Tài liệu Luận văn Tư tưởng Hiếu trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau: LUẬN VĂN:
Tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo và ảnh
hưởng của nó đối với đời sống đạo đức
gia đình ở Cà Mau
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức hình thành rất sớm ở Trung Quốc.
Trên 2000 năm tồn tại của mình, Nho giáo có ảnh hưởng rất lớn tới xã hội Trung Quốc
cũng như các nước trong khu vực.
Nho giáo đề cập đến nhiều nội dung, trong đó có nội dung giáo dục tư tưởng hiếu
cho con người.Trong lịch sử phát triển của Nho giáo, cho dù quan niệm của các nhà nho
mỗi thời kỳ có khác nhau, song họ đều thống nhất với nhau một điểm: đề cao đức tính
"Hiếu" của con người, coi đó là một trong những nội dung chủ yếu của học thuyết Nho
giáo.
Thế kỷ XXI, với những tiến bộ vượt bậc về khoa học và công nghệ, sự toàn cầu
hoá về kinh tế đang kéo theo nhiều biến đổi quan trọng trong đời sống xã hội, đạo đức
con người. Cũng như mọi sự vật hiện tượng khác, đạo đức gia đình không đứng yên mà
vận động theo lịch sử phát triển xã hội. Đ...
110 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tư tưởng Hiếu trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo và ảnh
hưởng của nó đối với đời sống đạo đức
gia đình ở Cà Mau
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức hình thành rất sớm ở Trung Quốc.
Trên 2000 năm tồn tại của mình, Nho giáo có ảnh hưởng rất lớn tới xã hội Trung Quốc
cũng như các nước trong khu vực.
Nho giáo đề cập đến nhiều nội dung, trong đó có nội dung giáo dục tư tưởng hiếu
cho con người.Trong lịch sử phát triển của Nho giáo, cho dù quan niệm của các nhà nho
mỗi thời kỳ có khác nhau, song họ đều thống nhất với nhau một điểm: đề cao đức tính
"Hiếu" của con người, coi đó là một trong những nội dung chủ yếu của học thuyết Nho
giáo.
Thế kỷ XXI, với những tiến bộ vượt bậc về khoa học và công nghệ, sự toàn cầu
hoá về kinh tế đang kéo theo nhiều biến đổi quan trọng trong đời sống xã hội, đạo đức
con người. Cũng như mọi sự vật hiện tượng khác, đạo đức gia đình không đứng yên mà
vận động theo lịch sử phát triển xã hội. Đạo đức gia đình cũng đang có sự chuyển tiếp từ
truyền thống sang hiện đại. Truyền thống và hiện đại có mối quan hệ hữu cơ, là hai mặt
của một vấn đề, không tách rời với nhau mà tác động lẫn nhau; hiện đại là sự tiếp nối của
truyền thống và truyền thống chỉ được duy trì khi nó phù hợp với sự tiến hoá của xã hội,
trở thành hiện đại.
Nhận diện gia đình Việt Nam hiện nay, có thể thấy đó vốn là nơi duy trì bền vững
các giá trị đạo đức truyền thống nhưng đang đứng trước thách thức, sự tấn công của
những quan niệm tư tưởng mới, lối sống mới.Tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị
trường đang hàng ngày hàng giờ làm suy thoái đạo đức của một bộ phận người trong xã
hội. Thực tế cho thấy rằng, trong đời sống xã hội đã có những biểu hiện coi nhẹ những
giá trị truyền thống, chạy theo thị hiếu không lành mạnh. Đáng chú ý là:
Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy
theo lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ… đang gây hại đến thuần
phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh dự mà
chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp [13,
tr.46].
Một điều đáng buồn là tình trạng giáo dục trong một số gia đình bị buông lỏng,
thái độ và hành vi đối xử của con cái đối với cha mẹ đang diễn ra một cách tuỳ tiện và
nhiều lúc thô bạo.
Để thực hiện nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của gia
đình Việt Nam thì việc nghiên cứu nội dung tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo cùng những
ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của nó đối với đời sống đạo đức gia đình Việt Nam nói
chung và ở Cà Mau nói riêng, thông qua đó phát hiện, cải tạo và kế thừa những nhân tố
hợp lý, có giá trị để xây dựng nền đạo đức mới, xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, ấm
no; khắc phục những biểu hiện tiêu cực xuống cấp về đạo đức là một việc làm cần thiết
và có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Qua những tài liệu tìm được, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào đặt vấn
đề nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung tư tưởng "Hiếu" của Nho giáo và ảnh
hưởng của nó trong đạo đức gia đình Việt Nam hiện nay, từ đó luận chứng cho việc tiếp
thu, kế thừa những yếu tố tích cực để xây dựng gia đình có văn hoá, đồng thời phê phán
và khắc phục những biểu hiện tiêu cực của nó trong gia đình. Để góp phần vào việc tìm
hiểu vấn đề đang cần được nghiên cứu sâu rộng hơn này, tác giả chọn đề tài "Tư tưởng
"Hiếu" trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà
Mau".
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thập niên cuối thế kỷ XX, vấn đề gia đình trở thành vấn đề thời sự nóng
bỏng ở các nước khu vực châu á, khu vực vốn có truyền thống đề cao gia đình trong sự
hình thành nhân cách con người, sự tồn tại và phát triển xã hội. Chưa bao giờ vấn đề này
thu hút sự nghiên cứu của giới chuyên môn cũng như giới chính trị như thời gian này.
Xu thế toàn cầu hoá đang tạo ra nhiều cơ hội chưa từng thấy cho các gia đình phát
triển thì đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức, các loại hình gia đình đang đứng trước
nguy cơ bị đồng hoá, làm suy kiệt những hệ thống giá trị và chuẩn mực đạo đức gia đình.
Chính vì vậy, vấn đề củng cố, phát triển gia đình đã và đang trở thành mối quan tâm
chung của cộng đồng quốc tế. Những cuộc tranh luận về các "giá trị châu á" thì mối quan
hệ trong gia đình thường là trọng điểm. Về vấn đề này, ông Lý Quang Diệu (cựu thủ
tướng Singapore), người cổ vũ nhiệt thành cho nét đặc thù Châu á đã đưa ra nhận xét: sự
sụp đổ các cấu trúc gia đình là nguyên nhân của các vấn đề nan giải trong xã hội phương
Tây. Ngược lại, ở Châu á sức mạnh kinh tế lại bắt nguồn từ những con người ngoan
ngoãn, biết tôn trọng quyền lực của cha mẹ; cùng chung sức đầu tư thì giờ và tiền bạc cho
tương lai của con cái, sở dĩ như vậy vì cấu trúc gia đình ở nhiều nước châu á bền vững
hơn.
ở Việt Nam, vấn đề này đã được một số nhà nghiên cứu về Nho giáo đề cập đến.
Trần Trọng Kim với "Nho giáo", Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1990. Vũ Khiêu với
“Nho giáo và gia đình”, Nxb Khoa học xã hội, năm 1995. Nguyễn Hiến Lê với "Khổng
tử", Nxb Văn hóa, năm 1991. Nguyễn Khắc Viện với "Bàn về đạo nho", Nxb Trẻ, năm
1993. Quang Đạm với "Nho giáo xưa và nay", Nxb Văn hóa thông tin, năm 1999. Vũ
Khiêu với "Nho giáo và sự phát triển của Việt Nam", Nxb Khoa học xã hội, năm 1997.
Nguyễn Tài Thư "Nho học và Nho học ở Việt Nam", Nxb Khoa học xã hội, năm 1997. Hà
Thúc Minh với "Đạo Nho và văn hoá phương Đông", Nxb Giáo dục, năm 2001.
Ngoài ra còn một số bài viết và luận văn, luận án nghiên cứu khá công phu, chẳng
hạn: “Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ” của Nguyễn Tài Thư; “ảnh hưởng của Nho
giáo đối với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống” của Trần Thị Hồng Thúy; “Từ
đạo hiếu truyền thống, nghĩ về đạo hiếu ngày nay” của Nguyễn Thị Thọ, Tạp chí Triết
học số 6 năm 2007; “Một số suy nghĩ về đặc điểm của Nho giáo ở Việt Nam” của Nguyễn
Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 5 năm 1998; “Tìm hiểu tư tưởng đức trị trong Nho giáo”
của Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Nghiên cứu lyự luận, số 10 năm 1999.
Trong những công trình, luận án và các bài viết trên, nhiều vấn đề quan trọng của
Nho giáo đã được đem ra bàn luận, như: Vì sao Nho giáo lại có sức sống dai dẳng hàng
nghìn năm ở nhiều nước phương Đông? Nho giáo là học thuyết chính trị - xã hội hay là
học thuyết về đạo đức, nhân luân; về Trung - Hiếu - Lễ và ảnh hưởng của nó đối với đời
sống đạo đức con người ?... Mặc dù vậy, việc nghiên cứu tư tưởng “Hiếu” trong Nho giáo
và ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau hiện nay thì chưa có
công trình nghiên cứu nào đề cập một cách có hệ thống.
Thách thức lớn nhất đối với gia đình Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI
là cùng với việc tiếp thu những giá trị nhân văn trong xu thế hội nhập, đồng thời phải
phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam, đảm bảo cho sự phát
triển lâu dài của đất nước. Chính vì thế, định hướng cơ bản cho gia đình Việt Nam phát
triển bền vững trong xu thế hội nhập quốc tế đã được Đảng và Nhà nước ta xác định
trong Chỉ thị 49- CT/TW (ngày 21 tháng 02 năm 2005) của Ban Bí thư về "Xây dựng gia
đình thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Tư tưởng chủ đạo của văn bản
quan trọng này đòi hỏi chúng ta cần nhận thức rõ: "Gia đình là một trong những nhân tố
quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội" [65, tr.12].
Với việc quan tâm vấn đề sâu rộng này, tác giả đề cập qua luận văn: Tư tưởng
"Hiếu" trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối đời sống đạo đức gia đỡnh ở Cà
Mau.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu nội dung tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo và phân tích ảnh hưởng của
nó đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau hiện nay. Trên cơ sở đó kiến nghị những
giải pháp cơ bản để kế thừa những giá trị và loại bỏ mặt hạn chế của tư tưởng "Hiếu"
trong Nho giáo nhằm xây dựng đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày nội dung tư tưởng "Hiếu'' và sự biến đổi của nó trong Nho giáo
Trung Quốc và Việt Nam.
Thứ hai, phân tích những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của tư tưởng "Hiếu" đối
với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn
chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng "Hiếu" đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức
gia đình ở Cà Mau.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức có nội dung rất phong phú, bao quát
nhiều lĩnh vực của đời sống con người. Trong phạm vi luận văn thạc sĩ, đề tài được giới
hạn trong việc nghiên cứu nội dung tư tưởng "Hiếu" của Nho giáo, những biến đổi của nó
trong ba giai đoạn phát triển chủ yếu (Nho giáo thời Tiên Tần, Nho giáo thời Hán, Nho
giáo thời Tống); tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo Việt Nam và ảnh hưởng của nó đối với
đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Để thực hiện được những yêu cầu trên, luận văn dựa trên quan điểm triết học và
đạo đức học Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản; đồng thời có kế thừa kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học đã được
công bố của các tác giả (hoặc tập thể tác giả) trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp cụ thể như:
Phân tích và tổng hợp, lịch sử và logic, hệ thống, điều tra anket, đối chiếu, so sánh, thống
kê để trình bày những vấn đề đặt ra trong luận văn
6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận văn
Nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung cơ bản của tư tưởng "Hiếu" trong Nho
giáo ở Trung Quốc. Phân tích sự du nhập và biến đổi của tư tưởng "Hiếu" ở Việt Nam,
chỉ ra những ảnh hưởng của nó trong việc giáo dục đạo đức gia đình ở một địa phương cụ
thể là Cà Mau.
Công trình này có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu
và giảng dạy triết học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
TƯ TƯởNG “hiếu” trong nho giáo trung quốc
và việt nam
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời trong thời Xuân Thu chiến
quốc, là giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội Trung Hoa cổ đại trong quá trình
chuyển biến sang xã hội phong kiến, kéo dài từ thế kỷ thứ VII trước Công nguyên đến thế
kỷ thứ III trước Công nguyên. Trong Sử ký, Tư Mã Thiên miêu tả thời kỳ này là thời đại
“vương đạo suy vi”, “bá đạo” cường thịnh, lấn át “vương đạo”, chế độ tông pháp của nhà
Chu bị đảo lộn, đạo lý nhân luân suy đồi “vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo
tôi, cha không phải đạo cha, con không phải đạo con ” (quân bất quân, thần bất thần, phụ
bất phụ, tử bất tử) [84, tr.28].
Trước bối cảnh xã hội như vậy, các nhà tư tưởng có tâm huyết đua nhau tìm kiếm
nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm ổn định trật tự xã hội. Đây là thời kỳ tư tưởng
Triết học Trung Quốc phát triển nở rộ, nhiều triết thuyết xuất hiện như: Nho gia, Pháp
gia, Mặc gia, Đạo gia… Người ta gọi đó là thời kỳ “bách hoa đề phóng, bách gia tranh
minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng). Trong số bách gia xuất hiện thời Tiên Tần ở
Trung Quốc thì Nho giáo là một trong những học thuyết có sức sống lâu dài nhất. Hơn
2000 năm của chế độ phong kiến Trung Quốc, đã trải qua bao triều đại khác nhau, bao
biến động, thăng trầm của xã hội nhưng địa vị thống trị của Nho giáo trong thượng tầng
kiến trúc vẫn được giữ vững. Các triều đại Phong kiến Trung Quốc xem Khổng Tử là
người thầy của muôn đời “Vạn thế sư biểu”. Khổng Tử cho rằng: xã hội loạn lạc là bởi
con người “vô đạo”, cần đưa con người trở về “hữu đạo” bằng con đường giáo hóa. “Đạo
hiếu” là một trong những phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo để giáo hóa con người
góp phần ổn định trật tự xã hội. Nối tiếp tinh thần trên, các nhà Nho đời sau tiếp tục bổ
sung và củng cố luận điểm đó của Khổng Tử.
1.1. Quan niệm của Nho giáo về tầm quan trọng của giáo dục đạo đức trong
gia đình
Nho giáo từ đời nhà Hán trở thành hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến Trung quốc,
nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến, bản thân nó mang nhiều yếu tố bảo thủ,
tiêu cực. Tuy nhiên, đó là một học thuyết tồn tại hàng nghìn năm, nên cũng có những giá
trị mang tính phổ biến và chứa đựng nhiều tư tưởng triết học sâu sắc không thể không
thừa nhận, trong đó có nội dung giáo dục đạo đức gia đình.
Trong học thuyết Nho giáo, gia đình là một phạm trù lớn, chứa đựng nhiều nội dung
thâm thúy, ý nghĩa sâu xa có nhiều ảnh hưởng đến những phạm trù khác về đạo đức và
cuộc sống con người. Coi gia đình là cơ sở của xã hội, Nho giáo nêu cao nguyên lý thiên
hạ quốc gia và dẫn giải rằng: gốc của thiên hạ là nước, gốc của nước là nhà, gốc của nhà
là bản thân (Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản tại thân) [6, tr.13].
Chính vì thế, muốn trị nước trước hết phải yên nhà (Dục trị kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia)
[7, tr.21]. Bậc quân tử trước hết phải làm cho nhà mình tề chỉnh thì dân chúng mới làm
theo, do đó mà tề chỉnh được mọi nhà dân, trị yên được cả nước. “Một nhà nhân hậu thì
cả nước dấy lên nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước dấy lên lễ nhượng” (Nhất gia
nhân, nhất quốc hưng nhân; nhất gia nhượng, nhất quốc hưng nhượng) [7, tr.20]. Đạo Khổng
xem gia đình là một trong ba khâu không thể thiếu của hoạt động con người: Tu thân, tề gia,
trị quốc.
Nho giáo xây dựng nên những mối quan hệ chặt chẽ trong gia đình. “Cha ra cha,
con ra con, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, thế là gia đạo chính”. Trong
ba mối quan hệ (cha con, chồng vợ, anh em) làm nên cái gọi là “gia đạo chính” ấy, thì
quan hệ cha con, anh em tiêu biểu bằng chữ Hiếu và chữ Đễ, đã được Nho giáo tôn lên
rất cao, đặt vào một vị trí đặc biệt quan trọng, trở thành cốt lõi của các quan hệ trong toàn
xã hội.
