hiệu hơn, giải quyết được mức sống thấp trong xã hội đồng thời tạo điều kiện để hoàn thành công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đó là thế mạnh của lợi nhuận trong sự phát triển kinh tế – xã hội. Xong không vì thế mà “lợi nhuận hoá” tất cả. Thực tế đổi mới 15 năm qua cho thấy, bên cạnh tác động tích cực là cơ bản, những tác động tiêu cực do mặt trái của nền kinh tế thị trường gây ra cũng hết sức nghiêm trọng, đặc biệt trên phương diện tư tưởng đạo đức lối sống. Không xem trọng cuộc đấu tranh nhằm hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, không làm rõ giới hạn cần có của lĩnh vực có thể ”lợi nhuận hoá” cũng là biểu hiện của chệch hướng XHCN.14 III. Giải pháp nhằm phát huy vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Bất cứ một doanh nghiệp nào khi bỏ vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh đều có mục tiêu thu hồi vốn nhanh và có lãi để rồi lại tiếp tục đầu tư tái sản xuất mở rộng. Muốn vậy họ phải đưa ra thị trường những sản phẩm có chất lượng cao, hợp thị hiếu và giá cả thấp. Những sản phẩm như vậy không thể tạo ra bằng cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu. Hoạt động trong cơ chế thị trường có cạnh tranh, sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ đổi mới cơ sở kỹ thuật công nghệ tiên tiến của các nước khác bằng cách liên doanh hợp tác với nước ngoài. Trong điều kiện thiếu vốn, cần nghiên cứu kết hợp đầu tư đổi mới toàn bộ dây truyền sản xuất với đầu tư có trọng điểm vào các khâu quan trọng. 14 Tài liệu tham khảo phục vụ nhgiên cứu nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, NXB Chính trị quốc gia Trang 144-148. Đầu tư theo chiều sầu phải gắn với chiến lược sản phẩm của doanh nghiệp. Đó là điều kiện quan trọng để bảo đảm được đúng hướng và phát huy hiệu quả đầu tư trong khoảng thời gian dài. Trong cơ chế mới, các doanh nghiệp không những chỉ xác định phương án kinh doanh mà còn phải xác định chiến lược phát triển tổng thể của mình. Chiến lược sản xuất kinh doanh, chiến lược huy động và sử dụng các nguồn vốn để đổi mới kỹ thuật công nghệ, chiến lược con người ... đó là những bộ phận chủ yếu của chiến lược phát triển tổng thể của doanh nghiệp. Trong chiến lược sản xuất kinh doanh, chiến lược sản phảm là nội dung cơ bản nhất. Trên cơ sở xác định rõ sản xuất ra sản phẩm gì? quy mô của sản xuất như thế nào? chất lượng ra sao? Thị trường tiêu thụ? Các doanh nghiệp sẽ xác định cho mình các "chiến lược sản phẩm thị trường" và sau đó lựa chọn các chiến lược tối ưu. Bên cạnh sự đổi mới của doanh nghiệp thì Nhà nước với vai trò to lớn của mình cần chú ý một số vấn đề sau: - Tiếp tục tiến hành đổi mới cơ chế quản lý ổn định môi trường và điều kiện kinh doanh trong nước nhằm khuyến khích đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài. - Thiết lập các điều kiện và chính sách cần thiết để phát huy tối đa cơ chế thị trường cạnh tranh như một cơ chế phát triển kinh tế xã hội. - Tạo các loại hình, các phương thức và cơ chế liên kết hợp tác toàn xã hội nhằm huy động nguồn vốn trong dân và sản xuất.15 15 Nghiên cứu Kinh tế số 254 tháng 7/99 trang 17,Văn kiện Đại hội ĐảngIX(2001) NXB Chính trị quốc gia Trang 156-158, Tài liệu tham khảo phục vụ nhgiên cứu nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, NXB Chính trị quốc gia Trang 161-227. Kết luận Toàn bộ đề án đã một phần làm rõ được nguồn gốc bản chất cũng như vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, sự vận dụng vào Việt Nam, chúng ta thấy rằng việc theo đuổi lợi nhuận là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển kinh tế vì nó là động lực cho kinh tế phát triển. Tuy nhiên thực chất của quá trình phát sinh và sự tiêu cực trong văn hoá, xa hội, lối sống của người dân trong cơ chế mới ... Cũng như sự gia tăng các vấn đề về môi trường, tệ nạn xã hội. Những vấn đề trên đặt ra một yêu cầu là tất cả chúng ta phải cùng cố gắng để góp phần đưa nền kinh tế phát triển. Có như vậy xã hội mới lành mạnh văn minh. Là những nhà kinh tế trong tương lai, chúng ta không thể đứng nhìn những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình chuyển đổi mà chúng ta hãy phấn đấu trong học tập, nghiên cứu khoa học và ngay cả trong lao động để có thể góp một phần sức lực nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Chúng ta mong đợi và tin tưởng rằng quá trình phát triển kinh tế nước nhà ắt sẽ thành công, ắt sẽ thắng lợi. Mục lục Lời mở đầu ................................................................................................................... 