Tài liệu Luận văn Truyện ngắn Vũ Trọng Phụng: ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------------------
ĐINH THỊ HỒNG THẢO
TRUYỆN NGẮN VŨ TRỌNG PHỤNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN - 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------------------
ĐINH THỊ HỒNG THẢO
TRUYỆN NGẮN VŨ TRỌNG PHỤNG
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TÔN THẢO MIÊN
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Mục lục
Phần 1: MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
3.1 Mục đích nghiên cứu 5
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
4.1 Đối tượng nghiên cứu 6
4.2 Phạm vi nghiên cứu 6
5. Phương pháp nghiên cứu 7
6. Đóng góp của luận văn 7
7. Bố cục của luận văn 7
Phần 2: NỘI DUNG 8
Chương 1: Khái quát về người Tày, văn học dân gian Tày và một số vấn đề lý
luận có liên quan đ...
107 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1326 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------------------
ĐINH THỊ HỒNG THẢO
TRUYỆN NGẮN VŨ TRỌNG PHỤNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN - 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------------------
ĐINH THỊ HỒNG THẢO
TRUYỆN NGẮN VŨ TRỌNG PHỤNG
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TÔN THẢO MIÊN
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Mục lục
Phần 1: MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
3.1 Mục đích nghiên cứu 5
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
4.1 Đối tượng nghiên cứu 6
4.2 Phạm vi nghiên cứu 6
5. Phương pháp nghiên cứu 7
6. Đóng góp của luận văn 7
7. Bố cục của luận văn 7
Phần 2: NỘI DUNG 8
Chương 1: Khái quát về người Tày, văn học dân gian Tày và một số vấn đề lý
luận có liên quan đến đề tài 8
1.1 Khái quát về người Tày và văn học dân gian Tày 8
1.1.1 Khái quát về tộc người Tày 8
1.1.2 Vài nét về văn học dân gian Tày 10
1.1.2.1 Một số thể loại văn học dân gian của người Tày 13
1.1.2.2 Dân ca sinh hoạt của người Tày 13
1.2 Loại hình tự sự và yếu tố tự sự trong văn học dân gian 18
1.2.1 Loại hình tự sự
1.2.2 Yếu tố tự sự trong văn học dân gian 21
Chương 2: Các dạng thức biểu hiện của yếu tố tự sự trong dân ca Tày 27
2.1 Những bài ca có cốt truyện 27
2.1.1 Những bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh 29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.1.2 Những bài ca có cốt truyện đơn giản 38
2.2 Những bài ca không có cốt truyện. 49
2.2.1 Những bài ca kể chuyện trực tiếp, liền mạch. 50
2.2.2 Những bài ca kể chuyện bâng quơ. 56
2.2.3 Những bài ca kể chuyện xen lẫn cảm xúc trữ tình. 62
Chương 3: Vai trò của yếu tố tự sự trong dân ca Tày 69
3.1. Yếu tố tự sự - một phương tiện đắc dụng phản ánh hiện thực 69
3.2 Yếu tố tự sự với mục đíc kể sự tả tình 81
3.2.1 Giúp cho nhân vật trữ tình kín đáo giãi bày tình cảm. 81
3.2.2 Tạo cho cảm hứng trữ tình có thêm nghĩa lý để triển khai. 86
3.3 Yếu tố tự sự góp phần cá thể hoá nhân vật trữ tình 90
Phần 3: KẾT LUẬN 97
Tài liệu tham khảo 101
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phần 1: Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài
Ai đã từng say mê, sửng sốt trước nghệ thuật tả cảnh, tả tình tinh tế, đầy
sức gợi cảm trong những truyện thơ của người Tày nếu có dịp nghe những lời
ca tiếng hát của dân tộc này hẳn sẽ lý giải vì sao người dân nơi đây có thể
sáng tác truyện thơ hay đến vậy.
Người Tày sống giữa thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, có phần ưu đãi, có
phần khắc nghiệt. Họ sống chân thành, giản dị, hiền hoà trong một xã hội mà
nhân tố dân chủ nguyên thuỷ phần nào còn đóng vai trò trong các quan hệ xã
hội. Những điều kiện tự nhiên và xã hội ấy đã góp phần tạo nên chất trữ tình
đằm thắm, tràn đầy trong tâm hồn người Tày. Dân ca Tày nói chung và dân ca
trữ tình Tày nói riêng là tiếng nói chất chứa những nguyện vọng, những nỗi
niềm, những cung bậc tình cảm đa dạng của con người, với một thứ nghệ
thuật tràn đầy chất lãng mạn và phương thức biểu hiện tinh tế, sâu sắc.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu khai thác giá trị dân ca Tày ở nhiều
cấp độ trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Song hầu hết các nhà
nghiên cứu chỉ tập trung khai thác bản chất trữ tình của thể loại này mà ít chú
ý tới vai trò của yếu tố tự sự trong việc biểu hiện đời sống nội tâm của con
người dưới nhiều khía cạnh phong phú và khác nhau. Ý muốn có một chuyên
luận nhỏ tìm hiểu về vấn đề này là một trong những lí do khiến chúng tôi
chọn “Yếu tố tự sự trong dân ca Tày” làm vấn đề nghiên cứu của luận văn.
Mặt khác, đã từ lâu, việc dạy và học văn học dân gian nói chung, văn
học dân gian các dân tộc thiểu số nói riêng rất được nhà trường phổ thông
quan tâm chú ý. Vì vậy nghiên cứu tìm hiểu về dân ca Tày là việc làm có ý
nghĩa rất thiết thực đối với công tác giảng dạy, học tập của giáo viên và học
sinh trong nhà trường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2. Lịch sử vấn đề
Thuộc về loại hình trữ tình dân gian, ca dao, dân ca với những đặc điểm
thể loại của nó là sự thể hiện cảm xúc của chủ thể trữ tình trước những vấn đề
xã hội và nhân sinh. Ca dao, dân ca cùng các vấn đề xung quanh nó từ lâu đã
được khoa lịch sử văn học soi sáng, phân tích dưới nhiều góc độ: Chủ đề, tư
tưởng, đề tài, thi pháp, ngôn ngữ… tuy nhiên về mặt loại hình còn có thể đi
sâu hơn nữa về một đặc điểm góp phần không nhỏ tạo nên diện mạo loại hình
trữ tình dân gian tiêu biểu này. Đó là yếu tố tự sự và sự xâm nhập mạnh mẽ
của nó vào trong ca dao, dân ca. Đây có thể nói là một vấn đề độc đáo nên từ
lâu đã thu hút được sự quan tâm chú ý của các nhà nghiên cứu. Về vấn đề này
có thể kể đến những ý kiến, bài viết sau:
Theo nhà nghiên cứu văn học dân gian Chu Xuân Diện: “ ...Khác với
phong cách của nhiều tác phẩm thơ ca trữ tình, trong văn học thành văn,
phong cách của ca dao, dân gian trữ tình biểu lộ khá rõ rệt xu hướng kể
chuyện, nghĩa là xu hướng miêu tả tình cảnh không chỉ qua tâm trạng mà còn
qua cả hành động nhân vật nữa”.[492, 16]
Về đặc điểm của yếu tố tự sự, các nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị, Lê
Trường phát đã gián tiếp kể ra trong khi viết về lối kể chuyện.