Nho giáo rất chú trọng yếu tố giáo dục gia đình, coi giáo dục gia đình là toàn bộ
giáo dục xã hội. Khổng Tử quan niệm, đạo đức gắn liền với chính trị, chính trị chẳng qua
là sự mở rộng của đạo đức. Trong học thuyết của ông, đạo đức gắn liền với chính trị,
quan hệ chặt chẽ với chính trị, bởi vì nó dựa trên cơ sở huyết thống, lấy huyết thống để
xác định liều lượng đậm nhạt của nhân ái. Cho nên, quan hệ huyết thống trong gia đình là
cơ sở học thuyết nói về người quân tử chú tâm vào gốc rễ, gốc rễ có vững thì đạo mới
phát sinh được và Hiếu Đễ chính là gốc rễ của Nhân, là hạt nhân của nội dung giáo dục
đạo đức.
Xưa nay, chưa một học thuyết nào, một trường phái nào như Nho giáo đã đề cập
chữ Hiếu một cách sâu sắc, cụ thể và đầy đủ đến thế. Nho giáo có chủ đích rõ ràng trong
việc xây dựng những quan hệ chặt chẽ trong gia đình và phát triển chúng thành những
quan hệ trong toàn xã hội, trong việc xây dựng những tình cảm và đức tính tốt trong gia
đình, từ đó vun đắp chúng trở thành những tình cảm và đức tốt trong đạo thờ vua, trị
nước. Nho giáo nói không che đậy: “Hiếu là để phụng sự nhà vua đấy, Đễ là để phụng sự
bề trên đấy, Từ là để sai khiến dân chúng đấy” (Hiếu giả sở dĩ sự quân giã; đễ giả sở dĩ sự
trưởng giã, Từ giả sở dĩ sử chúng giã) [7, tr.20]. Nho giáo vì thế rất coi trọng việc giáo
dục trong gia đình. Đó là trường học đầu tiên để giáo dục con người đi vào xã hội. “Thân
yêu cha mẹ mình, vì đó mà cư xử có nhân với người đời” (Thân thân, nhi, nhân dân) [6,
tr.252].
Cũng từ quan điểm huyết thống, Nho giáo đòi hỏi sự gắn bó chặt chẽ giữa những
thành viên trong cùng một gia đình, một dòng họ. Nho giáo kêu gọi họ yêu thương đùm
bọc lẫn nhau, khuyến khích nhau giữ gìn danh dự và phát huy truyền thống của gia đình,
của dòng họ. Những nghi thức ứng xử hàng ngày, những lời răn dạy của cha ông với
những gia huấn, gia ngữ được lưu truyền đến các đời con cháu. Việc thờ cúng ông bà cha
mẹ trong nhà gắn với việc thờ cúng tổ tiên trong họ, việc xây dựng nhà thờ, sửa sang mồ
mả, sưu tầm ghi chép gia phả... đều góp phần làm khắng khít thêm các mối quan hệ trong
gia đình, gia tộc. Đã có nhiều biểu hiện tốt đẹp của tình người được nảy sinh từ đó.
Gia đình trở thành hòn đá tảng của lâu đài phong kiến. Từ đạo đức trong gia đình
đến chính trị ngoài xã hội đều có liên quan đến nhau. Cũng vì vậy, muốn đánh giá được
phẩm chất của một người ở ngoài xã hội, muốn xem có nên cân nhắc và sử dụng họ không,
trước tiên người ta phải xem tư cách, thái độ của người ấy trong gia đình ra sao. Có đối xử
tốt trong gia đình, mới có thể đối xử tốt ngoài xã hội. “Bậc quân tử có ăn ở hợp lý ở trong
nhà, mới có thể dạy người trong nước” (Nghi kỳ gia nhân, nhi hậu khả dĩ giáo quốc nhân) [7,
tr.20], và “đã là người hiếu đễ mà lại thích phạm thượng điều đó có ít thôi. Đã không
thích phạm thượng mà lại thích làm loạn thì điều đó chưa có bao giờ” (Kỳ vi nhơn giã,
hiếu đễ, nhi háo phạm thượng giả, tiển hỹ. Bất háo phạm thượng, nhi háo tác loạn giả, vi
chi hữu giã) [5, tr.4]. Từ đó, Nho giáo khẳng định rằng sự giáo dục từ trong gia đình có tác
động mạnh mẽ, thậm chí quyết định sự thành công trong việc trị nước. “Đem những điều ấy
ra mà thi thố trong thiên hạ thì không có điều gì mà không làm được” (Thố chư thiên hạ vô
sở bất hành) (lễ ký).
Có thể nói, toàn bộ giáo dục gia đình theo Nho giáo nhằm tạo nên “phụ phụ tử tử,
huynh huynh đệ đệ” (cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em). Trong mối quan hệ
cha con, anh em ấy thì “phụ từ tử hiếu, huynh lương đệ đễ” (cha nhân từ, con có hiếu, anh
rộng lượng, em kính trọng). Tác dụng của giáo dục gia đình theo Nho giáo là nhằm tạo ra
con người có nhân trong gia đình, từ đó có nhân với người khác. Thậm chí, chỉ cần mọi
người thực sự yêu thương cha mẹ bà con mình, thì tự nhiên thiên hạ sẽ được thái bình:
“Nhơn nhơn thân kỳ thân, trưởng kỳ trưởng, nhi thiên hạ bình” [6, tr.22]. Theo Nho giáo,
giáo dục gia đình là nhằm tạo ra nhà nhà hòa mục, cả nước dấy lên hòa mục, gia đình hòa
thuận là cái gốc góp vào mối quan hệ xóm làng đất nước hòa thuận. Do vậy, muốn xây
dựng một xã hội hòa mục thân ái, ổn định trật tự xã hội, cần phải có một chính quyền
thống nhất quy về đầu mối duy nhất là thiên tử, khắp nơi có trật tự, thế giới hòa mục
trong gia đình.
Tóm lại, theo Nho giáo, “Hiếu” có một ư nghĩa quan trọng nhằm xây dựng một xã
hội trật tự, ổn định, hòa mục. Gia đình là đơn vị kết cấu cơ bản nhất của xã hội, sự ổn
định của gia đình có tác dụng trong việc củng cố xã hội. “Hiếu” có tác dụng tích cực
trong việc củng cố gia đình. Khổng Tử đã dùng đạo hiếu với mấu chốt là quan hệ huyết
thống để gắn kết xã hội tông pháp dòng tộc.
1.2. Tư tưởng “Hiếu” và sự biến đổi của nó trong lịch sử Nho giáo Trung
Quốc
1.2.1. Khái niệm “Hiếu"
Đạo hiếu theo nghĩa hẹp: Là chỉ sự hiếu thuận đối với cha mẹ của con cái, đó là
kính yêu, phụng dưỡng cha mẹ, vâng theo di huấn của tổ tiên, thực hiện đầy đủ giỗ kợ…
Lòng hiếu của những người cùng huyết thống còn bao gồm “hiếu đễ”, tức là lòng kính
yêu đối với anh chị.
Chẳng hạn, Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh sự hiếu thuận đối với cha mẹ và xem đó
là một phẩm chất đạo đức cao đẹp của con người. Ông nói: “Làm cha mẹ, ai cũng lo cho
con, sợ con phóng túng mà hư thân mất nết, sợ con theo bạn xấu mà làm chuyện phi
pháp, mắc vòng tù tội. Cho nên đi chơi nhà ai thì nên cho cha mẹ biết trước, phòng khi
giao du với kẻ chẳng xứng đáng thì cha mẹ khuyên can” (phụ mẫu tại, bất viễn du; du,
tất hữu phương) [5, tr.58], hay: “Làm con nên xem xét chí hướng của cha. Đến khi cha
thác, người con được trọn quyền hành động, cho nên phải nhớ tới những việc làm của
cha. Nhưng khi cha thác trong ba năm, bấy giờ người con đương để tang, cho nên chẳng
có vui sướng gì mà cải tạo, vì vậy nên được gọi là hiếu” (phụ tại, quan kỳ chí. Phụ một,
quan kỳ hạnh. Tam niên vô cải ư phụ chi đạo, khả vị hiếu kỹ) [5, tr.8].
Bên cạnh lòng "Hiếu" đối với cha mẹ, Khổng Tử còn nhấn mạnh sự kính yêu của
em đối với anh và gọi đó là “đễ”. Do đó, Khổng Tử cho rằng “Làm con khi vào thì thảo
với cha mẹ, khi ra thì kính anh chị và người lớn tuổi” (Đệ tử nhập tắc hiếu; xuất tắc đễ)
[5, tr.6]. Đây là chuẩn mực cơ bản nhất của Đạo hiếu và là quy phạm sơ đẳng nhất cho
hành vi con người.
Đạo hiếu nghĩa rộng: Là trung hiếu, đó là lòng kính yêu giữa người với người
trong xã hội, bao gồm lòng hiếu của trẻ đối với già, của kẻ dưới với người trên, lòng
trung của tôi thần với quân vương, của dân đối với nước.
Đó là bước sáng tạo lớn nhất của Khổng Tử, Đạo Hiếu còn là kính yêu giữa những
người không cùng quan hệ huyết thống. “Trung Hiếu là đạo hiếu được xã hội hóa, chính
trị hóa, là người nào nói lời chi cũng trung thành, tín thật, làm việc chi cũng đối hậu, kính
cẩn, dẫu cho đến xứ thô - tục của người miền Nam hay miền Bắc, cũng được thông hành”
(Ngôn trung tín, hạnh đốc kính, tuy Man Mạch chi bang, hành hỹ) [5, tr.240]. Hai chữ
“Trung hiếu” đã gây nên những ảnh hưởng sâu sắc đối với lịch sử Trung Quốc, dù rằng
tích cực hay tiêu cực, nó có tác dụng mạnh mẽ trong việc duy trì sự thống trị của xã hội
phong kiến. Nhưng đây cũng là chiếc gông tinh thần được giai cấp thống trị dùng để kìm
kẹp, trói buộc và nô dịch người dân.
Chữ “Hiếu” không phải là của giai cấp phong kiến vì từ khi có xã hội loài người, có
các thế hệ thì mối quan hệ giữa thế hệ sau với thế hệ trước chính là chữ “Hiếu“. Mối quan
hệ giữa thế hệ sau và thế hệ trước trong xã hội không phải là bất biến, xã hội luôn biến
đổi thì mối quan hệ giữa con cái với ông bà, cha mẹ cũng có những biến đổi cho phù hợp,
nhưng cái cốt lõi vẫn không thay đổi là sự biết ơn, kính trọng, vâng lời và chăm sóc cha
mẹ. Quan niệm về chữ “Hiếu” thể hiện sớm nhất ở Kim Văn:
“Thiên tử anh minh cầu hiếu với thần linh”
“Dùng lễ để tỏ hiếu với người xưa”
“Lấy việc truyền ngôi để tỏ hiếu với vua xưa”
“Dùng lễ để tỏ hiếu với Tổ tiên hoàng tộc” [73, tr.249].
Quan niệm về “Hiếu“ trong Kim Văn vẫn chưa phát triển đến trình độ cao. Sau này
người Ân đặc biệt coi trọng tang lễ nên tục thờ cúng của người Ân là trung tâm sinh hoạt
của tôn giáo. Người Chu kế thừa tôn giáo thờ cúng tổ tiên của người Ân và có sự phát
triển hơn, làm cho quan hệ giữa người với thượng đế mật thiết hơn nhiều và sau khi hóa
thần thì trở thành đối tượng hiếu kính chung. Vì vậy, ý nghĩa nguyên thủy của chữ
“Hiếu” là sự kết hợp giữa tôn giáo và luân lý, nhằm đẩy mạnh sự đoàn kết dân tộc và sự
thống nhất về chính trị.
Thời Xuân thu - Chiến quốc, Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức đã đề
cập đến nhiều nội dung, trong đó có nội dung giáo dục tư tưởng “Hiếu” cho con người.
Mỗi thời kỳ lịch sử đều có những quan điểm khác nhau về “Hiếu”, người đầu tiên bàn
nhiều đến tư tưởng về “Hiếu” là Khổng tử và Mạnh tử, về sau Đổng Trọng Thư phát triển
tư tưởng này.
1.2.2. Nội dung tư tưởng “Hiếu” và sự biến đổi của nó trong lịch sử Nho giáo
Trung Quốc
1.2.2.1. Nội dung tư tưởng “Hiếu” của Nho giáo thời Tiền Tần (Thế kỷ VI trước
Công nguyên - Thế kỷ III trước Công nguyên)
Sự hình thành và phát triển của Nho giáo thời Tiên Tần gắn liền với tên tuổi của
người sáng lập là Khổng Tử và hai nhà tư tưởng lớn là Mạnh Tử và Tuân Tử.
Thời đại Khổng Tử là thời đại suy tàn của chế độ nô lệ và chế độ sơ kỳ phong kiến
đang lên, mệnh lệnh "Thiên tử" nhà Chu không còn được tuân thủ, trật tự lễ nghĩa, cương
thường xã hội đảo lộn, đạo đức suy đồi. Nạn chư hầu chiếm ngôi "Thiên tử", đại phu lấn
quyền chư hầu, tôi giết vua, cha giết con, anh hại em, vợ lìa chồng thường xuyên xảy
ra….Để lập lại trật tự xã hội, các nhà Nho chủ trương dùng “đức trị". Có thể nói, “Nhân"
là quan niệm tiêu biểu trong tư tưởng Khổng - Mạnh, trong đó “Hiếu đễ" là gốc của
Nhân.
Đề cao tột bậc hai chữ “Hiếu đễ", thầy trò Khổng Khâu đã tốn rất nhiều công phu
để định rõ nội dung ý nghĩa của hai chữ ấy, nhất là của chữ “Hiếu“ theo yêu cầu giáo dục
của mình. Hiếu kính cha mẹ tức là phải tôn trọng, kính yêu, phụng dưỡng cha mẹ, làm
con phải cảm kích đối với công ơn sinh thành, nuôi dưỡng giáo dục của cha mẹ, thực
hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của người con đối với cha mẹ. Nho giáo cho rằng: “làm cho
cha mẹ được tôn trọng là bậc hiếu cao nhất, không làm nhục cha mẹ là bậc hiếu thứ hai,
có thể nuôi cha mẹ là bậc hiếu cuối cùng" (Hiếu hữu Tam: Đại hiếu tôn thân, kỳ hiếu
phất nhục, kỳ hạ năng dưỡng) [73, tr.265].
Thông thường, người ta hiểu rằng “Hiếu“ là đức của con người, làm con hết lòng
kính yêu cha mẹ khi cha mẹ còn sống, kế thừa ý chí, đạo lý của cha mẹ sau khi cha mẹ
qua đời. Nhưng Nho giáo còn coi nhà là gốc của nước, cũng như nước là gốc của thiên
hạ, do đó muốn bình thiên hạ phải biết trị quốc, muốn trị quốc phải biết tề gia. “Hiếu đễ"
không chỉ là đức tốt của con người làm anh em, làm con trong nhà mà còn luyện cho con
người trở thành hữu đạo, hữu đức trong nước, trong thiên hạ nữa. Trong phạm vi nhà, sợi
dây thiêng liêng đầu tiên buộc chặt con người với người khác sau khi ra đời là tình nghĩa
của người con đối với cha mẹ, nên khi bắt đầu có tình cảm và tư duy, trẻ con phải bắt đầu
học tập để giữ đúng đạo làm con và có đức hiếu. Đồng thời, trong cuộc sống gia đình có
đạo làm con và có đức hiếu với cha mẹ thì khi lớn lên cũng trở thành người cha Từ.
Trong phạm vi nước và thiên hạ, những người con như vậy cũng dễ trở thành những
người làm nên nghiệp lớn hoặc có phần cống hiến trong công việc trị quốc. Từ đó suy ra,
Tăng Sâm viết trong cuốn Đại học, “Hiếu là để phụng sự nhà vua đấy, Đễ là để phụng sự
bề trên đấy, Từ là để sai khiến dân đấy" (Hiếu giả sở dĩ sự quân giã; đễ giã sở dĩ sự
trưởng giã; Từ giã sở dĩ sử chúng giã) [7, tr.20].