1 Nội dung ........................................................................................................................ 2 Chương I: Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. .................................................. 2 I. Quan điểm của các trường phái kinh tế học về lợi nhuận: ................................ 2 1. Quan điểm của các nhà kinh tế học trước Mac: ............................................ 2 2. Quan điểm về lợi nhuận của John Keyes: ....................................................... 6 3. Học thuyết về lợi nhuận của Mac: ................................................................... 6 II. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư. .................................................. 11 1. Lợi nhuận công nghiệp: ................................................................................. 11 2. Lợi nhuận thương nghiệp: .............................................................................. 11 3. Lợi tức: ............................................................................................................ 12 4. Lợi nhuận ngân hàng: ..................................................................................... 13 5. Lợi nhuận độc quyền. ..................................................................................... 13 ChươngII: Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. ........................ 15 I. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường : ........................................ 15 1. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: ....................................... 15 2. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển. .......................................... 16 3. Vai trò của lợi nhuận trong quá trình tái sản xuất xã hội:............................ 19 4. Lợi nhuận có vai trò quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế:.................. 19 5. Lợi nhuận là động lực thúc đẩy mọi mặt của đời sống xã hội:.................... 20 II. Những hậu quả do theo đuổi lợi nhuận: ........................................................... 21 1. Hậu quả về mặt kinh tế: ............................................................................... 21 2. Hậu quả về mặt chính trị xã hội: ................................................................... 23 Chương III: Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. 25 I. Tình hình kinh tế Việt Nam .............................................................................. 25 1. Kinh tế Việt Nam trước năm 1986: ............................................................... 25 2. Quá trình chuyển đổi cơ chế cũ sang cơ chế mới- Cơ chế thị trường: ........ 27 II. Vấn đề lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam ............................ 29 III. Giải pháp nhằm phát huy vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam .................................................................................................................. 31 Kết luận ....................................................................................................................... 34 Danh Mục Tài liệu tham khảo 1. A.Paul Samuellson Kinh tế học tập1,2. 2. Các Mac, Tư Bản quyển I, Tập 1, Nhà Xuất Bản Sự Thật. 3. Các Mac, Tư Bản quyển III, Tập 1,2,3, Nhà Xuất Bản Sự Thật. 4. David Begg Kinh tế học tập 1,2. 5. Giáo trình Kinh tế chính trị Mac- Lênin, Trường ĐHKTQD(1998), tập1, Chương IV, VI. 6. Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác- Lênin, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia(1999). 7. Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế, Trường ĐHKTQD(1999), Chương III. 8. Giáo trình Lịch sử KTQD, Trường ĐHKTQD(1999), Chương XIII & XIV. 9. Nghiên cứu kinh tế số 254 tháng7 năm 1999. 10. Thời Báo Kinh Tế Việt Nam-Kinh tế 2001-2002 Việt Nam & Thế Giới(3/2002). 11. Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia(2001). 12. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia(2001).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan