Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị với việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng

Tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị với việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng: LUẬN VĂN: Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị với việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới; tư tưởng của Người là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hơn 76 năm chiến đấu và xây dựng dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân giành được những thắng lợi vĩ đại. Trong quá trình đấu tranh cách mạng, đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng đã được rèn luyện và trưởng thành; đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng trước những bước ngoặt của cách mạng. Phẩm chất tốt đẹp của đội ngũ cán bộ, đảng viên không phải tự nhiên mà có. Đó là quá trình tự rèn luyện của bản thân đồng thời gắn liền với công tác giáo dục của Đảng; trong đó có công tác giáo dục lý ...

pdf99 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1769 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị với việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị với việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới; tư tưởng của Người là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hơn 76 năm chiến đấu và xây dựng dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân giành được những thắng lợi vĩ đại. Trong quá trình đấu tranh cách mạng, đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng đã được rèn luyện và trưởng thành; đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng trước những bước ngoặt của cách mạng. Phẩm chất tốt đẹp của đội ngũ cán bộ, đảng viên không phải tự nhiên mà có. Đó là quá trình tự rèn luyện của bản thân đồng thời gắn liền với công tác giáo dục của Đảng; trong đó có công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng - một bộ phận của công tác xây dựng Đảng về tư tưởng. Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề giáo dục lý luận chính trị. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người thường xuyên quan tâm tới công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Những quan điểm của Người về giáo dục lý luận chính trị mãi mãi soi sáng công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng... Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong" [36, tr.259]. “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải làm theo chủ nghĩa ấy" [36, tr.268]. Người xác định "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin" [36, tr.268]; vì vậy, "Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin" [36, tr.280]. Người đỏi hỏi: Đảng phải chống các thói xem nhẹ học tập lý luận, phải kiên quyết chống các thói xem nhẹ tư tưởng, "vì vậy, học tập chủ nghĩa, dùi mài tư tưởng, nâng cao lý luận,... là những việc cần kíp của Đảng" [4O, tr.167]. Thực tế đã chỉ ra rằng, công tác tư tưởng nói chung, công tác giáo dục lý luận chính trị nói riêng đã tham gia vào tất cả các mặt của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội, nó không chỉ là nguồn lực của xã hội mà còn là yếu tố cấu thành các thành tựu đạt được và những yếu kém, khuyết điểm trong các lĩnh vực. Ngày nay, trong quá trình đổi mới của đất nước, Đảng ta đã liên tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Những kết quả bước đầu của Đảng trong sự nghiệp đổi mới đã thể hiện được bản chất của một Đảng cách mạng chân chính, kiên định mục tiêu, lý tưởng - con đường đã lựa chọn: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tinh thần nghiêm túc và kiên quyết khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm trong bộ máy Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và đấu tranh không khoan nhượng với những tiêu cực, tệ nạn xã hội. Đó cũng là kết quả của việc Đảng ta đặc biệt quan tâm giáo dục lý luận chính trị, đẩy mạnh công tác tư tưởng của Đảng ta trong suốt 20 năm qua. Mặt khác, do hạn chế của công tác giáo dục lý luận chính trị và thiếu tu dưỡng, rèn luyện của một bộ phận cán bộ, đảng viên vừa qua đã gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng trong xã hội; làm xói mòn những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống; tạo ra điều kiện làm phát triển tư tưởng thực dụng, lối sống hưởng lạc, chạy theo đồng tiền, sống thủ đoạn, suy thoái đạo đức, coi thường kỷ cương pháp luật; làm xói mòn mục tiêu, lý tưởng trong cán bộ, đảng viên và mờ nhạt hình ảnh cao đẹp của người cộng sản trong lòng quần chúng nhân dân. Các thế lực thù địch ra sức thực hiện âm mưu cơ bản, lâu dài của chúng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong chiến lược Diễn biến hòa bình, tấn công trên mặt trận tư tưởng - văn hóa được coi là mũi đột phá, các thế lực thù địch đang công kích chống phá một cách có hệ thống trên tất cả các luận điểm và nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh hòng làm tan rã niềm tin, tạo sự hỗn loạn về lý luận và tư tưởng; gây ra sự dao động, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tạo ra khoảng trống trong nhận thức tư tưởng, nhằm đi tới xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh cho rằng: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" [39, tr.269-273]. Trong đội ngũ cán bộ của Đảng, cán bộ cơ sở có vị trí đặc biệt quan trọng. Đây là lực lượng mà theo Hồ Chí Minh: "là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt ra chính sách cho đúng" [39, tr.269]. Sau hơn 10 năm tái lập tỉnh (từ 1992-2005), dù còn nhiều khó khăn thiếu thốn nhưng dưới sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng đã mở nhiều lớp đào tạo trung cấp lý luận chính trị, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ khác cho cán bộ chủ chốt cơ sở. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém cả về số lượng và chất lượng, cả về trình độ lý luận chính trị và năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Thực tiễn trên đặt ra là phải nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là giáo dục lý luận chính trị, nghĩa là truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, nâng cao phẩm chất cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn, hướng dẫn họ vận dụng những hiểu biết ấy vào cuộc sống. Vì thế, việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị cho cán bộ, công chức nói chung và đào tạo trung cấp lý luận chính trị nói riêng là một việc rất quan trọng và cần thiết. Với những lý do trên và qua quá trình học tập, nghiên cứu Chương trình cao học chuyên ngành Hồ Chí Minh học, tôi đã chọn đề tài: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị với việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng" làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, phải có kế hoạch thường xuyên học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn” [14, tr.140-141]. Quy định số 54 - QĐ/TW ngày 12 tháng 5 năm 1999 của Bộ Chính trị khóa VIII Về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng ghi rõ: "Đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở phải học xong chương trình trung học chính trị tại các trường chính trị tỉnh, thành phố" [15, tr.2]. Trong những năm gần đây, đã có những công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả dưới nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này như: - Các công trình nghiên cứu và bài viết: + Đào Duy Tùng (1985), Một số vấn đề về công tác tư tưởng, Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội. Sách gồm những bài nghiên cứu của tác giả về công tác tư tưởng của Đảng; trong đó, có nhiều nội dung về giáo dục lý luận chính trị của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. + Nguyễn Đức Bình (1999), "Xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị", Tạp chí Cộng sản, (5). Tác giả đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam, nêu lên những chỗ mạnh cơ bản cũng như phân tích 4 nguy cơ. Đặc biệt những hiện tượng đáng suy nghĩ về mặt tư tưởng như: hiện tượng phai nhạt lý tưởng, cũng tức là phai nhạt chủ nghĩa, phai nhạt mục tiêu cuối cùng; tư tưởng mang mầu sắc chiết trung, thực chất cũng là giảm sút niềm tin, xa rời lập trường mácxít và có biểu hiện cho một khuynh hướng cơ hội chính trị. Từ đó tác giả nêu lên những vấn đề cần tập trung trong công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng hiện nay. + Các tác giả: Nguyễn Phú Trọng (1999), "Tạo bước chuyển biến mới trong việc học tập lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên", Tạp chí Cộng sản, (11) và Nguyễn Khoa Điềm (2004), "Nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị trong tình hình mới", Tạp chí thông tin công tác tư tưởng lý luận, (1), Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương đã nêu tầm quan trọng của việc học tập của cán bộ, đảng viên, trong đó học tập lý luận chính trị có vị trí cực kỳ quan trọng; những nội dung của công tác giáo dục lý luận chính trị; đồng thời nêu ra một số giải pháp nhằm đảm bảo yêu cầu và nhiệm vụ của công tác giáo dục lý luận trong tình hình hiện nay. + Các tác giả: Cao Duy Hạ, "Về giảng viên lý luận chính trị", Báo Nhân dân ngày 05/5/2005 và Nguyễn Văn Sáu, "Hội thi giảng viên dạy giỏi – hoạt động góp phần đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trường chính trị", Báo Nhân dân ngày 20/11/2005 đã đánh giá vai trò của đội ngũ giảng viên các trường chính trị tỉnh, thành phố qua đó nêu lên những vấn đề cần đổi mới nội dung chương trình, phương pháp dạy và học, bổ sung quy chế, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên … - Các luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ: + Nguyễn Đình Trãi, "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy Mác - Lênin ở các Trường Chính trị tỉnh", Luận án tiến sĩ năm 2001. Tác giả nghiên cứu đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường Chính trị tỉnh; trên cơ sở làm sáng tỏ phạm trù năng lực tư duy lý luận và vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với công tác giảng dạy lý luận chính trị ở trường Chính trị tỉnh. + Nguyễn Thị Hồng Lê, "Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học năm 2004. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở; trên cơ sở làm rõ bản chất, đặc trưng, tầm quan trọng của việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở và từ thực trạng trình độ lý luận chính trị cũng như công tác đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ này. - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã tổ chức hội thảo và ra sách kỷ yếu: "Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng, lý luận", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002. Hội thảo đã đề cập nhiều nội dung quan trọng; đáng chú ý có các bài của các tác giả như: PGS.TS Nguyễn Khánh Bật với bài Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng lý luận; PGS.TS Hoàng Trang với bài Mấy suy nghĩ về công tác tư tưởng, lý luận ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh trong tình hình mới dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh; PGS.TS Lê Văn Tích với bài Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống - khâu trọng yếu ở công tác tư tưởng, lý luận hiện nay, TS Phạm Ngọc Anh với bài Quan niệm của Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận. Nội dung chủ yếu tập trung vào các vấn đề như sau: + Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lý luận. Khẳng định Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề tư tưởng, lý luận. Người quan tâm giải quyết từ vị trí, vai trò đến nội dung công tác tư tưởng, lý luận; từ nguyên tắc, phương châm, phương pháp giáo dục lý luận đến xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận. +Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về tư tưởng, lý luận. Nêu những đóng góp của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận Mác - Lênin. + Công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ quan niệm của Hồ Chí Minh về giáo dục tư tưởng lý luận, nhìn lại công tác giáo dục lý luận chính trị đã qua, xây dựng, chấn chỉnh công tác nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một đề tài nghiên cứu gắn liền tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị với việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị tại trường Chính trị nói chung, Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng nói riêng. Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc thành quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị, từ đó nhìn lại công tác giáo dục, bồi dưỡng đã qua của Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng và đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập lý luận chính trị của Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng trong thời kỳ hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị. - Làm rõ vai trò của giáo dục lý luận chính trị đối với cán bộ. - Phân tích, đánh giá thực trạng của giáo dục trung cấp lý luận chính trị, (giảng dạy và học tập) ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng (1995-2005). - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trung cấp lý luận chính trị tại Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng - Những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị. - Nghiên cứu việc thực hiện giáo dục trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng 13 năm qua (1992-2005). 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị và việc giáo dục trung cấp lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh Sóc Trăng từ khi được tái lập (1992-2005) dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng về công tác tư tưởng, công tác giáo dục lý luận chính trị. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp phân tích - tổng hợp, điều tra khảo sát thực tiễn... để thực hiện mục đích của đề tài đặt ra. 6. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của giáo dục lý luận chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cán bộ nói chung, cụ thể là cán bộ chủ chốt ở cơ sở, đặc biệt trong tình hình hiện nay. Đánh giá thực trạng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng qua 13 năm qua dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đề xuất một số giải pháp để từng bước nâng cao chất lượng giáo dục trung cấp lý luận chính trị của Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 2 chương, 6 tiết. Chương 1 Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị 1.1. Khái niệm về giáo dục lý luận chính trị của Hồ Chí Minh Trước khi Nguyễn ái Quốc (Hồ Chí Minh) mở các lớp lý luận chính trị ở Quảng Châu-Trung Quốc, vào giữa những năm 1920, thì ở Việt Nam các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp đều không biết lý luận cách mạng là gì, họ chỉ giương cao hai chữ “Đại nghĩa” và lao vào đấu tranh vũ trang. Ngay tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng ra đời vào năm 1927 cũng không ai quan tâm tới lý luận trên dưới đều ù ù cạc cạc. Đó là một nguyên nhân lớn dẫn đến thất bại không gượng dậy được của tổ chức yêu nước này. Ngược lại, với Hồ Chí Minh cho rằng muốn đánh được thực dân đế quốc giành lại độc lập tự do thì trước hết phải làm cho dân giác ngộ. Năm 1925, Hồ Chí Minh bắt đầu mở các lớp giáo dục lý luận cách mạng cho những người yêu nước của Việt Nam là việc mở đầu cho thực hiện vấn đề trước hết đó. Những bài giảng của Người tập hợp lại được xuất bản thành cuốn “Đường Kách mệnh” do Hội Liên hiệp các dân tộc á Đông bị áp bức ấn hành năm 1927. Ngay tờ bìa dưới tên sách Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh đã trích câu của Lênin trong tác phẩm Làm gì? như một lời tựa: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong” [36, tr.259]. Cùng thời gian này, báo Thanh niên, là cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên do Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, ra số 95, 97 viết: “Lý luận mà không thực hành thì không để làm gì. Thực hành mà không có lý luận thì thất bại. Trong một phần tư thế kỷ qua, những người cách mạng Việt Nam xem rẽ lý luận, cứ trực tiếp dùng bạo lực mà không cần biết trước kết quả của hành động mình, cho nên, trong thời gian đó, họ hy sinh nhiều người, nhiều của mà không đi đến đâu cả”. Theo Người lý luận cách mạng chung thì tìm trong chủ nghĩa Mác-Lênin, lý luận cách mạng trực tiếp thì tìm trong kinh nghiệm lịch sử bản thân dân tộc mình. Làm cách mạng thì cần lý luận cho những người cầm lái con thuyền cách mạng, cần có lý luận cho tất cả các chiến sĩ cách mạng, và cần có lý luận cho nhân dân; nhân dân phải biết vì sao nổi dậy và nổi dậy bằng cách nào. Như vậy, Hồ Chí Minh là người đầu tiên của nước ta quan tâm tới lý luận cách mạng và thực hành kiên trì, bền bỉ việc giáo dục lý luận chính trị cho các thế hệ người Việt Nam yêu nước. Người đã để lại cho cách mạng Việt Nam cả một di sản to lớn về giáo dục lý luận chính trị. Đó là cả một hệ thống quan điểm của Người về khái niệm giáo dục lý luận chính trị, về vị trí và mục đích của giáo dục lý luận chính trị, cũng như về nội dung, phương châm, phương pháp giáo dục lý luận chính trị. Trong đào tạo - giáo dục các thé hệ cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Đó là một trong những vấn đề quán xuyến suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Tư duy nhất quán và nổi trội ở Chủ tịch Hồ Chí Minh là sau khi tìm ra con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam, Người xác định: Cách mệnh trước hết phải có cái gì?. Và câu trả lời của Người là: Trước hết phải có đảng cách mệnh. Theo Hồ Chí Minh, đảng cách mệnh có sứ mệnh lịch sử là “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi” [36, tr.267-268] mà đưa cách mạng của dân tộc đến thành công. Cách mạng muốn thành công, theo Hồ Chí Minh, là đảng phải vững mạnh, đảng muốn vững mạnh phải có lý luận soi đường và tất cả cán bộ, đảng viên cần phải hiểu và thực hành theo lý luận đó. Người viết: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” [36, tr.268]. Như vậy, đảng cách mạng trước hết phải được võ trang bởi một lý luận tiền phong. Và để “trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo” lý luận tiền phong ấy thì giáo dục lý luận chính trị là nhân tố không thể thiếu được. Hồ Chí Minh đã làm công tác giáo dục lý luận chính trị này để sinh ra Đảng. Và Người cùng với Đảng liên tục thực hành giáo dục cho các đối tượng người Việt Nam yêu nước mà dẫn đến Cách mạng tháng Tám thành công, xây nên được Việt Nam độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Từ thực tiễn nhiều thập niên cùng Đảng ta làm công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Hồ Chí Minh đề ra: “Đảng ta tổ chức trường học lý luận cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta, đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình” [42, tr.492]. Giáo dục lý luận chính trị, theo Hồ Chí Minh: Là quá trình tác động vào đối tượng bằng cách trình bày, giải thích một cách khoa học những khái niệm, những quy luật, những quan điểm v.v. nhằm làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nắm được những kiến thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, về đường lối, chính sách của Đảng, nâng cao phẩm chất cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn của họ, hướng dẫn họ vận động những hiểu biết ấy vào cuộc sống [68, tr.169]. Như vậy, với Hồ Chí Minh, công tác giáo dục lý luận chính trị là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng; là hoạt động có chủ đích của Đảng Cộng sản nhằm xác lập thế giới quan khoa học trên cơ sở hệ tư tưởng, lập trường của giai cấp công nhân, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngày nay, công tác giáo dục lý luận chính trị có thể hiểu theo nghĩa là công tác truyền bá những tri thức lý luận chính trị, những thông tin cần thiết về công tác xây dựng chính đảng của giai cấp; cụ thể hiện nay là: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; định hướng các lĩnh vực khoa học và công nghệ, kinh tế, các thành tựu khoa học xã hội và nhân văn, các thông tin chính trị, xã hội và văn hoá. Bên cạnh đó, công tác giáo dục lý luận chính trị góp phần quan trọng vào việc nâng cao trình độ giác ngộ của quần chúng nhân dân, khơi dậy tinh thần kiên cường bất khuất, dũng cảm hy sinh chống áp bức, bóc lột giành độc lập tự do; là động lực thúc đẩy cán bộ, đảng viên và quần chúng hăng hái thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị cụ thể được Đảng và Nhà nước giao cho tiến tới giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Ngoài ra, công tác giáo dục lý luận chính trị tác động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức và khả năng thực hành công việc của mỗi người trong thực tiễn cuộc sống, giúp họ khắc phục những tư tưởng lạc hậu, nâng cao trình độ chính trị, tinh thần tự giác và tính tích cực trong quá trình xây dựng xã hội mới. Không những thế giáo dục lý luận chính trị còn nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá như: lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam. Hơn nữa, công tác giáo dục lý luận chính trị không phải là một việc làm trừu tượng, một sự thuyết pháp, rao giảng chung chung mà là một công việc xuất phát từ thực tiễn cuộc đấu tranh giai cấp mang tính chiến đấu, tính tư tưởng, tính khoa học, tính giáo dục; nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể, nhất định. Do vậy, công tác giáo dục lý luận chính trị phải được trình bày một cách khoa học, tâm lý, nghệ thuật, rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuyết phục, dễ phổ biến. Từ nhận thức cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là tiền vốn của Đoàn thể, Hồ Chí Minh quan niệm “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” [39, tr.269]. Người luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ đông về số lượng, bảo đảm về chất lượng, đủ sức đảm bảo sứ mệnh lịch sử trong mọi giai đoạn cách mạng; vì vậy, cần xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng và huấn luyện cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, “Phải huấn và luyện. Huấn là dạy dỗ, luyện là rèn giũa cho sạch những vết xấu xa trong đầu óc” [40, tr.49]; bao gồm: huấn luyện nghề nghiệp, huấn luyện chính trị, huấn luyện văn hoá và huấn luyện lý luận. Trong đó, huấn luyện lý luận được Người đặt trên nền tảng của trình độ học vấn, trình độ chính trị và trình độ nghề nghiệp nhất định; đây là một điều kiện cần và đủ, vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc trong công tác giáo dục lý luận chính trị. Chính vì thế, Người kết luận: - Ban Tuyên giáo Trung ương cần căn cứ vào trình độ khác nhau của đảng viên mà soạn ra các chương trình học tập, bảo đảm cho đảng viên ở cơ sở có thể thường xuyên học tập. - Các cấp uỷ phải quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục đảng viên. Từ nay trở đi công tác giáo dục đảng viên phải là một điều quan trọng trong chương trình công tác của cấp uỷ. Phải bồi dưỡng giảng viên lý luận cho các chi bộ. - Tất cả các đảng viên phải cố gắng học tập, coi việc học tập lý luận và chính trị là một nhiệm vụ quan trọng của mình [46, tr.95]. Với Hồ Chí Minh, cách mạng trước hết phải giáo dục lý luận chính trị và đạo đức cách mạng thật tốt cho cán bộ, đảng viên. “Có như thế mục đích mới đồng; mục đích có đồng, chí mới đồng; chí có đồng, tâm mới đồng; tâm đã đồng, lại phải biết cách làm thì làm mới chóng” [36, tr.261]. 1.2. Vị trí và mục đích của giáo dục lý luận chính trị 1.2.1. Vị trí của giáo dục lý luận chính trị Giáo dục lý luận chính trị có vị trí rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng. Tầm quan trọng đó bắt nguồn từ vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với quá trình phát triển của xã hội với tư cách là khoa học cách mạng của giai cấp công nhân và là hệ tư tưởng của toàn xã hội trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Các nhà mácxít đã chỉ rõ, cũng như thực tiễn cách mạng thế giới và Việt Nam đã chứng minh: Giai cấp công nhân và nhân dân lao động muốn thoát khỏi ách áp bức và bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân thì không thể tiến hành cách mạng một cách tự phát mà phải đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng tiền phong được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính đảng vô sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân, hoặc có nơi, như ở nước ta, còn có sự kết hợp với phong trào yêu nước. “Phong trào công nhân và phong trào yêu nước là cơ sở vật chất và chủ nghĩa Mác - Lênin, là cơ sở tinh thần cho sự ra đời của đảng cộng sản. Không có sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân thì không có cơ sở tinh thần cho sự ra đời của đảng cộng sản” [68, tr.172]. Sự truyền bá rộng rãi chủ nghĩa Mác - Lênin làm cho giai cấp công nhân hiểu rõ được địa vị và sứ mệnh lịch sử của mình, chuyển từ đấu tranh tự phát lên tự giác. Các lực lượng cách mạng chỉ có thể hoạt động tự giác khi họ hiểu được quy luật phát triển của xã hội và có đường lối chiến lược và phương pháp cách mạng đúng đắn hướng dẫn. Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là cơ sở để các đảng cộng sản đề ra đường lối, chính sách của mình. Sự thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, biểu hiện ở năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng cộng sản. Lênin đã khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”, “Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong” [31, tr.30-32]. Lý luận tiền phong đó là chủ nghĩa Mác- Lênin. Để có được một đội ngũ cán bộ tốt, ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng, thì cán bộ phải luôn luôn học tập về mọi mặt để nâng cao trình độ. Cán bộ phải là những người tiên tiến, nếu bị tụt hậu thì không thể xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Hồ Chí Minh đã dạy: “Làm nghề gì cũng phải học, vậy làm cách mạng cũng phải học. Nếu không giáo dục cho đảng viên làm cách mạng mà cứ yêu cầu họ làm cách mạng thì họ không làm tròn được nhiệm vụ” [46, tr.224]. Làm cách mạng cũng là một nghề, hơn nữa đây là một nghề đặc biệt - nghề lãnh đạo, quản lý, nghề phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, hướng dẫn nhân dân làm cách mạng, xây dựng xã hội mới thì càng phải học, càng phải được đào tạo, bồi dưỡng một cách cơ bản và có hệ thống những kiến thức liên quan đến lĩnh vực công tác của cán bộ. Cán bộ, đảng viên không được đào tạo, bồi dưỡng đúng đắn thì khó có được đội ngũ cán bộ, đảng viên tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức và lối sống trong sáng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, giỏi về lãnh đạo, quản lý, có năng lực trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn; do đó, không thể đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và nhân dân đặt ra. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đựơc Bác Hồ coi là công việc gốc của Đảng. Đây là trách nhiệm của Đảng, trước hết là của cấp ủy đảng các cấp. Do đó, công tác giáo dục lý luận cho cán bộ, đảng viên nói chung, đặc biệt đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiện nay có những vai trò hết sức quan trọng như sau: - Thứ nhất, giáo dục lý luận chính trị đóng vai trò định hướng cho hoạt động lãnh đạo quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở nói riêng; tạo sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân về mục tiêu con đường đi lên của đất nước. Đó là độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Không có lý luận cách mạng và khoa học soi đường thì như người đi trong đêm tối không biết đường ra. - Thứ hai, qua giáo dục lý luận chính trị giúp cho người cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp có cơ sở kiên định trong cuộc đấu tranh tư tưởng của Đảng chống lại các quan điểm sai trái, cơ hội, phản động, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; giữ vững và tăng cường trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa, làm thất bại âm mưu Diễn biến hoà bình trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá của kẻ thù. - Thứ ba, việc giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở còn xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của chính bản thân đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay; nhằm củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường cách mạng và lý tưởng mà Bác Hồ, Đảng ta và dân tộc ta đã lựa chọn. - Thứ tư, việc giáo dục nâng cao lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở còn là nhân tố tác động tích cực đến công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đấu tranh chống tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và các tệ nạn, những tiêu cực xã hội hiện nay. - Thứ năm, lý luận chính trị giúp cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở xác định niềm tin khoa học vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Quá trình giáo dục lý luận chính trị cho các thế hệ cán bộ, đảng viên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những quan điểm về phương châm, phương pháp giáo dục lý luận chính trị mang tính nguyên lý, có giá trị lâu dài. Mục đích, nội dung, phương châm, phương pháp giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một thể thống nhất biện chứng. Muốn hiểu phương châm, phương pháp không thể không nắm vững mục đích, nội dung giáo dục lý luận chính trị. 1.2.2. Mục đích của giáo dục lý luận chính trị Mục đích của giáo dục lý luận chính trị là nhằm: Xây dựng thế giới quan khoa học, phương pháp luận đúng đắn, nhân sinh quan cộng sản cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, giúp họ khắc phục những tư tưởng lạc hậu, những tàn tích của hệ tư tưởng cũ; nâng cao trình độ chính trị, nhiệt tình cách mạng, tinh thần tự giác và tính tích cực trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới [52, tr.39]. Củng cố niềm tin vào lý tưởng và ý chí cách mạng để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích của giáo dục lý luận chính trị phải nhằm: “đào tạo những chiến sĩ tiên tiến phấn đấu cho sự nghiệp của giai cấp vô sản” [42, tr.496], suốt đời đấu tranh cho Đảng, đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân. Theo Hồ Chí Minh mục đích học tập lý luận nhằm “để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc vì tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng. Tất cả những động cơ học tập không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho sạch” [42, tr.497]. Mục đích của giáo dục lý luận chính trị theo Hồ Chí Minh cần được cụ thể hoá là nhằm: Thứ nhất, để sửa chữa tư tưởng Hồ Chí Minh cho rằng trong Đảng ta trình độ lý luận còn thấp. Không ai có thể tự xưng là mình giỏi lý luận, do vậy, “Hăng hái theo cách mạng, điều đó rất hay. Nhưng tư tưởng chưa thật đúng là tư tưởng cách mạng, vì thế cần phải học tập để sửa chữa cho đúng. Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm trọn nhiệm vụ cách mạng được” [40, tr.50]. Hồ Chí Minh yêu cầu đảng viên ra sức học tập lý luận, mở rộng tự phê bình và phê bình đấu tranh với những tư tưởng phi vô sản. Người học phải tự nguyện, tự giác và xem việc học tập là một nhiệm vụ mà người cách mạng phải làm thường xuyên, “do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập, nêu cao tinh thần chịu khó, cố gắng, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong việc học tập” [42, tr.499]. Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải chống lại cái thói xem nhẹ học tập lý luận. Vì không học tập lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là mù chính trị, thậm chí hủ hoá, xa rời cách mạng. Phải “khiêm tốn, thật thà. Đào sâu suy nghĩ khi nghiên cứu các tác phẩm của Mác - Lênin, các bài giảng của các đồng chí giáo sư bạn, khiêm tốn học tập các đồng chí giáo sư bạn, cái gì biết thì nói biết, không biết thì nói không biết. Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học tập” [42, tr.499]. Thứ hai, để tu dưỡng đạo đức cách mạng Hồ Chí minh dạy rằng: “Có đạo đức cách mạng thì mới hy sinh tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được quần chúng đưa cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn” [40, tr.50]. Thể hiện đạo đức cách mạng theo Người là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong công việc. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến mối quan hệ giữa giáo dục lý luận chính trị và giáo dục đạo đức. Có giáo dục lý luận chính trị tốt mới củng cố được quan điểm lập trường, quan điểm lập trường cách mạng được củng cố, nâng cao thì chí khí cách mạng càng cao, tinh thần cách mạng càng triệt để. Nói cách khác, đạo đức cách mạng là để phục vụ sự nghiệp cách mạng: giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; sự nghiệp chính trị đó mang lại giá trị đạo đức cao đẹp. ở Hồ Chí Minh, có sự nhất quán giữa chính trị và đạo đức, biểu hiện giữa nói và làm đạo đức. Hồ Chí Minh coi đạo đức là kết quả của quá trình giáo dục và tự giáo dục. Trong tập thơ Nhật ký trong tù, Người viết: Ngủ thì ai cũng như lương thiện, Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền; Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên [37, tr.383]. Thứ ba, để tin tưởng Niềm tự hào và tin tưởng của con người về các giá trị chân chính luôn là động lực tinh thần to lớn kích thích hoạt động thực tiễn của con người. Theo Hồ Chí Minh, việc giáo dục ý thức tự hào và niềm tin để nhằm đào tạo những cán bộ biết: “làm việc, làm người, làm cán bộ... để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại” [39; tr.684]. Bởi vậy theo quan điểm của Hồ Chí Minh mục đích của giáo dục lý luận chính trị chính là để cho cán bộ, đảng viên: Tin tưởng vào Đoàn thể. Tin tưởng vào nhân dân. Tin tưởng vào tương lai của dân tộc. Tin tưởng vào tương lai cách mạng. Có tin tưởng thì lúc ra thực hành mới vững chắc, hăng hái, lúc gặp khó khăn mới kiên quyết, hy sinh [40, tr.50]. Thứ tư, để thực hành. Theo Hồ Chí Minh,“Người cách mạng phải học suốt đời, học lý luận, học quần chúng, học thực tế. Người không học thì như đi ban đêm không có đèn, không có gậy, dễ vấp té” [72, tr.200]. “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông” [39, tr.234-235]; lúc học rồi, họ có thể tự mình tìm ra phương hướng chính trị, có thể làm những công việc thực tế, có thể trở thành người tổ chức và lãnh đạo và chỉ thực hành mà không có lý luận “cũng như một mắt sáng, một mắt mờ” [39, tr.234]. Vì vậy, phải đảm bảo mục đích của công tác giáo dục lý luận chính trị là: “Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy” [40, tr.50]. Mục đích này ngày nay vẫn soi sáng cho công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng là phải bồi dưỡng, xây dựng được các lớp cán bộ tin tưởng tuyệt đối vào đường lối đổi mới, kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái ngăn trở con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời họ phải là những người đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, được nhân dân tin yêu và lãnh đạo nhân dân thực hiện sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng. 1.3. Nội dung, phương châm, phương pháp giáo dục lý luận chính trị 1.3.1. Nội dung giáo dục lý luận chính trị Nội dung giáo dục lý luận chính trị bao giờ cũng phải phù hợp với mục đích và bảo đảm cho giáo dục lý luận chính trị đạt mục đích. Nội dung của giáo dục lý luận chính trị rất rộng, bao gồm hệ thống những nguyên lý, luận điểm, đề cập đến nhiều mặt, quy luật khác nhau của đời sống xã hội; bao gồm việc giáo dục những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin; đường lối, quan điểm của Đảng về các lĩnh vực của đời sống xã hội, lịch sử Đảng; công tác xây dựng Đảng; đạo đức cách mạng; chủ trương, chính sách, pháp luật nhà nước; những kinh nghiệm của các nước và tình hình thế giới. Đây là những nội dung lý luận chính trị cơ bản mang tính bắt buộc mà mọi cán bộ, đảng viên của Đảng đều phải học, phải được đào tạo, bồi dưỡng với những hình thức thích hợp. Theo tư tưởng Hồ Chí minh giáo dục lý luận chính trị bao gồm các nội dung chủ yếu sau: Một là, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục những nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. “Trước hết phải lấy những tài liệu về chủ nghĩa Mác - Lênin làm gốc” [40, tr.49]. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin có vị trí đặc biệt quan trọng vì trước hết nó là cơ sở để Đảng xác định rõ mục tiêu cách mạng. Đảng muốn lãnh đạo có hiệu quả, đưa cách mạng đến thành công phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng; phải coi trọng công tác xây dựng, hoàn thiện Cương lĩnh chính trị, đường lối đúng đắn; từ mục tiêu chiến lược lâu dài đến mục tiêu cụ thể trước mắt của từng chặng đường; xây dựng, tập hợp lực lượng, lựa chọn hình thức, bước đi và phương pháp cách mạng thích hợp; giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cơ bản. Muốn có Cương lĩnh, đường lối đúng đắn, Đảng phải nắm vững và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, nghĩa là phải có trí tuệ và trình độ cao về lý luận. Từ trong bóng đêm nô lệ, trước cảnh nước mất nhà tan và khủng hoảng về con đường cứu dân cứu nước; Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin cái cẩm nang thần kỳ cần thiết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta, tìm thấy ánh sáng con đường cứu nước của dân tộc Việt Nam; điều đó tựa như là người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [43, tr.314]. Từ đó, Người vừa nghiên cứu, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời Người ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam; và vì thế, ngay từ khi ra đời Đảng ta đã lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và vận dụng vào thực tiễn Việt Nam. Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, trong mục III. Lệ vào Đảng ghi: “Ai tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng thời được vào Đảng” [37, tr.5]; trong Mục V, trách nhiệm của đảng viên, ở điểm a ghi: “Tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và cổ động quần chúng theo Đảng” và điểm c ghi: “Phải thực hành cho được chính sách và nghị quyết của Đảng và Quốc tế Cộng sản” [37, tr.6]. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin như một sự gặp gỡ tất yếu và tự nhiên giữa chủ nghĩa yêu nước, phong trào yêu nước Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế và với học thuyết cách mạng của thời đại và Người là người Việt Nam đầu tiên truyền bá chủ nghĩâ Mác - Lênnin vào Việt Nam. Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thành lập, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin vào tình hình thực tế của nước ta, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngay trang mở đầu tác phẩm Đường Cách mệnh, một quyển sách mà Hồ Chí Minh đã tập hợp những bài giảng cho những thanh niên yêu nước Việt Nam trong những năm 1925-1927 tại Quảng Châu, Trung Quốc, Người đã trích câu nói nổi tiếng của V.I Lênin trong tác phẩm Làm gì?: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong” [36, tr.259]. Theo Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa Mác - Lênin soi phương hướng, đường lối cho chúng ta đi. Có phương hướng đúng thì làm việc mới đúng. Hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc; bất kỳ việc to việc nhỏ cũng nhằm mục đích ấy; đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Nếu không hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, tự kiêu, tự đại, tự tư tự lợi, như thế là trái với chủ nghĩa Mác - Lênin. Ai đi nhầm đường thì chúng ta giúp họ đi vào con đường chính [42, tr.138]. Vì vậy, Người luôn chỉ rõ Đảng phải luôn được tăng cường về mặt tư tưởng, kiện toàn về mặt tổ chức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực. Đối với mọi đảng viên “phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, củng cố lập trường giai cấp vô sản, cố gắng nắm vững những quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam; phải luôn luôn nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, bồi dưỡng chủ nghĩa tập thể của giai cấp vô sản” [44, tr.21]. Chủ nghĩa Mác - Lênin là tiền đề để có lập trường giai cấp vững vàng. Hồ Chí Minh viết: “Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng” [46, tr.92]. Chủ nghĩa Mác - Lênin còn có tầm quan trọng đặc biệt bởi nó vạch ra con đường đúng đắn nhất cho cuộc đấu tranh của quần chúng chống áp bức bóc lột, giải phóng xã hội, giải phóng con người; tư tưởng cách mạng của học thuyết là cách mạng triệt để, giải phóng triệt để toàn xã hội khỏi mọi hình thức áp bức, xây dựng xã hội mới - xã hội cộng sản; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới đạt tới mục tiêu cao cả: cứu nhân loại, đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc, sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) đã khẳng định: Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là để phụng sự cho cách mạng, cho Tổ quốc và nhân dân; bất kỳ việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích ấy. Nếu không hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, tự kiêu, tự đại, tự tư, tự lợi, như thế là trái với chủ nghĩa Mác - Lênin. Nói về tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh nói: Theo Bác, hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin tức là cách mạng phân công cho việc gì, là chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải làm tròn nhiệm vụ. Không nên đào tạo ra những con người thuộc sách làu làu, cụ Mác nói thế này, cụ Lênin nói thế kia, nhưng nhiệm vụ của mình được giao quét nhà lại để cho nhà đầy rác [79, tr.192]. Chủ nghĩa Mác - Lênin là lý trí đồng thời còn là tình cảm nữa. “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được” [46, tr.554]. Từ nhận thức: Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính. Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế [39, tr.233]. Hay “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” [42, tr,497]. Hồ Chí Minh đã đi đến định nghĩa khái quát về lý luận Mác - Lênin là “sự tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước. Nó là: “Khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội; khoa học về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột; khoa học về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở tất cả các nước; khoa học về xây dựng chủ nghĩa cộng sản” [42, tr.497]. Hồ Chí Minh kết luận: “Chủ nghĩa Mác rất cao, rất rộng. Những người cách mạng phải học tập chủ nghĩa Mác. Nhưng có thể nói một cách tóm tắt là chủ nghĩa Mác dạy chúng ta phải tuyệt đối trung thành với Đảng, phải hết lòng hết sức phục vụ giai cấp công nhân. Mác dạy chúng ta: "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại! Lênin người học trò thiên tài của Mác bổ sung thêm: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại! Hai câu khẩu hiệu đó là những ngọn cờ vĩ đại dẫn giai cấp vô sản và dân tộc bị áp bức đến thắng lợi hoàn toàn” [79, tr.173]. “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” [44, tr.128]. Ngày nay, dù cục diện thế giới có đổi thay, các nước xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại như một hệ thống, Liên Xô và các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa tan rã; nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên quyết bảo vệ giá trị bền vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và sức sống mãnh liệt của học thuyết. Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII thông qua đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”, “làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội” [11, tr.26-13]. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội VII nhấn mạnh: Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin là vấn đề có tính nguyên tắc số một đối với Đảng ta. Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp với điều kiện nước ta, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo. Chúng ta phải đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đả kích, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, từ phía những thế lực thù địch, những kẻ cơ hội [10, tr.127]. Hai là, giáo dục đạo đức phẩm chất. Đây là một nội dung quan trọng trong công tác giáo dục lý luận chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, với người cách mạng trước hết phải giác ngộ đạo đức cách mạng, muốn giác ngộ cách mạng phải giác ngộ đạo đức cách mạng. Phải có cái đức để đi đến cái trí; khi đã có cái trí, thì cái đức chính là cái để người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mình theo, lý tưởng mình chọn, con đường mình đã đi theo. Vì thế cách mạng trước hết phải giáo dục lý luận chính trị và đạo đức cách mạng thật tốt cho cán bộ, đảng viên. “Có như thế mục đích mới đồng; mục đích có đồng, chí mới đồng; chí có đồng, tâm mới đồng; tâm đã đồng, lại phải biết cách làm thì làm mới chóng” [36, tr.261]. Hồ Chí Minh xem đạo đức cách mạng là cái gốc của nhân cách, là nền tảng của người cách mạng. Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì? [39, tr.252-253]. Hồ Chí Minh đã nhiều lần giáo dục đạo đức cách mạng cho những người Việt Nam yêu nước, lần đầu tiên được thể hiện trong cuốn Đường Kách mệnh (1927), lần cuối cùng là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân và trong Di chúc của Người (1969); qua đó giáo dục cán bộ đảng viên phải suốt đời hy sinh phấn đấu cho chủ nghĩa cộng sản, đấu tranh để xoá bỏ áp bức bóc lột, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc. Theo Hồ Chí Minh: Đạo đức cách mạng là đạo đức mới, nó tiếp thu, kế thừa truyền thống đạo đức cổ truyền, nhưng khác về bản chất với đạo đức cũ, đạo đức phong kiến, tư sản; đạo đức mới là sự kết hợp giữa đạo đức của giai cấp công nhân với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa đạo đức nhân loại. “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [40, tr.320-321]. Đạo đức mới - Đạo đức cách mạng là: “Quyết tâm giúp đỡ loài người ngày càng tiến bộ và thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, luôn luôn giữ vững tinh thần chí công vô tư”; “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ” [41, tr.568]; là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân” [43, tr.285]; “là vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết” [43, tr.289]; “là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng” [43, tr.290]. “Tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng” [41, tr.568]. “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [43, tr.283]. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước”. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá” [43, tr.284]. Xây dựng đạo đức cách mạng thì phải chống chủ nghĩa cá nhân. Vì: Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí... Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không phải nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân. Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó [43, tr.292]. Sự thờ ơ với đạo đức cách mạng dẫn đến mắc khuyết điểm sai lầm. Vì vậy, “Để sửa chữa, cần phải học tập lý luận, trao dồi đạo đức, nhận rõ điều gì là phải, thì cố gắng làm, điều gì trái thì hết sức tránh” [75, tr.53]. Đạo đức cách mạng không phải là những gì to tát, mà là những vấn đề hết sức gần gũi thiết thân đối với mọi người, gắn liền với hoạt động hàng ngày của mọi người. “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [43, tr.293]. Hồ Chí Minh đòi hỏi Đảng ta từ trên xuống dưới phải chú trọng và kiên trì việc giáo dục đạo đức cách mạng; bởi, “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ” [43, tr.448]. Nghĩa là phải ra sức học tập lý luận Mác - Lênin, bởi “Có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm được tốt công tác Đảng giao phó cho mình” [43, tr.292]; phải có ý thức thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình đồng chí khác để cùng nhau tiến bộ; nghiêm khắc với bản thân và khoan dung với mọi người; phải tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời. Hồ Chí Minh đã giải thích rõ ràng, cụ thể, dùng những ví dụ sinh động dể hiểu về những vấn đề đạo đức cách mạng, vừa bổ sung hoàn thiện cụ thể hơn các quan điểm về đạo đức mới - đạo đức cách mạng, đạo đức xã hội chủ nghĩa; vừa phê phán những quan điểm lệch lạc, những hành vi phi đạo đức; những vấn đề Bác nêu ra không chỉ có giá trị lý luận - đặt nền móng cho các chuẩn mực đạo đức mới ở Việt Nam mà có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong công tác xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều kiện đảng cầm quyền. Ba là, giáo dục đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, một nội dung quan trọng khác không thể thiếu trong công tác giáo dục lý luận chính trị là phải giáo dục đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. “Những chỉ thị, nghị quyết, luật, lệnh của Đoàn thể và Chính phủ” [40, tr.50]. Đây là những nội dung không chỉ định tính trong nhận thức lý luận cho cán bộ, đảng viên mà còn định hướng, định lượng cho cán bộ, đảng viên hành động; cũng chính là một biểu hiện của nội dung gắn liền lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành. Người viết: “Những chính sách và nghị quyết của Đảng đều vì lợi ích của nhân dân. Vì vậy, đạo đức cách mạng của người đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng” [43, tr.288]. “Vì vậy, các cô, các chú phải chịu khó học tập lý luận Mác - Lênin, học tập đường lối, chính sách của Đảng; đồng thời phải học tập văn hoá, kỹ thuật và nghiệp vụ” [46, tr.92]. Có học tập đường lối, nghị quyết mới thực hiện được “nhiệm vụ cách mạng mà nhân dân ta hiện nay đòi hỏi mỗi đảng viên phải: tuyệt đối tin tưởng vững chắc vào đường lối, chủ trương của Đảng” [46, tr.91-92]. Giáo dục lý luận chính trị thông qua giáo dục đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đòi hỏi người đi giáo dục-những giảng viên lý luận chính trị, trước hết, phải có sự hiểu biết sâu rộng, có hệ thống về các lĩnh vực này; đồng thời phải biết được những vấn đề mới nhất của đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước vào trong bài giảng chuyên ngành của mình. Qua giảng dạy và học tập, người giảng và học cần có trao đổi để nắm chắc những vấn đề chủ yếu của đường lối, chính sách và pháp luật và có thể phát hiện những bất cập trong đường lối, chính sách và pháp luật mà kiến nghị với Đảng, Nhà nước sửa đổi, hoàn thiện đường lối, chính sách và pháp luật cho sát hợp thực tế hơn. Với nội dung giáo dục này đòi hỏi nhà trường phải kịp thời quán triệt những văn kiện mới nhất của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước tới đội ngũ cán bộ, giảng viên và học viên một cách thiết thực và sâu sắc. Với người học cũng đòi hỏi phải học tập và trao đổi với tư cách người cán bộ đi học phải nắm vững nội dung của đường lối, chính sách và pháp luật và vận dụng kinh nghiệm của bản thân và của địa phương, cơ sở để làm sáng tỏ nội dung đang học tập, chuẩn bị vốn hiểu biết rộng hơn, sâu hơn để thực hành tốt hơn sau khi học tập. Bốn là, giáo dục qua những kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình Đảng ta lãnh đạo cách mạng, phải học tập kinh nghiệm của nhân dân, phải tổng kết kinh nghiệm của phong trào quần chúng. Những kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình Đảng ta lãnh đạo cách mạng cũng như của các ngành, các địa phương cũng cần được đưa ra trao đổi ở các lớp giáo dục lý luận chính trị. Đồng thời Hồ Chí Minh đòi hỏi phải học tập kinh nghiệm của nhân dân, phải tổng kết kinh nghiệm của phong trào quần chúng để phát triển thành lý luận. Các nhà kinh điển mácxít khẳng định: Lý luận, xét theo cách thức sản sinh ra nó, là sản phẩm của tư duy trừu tượng, là kết quả của những nỗ lực chủ quan của người nghiên cứu. Đồng thời, Thực tiễn làm phát sinh lý luận. Gắn bó và bám sát thực tiễn sẽ làm cho lý luận phải vượt lên để khỏi bị lạc hậu, đồng thời nhờ thực tiễn mách bảo, gợi ý, thúc đẩy mà lý luận có được khả năng vượt trước để dẫn đường. Không có thực tiễn thì không có nội dung lý luận. Mà thực tiễn không đâu phong phú bằng thực tiễn trong phong trào cách mạng của quần chúng, trong cuộc sống, lao động sản xuất của nhân dân. Vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng: Công việc gì bất kỳ, thành công hay thất bại, chúng ta cần nghiên cứu đến cội rễ và phân tích thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khoá để phát triển công việc và để giúp cán bộ tiến tới. Hồ Chí Minh xác định: Giáo dục lý luận chính trị phải đặc biệt chú ý những tài liệu thiết thực. “Đó là những kinh nghiệm do những người đi học mang đến, kinh nghiệm thành công cũng như kinh nghiệm thất bại. Những kinh nghiệm đó đem trao đổi, gom góp lại tức là những bài học quý” [40, tr.49]. Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo là một cuộc cách mạng chưa từng có tiền lệ, cho nên càng cần thường xuyên đúc rút kinh nghiệm làm thành những bài học cho cán bộ, đảng viên làm cơ sở cho nhận thức và trong chỉ đạo thực tiễn góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng. Tóm lại, trong công tác giáo dục và học tập lý luận chính trị, bên cạnh việc giáo dục lý luận Mác - Lênin cần phải chú trọng đến việc giáo dục các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hoá, kỹ thuật, lao động và sản xuất, học đi đôi với hành. Vì có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững được lập trường, nâng cao sự hiểu biết, mới làm tốt công tác được giao. Nội dung của công tác giáo dục lý luận chính trị chính là những vấn đề nhằm xây dựng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; là nền độc lập, tự do; là sự toàn vẹn lãnh thổ; là cơm ăn, áo mặc, nhà ở, học hành, chữa bệnh cho mọi người; là đất nước phồn vinh, mọi thế hệ người Việt Nam hạnh phúc; là sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người một cách toàn diện nhất, triệt để nhất. Đó là một xã hội mà như Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới [19, tr.17-18]. Từ mục đích, nội dung giáo dục lý luận chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định phương châm, phương pháp để đạt mục đích, nội dung đó. Phương châm, phương pháp phản ánh nội dung, mục đích và được quy định từ nội dung, mục đích của việc giáo dục lý luận chính trị. 1.3.2. Phương châm giáo dục lý luận chính trị Theo Từ điển tiếng Việt (1996) của Trung tâm từ điển học, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Phương châm là: Tư tưởng chỉ đạo hành động, thường được diễn đạt bằng câu ngắn gọn như phương châm học kết hợp với hành. Còn Đại từ điển tiếng Việt (2004), Trung tâm Văn hoá và ngôn ngữ Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Phương châm là: Phương hướng và mục tiêu phấn đấu và hành động. Như vậy, có thể hiểu phương châm là tư tưởng chỉ đạo hành động, chỉ rõ phương hướng và mục tiêu phấn đấu và hành động. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu những phương châm giáo dục lý luận chính trị: Trước hết, lý luận gắn liền với thực tiễn. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến phương châm này. Người đã đề cập vấn đề này ở nhiều nơi, nói nhiều lần với hầu hết mọi đối tượng. Theo Hồ Chí Minh “Phương châm, phương pháp học tập là lý luận liên hệ với thực tế” [46, tr.95]; “trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế” [42, tr.496]. Bởi “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” [42, tr.496]. Lý luận xét cho cùng thuộc về lĩnh vực hoạt động tinh thần của xã hội, còn thực tiễn thuộc về hoạt động vật chất. Lý luận là sự tổng kết những tri thức kinh nghiệm thành hệ thống nguyên lý những quy luật và phạm trù. Là hệ thống các tri thức về tự nhiên và xã hội. Tri thức lý luận có tính lôgic chặt chẽ đi sâu vào bản chất của thế giới khách quan và tạo ra khả năng ứng dụng rộng rãi trong đời sống của con người. Khác với kinh nghiệm ở điểm: kinh nghiệm là những tri thức được rút ra trực tiếp từ thực tiễn hoặc là từ đời sống hàng ngày, vì vậy nó chưa có tính hệ thống và tính khái quát chưa cao nên khả năng ứng dụng không rộng rãi và kết quả mang lại có giới hạn. Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất cảm tính có tính lịch sử xã hội, có mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Là hoạt động cơ bản của con người nhằm sản xuất ra của cải vật chất; hoặc cải tạo xã hội, tức là những hoạt động làm biến đổi các thể chế xã hội, trong xã hội có giai cấp thì điển hình là ở cuộc đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao của nó là cách mạng xã hội; hoặc thực nghiệm khoa học. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định vật chất quyết định ý thức, hoạt động vật chất đóng vai trò quyết định đối với hoạt động tinh thần. Lênin cho rằng: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà cả của tính hiện thực trực tiếp” [31, tr.230]. Mối quan hệ qua lại giữa lý luận và thực tiễn là phản ánh mối quan hệ quá trình nhận thức biện chứng thực tế khách quan từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường nhận thức chân lý. Bởi, thực tiễn là nguồn gốc, là cơ sở, là động lực của lý luận. Thực tiễn tác động đến thế giới khách quan, buộc các sự vật hiện tượng phải bộc lộ những thuộc tính vốn có của nó khiến con người có thể hiểu biết được sự vật, hình thành những tri thức kinh nghiệm và từ những tri thức này xây dựng các lý thuyết khoa học. Thực tiễn làm phát triển bộ óc con người và rèn luyện các giác quan của con người làm cho năng lực tư duy của con người ngày càng phát triển và khi có điều kiện thì hình thành lý luận. Thực tiễn cung cấp những điều kiện, những phương tiện để con người có thể thâm nhập ngày càng sâu vào thế giới khách quan trên cơ sở đó có thể phản ánh được những quy luật vốn có của nó trong các lý thuyết khoa học của mình. Thực tiễn luôn làm nảy sinh ra những vấn đề mâu thuẫn với lý luận từ đó đòi hỏi lý luận phải đổi mới phát triển đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn, đó là động lực để phát triển lý luận. Thực tiễn là mục đích của lý luận. Những lý luận có thể khác nhau nhưng mọi lý luận đều có mục đích là giải đáp những vấn đề do thực tiễn đặt ra, nhằm phục vụ cho việc nâng cao hiệu quả của hoạt động thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Nhận thức của con người là một quá trình phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan. Vì vậy, kết quả nhận thức có thể đúng hoặc sai, muốn kiểm tra sự đúng đắn của nhận thức nói chung và của lý luận nói riêng thì phải đưa vào thực tiễn để kiểm nghiệm. Chỉ có thực tiễn mới kiểm tra được chân lý vì thực tiễn cao hơn lý luận ở tính phổ biến và tính hiện thực; nhưng vì thực tiễn bị giới hạn bởi một không gian và thời gian xác định nên nó không thể bao hàm được thế giới khách quan. Hơn nữa, thực tiễn là hoạt động của con người bao gồm rất nhiều các khâu từ mục đích, động cơ, hoàn cảnh, phương tiện hoạt động. Điều đó làm cho thực tiễn bị chi phối bởi nhiều yếu tố và nó có thể vận dụng không đúng đắn lý luận nào đó. Đồng thời, có những lý luận đã được thực tiễn kiểm nghiệm nhưng không phải vì thế mà nó trở thành chân lý vĩnh viễn. Ngược lại, có những lý luận chưa được thực tiễn kiểm nghiệm nhưng không phải vì vậy mà có thể loại bỏ nó một cách đơn giản khi chưa có đầy đủ cơ sở. Đồng thời, lý luận là từ thực tiễn quyết định nhưng bao giờ lý luận cũng có tính độc lập tương đối và nó có thể tác động mạnh mẽ trở lại thực tiễn. Trước hết, lý luận là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn, nó không chỉ định ra phương hướng cho hoạt động thực tiễn mà còn tạo ra những phương thức để con người cải tạo tự nhiên. Tác động của lý luận đối với thực tiễn có thể tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính khoa học của lý luận, tính khoa học càng cao thì tính tích cực càng lớn. Vai trò của lý luận còn phụ thuộc vào sự thâm nhập của lý luận vào quần chúng nhân dân. Sự xâm nhập càng rộng thì tác động của nó càng mạnh. Điều đó chứng tỏ ở việc tất cả các giai cấp đều tìm đủ mọi cách để truyền bá tư tưởng của giai cấp mình, làm cho tư tưởng đó trở thành tư tưởng thống trị xã hội. Lý luận còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội, xã hội phát triển càng cao thì vai trò của lý luận càng lớn, trừ ở xã hội cộng sản nguyên thuỷ thì lý luận chưa hình thành, con ngươi hoạt động dựa vào những kinh nghiệm đã có. áp dụng phương châm lý luận liên hệ thực tiễn trong học tập là dùng lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để nhận thức những vấn đề của thực tiễn cách mạng; hiểu được Đảng đã vận dụng nguyên lý lý luận vào thực tiễn nước ta như thế nào; từ những vấn đề đã học soi rọi những chỗ đúng, chỗ sai trong nhận thức và hành động của bản thân, cũng như những khiếm khuyết trong chỉ đạo, điều hành của Đảng, Nhà nước (từ trung ương đến cơ sở). Qua đó sẽ quán triệt sâu sắc hơn và vận dụng vào thực tiễn tốt hơn khi tốt nghiệp ra trường. Phương châm lý luận liên hệ thực tiễn phải được áp dụng trong suốt quá trình các khâu: xác định yêu cầu, nội dung giảng dạy, nghiên cứu cá nhân, thảo luận, kiểm tra, thi hoặc viết tiểu luận tốt nghiệp; thông qua các hình thức như báo cáo thực tế, đi nghiên cứu thực tế, đi công tác thực tế ở cơ sở có thời hạn... Đối với cơ quan đi giáo dục phải xây dựng nội dung chương trình vừa đảm bảo tính cơ bản, toàn diện của hệ thống nội dung giáo dục lý luận, phù hợp với hệ đào tạo làm cơ sở soi được vào thực tiễn; đồng thời đảm bảo tính nâng cấp trong hệ thống giáo dục, bám sát được thực tiễn phong phú và sinh động. Đối với người học cần liên hệ với tư tưởng và công tác của mình, nghĩa là dùng lý luận đã học để phân tích những thắng lợi và thất bại trong công tác, những mặt đúng, mặt sai trong tư tưởng; phân tích một cách toàn diện và tìm nguồn gốc đúng, sai về lập trường, quan điểm và phương pháp của mình. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Những bệnh duy tâm, máy móc, mạo hiểm chủ quan, v.v. đều vì tách rời điều kiện khách quan với chủ quan, tách rời lý luận với thực hành mà có. Chủ nghĩa Mác - Lênin kiên quyết chống những sai lầm ấy” [40, tr.255]. Người chứng minh rằng ở nơi nào và khi nào có sự kết hợp đúng đắn giữa lý luận và thực tiễn, ở nơi đó và khi đó cách mạng sẽ giành được thắng lợi, phong trào phát triển; ngược lại, thì phong trào sẽ gặp khó khăn, thậm chí tổn thất, cách mạng lâm vào thoái trào bằng những điển hình thực tế như: những sai lầm trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, xây dựng kinh tế. Đối với giảng viên và học viên trường Chính trị thì cần quán triệt sâu sắc phương châm ấy, bởi theo Hồ Chí Minh: Trường Đảng là một trường học để đào tạo những chiến sĩ tiên tiến phấn đấu cho sự nghiệp của giai cấp vô sản. Các đồng chí đều là những cán bộ cốt cán của Đảng. Việc học tập lý luận của các đồng chí không phải nhằm biến các đồng chí thành những người lý luận suông, mà nhằm làm thế nào cho công tác của các đồng chí tốt hơn, nghĩa là các đồng chí phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin; học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta. Như thế chúng ta học tập lý luận là cốt để áp dụng vào thực tế [42, tr.496-497]. Học tập lời dạy của Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” [31, tr.30-32], Hồ Chí Minh khẳng định: Lý luận gắn với thực tiễn là một phưong thức thể hiện tính đảng vô sản, không tuân thủ nguyên tắc này trong lãnh đạo, không thể là một đảng cách mạng chân chính. Thứ hai, học đi đôi với hành. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Học mà không hành thì vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy” [40, tr.50]. Theo Hồ Chí Minh thực hiện nguyên tắc: nói đi đôi với làm, học để hành; nghĩa là, chống hai khuynh hướng sai lầm, đó là bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm. Bệnh giáo điều nghĩa là nghiên cứu học tập theo kiểu tầm chương trích cú mà không chú ý đến những đòi hỏi của thực tiễn. Bệnh kinh nghiệm nghĩa là chỉ nhấn mạnh một chiều vai trò của kinh nghiệm, của thực tiễn mà không thấy được vai trò của lý luận, coi thường lý luận, không nghiên cứu học tập lý luận một cách cơ bản. Học lý luận không phải chỉ để nghiên cứu, nắm vấn đề mà vấn đề là phải biết kế hoạch thực hiện và thực hiện tốt trong thực tế. Hồ Chí Minh dạy: “là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn” [43, tr.292]. Bởi vậy, ngay “trong lúc học lý luận, phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế. Lúc học rồi, họ có thể tự mình tìm ra phương hướng chính trị có thể làm những công việc thực tế, có thể trở nên người tổ chức và lãnh đạo” [39, tr.272]. Hồ Chí Minh đề cao phương hướng huấn luyện, giáo dục này, vì nó là lý luận thiết thực, có ích, phù hợp với phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác. Thực hiện phương châm học đi đôi với hành đòi hỏi nhà trường phải có thống nhất nhận thức rằng phương châm này gắn liền với việc sự nghiệp giáo dục lý luận có đạt mục đích hay không. Bởi vậy với mỗi khoá học, lớp học, nhà trường phải có kế hoạch gắn nội dung học tập với tham quan thực tế, nghe báo cáo thực tiễn... và khai thác kinh nghiệm của các địa phương thông qua ngay người học. Phải kiên quyết chống bệnh hình thức như Bác Hồ đã chỉ ra, đi thực tế theo lối “cưỡi ngựa xem hoa”. Nhà trường, người dạy, người học phải thống nhất nhận thức rằng, đi thực tế là đi nghiên cứu, tổng kết thực tiễn. Bởi vậy, gắn liền với nội dung học, nhà trường, lớp học phải hình thành đề tài đi thực tế. Đề tài phải xác định rõ mục tiêu, nội dung, xác định trọng tâm, trọng điểm, kế hoạch hợp đồng với địa phương. Thực hiện đề tài phải nhằm trước hết, là gắn lý luận với thực tế, nâng cao chất lượng giảng dạy, đồng thời có thể góp phần cùng địa phương tổng kết, đề xuất phương án giải quyết các vấn đề đang mắc mứu của địa phương. Trong kế hoạch nghiên cứu thực tiễn cần mạnh dạn tới những nơi được coi là có nhiều vấn đề đòi hỏi lý luận lý giải. Có kế hoạch đi thực tế và thực hiện tốt kế hoạch còn phải bao gồm cả tổng kết rút kinh nghiệm để các khoá, các lớp sau gắn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành đạt kết quả tốt hơn. Thứ ba, công tác giáo dục lý luận chính trị phải đảm bảo tính Đảng, tính khoa học. Hồ Chí Minh khẳng định trong giáo dục lý luận chính trị đòi hỏi tuyệt đối phải trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin trong bất cứ hoàn cảnh nào. Xa rời nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều và xét lại. Và xét về nhân cách, người cán bộ, đảng viên đó không còn đủ tư cách và phẩm chất của người cộng sản. Thực hiện phương châm này, đòi hỏi người đi giáo dục lý luận chính trị chẳng những vững vàng, sâu sắc về lý luận mà còn phải có quá trình thực tiễn phong phú và thường xuyên cập nhật, trong quá trình chuẩn bị bài giảng và giảng bài phải thể hiện sự “đào sâu suy nghĩ”, luôn có ý thức khắc phục và khắc phục bằng được lối dạy chay, thoát ly thực tế. Tính khoa học phải được thể hiện ở sự mô tả hiện thực một cách khách quan cùng với những nguyên nhân của nó, tránh “tô hồng” hoặc “bôi đen” hiện thực. Đảm bảo tính Đảng, tính khoa học sẽ góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục lý luận chính trị của Đảng. Đối với người được giáo dục lý luận chính trị, đòi hỏi họ phải nắm chắc được bản chất cách mạng và khoa học của lý luận và biết “soi” lý luận vào thực tiễn công tác của mình; từ đó đúc rút vấn đề cơ bản, chủ yếu vận dụng vào hoạt động thực tiễn cũng như củng cố quan điểm lập trường, đạo đức cách mạng. Bởi vậy, người học lý luận phải nhận rõ: Không phải học để thuộc lòng từng câu từng chữ, đem kinh nghiệm của các nước anh em áp dụng một cách máy móc. Nhưng chúng ta phải học chủ nghĩa Mác- Lênin để phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta, cho hợp với điều kiện đặc biệt của nước ta. Khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn cách mạng của ta [42, tr.497]. 1.3.3. Phương pháp giáo dục lý luận chính trị “Phương pháp được hiểu là cách thức đề cập tới hiện thực, cách thức nghiên cứu các hiện tượng của tự nhiên và của xã hội”, “là hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn xuất phát từ các quy luật vận động của khách thể được nhận thức” [56, tr.23]. Phương pháp là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực, cách thức điều chỉnh nhận thức và hoạt động của con người trong việc tiếp cận lý luận và khảo sát thực tế. Phương pháp hình thành từ lý luận, nhưng không phải một chiều. Lý luận đẻ ra phương pháp, phương pháp tác động trở lại lý luận, làm cho lý luận phát triển, hình thành lý luận mới; đến lượt nó, lý luận mới lại đẻ ra phương pháp mới [56, tr.28]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), Nxb Từ điển Bách khoa Hà Nội: Về thực chất, phương pháp là lý luận đã được thực tiễn xác nhận và hướng trở lại ngay thực tiễn nghiên cứu. Phương pháp có hai đặc trưng cơ bản: - Có nội dung khách quan sâu sắc, do bản chất và đặc điểm của khách thể nghiên cứu quyết định đã được đúc kết thành lý luận phản ánh nó. - Về hình thức, phương pháp có tính chủ quan, bởi vì phương pháp chỉ tồn tại trong đầu óc của con người, nghĩa là trong hoạt động của ý thức, chứ không tồn tại ở bên ngoài và độc lập với con người. Phương pháp đúng đắn xuất phát từ lý luận khoa học đúng đắn và đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Có phương pháp đúng nhưng chưa chắc đưa đến kết quả tốt, bởi vì kết quả phụ thuộc vào kinh nghiệm sử dụng và nghệ thuật vận dụng phương pháp của con người. Cũng theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, Phương pháp giáo dục là cách thức hoạt động thống nhất giữa nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm giải quyết những nhiệm vụ giáo dục nhân cách. Nói về phương pháp dạy và học lý luận chính trị Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu một số phương pháp cơ bản, chủ yếu như sau: Thứ nhất, dạy và học lý luận chính trị “phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học”, “phải biết tự động học tập”, phải “lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo mà giúp vào” Hồ Chí Minh đề cao vấn đề tự học trong công tác giáo dục lý luận chính trị. Người cho rằng: “Học tập ở trường của Đoàn thể không phải như học ở các trường lối cũ, không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập” [40, tr.50]. Ng- ười nói: “Bác thường nghe nói có đồng chí mới 40 tuổi mà đã cho mình là già, cho nên ít chịu học tập. Nghĩ như vậy là không đúng, 40 tuổi chưa phải là già. Bác đã 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học thêm. Chúng ta phải học và hoạt động cách mạng suốt đời” [46, tr.92]. Phải dành nhiều thời gian cho khâu tự học của học viên, bao gồm tự nghiên cứu làm đề cương, thảo luận, tranh luận, sinh hoạt tập thể theo nhóm, tổ hay cả lớp với những chủ đề thích hợp theo sự hướng dẫn của giảng viên. Đây là phương pháp dạy học hiện đại, tới nay còn nguyên ý nghĩa - là phương pháp lấy người học làm trung tâm, thầy là người tổ chức hướng dẫn: nêu vấn đề, đặt câu hỏi, tạo tình huống, khêu gợi thắc mắc, hình thành mâu thuẫn, kích thích độc lập suy nghĩ, tìm tòi giải pháp để cuối cùng người học đạt tới tri thức, trong đó thật sự có sự gắn chặt giữa lý luận và thực tiễn. Như vậy, bằng phương pháp này của Hồ Chí Minh. được thực hiện tốt ở các trường Đảng thì sẽ chuyển từ phương pháp cũ, từ cách truyền thụ kiến thức một chiều - thầy giảng, trò ghi, sang cách tổ chức quá trình nhận thức năng động của người học thông qua người học và người dạy cùng làm việc trên lớp, trong thảo luận hoặc người học tự động làm việc theo hướng dẫn của giảng viên. Thực hiện phương pháp này bắt buộc người học phải chuẩn bị kỹ nội dung qua các khâu học tập. Với nhà trường phải cung cấp đầy đủ giáo trình, giáo khoa, sách báo, tài liệu tham khảo có liên quan cho đến các loại từ điển chuyên ngành đến cả từ điển bách khoa để học viên tham khảo trong quá trình tự học. Như vậy, phải có đầu tư tương xứng. Những vấn đề này hiện nay không phải là bất cập, vấn đề là biết tổ chức, tính toán đầu tư. Như Bác Hồ dạy: Việc đáng tiêu thì bao nhiêu cũng phải tiêu, việc không đáng tiêu thì một xu cũng không tiêu, và không nên bủn xỉn về các khoản chi tiêu trong huấn luyện. Thực hiện phương pháp này cũng đòi hỏi cao ở người giảng viên phải rất vất vả tỉ mỉ, chu đáo trong thiết kế bài giảng, trong thực hiện bài giảng, chỉ đạo thảo luận, đi thực tế; đồng thời người giảng viên phải có vốn uyên thâm về kiến thức lý luận khoa học, cũng như hiểu biết cuộc sống và phải có khả năng nghiên cứu khoa học để không ngừng nâng cao tri thức của người thầy. Như vậy, mới có thể “biết mười dạy một” mà những điều dạy đó lại phải là kết quả của sự chọn lọc, gợi mở hướng dẫn cho học viên biết tự động học tập nâng cao hiểu biết. Người thầy giỏi không thể là người có bao nhiêu hiểu biết nhồi nhét cho học viên tất cả và chấm hết. Hồ Chí Minh phê phán những người thầy “chỉ đem lý luận khô khan nhét cho đầy óc người họ. Rồi bày cho họ viết những chương trình, những hiệu triệu rất kêu. Nhưng đối với việc thực tế, tuyên truyền, vận động, tổ chức, kinh nghiệm chỉ nói qua loa mà thôi” [39, tr.272]. Đó là sự nhồi nhét lý luận suông, vô ích, không gợi mở cho người học tự tìm tòi cách giải quyết vấn đề trong thực tiễn. Hai là, trong giáo dục và học lý luận chính trị, phải thực hành phương pháp “nêu cao tác phong độc lập suy nghỉ và tự do tư tưởng”. Hồ Chí Minh dạy: “- Phải khiêm tốn, thật thà... Đào sâu suy nghĩ khi nghiên cứu các tác phẩm của Mác - Lênin, các bài giảng của các đồng chí giáo sư bạn, khiêm tốn học tập các đồng chí giáo sư bạn, cái gì biết thì nói biết, không biết thì nói không biết. Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học tập” [42, tr.499]. Đọc tài liệu thì phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ. Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật là đúng lý không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều. Phải suy nghĩ chín chắn [42, tr.500]. Đối với phương pháp này, không chỉ yêu cầu cao đối với người học mà còn đòi hỏi đối với người dạy phải độc lập suy nghĩ, đào sâu hiểu kỹ, suy nghĩ chín chắn mới có thể giúp người học hiểu sâu lý luận, nâng cao tư tưởng, giữ vững lập trường. Hồ Chí Minh yêu cầu trong giảng dạy cần xác định nội dung cốt lõi trong toàn hệ thống. Chỉ có trên cơ sở bao quát toàn bộ thì mới xác định được vấn đề cốt lõi, nội dung chính, trọng tâm cần nắm vững và vận dụng; có như vậy mới khắc phục được tình trạng phiến diện, nhìn cây mà không thấy rừng, tình trạng chung chung, đại khái, chỉ biết rừng mà không biết các loại cây cụ thể. Đồng thời trong huấn luyện phải chú ý vào rèn luyện phương pháp, kỹ năng, tạo cho người học nắm được bản chất linh hồn của các quan điểm lý luận, có thể độc lập, tự chủ xử trí đúng công việc trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ba là, công tác giáo dục lý luận chính trị phải thiết thực, cụ thể, phù hợp với đối tượng, với thực tiễn. Hồ Chí Minh cho rằng công tác giảng dạy phải xuất phát từ tình hình cụ thể của đất nước, của địa phương tỉnh, huyện, phù hợp với từng đối tượng cán bộ công tác ở cơ quan, ban ngành cấp tỉnh, cấp huyện, thị, dân tộc, tôn giáo. Nhằm “cốt yếu là phải làm cho người học hiểu thấu vấn đề. Nhưng hiểu thấu cũng có nhiều cách: có cách hiểu thấu thật tỉ mỉ, nhưng dạy theo cách đó thì phải tốn nhiều thì giờ. Trái lại cũng có cách dạy bao quát mà vẫn làm cho người học hiểu thấu được” [40, tr.47]. Giảng viên cần hiểu rõ và nắm chắc nhu cầu nhận thức của người học và mối liên hệ giữa nội dung học tập với chức trách, nhiệm vụ của người học và thực tiễn địa phương, đơn vị công tác của họ. Theo Người, lý luận là do kinh nghiệm của quá trình đấu tranh cách mạng ở các nước và trong nước, được phân tích và tổng kết. Nhưng, phải biết khéo lợi dụng kinh nghiệm, không được bắt chước một cách rập khuôn, máy móc. Người nêu ví dụ: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng” [39, tr.272]. Ngược lại, phải kiên quyết thực hành việc “gần gụi dân chúng, vào sâu trong dân chúng”, “phải kiên quyết chống bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi, bệnh ba hoa”, “vì nhận thấy ta thường mắc phải và các bệnh này rất có hại cho công tác, rất hại cho Đảng” [39, tr.272]. Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy. Điều kiện có ý nghĩa quyết định hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị là đội ngũ và chất lượng giảng viên làm công tác đào tạo. Đội ngũ này phải đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, phải được lựa chọn cẩn thận, đòi hỏi phải được đào tạo cơ bản, có hệ thống, được bồi dưỡng thường xuyên, được tổ chức và quản lý chặt chẽ; nghĩa là phải đảm bảo về phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn. Người giảng viên lý luận chính trị phải là những người trung thành với lý tưởng cách mạng, với đường lối chính trị của Đảng, tận tụy phục vụ lợi ích của nhân dân, có khả năng tổ chức và vận động thuyết phục quần chúng, có trình độ sư phạm cao. Hồ Chí Minh cho rằng “Không phải ai cũng huấn luyện được” [40, tr.46] nhất là người huấn luyện của Đoàn thể cần phải có trình độ hiểu biết chuyên sâu. Do đó Người đã đặt vấn đề “Phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách việc huấn luyện đó. Những người lãnh đạo cần phải tham gia việc dạy” [39. tr.273]. Đồng thời, Hồ Chí Minh đòi hỏi ở người giảng viên lý luận chính trị phải có trình độ cao, phải có phẩm chất của nhà khoa học, người giảng viên phải suốt đời tự học, tự đào tạo, phải có lòng đam mê, khiêm tốn học tập. Người căn dặn những người làm thầy huấn luyện chính trị: “Người huấn luyện phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình. Lênin khuyên chúng ta: “Học, học nữa, học mãi”. Mỗi người đều phải ghi nhớ và thực hành điều đó, những người huấn luyện lại càng phải ghi nhớ hơn ai hết. Người huấn luyện nào tự cho là mình đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất” [40, tr.46]. Do chức năng của mình, một đặc trưng phẩm chất của người giảng dạy lý luận chính trị là phải luôn học hỏi, không có thái độ kỳ thị, biết kết hợp và luôn làm giàu trí tuệ của mình. “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại” [40, tr.46]. Có như vậy, người dạy mới có sức thuyết phục và trở thành “kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc” [40, tr.46]. Người giảng viên cần phải tìm cách dạy, “Dạy cái gì, dạy thế nào để học trò hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ nhanh”, “Thầy dạy tốt, trò học tốt” [42, tr.138]. Năm là, tổ chức quản lý học viên trong quá trình đào tạo. Muốn huấn luyện lý luận chính trị trước hết phải có tổ chức, có lãnh đạo sâu sát, tỉ mỉ và chu đáo. Tổ chức huấn luyện phải bám sát cả yêu cầu số lượng và chất lượng; đồng thời, Hồ Chí Minh quan tâm đến cách thức tổ chức lớp. “Đông quá thì dạy và học ít kết quả vì trình độ lý luận của người học chênh lệch, nên thu nhận không đều. Trình độ công tác thực tế của người học cũng khác nhau, nên chương trình không sát” [40, tr.52]. Bác Hồ chỉ ra một khuyết điểm cần sữa chữa ngay trong việc huấn luyện, đó “là tham làm nhiều mà không chu đáo, không biết “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”. Rõ ràng nhất là trong việc mở lớp huấn luyện. 1.Lớp quá đông... 2.Mở lớp lung tung...” [40, tr.52]. Người căn dặn: “- Mở lớp nào ra lớp nấy. - Lựa chọn người dạy và người học cho cẩn thận - Đừng mở lớp lung tung” [40, tr.52]. Người phê phán việc mở lớp lung tung, chồng chéo lẫn nhau, tốn sức, tốn của của Đảng, Nhà nước và nhân dân rời rạc không đâu vào đâu. Người cho rằng: Vì mở nhiều lớp nên thiếu người giảng. Thiếu người giảng thì học viên đâm chán nản. Thiếu người giảng thì phải đi “bắt phu”, vì thế người đến giảng khi nào cũng hấp tấp, lướt qua lớp này một chút, lớp khác một chút như “chuồn chuồn đạp nước”, dạy không được chu đáo. Thiếu người giảng thì thường khi lại phải “bịt lỗ”, người “bịt lỗ” năng lực kém, nói sai, có hại cho học sinh, nghĩa là có hại cho Đoàn thể. Rốt cuộc chỉ tốn gạo mà học thì học táp nhoang [40, tr.52]. Các lớp huấn luyện phải được tổ chức thường xuyên; chương trình, giáo trình phải có tính hệ thống theo từng mức độ từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. “Sắp xếp thời gian và bài học... phải cho khéo, phải có mạch lạc với nhau, mà không xung đột với nhau” [39, tr.273]. Phải xem giáo dục lý luận là công việc thường xuyên của Đảng, của đoàn thể; là nhu cầu thường trực của cán bộ, đảng viên, gắn liền với quá trình hoàn thiện nhân cách nói chung. Sáu là, chuẩn bị tốt các phương tiện, trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập của đội ngũ giảng viên và học viên của trường. Ngoài nguồn lực con người như là nhân tố quyết định, hiệu quả giáo dục lý luận chính trị còn phụ thuộc vào phương tiện, trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật trực tiếp phục vụ cho việc dạy và học. Đó là các loại tài liệu, giáo khoa, giáo trình, lớp học, bàn ghế, đồ dùng dạy học... Theo Hồ Chí Minh, tài liệu là một trong những yếu tố giữ vai trò cơ bản và có ý nghĩa quyết định đến kết quả, chất lượng giáo dục lý luận chính trị. Tài liệu thường bao gồm hai loại chủ yếu: tài liệu có sẵn và tài liệu mới. Về tài liệu có sẵn, Hồ Chí Minh cho rằng: “Trước hết phải lấy những tài liệu về chủ nghĩa Mác - Lênin làm gốc. Nhưng tài liệu phải lựa chọn, xếp đặt lại, vì trình độ người học không đều nhau, cần có tài liệu thích hợp của từng hạng. Tài liệu không thích hợp thì học không có ích lợi gì” [40, tr.49]; các nhà kinh điển mácxít đã để lại một kho tàng kinh điển đồ sộ thông qua những bài nói, bài viết và những tác phẩm phản ánh những vấn đề - những nguyên lý cơ bản về cách mạng của giai cấp vô sản nhưng không phải là một bộ sách