Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

Tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay: —&œ– Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay MỤC LỤC Lời mở đầu 3 SƠ LƯỢC VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 5 Tính cấp thiết của đề tài 5 Mục tiêu, quan điểm về phòng chống tham nhũng 6 Mục tiêu 6 Quan điểm 6 Phạm vi nghiên cứu 6 Không gian nghiên cứu 6 Thời gian nghiên cứu 6 Lĩnh vực nghiên cứu 6 Chương I: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA 7 Thực trạng của tham nhũng ở Việt Nam 7 Đặc điểm của tham nhũng ở Việt Nam 8 Nguyên nhân của tham nhũng ở Việt Nam 15 Chương II: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG THAM NHŨNG VÀ VẬN DỤNG VÀO CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 18 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng 18 1.1 Đấu tranh, tố cáo nạn tham nhũng trong các chế độ thực dân, đế quốc, thuộc địa và chế độ tay sai bán nước để thức tỉnh quần chúng nhân dân, tiến hành vận động cách mạng 18 1.2. Đấu tranh chống tham nhũng trong lòng chế độ mới 20 Vận ...

docx45 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
—&œ– Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay MỤC LỤC Lời mở đầu 3 SƠ LƯỢC VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 5 Tính cấp thiết của đề tài 5 Mục tiêu, quan điểm về phòng chống tham nhũng 6 Mục tiêu 6 Quan điểm 6 Phạm vi nghiên cứu 6 Không gian nghiên cứu 6 Thời gian nghiên cứu 6 Lĩnh vực nghiên cứu 6 Chương I: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA 7 Thực trạng của tham nhũng ở Việt Nam 7 Đặc điểm của tham nhũng ở Việt Nam 8 Nguyên nhân của tham nhũng ở Việt Nam 15 Chương II: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG THAM NHŨNG VÀ VẬN DỤNG VÀO CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 18 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng 18 1.1 Đấu tranh, tố cáo nạn tham nhũng trong các chế độ thực dân, đế quốc, thuộc địa và chế độ tay sai bán nước để thức tỉnh quần chúng nhân dân, tiến hành vận động cách mạng 18 1.2. Đấu tranh chống tham nhũng trong lòng chế độ mới 20 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay 24 2.1. Xác định bản chất tham nhũng và chủ trương biện pháp phòng, chống tham nhũng 24 2.2. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong những năm qua và định hướng của Đảng ta 26 Các giải pháp phòng chống tham nhũng hiện nay của Đảng ta 31 Đối với các cơ quan Đảng 32 Đối với cơ quan Nhà nước 34 Đối với các tổ chức xã hội, cơ quan báo chí và nhân dân 37 KẾT LUẬN 40 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 41 --------œ&-------- LỜI MỞ ĐẦU Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của”. Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị thế xã hội của viên chức Nhà nước để làm trái pháp luật hoặc lợi dụng các sơ hở của pháp luật nhằm kiếm lợi cho bản thân, gây hại cho xã hội, cho công dân. Pháp lệnh chống tham nhũng ngày 26/02/1998 cũng ghi rõ trong điều 1: “Tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Tham nhũng là vật cản lớn nhất của tiến trình phát triển xã hội, là nguy cơ trực tiếp liên quan đến sự sống còn của các Nhà nước”. Mặc dù được thể hiện theo những cách khác nhau, song tham nhũng được hiểu khá thống nhất trong văn hoá pháp lý ở các nước trên thế giới, đó là việc lợi dụng vị trí, quyền hạn thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm trục lợi cá nhân, hay nói một cách khác, tham nhũng là việc sử dụng hoặc chiếm đoạt bất hợp pháp công quyền hay nguồn lực tập thể. Tham nhũng là một mối đe dọa đối với sự phát triển, dân chủ và ổn định. Tham nhũng gây nên cái nhìn sai lệch về thị trường, kìm hãm tăng trưởng kinh tế và gây e ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tham nhũng làm giảm chất lượng các dịch vụ công và gây xói mòn niềm tin của người dân vào các quan chức, cán bộ Nhà nước. Tham nhũng cũng góp phần gây nên các thiệt hại về môi trường và đe dọa sức khỏe cộng đồng qua việc tạo điều kiện cho các hành vi đổ trái phép vật liệu phế thải độc hại, sản xuất và phân phối dược phẩm giả. Tác hại của tham nhũng đã không dừng lại ở phương diện thiệt hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu đô-la của Nhà nước mà còn là một nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế – chính trị, gây mất đoàn kết nội bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng và Nhà nước trước nhân dân. Ở nước ta, từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa là con đường hoàn toàn mới mẻ. Những năm qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách cởi mở, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển. Tuy nhiên hệ thống pháp luật vẫn thiếu đồng bộ, một số văn bản pháp quy vừa mới ban hành đã sớm lạc hậu so với thực tiễn, tạo nhiều sơ hở, dễ bị lợi dụng. Mặt khác, bước vào cơ chế mới, tâm lý nôn nóng làm giàu có mặt tích cực là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, nhưng cũng có mặt tiêu cực là làm cho một số người bị tha hoá, đánh mất chính mình trong chủ nghĩa vị kỷ, hưởng lạc, trong khát vọng làm giàu bằng mọi giá, bất chấp pháp luật, đạo lý. Bộ máy Nhà nước của chúng ta trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau chưa đủ thời gian và kinh nghiệm để cải cách kịp thời, do đó khi bước vào thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trên một số mặt đã bộc lộ không ít khuyết điểm. Tình hình đó cùng với hệ thống thủ tục hành chính rườm rà, bộ máy cồng kềnh, tạo môi trường dung dưỡng cho tệ quan liêu tham nhũng. Hệ thống cơ quan tư pháp, hành pháp, thanh tra, kiểm tra chất lượng và hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa về kinh tế cùng quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, tham nhũng và chống tham nhũng đã trở thành vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Theo tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International – TI), chỉ số minh bạch của Chính phủ Việt Nam thấp và có chiều hướng đi xuống từ 2,8 (năm 1997) xuống còn 2,6 (năm 2005). Đảng và Nhà nước ta xác định, tham nhũng là “quốc nạn”, là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ và coi chống tham nhũng là nhiệm vụ thường xuyên của tổ chức Đảng và cả hệ thống chính trị, từ đó yêu cầu chúng ta phải tích cực và chủ động chống tham nhũng có hiệu quả. Đảng, Nhà nước và Quốc hội đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về việc này (Chỉ thị 15 của Bộ Chính trị; Nghị quyết 114 TTg của TT Chính phủ; Kế hoạch 493/Nc của Chính phủ;... ). Như vậy, Đảng, Nhà nước và nhân dân đều đồng tình kiên quyết chống tham nhũng, nhưng tệ tham nhũng vẫn chưa được đẩy lùi. Do vậy, việc phân tích Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng sẽ giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của hiện tượng phức tạp này, trên cơ sở đó đề ra những biện pháp phòng, chống tham nhũng có hiệu quả trong tình hình hiện nay. Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”. SƠ LƯỢC VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bước vào thế kỷ thứ 21, tất cả thế giới đang vận hành theo xu hướng mới: hoà bình, đối thoại, hội nhập và cùng phát triển. Các ranh giới ngăn cách về kinh tế, chính trị, tôn giáo, sắc tộc đang dần được xoá bỏ. Việt Nam cũng ở trong xu hướng chung đó. Là một nước đang phát triển, Việt Nam gặp phải nhiều vấn đề thách thức trong quá trình hội nhập, nhất là về kinh tế, khoa học – kỹ thuật và công nghệ. Bằng việc phát huy cao độ nguồn nội lực trong nước và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ từ nước ngoài, Việt Nam đang cố gắng tiến những bước lớn trên con đường phát triển kinh tế. Nhưng có một thách thức lớn đang cản trở con đường ấy, đó là tệ nạn tham nhũng đang ngày càng gia tăng về mức độ phổ biến, quy mô và thủ đoạn. Có thể nói, tham nhũng là vấn đề toàn cầu. Các quốc gia công nghiệp hoá tất nhiên không hề miễn dịch trước tham nhũng và tất cả đều có trách nhiệm tham gia vào việc tìm ra giải pháp. Tuy nhiên, tham nhũng dường như xâm hại với tỷ lệ cao hơn ở các nước đang phát triển và có nền kinh tế đang chuyển đổi. Tham nhũng ngăn cản nhiều nước vượt qua những thách thức nghiêm trọng nhất của phát triển, cản trở đầu tư trong nước và nước ngoài, làm xói mòn niềm tin trong các tổ chức công cộng, niềm tin của nhân dân đối với Chính phủ, và làm tồi tệ thêm vấn đề ngân sách bằng cách lấy đi tài sản của Chính phủ thông qua các khoản thuế quan và thuế thu nhập đáng kể. Mặc dù tham nhũng là một vấn đề đã được đặt ra từ lâu, nhưng việc nghiên cứu và tìm ra các biện pháp phòng chống tham nhũng luôn là một vấn đề bức xúc đối với mọi quốc gia trên thế giới nói chung và đối với sự phát triển của nước Việt Nam nói riêng. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tích cực và chủ động chống tham nhũng có hiệu quả. Đó là một nhiệm vụ cấp thiết đang đặt ra cho các nhà luật học nói chung và người nghiêm cứu khoa học luật hình sự nói riêng. Trong chuyên đề nghiên cứu này, chúng ta đi sâu vào việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. 2. Mục tiêu, quan điểm về phòng chống tham nhũng 2.1. Mục tiêu: Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính. 2.2. Quan điểm: - Đảng lãnh đạo chặt chẽ công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức hành chính, kinh tế, hình sự. - Phòng, chống tham nhũng, lãng phí phải phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, củng cố hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. - Vừa tích cực, chủ động phòng ngừa vừa kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, trong đó phòng ngừa là chính. Gắn phòng, chống tham nhũng lãng phí với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy dân chủ, thực hành tiết kiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, chống quan liêu. - Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực và có trọng tâm, trọng điểm. - Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chú trọng tổng kết thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài. 3. Phạm vi nghiên cứu 3.1. Không gian nghiên cứu: Việt Nam. 3.2. Thời gian nghiên cứu: Hiện nay. 3.3. Lĩnh vực nghiên cứu: Tham nhũng ở Việt Nam. CHƯƠNG I THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA 1. Thực trạng của tham nhũng ở Việt Nam Qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt. Những kết quả đạt được từ việc đổi mới hệ thống chính trị, cơ chế quản lý kinh tế, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật và hội nhập quốc tế tạo ra tiền đề quan trọng cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đạt được, công cuộc đổi mới đất nước đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó có tệ tham nhũng. Tham nhũng thực ra không phải chuyện mới lạ ở Việt Nam, trong thời chiến chúng ta cũng đã từng có, từng xử nhiều vụ tham nhũng lớn. Tuy nhiên, kể từ thời kỳ đổi mới, nền kinh tế xã hội nước ta có những bước phát triển mạnh mẽ thì cũng đồng thời với một sự đánh đổi là tham nhũng xảy ra nhiều hơn với mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn. Tham nhũng có ở mọi nơi, mọi lúc, nó len lõi đến mọi ngõ ngách, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân; làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nước, cản trở công cuộc phát triển đất nước của chúng ta. Ở nhà thấy tham nhũng (tin tức trên báo chí, ti-vi), ra đường gặp tham nhũng, vào bệnh viện, đến trường học, đến cơ quan công quyền... đâu đâu cũng có thể chứng kiến tham nhũng. Đó là những vụ nhỏ lẻ, còn có những vụ rút ruột công trình xây dựng (được cho là thất thoát trung bình từ 30 – 40%), mua sắm trang thiết bị, những vụ tham nhũng theo “mô hình tập đoàn"… mà các vụ được phát hiện càng về sau cứ “lớn nhất từ trước đến nay”. Tham nhũng xuất hiện trong mọi khâu, mọi lĩnh vực, ở mọi ngành, mọi cấp. Từ các cơ quan quản lý, các đơn vị hành chính sự nghiệp tới các doanh nghiệp nhà nước, hiệp hội, tổ chức... Tham nhũng không loại trừ các cơ quan bảo vệ pháp luật (tòa án, viện kiểm sát, quân đội, cảnh sát...) và thậm chí ngay cả ở cơ quan chống tham nhũng. Đến nay chúng ta chưa có những nghiên cứu toàn diện và bài bản để đánh giá, đo lường mức độ tham nhũng. Tuy nhiên, trên thế giới đã có một tổ chức làm việc đó, đó là Transparency International (TI – Tổ chức Minh bạch Quốc tế). Hàng năm, tổ chức này tiến hành các công trình khảo sát nghiên cứu ở các quốc gia (do các viện nghiên cứu độc lập triển khai), tổng hợp kết quả, tính toán chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) và đưa ra bảng xếp hạng minh bạch các quốc gia. Mức độ tham nhũng càng cao nếu chỉ số CPI càng thấp. Năm 2008, tổ chức TI tiến hành khảo sát 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, kết quả xếp hạng: Việt Nam đứng thứ 121, cải thiện được hai bậc so với năm 2007 với chỉ số CPI là 2,7 điểm. Xét trong khu vực Đông Á, Việt Nam đứng thứ 9; còn Singapore với chỉ số CPI là 9,2 điểm, đứng đầu khu vực về độ trong sạch (đứng thứ 4 trong số 180 quốc gia và vùng lãnh thổ), theo sau là Hồng Kông và Nhật. Đáng buồn là Việt Nam luôn đứng ở nhóm cuối trong bảng xếp hạng này và không những thế còn có xu hướng “rớt hạng”. Nhận thức sâu sắc về tác hại của tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật về vấn đề này, bên cạnh đó đã tham gia tích cực các diễn đàn quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Sau khi Luật phòng, chống tham nhũng có hiệu lực (01/06/2006) đã tác động đến nhận thức và hành động của các cấp các ngành trong việc đấu tranh chống tham nhũng và tạo ra bước chuyển biến khá tích cực. Tuy nhiên tình trạng tham nhũng vẫn diễn biến khá phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo. Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ. 2. Đặc điểm của tham nhũng ở Việt Nam Ở Việt Nam, các nhà khoa học pháp lý nhìn nhận tham nhũng trên các bình diện: chính trị, kinh tế, pháp lý, đạo đức, truyền thống… và đặc biệt là bằng công cụ của tội phạm học để ghi nhận tính chất, đặc điểm và mức độ của tham nhũng. Thứ nhất, chủ thể của tham nhũng phải là những người có chức vụ quyền hạn làm việc trong bộ máy Nhà nước ở các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp từ Trung ương đến địa phương, cán bộ Đảng và các đoàn thể. Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn, lợi dụng địa vị công tác được giao để không làm hoặc làm trái với công vụ mà mình phải thực hiện và thực hiện đúng qui định của pháp luật, gây thiệt hại chung cho lợi ích của Nhà nước, xã hội và công dân. Thứ ba, người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi với động cơ vụ lợi cho bản thân, cho người khác hoặc một nhóm người mà mình quan tâm. Về bản chất, tham nhũng là một hiện tượng xã hội phản ánh các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, truyền thống, tập quán của một dân tộc, một quốc gia; tham nhũng bao gồm những hành vi nguy hiểm ở mức độ cao cho xã hội, nhà nước và nhân dân. Hậu quả do tham nhũng gây ra cực kỳ lớn cho xã hội, hậu quả này không chỉ phải là những thiệt hại về vật chất với nhiều tỷ đồng, mà điều quan trọng hơn, nó làm tha hoá một bộ phận của cán bộ, công chức của bộ máy Nhà nước, trong tổ chức Đảng và các đoàn thể xã hội, làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào bộ máy Nhà nước, gây nên sự bất bình, oán thán trong nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội, làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe doạ sự tồn vong của quốc gia dân tộc. Tham nhũng là tệ nạn mang tính chất toàn cầu, tuy nhiên không phải ở bất kỳ nơi nào trên thế giới biểu hiện, tính chất, phạm vi của tham nhũng cũng giống nhau mà ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau do đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau. Qua nghiên cứu, có thể thấy được tham nhũng ở Việt Nam có những đặc điểm sau: Thứ nhất, về tính chất của tham nhũng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chưa ở mức đặc biệt nghiêm trọng so với khu vực và thế giới. Khi nói đến tính chất của hành vi vi phạm hoặc hành vi phạm tội, người ta thường xác định ở mức độ gây ra thiệt hại của hành vi (thiệt hại về vật chất và phi vật chất) và quan hệ xã hội được bảo vệ bị hành vi đó xâm hại. Xét cả trên hai bình diện này thì tham nhũng ở Việt Nam chưa đến mức trầm trọng như tham nhũng ở một số nước trên thế giới bởi những lý do sau: - Theo thống kê và báo cáo của các cơ quan có trách nhiệm đấu tranh chống tham nhũng thì những thiệt hại về vật chất do tham nhũng gây ra ít hơn rất nhiều so với những thiệt hại do các loại vi phạm khác gây ra, hàng năm thiệt hại do tham nhũng gây ra khoảng vài trăm tỷ đồng trong khi đó thiệt hại do những vi phạm và tội phạm khác gây ra là hàng trăm nghìn tỷ đồng. Mặt khác, theo báo cáo của cơ quan công an thì các tội tham nhũng trong những năm qua có xu hướng giảm, chẳng hạn: Năm 1997 cơ quan điều tra các cấp đã phát hiện, khởi tố 3856 vụ án kinh tế (tăng 5,6% so với năm 1996), trong đó các tội về tham nhũng tăng đáng kể: tham ô 594 vụ (tăng 14%), lừa đảo chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ nghĩa (có liên quan đến cán bộ trong các cơ quan Nhà nước) 273 vụ (tăng 37,1%); lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ nghĩa 350 vụ (tăng 3,2%). Năm 1998, khởi tố 3546 vụ án kinh tế (giảm 8,1% so với năm 1997), trong đó tham ô 534 vụ, lừa đảo 217 vụ, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ nghĩa 284 vụ. Năm 1999, khởi tố 3016 vụ án kinh tế (giảm 15,% so với năm 1998), trong đó: tham ô 465 vụ; lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ Nghĩa 169 vụ... - Chưa có tham nhũng chính trị ở Việt Nam với những biểu hiện như đầu cơ chính trị, buôn bán chức quyền trong bộ máy cơ quan Nhà nước... vì thế tham nhũng chưa xâm hại đến sự tồn tại của chế độ, đến nền độc lập và chủ quyền quốc gia của dân tộc. Đồng thời tham nhũng ở Việt Nam chưa có nguy cơ gây khủng hoảng nền kinh tế, chính trị và xã hội. - Lâu nay ở Việt Nam, khi đánh giá tham nhũng thường theo quan điểm của cơ quan điều tra, thường lấy số lượng các vụ án kinh tế để chứng minh nạn tham nhũng. Do vậy, những con số về thiệt hại do tham nhũng của các cơ quan có trách nhiệm chưa đúng với bản chất của tham nhũng nên cách nhìn nhận và đánh giá đó chưa chuẩn xác vì: các bị can, bị cáo về kinh tế, không phải tất cả họ đều bị xét xử về tội tham nhũng mà phần nhiều họ bị chịu trách nhiệm về hành vi thiếu trách nhiệm hoặc cố ý làm trái… tội phạm không có động cơ vụ lợi hoặc không do lợi dụng chức vụ quyền hạn để vụ lợi. Các cán bộ bị kỷ luật hành chính liên quan đến các vụ án cũng là do phải chịu trách nhiệm về hành vi quản lý (chủ quan, buông lỏng quản lý, năng lực quản lý yếu kém mà thực chất là quan liêu) chứ không phải do hành vi tham nhũng. Chẳng hạn: Những vụ án gần đây như Tân Trường Sanh, Minh Phụng – EPCO… trừ một số cán bộ cấp phòng, sở, cục của hai ngành Hải quan và Ngân hàng bị truy tố về các tội tham nhũng còn đa phần các cán bộ khác, kể cả những cán bộ chủ chốt của hai ngành đó chỉ bị xử lý về trách nhiệm quản lý, dễ dãi trong quan hệ, chứ không phải tham nhũng. Hoặc trong vụ án được coi lớn nhất trong lịch sử tư pháp Việt Nam được xét xử tại Thành phố Hồ Chí Minh – Vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn có liên quan đến rất nhiều quan chức trong ngành tư pháp từ Trung ương đến địa phương, nhưng tài sản có được do tham nhũng không nhiều (vài chục ngàn đô-la và những bữa tiệc tại các nhà hàng sang trọng cho mỗi quan chức) và có nhiều quan chức chỉ bị truy cứu trách nhiệm về hành vi thiếu trách nhiệm trong quản lý mà không bị truy cứu trách nhiệm về các hành vi tham nhũng mà điển hình là bị cáo Bùi Quốc Huy, nguyên Giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên thứ trưởng Bộ Công an, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng... Cũng cần phải nói thêm là, số tài sản bị thất thoát trong các vụ án kinh tế không phải đều là tài sản bị tham nhũng mà phần nhiều là do làm ăn thua lỗ hoặc là hậu quả của phương thức làm ăn sai lầm của các doanh nghiệp. Từ sự phân tích trên có thể nhận định về tính chất tham nhũng ở Việt Nam chưa đến mức trầm trọng như lâu nay chúng ta vẫn nghĩ. Nhận thức đúng thực trạng tham nhũng tránh được cho chúng ta hai khuynh hướng tiêu cực: hoặc quá bi quan về nạn tham nhũng hoặc quá lạc quan về sự trong sạch của đội ngũ cán bộ trong các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội. Vì vậy, vấn đề nhận thức đúng bản chất của thực trạng tham nhũng có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc hoạch định các chính sách và biện pháp đấu tranh phòng ngừa tham nhũng trong tình hình hiện nay, đặc biệt trong việc tuyên truyền đến nhân dân về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thứ hai, tham nhũng ở nước ta chưa có các tổ chức theo kiểu Maphia Theo cách hiểu thông thường của các quốc gia và tổ chức quốc tế về đấu tranh chống tội phạm thì Maphia là những băng nhóm phạm tội có tổ chức chặt chẽ, có sự phân công phối hợp khi hành động phạm tội, đồng thời việc thực hiện tội phạm mang tính chất chuyên nghiệp (Luật hình sự gọi với các tên: Tổ chức phạm tội, tập đoàn phạm tội, băng nhóm phạm tội...) và có sự tham gia cấu kết của các quan chức chính phủ. Diễn giải theo công thức thì Maphia = Tội phạm có tổ chức + Sự cấu kết của quan chức chính phủ. Ở những nước khác, tham nhũng không còn chỉ là những hiện tượng đơn lẻ của cá nhân các quan chức mà đã thành một đường dây với sự tham gia của hệ thống quan chức các cấp, các ngành cùng với sự chỉ đạo, bày mưu, tính kế của các quan chức cấp cao trong bộ máy Nhà nước, kể cả những người đứng đầu chính phủ, đứng đầu Nhà nước. Vì thế, các hoạt động tội phạm được thực hiện thống nhất, trắng trợn chiếm đoạt tài sản công, bòn rút tiền viện trợ, giao cho con cháu, họ hàng thân thích quản lý những tập đoàn kinh tế lớn với các ưu đãi đặc biệt trong hoạt động kinh tế. Điều tồi tệ hơn là những hành vi tham nhũng đó của các quan chức được sự hỗ trợ của các băng nhóm xã hội đen để gây áp lực với đối thủ, giết người để bịt đầu mối hoặc thực hiện những tội ác man rợ khác... Chúng ta đã biết nhiều đến Maphia Italia với mẫu hình này và hiện đang nổi lên Maphia của Nga trong thời Boris Ensin và hiện nay... Trên cơ sở quan niệm này, đối chiếu với thực trạng của tình hình tham nhũng ở Việt Nam thời gian qua thì ở nước ta chưa có tham nhũng theo kiểu Maphia vì: Những năm qua chúng ta chưa xử lý (hoặc chưa phát hiện được) những cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước về hành vi tham nhũng, nhất là những cán bộ giữ các vị trí chủ chốt trong các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ mà chúng ta mới chỉ phát hiện và xử lý một số cán bộ trong các ngành Hải quan, Ngân hàng, Công an, Viện Kiểm sát... nhưng họ chỉ là những cán bộ sơ, trung cấp. Chúng ta cũng kỷ luật vài Đảng viên và chính quyền một số cán bộ cao cấp nhưng phần lớn những người đó không phải bị chịu trách nhiệm về tham nhũng mà họ chỉ phải chịu trách nhiệm về công tác quản lý mà họ không hoàn thành hoặc chủ quan, lơi lỏng mất cảnh giác trong khi thực thi nhiệm vụ. Điều quan trọng hơn để khẳng định ở nước ta chưa có tham nhũng theo kiểu Maphia là những cán bộ bị xử lý về tham nhũng đều không phải là những người chủ động, bày mưu tính kế, đều không phải là những người tổ chức, chỉ huy, cầm đầu trong các vụ án mà chỉ là những kẻ tha hoá, biến chất, đồng lõa, bị những kẻ phạm tội từng bước lôi kéo vào làm vai trò giúp sức cho chúng. Vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn mặc dù là vụ án lớn, có nhiều quan chức tham gia nhưng tất cả họ đều chỉ là những người bị Trương Văn Cam lôi kéo, lợi dụng, từ Dương Minh Ngọc, Nguyễn Mạnh Trung đến Trần Mai Hạnh, Phạm Sỹ Chiến, Bùi Quốc Huy... không một ai trong số họ là người chủ động tham gia băng nhóm tội phạm này. Như vậy, nhìn nhận một cách khách quan thì ngoài một số cán bộ sơ, trung cấp, còn lại thì tuyệt đại bộ phận cán bộ và đặc biệt là cán bộ cao cấp trong Bộ máy Đảng và Nhà nước ta là những người có đạo đức phẩm chất tốt, nhiệt tình, tâm huyết với sự nghiệp cách mạng, không cầm đầu hoặc tham gia các đường dây tham nhũng, không chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, không đồng lõa tiếp tay cho cho bọn tội phạm, không vòi vĩnh nhận hối lộ khi thi hành công vụ. Ở những người này, họ luôn rèn luyện cho mình đạo đức cách mạng, năng lực chuyên môn để phục vụ tốt cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, họ tự biết có những thu nhập ngoài lương (nếu có) thì như thế nào cho trong sạch, thanh thản, biết tự kiềm chế mình trước cám dỗ vật chất, tỉnh táo và giữ được lương tâm của mình trước những diễn biến phức tạp của đời sống kinh tế thị trường. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể quá lạc quan mà mất cảnh giác, lơ là việc chăm lo giáo dục phẩm chất và tư cách đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta. Những phẩm chất tốt đẹp này là “tài sản” quý giá của sự nghiệp cách mạng, của Đảng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, chúng ta phải luôn có biện pháp thích hợp giáo dục bồi dưỡng tư cách đạo đức, phẩm chất cách mạng cho cán bộ, có những biện pháp quản lý có hiệu quả không để cán bộ sa ngã, tham nhũng, đi theo tiếng gọi của đồng tiền, đồng lõa với những kẻ phạm tội. Mặt khác, việc chưa phát hiện được cán bộ câu kết, chủ động tham gia chỉ huy, điều hành các đường dây phạm tội không đồng nghĩa với việc cán bộ không có những biểu hiện đó. Do đặc điểm nhân thân của các hành vi tham nhũng nên việc phát hiện nó vô cùng khó khăn. Việc đó càng khó khăn khi có các quan chức cấp cao tham gia nên phần tội phạm ẩn của tham nhũng rất lớn. Trong khi đó cơ chế, tổ chức, phương tiện, kinh nghiệm điều tra phát hiện loại tội phạm này còn nhiều hạn chế, vì vậy chúng ta không nên quá lạc quan mà nên có thái độ khách quan đón nhận sự việc một cách bình tĩnh. Thứ ba, tham nhũng ở nước ta mang tính phổ biến, nhỏ nhặt xảy ra ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Do những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, đạo đức truyền thống mà nạn tham nhũng ở nước ta trong thời kỳ hiện nay không to, không mang tính chất đặc biệt nghiệm trọng như các quốc gia khác (như đã nói ở phần đặc điểm thứ nhất), mà nhỏ nhặt (vụ lớn cũng chỉ vài trăm ngàn đôla), thậm chí nó còn nhỏ nhặt tới mức tiền hoặc tài sản của đương sự hối lộ cho các quan chức chỉ trên mức quà biếu thông thường một chút mà xã hội có thể chấp nhận được, nhưng nó lại mang tính phổ biến. Và điều nguy hại nhất của tệ nạn tham nhũng ở nước ta lại nằm ở chính đặc điểm này, nó cũng chính là nguyên nhân của việc đấu tranh chống tham nhũng của các cơ quan chức năng kém hiệu quả, làm cho thói quen nhận hối lộ của quan chức và việc đưa hối lộ của người dân khi có việc trở thành bình thường trong đời sống hằng ngày, thậm chí còn coi là văn hoá ứng xử khi đến làm việc tại cơ quan công quyền và chính việc nhận và đưa hối lộ trở thành bình thường đã dẫn đến việc tham nhũng ở nước ta mang tính phổ biến. Vì vậy, không có giải pháp tích cực nó sẽ phát triển trở thành một qui luật trong hoạt động công quyền thì hậu quả sẽ khó lường cho sự phát triển của đất nước, của dân tộc. Tính phổ biến của tham nhũng Việt Nam được biểu hiện trên các mặt sau: - Tham nhũng bao trùm tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, ở mọi cấp mọi ngành, ở đâu người ta cũng thấy có tham nhũng và không có tiền lót tay sẽ không giải quyết được công việc, ngay cả khi đã đầy đủ các điều kiện và thủ tục pháp luật qui định. Nạn quà cáp biếu xén khi đến cửa quan đã trở thành “tập quán”, phong tục trong xã hội ta. Chúng ta có thể gặp hiện tượng này ở bất kỳ đâu nơi có hoạt động công quyền, chẳng hạn như đến Ủy ban Nhân dân xã, phường làm giấy khai sinh cho con, chứng nhận giấy tờ... cũng phải có quà cho cán bộ, vào cơ quan cũng phải xu nịnh bảo vệ... Đặc điểm này đã gây nhức nhối, làm băng hoại đạo đức của cán bộ công quyền, đe doạ sự tồn tại của Nhà nước, sự bền vững của chế độ và sự lãnh đạo của Đảng. - Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cơ quan hành pháp mà còn xảy ra nhiều ở cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án, thi hành án). Sự tham nhũng ở các cơ quan này đã làm cho vi phạm và tội phạm không bị phát hiện hoặc không được xử lý, bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội với những hậu quả vô cùng nặng nề. Sau khi có Nghị Quyết 08 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, trong báo cáo của ngành Toà án năm 2002 đã công khai những trường hợp làm oan người vô tội (những người các cấp xét xử của toà án tuyên không phạm tội), tổng số 58 trong đó: Sơ thẩm cấp huyện 27 người; sơ thẩm cấp tỉnh 28 người; phúc thẩm cấp tỉnh 4 người, phúc thẩm tối cao 12 người; giám đốc thẩm cấp tỉnh 3 người; giám đốc thẩm cấp tối cao 4 người. Đó là chưa kể các quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì lý do không có tội của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát. - Tham nhũng xảy ra trong một bộ phận cán bộ quân đội, nhất là số làm kinh tế, phụ trách tài chính - hậu cần có trách nhiệm cấp phát trang, thiết bị cho Quân đội. Đây là lĩnh vực tương đối khép kín, các cơ quan chuyên trách kiểm tra, thanh tra của Nhà nước không vào được do đặc điểm bí mật quân sự. - Ở nước ta khi chuyển sang cơ chế thị trường có một dạng tham nhũng đặc thù là một số kẻ lợi dụng các quan hệ với các quan chức để mưu lợi riêng, như chạy thầu, chạy vốn, chạy dự án cho nhà đầu tư, cho doanh nghiệp, chạy chức quyền cho người cơ hội, dùng tiền để phân hoá, gây mất đoàn kết nội bộ cơ quan. - Tham nhũng trong một bộ phận làm báo chí (phóng viên, biên tập viên, người có trách nhiệm của các báo và quản lý hoạt động báo chí). Do tư lợi mà những người này dùng báo chí để dọa dẫm, vòi vĩnh doanh nghiệp và quan chức, dùng báo chí để phục vụ mưu đồ của người này, người kia, muốn hại ai thì dùng tiền để đưa lên báo chí gây rối xã hội. - Tham nhũng đã xuất hiện trong đông đảo cán bộ cấp cơ sở, những “quan lại” mới ở nông thôn bớt xén tiền do dân đóng góp, tiền từ đầu tư của Nhà nước, tiền thuế, tiền viện trợ nhân đạo của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. 3. Nguyên nhân của tham nhũng ở Việt Nam Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân thuộc về khách quan, có nguyên nhân chủ quan. Có thể khái quát bao gồm những nguyên nhân sau: Thứ nhất, hệ thống chính sách, pháp luật chưa đồng bộ: Đây là nguyên nhân đầu tiên, quan trọng, có tính quyết định. Sự nghiệp đổi mới mà trọng tâm là đổi mới quản lý kinh tế với việc xác định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa đã đặt ra yêu cầu hết sức quan trọng là phải xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách pháp luật đầy đủ và từng bước hoàn thiện. Trong khi đó, mặc dù chúng ta có nhiều cố gắng nhưng việc xây dựng thể chế pháp luật vẫn không theo kịp, mặt khác chưa phản ánh và điều chỉnh kịp thời những vấn đề đang đặt ra trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường có định hướng. Cơ chế chính sách pháp luật trong thời kỳ đổi mới chưa được hoàn thiện, thiếu cụ thể, còn có sơ hở và thiếu nhất quán. Việc phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, việc phân biệt giữa quản lý Nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh còn chưa được tách bạch, rõ ràng. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước còn diễn ra chậm và thiếu sự kiểm soát chặt chẽ. Cơ chế quản lý tài sản công, quản lý vốn và tài sản trong doanh nghiệp Nhà nước chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng “vô chủ”, thiếu trách nhiệm... Những nhược điểm đó làm nảy sinh tệ quan liêu, tham nhũng và thiếu kỷ cương, tạo điều kiện cho tệ hối lộ, lạm dụng công quỹ, nhũng nhiễu cấp dưới và nhân dân. Thứ hai, việc kiện toàn các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị chưa theo kịp sự phát triển của đời sống kinh tế – xã hội: Đây là một nguyên nhân rất quan trọng của những yếu kém và bất cập trong quá trình đổi mới đất nước, trong đó có tệ nạn tham nhũng. Một quốc gia quản lý tốt phải có bộ máy Nhà nước tốt. Ở nước ta, sự quản lý, lãnh đạo điều hành đất nước là sự thống nhất và phối hợp giữa vai trò lãnh đạo của Đảng, trách nhiệm quản lý của Nhà nước và sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể quần chúng. Các yếu tố trong hệ thống chính trị phải thực hiện đúng vai trò của mình thì mới phát huy được tác dụng. Hiện nay, sự lẫn lộn giữa các yếu tố trong hệ thống chính trị vẫn chưa được khắc phục, làm giảm hiệu quả lãnh đạo quản lý điều hành xã hội, gây ra nhiều tệ nạn trong đó có tham nhũng. Thứ ba, một bộ phận cán bộ, công chức thiếu tính chuyên nghiệp, ý thức tu dưỡng, rèn luyện kém về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống còn thấp: Trước tác động của mặt trái của cơ chế thị trường, nhiều cán bộ, công chức do không tự giác rèn luyện, tu dưỡng đã chạy theo các lợi ích riêng trước mắt dẫn đến vi phạm pháp luật, nảy sinh tham nhũng. Giá trị đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính” nhiều lúc bị chủ nghĩa thực dụng, cá nhân lấn át. Công tác quản lý, giáo dục, kiểm tra cán bộ, công chức bị buông lỏng, yếu kém, không theo kịp với tình hình. Việc sử dụng, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ chưa được thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, trau dồi phẩm chất chính trị. Nhiều tổ chức Đảng, thủ trưởng cơ quan quản lý cán bộ, Đảng viên còn lỏng lẻo, chế độ sinh hoạt, kiểm điểm công tác bị bỏ bê hoặc mang tính hình thức, sức chiến đấu của các chi bộ, Đảng bộ bị hạn chế, công tác phê bình và tự phê bình kém. Một số cán bộ chủ chốt các cấp chưa tự giác tự phê bình và phê bình, chưa làm gương cho cán bộ, Đảng viên trong đấu tranh chống tham nhũng. Còn tình trạng e dè, nể nang hoặc vì lợi ích cục bộ mà không dám đấu tranh với các vi phạm của cán bộ, Đảng viên trong chi bộ, tổ chức của mình. Việc xử lý cán bộ vi phạm còn chậm trễ, thiếu nghiêm khắc, nương nhẹ, thậm chí còn bao che lẫn nhau, vẫn còn có những vụ việc có biểu hiện “trên nhẹ, dưới nặng”, không xử lý hoặc xử lý không nghiêm về trách nhiệm đối với người đứng đầu nơi để xảy ra những vụ tiêu cực, tham nhũng lớn. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá X) nhận định “Công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục cán bộ, Đảng viên, công chức nói riêng còn yếu kém. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên, công chức suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống. Không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp, còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu trong cuộc sống đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm”. Thứ tư, việc tổ chức thực hiện các chủ trương, giải pháp về phòng, chống tham nhũng được đề ra trong những năm qua chưa đáp ứng được nhu cầu, hiệu quả chưa cao: Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng, phổ biến. Đánh giá về hệ thống chính sách pháp luật về phòng, chống tham nhũng của nước ta có thể nói đã khá tiến bộ (đánh giá của nhiều tổ chức quốc tế), tuy nhiên, hiệu quả thực hiện chưa đáp ứng được mong muốn của các tầng lớp nhân dân. Việc tổ chức thực hiện ở nhiều nơi, nhiều lúc còn mang tính phong trào, chưa tạo được ý thức tự giác, thường xuyên của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Qua các cuộc thanh tra trách nhiệm thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng cho thấy ngoài ý thức thực hiện của các cơ quan, đơn vị còn có những khó khăn khác về điều kiện vật chất, con người trong việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức về các quy định phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước, nhằm tạo tiền đề cho việc triển khai có hiệu quả trong thực tiễn. Thứ năm, thiếu một chương trình, kế hoạch phòng, chống tham nhũng tổng thể, dài hạn: Trước khi Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, chúng ta chưa xây dựng được một chương trình, kế hoạch phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng thống nhất đồng bộ, vừa có tính chiến lược lâu dài, vừa có trọng tâm, trọng điểm trong từng giai đoạn nhằm huy động và phối hợp sức mạnh của toàn thể bộ máy trong phòng, chống tham nhũng. CHƯƠNG II TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG THAM NHŨNG VÀ CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng là bộ phận hợp thành quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nét đặc sắc và nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng đã và đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vận dụng vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay. Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ, là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc ở thế kỷ 20, đồng thời cũng là lãnh tụ, là chiến sĩ tiên phong chống tham nhũng – một vấn đề mang tính toàn cầu. Bởi vì hiếm có một lãnh tụ nào, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình lại kiên trì, liên tục và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng như Hồ Chí Minh. Người luôn lên án nạn tham nhũng ở các chế độ thực dân, đế quốc, thuộc địa, tay sai trước kia và cả trong chế độ mới của chúng ta. Sự thống nhất tuyệt đối giữa nói và làm, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng và tự mình nêu tấm gương sáng nhất về đạo đức cách mạng “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” đã làm nên nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và trong tư tưởng chống tham nhũng nói riêng. Tư tưởng chống tham nhũng của Người thể hiện qua những nội dung cơ bản sau: 1.1. Đấu tranh, tố cáo nạn tham nhũng trong các chế độ thực dân, đế quốc, thuộc địa và chế độ tay sai bán nước để thức tỉnh quần chúng nhân dân, tiến hành vận động cách mạng Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, khi còn đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã viết rất nhiều bài báo, phóng sự tố cáo nạn tham nhũng trong các loại quan chức chính quyền thực dân ở Đông Dương, coi tham nhũng là hiện tượng bản chất của chế độ này, Người viết: “Trong cái xứ này, do thiếu sót hay nói đúng hơn do ý định của Chính phủ, nên đâu đâu từ trên xuống dưới cũng đều có nạn tham nhũng mua quan bán tước” (1). (1) Báo L’ Populaire, ngày 04/09/1919;  Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1, tr.12 – 13. Trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”, viết bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Paris năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã dành hẳn một chương để viết về nạn tham nhũng trong bộ máy cai trị, của những kẻ tự xưng là “quan phụ mẫu” của dân. Người vạch ra các thủ đoạn phung phí tiền của dân cho việc tham quan, triển lãm, tiếp khách, giải trí, mua sắm biệt thự, xe cộ, các thủ đoạn rút tiền từ việc nhận thầu các công trình xây dựng, làm đường, khai man để rút tiền công quỹ, chi tiêu sử dụng cho riêng mình. Tệ tham ô cùng các thủ đoạn bóc lột làm cho gánh nặng thuế khoá đè lên vai người dân thuộc địa. Trong bài báo “Văn minh Pháp ở Đông Dương” viết bằng tiếng Đức, đăng trên tập san Inprekorr, số 17 (1927), với bút danh A.P, Người đã tố cáo sự thối nát của thực dân Pháp qua thú nhận của tờ L' Impartial của Pháp ở Đông Dương rằng viên thống đốc Cônhắc đã phạm một loạt hành động tham nhũng. Cả người “Đảng viên xã hội” Varen cũng tham gia hăng hái vào việc tham nhũng vì chỉ “vài tháng sau khi tới Đông Dương, ông ta đã gửi về Pháp 74 hòm tặng phẩm có trọng lượng 4.810 kg và kích cỡ là 30 mét khối”. Trong bài báo “Phong trào nông dân tỉnh Quảng Đông” viết bằng tiếng Anh ngày 16/10/1925, với bút danh Nilôpxki, Người cũng tố cáo nạn tham nhũng trong bộ máy chính quyền cũ ở Trung Quốc. Trong tập thơ “Nhật ký trong tù” viết bằng chữ Hán, Người tố cáo nạn tham nhũng trong nhà tù của chế độ Tưởng Giới Thạch, qua bài Lai Tân: “Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc. Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh. Chong đèn, huyện trưởng làm công việc. Trời đất Lai Tân vẫn thái bình” (2).  Sau Cách mạng tháng Tám 1945, trong bài “Công lý của Mỹ” đăng trên báo Cứu quốc, số 1877, ngày 06/08/1951, ký bút danh Đ.X. Người tố cáo chế độ xã hội Mỹ nhân danh công lý, tự do, dân chủ, nhân quyền, nhưng “Quốc hội Mỹ đã thừa nhận những tổ chức chính trị, kinh tế, tài chính, pháp luật, báo chí của Mỹ thông đồng với lũ trộm cướp để ăn hối lộ và để trị những công nhân và công chức giác ngộ. Và vì vậy nên Mỹ không trị những bọn trộm cướp đó” (3). Trong bài “Tâm lý của binh sĩ Hoa Kỳ” đăng báo Nhân Dân, số 4384, ngày 07/04/1966, với bút danh Chiến Sĩ, Người đã nêu bức thư của một binh sĩ Mỹ ở Nam Việt Nam gửi bạn ở Hoa Kỳ biểu thị thái độ phản chiến vì phải chiến đấu để bảo vệ chế độ tham nhũng làm tay sai Mỹ. Bức thư có đoạn: (2) Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù, Nxb. Phổ thông, Hà Nội, 1960. (3) Báo Cứu quốc, số 1877, ngày 06/08/1951. “Những người lãnh đạo cái Nhà nước Nam Việt Nam đều là bọn trộm cướp, hủ bại, đê hèn, hồ đồ. Họ đều ghét cộng sản nhưng tên nào cũng có rất nhiều tiền bạc gửi nhà băng nước ngoài. Số tiền đó nhiều gấp mấy lần số tiền lương của họ. Nơi tôi làm cố vấn, Chính phủ Mỹ trả lương cho 338 nhân viên, nhưng thực tế chỉ có 50, 60 người làm việc. Thế là mỗi tháng, bọn quan lại Nam Việt Nam tham ô hơn 4.000 đô-la. Tôi đã báo cáo việc đó lên cấp trên. Nhưng kết quả là tôi đã bị điều đến một đơn vị trực tiếp chiến đấu” (4).  Đó chỉ là những ví dụ điển hình cho thấy các chế độ thực dân, đế quốc, thuộc địa, tay sai đều bị Hồ Chí Minh vạch trần bản chất tham nhũng, thối nát, nhằm mục đích thức tỉnh quần chúng nhân dân đứng lên đấu tranh đánh đổ những chế độ đó, xây dựng chế độ mới, tốt đẹp hơn. 1.2. Đấu tranh chống tham nhũng trong lòng chế độ mới Sau khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tiếp đến kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ cứu nước, rồi xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, Hồ Chí Minh không lúc nào lơi lỏng cuộc đấu tranh chống tệ tham nhũng ngay trong lòng chế độ mới mà Người đã sáng lập nên. Có điều, mục tiêu đấu tranh không phải là để xoá bỏ chế độ mới mà để xây dựng, củng cố, hoàn thiện nó. Bởi vì tham nhũng, thối nát không phải là bản chất của chế độ mới, nó chỉ là một tệ nạn nguy hiểm, một biểu hiện cao độ của sự thoái hoá, biến chất trong một bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước. Chính quyền cách mạng non trẻ ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra căn bệnh hết sức nguy hiểm, tiềm ẩn nguy cơ làm cho những người có chức quyền dễ bị tha hoá biến chất, không còn là “đầy tớ của nhân dân”, làm cho dân mất niềm tin và bất bình. Hơn một tháng sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập, trong thư gửi cho ủy ban các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Người đã vạch ra và cảnh báo một số hành vi tham nhũng mà công chức Nhà nước dễ mắc phải, đó là tham ô của công, đục khoét của dân, nhận hối lộ và mắc một số sai phạm khác như: làm việc trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo, bè phái quan liêu, địa phương chủ nghĩa, hẹp hòi, quân phiệt, v.v.... (4) Báo Nhân Dân, số 4384, ngày 7/4/1966. Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng như trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều không quên nhiệm vụ đấu tranh chống tham nhũng. Tổng hợp các bài báo, bài nói chuyện tại các hội nghị, hoặc thư gửi các đoàn thể, địa phương, các ngành, giới, có thể thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập một cách khá cơ bản, toàn diện các vấn đề chống tham nhũng. Về khái niệm và tính chất xấu xa, nguy hại của nạn tham nhũng: Người thường dùng từ tham ô (hoặc nhũng lạm) và hay gắn với tệ quan liêu, lãng phí. Theo Người, “Tham ô là lợi dụng quyền hành hoặc chức trách để ăn cắp của công; lãng phí là làm tốn kém hao tổn một cách vô ích. Tham ô là lấy của công làm của tư, là gian lận, tham lam, là không tôn trọng của công, là không thương tiếc tiền gạo, mồ hôi nước mắt của đồng bào kiếm ra, do xương máu của chiến sĩ làm ra. Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là ăn cắp của công làm của tư, đục khoét của nhân dân, ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung, của Chính phủ làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình cũng là tham ô. Người còn cho rằng, tham ô còn là “ăn cắp thì giờ của Chính phủ, của nhân dân, vì nhân dân đã trả lương cho mình mà không làm việc tốt”; “Tham ô là trộm cướp. Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô”; Người lên án “Tham ô là hành động xấu xa nhất, tội lỗi nhất trong xã hội, nó làm hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà, hại đến công việc cải thiện đời sống của nhân dân, hại đến đạo đức cách mạng của cán bộ và công nhân” (Thư gửi các đồng chí Bắc bộ và Trung bộ). Một lần khác, Người lại viết: “Tham ô là hành động xấu xa nhất của con người. Nhân dân lao động ta làm lụng đổ mồ hôi sôi nước mắt để góp phần xây dựng của công – của Nhà nước và của tập thể. Của công ấy là nền tảng vật chất của chế độ Xã hội Chủ nghĩa, là nguồn gốc chủ yếu để nâng cao đời sống của nhân dân ta...”. Người coi bọn tham nhũng là “kẻ địch”, là “giặc nội xâm”, hoặc ngang hàng với “kẻ phản quốc”… Về nguyên nhân, nguồn gốc và điều kiện phát sinh tham nhũng: Về khách quan, nguồn gốc xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, tham ô, lãng phí là căn bệnh “tứ chứng nan y” của mọi nhà nước. Dù Nhà nước Phong kiến, Nhà nước Tư bản hay Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa… nếu không có sự giáo dục sâu sắc và mọi hoạt động của Nhà nước không được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân thì khó tránh khỏi tình trạng tham ô, lãng phí. Những người có chức có quyền, dù to hay nhỏ đều có điều kiện để tham nhũng. Người viết: “Những người trong các công sở, từ làng cho đến Chính phủ Trung ương đều có nhiều hoặc ít quyền hành, đều có dịp phát tài hoặc xoay tiền của Chính phủ, hoặc đục khoét nhân dân. Nếu không giữ cần kiệm liêm chính, chí công, thì trở nên hủ hóa, biến thành sâu mọt của nhân dân”. Về chủ quan, do cán bộ, công chức “vì thiếu đạo đức cách mạng, vì cá nhân chủ nghĩa mà sinh tham ô”, Người nói: “Chủ nghĩa cá nhân như một thứ vi trùng rất độc, nảy sinh ra các bệnh nguy hiểm như lười biếng, ngại gian khổ, khó khăn, tham lam, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa… Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại lợi ích cách mạng, của nhân dân. Tóm lại, do chủ nghĩa cá nhân mà phạm nhiều sai lầm”. Người còn chỉ ra rằng, có tham ô, lãng phí là vì bệnh quan liêu. Bệnh quan liêu là chỗ gieo hạt, vun trồng cho tham ô, lãng phí nảy nở. Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, bộ đội và Chính phủ. Nó là kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm, mang súng và nằm trong các tổ chức của ta để làm hỏng công việc của ta, làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí vượt khó của cán bộ ta; phá hoại đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính… Nó là một thứ giặc trong lòng, “giặc nội xâm”… Vì vậy, “chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị”. Tham ô, lãng phí còn do trình độ hiểu biết, trình độ văn hoá và trình độ tổ chức, quản lý của Nhà nước còn yếu kém. Cho nên muốn chống tham ô, lãng phí, cần phải nâng cao trình độ của cán bộ, công chức cả về phẩm chất đạo đức và văn hoá cũng như năng lực tổ chức, quản lý Nhà nước. Các biện pháp, “phương thuốc” chống tham nhũng   Từ những nguyên nhân cơ bản trên, Người nêu ra các biện pháp, “phương thuốc” chống tham nhũng (và thường gắn với quan liêu, lãng phí) một cách toàn diện, đồng bộ, thống nhất, từ các biện pháp chính trị đến kinh tế, tư tưởng đến tổ chức, tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế, bắt buộc theo pháp luật, v.v…  Một là, muốn chống tham ô, lãng phí, quan liêu, trước hết và quan trọng nhất là phải chống chủ nghĩa cá nhân, vì nó là thứ vi trùng rất độc, là kẻ thù nguy hiểm gây ra mọi sai lầm, tội lỗi. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân trong mỗi cán bộ, Đảng viên, trong bộ máy của Đảng, Nhà nước thì Đảng mới thực sự trong sạch và vững mạnh. Đảng phải thực hành kỷ luật nghiêm minh, Nhà nước phải có các thể chế, luật pháp cụ thể, rõ ràng; phải biết dựa vào quần chúng đấu tranh, phê bình, giáo dục và xử lý nghiêm minh những cán bộ, Đảng viên mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa, tham ô, lãng phí gây nguy hại cho Đảng, cho Nhà nước, cho nhân dân. Như thế, Đảng, Nhà nước mới thật sự trong sạch, vững mạnh, mới giành được sự tin yêu thực sự của nhân dân.  Hai là, phải thực hành dân chủ, phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân, phải biết dựa vào dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân chứ không phải là làm quan cách mạng. Thực hiện dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Người nhấn mạnh, chỉ khi nào toàn thể nhân dân đều tham gia vào công tác quản lý, thực hiện nghiêm chỉnh và đồng bộ phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” mới có thể chống tham ô, lãng phí, quan liêu một cách tích cực, có hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi người dân phải biết phát huy quyền làm chủ của mình, Người nói “Quan tham vì dân dại”, vì vậy, dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hành chữ liêm. Nếu nhà bị mất cắp, mất trộm thì hô hoán lên và cả xóm, cả làng đuổi bắt kẻ trộm. Khi của công bị mất cắp, mất trộm thì mọi người đều có trách nhiệm vạch mặt kẻ gian và đưa nó ra trước pháp luật vì mọi người đều có trách nhiệm giữ gìn của công… Của công, của Nhà nước là bất khả xâm phạm, tham ô của công tức là xâm phạm đến lợi ích của nhân dân, tức là kẻ địch. Cán bộ phải thi đua thực hành liêm khiết. Dùng cách thật thà tự phê bình và phê bình để tẩy trừ những thói tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu để cùng nhau tiến bộ… Một dân tộc biết kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ. Người nhiều lần nhấn mạnh “kiên quyết chống tham ô là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân”. Thực hiện ý kiến của Người, Đảng ta đã tiến hành cuộc vận động “Ba xây ba chống” là: “Nâng cao tinh thần trách nhiệm, Tăng cường quản lý kinh tế tài chính, Cải tiến kỹ thuật; Chống tham ô, lãng phí, quan liêu” (phát động vào những năm 60 của thế kỷ trước). Ba là, không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước, đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức. Trên cở sở đó, xây dựng được bộ máy quản lý Nhà nước gọn nhẹ, có hiệu lực, thể hiện và thực hiện trên thực tế quyền lực của nhân dân (bằng đầy đủ các cơ chế, chính sách, luật pháp), chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân; thực hiện dân chủ hoá, công khai hoá và minh bạch. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng vừa chuyên, thực sự là “công bộc” của nhân dân; chăm lo xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Bản thân Người là tấm gương sáng nhất về đạo đức cách mạng “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, lời nói đi đôi với việc làm. Hồ Chủ tịch là lãnh tụ có “lòng nhân ái mênh mông” dành cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cho mỗi con người, nhưng Người cũng thể hiện tinh thần, thái độ kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với tệ nạn tham nhũng. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua những “đêm trắng” suy nghĩ đã quyết định y án tử hình đối với viên Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu vì đã tham ô lớn tiền của quân đội, ăn chơi sa đọa, trong khi toàn dân, toàn quân đang gian khổ hy sinh kháng chiến chống thực dân Pháp. Vụ án này là bài học lịch sử nhưng còn mang tính thời sự nóng hổi trong tình hình hiện nay. 2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay 2.1. Xác định bản chất tham nhũng và chủ trương biện pháp phòng, chống tham nhũng Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, tham nhũng được xác định là lực cản trở công cuộc đổi mới, tác động tiêu cực tới sự phát triển của đất nước, bóp méo các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm gia tăng khoảng cách giàu và nghèo. Nghiêm trọng hơn, tham nhũng còn làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và là nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ ta. Nhận thức được những tác hại đó, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng chống tham nhũng trong tình hình mới. Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) tiến hành toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, cuộc đấu tranh chống tham nhũng ngày càng được tiến hành mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ. Nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, hoặc Chuyên đề đề cập đến công tác phòng chống tham nhũng của Đảng lần lượt ra đời. Trên cơ sở đó, Nhà nước đã có các Quyết định, Pháp lệnh, Nghị định về chống tham nhũng, và nhất là Luật Phòng, chống tham nhũng được ban hành năm 2004 đã và đang đi vào thực tiễn đấu tranh chống tham nhũng của toàn dân. Thông qua những tài liệu, văn kiện và hoạt động thực tiễn chống tham nhũng, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã thể hiện sự vận dụng, cụ thể hoá và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng một cách rất sáng tạo, phong phú, đa dạng, đi vào mọi khía cạnh của cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng phù hợp với tình hình mới. Pháp lệnh Chống tham nhũng của ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 26/02/1998, đã định nghĩa: “Tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2004 định nghĩa: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Như vậy, tham nhũng được mô tả dưới dạng hành vi, bao gồm ba yếu tố cơ bản: Chủ thể tham nhũng phải là đối tượng đặc biệt, người có chức vụ, quyền hạn; Hành vi tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao; Mục đích của hành vi tham nhũng là vì vụ lợi. Hành vi tham nhũng được cấu thành bởi ba yếu tố cơ bản trên, nếu thiếu một trong ba yếu tố đó thì không cấu thành tội tham nhũng mà có thể cấu thành tội khác (như hành vi cố ý làm trái, lợi dụng tín nhiệm… được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999). Luật Phòng, chống tham nhũng cũng quy định rõ người được coi là có chức vụ, quyền hạn; quy định rõ “các hành vi tham nhũng” gồm 12 điểm, như tham ô tài sản, nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản… Như vậy, “tham ô” chỉ là một trong 12 hành vi tham nhũng ngày nay. Luật Phòng, chống tham nhũng cũng quy định rất đầy đủ, chi tiết về các biện pháp phòng ngừa tham nhũng; việc phát hiện hành vi tham nhũng; việc xử lý những người có hành vi tham nhũng; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong phòng, chống tham nhũng, v.v... Có thể nói, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 là biểu hiện tập trung của sự vận dụng, phát triển, cụ thể hoá, luật pháp hoá tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng chống tham nhũng trong tình hình mới ở nước ta. 2.2. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong những năm qua và định hướng của Đảng ta Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: “Điều cần nhấn mạnh là: tình trạng tham nhũng và suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân”. Cho nên, Đảng chủ trương “Tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở” (5). Đại hội X của Đảng cũng nêu thực trạng: “Thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý tài chính, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ” (6). Nghị quyết, Đại hội X của Đảng đã xác định “đấu tranh chống tham nhũng là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị, là nhiệm vụ của toàn xã hội”. Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trình Đại hội XI, có đánh giá tình hình hiện nay “Tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi”. Như vậy, thực trạng tham nhũng ở nước ta trong những năm qua là “nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi”. Tính chất nghiêm trọng được thể hiện là nó diễn ra một cách phổ biến ở hầu hết mọi ngành nghề, mọi địa phương, đặc biệt trong các lĩnh vực quản lý đất đai, xây dựng, quản lý hành chính, giao thông, các ngành liên quan đến đào tạo con người hay cứu giúp con người như giáo dục, y tế, chính sách xã hội; các ngành bảo vệ pháp luật như công an, kiểm sát, toà án v.v... Tính nghiêm trọng còn thể hiện ở số lượng (chỉ tính ở số đã được phát hiện, xử lý), và “chất lượng” các vụ án tham nhũng. Xin nêu một số vụ điển hình như: vụ tham nhũng đất công ở Đồ Sơn, Hải Phòng với 8 bị cáo phải ra (5) Văn kiện Đại hội IX; Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.67 và tr.135. (6) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, 06/2006, tr.263 – 264. hầu tòa (trong đó có những cán bộ chủ chốt của ngành tài nguyên môi trường Đồ Sơn và Hải Phòng và cán bộ Đảng, chính quyền thị xã Đồ Sơn; hàng loạt vụ án tham nhũng liên quan đến đất đai xảy ra ở nhiều nơi khác, như Bến Cát, Bình Dương, ở thị xã Sơn La… mà quy mô và tính chất nghiêm trọng không kém gì vụ Đồ Sơn, Hải Phòng; vụ bê bối tại Ban điều hành Dự án tin học hoá cải cách hành chính giai đoạn 2001 – 2005 do nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ làm Trưởng ban (Dự án 112) với 200 tỉ đồng đã bị thất thoát và làm trái, tương đương 20% tổng kinh phí đã sử dụng cho đề án; vụ “Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ” với các bị cáo là Phó Giám đốc Sở Văn hoá – Thông tin tỉnh Điện Biên, Trưởng ban quản lý xây dựng tượng đài, Giám đốc Công ty mỹ thuật Trung ương; vụ Lương Cao Khải, Vụ phó Vụ thanh tra kinh tế 2, nguyên Trưởng đoàn thanh tra các dự án tại Tổng Công ty dầu khí Việt Nam, đã nhận của các đối tượng thanh tra 13.500 USD và 200 triệu đồng; vụ án Huỳnh Ngọc Sỹ, Phó Giám đốc Sở Giao thông công chính, Giám đốc Ban quản lý Dự án Đại lộ Đông – Tây và môi trường nước Thành phố Hồ Chí Minh, đã nhận hối lộ 262.000 USD của nhà thầu tư vấn thiết kế PCI của Nhật Bản; vụ ông Nguyễn Trường Tô, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang ăn chơi sa đọa, trác táng suốt 5 năm (từ 2005 đến 2010), bị lôi ra ánh sáng, bị cách mọi chức vụ Đảng, chính quyền… Trên đây chỉ là một số vụ tiêu biểu trong hàng trăm, hàng ngàn vụ việc tham nhũng mà đã, hoặc chưa bị phát giác, chưa bị xử lý để mọi người hình dung ra tính chất “nghiêm trọng, kéo dài, chưa bị đẩy lùi” ở nước ta. Cuối tháng 11/2010, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng trong nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng (7). Hội nghị này đã cho thấy một cách khá toàn diện cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng của Đảng và nhân dân ta trong những năm qua. Trong nhiệm kỳ 2006 – 2010, Đảng và Nhà nước đã coi đấu tranh phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị, là nhiệm vụ của toàn xã hội. Đảng và Nhà nước đã dành sự quan tâm lớn trong chỉ đạo điều hành, thể hiện quyết tâm chính trị cao, tổ chức thực hiện, triển khai đồng bộ, toàn diện các giải pháp phòng, chống tham nhũng. Tháng 07/2006, Hội nghị Trung ương 3 (khóa X) đã ban hành Nghị quyết về “Tăng cường sự lãnh (7) Theo Tạp chí Cộng sản điện tử, 30/11/2010. đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng”; Quốc hội khoá XII đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng, trong đó quy định thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng. Hàng năm, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị toàn quốc để quán triệt, đánh giá kết quả phòng chống tham nhũng; Quốc hội nghe báo cáo và cho ý kiến về công tác phòng chống tham nhũng; ủy ban thường vụ Quốc hội tăng cường công tác giám sát về phòng chống tham nhũng. Công tác phòng chống tham nhũng là một nội dung chính trong các phiên họp thường kỳ của Chính phủ. Các bộ, ngành Trung ương và các cấp ủy, chính quyền địa phương đã tổ chức nghiêm túc việc quán triệt, triển khai thực hiện công tác phòng chống tham nhũng bằng những chương trình, kế hoạch cụ thể, thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện. Trên nhiều mặt, công tác phòng chống tham nhũng đã đạt kết quả và chuyển biến rõ nét. Công tác tuyên truyền giáo dục phòng chống tham nhũng gắn với việc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã tạo được chuyển biến trong nhận thức, ý thức và trở thành hành động trong phòng, chống tham nhũng. Việc phòng ngừa tham nhũng với những giải pháp đồng bộ đang từng bước phát huy tác dụng, mang lại hiệu quả thiết thực. Việc phát hiện, xử lý các vụ án tham nhũng được tăng cường. Nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp được phát hiện, xử lý nghiêm theo pháp luật. Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng ở Trung ương và cấp tỉnh, cùng các đơn vị chuyên trách về phòng, chống tham nhũng được hình thành khẩn trương đi vào hoạt động, đã giúp các cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu triển khai nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng. Sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong công tác đã được phát huy. Theo báo cáo, trong 4 năm (2007 – 2010), cả nước có 276 người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu bị xử lý do thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng, trong đó xử lý hình sự 39 trường hợp, xử lý hành chính 212 trường hợp. Ngành Thanh tra và Kiểm toán Nhà nước đã tăng cường các cuộc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán tập trung vào các lĩnh vực quản lý đất đai, thu chi tài chính, ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản, thuế, cổ phần hóa doanh nghiệp, ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng đã tham mưu, giúp Ban Bí thư tổ chức kiểm tra về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý, sử dụng ngân sách, đất đai, tài nguyên… Theo số liệu của 63 tỉnh, thành phố, trong nhiệm kỳ qua, có 2.494 Đảng viên, cấp ủy viên tại các Đảng bộ tỉnh, thành phố bị thi hành kỷ luật do liên quan đến tham nhũng, lãng phí. Hội nghị đã thống nhất đánh giá những cố gắng, kết quả đạt được và cả những hạn chế, yếu kém, những khó khăn trong công tác phòng chống tham nhũng. “Trong những năm qua, bên cạnh những chuyển biến tích cực, thì giữa quyết tâm chính trị với hành động thực tiễn còn khoảng cách” (8). Khoảng cách ấy là không ít cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu chưa thường xuyên và thực sự quan tâm tới phòng, chống tham nhũng. Nhiều nơi mới chỉ chú ý tuyên truyền Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (Khóa X), Luật Phòng, chống tham nhũng, xây dựng quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử và có chương trình hành động…, nhưng thực hiện thì sơ sài, hình thức. Hiệu quả phát hiện tham nhũng thông qua kiểm tra, thanh tra, kiểm toán còn hạn chế. Có 12 tỉnh, qua cả nhiệm kỳ 5 năm không phát hiện, chuyển cơ quan điều tra vụ nào để xử lý hình sự. Với những vụ đã phát hiện thì quá trình tố tụng kéo dài, hồ sơ trả lại nhiều lần; một số vụ cho hoãn xử, đình chỉ quá nhiều bị can; có hiện tượng lạm dụng tình tiết đã bồi thường, khắc phục hậu quả, nhân thân tốt để xử lý hành chính hoặc cho hưởng án treo. Một số vụ có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng hoặc có yếu tố nước ngoài chậm được xem xét, kết luận. Số vụ bị phát hiện, xử lý hình sự có xu hướng giảm dần, năm sau ít hơn năm trước, cho thấy hiện tượng thiếu quyết tâm đấu tranh, tâm lý ngán ngại va chạm… Về phương hướng công tác phòng chống tham nhũng nhiệm kỳ 2011 – 2015, nhiều ý kiến tại Hội nghị cho rằng cần kiên quyết mục tiêu: ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng; loại bỏ dần cơ hội, điều kiện phát sinh tham nhũng. Để đạt mục tiêu ấy, các cấp ủy Đảng phải thực sự coi phòng, chống tham nhũng là trọng tâm công tác lớn, trong đó phải bố trí cán bộ có năng lực, bản lĩnh và phẩm chất đạo đức làm công tác phòng, chống tham nhũng. Cùng với việc hoàn thiện thể chế để phòng ngừa, phải khắc phục những hạn chế phòng chống tham nhũng trong nhiệm kỳ vừa qua và triển khai các giải pháp đã được đề ra trong “Chiến lược phòng, chống tham nhũng đến năm 2020” và kế hoạch thực hiện “Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng”. Cần có nhiều biện pháp, giải pháp cụ thể, sáng tạo hơn. Như công chức phải giải trình nguồn gốc tài sản khi có yêu cầu, và có cơ chế để xử lý hành vi (8) Phát biểu của đồng chí Trương Vĩnh Trọng, ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, Phó Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tại Hội nghị. làm giàu bất chính; khoan hồng đặc biệt với người đưa hối lộ nhưng tự giác khai báo; có cơ chế ngăn chặn hành vi che giấu, tẩu tán tài sản do tham nhũng mà có. Đề án đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cần được khẩn trương triển khai; phát huy vai trò tích cực của báo chí trong phòng chống tham nhũng. Các cấp ủy Đảng, chính quyền các ngành, các cấp cần xác định đúng vai trò, vị trí công tác phòng chống tham nhũng, coi đây là một trong các trọng tâm công tác lớn có tính chất thường xuyên, liên tục. Trước hết, phải đánh giá đúng thực trạng tham nhũng trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, từ đó xây dựng chương trình, kế hoạch phòng chống tham nhũng tại cơ quan, đơn vị mình. Cán bộ, Đảng viên, nhất là người đứng đầu phải là tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức lối sống “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Công tác phòng chống tham nhũng phải là nội dung kiểm điểm định kỳ công tác của các cấp, các ngành. Kết quả thực hiện phòng chống tham nhũng là một tiêu chí không thể thiếu được trong việc bình xét thi đua, khen thưởng và phân loại chất lượng Đảng viên, đề bạt cán bộ. Hội nghị còn thảo luận, đề xuất với Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư một số nội dung: - Cho nghiên cứu cơ chế công khai tài sản một số chức danh chủ chốt, cao cấp của Đảng, Nhà nước; công khai tài sản của cán bộ, công chức khi được đề bạt, bổ nhiệm và ứng cử; có cơ chế để thẩm định, xác minh tài sản, thu nhập. - Có quy chế về trách nhiệm người đứng đầu tổ chức Đảng khi để ra tham nhũng nơi mình được giao nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý. Từ vụ Vinashin và những yếu kém trong điều tra, truy tố, xét xử án tham nhũng, cân nhắc tái lập Ban Kinh tế, Ban Nội chính của Đảng. - Đẩy mạnh việc ký kết hiệp định tương trợ tư pháp, tạo thuận lợi cho xử lý án tham nhũng có yếu tố nước ngoài. Cân nhắc việc áp dụng biện pháp điều tra đặc biệt đối với tội phạm tham nhũng. Với những gì mà toàn Đảng, toàn dân ta đã làm được trong những năm qua trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng; với những bài học kinh nghiệm đã được đúc kết; với những giải pháp đã và đang được đưa ra; với quyết tâm mới, động lực mới sau Đại hội Đảng lần thứ XI, những mục tiêu của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta nhất định sẽ được thực hiện. 3. Các giải pháp chống tham nhũng hiện nay của Đảng ta Thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Kinh tế – xã hội có những bước phát triển lớn, đời sống nhân dân được cải thiện, an ninh – quốc phòng được giữ vững. Tuy nhiên chúng ta cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ và thách thức nghiêm trọng. Một trong những nguy cơ làm cản trở công cuộc đổi mới là tệ tham nhũng. Tham nhũng cùng với sự lãng phí đang diễn ra trầm trọng, kéo dài, gây bất bình trong nhân dân, gây ra thiệt hại lớn về tài sản Nhà nước, làm băng hoại đạo đức cán bộ, Đảng viên, xâm hại trực tiếp đến công lý và công bằng xã hội. Nhận thức rõ những nguy hại đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương biện pháp đấu tranh với tệ tham nhũng và đã đạt được những kết quả ban đầu. Tuy nhiên, tham nhũng hiện nay vẫn đang diễn ra hết sức phổ biến, có nguy cơ lan tràn ở mọi ngành, mọi cấp, trong mọi lĩnh vực. Rõ ràng, cần phải có một nhận thức đầy đủ hơn về bản chất và nguyên nhân của tệ tham nhũng để từ đó có những giải pháp hữu hiệu hơn. Cần phải có một loạt các biện pháp để đấu tranh với tệ tham nhũng, trong đó các biện pháp phòng ngừa có một ý nghĩa hết sức quan trọng bởi vì: Thứ nhất, các biện pháp phòng ngừa được áp dụng một cách thường xuyên sẽ có tác dụng rộng khắp đến nhiều đối tượng. Chính tính chất thường xuyên, liên tục đó sẽ có tác dụng ngăn chặn ngay từ trong mầm mống những hành vi tham nhũng. Thứ hai, phòng ngừa tham nhũng sẽ làm giảm bớt tác hại rất nhiều nếu để tham nhũng xảy ra. Rõ ràng việc ngăn chặn ngay từ đầu hành vi tham nhũng cũng đồng nghĩa với việc đã chủ động ngăn chặn và giảm thiểu những thiệt hại có thể xảy ra từ hành vi tham nhũng. Thiệt hại ở đây không chỉ về kinh tế, có thể đo được bằng con số cụ thể, mà bao gồm cả sự thiệt hại về con người và nhìn một cách rộng hơn là sự xâm hại đến trật tự kỷ cương phép nước, công lý và công bằng xã hội, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Thứ ba, việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng nhiều khi đồng nghĩa với những biện pháp đổi mới và cải cách mà chúng ta thực hiện theo yêu cầu chung của quá trình hoàn thiện bản thân bộ máy quản lý và phương thức điều hành, cơ chế quản lý nền kinh tế nói riêng, xã hội nói chung. 3.1. Đối với các cơ quan Đảng 3.1.1. Tăng cường công tác chính trị tư tưởng phẩm chất người Đảng viên. Mọi sự thành công của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc trước kia và công cuộc đổi mới đất nước ngày nay đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng. Sức mạnh của Đảng thể hiện qua sức chiến đấu của mỗi cán bộ Đảng viên. Vì vậy hơn ai hết Đảng viên phải là người đi đầu trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, đặc biệt là những Đảng viên giữ các cương vị lãnh đạo trong bộ máy Nhà nước. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng là cuộc đấu tranh chống lại sự cám dỗ của vật chất có điều kiện phát huy ảnh hưởng và tác dụng mạnh mẽ trong môi trường kinh tế thị trường hiện nay. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, phẩm chất người Đảng viên không chỉ dừng lại trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng mà phải trở thành nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của các tổ chức Đảng và trong các ý thức rèn luyện của các Đảng viên. Đảng phải hướng dẫn và theo dõi cán bộ, Đảng viên rèn luyện đạo đức phẩm chất của mình qua những công việc cụ thể trên từng cương vị công tác. Giáo dục chính trị tư tưởng và rèn luyện phẩm chất đạo đức không thể chỉ mang tính hình thức, mà phải có những tiêu chí nhất định để mỗi Đảng viên tự soi vào mà phấn đấu, rèn luyện và cũng để các tổ chức Đảng có thể hiểu rõ các thành viên của mình và có biện pháp hướng dẫn giúp đỡ. 3.1.2. Tăng cường quản lý đội ngũ cán bộ Đảng viên Đây là vấn đề hết sức quan trọng. Điều cần lưu ý là phải tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý đội ngũ cán bộ công chức, bởi vì Đảng viên là cán bộ công chức chiếm đa số, nhất là ở những vị trí lãnh đạo, quản lý. Quản lý đội ngũ cán bộ Đảng viên ở đây được hiểu là quản lý một cách toàn diện, bao gồm từ khâu tuyển chọn, bố trí, đề bạt, bổ nhiệm và sự đánh giá trong quá trình sử dụng. Những sai lầm trong công tác quản lý cán bộ Đảng viên là mảnh đất nuôi dưỡng không ít những kẻ cơ hội để lọt vào trong bộ máy Đảng và Nhà nước, thậm chí leo tới những vị trí trọng yếu với mục đích tạo lợi thế để thực hiện tham vọng cá nhân của mình. Đây là một vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có một nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hại của sự buông lỏng quản lý cán bộ Đảng viên và cần có giải pháp khắc phục kịp thời. 3.1.3. “Đưa tự phê bình và phê bình vào nề nếp sinh hoạt Đảng thường xuyên” theo điều lệ Đảng và tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khoá VIII Phê bình và tự phê bình là vũ khí sắc bén của Đảng. “Đảng không che dấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ, phải thật thà tự phê bình, tự sửa chữa những khuyết điểm của mình… Kiên quyết chống bệnh tự mãn tự túc, tự tư tự lợi, kiêu ngạo, ba hoa” (1). Lâu nay phê bình và tự phê bình chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, thậm chí có tình trạng qua loa, đại khái. Tự bản thân cán bộ Đảng viên chưa ý thức được trách nhiệm của mình, chưa thấy được tự phê bình là phương pháp rèn luyện đạo đức cách mạng, chưa sử dụng nó như một vũ khí chống lại những thói hư tật xấu, những tư tưởng tiêu cực, tham nhũng của bản thân mình. Đồng thời nhiều cán bộ, Đảng viên cũng chưa thấy trách nhiệm của mình là phải phê bình, góp ý chân tình, thẳng thắn cho tổ chức Đảng và các đồng chí của mình để giữ vững bản chất tiên phong của giai cấp công nhân. Thậm chí có nơi, có lúc, phê bình đã bị lợi dụng để đấu đá nội bộ, kèn cựa tranh giành chức vụ, quyền lợi. Đó là những biểu hiện hết sức tệ hại cần được khắc phục để phê bình và tự phê bình thực sự trở thành vũ khí, rèn luyện, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, ngăn chặn và loại trừ những biểu hiện của tệ tham nhũng ngay từ trong tư tuởng của mỗi Đảng viên. 3.1.4. Đề cao trách nhiệm, xử lý nghiêm khắc những cán bộ, Đảng viên, nhất là những người giữ chức vụ trọng yếu trong bộ máy của Đảng và Nhà nước có biểu hiện tiêu cực hay thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng ở các ngành, cơ quan đơn vị mình phụ trách (1) Hồ Chí Minh: Toàn tập – Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995 – Tập 5, tr.267 - 268 Đây đang là mối quan tâm của toàn xã hội và thực sự là thử thách lòng tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước. Sẽ không thể chờ đợi lòng tin của người dân nếu những người vi phạm pháp luật, nhất là những Đảng viên giữ cương vị lãnh đạo có hành vi tham nhũng, tiêu cực có thể nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật ngay cả khi đã bị phát hiện và lên án. Đồng thời sẽ không còn là một nền pháp chế, nếu những người có trách nhiệm trong bộ máy Đảng và Nhà nước lại vô can với những vụ việc tiêu cực tham nhũng xảy ra trong phạm vi trách nhiệm của mình. Chúng ta quán triệt tinh thần của Đảng là chống tham nhũng phải bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, nhưng như thế không có nghĩa là chúng ta làm ngơ hay nương tay với những kẻ coi thường uy tín của Đảng, bất chấp pháp luật và coi thường lợi ích của nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những cán bộ giữ chức vụ cao đặt dưới sự lãnh đạo và quản lý của Đảng. Vì vậy, việc xử lý nghiêm minh kịp thời những hành vi tham nhũng hay vô trách nhiệm để xảy ra tham nhũng trước hết thuộc trách nhiệm của các tổ chức Đảng. Một thái độ nghiêm khắc đối với sự vi phạm của các Đảng viên thể hiện trách nhiệm của Đảng trước nhân dân và sẽ là một biện pháp có trách nhiệm răn đe phòng ngừa rất hữu hiệu với tệ tham nhũng. 3.2. Đối với các cơ quan Nhà nước 3.2.1. Bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là cơ chế quản lý kinh tế – tài chính, quản lý tài sản công Đây thực sự là biện pháp có hiệu quả để phòng ngừa tham nhũng. Như đã đề cập ở trên, tham nhũng tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Những sơ hở trong cơ chế, chính sách chính là nơi thuận lợi nhất cho các hành vi tham nhũng mặc sức hoành hành. Vì vậy, cần phải bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật, quy chế, quy định của Nhà nước, bảo đảm các quy định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, dễ thực hiện, trước hết về cơ chế quản lý kinh tế, tài chính, đất đai, quản lý tài sản công, dịch vụ công. Đồng thời đề cao các chính sách, chấp hành nghiêm chính sách pháp luật, không để sơ hở tùy tiện trong thực tế để kẻ xấu lợi dụng tham nhũng, thụ hưởng những đặc quyền, đặc lợi bất chính. 3.2.2. Tiếp tục cải cách bộ máy Nhà nước bảo đảm tinh gọn, nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, đẩy mạnh cải cách hành chính, xoá bỏ những thủ tục gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp và công dân, công khai hoá thủ tục hành chính Đây là những biện pháp đã được nhận thức rõ nhưng chúng ta phải kiên trì tiến hành từng bước mới mong đạt được những kết quả như mong muốn. Bộ máy Nhà nước, đặc biệt là bộ máy quản lý hành chính phát triển theo xu hướng ngày càng đông về số lượng, ngày càng phức tạp về chức năng, nhiệm vụ do những nguyên nhân khách quan. Đó là sự tăng nhanh về dân số và sự mở rộng nhanh chóng và không ngừng các lĩnh vực hoạt động kinh tế – xã hội của con người do tiến bộ của khoa học kỹ thuật mang đến. Tuy nhiên có một thực tế là sự tăng trưởng bộ máy về số lượng chưa đưa lại sự tương xứng về hiệu lực quản lý. Đây đáng là vấn đề đáng phải suy nghĩ. Sự gia tăng về số lượng các cơ quan quản lý cũng như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của nó đôi khi không dựa trên các yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và không dựa trên các luận cứ khoa học xác đáng, mà lại dựa vào ý chí chủ quan duy ý chí, thậm chí xuất phát từ những tư tưởng lợi ích cục bộ của ngành hay địa phương. Vì vậy, cần phải nghiên cứu sắp xếp lại bộ máy Nhà nước theo hướng tinh gọn, chức năng nhiệm vụ rõ ràng gắn liền với trách nhiệm công vụ của từng bộ phận của nền hành chính đến từng cán bộ, công chức. Ngoài ra thủ tục hành chính phiền hà rắc rối, thiếu công khai, chưa đủ minh bạch đã tạo điều kiện cho sự vòi vĩnh, sách nhiễu phát triển đến mức độ công khai, tự nhiên, không thể chấp nhận được. Chúng ta không phải không có những chủ trương và biện pháp nhằm cải cách thủ tục hành chính và coi đó như một khâu đột phá trong tiến trình cải cách hành chính nhưng kết quả thu được còn hết sức hạn chế. Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa cải cách thủ tục hành chính, thường xuyên rà soát và loại bỏ ngay những thủ tục vô lý, cản trở việc thực hiện quyền của công dân trong mọi lĩnh vực ở mọi ngành, mọi cấp, đặc biệt ở những khâu, những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực. 3.2.3. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương, nâng cao đời sống người hưởng lương, đồng thời xử lý nghiêm khắc những người có hành vi tham nhũng; nâng cao chất lượng, phẩm chất chính trị, tính kỷ luật và chuyên môn của cán bộ, công chức Đây cũng là vấn đề rất quan trọng, bởi vì xét cho cùng, một chế độ, chính sách đều được thực hiện thông qua những con người cụ thể và bất kể ai lao động cũng trước hết vì cuộc sống của bản thân, kể cả cán bộ công chức. Công tâm là yêu cầu đầu tiên của nền công vụ đối với từng công chức. Nhưng người ta chỉ có thể thực sự công tâm khi không bị thúc ép bởi việc mưu sinh. Chúng ta khó có thể đòi hỏi người cán bộ công chức phải tận tâm hết mình khi chế độ lương chưa đủ sống, ít nhất ở mức trung bình xã hội. Vì vậy, cùng với việc thường xuyên giáo dục ý thức, tư tưởng và trách nhiệm công chức thì cũng phải đẩy nhanh quá trình cải cách tiền lương. Đề án chế độ cải cách chế độ tiền lương đang thu hút sự quan tâm của toàn xã hội và thực sự là một trong những yếu tố quan trọng, một biện pháp cơ bản để phòng ngừa tham nhũng. 3.2.4. Thực hiện đúng các quy định của Đảng và Nhà nước về những điều cán bộ, công chức không được làm cũng là biện pháp phòng ngừa tham nhũng có hiệu quả Điều đó phải được các cơ quan Nhà nước quán triệt đến từng cán bộ, công chức, đồng thời thủ trưởng các cơ quan Nhà nước cũng phải thường xuyên theo dõi và nhắc nhở các cán bộ, công chức thuộc quyền thực hiện nghiêm chỉnh các quy định này. Ngoài ra cần thực hiện nghiêm túc việc kê khai tài sản (nhà đất và các tài sản có giá trị, nguồn tiền cho vợ con đi học, tự túc ở nước ngoài…) để từng bước quản lý thu nhập của cán bộ, công chức nhằm phát hiện kịp thời những nguồn thu nhập không chính đáng. Tuy nhiên, công việc này cần tiến hành thận trọng để tránh kẻ xấu lợi dụng gây tình hình phức tạp trong nội bộ các cơ quan Nhà nước. 3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, kịp thời phát hiện và ngăn chặn hành vi tham nhũng, tăng cường kiểm tra, thanh tra hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và cơ quan công quyền, nhất là những quản lý nhiều tài sản, con người hoặc có quan hệ quản lý trực tiếp đối với các doanh nghiệp và công dân nhằm ngăn chặn hành vi sách nhiễu, vòi vĩnh khi thi hành công vụ, nhiệm vụ, kịp thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung những sơ hở, khiếm khuyết của cơ chế chính sách để dẫn đến tham nhũng Thanh tra, kiểm tra, giám sát là biện pháp chống tham nhũng một cách chủ động và có hiệu quả nhất. Lúc sinh thời, Hồ Chủ Tịch đã từng nói: “Chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là thiếu sự kiểm tra và kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm soát khéo về sau khuyết điểm sẽ bớt đi” (2). (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập – Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995 – Tập 6, tr.489 Cơ chế thanh tra, kiểm tra hiện nay còn có nhiều khiếm khuyết. Các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra thì nhiều, thậm chí có sự chồng chéo, lẫn lộn trong quá trình hoạt động, hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra còn hạn chế. Đây cũng là những vấn đề cơ bản đang được nghiên cứu để tìm ra giải pháp thích hợp trong quá trình xây dựng Luật Thanh tra để trình Quốc hội xem xét thảo luận. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả của công tác này cần có sự phân định và phối hợp chặt chẽ giữa các phương thức thanh tra, kiểm tra, giám sát như một chỉnh thể có tính hệ thống thì mới có thể phát huy được tác dụng và hướng tới mục đích chung là đảm bảo hiệu quả quản lý Nhà nước và phát huy quyền dân chủ của công dân. 3.2.6. Thấm nhuần quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, đổi mới và thức hiện tốt đường lối đào tạo và sử dụng cán bộ của Đảng cũng là thiết thực góp phần phòng chống tệ nạn tham nhũng Hồ Chí Minh nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” (3). Cán bộ tham nhũng là cán bộ vi phạm chuẩn mực đạo đức cách mạng, là cán bộ kém. Do vậy, làm công tác cán bộ phải hiểu rõ cán bộ, từ đó mà bố trí sử dụng cho phù hợp vào từng cương vị chức trách. Nếu không căn cứ vào tài – đức, vào sở trường của từng cán bộ mà chỉ vì tình cảm cá nhân, nếu không vì công việc, vì tập thể mà chỉ vì quen thân, “cánh hẩu” với nhau mà bố trí cất nhắc thì chẳng những không phát huy được công tác của người cán bộ mà nhiều khi lại tạo thành những vây cánh, ê-kíp tiêu cực không làm lợi cho xã hội tập thể, tìm mọi cách bòn rút của công, lợi dụng chia chác các lợi ích bất minh từ nguồn tài sản Xã hội Chủ nghĩa. Do vậy việc bố trí cất nhắc người quản lý lãnh đạo quyết không được tuỳ tiện, bởi nó chẳng những liên quan đến số phận của chính người đó mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh của Đảng và Nhà nước. Trên thực tế hiện nay đã xuất hiện nhiều tiêu cực trong công tác cán bộ như chạy chỗ, chạy chức, chạy quyền, chạy tiền… đã làm tha hoá một bộ phận cán bộ lãnh đạo quản lý và tạo điều kiện cho tham nhũng phát triển. Công tác cán bộ cần phải công tâm, chính tâm chọn mặt gửi vàng; nhận diện những kẻ giả danh tập thể để bảo vệ lợi ích cá nhân mình, những kẻ nhân danh xã hội để vì lợi ích của đồng bọn, của nhóm người tham nhũng lộng hành. Cần phải sáng suốt cất nhắc những người xứng đáng vào các cương vị quản lý phù hợp với năng lực sở trường chuyên môn của họ, những người không có biểu hiện tham nhũng mà còn dũng cảm tích cực đấu tranh chống tham nhũng. 3.3. Đối với các tổ chức xã hội, cơ quan báo chí và nhân dân 3.3.1. Phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức Nhà nước, tích cực phát hiện và tố cáo những hành vi và biểu hiện tham nhũng, cần tổ chức thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập – Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995 – Tập 4, tr.487 Đó là những yếu tố quan trọng trong việc xây dựng một hệ thống đồng bộ để ngăn ngừa tham nhũng. Đấu tranh chống tham nhũng là cuộc đấu tranh lâu dài và phức tạp cho nên càng cần có sự tham gia tích cực của quần chúng nhân dân. Nó thể hiện ở việc nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với hoạt động của bộ máy Nhà nước và các cán bộ công chức Nhà nước một cách trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức đoàn thể của mình qua hoạt động của các Ban Thanh tra nhân dân được tổ chức ở cơ sở. Hiến pháp năm 1992 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định “Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, và mọi biểu hiện quan liêu hách dịch, cửa quyền” (4). Giám sát của nhân dân là giám sát thường xuyên và đông đảo nhất, vì vậy cần tạo ra cơ chế để nhân dân thực hiện tốt nhất quyền giám sát của mình và để các cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận tốt nhất, nhanh nhất và xử lý có hiệu quả nhất ý kiến phản ánh của người dân đối với hoạt động công vụ cũng như những biểu hiện vi phạm của các cán bộ, công chức Nhà nước. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tiếp nhận và giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của công dân chính là để thực hiện quyền giám sát của nhân dân, góp phần phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với nạn tham nhũng. 3.3.2. Cơ quan thông tin đại chúng tích cực tham gia phát hiện các hành vi tham nhũng đồng thời cũng đấu tranh với những biểu hiện lợi dụng chống tham nhũng để đấu đá, gây xấu nội bộ và làm ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị, xã hội Trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng không thể không nhắc đến vai trò to lớn của các cơ quan thông tin đại chúng. Báo chí là cầu nối giữa nhân dân và Nhà nước, là tiếng nói của nhân dân. Báo chí đưa đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đến từng người dân. Công tác thông tin tuyên truyền, nhất là về pháp luật cần phải được chú trọng hơn nữa. Nội dung và phương thức tuyên truyền phải đa dạng, phù hợp với quảng đại quần chúng. Mỗi chủ trương chính sách pháp luật phải đến được người dân một cách nhanh nhất và có hiệu quả nhất để họ biết quyền lợi và nghĩa vụ của mình cũng như trách nhiệm đấu tranh với các biểu hiện đấu tranh trong quá trình thực hiện. (4) Điều 8 – Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi và bổ sung năm 2001) Những thông tin trung thực về thực tiễn hoạt động của các cơ quan Nhà nước và tiếng nói từ địa phương, cơ sở là những thông tin hết sức bổ ích cho các nhà hoạch định cơ chế, chính sách trong quá trình nghiên cứu để không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Với lương tâm nghề nghiệp và khả năng chuyên môn nghiệp vụ của mình, các nhà báo có thể giúp cho các cơ quan chức năng kịp thời phát hiện ra các hiện tượng tham nhũng. Trên thực tế, báo chí thường xuyên đưa ra những lời cảnh báo hay phản ánh những hiện tượng vi phạm pháp luật, những biểu hiện của tệ tham nhũng và không ít trường hợp những lời cảnh báo đó đã trở thành sự thật. Vì vậy cần phải phát huy hơn nữa vai trò của báo chí trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực và tham nhũng. Ngoài ra, báo chí cũng cần làm tốt chức năng hướng dẫn dư luận trong việc phê phán, lên án những hành vi tham nhũng hoặc những biểu hiện thoái hoá, biến chất trong lối sống của cán bộ, Đảng viên. Báo chí và các nhà báo phải thực sự trở thành những chiến sỹ trên mặt trận văn hoá tư tưởng, phê phán một cách tích cực các thói hư tật xấu, biểu dương các cá nhân và tập thể đã dũng cảm đấu tranh chống các hành vi tham nhũng, đồng thời cũng tích cực bảo vệ những người chống tiêu cực tham nhũng. Qua đó, báo chí trở thành một trong những cơ chế phòng ngừa tham nhũng hiệu quả nhất. KẾT LUẬN Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Nhìn vào thực tế tình trạng tham nhũng, ngày nay chúng ta càng thấy những lời dạy bảo của Bác là vô cùng sâu sắc và hết sức quý báu. Thực hiện tư tưởng của Người, chống tham nhũng là trách nhiệm của từng cán bộ, Đảng viên và nhân dân ta nhằm loại trừ những con sâu mọt – kẻ thù nguy hiểm đang âm ỉ tấn công phá hoại làm hạn chế sự phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới hội nhập và phát triển. Tích cực đấu tranh với những tư tưởng bè cánh, che giấu từ trong nội bộ đơn vị, cơ quan để phát hiện và xử lý các đối tượng tham ô, tham nhũng một cách kịp thời và hiệu quả nhất. Trong giai đoạn hiện nay, tham ô, tham nhũng là những hành động tiêu cực biểu hiện dưới nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi khác nhau. Do đó mỗi cán bộ, Đảng viên cần có thái độ dứt khoát và kiên quyết bài trừ mọi biểu hiện có dấu hiệu tham ô, tham nhũng, bảo vệ tiền của, tài sản của Nhà nước và nhân dân, tập trung vào đầu tư sản xuất, kinh doanh, xây dựng phát triển kinh tế – xã hội. Tham ô, tham nhũng là thiếu đạo đức cách mạng nên mỗi cán bộ Đảng viên phải thường xuyên rèn luyện theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ để bộ máy Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể ngày càng trong sạch vững mạnh, tạo được lòng tin vững chắc của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới hội nhập và phát triển. Bằng các giải pháp đấu tranh cơ bản được thực hiện để chống tham nhũng nêu trên, Chính phủ đang thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Hội nghị Trung ương 4 theo tinh thần Nghị quyết đại hội IX của Đảng là “…Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị ở các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở, gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt là chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính”. Tham nhũng đã được Đảng chỉ mặt, đặt tên là “Một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền trong cơ quan của Đảng và Nhà nước” và chống tham nhũng thực sự là một cuộc chiến, do vậy, trong tổ chức thực hiện, thiết nghĩ Bộ chính trị, Nhà nước cần thay đổi cơ chế “vừa đá bóng, vừa thổi còi”; đồng thời có chính sách cụ thể để khuyến khích, bảo vệ quần chúng nhân dân mạnh dạn tố cáo, vạch mặt tham nhũng thì cuộc chiến chống tham nhũng chắc chắn thắng lợi, lấy được lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Với đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” đã giúp em nâng cao được nhận thức về vấn đề này, đồng thời góp tiếng nói chung trong cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn tham nhũng mà Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành. Tuy nhiên đây là một đề tài lớn, khả năng nhận thức của em còn nhiều hạn chế, chính vì vậy không thể không tránh khỏi những sai sót, do đó em rất mong nhận được sự chỉ bảo của cô để có thể hoàn thành tốt bài tiểu luận này. Em xin chân thành cảm ơn./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Khoa Khoa học Quản Lý, Giáo trình chính sách Kinh tế – Xã hội, Đoàn Thị Thu Hà – Nguyễn Thị Ngọc Huyền, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội – 2000. Tạp chí Cộng sản số 31 (tháng 11 năm 2003). Hội thảo khoa học và thực tiễn: Xây dựng chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng: Kinh nghiệm và giải pháp. Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1/2002. Tệ nạn tham nhũng: Căn nguyên sâu xa và biện pháp phòng chống. Nguyễn Đình Gấm. Tạp chí nghiên cứu trao đổi số 11/2003. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ. Góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống tham nhũng trong lực lượng Công an Nhân dân. Nguyễn Huy Tần. Tạp chí thanh tra số 3/2002. Vai trò của thanh tra, kiểm tra, giám sát với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và chống tham nhũng. PTS. Vũ Thư (Viện Nhà nước và Pháp luật). Tạp chí Dân chủ và pháp luật 4/2002. Chống tham nhũng, giải pháp trước mắt và lâu dài. Nguyễn Khắc Bộ (Phó Chủ Tịch HĐND tỉnh Vĩnh Phúc). Tạp chí Nghiên cứu – Trao đổi số 11/2003. Một số ý kiến về tệ nạn tham nhũng và việc chống tham nhũng. Lê Doãn Hợp (Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An). Tạp chí Cộng sản. Chủ Nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh số 12/2003. Phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính” của cán bộ, Đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trần Ngọc Kiên. Tạp chí Cộng sản số 12 (tháng 4 năm 2002). Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng góp phần ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng. Nguyễn Thị Doan (PGS – TS, ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương). Tạp chí Cộng sản số 11 (tháng 4 năm 2002). Báo chí trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng ở nước ta hiện nay. PGS – TS. Trần Quang Nhiếp. Tạp chí Cộng sản số 17 (tháng 6 năm 2002). Báo chí trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Vũ Hiền Tạp chí Cộng sản số 20 (tháng 7 năm 2002). Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Nguyễn Thị Doan. Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hoá – Thông tin, Hà Nội – 1998. Hồ Chí Minh toàn tập, t1, t4, t5, t6. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 1995. Hồ Chủ Tịch. Thực hành tiết kiệm và chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu. Nxb. Sự thật – 1980. Hiến pháp – 1992. Trang điện tử: TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO. Website: Trang điện tử: TaiLieu.VN: Thư Viện chia sẻ, download, upload các loại Tài liệu, eBook, Sách, Biểu mẫu, Văn bản, Giáo trình trực tuyến Việt Nam. Website:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxLuận văn- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.docx
Tài liệu liên quan