Tìm hiểu về lối kể chuyện trong ca dao, nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị rất
chú ý tới phân biệt kể chuyện - trữ tình với kể chuyện - tự sự. Nét khác biệt
giữa hai loại này chung quy gồm mấy đặc điểm sau:
“1. Trong ca dao (ở đây đang nói về ca dao kể chuyện) nhân vật trữ tình
kể chuyện mình, còn trong vè, câu chuyện về nhân vật (tất nhiên là nhân vật
tự sự) lại do người khác kể lại.
2. Câu chuyện được kể trong ca dao là chuyện tâm tình - đó là nỗi niềm
được kể nhiều hơn là câu chuyện được thuật lại.” [207, 31]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Cũng giống như nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị, nhà nghiên cứu Lê
Trường Phát trên cơ sở viết về lối kể chuyện, đã chỉ ra đặc trưng cơ bản nhất
của những bài ca viết theo lối này: “Trong bài ca dao kể chuyện tuy cũng có
sự nhưng nổi lên bình diện thứ nhất việc kể và tả là “tình” là nỗi niềm của
nhân vật (và là nhân vật trữ tình). ở đây câu chuyện đựơc kể không cần mang
vẻ ngoài của nó như trong thực tại, điều đáng chú ý hơn cả vẫn là những cảm
xúc tâm lí của nhân vật trữ tình phản ứng lại những biểu hiện, những vẻ
ngoài của sự việc.” [139, 26].
Trong quá trình tìm hiểu chúng tôi nhận thấy lối kể chuyện mà hai nhà
nhà nghiên cứu trên đề cập tới có nội hàm rất gần với yếu tố tự sự trong ca
dao. Do vậy, những ý kiến nhận định trên là những gợi ý quan trọng và quý
báu cho chúng tôi trong quá trình tìm hiểu đề tài.
Về các dạng thức biểu hiện của yếu tố tự sự, dù chỉ nghiên cứu ở mức độ
khái quát nhưng trong “Những thế giới nghệ thuật ca dao”, Phạm Thu Yến đã
bước đầu chỉ ra rằng yếu tố tự sự xuất hiện trong ca dao có những dạng thức
biểu hiện khác nhau.
Trong bài viết: “Học viết truyện ngắn trong ca dao cổ” Vũ Tú Nam qua
việc phân tích bài ca dao “Mình ta nói với ta mình hãy còn son” đã chỉ ra
những “đức tính” cần có của một truyện ngắn. Cũng trong bài viết này tác giả
đã nêu một cấp độ biểu hiện của yếu tố tự sự trong ca dao: Cấp độ có cốt
truyện.
Riêng bàn về “sự” và “tình”, Hoàng Tiến Tựu đã chỉ ra một cách rất
hình ảnh cũng khá cụ thể mối quan hệ giữa hai yếu tố này: “Có thể nói “sự” là
thể xác “tình” là linh hồn của ca dao. Muốn lập ý, diễn tình và cấu tứ nói
chung phải nhờ đến “sự”. Mặc dù bản thân “sự” nếu tách rời thì sẽ mất hết nội
dung, ý nghĩa, chẳng là cái gì cả. Nhưng nếu thiếu nó thì “tình” khó bộc lộ, tứ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
cũng khó mà hình thành, cho nên chỉ có thể nói “sự” là cơ sở, là điểm tựa của
tư tưởng tình cảm trong ca dao”.[32, 34]
Tổng hợp các ý kiến trên, dễ nhận thấy có một điểm chung là từ cách gọi
tên cho đến nội dung vấn đề được đưa ra, các nhà nghiên cứu mới chỉ gián
tiếp nhắc đến yếu tố tự sự và cũng chỉ nhắc đến một khía cạnh nào đó của yếu
tố này trong ca dao mà chưa tìm hiểu một cách hệ thống, cụ thể vấn đề này.
Với bài viết “Tự sự trong loại hình trữ tình dân gian”, Nguyễn Bích Hà
đã bước đầu nhìn nhận, tìm hiểu yếu tố tự sự trên một số phương diện: Các
dạng thức biểu hiện, đặc điểm vai trò của nó trong ca dao nói chung. Tuy
nhiên do dung lượng có hạn của bài báo nên bài viết còn khá khái quát, chưa
đi sâu vào tìm hiểu vấn đề này.
Trên đây là một số bài viết về yếu tố tự sự trong kho tàng ca dao người
Việt. Dù chỉ dừng lại ở mức độ khái quát nhưng những kết quả nghiên cứu
trên thật sự là chỗ dựa vững chắc cho chúng tôi trong suốt quá trình thực hiện
đề tài.
Bên cạnh mảng ca dao người Việt, các nhà nghiên cứu cũng chú ý đến
việc tìm hiểu sự hiện diện của yếu tố này trong kho tàng dân ca của các dân
tộc anh em khác. Có thể kể đến một số bài viết sau:
Trong khi tìm hiểu về “Đặc điểm kết cấu dân ca Hmông”, tác giả Phạm
Thu Yến nhận định rằng: “Một đặc điểm rất quan trọng, khi quan sát kết cấu
dân ca Hmông là các bài dân ca này dài hơn dân ca Việt. Tính chất trần thuật,
kể lể, phô diễn đậm nét hơn” và “Dân ca Việt, dân ca Trung Quốc kết cấu
thường ngắn, gọn, các yếu tố cốt truyện không rõ như dân ca Thái, dân ca
HMông có nhiều bài rõ yếu tố cốt truyện, đôi chỗ còn có lời trần thuật của
người dẫn truyện.” [60, 39]
Tìm hiểu về dân ca trữ tình Thái, tác giả này cũng cho rằng: “Một đặc
điểm dễ nhận thấy ở dân ca Thái là chất trữ tình kết hợp hài hòa với lối tự sự,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
phô diễn, giãi bày khiến dân ca Thái vừa giản dị, hồn nhiên vừa lãng mạn, thơ
mộng. Một bài dân ca Thái thường kể về một tình huống, diễn tả tâm trạng,
nhiều khi như kể cả câu chuyện có lời thoại, tả cảnh, tả tình.” [153, 39]
Riêng về dân ca sinh hoạt của người Tày, đối tượng mà đề tài hướng tới,
các nhà nghiên cứu cũng khẳng định rằng có sự tham gia của yếu tố tự sự.
Nhà nghiên cứu văn học dân gian Vi Hồng đã khẳng định rằng: “Sli,
lượn trữ tình chủ yếu là những lời trò chuyện tâm tình giữa nam nữ thanh
niên, nhưng vẫn không hoàn toàn gạt bỏ những bài mang tính tự sự” và
“chính do hình thức diễn xướng nối tiếp này mà các bài lượn trữ tình vẫn
mang hơi thở của thể loại tự sự’.[193, 14]
Tìm hiểu về “lượn sách”, nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn cũng khẳng
định: “Loại lượn này mặc dầu được trình bày trong các cuộc sli, lượn nhưng
lại mang yếu tố tự sự đậm đà hơn tính trữ tình”. [49, 33]
Như vậy, dù trong kho tàng ca dao người Việt hay ở bộ phận dân ca sinh
hoạt của người Tày, trên cấp độ loại hình, cần nhận thấy có sự xâm nhập
mạnh mẽ của yếu tố tự sự vào loại hình tưởng như đối lập với nó về phương
thức biểu hiện - loại hình trữ tình dân gian. Nhưng cho đến nay vấn đề này
vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, trên cơ sở tiếp thu những ý kiến,
những nhận định của nhà nghiên cứu trước đó, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu
một cách tương đối toàn diện về yếu tố tự sự trong điệu hát dân ca trữ tình
Tày. Từ đó chỉ ra những đặc trưng, vai trò của nó trong việc biểu lộ cảm xúc
trữ tình của những cư dân nói tiếng Tày.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc tìm hiểu đề tài, luận văn sẽ chỉ ra một cách có hệ thống các
dạng thức biểu hiện và vai trò của yếu tố tự sự trong kho tàng dân ca sinh hoạt
của người Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên
cứu của đề tài là:
- Xác định một khái niệm chung nhất về yếu tố tự sự.
- Từ khái niệm ấy đối chiếu vào các lời ca trong kho tàng dân ca Tày để
tìm ra những lời ca có sự xuất hiện của yếu tố tự sự và tiến hành phân loại
chúng.
- Trên cơ sở những số liệu cụ thể mà kết quả khảo sát đem lại, chúng tôi
tiến hành phân tích, so sánh để tìm ra một số đặc điểm cơ bản và vai trò của
yếu tố tự sự trong kho tàng dân ca Tày.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các lời dân ca sinh hoạt của người Tày có sự hiện diện của yếu tố tự sự.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Các lời dân ca Tày đã được sưu tầm và biên dịch trong một số cuốn sách
sau:
1. Ca dao Tày Nùng, Triều Ân (1994 ), Sưu tầm, tuyển dịch, giới thiệu, Nxb
Văn học.
2. Lượn slương, Phương Bằng, Lã Văn Lô (1992), Sưu tầm, phiên âm, dịch,
Nxb Văn hoá dân tộc.
3. Phong Slư, Phương Bằng (1994), sưu tầm, phiên âm, chỉnh lý biên soạn và
dịch thuật, Nxb Văn hóa dân tộc.
4. Đồng dao Tày, Hoàng Thị Cành (1994), Sưu tầm, tuyển dịch, biên soạn,
Nxb Văn hoá Dân tộc.
5. Lượn cọi Tày – Nùng, Cung Văn Lược, Lê Bích Ngân (1987), Nxb Văn
hóa dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6. Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng, Hoàng Thị Quỳnh Nha
(2003), Nxb Văn hóa - Thông tin.
7. Lượn Tày Lạng Sơn, Hoàng Văn Páo (2003), Sưu tầm, biên dịch, giới
thiệu, Nxb Văn hoá Dân tộc.
8. Lượn cọi, Lục Văn Pảo (1994), Sưu tầm, phiên âm, dịch - Nxb Văn hoá
dân tộc.
Và một số bài dân ca sinh hoạt của người Tày được tuyển chọn, phiên
âm, biên dịch in trong các hợp tuyển, tổng tập văn học.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Bởi vậy,
với mong muốn thu được kết quả cao nhất, ở đề tài này, chúng tôi sử dụng
nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó xác định một số phương pháp sau là
cơ bản:
- Phương pháp thống kê, hệ thống.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp phân tích, khái quát hoá.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
6. Đóng góp của luận văn
Hoàn thành đề tài, luận văn hy vọng sẽ chỉ ra một cách có hệ thống các
dạng thức biểu hiện và vai trò của yếu tố tự sự trong dân ca Tày.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, nội dung chính của
luận văn được thể hiện trong 3 chương:
Chương 1: Khái quát về người Tày, văn học dân gian Tày và một số vấn
đề lý luận có liên quan đến đề tài.
Chương 2: Các dạng thức tồn tại của yếu tố tự sự trong dân ca Tày.
Chương 3: Vai trò của yếu tố tự sự trong dân ca Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI TÀY, VĂN HỌC DÂN GIAN
TÀY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1 Khái quát về tộc ngƣời Tày và văn học dân gian Tày
1.1.1 Khái quát về tộc người Tày
Tày là tên gọi từ lâu đời dùng để chỉ chung người dân tộc ở Trung
Quốc và Đông Nam Á. Theo các nhà dân tộc học thì tên gọi này đã có từ nửa
cuối thiên niên kỉ thứ nhất sau công nguyên. Ngoài tên gọi này, người Tày
còn được biết đến bởi các tên Thổ, Cần Shín, Khay, Táy...
Cùng với người Việt, người Mường... ở Việt Nam, người Tày đã có
mặt từ xa xưa gắn liền với tiến trình dựng nước và giữ nước. Tính đến năm
1995, dân số Tày ở nước ta vào khoảng 1,2 triệu người, đứng vị trí thứ nhất
trong 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Người Tày có mặt ở hầu hết các tỉnh
thành trong cả nước nhưng tập trung chủ yếu ở vùng Việt bắc,trên địa bàn các
tỉnh: Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hà Giang, Lạng Sơn... đặc biệt là Cao Bằng
(75% dân số tỉnh Cao Bằng).
Tìm về cội nguồn lịch sử, người Tày còn thuộc nhóm Âu Việt trong
khối Bắc Việt mà địa bàn cư trú là miền Bắc Việt Nam và miền Hoa Nam
Trung Quốc. Vào thế kỉ thứ 3 trước công nguyên, liên minh bộ lạc Âu Việt
(Tày - Nùng) đã cùng với liên minh bộ lạc Lạc Việt (Việt - Mường) thành lập
nên vương quốc Âu Lạc. Người thủ lĩnh đứng đầu là An Dương Vương Thục
Phán. Địa bàn quốc gia Âu Lạc là Bắc Bộ và Trung Bộ. Âu Lạc là quốc gia
đầu tiên xuất hiện trên vũ đài lịch sử Việt Nam. Trong quá trình cùng chung
sống, đấu tranh để xây dựng và giữ gìn đất nước người Âu Việt và người Lạc
Việt vốn có những quan hệ gần gũi nhau, cùng giao lưu tiếp thu ảnh hưởng
văn hoá của nhau. Người Lạc Việt đông hơn và phát triển xuống vùng đồng
bằng phía Nam, theo hạ lưu các con sông và ven biển. Có thể những bộ phận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
người Âu Việt đã hoà nhập vào nhóm Lạc Việt để hình thành dân tộc Việt
hiện đại. Còn lại là những bộ phận người Âu Việt ở miền núi và trung du chịu
ảnh hưởng văn hoá của người Việt. Tức người Tày ngày nay.
Sau người Việt sống ở vùng đồng bằng phì nhiêu, người Tày sinh cơ
lập nghiệp ở những vùng được thiên nhiên ưu đãi nhất. Đó là những cánh
đồng miền núi, những thung lũng ruộng bậc thang xung quanh có cây rừng,
suối nước, đồi cỏ, khí hậu trong lành, rất thuận tiện cho việc trồng trọt chăn
nuôi, đặc biệt là việc trồng các loại hoa màu, các cây công nghiệp, cây ăn quả.
Trước cách mạng tháng Tám, nền kinh tế của đồng bào Tày căn bản là
một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Nguồn sống chính là trồng trọt, thứ đến
là chăn nuôi. Thủ công nghiệp là nghề phụ trong gia đình. Việc thu thập khai
thác lâm thổ sản là nguồn thu nhập quan trọng. Việc săn bắn bổ sung nguồn
thu nhập cho gia đình. Việc buôn bán chủ yếu nằm trong tay người Hoa kiều
và người Việt ở thị xã, thị trấn.
Vùng sinh sống trước đây của người Tày là địa bàn chính chống xâm
lăng dưới nhiều triều đại. Từ thời Lý Trần, nhất là từ thời Lê, nhà nước phong
kiến đặt chế độ “thế tập, phiên thần” tức chế độ thổ ti, phái một số công thần
hay con cháu của họ, chọn trong những phần tử trung kiên nhất, đem theo gia
đình, thuộc tộc, lên chiêu dân lập ấp ở các tỉnh biên giới sau mỗi trận chiến
thắng, quét sạch xâm lược ra khỏi bờ cõi. Các vị lưu quan này đời đời kế tục
cai trị các địa phương, rất mực trung thành với triều đình trung ương.
Chế độ thổ ti dần tan rã dưới thời Pháp thuộc. Con cháu các dòng họ
thổ ti sống hòa vào nhân dân các địa phương, trở thành người Tày, mang theo
nhiều yếu tố văn hóa Việt. Một sự hòa hợp dân tộc trong lịch sử đáng chú ý
xảy ra vào thế kỉ 16, 17. Triều đình lưu vong họ Mạc bị quân Lê Trịnh đánh
đuổi, chạy lên trấn giữ vùng Cao Bằng trong non một thế kỷ. Sau khi họ Mạc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
diệt vong, con cháu và quan quân dư đảng thay tên đổi họ, sống hòa vào nhân
dân địa phương, đồng hóa với người Tày.
Xã hội Tày trước cách mạng tháng Tám đã chuyển sang chế độ phong
kiến địa chủ nhưng phân hóa giai cấp chưa sâu sắc như ở miền xuôi nên quan
hệ giữa các tầng lớp xã hội trong làng bản nói chung vẫn là quan hệ đoàn kết,
tương thân tương trợ giữa những người trong họ hàng làng xóm.
Trên đây là một vài nét chấm phá về lịch sử tộc người và điều kiện xã
hội của cư dân nói tiếng Tày trước cách mạng tháng Tám. Những điều này ít
nhiều đều có ảnh hưởng tới văn học dân gian nói riêng cũng như văn hóa của
người Tày nói chung.
Có thể nói, địa hình miền núi ưu ái mà bất thuận, thiên nhiên hùng vĩ
tươi đẹp mà dữ dằn, cửa ngõ biên giới giao du rộng mở mà không kém phần
phức tạp... tất cả những điều đó đã ảnh hưởng đến điều kiện sống, sinh hoạt,
văn hoá, tính cách của những người Tày. Người Tày không những đã tạo ra
được một nền văn hoá với những giá trị vật chất bền vững mà còn sáng tạo
nên một nền văn hoá tinh thần với những phong tục tập quá lâu đời và phong
phú.
Trước hết, đó là những nét đẹp trong văn hoá sắc tộc của người Tày.
Trong quan hệ gia đình, người Tày vốn có lòng kính già yêu trẻ. Dưới chế độ
cũ người phụ nữ không được đối xử bình đẳng với nam giới, không được
hưởng gia tài, không được đi học. Tuy nhiên, họ vẫn được chồng con tôn
trọng, vì họ giữ vai trò quan trọng trong lao động sản xuất và trong quản lý
kinh tế gia đình.
Trong quan hệ với các dân tộc anh em, đồng bào có tập quán kết nghĩa
anh em gọi là “lạo tồng”, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em ruột thịt.
Người Tày sống hồn hậu, chân thành và đặc biệt có lòng mến khách.
Bản làng là đơn vị hành chính đồng thời là nơi diễn ra những sinh hoạt văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
hoá tinh thần. Ở đó họ sống với nhau thân thiện, đàm ấm và hoà hảo. Mỗi khi
khách vào bản, cả bản vui mừng đón tiếp. Họ đón tiếp nhau không chỉ bằng
tình cảm chân thành đằm thắm mà còn bằng cả tiếng hát lời ca ngọt ngào thiết
tha:
Xin dâng lời đẹp cho người
Xin dâng lời thơm cho bạn
Nét phong tục độc đáo này trở thành một môi trường lý tưởng nuôi
dưỡng những tiếng hát lời ca của người Tày.
Nói đến văn hoá người Tày không thể không nói đến ngôn ngữ của
người Tày. Người Tày đã sớm có một thứ ngôn ngữ của riêng mình. Qua thời
gian sàng lọc tiếng Tày rất gần với tiếng Việt về hệ thống âm thanh và ngữ
pháp. Trong từ vựng tiếng Tày và tiếng Việt đều có những từ vay mượn của
nhau, nhất là có rất nhiều tiếng từ Hán Việt. Lý do rất đơn giản bởi giống như
người Việt, trước đây người Tày đã từng học chữ Hán, sau đó trên cơ sở chữ
Hán, người Tày đã tạo ra chữ Nôm Tày. Sự ra đời chữ Nôm Tày có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong tiến trình văn hoá lịch sử phát triển dân tộc Tày.
Ngay từ khi ra đời, chữ Nôm Tày trở thành một phương tiện đắc dụng ghi lại
tiếng nói Tày, thơ ca, truyện khuyết danh... của dân tộc Tày. Như vậy, qua
thời gian sàng lọc đến nay, người Tày đã tương đối ổn định phát triển và đáp
ứng nhu cầu giao tiếp của đồng bào. Tiếng nói ấy sinh động về âm thanh, giàu
có về từ ngữ, phong phú về sắc thái biểu cảm. Điều này thể hiện rõ trong lời
ăn tiếng nói, nhưng đặc biệt là qua kho tàng văn hoá dân gian của họ.
Tín ngưỡng, lễ hội cũng là một mảng quan trọng trong đời sống tinh
thần đồng bào Tày. Đó là nơi bộc lộ rõ nhất đời sống tâm linh của họ.
Thật khó mà xác định người Tày thuộc tôn giáo nào. Phật giáo rất phổ
biến ở Việt Nam. Nhưng người Tày hầu như không có chùa thờ Phật mà chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
đình thờ thần, không có các nhà tu hành mà chỉ có những người làm nghề
cúng bái như “tào”, “mo”, “then”, “pụt”...
Thờ tổ tiên là tục lệ lâu đời của người Tày. Bàn thờ thường đặt ở gian
chính, hướng ra cửa. Những ngày lễ tết trong năm, những việc đại sự gia đình
như xây nhà mới, cưới xin, tang lễ... bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng là nơi họ
thỉnh cầu, giao cảm tâm linh.
Bên cạnh đó, người Tày cũng thờ một số vị Phật, Thần thường thấy
trong Phật giáo như Phật bà Quan âm, trong đạo giáo như Hắc Hồ Huyền
Đàn, Hoa Vương, Thánh Mẫu... Trong khi làm ma chay cúng bái, đồng bào
dùng một số nghi thức trong “thọ mai gia lễ”. Tín ngưỡng của đồng bào Tày
bắt nguồn từ thuyết vạn vật có linh hồn, chủ nghĩa đa thần trong nguyên thủy,
tục thờ thần dòng họ, tục tin ở rất nhiều thứ ma, gọi là “phi”, kết hợp với một
số yếu tố Đạo giáo, Phật giáo, Khổng giáo do những người làm nghề cúng bái
đem truyền bá trong dân gian.
Những ngày hội, ngày Tết truyền thống trong đồng bào Tày cũng như
trong người dân Việt Nam nói chung đều là những ngày Tết nông nghiệp.
Mỗi ngày Tết trong năm đều có ý nghĩa riêng, có những nghi lễ và đồ cúng
riêng, thường là sản phẩm tiêu biểu của từng mùa. Tết đầu năm âm lịch là Tết
lớn nhất trong năm. Đồng bào ăn mừng kết thúc một năm thu hoạch thắng lợi,
đồng thời chuẩn bị cho một năm lao động sản xuất. Mỗi Tết đến đều mang lại
cho người ta những hy vọng mới. Trong tháng Tết này người ta mở những
ngày hội Lồng Tồng để cầu mùa màng, để cho trai gái vui chơi, ca hát với
nhau, tổ chức những trò chơi dân gian để thưởng xuân. Đây còn là dịp để bạn
bè, bà con đến hỏi thăm nhau, con cái ở xa về thăm cha mẹ, nhất là con rể đến
lễ tết bố mẹ vợ. Ngoài ngày Tết đầu năm, trong năm, người Tày còn rất nhiều
ngày Tết khác như: Tết mùng 3 tháng 3 âm lịch, Tết Đoan ngọ mùng 5 tháng
5, Tết rằm tháng bảy, Tết trung thu... Những ngày hội, ngày Tết truyền thống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
nói chung có những ý nghĩa lành mạnh, nó nói lên ước mong của người dân
lao động muốn làm sao cho mùa màng của mình thu hoạch tốt, của cải được
dồi dào, ấm no, hạnh phúc. Thực tế hơn, nó nhằm cải thiện phần nào đời sống
của người lao động sau những ngày làm ăn mệt mỏi trên những nương rẫy.
1.1.2 Vài nét về văn học dân gian Tày
1.1.2.1 Một số thể loại văn học dân gian Tày
Với những khao khát chinh phục thiên nhiên cải tạo cuộc sống mà dân
tộc Tày sớm thoát khỏi thời kì mông muội, tiến tới văn minh loài người. Mặt
khác, trải qua những cuộc thiên di vĩ đại, người Tày đã có một nền văn hoá
phát triển lâu đời. Người Tày lại sớm có chữ viết và ngôn ngữ riêng nên họ đã
xây dựng được một nền văn nghệ nói chung và văn học dân gian khá đồ sộ.