Có thể nói rằng, nội dung chữ “Hiếu" của Khổng - Mạnh chủ yếu nhấn mạnh vào
những điều có ý nghĩa cao sâu hơn về mặt tư duy triết học. Từ nhiều luận điểm trong Tứ
thư, Ngũ kinh và nhiều tài liệu diễn giải của những danh Nho về sau, ta thấy nguyên lý
“dương danh hiển thân" là cách báo hiếu tốt nhất, vì có “dương danh hiển thân" mới
mang lại cho cha mẹ uy tín và làm cho cha mẹ được tôn trọng “đại hiếu tôn thân". Rất sợ
con em “đổi khác", Nho giáo làm mọi cách cho con cháu đi theo đúng đạo của cha ông,
cứ kế thừa và hoàn thành sự nghiệp của cha ông mà làm nên sự nghiệp lớn, vươn cao lên
mãi, con hơn cha thì nhà càng tốt phúc. Nghiệp lớn đòi hỏi phải vượt ra ngoài phạm vi
“nhà“. Gắn chặt việc phụng sự cha mẹ, phục vụ cha mẹ với giữ gìn bản thân mình, “việc
phụng sự là lớn? Việc phụng sự cha mẹ là lớn. Việc giữ gìn gì là lớn? Việc giữ gìn thân
thể là lớn" (Sự thục vi đại? Sự thân vi đại, Thủ thục vi đại? Thủ thân vi đại”) [6, tr.30].
“Hiếu" là phải tôn kính cha mẹ, không làm gì để cho cha mẹ mang nhục; người con phải
làm nên nghiệp lớn không chỉ rạng danh cho mình mà còn làm vinh hiển cho cha mẹ, làm
cho cha mẹ được người đời kính trọng - đó mới chí cực là Hiếu. Mạnh Tử từng nói rằng,
“chỗ chí hiếu của người con, không chi lớn bằng làm cho cha mẹ được tôn trọng, chỗ làm
cho cha mẹ được tôn trọng chí cực, không chi lớn bằng đem huê lợi trong thiên hạ mà
phụng dưỡng cha mẹ” (Hiếu - tử chi chí, mạc đại hồ tôn thân; tôn thân chi chí, mạc đại
hồ dĩ thiên - hạ dưỡng) [6, tr.88]. Từ chỗ đẻ ra một người bình thường đi đến chỗ trở
thành “quốc phụ”, “quốc mẫu”, có khi trở thành phụ mẫu cả thiên hạ, chẳng phải là cao
quý cực độ ư? Trong cuốn Hiếu kinh (kinh về đạo hiếu), có câu “lập thân hành đạo, nêu
cao thanh danh đến đời sau để làm vinh hiển cho cha mẹ”.
Dạy người ta Đạo hiếu, khuyên người ta “phụng sự cha mẹ, giữ gìn bản thân”, “nối
tiếp - làm theo cha ông” và chỉ dẫn cho người ta “Tu thân - Tề gia - Trị quốc - Bình thiên
hạ”, Khổng - Mạnh thường đưa Nghiêu -Thuấn ra làm mẫu mực. Là người có hiếu,
Thuấn được vua Nghiêu gả cho cả hai con gái một lúc và truyền ngôi báu cho, trở thành
Thiên tử, “dương danh hiển thân” đến tột bậc, càng rõ ràng là hiếu hơn ai cả.
Đạo hiếu của Nho giáo thật là cao siêu, kỳ diệu và huyền ảo. Đó là chưa kể đến biện
pháp giáo dục đức Hiếu của Nho giáo về vấn đề nuôi dưỡng cha mẹ. Với Nho giáo,
người làm con trước hết phải thực hành đạo hiếu. Khổng Tử không nhấn mạnh đến của
cải do con cái làm cho cha mẹ mà chủ yếu nói đến “tâm” để đánh giá lòng hiếu thảo.
Theo ông, hiếu của con cái đối với cha mẹ, không chỉ phụng dưỡng người đã sinh ra
mình mà trước hết phải có lòng thành kính nuôi được cha mẹ, nuôi dưỡng được cha mẹ là
điều tốt nhưng phải bằng tấm lòng kính yêu chân thành chứ đừng như đời nay “hễ thấy ai
nuôi được cha mẹ thì khen là có hiếu. Nhưng chó ngựa thì người ta cũng nuôi nên nuôi
cha mẹ mà chẳng kính trọng thì khác gì nuôi súc vật” (Kim chi hiếu giả, thị vị năng
dưỡng. Chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng. Bất kính, hà dĩ biệt hồ) [5, tr.18]. Đồng
thời, “làm con đối với cha mẹ lúc nào cũng tỏ vẻ hòa vui, giữ được như vậy mới khó, mới
đáng gọi là hiếu” (Sắc nan. Hữu sự, đệ tử phục kỳ lao) [5, tr.18], nghĩa là:
Đối xử với cha mẹ, việc cho ăn cho uống là dễ làm, làm việc thay cho
cha mẹ cũng dễ dàng, còn lo toan cho cha mẹ khi đau yếu bệnh tật là khó làm
và khó làm tốt. Còn trước mặt cha mẹ, bất cứ hoàn cảnh nào đều giữ được nét
mặt vui vẻ là điều hết sức khó làm. Đối xử với cha mẹ, không có sự quan tâm
tự đáy lòng được xem là hiếu ư? [61, tr.53].
Khi cha mẹ còn sống, không bao giờ làm gì để cho cha mẹ ưu tư phiền muộn bực
mình, không đưa lại phiền phức cho cha mẹ, bởi vậy “không nên đi đâu xa, có đi xa thì phải
nói cha mẹ biết chỗ để cha mẹ khỏi lo và nhỡ có việc gì, có thể tìm gọi được” (Phụ mẫu tại,
bất viễn du; du, tất hữu phương) [5, tr.58]. Khi có tang gia, giữa tiền bạc và tấm lòng,
Khổng tử cho rằng “buồn thương thực sự cao hơn tiền bạc” (tang, dữ kỳ dị giã, ninh
thích) [5, tr.32].
Hiếu là “nết đầu trong trăm nết”. Hành vi của người ta không gì lớn bằng chữ
“Hiếu”, người con có hiếu có ý thức đầy đủ về tình cảm và bổn phận của mình đối với
cha mẹ, đó là sự biết ơn, cù lao chín chữ “cha sinh ra ta, mẹ nuôi ta, thương thay cha mẹ” (ai
ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao). Đó là ý nguyện thường xuyên làm sao để cha mẹ được vui
sướng, dù mình có phải ăn gạo xấu, uống nước lã cũng thỏa lòng (lễ ký). Đó là lòng người
con suốt đời yêu mến cha mẹ “trọn đời lúc nào cũng luyến mộ cha mẹ. Đến năm mươi tuổi mà
còn luyến mộ cha mẹ như lúc còn nhỏ, ta chỉ gương ấy ở vua Đại Thuấn mà thôi” (Đại - hiếu
chung thân mộ phụ mẫu. Ngũ thập nhi mộ giả, dư ư Đại - Thuấn kiến chi hỹ) [6, tr.78]. Đó là
quyết chí lập thân hành đạo làm vinh hiển cho cha mẹ.
Hiếu là đức của người con tận tâm, thành kính khi cha mẹ còn sống và cả tình cảm,
thái độ đối xử với cha mẹ trong quan hệ với người khác sau khi cha mẹ mất, nghĩa là phải
biết “kính những người mà cha mẹ tôn trọng, yêu những người mà cha mẹ thân yêu”
(kính kỳ sở tôn, ái kỳ sở thân) [7, tr.64]. Nho giáo còn đặt ra yêu cầu, đòi hỏi trong đạo
làm con, rằng người con hiếu thảo phải nhớ được tuổi của cha mẹ mình - “Nhớ biết như
vậy, một là để vui mừng vì cha mẹ được sống lâu, hai là để lo sợ cho cha mẹ già yếu”
(Phụ mẫu chi niên, bất khả bất tri giã. Nhứt tắc dĩ hỹ, nhứt tắc dĩ cụ) [5, tr.60]… Việc tôn
trọng, phụng sự cha mẹ của người con có hiếu, theo Nho giáo còn phải giữ gìn bản thân
mình, chớ để cha mẹ lo lắng - tức là, việc thờ cha mẹ phải gắn với việc giữ bản thân (sự
thân và thủ thân phải gắn liền với nhau), người con biết giữ gìn thân thể lành mạnh, trọn
vẹn để cha mẹ yên tâm thì cũng đã là việc báo hiếu rồi bởi “bậc cha mẹ chỉ lo sợ con cái
mang bệnh tật mà thôi”. Trong các việc phải phụng sự thì việc phụng sự cha mẹ là lớn,
còn trong những cái phải giữ gìn thì giữ gìn thân thể mình là căn bản. Chính vì thế, người
con làm việc gì cũng phải thận trọng như “đi trên lớp băng mỏng”, không được phép làm
càn mà hủy hoại thân thể khiến cha mẹ đau lòng.
Đạo hiếu của Khổng Tử là nguyên tắc cơ bản duy trì trật tự trên dưới và có đóng
góp lớn đối với xã hội truyền thống, đó là ông đã đưa ra một chuẩn mực về đạo đức luân
lý, mà “Hiếu” được tạo nên bằng những chuẩn mực. Điều cơ bản trong chuẩn mực đó là
“vô vi”. “Vô vi” nghĩa là không được vi phạm lễ, Khổng Tử giải thích “vô vi” nghĩa là
“sống thì phụng dưỡng thân thể, chết thì an táng theo lễ, thờ cúng theo lễ” (sanh, sự chi
dĩ lễ; tử, táng chi dĩ lễ; tế chi dĩ lễ) [5, tr.16]. Như vậy, có nghĩa là phận làm con phải có
hiếu với cha mẹ, không những lúc còn sống mà cả sau lúc cha mẹ đã mất, “tất cả mọi
biểu hiện tâm lý trước mặt cha mẹ đều không được vi phạm yêu cầu của lễ. Đây được gọi
là có hiếu, là điều cơ bản của đạo hiếu” [61, tr.53]. Do vậy, ta thấy quan niệm về “Hiếu”
của Nho giáo vừa mang tính luân lý, vừa thuộc lĩnh vực tôn giáo và tục thờ cúng tổ tiên
đã được truyền lại đi vào tâm lý của người Trung Quốc, trở thành phổ biến. Những giải
thích khác của Khổng Tử về đạo Hiếu như “để tang cha ba năm”, “có lời khuyên mà cha
mẹ không nghe thì vẫn phải tôn kính, không được làm điều sai”... đều xuất phát từ
nguyên tắc vô vi. Nguyên tắc này giúp ích cho việc duy trì chế độ gia tộc.
Mặt khác, Nho giáo đều lấy “Hiếu Đễ" và “lễ nhạc" làm nền tảng cơ sở cho sự giáo
hóa, coi Nhân là đỉnh cao chót vót của tháp ngà đạo đức. Khổng tử lại đặt vấn đề: “Hiếu
đễ là cái gốc của đức nhân chăng ?" (Hiếu đễ giã giả, kỳ vi nhân, chi bổn dự) [5, tr.5],
nên người có nhân phải có đức “Hiếu đễ " - nuôi dưỡng và thành kính với cha mẹ, có
lòng kính yêu cha mẹ và người lớn trong nhà thì mới biết kính yêu người ngoài. Khi
chúng ta nói "nhân là chuẩn mực tối cao của hành vi con người" thì chỉ là một cách nói
trừu tượng, phải qua hành vi chuẩn mực cụ thể là Hiếu thì Nhân mới được thể hiện. Nhân
là nguyên tắc phổ biến, Hiếu là nguyên tắc đặc thù. Nhưng trong hành vi thực tế, Nhân và
Hiếu tuy một mà hai, tuy hai mà một. Điển hình, có lần vì Tể Ngã không muốn tuân theo
việc để tang ba năm, Khổng Tử mắng “Tể Ngã bất nhân" (Dư chi bất nhân giã) [5,
tr.280], vì bất hiếu, không nhớ công cha mẹ bồng bế ba năm mà muốn rút ngắn thời gian
để tang từ ba năm xuống một năm. Như vậy, trong hành động cụ thể, bất hiếu cũng có
nghĩa là bất nhân vì theo Khổng Tử, “Hiếu“ không chỉ thể hiện thái độ của người con đối
với cha mẹ khi còn sống mà còn thể hiện hành vi của mình khi cha mẹ đã mất. “Nếu ba
năm (có nghĩa là nhiều năm) không thay đổi những quy tắc, quy phạm của đạo làm con
với cha, người như vậy được gọi là người có hiếu" (phụ một, quan kỳ hành. Tam niên vô
cải vu phụ chi đạo, khả vị hiếu hĩ) [61, tr.32].
Đặc biệt, quan niệm về Hiếu của Khổng Tử không phải là quan điểm một chiều,
không phải là cái nhất nhất nghe theo lời cha mẹ, mà khi cha mẹ có lầm lỗi gì, kẻ làm con
phải khuyên can một cách cung kính với lời lẽ dịu ngọt, dẫu cho cha mẹ không nghe hay
trừng phạt, đánh đập cũng chớ có oán hờn, khi cha mẹ phạm lỗi mà chẳng can gián thì đó
là con bất hiếu, nhưng nếu oán hận bất bình cũng không phải là hiếu vậy.Mạnh Tử dạy
các học trò rằng:
Khi cha mẹ phạm lỗi lầm lớn mà mình chẳng tỏ ý oán trách, đó là mình
coi cha mẹ như người dưng kẻ lạ, lúc cha mẹ phạm lỗi nhỏ mà mình đem lòng
oán hận thì đó là mình chẳng dằn nổi sự bất bình sơ sài. Coi cha mẹ như người
dưng kẻ lạ hay chẳng dằn nổi sự bất bình sơ sài cũng đều là bất hiếu (Thân chi
quá đại nhi bất oán, thị dũ sơ giã. Thân chi quá tiểu nhi oán, thị bất khả cơ giã.
Dũ sơ, bất - hiếu giã, bất khả cơ diệc, bất - hiếu giã) [6, tr. 184].
Hoặc quan điểm “cha ra cha, con ra con” của Khổng tử đòi hỏi cha mẹ phải đối xử với
con cái theo đúng đạo của mình “cha từ, con hiếu“ vì cha có chính từ thì không lâm vào điều
vô lễ cho nên con theo lệnh cha há đã là có hiếu.
Quan niệm về “Hiếu“ của Nho giáo còn đòi hỏi kẻ làm con phải biết che giấu những
lỗi lầm của cha mẹ, điều đó đã được các thánh hiền coi như hợp đạo. Bởi thế, khi Diệp
Công (vị tướng công cai trị huyện Diệp nước Sở) kể về gương một người ngay thẳng ở
xóm mình - cha bắt trộm dê mà con đi tố cáo, Khổng Tử trả lời “… cha che lỗi cho con,
con che lỗi cho cha, tính ngay thẳng ngụ trong đó rồi" (phụ vị tử ẩn, tử vị phụ ẩn; trực tại
kỳ trung hỹ) [5, tr.206], tình cha con là phải thương yêu che chở cho nhau. Giả sử, nếu
ông Cổ Tẩu (cha của Vua Thuấn) mà phạm tội giết người, ông Cao Dao làm quan sĩ nắm
giữ binh pháp thì cứ bắt Cổ Tẩu, nhưng "vua Thuấn lúc ấy cũng sẽ coi thiên hạ như một
đôi dép rách, quẳng nó đi để lén cõng cha mình đến một nơi bãi biển xa xôi, suốt đời vui
vẻ mà quên đi thiên hạ". (Thuấn thị khí thiên hạ, du khí tệ tỹ giã. Thiết phụ nhi đào; Tuân
hải tân nhi xử; chung thân hân nhiên lạc nhi vong thiên hạ) [6, tr.241], nghĩa là khi tình
riêng và phép nước xuất hiện mâu thuẫn thì các thánh sẽ đặt tình riêng lên trước, coi tình
nhà cao hơn phép nước. Đó là lôgic tất yếu xuất phát từ quan niệm coi “nhà là gốc của
nước" mà người quân tử thì coi trọng cái gốc.
Khổng Tử và các nhà nho thời Tiên Tần đề ra bổn phận, nghĩa vụ đạo đức về cả hai
phía, có đi có lại, "phụ từ -tử hiếu, quân nhân - thần trung". Tư tưởng ấy càng được Nho
giáo suy tôn và củng cố bền vững bằng những thuyết giáo về mặt tình cảm, huyết thống
và bằng sự nối liền hai chữ Hiếu - Trung. Qúy Khương Tử hỏi: "Muốn cho dân cung kính
mình, trung thành với mình và khuyên nhau làm lành, nhà cầm quyền phải làm thế
nào ?". Khổng Tử trả lời: "Nhà cầm quyền khi đến với dân, nên giữ cốt cách cho nghiêm
trang, thì dân cung kính. Đối với cha mẹ nên hiếu thuận; đối với con em và mọi người,
nên từ ái; thì dân sẽ trung thành với mình" (Lâm chi dĩ trang, tắc kính; hiếu từ, tắc trung)
[5, tr.24]. Chu Hy giải thích “Hiếu từ tắc Trung”, có nghĩa là hiếu với cha mẹ, nhân từ
với dân thì được dân trung thành với mình. Như vậy, ở đây Trung cũng là hệ quả của việc
lãnh tụ chính trị có hiếu với cha mẹ, nhân từ với dân chúng, không liên quan gì đến quan
niệm Trung quân, phục tùng vô điều kiện như người đời sau nói tới.