giáo khoa hay một bài giảng có sẵn. Vì vậy, sử dụng như thế nào cho có hiệu quả, cần phải có sự nghiên cứu, chọn lọc; nhưng không thể có chung một loại tài liệu cho mọi đối tượng. Bác Hồ là người đã vận dụng sáng tạo vấn đề này, tiêu biểu là việc Người biên soạn tác phẩm Đường Kách mệnh trong những năm 1925-1927 để huấn luyện các lớp đào tạo cán bộ đầu tiên của Đảng; một quyển sách vừa ngắn gọn, vừa dễ hiểu, vừa có sức thuyết phục phù hợp cách mạng Việt Nam. Bên cạnh, trong loại tài liệu có sẵn dùng trong giáo dục lý luận chính trị, ngoài những tài liệu về chủ nghĩa Mác - Lênin, Bác Hồ còn đề cập đến một loại tài liệu khác, đó là: “Những chỉ thị, nghị quyết, luật, lệnh của Đoàn thể và Chính phủ” [40, tr.50]. Về tài liệu mới, theo Hồ Chí Minh ngoài tài liệu có sẵn như trên, còn có những tài liệu thiết thực. Đó là những kinh nghiệm do những người đi học mang đến, kinh nghiệm thành công cũng như kinh nghiệm thất bại. Những kinh nghiệm đó đem trao đổi, gom góp lại tức là những bài học quý, không phải cứ chờ đồng chí cấp trên đến nói chuyện thì mới là bài, là học. Việc trao đổi gom góp kinh nghiệm này phải có tổ chức hẳn hoi chứ không phải mạnh ai nấy nói [40, tr.49]. Hồ Chí Minh chống việc dạy chay, học chay, dạy và học chỉ bằng một nguồn nguyên liệu duy nhất. Hồ Chí Minh cũng yêu cầu muốn học lý luận chính trị tốt thì người học phải có một trình độ văn hoá nhất định. Điều đó rất hợp lý, bởi chủ nghĩa Mác - Lênin (nội dung chủ yếu của giáo dục lý luận chính trị) là một môn khoa học, muốn nắm vững cần phải có trình độ và khả năng nhất định; hơn nữa, vì học lý luận là để vận dụng vào thực tiễn. Cho nên có “nắm vững vấn đề, thảo luận kỹ lưỡng, nhận thức thấu suốt” mới có thể “truyền đạt chu đáo cho toàn thể cán bộ và đảng viên” được [41, tr.488]. Trong công tác giáo dục lý luận chính trị, giảng viên không nên viết dài, nói dài, trừu tượng, mà phải nói và viết cho ngắn gọn, cô đọng, dễ hiểu, súc tích và sinh động thì người học mới tiếp thu được. Người dặn: “Viết dài mà rỗng, thì không tốt. Viết ngắn mà rỗng, cũng không hay. Chúng ta phải chống tất cả những thói rỗng tếch. Nhưng trước hết phải chống thói đã rỗng lại dài” [39, tr.300]. Trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, vẫn cần giành những ưu tiên về vật chất cho công tác tổ chức lớp học. Đặc biệt, Hồ Chí Minh ý thức rất rõ vai trò của nguồn lực tài chính cho giáo dục nói chung, giáo dục lý luận chính trị nói riêng. Theo Người “không nên bủn xỉn về các khoản chi tiêu trong việc huấn luyện” [39, tr.273]. Môi trường sống, học tập, công tác trong trường Chính trị - Trường Đảng cũng là một yếu tố quan trọng góp phần vào nâng cao chất lượng giáo dục. Trường Chính trị phải là mẫu mực trong việc giáo dục, rèn luyện người học viên cán bộ của Đảng về mọi mặt. Quan hệ giảng viên, cán bộ, công chức, nhân viên nhà trường với học viên vừa là thầy - trò, vừa là đồng chí. Tóm lại, Hồ Chí Minh vạch rõ: “Chúng ta làm cách mạng nhằm mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta” [42, tr.498]. Phải cố gắng học tập để cải tạo mình, cải tạo tư tưởng của mình và giúp vào việc cải tạo xã hội; phải nâng cao nhận thức chính trị để có lập trường vững vàng và xem xét đúng đắn các vấn đề quốc tế cũng như trong nước. “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân” [42, tr.215]. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Tất cả các đảng viên phải cố gắng học tập, coi việc học tập lý luận và chính trị là một nhiệm vụ quan trọng của mình [46, tr.95]. Chương 2 Nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và thực trạng công tác đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng 2.1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Sóc Trăng - Điều kiện tự nhiên Tỉnh Sóc Trăng sau 16 năm hợp nhất với tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Hậu Giang được tái lập và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 4 năm 1992. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 322.330 ha, bằng 8,05% diện tích đồng bằng sông Cửu Long và 0,96% diện tích của cả nước. Đặc biệt diện tích đất nông nghiệp bị phèn, mặn chiếm 65%. Sóc Trăng nằm trên trục đường quốc lộ 1A nối liền Bắc – Nam; có hệ thống kênh rạch chằng chịt, có thể tới mọi tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. đến với Vương quốc Campuchia, ra biển có thể giao lưu quốc tế. Tỉnh Sóc Trăng hiện có 08 huyện (Kế Sách, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Thạnh Trị, Long Phú, Vĩnh Châu, Ngã Năm, Cù Lao Dung) và thị xã Sóc Trăng với 105 xã, phường, thị trấn và 767 ấp, khóm, với tổng số cán bộ, công chức cấp xã, phường, thị trấn là 3.759 người. - Đặc điểm dân số, dân cư: Dân số chung của tỉnh tính đến cuối năm 2004 là 1.257.397 người, gồm 3 dân tộc chủ yếu Kinh, Khmer, Hoa; trong đó dân tộc Kinh chiếm 65,29%, dân tộc Khmer chiếm 28,85%, dân tộc Hoa chiếm 5,83%. Dân số thành thị chiếm 17,99% dân số, thấp hơn trung bình cả nước (21%). - Tình hình kinh tế - xã hội: Vốn là một tỉnh còn nhiều khó khăn, độc canh cây lúa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp kém phát triển, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội hầu như không đáng kể. Thu ngân sách không đủ chi cho hoạt động thường xuyên của tỉnh, chủ yếu của nguồn thu là từ thuế nông nghiệp. Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là đồng bào dân tộc Khmer, đồng bào vùng sâu, vùng căn cứ kháng chiến. Tỉ lệ hộ nghèo, đói của tỉnh năm 1992 chiếm đến 64,25%, trong đó hộ thiếu đói là 27,7%. Công tác giáo dục và đào tạo vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Trải qua quá trình định cư, sự giao thoa hoà quyện giữa 3 dân tộc Kinh - Khmer - Hoa đã tạo nên truyền thống văn hoá, lịch sử phong phú và góp nhiều công sức vào việc khai phá và bảo vệ vùng đất Sóc Trăng. Với truyền thống đoàn kết gắn bó trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống áp bức bóc lột và lao động sản xuất, cải tạo thiên nhiên; cho nên, suốt 76 năm theo Đảng làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng bào, sư sãi người Khmer cũng như người Hoa đã sát cánh cùng người Kinh đóng góp tích cực sức người, sức của cho kháng chiến và xây dựng quê hương Sóc Trăng. Trong cách mạng dân tộc dân chủ biết bao người Khmer, người Hoa đã anh dũng chiến đấu, có người bị tù đày, thương tật, hy sinh, nhiều người đã hiến dâng cả gia tài, sản nghiệp của mình cho cách mạng mà không hề suy tính. Nhiều ngôi chùa - biểu tượng tối cao của người Khmer đã trở thành trung tâm đấu tranh chính trị, nơi nuôi chứa cán bộ cách mạng, nơi nuôi chứa những thanh niên trốn đi quân dịch cầm súng cho giặc và là mục tiêu đàn áp, khủng bố, bắn phá của Mỹ, ngụy. - Công tác quốc phòng, an ninh: Công tác quốc phòng toàn dân, nền biên phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố và kết chặt việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế. Nhưng trước tình hình mới vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố có khả năng gây mất ổn định. * Chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị: Đảng bộ các cấp đã có nhiều cố gắng đổi mới và nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, tập trung vào giáo dục nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị, nâng cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của các cấp uỷ đảng. Đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Bộ máy chính quyền các cấp thường xuyên được củng cố, kiện toàn. Công tác cải cách hành chính đạt được kết quả bước đầu. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tập trung tuyên truyền, giáo dục, vận động, tập hợp đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, chấp hành pháp luật Nhà nước; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Dân chủ xã hội từng bước được mở rộng, đoàn kết toàn dân được củng cố, tăng cường. Trình độ cán bộ, công chức không đồng đều, không đạt yêu cầu theo tiêu chuẩn quy định.Trong 3.759 cán bộ công chức, mới chỉ có 1.010 cán bộ, công chức (chiếm 26,87%) đạt chuẩn theo quy định hiện hành của Đảng và nhà nước. Trong nhiệm kỳ đầu mới tái lập tỉnh (nhiệm kỳ 1992-1995), chỉ có 08% cấp ủy viên tỉnh và 4,14% cấp ủy viên huyện, thị là có trình độ đại học; trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn hạn chế hơn nhiều. Nhận thức được những mặt thuận lợi cũng như khó khăn, hạn chế như trên. Vì vậy, sau khi tái lập tỉnh, công tác cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của tỉnh nói chung và ở cơ sở nói riêng được Tỉnh uỷ, ủy ban nhân dân tỉnh quan tâm lãnh đạo và các ngành các cấp, xem đây là nhiệm vụ trung tâm; đặc biệt là tăng cường công tác đào tạo giáo dục lý luận chính trị theo chương trình trung cấp. 2.1.2. Thực trạng công tác đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở tỉnh Sóc Trăng từ năm 1992 đến năm 2005 Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và Uỷ ban nhân dân tỉnh, hơn mười năm qua, Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng đã phối hợp với các ngành, các cấp đẩy mạnh và đa dạng hoá các loại hình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng có sự chuyển biến mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tích to lớn. Song, bên cạnh đó cũng còn nhiều mặt tồn tại, khó khăn đặt ra cần được tháo gỡ. Thực trạng này được thể hiện trên những mặt chủ yếu sau đây: 2.1.2.1. Những thành tựu và những hạn chế trong công tác đào tạo trung cấp lý luận chính trị từ năm 1992 đến năm 2005 * Những thành tựu: + Thực hiện mục tiêu đào tạo: Theo Quyết định số 88-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 05/9/1994, Trường Chính trị tỉnh, thành phố có chức năng và nhiệm vụ chủ yếu như sau: - Đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân ở cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và các đơn vị tương đương); trưởng, phó phòng huyện, quận; trưởng, phó phòng của các ban, ngành cấp tỉnh và cán bộ dự nguồn các chức danh trên. - Bồi dưỡng ngắn hạn các đối tượng trên về lý luận chính trị, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. - Bồi dưỡng kiến thức và nghiệp vụ về công tác xây dựng đảng, về quản lý hành chính nhà nước và về công tác vận động quần chúng. - Tham gia nghiên cứu khoa học và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn ở địa phương. Thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Trường Chính trị theo quyết định của Trung ương Đảng thì việc đào tạo hệ trung cấp lý luận chính trị là nhiệm vụ trọng tâm số một. Cần khẳng định rằng hệ đào tạo trung cấp lý luận chính trị là hệ đào tạo dành cho đối tượng được xác định là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, các phòng ban chuyên môn như đã nêu trên. Do đó, mục tiêu giáo dục lý luận ở Trường Chính trị không phải chỉ là phổ cập lý luận Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước mà chính là qua đó làm cơ sở cho việc xây dựng, củng cố, nâng cao tư duy khoa học, tầm nhìn chiến lược và phương pháp biện chứng để xem xét và giải quyết các vấn đề trong lãnh đạo, quản lý. Đồng thời, mục tiêu đào tạo ở Trường Chính trị theo chương trình trung cấp lý luận còn nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, có ý thức tổ chức kỹ luật, vững nghiệp vụ và khả năng đảm nhận các công việc về quản lý nhà nước ở ngạch cán sự, chuyên viên. Đặc biệt, qua các lớp trung cấp lý luận chính trị, Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng đã trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản và có hệ thống về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; lý luậ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf170_2735.pdf
Tài liệu liên quan