* Loại hình tự sự dân gian
Người Việt có thần thoại là cơ sở giải thích các hiện tượng tự nhiên và
sự ra đời của vạn vật thì người Tày cũng đánh dấu trong kho tàng văn hoá dân
gian của mình bằng thần thoại Pú Lương Quân. Truyện đã thâu tóm giới thiệu
cả ba thời kì sinh hoạt của quá trình phát triển xã hội loại người, săn bắt, trồng
trọt, chăn nuôi. Những hệ thống thần thoại người Tày mang đậm màu sắc
hoang đường nhưng trong ý niệm tuyệt đối, những câu chuyện này đã phản
ánh được sâu sắc thế giới quan, nhân sinh quan của người Tày cổ xưa.
Truyền thuyết Tày đặc biệt phong phú ở bộ phận có mẫu đề người anh
hùng chống xâm lăng, giữ vững địa bàn cư trú. Trong đó nổi bật là nhóm
truyện kể về các thủ lĩnh quân sự, các vị anh hùng. Trong đó, có thể kể đến
truyền thuyết Nùng Trí Cao, Hoàng Lục, Tôn Đản, Dương Tự Minh. .. Ngoài
ra, ở mảng thể loại này còn phải kể đến vô số truyền thuyết địa phương, kể về
những vị có công khai sơn phá thạch, lập bản dựng mường mà tên tuổi được
coi như là thật, được chép lại trong các thần tích, thần phả gắn liền với cả đền
thờ thần, miếu thờ thành hoàng... ở những bản làng Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Truyện cổ tích ra đời đã đánh dấu bước trưởng thành trong tiến trình
văn học dân gian Tày. Phần lớn các truyện đều nói lên đạo đức tài năng của
những người bình dân, những người cùng khổ nhất, người có công đánh giặc
cứu nước, đả kích bọn hôn quân bạo chúa, cường hào ác bá. Có truyện đề cao
lòng chung thuỷ vợ chồng, tình bạn bè giàu nghèo sống chết có nhau. Có
truyện giáo dục con cái về quan điểm lao động như truyện phú ông bắt con
trai đi học nghề trước khi được hưởng gia tài của ông cha để lại. Có thể thấy
kho tàng truyện của người Tày vô cùng phong phú. Qua những câu chuyện
truyền miệng đó, ít nhiều chúng ta cũng cảm thấy bóng dáng của sự phát triển
của loài người từ nguyên thuỷ xa xưa tới khi xã hội phân chia thành giai cấp
đối kháng.
Truyện cười của người Tày không nhiều, ý nghĩa đấu tranh giai cấp
cũng chưa sâu sắc thâm thuý. Nội dung chủ yếu của truyện cười là phê phán
thói hư tật xấu trong nội bộ người dân lao động.
Truyện ngụ ngôn của người Tày cũng không nhiều. Nói chung, đó là
những truyện về cơ bản có hình thức là mượn truyện loài vật để nói về các
mối quan hệ nhân sinh. ý nghĩa chủ yếu của truyện là rút ra các bài học sâu
sắc về thế sự, mục đích chủ yếu là đề cao trí thông minh của người lao động.
Đối với thể loại truyện thơ dân gian, người Tày đã đóng góp cho kho
tàng văn học dân tộc những kiệt tác mà cho đến nay những giá trị nội dung và
nghệ thuật của nó còn khiến các thế hệ sau phải ngỡ ngàng: Khảm Hải, Nam
Kim - Thị Đan, Lưu Đài- Hán Xuân, Trần Chu- Quyển Vương... Kết cấu
truyện thơ thường diễn ra theo ba bước: gặp gỡ, yêu thương tha thiết – tình
yêu tạm thời bị chia cắt hoặc tan vỡ- đôi bạn tìm cách thoát khỏi trói buộc để
đoàn tụ. Truyện thơ dân gian Tày thể hiện khát vọng dân chủ, khát vọng hạnh
phúc mãnh liệt cũng như ý thức chống lại lề thói tập tục khắc nghiệt, bóp
nghẹt quyền tự do yêu đương của con người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
* Loại hình trữ tình dân gian.
Gần gũi hơn cả và phản ánh sắc nét nhất đời sống vật chất và tinh thần
của người Tày phải kể đến loại hình trữ tình dân gian Tày. Đó là những lời ca
tiếng hát cất lên từ nhà sàn yêu dấu, từ mảnh rừng xanh bao la, từ dòng suối
hiền hoà mát thương... Trai gái Tày đem những tiếng hát lời ca cất lên như
một cái cầu nhỏ gửi tâm tình tới người thương yêu, tới quê hương làng bản.
Loại hình này được hợp thành từ hai tiểu loại: Dân ca nghi lễ và dân ca
sinh hoạt. Mỗi mảng lại có những đặc sắc riêng trên cả hai phương diện nội
dung và nghệ thuật.
* Các thể loại trung gian
Tục ngữ Tày rất phong phú. Về hình thức, đó là những câu ngắn gọn
văn vẻ, giàu hình ảnh gần gũi với đời sống ngàn năm. Về nội dung, đó là
những câu đúc kết những bài học kinh nghiệm trong cuộc sống muôn màu
muôn vẻ của cộng đồng Tày trên cả hai lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Nghiên
cứu tục ngữ của đồng bào Tày, chúng ta sẽ hiểu sâu sắc hơn hoàn cảnh làm ăn
sinh sống và những kinh nghiệm quý báu trong lao động sản xuất, trong quan
hệ xã hội và gia đình của đồng bào xưa.
Câu đố là một thể loại khá phổ biến ở mọi vùng cư trú của người Tày.
Bất kỳ ở đâu nhưng lúc bên bếp lửa, đi làm nương rẫy, trò chuyện, vui đùa
người ta đều dùng câu đố như một hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần. Nội
dung của câu đố rất phong phú biểu hiện những nhận xét sắc sảo, tinh tế và
hóm hỉnh. Các câu đố về sự vật, con người, về hiện tượng tự nhiên rất gắn bó
với đời sống hàng ngày của người Tày. Đây cũng là một hình thức giải trí tuơi
mát, đầy chất thông minh và có tác dụng giáo dục cộng đồng một cách sâu
sắc.
Câu đố có thể cấu tạo từ hai đến hàng chục câu. Trai gái Tày có lúc sử
dụng câu đố dưới hình thức hát Lượn giao duyên. Bên trai hay bên gái không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
đối đáp được thì coi như thua cuộc. Do vậy trai gái Tày rất chú ý học hỏi kinh
nghiệm của người già để có vốn đối đáp phong phú.