Tóm lại, đối với Khổng Tử, Hiếu là nguyên tắc cơ bản để duy trì trật tự trên dưới -
chức năng chủ yếu của nó là ổn định tổ chức gia tộc.
Đến Mạnh Tử thì ý nghĩa của “Hiếu" đã được mở rộng vô hạn định. Theo cách nói
của Mạnh Tử thì ở trên thế gian, ngoài Hiếu đễ ra, hầu như không còn gì có giá trị nữa.
Văn Vương là một tượng trưng của lý tưởng Nho gia nhưng ca ngợi đức độ của Văn
Vương, Mạnh Tử chỉ nói là ông ta biết thờ cha mẹ “vì ông coi việc tôn trọng người thân
là nguyên tắc tối cao". Mạnh Tử nói:
Chỗ đích thật của Nhân là thờ cha. Chỗ đích thật của Nghĩa là kính anh.
Chỗ đích thực của trí là biết rõ hai việc thờ cha, kính anh và chẳng hề bỏ bê
hai việc ấy. Chỗ đích thực của Lễ là khéo sắp đặt và tô điểm hai việc ấy. Chỗ
đích thực của nhạc là vui hòa trong hai việc ấy. Hễ mình vui hòa thì hai việc
thờ cha và kính anh sanh nở thêm [6, tr.35].
Mạnh Tử cho rằng bản chất của con người là thiện, là cơ sở tiên nghiệm của Hiếu
đễ.
Theo Mạnh Tử, Hiếu là đạo đức cao nhất ở đời, phụng sự cha mẹ, tôn kính cha mẹ
là biểu hiện đạo đức cao nhất của con người, Mạnh Tử nói “Thờ phụng ai quan trọng
nhất? Thờ phụng cha mẹ là quan trọng nhất” (Sự thục vi đại? Sự thân vi đại) [6, tr.30].
Mạnh Tử cho rằng: “phàm làm con, nếu cha mẹ có ghét, thì mình làm lụng cực nhọc cho
cha mẹ và chẳng hề than oán” (phụ mẫu ái chi hỷ nhi bất vong. Phụ mẫu ố chi, lao nhi bất
oán) [6, tr.74], có nghĩa là mặc dù cha mẹ không thương ta nhưng không được vì thế mà
giảm sút lòng hiếu thảo. Mạnh Tử còn nói “dẫu được lòng thiên hạ, mà chẳng được lòng
cha mẹ thì chẳng đáng làm người; dẫu thiên hạ quy thuận mình, mà mình chẳng thuận
hòa với cha mẹ thì chẳng đáng làm con” (Bất đắc hồ thân, bất khả dĩ vi nhơn; bất thuận
hồ thân, bất khả dĩ vi tử !) [6, tr.36]. Người con có hiếu đã trở thành ý nghĩa duy nhất của
cuộc đời. Hơn thế nữa “giàu có, sang trọng, đều chẳng đủ giải mối u sầu… chỉ có sự hòa
thuận với cha mẹ mới có thể giải lấp mối u sầu” (phú, quí vô túc dĩ giải ưu giã. Duy
thuận ư phụ mẫu, khả dĩ giải ưu) [6, tr.76]. Đó là chân giá trị của sự “vâng lời”, còn cao
hơn cả “giàu nhất thiên hạ”.
Mạnh Tử không chỉ bổ sung tư tưởng “Đạo Hiếu” về mặt luân lý mà còn tạo ra hai
nét điển hình về người con có hiếu để tăng hiệu quả truyền bá tư tưởng “Hiếu đễ”.
Điển hình thứ nhất là Vua Thuấn, Mạnh Tử ca ngợi đạo hiếu của vua Thuấn, trong
sách “Nhị thập tứ hiếu”, Thuấn đứng đầu danh sách:
“Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết
Thì suy ra trăm nết đều nên
Chẳng xem thuở trước thánh hiền
Hiếu hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu”.
Nhân vật điển hình thứ hai là Tăng Tử. Sách “Mạnh Tử” hai lần nói về câu chuyện
Tăng Tử có hiếu. Tăng Tử rõ ràng đã trở thành thần tượng về con người có hiếu trong
tâm khảm của người Trung Quốc. Trong sách “Nhị thấp tứ hiếu” của Quách Cư Nghiệp
đời Nguyên, Tăng Tử xếp thứ ba.
“Đời Chu mạt có thầy Tăng Tử
Thờ cha mẹ thời giữ thì thành
Bữa thường rượu thịt ngon lành
Cho ai, vâng cứ đinh ninh chẳng dời”.
Dạy người ta Đạo Hiếu, Khổng - Mạnh thường đưa Nghiêu - Thuấn ra làm mẫu
mực. Như vậy, Nho giáo có chủ đích rõ ràng trong việc xây dựng những quan hệ chặt chẽ
trong gia đình và phát triển chúng thành những quan hệ trong toàn xã hội, trong việc xây
dựng những tình cảm và đức tính tốt trong gia đình, từ đó vun đắp chúng trở thành những
tình cảm và đức tính tốt trong đạo thờ vua, trị nước. Vì thế, Nho giáo rất coi trọng việc
giáo dục trong gia đình. Đó là trường học đầu tiên để giáo dục con người đi vào xã hội.
“Thân yêu cha mẹ mình, vì đó mà cư xử có nhân với người đời” (Thân thân, nhi nhân
dân) [6, tr.252].
Cũng vì vậy, muốn đánh giá được phẩm chất của một người ở ngoài xã hội, muốn
xem có nên cân nhắc và sử dụng họ hay không, trước tiên ta phải xem tư cách, thái độ
của người ấy trong gia đình ra sao. Có đối xử tốt với gia đình mới có thể đối xử tốt ở
ngoài xã hội; “Như mình có nết hiếu với cha mẹ, là để mở rộng cái nết đó ra mà thờ vua
(quốc - trưởng); mình có nết đễ với anh, là để mở rộng cái nết đó ra mà kính bực quan
trưởng; mình có cái đức từ với cháu, là để mở rộng cái đức đó ra mà sai khiến chúng
dân” (Hiếu giả sở dĩ sự quân giã; đễ giả sở dĩ sự trưởng giã; từ giả sở dĩ sự chúng giã) [7,
tr.20]. Và “trong những người có nết hiếu (thảo với cha mẹ), nết đễ (kính anh chị và
người lớn tuổi), ít ai ưa trái nghịch với bề trên. đã không ưa thích trái nghịch với bề trên,
lại thích gây ra những cuộc phản loạn, người như vậy, ta chưa từng thấy” (Kỳ vi nhơn
giã, hiếu đễ, nhi háo phạm thượng giả, tiển hỹ. Bất háo phạm thượng, nhi háo tác loạn
giả, vị chi hữu giã) [5, tr.4]. Từ đó Nho giáo khẳng định rằng, sự giáo dục từ trong gia
đình có tác động mạnh mẽ, thậm chí quyết định sự thành công trong trị nước.
Với Tuân Tử, thì người con có hiếu có thể không theo mệnh cha, nếu như theo
mệnh thì cha mẹ nguy, theo mệnh thì cha mẹ nhục, theo mệnh thì là cầm thú. Phải chọn
cái đúng mà theo sao cho hợp đạo Trung, đúng đạo nghĩa và giữ được điều kính.
Tóm lại, Nho giáo thời Tiên Tần rất đề cao Hiếu và quan tâm đến vấn đề giáo dục
đạo Hiếu trong gia đình. Bởi lẽ, trong các phạm trù đạo đức của Nho giáo thì Nhân giữ
vai trò là trung tâm. Từ Nhân mà phát sinh ra các đức khác và các đức khác bị quy tụ cả
về với nó. Nhân có nội dung phong phú, ư nghĩa sâu rộng nhưng nghĩa chính là lòng
thương người. Khác với Mặc gia, lòng thương người (tức Nhân) của Nho giáo có phân
biệt thân với sơ, gần với xa, ít nhiều đậm nhạt khác nhau, lấy huyết thống làm cơ sở. Do
vậy lòng thương người phải được thể hiện trước hết từ trong phạm vi gia đình, sau đó
mới mở rộng ra họ hàng, làng, nước. Trong gia đình nổi lên hai mối quan hệ cơ bản: cha
mẹ với con cái (Hiếu), anh với em (Đễ). Từ đó, Hiếu, Đễ trở thành gốc của Nhân; Hiếu là
“nết đầu trong trăm nết”.
Tư tưởng Hiếu trong Nho giáo thời Tiền tần mang tính nhân văn khá sâu sắc. Từ
Khổng Tử đến Mạnh Tử và Tuân Tử đều đòi hỏi nghĩa vụ đạo đức trong gia đình phải
mang tính hai chiều. Bề trên phải gương mẫu, làm gương tốt cho kẻ dưới. Trong hệ cha -
con thì cha phải hiền từ, con phải hiếu thảo, nghĩa là nó yêu cầu cả trách nhiệm làm cha
làm mẹ. Còn Hiếu với cha mẹ là một sự phục tùng vô điều kiện, không phân biệt đúng
sai.
1.2.2.2. Nội dung tư tưởng “Hiếu” của Nho giáo thời Hán (thế kỷ III trước Công
nguyên - đầu thế kỷ III sau Công nguyên)
Sau khi tiêu diệt nhà Tần và kết thúc cục diện “Hán - Sở tranh hùng“, trước yêu cầu
củng cố chế độ phong kiến Trung ương tập quyền hùng mạnh với đường lối chính trị
mềm dẻo để an dân, giai cấp địa chủ phong kiến đã tìm thấy ở Nho giáo khả năng cố kết
và sức hướng tâm mạnh mẽ để đáp ứng được đòi hỏi đó “Trong con mắt của các vị hoàng
đế Hán Triều thì Khổng giáo tỏ ra có lợi cho hoàng đế về các mặt, sắp xếp trật tự tôn ty,
khép chặt thần dân vào các khâu trong cái lưới thống trị bao la của hoàng đế" [31, tr.42].
Trong bối cảnh đó, Đổng Trọng Thư nổi lên như một đại Nho - người có công “chính
thống hóa Nho giáo"và biến nó thành công cụ sắc bén phục vụ cho quyền thống trị của
tập đoàn phong kiến Hán tộc trong một quốc gia thống nhất rộng lớn. Dưới thời Hán Vũ
Đế, Đổng Trọng Thư đã tiến hành việc lựa chọn, sắp xếp lại các sách vở kinh điển cổ của
Nho giáo và phân thành năm loại: kinh thi, kinh thư, kinh lễ, kinh dịch, kinh xuân thu. Từ
đây, ngũ kinh trở thành “thánh kinh"của Nho giáo và không ai được hoài nghi về tính
đúng đắn của nó. "Do tư tưởng của ông phù hợp với nhu cầu của phái bảo thủ trong giai
cấp địa chủ quyựưư tộc thời đó, nên từ thời Hán Nguyên Đế về sau những chủ trương mà
ông đưa ra dần dần đã được nhà Hán thực hiện" [3, tr.360]. Qua sự “chế biến" của Đổng
Trọng Thư, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống và chuẩn mực đạo đức xã hội của
các triều đại phong kiến Trung Quốc.
Sau Khổng - Mạnh - Tuân, quan niệm về “Hiếu" ngày càng được mở rộng, tới mức
coi tất cả mọi hành vi đạo đức trên thế giới đều lấy đạo “Hiếu" làm trung tâm. khuynh
hướng ấy được phát triển đến đỉnh cao từ đời Hán về sau, trở thành hệ thống tư tưởng giữ
vai trò quyết định trong đời sống văn hóa, xã hội suốt nhiều thế kỷ ở Trung Quốc. Trong
sách “Lễ ký", chữ “Hiếu" không chỉ giới hạn trong quan hệ đạo đức mà còn bao trùm lên
vạn vật:
ở không ngăn nắp là không có hiếu; bất trung với vua là không có hiếu; bất
với quan là không có hiếu; bất tín với bạn là không có hiếu; đánh trận không dũng
cảm là không có hiếu. Vua không thành đạt thì tai họa sẽ đến với người thân, ai
dám không thận trọng?. Chặt một cái cây, giết một con vật không đúng lúc cũng là
bất hiếu [73, tr.265].
Đổng Trọng Thư, cây đại thụ của Nho giáo đời Hán cũng tán thành quan điểm cho
rằng: “Bất trung, bất hiếu là có tội với vua với cha, cũng chính là có tội với trời” [3, tr.
364]. Đổng Trọng Thư, xuất phát từ quan điểm duy tâm và thần học, ông đã uốn cái luân
lý của Khổng - Mạnh thành một thứ thiên tính của loài người, giải thích nó như một biểu
hiện của trời:
Người ta chịu mệnh của giời, vốn đã vượt hẳn các sinh vật, ở nhà thì có
tình cha con, anh em; ra ngoài thì có nghĩa vua tôi, trên dưới, khi gặp gỡ giao
dịch với nhau thì có thứ bậc già trẻ, lớn bé, tỏ rõ có văn về tiếp xúc với nhau
niềm nở, lấy ân tình mà thương yêu nhau, đó là những cái làm cho người
thành cao quý [85, tr.378].
Cũng trên lập trường thần học, Đổng Trọng Thư đã quy tác dụng quyết định cho
Trời trên cơ sở quan niệm “trời với người hợp làm một”, ông giải thích quan hệ cha con
nói riêng, quan hệ giữa người với người nói chung dựa vào thuyết âm dương “dương hợp
với âm, âm hợp với dương, chồng hợp với vợ, vợ hợp với chồng, cha hợp với con, con
hợp với cha, vua hợp với bề tôi, bề tôi hợp với vua. Cái nghĩa vua tôi, cha con, vợ chồng
đều chịu đạo phối hợp nó ở âm dương …” [85, tr.380]. Với Đổng Trọng Thư, trong quan
hệ cha - con thì cha có quyền uy tuyệt đối với con, “cha là trời của con”.
Như vậy, tư tưởng Hiếu trong Nho giáo thời Hán được Đổng Trọng Thư và các nhà
Nho bổ sung, phát triển theo hướng duy tâm, một chiều, cực đoan và khắc nghiệt. Nếu
Nho giáo thời Tiên Tần, tư tưởng Hiếu còn thể hiện nghĩa vụ đạo đức hai chiều: giữa trên
và dưới, cha mẹ và con cái thì Nho giáo thời Hán đòi hỏi bề dưới (con) phải tuyệt đối
phục tùng bề trên (cha mẹ), dù cha mẹ có hư đốn. Do vậy, Trung, Hiếu của Nho giáo thời
Hán được đẩy đến mức thành ngu Trung, ngu Hiếu:
“Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung
Phụ xử tử vong, tử bất vong, bất hiếu”.
(Nghĩa là vua bắt bề tôi chết thì bề tôi phải chết; không chết là mắc tội bất trung.
Cha bắt con chết thì con phải chết; không chết là mắc tội bất hiếu).
1.2.2.3. Nội dung tư tưởng “Hiếu” của Nho giáo thời Tống (Thế kỷ X - Thế kỷ
XIII)
ễÛ Trung Quốc, sau những biến loạn thời Mạc Đường và Thời Ngũ đại thập quốc,
đến Bắc Tống thì sự thống nhất được tái lập. Triệu Khuông Dẫn lên ngôi quyết tâm thiết
lập một chế độ quân chủ tập trung cao nhất nhằm thủ tiêu tình trạng cát cứ địa phương.
Lúc này Nho giáo trở lại địa vị quốc giáo và được phát triển thêm một bước để phục vụ
cho yêu cầu “thống nhất tất cả những cái gì chưa thống nhất trong thiên hạ".Vì vậy, về
mặt chính trị, thời Tống không phải là triều đại lớn nhất của Trung Quốc thời phong kiến,
nhưng về phương diện khác thì Tống Nho có thể được xem là trình độ phát triển cao nhất
của Nho giáo trong hơn 1000 năm tồn tại từ sau Khổng - Mạnh.