Phuối pác, phuối rọi là những lời nói có vần, có điệu của nam, nữ
thanh niên Tày hàng ngày. Đây là lối nói tự do, sáng tạo, thường được diễn ra
khi gặp nhau trên đường, ở chợ hay trong lễ hội... Nó cũng là một hình thức
biểu hiện tình cảm, nó là những lời ướm hỏi trêu ghẹo tình tứ thể hiện những
sắc thái tình cảm trong tình yêu. Được thời gian gọt rũa, những lời phuối
phác, phuối rọi ngày càng cô đọng bóng bẩy và mềm mại một chất thơ lãng
mạn.
Sẽ khó có thể miêu tả được hết diện mạo văn học dân gian Tày. Nó vô
cùng phong phú về thể loại, đồ sộ về khối lượng, đa dạng về sắc thái biểu
cảm. Trong vốn văn hoá cổ quý báu đấy, gần gũi hơn cả và phản ánh sắc nét
nhất đời sống, tình cảm và tư tưởng của người Tày phải kể đến dân ca sinh
hoạt. Lựa chọn tiểu loại này làm đối tượng nghiên cứu, chúng tôi sẽ nói rõ
hơn ở mục sau.
1.1.2.2 Dân ca sinh hoạt của người Tày.
Dân ca Tày có mặt trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trong lao động
sản xuất, trong sinh hoạt giao tiếp thì có dân ca sinh hoạt, trong các nghi lễ
trang trọng thì có các mo, then, tào, pụt, trong đám cưới đám hỏi, rước dâu thì
có hát quan làng. Nói chung những hình thức sinh hoạt đó thường tập trung
phô diễn tình cảm, ca ngợi lao động, ca ngợi tình yêu, đề cao tự do... Ở mỗi
phương diện của cuộc sống thì có một thể tài ca hát riêng. Vì vậy, các mảng
đề tài đã có đường biên rõ nét. Đó là các bài hát về lao động sản xuất, hát
mừng đám cưới, hát mừng nhà mới, hát mừng hội bản hội mường, hát sinh
con, hát đưa tiễn linh hồn và đặc biệt là hát về tình yêu với tất thảy cung bậc
của nó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Một trong những hình thức mà đề tài hướng đến chính là dân ca sinh
hoạt của người Tày. Mảng tiểu loại này có mặt trong mọi khía cạnh của cuộc
sống người Tày. Từ lúc bước chân xuống thang ra khỏi nhà đến mảnh nương,
thửa ruộng để nhặt rêu bắt ốc, tìm măng hái củi… lúc nào, nơi nào cũng phải
có câu hò tiếng hát. Tiếng hát lời ca đã trở thành linh hồn của bản mường, là
nơi thể hiện chân thành tình cảm của người Tày theo cách riêng của mình.
Dân ca sinh hoạt của người Tày không chỉ phong phú về nội dung,
chan chứa sắc thái biểu cảm mà còn đa dạng về các tiểu loại. Có thể kể đến
một số tiểu loại sau:
* Lượn: là một bộ phận dân ca Tày. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu
vẫn chưa đưa ra một cách hiểu thống nhất về thuật ngữ ngày. Nhưng theo nhà
nghiên cứu Vi Hồng, Lượn có cội nguồn từ chữ Vjén (ru) mà thành. Lượn có
rất nhiều tiểu loại. Ngoài hai loại cơ bản tiêu biểu lượn cọi và lượn s lương,
người Tày còn có lượn then, lượn nàng Hai, lượn khắp… Trong cái nhìn đối
sánh với dân tộc Kinh, lượn là một lối hát giao duyên có thể tương tự như lối
hát quan họ ở Bắc Ninh, loại dân ca này có giai điệu vang xa tha thiết, lay
động lòng người gợi cảm giác bâng khuâng, thương nhớ. Người Tày coi lượn
như một nhu cầu tinh thần không thể nào thiếu được: “Khắp mọi luỹ làng của
người Tày, Nùng không mấy khi vắng tiếng Sli, giọng lượn. Chỉ trừ giấc ngủ
và bữa ăn của họ – Sli lượn vang lên từ trong mọi nhà, ra khắp bản mường...
ngoài đồng ngoài rẫy, ngoài chợ, ngoài đường. Không chỉ có thanh niên mà
người già, người trẻ đều thích Sli, lượn, thích nghe Sli, lượn”.....[26, 14]
Đã có một thời tiếng lượn ngập tràn làng bản, đồi núi, hoà vào tận tâm
hồn, huyết mạch đồng bào:
- Nửa đêm Nàng ới cháy lòng
Khiến em dừng đường kim đường vá
Khiến anh vở giữa trang ngừng đọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Tiếng Then thành tiếng Then phơi phới
Tiếng cọi thành tiếng cọi thiết tha
- Ra chợ được nghe tiếng Hà lều
Bát phở không cần mỡ cũng ngon
Về hình thức sinh hoạt diễn xướng, đặc trưng của lượn là đối đáp, đối
ca và nối tiếp ca.
Đối đáp là một trong những hình thức sinh hoạt phổ biến của lượn.
Hiểu một cách đơn giản nhất đối đáp là một bên “đối” và một bên đáp trả lại.
Một bên - thường là “khách” - bao giờ cũng ca ngợi hết lời những thứ, những
vật... của bên “chủ”. Bên chủ sẽ đáp lại bằng những lời lẽ khiêm tốn, lịch sự,
không dám nhận những lời khen của khách. Xét về hình thức, lối hát này
không có những nét khác biệt lắm so với những cuộc hát ví, hát phường vải,
phường cấy... của người Kinh.
Bên cạnh đối đáp là đối ca. Đối ca phổ biến ở lượn slương sau nữa là
lượn then. Ở lượn slương thường là tập thể bên nam bên nữ, mỗi bên có khi
đến hai chục người hoặc hơn nữa. Nam nữ ngồi thành hai hàng theo chiều dài
của gian nhà sàn, quay mặt vào nhau. Sau những lời mời lịch sự của chủ nhà,
lời tuyên bố lý do của bên chủ và vài nghi thức đơn giản khác, hai bên nam nữ
bắt dầu “đối ca”. Đối ca có thể đối về đề tài lượn, đối về nội dung của bài
lượn hoặc chỉ đối có tính chất hình thức, đối hoa, đối mùa, tháng... có khi thay
nhau lượn những khổ lượn khác nhau.