Nho giáo thời Tống được bổ sung thêm phần bản thể luận triết học trên lập trường
duy tâm, có sự pha trộn của tam giáo Nho, phật, Đạo và kế thừa những tư tưởng đặc sắc
của triết học thời cổ đại, được phân thành hai phái: phái lý học do Chu Hy (1130 - 1200)
và Trình Hạo (1032 - 1085), Trình Di (1033 - 1107) đại diện, phái tâm học do Lục Cửu
Uyên (1139 - 1193)
Từ sau Tần, Hán, “Hiếu" thường bị lẫn lộn với “Trung" nên đã làm cho tư tưởng về
đạo hiếu của Nho giáo sơ kỳ méo mó đi nhiều. Chu Hy thời Tống giải thích rằng, “nếu người
bề trên - người cầm quyền cai trị mà hiếu với cha mẹ, nhân từ với dân thì dân trung thành với
mình" (Hiếu từ, tắc trung) [73, tr. 255]. Quan niệm về “Hiếu" của Nho giáo ngày càng trở
nên phiến diện, cứng nhắc, chỉ nhấn mạnh một chiều - trách nhiệm và nghĩa vụ của con
cái đối với cha mẹ như thế nào, mà không cần nói đến sự đối xử của cha mẹ đối với con
cái. Vì vậy, nên giữa hai thế hệ nảy sinh xung khắc thì đương nhiên trách nhiệm phải
thuộc về con cái. “Hiếu" trở thành sự phục tùng vô điều kiện mà không cần có cơ sở lý
tính. Con cái phải tuyệt đối vâng lời cha mẹ một cách máy móc “cha bắt con chết mà con
không chết là bất hiếu" (phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu); “trong thiên hạ không có
cha mẹ nào không đúng" để rồi dẫn đến “cha không nhân từ nhưng con không thể không
hiếu".
Nho giáo về sau rất đề cao chữ “Hiếu"để củng cố cho tư tưởng tôn quân, đề cao chế
độ phong kiến quan liêu tập quyền, củng cố gia đình - đề cao quyền huynh thế phụ, đảm
bảo tuyệt đối cho chế độ truyền tử, ngôi vua truyền cho con trưởng. Nó đồng nhất tình
yêu thương, nghĩa vụ đối với cha mẹ với sự yêu thương, nghĩa vụ đối với ngai vàng của
nhà vua, coi sự tước đoạt của nhà vua như sự phụng dưỡng cha mẹ mình.
Tóm lại, trong quan niệm của Nho giáo thì hiếu đễ là bản tính tự nhiên bẩm sinh
của con người mà trời đã phú sẵn cho. Mạnh Tử nói:
Trong những đứa trẻ vừa biết cười mà người ta còn bồng bế trong tay,
không một đứa nào chẳng biết thương cha mẹ nó. Đến chừng lớn lên, không
một đứa nào chẳng biết kính anh nó. Thương cha mẹ, đó là lòng nhân vậy.
Kính huynh trưởng, đó là đức nghĩa vậy, không chi lạ, hai mối tình thiên nhiên
ấy vẫn thông đạt khắp trong thiên hạ vậy (Hài đề chi đồng, vô bất tri ái kỳ thân
giã. Cập kỳ trưởng giã, vô bất tri kính kỳ huynh giã. Thân thân nhân giã; kính
trưởng nghĩa giã. Vô tha, đạt chi thiên hạ giã) [6, tr.226].
Vì vậy, người có lòng nhân phải là người hiếu thảo với cha mẹ, yêu mến anh em thì
tự nhiên thiên hạ bình. Sau này Đổng Trọng Thư, cây đại thụ của Nho giáo đời Hán cũng
tán thành quan điểm cho rằng: "Bất trung, bất hiếu là có tội với vua, với cha, cũng chính
là có tội với trời" [3, tr.364]
Như vậy, Nho giáo đã dựa vào hiếu đễ nói về đạo đức. Theo Nho giáo, người con
có hiếu là người ý ư thức được đầy đủ về bổn phận và tình cảm của mình đối với cha mẹ.
Đó là tấm lòng chân thành và sự kính trọng sâu sắc của người con đối với bậc sinh thành,
nết hiếu không chỉ thể hiện ở chỗ phụng dưỡng cha mẹ đầy đủ mà điều quan trọng hơn là
thái độ và tình cảm như thế nào trong việc thực thi bổn phận đó. Khổng Tử cho rằng, nếu
vì gia cảnh còn nghèo khó, việc phụng dưỡng cha mẹ chỉ có cháo tấm và nước lã nhưng
phận làm con luôn làm cho tinh thần cha mẹ thoải mái, cuộc sống vui vẻ thì tận hiếu rồi.
Người con có hiếu phải là người có chí lập thân hành đạo làm vinh hiển cho cha mẹ và
rạng danh cho gia đình, dòng tộc. Có thể nói, hiếu đối với Khổng Tử là sự phục tùng vô
điều kiện, là sự che chở vô điều kiện của con cái đối với cha mẹ và vì vậy dưới cái nhìn
của nhà Nho sẽ "không có tội nào lớn hơn tội bất hiếu". Giáo sư Vũ Khiêu nhận xét: "xưa
nay, chưa có một học thuyết nào, một phái nào như Nho giáo đã đề cập chữ hiếu một
cách sâu sắc, cụ thể và đầy đủ đến như thế " [32, tr.142].
Nho giáo chủ trương xây dựng nhưng quan hệ chặt chẽ trong gia đình với mục đích
mở rộng nó ra, phát triển lên thành những tình cảm tốt đẹp trong đạo thờ vua, trị nước.
Theo quan niệm của Nho giáo, thì nhà tức là cái nước nhỏ, nước tức là nhà lớn. Diễn đạt
mối tương quan giữa nhà và nước trên bình diện đạo đức. Nho giáo đề cao phạm trù hiếu
- trung: phận làm con trong gia đình phải tận hiếu với cha mẹ thì phận làm dân trong một
nước phải tận trung với vua, Nho giáo đã đồng nhất tình cảm của con cái đối với cha mẹ
trong gia đình với tình cảm của người dân đối với các thế lực cầm quyền: "Trung với vua,
hiếu với cha mẹ là cùng một gốc vậy" (Lễ Kyự). Với mục đích lập lại trật tự, kỷ cương
của xã hội, Nho giáo đề cao tinh thần trung quân và xem đó là yêu cầu đạo đức, phẩm
chất cao đẹp của đạo làm người.
1.3. Nội dung tư tưởng “Hiếu“ CủA Nho giáo Việt Nam
Nếu ở Trung Quốc, từ thời nhà Hán, Nho giáo là hệ tư tưởng chi phối (kể cả vấn đề
chính trị xã hội) xuyên suốt lịch sử truyền thống thì ở Việt Nam, từ thế kỷ II đến thế kỷ
XIV hệ tư tưởng chủ đạo lại là Phật giáo, còn từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX hệ tư tưởng
mới là Nho giáo. Nho giáo vào Việt Nam không còn giữ nguyên vẹn như ở Trung Quốc,
nó đã được “Việt Nam hóa"cũng như nó được “Nhật Bản hóa"ở Nhật Bản và “Triều Tiên
hóa"ở Triều Tiên. Các nhà Nho Việt Nam vì công cuộc xây dựng xã hội và bảo vệ Tổ
quốc đã tiếp thu và khai thác những yếu tố Nho giáo cho phù hợp với xã hội và đất nước
mình, đã “bản địa hóa". Nói cách khác, là Nho giáo ở Trung Quốc vốn đặt mối quan hệ
vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm mối quan hệ giữa người với người (ngũ luân) thì các
nhà nho Việt Nam nặng về luân lý đạo đức, chủ yếu là Hiếu nghĩa.
ễÛ Việt Nam, trên nền tảng Đông Nam AÙ, gia đình nhỏ lấy vợ chồng làm mặt
bằng ngang, bình đẳng là chính. Khi tiếp nhận luân lý Nho giáo đương nhiên phải chuyển
đổi, đó là quan điểm Hiếu với nghĩa. Nho giáo cũng bàn luận nhiều về Hiếu với Trung
nhưng tư tưởng Trung của Việt Nam không phải là nét chính yếu (như người Nhật). ễÛ
Việt Nam, quan niệm Hiếu lại đậm đà sâu sắc, không thể không nói là các nhà nước Lê -
Nguyễn đều có ý thức sử dụng pháp luật, các chính sách kinh tế - xã hội để pháp lý hóa
tư tưởng “Hiếu". Từ thời Hồng Đức đến thời Minh Mạng đều tăng cường củng cố Nho
giáo. Theo tôi, chế độ Tông pháp Nho giáo ễÛ Việt Nam theo thời gian ngày càng nặng
nề.
Song, Hiếu ở Trung Quốc như một phạm trù tiên thiên, gắn liền với những quan hệ
huyết thống tự nhiên, lưu truyền từ thời nguyên thủy tan rã “Nguyên nhân chính là chế độ
gia trưởng phụ hệ của xã hội thị tộc từ thời Thương, hoàn thiện Thời Tây Chu". Hiếu là
đạo đức luân lý phổ biến của cả nhân loại nhưng nó thành chế độ Tông pháp thì chỉ có
văn minh Hán - Nho được tiếp tục duy trì trong tổ chức gia đình, gia tộc. Khi truyền sang
Việt Nam, tư tưởng “Hiếu" đã tông pháp hóa được tiếp nhận và thâm nhập từng bước
theo lịch sử.
1.3.1. Khái quát sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, đời sống tinh thần của xã hội ta luôn bị chi phối
bởi nhiều học thuyết tư tưởng và tôn giáo. Tùy từng giai đoạn lịch sử, dân tộc ta đều có
một học thuyết tư tưởng hoặc tôn giáo nắm vai trò chủ đạo đối với đời sống tinh thần của
xã hội. Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức, có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài tại
Trung Quốc, Việt Nam và một số nước châu AÙ. Đến nước ta, Nho giáo được dung hợp
và hòa đồng theo cách nghĩ của người Việt Nam thành Nho giáo Việt Nam. Nói cách
khác, Nho giáo du nhập vào nước ta, được “Việt Nam hóa“ trong một chặng đường dài
lịch sử, đã góp phần đáng kể vào việc tạo dựng nền văn hiến Việt Nam. ễÛ Việt Nam,
Nho giáo cũng có lịch sử lâu dài. Trước khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam, nước ta đã
là một dân tộc độc lập có một nền văn hóa tương đối phát triển với những đặc điểm riêng
của mình, được biểu hiện qua trình độ phát triển của các công cụ: Trống đồng, tháp đồng,
mũi tên đồng, thành quách, cũng như tiếng nói, phong tục, tập quán và ý thức dân tộc độc
đáo của mình. Đó là nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc, trải qua một quá trình hình thành
và phát triển lâu dài trong lịch sử, đã trở thành cội nguồn làm nên bản sắc dân tộc Việt
Nam ngày nay. Trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước và kết cấu xóm làng
bền chặt, dân cư Văn Lang - Âu Lạc đã cố kết bên nhau tiến hành khai hoang, làm thủy
lợi, phát triển sản xuất, khai thác tài nguyên và đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Chính vì
thế, người Việt thời đó đã có một nền văn hóa bản địa độc đáo, một bản lĩnh, cốt cách, lối
sống và cách ứng xử của một cộng đồng tự chủ. “Con người Việt Nam từ thuở vua Hùng
đã phải có hệ tư tưởng trong sáng lành mạnh gắn chặt với thực tiễn lao động và chiến
đấu, xây dựng và giữ gìn quê hương đất nước của mình" [30, tr.52]
Từ ý thức cộng đồng đã nảy sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh
hùng, các thủ lĩnh “Cư dân Văn Lang - Âu Lạc đều có ý thức cùng chung một cội nguồn,
một tổ tiên, một tập quán chung là nhuộm răng, ăn trầu" [60, tr.55]. Nền văn minh Văn
Lang - Âu Lạc đã kết tinh trong đó bản lĩnh, truyền thống, cốt cách lối sống và lẽ sống
của người Việt cổ: chung lưng đấu cật, đoàn kết gắn bó với nhau, tình làng nghĩa nước
mặn nồng, tôn trọng người già và phụ nữ, biết ơn và tôn thờ tổ tiên, các anh hùng nghĩa
sĩ. Những đặc trưng này đã trở thành cội nguồn của các nền văn minh tiếp theo, tạo nên
sức mạnh tinh thần to lớn để nhân dân Việt Nam vượt qua mọi thử thách trong hơn một
ngàn năm Bắc Thuộc.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Nho giáo vào nước ta từ thời Tây Hán, tức là vào
khoảng năm 110 trước Công nguyên đến năm 39 sau Công nguyên. Năm 179 trước Công
nguyên, Âu Lạc rơi vào ách đô hộ của nhà Triệu, mở đầu một thời kỳ đen tối kéo dài hơn
một nghìn năm đầy đau thương tủi nhục trong lịch sử nước ta, thường gọi là thời kỳ Bắc
thuộc. Sau khi chiếm được nước ta, Triệu Đà chia Âu Lạc thành hai quận là Giao Chỉ,
Cửu Chân và sát nhập vào nước Nam Việt. Năm 111 trước Công nguyên, nhà Hán thôn
tính Nam Việt và biến Âu Lạc thành đất của nhà Hán, Âu Lạc bị chia thành ba quận
thuộc bộ Giao Chỉ là: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Từ đây Nho giáo đã được chính
quyền đô hộ truyền vào Việt Nam và từ đó chúng “ráo riết thực hiện chính sách nô dịch,
bóc lột và đồng hóa" [33, tr.57]. Nho giáo thời kỳ này vừa là công cụ tinh thần phục vụ
cho trật tự của bộ máy quan liêu, vừa được thần bí hóa để lợi dụng yếu tố mê tín của nhân
dân. Hai viên Thái thú Tích Quang và Nhâm Diên đã “dựng học hiệu, dạy lễ nghĩa" tại
quận Giao Chỉ và Cửu Chân, Nho giáo bắt đầu truyền vào Việt Nam từ đó.
Từ năm 187 đến năm 226, Thái thú Giao Châu là Sĩ Nhiếp đã đưa việc truyền bá
Nho giáo lên một bước mới.Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì Sĩ Nhiếp là người có tài
Kinh bang tế thế, tài năng và đức độ của ông vượt xa các thủ lĩnh chính trị của đế quốc
Hán đương thời. Các nhà Nho Việt Nam sau này kính trọng Sĩ Nhiếp, tôn ông là “Sĩ
vương", là "Nam giao học tổ", xem Sĩ Nhiếp là ông tổ của việc học ở nước ta. Ông là
người rất thông hiểu kinh sách và tích cực truyền bá Nho giáo và Đạo giáo vào Việt Nam,
mặc dù ông không phải là nhà Nho chính thống mà là một nhà Đạo học.
Vào thời Sĩ Nhiếp, trong số những nhân tài, danh sĩ nhà Hán, do loạn lạc chạy sang
lánh nạn tại Giao Châu, có tới hàng trăm sĩ phu của Trung Quốc cùng với Sĩ Nhiếp đẩy
mạnh việc truyền bá Nho giáo và Hán học ở Giao Châu. Miền đất Giao Châu dưới quyền
cai trị của Sĩ Nhiếp là một xã hội ổn định và thịnh vượng, “là đất Văn hiến, sông núi hun
đúc, trận bão rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất" [18, tr.87]. Góp sức việc
truyền bá đạo Nho ở nước ta, ngoài số sĩ phu Trung Quốc tị nạn sang cư trú, còn có những
danh nho Bắc phương vì đối lập chính trị mà bị triều đình bên ấy đày đi xa xăm ngoài biên
thùy, như ông Ngu Phiên thời Tam quốc bị đày qua Giao Châu, mở trường “dạy học không
biết mệt mỏi, môn đệ thường có đến vài trăm" [18, tr. 61]. Tại các trung tâm châu trị, quận
trị như: Luy Lâu, Long Biên, Tư Phố, Cư Long… đều có các trường để truyền bá Nho
giáo và Hán học. Theo học các trường này không chỉ có con em của những người Hán cai
trị và những người Hán di cư mà còn có cả con em của những người giàu có, con em một
số hào mục địa phương có hợp tác với chính quyền đô hộ. Vì vậy, các hệ tư tưởng triết
học, tôn giáo từ ngoài vào Việt Nam không phải dễ dàng chiếm ngay được chỗ đứng
trong đời sống tinh thần xã hội Việt Nam, hay có thể dễ dàng xoá bỏ, chinh phục, đồng
hoá nền văn hoá bản địa mà không gặp một sự phản ứng nào. Để thích nghi với nền văn
hoá bản địa chúng phải có một quá trình biến đổi để phù hợp với "miền đất mới" mà
chúng xâm nhập. Cùng với đạo Nho, đạo Lão - Trang cũng được truyền sang Việt Nam.
Hai đạo du nhập vào Việt Nam đã tạo nên cơ sở tư tưởng cho người Hán đẩy nhanh việc
thực hiện chính sách chính trị - xã hội cũng như các chính sách văn hóa - xã hội khác. Xã
hội cũng như con người Việt Nam đã có những biến đổi.
Nhìn tổng thể, thời Bắc thuộc, Nho giáo tuy có phát triển, song vẫn chưa xâm nhập
vào mọi tầng lớp xã hội và ảnh hưởng của nó vẫn còn hạn chế, giới nho sĩ bản địa vẫn
còn ít ỏi và chưa trở thành lực lượng xã hội đáng kể. Sở dĩ có điều đó là vì, một mặt,
muốn học Nho thì phải biết chữ Hán, một thứ chữ rất khó học “tự nó không thành học
thuyết, đạo lý, tôn giáo" [30, tr.53], chỉ có con em bọn quan lại thống trị và con em người
bản địa giàu có mới có điều kiện học tập. Mặt khác, sự du nhập của Nho giáo lại đi theo
vó ngựa xâm lược và sự truyền bá văn hóa, truyền bá Nho giáo vào Việt Nam lại nằm
trong chính sách đồng hóa dân tộc của các thế lực phong kiến phương Bắc nhằm nô dịch,
đô hộ dân tộc ta thì “làm sao nhân dân ta có thể chấp nhận điều mà nho giáo vẫn vỗ về".
“ở địa vị nghèo hèn di địch thì hãy giữ hành vi của kẻ di địch" [30, tr. 59]. Vì vậy, các hệ
tư tưởng triết học, tôn giáo từ ngoài vào Việt Nam không phải dễ dàng chiếm ngay được
chỗ đứng trong đời sống tinh thần xã hội Việt Nam, hay có thể dễ dàng xóa bỏ, chinh
phục, đồng hóa nền văn hóa bản địa mà không gặp một sự phản ứng nào.
Trong khi đó, Phật giáo lại đứng về phía người đau khổ, đứng về phía dân tộc, nên
được mọi người ủng hộ. Người Việt, theo một số học giả, đã dùng Phật giáo làm tấm lá
chắn chống lại sự đồng hóa của chính quyền đô hộ. Vì vậy Phật giáo không như Nho
giáo, từ ấn Độ và Trung Quốc du nhập vào Việt Nam hầu như không gặp sự phản ứng và
chống đối nào từ phía nhân dân mà ngược lại phát triển khá nhanh vì bản thân nó vốn
không phải là hệ tư tưởng của kẻ xâm lược như Nho giáo. Chính vì vậy, mà các triều đại
đầu tiên của Việt Nam độc lập, Phật giáo giữ vai trò là quốc giáo. Nhiều Cao tăng phật
giáo được giữ những trọng trách trong công việc triều chính.
Năm 938 với chiến thắng vĩ đại của Ngô Quyền chôn vùi quân Nam Hán trên sông
Bạch Đằng, lịch sử dân tộc Việt Nam bước sang trang mới - Thời kỳ độc lập. Tuy nhiên,
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ở thời kỳ đầu mới giành được độc lập diễn ra vô
cùng khó khăn, phức tạp. Nhà nước phong kiến lúc này quá bận rộn với việc ổn định và
thống nhất đất nước, tổ chức chống ngoại xâm. Mặt khác, các triều đại đầu tiên như Ngô,
Đinh, Tiền Lê đều tồn tại rất ngắn ngủi, chưa có đủ thời gian để xây dựng trật tự, kỷ
cương chặt chẽ. Do vậy, Nho giáo cũng chưa có điều kiện dựa vào triều đình để duy trì
và phát triển ảnh hưởng của mình. Sau này, Lê Văn Hưu đứng trên lập trường Nho giáo
phê phán các vương triều này đã không theo đúng trật tự, lễ nghĩa của đạo Nho.
Bước sang thế kỷ XI, khi vương triều Lý được thành lập, kinh đô dời từ Hoa Lư ra
Thăng Long, việc củng cố chế độ phong kiến và phát triển nền văn hóa trở thành một yêu
cầu thiết thực và cấp bách thì Nho giáo dần được coi trọng, dần được xem như vũ khí sắc
bén trên lĩnh vực chính trị cũng như văn hóa tư tưởng. Như vậy, Nho giáo đã bám vào
những yêu cầu của xã hội và của nhà nước phong kiến mà vươn lên. Nho học với các lý
thuyết “mệnh trời“, “luân thường", “trung hiếu"… đã đáp được nhu cầu này trong lịch sử.
Năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn Miếu ở kinh thành, đắp tượng Khổng Tử,
Chu Công và tứ phối, và vẽ hình 72 người hiền của đạo Nho. Năm 1075 nhà Lý mở kỳ
thi tam giáo đầu tiên để chọn hiền tài bổ sung cho đội ngũ quan lại, gọi là Minh kinh bác
học. Lê Văn Thịnh đỗ đầu, được cho vào hầu vua học. Năm 1076 dựng Quốc Tử Giám -
Trường đại học đầu tiên ở Việt Nam và lựa chọn những người khoa bảng vào dạy. Tuy
nhiên, giáo dục Nho giáo dưới thời Lý chưa phát triển mạnh. Do sự phát triển đồng hành
của Nho, Phật, Đạo nên Nho giáo mặc dù đã được coi trọng song ảnh hưởng của nó tới
đời sống chính trị - xã hội, phong tục và nếp sống người Việt trong suốt triều đại nhà ưLý
vẫn diễn ra chậm chạp, nhiều nghi lễ, tập tục trong triều đình cũng như các việc hôn
nhân, tang tế còn bị các nhà Nho viết sử sau này cho là trái với quy phạm của Nho giáo.
Năm 1267 nhà Trần thay thế nhà Lý. Nhà Trần đã biết rút kinh nghiệm để tăng
cường hơn nữa quyền lực nhà vua và tổ chức cuộc kháng chiến chống quân Nguyên -
Mông, nên Nho giáo bắt đầu được đề cao, “Nho sĩ được nắm quyền binh, vì theo chế độ
trước đó, không phải là nội nhân (hoạn quan) thì không được làm hành khiển, chưa bao
giờ dùng Nho sĩ văn học. Đó là bước ngoặc lớn đối với Nho sĩ văn học" [22, tr.41].
Khoảng giữa thời Trần, khi Nho giáo đang trên đà phát triển và từng bước chiếm ưu thế
trong kiến trúc thượng tầng của xã hội thì cũng xuất hiện khuynh hướng giáo điều của
các Nho sĩ, họ muốn khuôn thực tiễn sinh động ở nước ta theo những chuẩn mực Nho
giáo và những bài học kinh nghiệm trong Bắc Sử. Vì thế thời kỳ này cũng xuất hiện xu
hướng chống lại chủ nghĩa giáo điều ấy, đồng thời cũng xuất hiện xu hướng muốn sửa
chữa, cải biến những tín điều Nho giáo - nó phản ánh tinh thần tự lập tự cường của dân
tộc Việt Nam. Cuối thời Trần, xu thế Tống Nho đã thể hiện khá rõ ở Chu Văn An,
Trương Hán Siêu, Trần Nguyên Đán. Chu Văn An đã viết Tứ thư thuyết ước nhằm truyền
bá Lý học. Nhiều nhà Nho đã lên tiếng phê phán mạnh mẽ Phật giáo khiến cho Phật giáo
phải lùi bước, mở đường cho Nho giáo tiến lên chiếm vị trí độc tôn dưới triều Lê. Các
Nho sĩ danh tiếng thời Trần như Lê Văn Hưu, Lê Quát, Trương Hán Siêu đã công kích
các nhà sư ham mê nhà cửa lộng lẫy xa hoa, xây quá nhiều chùa tháp gây lãng phí tiền
của và sức lực của dân. Họ tố cáo các tăng lữ là những kẻ lười biếng, chỉ biết cầu phúc
mà không lo tự lực. Trong Đại Việt sử ký ư toàn thư, Lê Văn Hưu viết: "Lý Thái Tổ lên
ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa xây, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng 8 chùa
ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở
kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào kể. Của
không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há chẳng phải là vét máu
mỡ của dân ư?".
Từ thế kỷ XIII, ở Việt Nam, một tầng lớp địa chủ mới có nguồn gốc từ thứ dân chứ
không phải từ giai cấp phong kiến quýư tộc được hình thành và phát triển. Bên cạnh đó,
việc học hành, thi cử Nho giáo được đẩy mạnh khiến cho tầng lớp Nho sĩ ngày một đông
thêm. Thế và lực của họ ngày một mạnh lên và từng bước chiếm được những vị trí quan
trọng trong bộ máy nhà nước phong kiến. Nắm được chính quyền từ tay nhà Trần, Hồ
Qúy Ly vốn nổi tiếng uyên thâm Nho học đã mạnh tay công kích Phật giáo và suy tôn
Nho giáo. Dưới quyền Hồ Qúy Ly, Nho học được khuyến khích phát triển mạnh mẽ hơn
bất cứ thời kỳ nào trước đó.
Sang thời Lê, đặc biệt là thời Lê Thánh Tông (1460 -1497), Nho giáo đạt đến cực
thịnh, nhà nước phong kiến từ đó trở đi đã đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn, lấy đó làm
ngọn cờ tư tưởng cho mọi hoạt động. Nho giáo thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày
càng sâu đậm trên nhiều lĩnh vực như: tư tưởng, văn hóa, phong tục, tập quán. Giai cấp
phong kiến Việt Nam thời kỳ này, quan tâm đến những vấn đề thiết yếu của việc phát
triển chế độ phong kiến tập quyền. Vì vậy, nó tiếp thu Nho giáo, nhưng không phải chỉ là
Nho giáo Khổng - Mạnh mà cả Nho giáo đã được cải biến và nhào nặn qua thời kỳ Hán,
Tống. Nhiều thuật ngữ, khái niệm của Nho giáo đã được bổ sung bởi những yếu tố mang
tính dân tộc và nhân dân sâu sắc. Năm 1484, Lê Thánh Tông định lệ dựng bia đá ở Văn
Miếu để lưu danh các vị tiến sĩ từ khoa thi năm 1442 trở đi. Việc khuyến khích học hành
và thi cử theo Nho học khiến cho từ Thời Lê Sơ về sau đã tạo ra một tầng lớp Nho sĩ
đông đảo, đa dạng, phức tạp ở triều đình và các địa phương trên cả nước. Tổ chức chính
quyền nhà nước thời Lê Thánh Tông có những nét giống các kiểu nhà nước Tống, Minh
bên Trung Quốc. Bộ luật Hồng Đức được biên soạn thời kỳ này xây dựng trên tinh thần
Đại Việt, song cũng có sự tham khảo nhiều pháp luật Đường, Minh. Nhưng từ thế kỷ
XVI trở đi, Nho giáo đã thể hiện sự bất lực của nó trước nhiều vấn đề xã hội.
Đến thế kỷ XVII, Lê Qúy Đôn cũng rất mực đề cao Chu Tử. Điều này thể hiện rõ
trong Dịch kinh phu thuyết, Tứ thư ước giải, xuân thu lược luận. Trong thư gửi La Sơn
phu tử, Quang Trung vẫn khẳng định nền học khi ấy là của Trình Chu, không phải ngẫu
nhiên mà ở Việt Nam, vào trường Nho được người ta gọi bằng một cái tên khá quen
thuộc: vào cửa Khổng sân Trình. Cho nên ở Việt Nam, nói đến Nho là nói đến Khổng
Mạnh, Trình Chu. Sang triều Nguyễn, các vua nhà Nguyễn luôn lo sợ mất ngôi nên cố dựa
vào Nho giáo với hi vọng củng cố địa vị của mình và tăng cường sự thống trị. Họ chú trọng
đến những tư tưởng thần bí của Hán Nho, chủ nghĩa duy tâm của Tống Nho…, họ nhấn
mạnh về “tam cương ngũ thường", nói nhiều tới nghĩa vụ trung, hiếu, lễ, tiết,… để nhằm làm
sao cho trên có quyền lực vô hạn với dưới và dưới phải phục tùng trên vô điều kiện, mọi
người phải sống chết cho các vua chúa nhà Nguyễn.
Năm 1858, quân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng mở đầu cho cuộc xâm lược Việt
Nam. Sau hàng ước 1884, giai cấp phong kiến triều Nguyễn trở thành tay sai cho Pháp và
tiếp tục cấu kết với bọn đế quốc để nô dịch nhân dân ta. Trong thời kỳ lịch sử này, Nho
giáo vẫn tiếp tục được tồn tại và các kỳ thi Nho giáo vẫn được duy trì cho đến đầu thế kỷ
XX mới chấm dứt. Như vậy, triều Nguyễn là triều đại cuối cùng trên đất nước ta khẳng
định địa vị quốc giáo của Nho giáo. Nếu như Nho giáo Việt Nam ở những triều đại trước
còn mang tính tích cực, hợp lý thì Nho giáo triều Nguyễn (trừ một số nhà Nho yêu nước,
có tư tưởng tiến bộ, cách tân) đã trở nên tiêu cực, bảo thủ và lỗi thời, nên sự suy tàn của
nó là một tất yếu trước những thách thức mới của lịch sử.
Tóm lại, ngay từ lúc mới du nhập vào Việt Nam, Nho giáo không còn là Nho giáo
của Khổng - Mạnh mà nó đã được cải biến. Quá trình du nhập và phát triển Nho giáo vào
Việt Nam trong đó trên 500 năm được coi là hệ tư tưởng thống trị trong kiến trúc thượng
tầng của xã hội phong kiến. Vì thế nó ảnh hưởng sâu sắc đến những giá trị đạo đức,
những giá trị tinh thần cơ bản của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó cùng với sự dung hòa
giữa Phật, Lão, Nho giáo ở nước ta “như những lớp trầm tích đan xen bện chặt lấy nhau
gần như một khu rừng nhiệt đới rậm rạp" [20, tr.40], tạo nên sự phong phú đa dạng trong
đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam. Nho giáo thâm nhập Việt Nam không còn là
Nho nguyên thủy mà là Hán Nho và Tống Nho, song cũng đã được cải biến cho phù hợp
với truyền thống của dân tộc và nhu cầu của đất nước để trở thành nhân tố của chính nền
văn hóa và hệ tư tưởng thống trị ở Việt Nam trong nhiều thế kỷ. Nho giáo du nhập vào
Việt Nam trong sự phát triển đồng hành, tác động qua lại với Phật giáo và Đạo giáo. Nho
giáo là một hệ thống những quan niệm về thế giới, xã hội và con người song chủ yếu bàn
về đạo đức và phép xử thế, nhấn mạnh vai trò của đạo đức. Vì thế "Trong năm sáu trăm
năm thịnh đạt và thống trị về tư tưởng Nho giáo tất nhiên đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến đạo
đức của nhân dân ta… Đó là điều mà không ai có thể phủ nhận" [18, tr.89]. Qua những
giai đoạn lịch sử khác nhau với điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội cụ thể của từng thời
kỳ, Nho giáo buộc cũng phải biến đổi để thích ứng. Hơn nữa, nho giáo vào Việt Nam,
còn phải thông qua những con người Nho sĩ khác nhau ở mỗi thời đại. Tất cả những điều
đó đã tác động dẫn đến sự biến đổi của Nho giáo nói chung, của phạm trù “Hiếu" nói
riêng trong Nho giáo ở Việt Nam.
1.3.2. Sự “Việt hóa" của tư tưởng “Hiếu" trong Nho giáo Việt Nam
“Hiếu" cũng vốn là một trong những nội dung quan trọng của đạo đức gia đình
truyền thống Việt Nam, nó được hình thành từ lâu trong những tập quán người Việt như:
thờ cúng tổ tiên, kính trọng người già... nhưng khi giáo lý đạo Nho xâm nhập chế hóa
thành luân lý xã hội. Có thể nói, các triều đại phong kiến trước đây đã “cơ chế hóa" đạo
đức Nho giáo vào Việt Nam. Vào thời Lý - Trần (Thế kỷ XI - XIV), Nho giáo có ảnh
hưởng đến Việt Nam nhưng không sâu sắc. Từ thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XIX, các
nhà nước phong kiến Lê - Nguyễn đều lấy Nho giáo làm công cụ tư tưởng chi phối xã
hội. Trong việc cai trị đất nước, các triều Lê -Nguyễn đều đặc biệt chú trọng đến vấn đề
gia đình, coi gia đình là cơ sở quan trọng bậc nhất để thiết lập kỷ cương, ổn định trật tự
xã hội.
Các nhà nước Lê - Nguyễn đều đề cao quan niệm “Hiếu" làm một nguyên tắc trị
nước. Hiếu vốn là tinh thần, là nội dung của đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam,
trong phong tục và tín ngưỡng như “thờ cúng tổ tiên", “trọng lão", nhưng về sau lại được
giáo lý Nho giáo khẳng định thêm sâu sắc, chi tiết và thể chế hóa thành luân lý xã hội.
Các nhà nước Lê - Nguyễn đều lấy “Hiếu" làm chuẩn mực cho những giá trị xã hội, làm
tiêu chuẩn để rèn luyện và đánh giá nhân cách con người; lấy “Hiếu đễ" ràng buộc con
người với con người, bề dưới với bề trên. Không những thế, “Hiếu" còn được pháp luật
hóa, chính sách hóa.
Trước hết, các chính sách thời Lê - Nguyễn đã đưa tư tưởng “Hiếu" vào giáo dục
khoa cử, vào tuyển lựa quan lại và hoạt động của quan trường. Dùng “Hiếu" để cai trị
thiên hạ là điểm nổi bật trong đường lối chính trị và văn hóa của hầu hết các triều đại
phong kiến theo Nho giáo trong thời gian này, nhất là triều Nguyễn. Trong giáo dục,
ngoài Tứ thư, Ngũ kinh làm sách giáo khoa giảng dạy, các triều Lê - Nguyễn đều đề cao
Hiếu kinh. Cho đến đầu thế kỷ XIX, nhà giáo nổi tiếng - Tiến sĩ Ngô Thế Vinh (1802 -
1856) còn biên soạn các sách “Trúc đường khôn sách", “Khải đồng thuyết ước"đều dành
một phần nội dung bàn đến chữ “Hiếu". Đặng Huy Trứ (1825 - 1874) dạy học ở Quảng
Nam, có câu đối đặt ở gian phòng dạy học đề cao “Tử Vũ" - một học trò của Khổng Tử
có ngoại hình xấu xí nhưng rất mực hiếu thảo. Các thầy giáo nổi tiếng ở Hà Nội như ông
Cử Vũ Thạch Nguyễn Huy Đức (1824 - 1898). Ông cử Kim cổ Ngô Văn Dạng (1835 -
1885) đều đề cao hiếu nghĩa. Năm 1873 Nguyễn Huy Đức được thăng quan, với lý do có
mẹ già, ông tâu trình với vua Tự Đức “mẹ tôi lại trông vào tôi nuôi dưỡng, nếu tôi lại
được ở yên nơi hành môn (chổ của người ẩn) mà dạy học, học trò tôi sau này thành tài ra
giúp nước, đó là tôi báo đáp ơn của triều đình vậy" [69, tr.225]. Tự Đức khen ngợi là
người có nhân cách.
Sách Đại Nam liệt truyện do quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn cũng nêu nhiều
tấm gương hiếu nghĩa. Chẳng hạn, trường hợp Phan Hữu Trị đang trẻ tuổi, nổi tiếng liêm
cần, làm Giáo Thụ phủ Khoái Châu (Hưng Yên) xin từ quan về quê hương Nghệ An để
phụng dưỡng mẹ, ông được người đời khen là “Thờ mẹ rất cẩn thận, người trong quận
đều khen là hiếu hạnh".
Bậc văn thần nổi tiếng của nhà Nguyễn là Lý Văn Phức (1785 - 1849), là học quan
từng chủ khảo một số trường thi hương, đã sáng tác nhiều văn thơ như: Ngọc Kiều Lê,
truyện Tây sương mang nhiều yếu tố yêu thương lãng mạn. Ông thật sự là nhà Nho chính
thống với hai tập “Phụ chân tiễn lãm" để dạy phụ nữ đề cao tam tòng tứ đức và “Nhị thập
tứ hiếu" đề cao rất mực tư tưởng ”Hiếu đễ". Nhà Nguyễn cho in "Nhị thập tứ hiếu" ban
hành khắp nước, còn cho chuyển ý, chuyển thể, khắc thành tranh bán khắp nơi. Cho đến
giữa thế kỷ XIX, nhiều truyện trong tập sách còn đưa vào sách giáo khoa tiểu học từ Bắc
chí Nam.
Từ thời Minh Mệnh (1820 - 1840) về sau, trong khoa cử một số người chỉ đỗ tú tài
mà đức hạnh nổi tiếng nuôi dưỡng cha mẹ và dạy dỗ con cái ngoan ngoãn, thì được khen
hiếu liêm và được bổ nhiệm làm quan và được biểu dương đạo đức.
Trong pháp luật, chính quyền Lê - Nguyễn cũng đề cao chữ “Hiếu", bảo vệ các
quan hệ gia đình, tông tộc. Nhà giáo, nhà bác học Phan Huy Chú (1782 - 1840) nhấn
mạnh: “Hiếu là luân thường của thiên hạ, là lẽ trời tồn tại của loài người, cho nên (sử
dụng) là để làm cho phong hóa được tốt, phong tục được hậu" [8, tr.141]. Luật Triều Lê,
điều 90 đã dành 3 trang luận bàn về gia đình, trình bày nghĩa vụ của con cái đối với cha
mẹ, ông bà:
“Đạo làm con phải hiếu kính với cha mẹ, khi tuổi già phải sớm khuya phụng dưỡng,
không được để thiếu thốn; cũng không được bắt buộc các con làm việc quá khó nhọc mới
cấp cho ăn uống. Các việc tế tự và tang táng thì phải căn cứ vào lễ ký; như thế mới hết
đạo làm con".
“Đạo hiếu anh em trong gia đình phải cùng nhau hòa thuận, anh thì yêu em; em thì
kính anh, chớ nên tranh nhau tài sản; chớ nên nghe lời vợ mà quên nghĩa cốt nhục".
“Làm cha mẹ phải biết sửa mình để ngay thẳng trong gia đình, lấy nghĩa lý dạy con
trai, lấy nữ công, nữ tắc dạy con gái".
“Nếu cha mẹ không biết dạy dỗ con cái, (và) con trai, con gái không chịu nghe lời dạy
bảo thì cho phép các viên xã, thôn trưởng được tố giác với gia môn. Nếu lỗi nhỏ thì trừng
phạt bằng roi vọt, nếu lỗi lớn thì chiếu phép trị tội".
“Đạo làm vợ chồng phải cùng kính yêu nhau, dốc lòng ân nghĩa... Vợ phải kính thờ
cha mẹ chồng và không được trái lời dạy bảo của chồng, không được dông dỡ ghen tuông
mà không nên chán cảnh nghèo đói đến nỗi bỏ nhau để hại điều phong hóa".
Luật triều Lê còn quy định việc bảo vệ ruộng mộ. Điều 18, chương điền sản luật Hộ
ghi: "Cấy trộm vào ruộng mộ người khác thì phải biến 1 tư, lấn phạm vào mộ thì phải
biến 3 tư. Kẻ phạm lỗi không có quan chức thì phải tội đồ làm khao đinh và phải nộp tiền
tạ lỗi 30 quan…" [8, tr.145]. Các nhà nước thời Lê - Nguyễn đều có luật lệ quy định việc
coi giữ mồ mả và đặt ruộng hương hỏa thờ cúng tổ tiên. Cha mẹ chết, nếu có nhiều ruộng
đất, phải dành ít ra là 1/20 làm ruộng hương hỏa. Tỷ lệ 1/20 là quy định của chính quyền
đã có từ thế kỷ XV: "Ruộng đất hương hỏa (dù) con cháu nghèo nàn (cũng) không được
tự ư đem bán. Làm trái lại mà có người tố cáo thì xử theo tội bất hiếu. Người trong họ
mua ruộng đất ấy thì mất số tiền mua. Người ngoài thì cho chuộc lại, người mua không
được cố giữ lấy".
Trong hình án, luật Lê - Nguyễn đều có mục “Thập ác" (10 tội ác nhất thiết phải sử
nặng), tội thứ 7 ghi:
Tội bất hiếu là kẻ đi tố cáo, nguyền rủa mắng trách ông bà, cha mẹ mình,
ông bà cha mẹ chồng, cũng như ông bà cha mẹ còn sống khi đã phân chia ở
riêng; hoặc là nuôi nấng không đầy đủ; hoặc là đang để tang cha mẹ mà lấy vợ
lấy chồng; hoặc là cứ hát xướng làm trò vui; bỏ áo trở mặc áo thường; nghe tin
cha mẹ ông bà mất mà giấu không phát tang hoặc nói dối là ông bà cha mẹ đã
chết [8, tr. 142].
Như vậy, tang ma cũng là công việc rất hệ trọng được gọi là việc hiếu. Vì thế,
“Hiếu" không dừng lại ở đạo đức mà còn xa hơn là phạm trù tín ngưỡng, thờ cúng tổ
tiên.
Các vua Minh Mệnh (1820 - 1840), Thiệu Trị (1841 - 1847), Tự Đức (1848 - 1883),
đều có những biện pháp giảm nhẹ tội hình để biểu dương gương hiếu thảo. Điển hình một
số tấm gương mà bộ sách Hội điển ghi lại:
- Nguyễn Cư Sĩ là con viên quan can phạm Nguyễn Cư Tuấn có đơn xin thay cha
nhận hình phạt đi đày. Nguyễn Cư Sĩ mới 14 tuổi được Minh Mệnh khen là có hiếu, tha
cho cả 2 cha con.
- Năm 1824, Hoàng Văn Khuê xin thay cho cha là Hoàng Văn Kim (cai đội Trường
Đà) bị tội đồ giam cùm 3 năm. Minh Mệnh chiếu cố lòng hiếu, tha cho Khuê và chỉ phạt
Kim 1/2 thời gian tội.
Sống dưới chế độ phong kiến, những người trí thức Việt Nam chịu ảnh hưởng của
Nho giáo là tất yếu. Nhưng đối với các nhà Nho chân chính, sự gần gũi, gắn bó mật thiết
với nhân dân và sự thấm nhuần truyền thống yêu nước của dân tộc, khái niệm "Hiếu" của
Nho giáo đỡ cứng nhắc hơn, trở nên gần gũi với nhân dân Việt Nam hơn. "Hiếu" trong
quan niệm của các nhà Nho còn mang ý nghĩa là "Đại hiếu", nó khác xa với các "Tiểu
hiếu" của Nho giáo truyền thống Trung Quốc, đó là phương pháp ứng xử mang tính cách
Việt Nam chứ không phải của Nho giáo Trung Quốc. Nhà Nho trong lịch sử Việt Nam
thực hiện chữ “Đại hiếu“ một cách thành công nhất, trước tiên phải kể đến Nguyễn Trãi,
là con của một sĩ phu nổi tiếng, bản thân mình cũng là một sĩ phu uyên bác, chắc chắn
Nguyễn Trãi hiểu đạo thờ cha theo Nho giáo trọng đại đến thế nào, chắc chắn ông không
lạ gì những giáo lý của Hán Nho, Tống Nho về “Hiếu". Vậy mà khi cha là Nguyễn Phi
Khanh bị giặc Minh bắt đưa về Chi Lăng, Nguyễn Trãi đã theo khóc đến tận ải Nam
Quan. Nguyễn Phi Khanh nói: Con phải trở về mà lo báo thù cho cha, rửa thẹn cho nước,
chứ đi theo khóc lóc mà làm gì. Mặc dù, Nguyễn Trãi biết là sẽ không bao giờ được gặp
lại cha nữa, nhưng ông đã tỉnh táo nghe lời khuyên sáng suốt của cha quay về rửa nhục
cho nước, trả thù cho cha - thực hiện đại hiếu. Chính vì thế, ông không chỉ là một người
con chí hiếu với cha mà còn trở thành người con chí hiếu của dân tộc.
ễÛ Nguyễn Trãi, “Hiếu” cũng thường đi với “Trung”. Con người ông luôn hướng
đến bổn phận thiêng liêng đối với gia đình và Tổ quốc. Dù lúc làm quan hay khi ở ẩn,
ông luôn tâm niệm về hai chữ Hiếu Trung:
“Bui có một niềm chăng nỡ trễ
Đạo làm con liển đạo làm tôi” [79, tr.396]
Khi đã có quyền cao chức trọng, ông cũng không tự phụ kiêu căng mà vẫn giữ gìn
đạo đức của mình. Ông khuyên nhủ cháu con: “Thờ cha lấy thảo làm phép” [79, tr. 457].
Ông khuyên con cháu không nên sợ nghèo, không nên tham lợi, tham giàu, xu phụ kẻ
lắm tiền nhiều của mà hãy chăm chỉ làm ăn, biết dùng của cải cho hợp lẽ, không so đo về
nỗi được mất hơn thua. Phải sống ngay thẳng, trung cần, không uốn mình theo thế thái,
phải năng làm việc thiện… bởi đạo đức mới là cái quý hơn vàng bạc, của cải. Với bản
thân, ông chú trọng việc làm gương cho con cháu, chú trọng việc tu nhân tích đức: “Tích
đức cho con hơn cho của” [79, tr. 433] hay:
“Chớ lấy hại làm người ích kỷ
Hãy năng tích đức để cho con…” [79, tr.446].
Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm, tình cha con trong đạo Nho qua cách quan niệm, cách
diễn đạt của ông cũng trở nên đầm ấm, thiết tha hơn. Nó không thể hiện một ý thức tôn ty
trật tự nghiệt ngã, một nghĩa vụ của người dưới phải phục tùng người trên mà nó thể hiện
sự quan tâm thương yêu lẫn nhau, nương tựa vào nhau giữa các thành viên trong gia đình.
Con đối với cha mẹ lúc già yếu là sự chăm nom săn sóc:
“Hay khi ôn sảnh bề cung dưỡng
Siêng thuở thần hôn việc hỏi han” [66, tr.149].
Ông nhắc đến đạo làm con bằng những câu ca dao, tục ngữ đã từng quen thuộc với
người dân lao động:
“Nuôi con mới biết lòng cha mẹ”
Hay “Bẩm đạo làm con, ở rất nan
ở cho trọn đạo mới là ngoan” [66, tr.523].
Bản thân ông là một người cha mẫu mực, nghiêm mà thân. Lúc ở nhà hay lúc ở xa
đều quan tâm đến con cái, khuyên răn con với tình cảm phụ tử thiết tha, nó khác với thái
độ “quân tử không hay gần con” của các vị thánh hiền.
Dưới thời Nguyễn, Phan Bội Châu nuôi chí lớn của cha, gắng sức học tập, thi đỗ
giải nguyên để người cha đang hấp hối trên gường bệnh được yên lòng nhắm mắt ra đi.
Ông đã mở rộng đạo hiếu với cha ra đạo hiếu với dân tộc, giống nòi, hoạt động cách
mạng và trở thành nhà chí sĩ yêu nước nổi tiếng đầu thế kỷ XX.
Cũng như mọi trí thức xuất thân từ nhà Nho, Nguyễn Đình Chiểu từ nhỏ đã được
nuôi dưỡng bằng những câu chữ của đạo Nho. Ông tin rằng, nhờ có Khổng Tử mà cuộc
đời mới có trật tự, đạo đức. Vì thế ông ra sức học tập Nho với tinh thần:
“Học cho biết lẽ quân thân
Biết phần phụ tử, biết phần hiếu trung” [72, tr.218].
Hay
“Hai chữ cương thường dằng cả nước
Một câu trung hiếu dựng nên nhà” [78, tr.138].
Quan niệm về “Hiếu” của ông vẫn bị ràng buộc bởi những khuôn phép lễ giáo nặng
nề và nghiêm khắc của đạo Nho. Điều đó được thể hiện khá rõ trong các truyện thơ của
ông, như trong “Lục Vân Tiên” cũng như qua cuộc đời thực của ông. Việc đau xót,
thương cảm khi cha mẹ qua đời là tình cảm đạo đức tự nhiên, đáng quý của mỗi con
người, nhưng với sự câu nệ quá đáng vào lễ giáo khắc nghiệt của đạo Nho:
“Sắm đồ tang phục nội ngày cho xong
Dây rơm mũ bạc áo thùng
Cứ theo trong sách Văn Công mà làm…” [72, tr.86].
Để rồi tự giày vò thân thể mình, lo lắng việc báo hiếu theo đúng quy chế của đạo
Nho đã dẫn đến hậu quả tai hại cho cuộc đời Lục Vân Tiên trong truyện như chính bản
thân ông trong hiện thực. Tuy vậy cũng phải thấy rằng “Đạo hiếu“ trong quan niệm của ông
khác nhiều so với “Đạo hiếu“ trong “Nhị thập tứ hiếu". Với ông, chữ “Hiếu" là một nét đẹp
trong đạo đức của con người:
“Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ” [72, tr.467].
Quan hệ cha - con là quan hệ tình cảm hai chiều: cha mẹ nâng niu, cảm thông với
con; con cái yêu thương, kính trọng cha mẹ ví như quan hệ giữa cha con Lục ông và Kiều
Công trong “Lục Vân Tiên” đã phản ánh điều ấy. Mặc dù vẫn thường viện dẫn những
điển tích về “Hiếu” của Bắc sử nhưng khái niệm “Hiếu” của ông chủ yếu là lòng biết ơn,
sự tôn kính, quan tâm chăm sóc cha mẹ với tình cảm chân thực, sâu nặng của con người
mà ít nhấn mạnh đến sự phục tùng mù quáng như trong các giáo điều đạo Nho. Điều đó
là do ông đã tiếp thu được những giá trị đạo đức truyền thống cao đẹp của dân tộc, từ
cuộc sống gần gũi với nhân dân, những người lao động.
Tóm lại, các nhà Nho Việt Nam cũng rất chú trọng đến “Hiếu”, nó có ý nghĩa quan
trọng, chiếm vị trí cao nhất trong các nguyên tắc ứng xử gia đình. “Hiếu” ở Trung Quốc
nhiều khi được tuyết đối hóa như lý trí, tiên thiên, đặc biệt từ Hán Nho, Tống Nho trở đi
nó còn bị nhuốm màu thần bí, duy tâm; nó tuyệt đối hóa phụ quyền và nam quyền, nó còn
ca ngợi những hiện tượng “ngu hiếu” nữa. Các nhà Nho Việt Nam tuy vẫn chịu ảnh
hưởng quan niệm về “Hiếu” của Nho giáo Trung Quốc, song đã hiểu và vận dụng nó một
cách sáng tạo, hơn nữa còn cải tạo lại cho phù hợp với truyền thống và thực tiễn của Việt
Nam. Các nhà Nho Việt Nam cũng đề cao “Hiếu” nhưng không chỉ theo nghĩa hẹp là
hiếu với cha mẹ mà còn mang ý nghĩa rộng lớn hơn, nhân văn hơn - phụng sự cha mẹ
không tách rời với việc phục vụ đất nước, nhân dân - đó là đại hiếu.
Trong dân gian, đạo “Hiếu” được thể hiện ngay trong những lời ru từ khi con người
mới sinh ra, còn nằm trong nôi:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Nội dung chữ “Hiếu” trong dân gian đơn giản, thiết thực, bất kỳ ai cũng có thể thực
hiện được, chỉ cần có tấm lòng hiếu thảo thực tâm. Đối với người lao động, chữ “Hiếu”
đối với cha mẹ là phụng dưỡng khi còn sống, dù có nghèo túng khó khăn cũng phải cố
gắng nuôi cha mẹ, mong cho cha mẹ sống lâu để báo đáp công ơn. Những việc làm đó là
xuất phát từ thâm tâm, hoàn toàn tự nguyện, coi đó là một nhu cầu tất yếu của con người.
Người lao động cũng phê phán những kẻ khi cha mẹ còn sống thì không chăm nom đến
nơi đến chốn, đến khi chết thì mới bày ra cúng linh đình, đó không phải là “Hiếu”. Trong
đời sống thường ngày, chữ “Hiếu” được dư luận biểu dương, cổ vũ, thức tỉnh lương tâm
suy nghĩ của dân chúng. Sự khen chê về thực hiện “Hiếu” đã có tác dụng mạnh mẽ, uốn
nắn những sai lầm thiếu sót của những người đã không chú ý đầy đủ đến cha mẹ về một
lý do nào đó.
Quan niệm cha - con được xác định bởi cặp phạm trù “Từ - Hiếu” (Phụ từ - Tử
hiếu), đồng thời nhìn nhận chúng trong mối quan hệ hai chiều. “Từ” trong cách thức đối
đãi của cha mẹ với con cái là tình thương yêu, là sự bao dung, là trách nhiệm dạy dỗ. Đó
là điểm mấu chốt của đạo làm cha mẹ, cha mẹ từ hòa với con cái là một đòi hỏi, một yêu
cầu, một lời khuyên - nếu có thể người cha chỉ nên đóng vai trò cố vấn “Thái thượng
hoàng” cho “vua trẻ” mà thôi, đó là một tiền đề để sinh ra con hiếu. Ngược lại, làm con
có hiếu phải ghi lòng tạc dạ về công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Công lao cha mẹ
từ lúc mang thai, sinh nở, nuôi dưỡng, dạy dỗ cho lớn khôn được sánh với “trời cao
không cùng” làm con có hiếu phải nối được nghiệp nhà, làm rạng rỡ tổ tông. Sự tôn kính
của con cái đối với cha mẹ phải được biểu hiện bằng những hành động cụ thể:
“Sự thân cho phải hết nghì
Sinh dưỡng, tử sự mới nên thân người
Xuân huyên trăm tuổi tốt tươi
Đạo thời phải giữ dưỡng nuôi hết lòng”
Bổn phận làm con phải sớm hôm thăm hỏi, không làm trái ư, không làm phiền lòng
cha mẹ. Tục ngữ “Muốn nói ngoa làm cha mà nói” là ư rằng cha mẹ nói con chỉ biết
nghe, không cãi lại, không bình luận, nhưng cũng bao hàm cả ý nghĩa đã như vậy thì cha
mẹ chớ nói ngoa. Tuy nhiên, con hiếu thảo cũng còn bổn phận can gián cha mẹ không
làm điều sai trái.
Nho giáo mặc dù nêu lên được “cha từ - con hiếu” nhưng thực tế chỉ nhấn mạnh
một chiều - bổn phận và trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ, con không được nói cha
sai. Trong dân gian, không còn ràng buộc đó nữa, làm con có hiếu không có nghĩa là cha
bảo sao làm vậy, khi cha mẹ có điều gì lầm lỗi con phải tìm cách êm đềm, dịu dàng can
ngăn, dù cha mẹ không nghe cũng phải tỏ bày kính cẩn chứ không được làm trái lễ, dù có
làm điều gì khó nhọc cũng không được oán hờn.
“Chẳng suy cho hết sự tình
Theo cha nào phải là mình hiếu đâu” [58, tr.79]
Chữ Hiếu là của báu, mất của báu là mất hạnh phúc:
“Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn không dây”
Còn cha còn mẹ được phụng dưỡng là nỗi vui sống, là một vinh hạnh.Cha mẹ mất
sớm không được phụng dưỡng là đại bất hạnh:
“Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng
Con muốn nuôi mà cha mẹ chẳng còn”
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Hồ Chí Minh là người đã kế thừa tinh hoa truyền
thống tư tưởng dân tộc, trong đó có tinh hoa Nho giáo. Truyền thống giữ đạo hiếu của
dân tộc được kế thừa và nâng cao trong tư tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh. Trung và
hiếu là hai phạm trù đạo đức được Hồ Chí Minh sử dụng cặp đôi với nhau và coi như
chuẩn mực cao nhất trong hành vi của con người. “Trung với nước, hiếu với dân” - trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, phạm trù hiếu không còn bó hẹp trong phạm vi trọn đạo làm con với
cha mẹ mình, mà ở đây là hiếu thảo với nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ. Không chỉ thương
yêu cha mẹ mình mà còn phải thương yêu cha mẹ người. Người khẳng định:
Người kiên quyết cách mạng nhất lại là người đa tình chí hiếu nhất, vì
sao? Nếu không làm cách mạng thì chẳng những cha mẹ mình mà hàng triệu
cha mẹ người khác cũng bị đế quốc, phong kiến dày vò. Mình không những
cứu cha mẹ mình mà còn cứu cha mẹ người khác, cha mẹ của cả nước nữa [50,
tr.60].
ở Hồ Chí Minh, hiếu với dân là làm đày tớ của dân, là lấy dân làm gốc. Xưa Mạnh
Tử nói “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh“ (Dân là quý hơn hết, kế đó là xã tắc,
vua là nhẹ). Phát huy mặt tích cực của tư tưởng “Đạo hiếu” lấy dân làm gốc trong Nho
giáo xưa, Hồ Chí Minh không đặt mình ở vị trí cao hơn dân, ở ngoài dân. Không chỉ xem
dân là quý, là gốc, là sức mạnh, mà Người luôn đặt mình trong dân, là đày tớ của dân, coi
lợi ích của dân là tất cả sự nghiệp của mình, là mục tiêu của cách mạng. “Trong bầu trời
không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân” [51, tr.276]. Bằng cách diễn đạt khác, Người đã đặt nhân dân từ vị trí phụ
thuộc vua chúa, quan lại phong kiến lên địa vị người chủ.
ở Hồ Chí Minh, tư tưởng hiếu với dân không còn dừng lại ở chỗ thương dân với
tính chất là đối tượng cần phải dạy dỗ ban ơn, mà là đối tượng phải phục vụ hết lòng. Vì
vậy, phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân
làm gốc. Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, lại phải
thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, để nhân dân hiểu
được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước, quyền thì hưởng, còn trách nhiệm thì
phải làm tròn. Có được cái đức ấy thì người cách mạng, người lãnh đạo sẽ được dân tin
yêu, quý mến, kính trọng, nhất định sẽ tạo ra được sức mạnh to lớn cho cách mạng. Với ý
nghĩa rộng lớn ấy, hiếu thảo vẫn gắn liền với hiếu trung. Chính bản thân Hồ Chí Minh là
một tấm gương của quan niệm đó. Tùy theo từng đối tượng mà Hồ Chí Minh xác định
nội dung trung, hiếu cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Hồ Chí Minh đã
kế thừa rất tài tình, sáng tạo phạm trù “Hiếu” trong truyền thống và trong Nho giáo. ở
Người, phạm trù “Hiếu” đã được chuyển đổi mang tính cách mạng - hiếu với dân, trong
dân có cha mẹ.
Tóm lại, Nho giáo đã giữ một vị trí đặc biệt và có một vai trò quan trọng trong đời
sống tinh thần của nhân dân ta qua các giai đoạn lịch sử. Khi chữ “Hiếu” của Nho giáo
vào Việt Nam, dân tộc ta đã “Việt hóa” phần nào những giáo lý đó cho thích hợp với xã
hội ta, Nho giáo đã bị “khúc xạ” bởi môi trường Việt Nam. Tầng lớp trí thức phong kiến
Việt Nam tiếp thu chữ “Hiếu”, đã đặt lợi ích của tổ quốc lên trên chữ “Hiếu” của gia
đình. Từ tầng lớp phong kiến, chữ “Hiếu” của Nho giáo đã ảnh hưởng đến nhân dân lao
động, người dân Việt Nam ta đã tiếp thu những mặt tích cực của chữ “Hiếu”, đó là tình
cảm cao quý nhân bản, biết ơn công sinh thành dạy dỗ, tự giác có trách nhiệm, nghĩa vụ
săn sóc chăm nom, nuôi nấng, phụng dưỡng cho đến khi qua đời, thuốc men khi ốm đau,
mai táng chu đáo khi về già, tang trở nhớ tới công ơn khi đã khuất. Hiếu là nhân cách con
người, là gốc của nhân luân, là một giá trị xã hội cao qúy. Đạo hiếu là của trời đất, lâu dài
như trời đất, là bậc thang giá trị trọng yếu nhất trong cuộc đời. Kẻ bất hiếu được xem là
xấu xa nhất, có tội danh trong luật pháp, đạo hiếu của giáo huấn được triều đại nào cũng
đề cao, cũng có. Hiếu tồn tại và được duy trì như tín điều tôn giáo, không thể chuyển đổi.
Đạo hiếu là quan hệ đứng dọc trong gia đình và trong dòng họ. Gia đình người Việt Nam
từ xưa tới nay với vài ba thế hệ đã tạo nên một cộng đồng riêng biệt. Trong cộng đồng
gia đình, phổ biến là gia đình nhỏ, quan hệ mặt bằng ngang là anh chị - em, còn quan hệ
theo chiều đứng dọc là cha mẹ - con cái, người già - lớp trẻ, trưởng - thứ. Quan hệ mặt
bằng ngang được ứng xử theo nguyên tắc thứ đễ, lễ nghĩa; quan hệ dọc phải ứng xử theo
nguyên tắc hiếu kính, cả hai đều gắn chặt với nhau, không mâu thuẫn mà bổ sung cho
nhau, tạo nên một nền luân lý hoàn chỉnh. ư Như vậy, Nho giáo đã “phát triển trong mối
quan hệ xoắn xuýt với Phật giáo và Lão giáo…Nó thâm nhập vào đời sống của nhân dân
và ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý của dân tộc.Nó để lại những tàn dư dai dẳng ngay trong
xã hội ta ngày nay" [78, tr.10].
Chương 2
ảNH HƯởNG tư tưởng "hiếu" CủA nho giáo đối với
đời sống đạo đức gia đình ở cà mau - Những giảI pháp cơ bản nhằm kế thừa nhân
tố tích cực và hạn chế biểu hiện tiêu cực của tư tưởng hiếu trong việc
giáo dục đạo đức gia đình ở cà mau hiện nay
Gia đình là thiết chế xã hội mang tính lịch sử một cách đặc thù các mặt của đời sống
cộng đồng dân tộc, thời đại. Bởi vậy, để tìm hiểu đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau,
trước hết phải phân tích ảnh hưởng của tư tưởng “Hiếu” trong Nho giáo đối với đời sống
đạo đức gia đình và những tác động của một số điều kiện kinh tế - xã hội chủ yếu lên đời
sống gia đình ở Cà Mau. Từ đó chỉ ra những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của tư tưởng
“Hiếu” trong Nho giáo đối với đời sống đạo đức gia đình cũng như của nhân cách con
người ở Cà Mau hiện nay. Để có thêm tư liệu thực tế, tôi đã tiến hành điều tra xã hội học
với 200 mẫu đối tượng được lựa chọn từ nhiều nhóm ngành nghề, nhiều trình độ ở hai địa
phương có mức độ đô thị hoá khác nhau. Đó là các thành viên gia đình thuộc thành phố
Cà Mau và xã Lương Thế Trân (Huyện Cái Nước - cách trung tâm thành phố Cà Mau
khoảng 9km). Vì vậy, kết quả khảo sát mang tính đại diện khá cao. Tuy nhiên, luận văn
cũng sử dụng nhiều nguồn tư liệu khác nhằm đảm bảo căn cứ lý luận và thực tiễn cho
những kết luận được rút ra trong luận văn.
2.1. ảnh hưởng của tư tưởng “Hiếu” trong đời sống đạo đức gia đình ở Cà
Mau
Vốn là hệ tư tưởng của chế độ phong kiến và trải qua hàng nghìn năm duy trì chế độ
ấy, Nho giáo với tính cách là học thuyết chính trị đạo đức, luôn đề cao tính thiện của con
người. Dù bị biến đổi theo thời gian và bị chi phối bởi hoàn cảnh lịch sử, hệ tư tưởng
quan niệm về tính thiện của con người mà Nho giáo đề cập vẫn luôn là giá trị nhân văn
quan trọng. Trong đó các giá trị đạo đức thâm nhập vào đời sống gia đình tạo ra những nếp
sống phong tục đa dạng, nhằm cố kết con người lại với nhau và cũng nhằm duy trì sự ổn
định xã hội.
Với tính cách là tế bào xã hội, vườn ươm các nhân tài của đất nước, nơi nuôi dưỡng
những công dân mới cho tương lai, gia đình có vai trò quan trọng trong việc xây dựng
thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tốt xấu của mỗi
gia đình đều ảnh hưởng tới sự ổn định và phát triển của xã hội. Gia đình mới mà chúng ta
xây dựng là một gia đình hoà thuận dựa trên cơ sở dân chủ: vợ chồng, cha con, anh em
tôn trọng nhau cùng bàn bạc và quyết những vấn đề lớn của gia đình; vợ chồng phải có
lòng thủy chung; làm cha mẹ phải có đức nhân từ, làm con phải có đức hiếu kính, làm
anh em phải có sự yêu thương nhường nhịn…
Những hạt nhân tinh tuý của tư tưởng “Hiếu” trong Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng đến
đời sống đạo đức gia đình ở Việt Nam nói chung và Cà Mau nói riêng, cả mặt tích cực lẫn tiêu
cực, dù gia đình Cà Mau hiện nay đã phát triển theo một diện mạo mới, bình đẳng, dân chủ
hơn nhưng cũng đặt ra nhiều khó khăn.
2.1.1. ảnh hưởng tích cực của tư tưởng “Hiếu”
Dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường tuy mạnh mẽ nhưng trong xã hội hiện
nay “những hạt nhân tinh tuý” của tư tưởng “Hiếu” trong Nho giáo vẫn được tỏ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tư tưởng Hiếu trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau.pdf