“Nối tiếp ca” là một hình thức nữa của sinh hoạt diễn xướng lượn. Có
hai loại nối tiếp ca. Thứ nhất là nối tiếp ca theo đúng nghĩa đen của thuật ngữ
này. Nghĩa là bên nam, bên nữ thay nhau, lần lượt hát lên những bài lượn về
một đề tài. Có những câu chuyện chia làm nhiều đoạn nhỏ, mỗi bên lần lượt
hát lên từng đoạn như tiếp nối nhau cho đến hết câu chuyện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Loại nối tiếp thứ hai là hai bên cùng hát tiếp nối - chắp nối các “đường
lượn” với nhau, các đường lượn ấy thì rất nhiều tùy theo từng cặp, những tốp
ca thuộc nhiều hay ít.
Thông qua các hình thức diễn xướng này mà tiếng hát lời ca ngân lên
mọi lúc, mọi nơi, trong bản ngoài mường, trở thành một phần không thể thiếu
được trong đời sống tinh thần người Tày.
* Phong slư: Phong slư là những bức thư tình, một thể thơ hết sức đặc
sắc của trai gái Tày. Bức thư này viết bằng chứ Nôm Tày trên nền vải sa tanh
đỏ, rộng chừng một mét vuông. Vải được vẽ hoa biên, hai bên là hai con rồng
há mồm chầu mặt trời hoặc chim muông. Ngày xưa con trai, con gái Tày ít
học chữ, không biết chữ, bởi thế họ thường nhờ một người là Slấy cá viết hộ,
Slấy cá là người trí thức bình dân sống trong cộng đồng Tày. Phong slư do
Slấy cá viết, ghi lại những tâm tình thầm kín của trai, gái Tày. Phong slư được
gửi đi, khi nhận được, người con trai con gái Tày lại đem Phong slư đó đến
nhờ một Slấy cá đọc, Slấy cá thường ngâm ngợi những bức thư đó theo một
giai điệu tha thiết. Vì vậy, bức thư có tính chất cá nhân ấy thông qua Slấy cá
trở thành một loại dân ca mang tính cộng đồng.
Tình yêu nam nữ trong phong slư thường là tình yêu trong xa cách trắc
trở, tan vỡ. Bởi vậy tiếng hát, giai điệu phong s lư thường buồn da diết. Tuy
nhiên không hề bi lụy kêu than mà vẫn luôn sáng lên những ước mơ lãng
mạn, nhân văn.
Hãy tu thân chờ nhau bên ấy
Dẫu là không lấy được cũng cam
Yêu nhau để khắp mường được thấy
Tiếng thơm sẽ trọn vẹn mai sau
Tới trăm năm khi về âm phủ
Ta rủ nhau về chốn mường hơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tóm lại Phong slư phục vụ cho tình yêu lứa đôi nhưng Phong slư cao
hơn cuộc sống, nên có yếu tố hư ảo mang theo tính tao nhã, thanh cao. Vì vậy,
Phong slư vẫn tồn tại trong đời sống tình cảm của người Tày như một nét đẹp
trong văn hoá độc đáo thấm đẫm phong vị trữ tình.
* Những bài hát vui cho trẻ em: Đồng dao và hát ru
Đồng dao là những bài hát vui của lứa tuổi nhi đồng. Nó có thể xuất
hiện tự nhiên (như những hạt mầm khoẻ mạnh dưới nắng xuân) được xướng
lên từ những cuộc sinh hoạt vui chơi của tập thể nhi đồng hoặc đó là bài hát
của cha mẹ, anh chị thương quí các em mà đặt lên lời ru.
Đồng dao cho em tuy kết cấu không được chặt chẽ nhưng có vần, có
điệu, dễ đọc, dễ nhớ phù hợp tâm lý của trẻ em. Những bài ca với những hình
ảnh đẹp đẽ đã nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ phát triển lớn lên cùng với lòng tôn
kính mẹ cha, tình yêu thiên nhiên, yêu lao động, sống nhân ái, vị tha... Có thể
nói, đồng dao Tày là di sản văn hoá mang bản sắc dân tộc đậm đà.
Cùng với những bài đồng dao, hát ru chủ yếu là lời ca dành riêng cho
các em nhỏ. Ngay từ thuở ấu thơ, các em đã được đắm chìm trong tiếng hát
lời ca qua những lời ru ngọt ngào của người mẹ, người chị. Hát ru là nguồn
sữa tinh thần nuôi dưỡng tâm hồn con người từ thuở còn trên nôi. Những lời
ca mộc mạc, giản dị, chân chất, thật sự đã trở thành cầu nối trí tuệ tâm hồn
của bậc sinh thành với thế hệ mai sau. Người Tày có rất nhiều bài hát ru và
đến nay tiểu loại này vẫn đang được sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu ngày
càng rộng rãi.
Thơ ca dân gian giữ một vị trí quan trọng trong nền văn học dân gian
Tày. Có thể nói nó là bộ phận phong phú nhất trong kho tàng văn học dân
gian của người Tày. Và trong bộ phận thơ ca hết sức phong phú này, thơ ca
sinh hoạt lại nổi lên như một loại hình đặc sắc nhất. Việc tìm hiểu khái quát
diện mạo thơ ca sinh hoạt sẽ giúp người viết rất nhiều trong việc đi sâu vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tìm hiểu một khía cạnh độc đáo của thể loại này. Đó là yếu tố tự sự và sự hiện
diện của nó trong kho tàng dân ca Tày.
1.2 Loại hình tự sự và yếu tố tự sự trong văn học dân gian
1.2.1 Loại hình tự sự
Phân văn học theo phương thức phương tiện thẩm mĩ ở cấp độ loại
hình, thuật ngữ tự sự và trữ tình từ lâu đã được các nhà kinh điển mỹ học và
lý luận văn học trên thế giới đề xuất nghiên cứu trong sự phân biệt và tương
quan ước lệ. Tuy nhiên, theo sự tiến hoá của văn hoá, xã hội và lịch sử, những
tư liệu bao quát chúng ngày càng phong phú, đa dạng, sự chuyển hoá thâm
nhập lẫn nhau của chúng trong thực tiễn sáng tác cũng gây không ít khó khăn
cho người nghiên cứu trong việc xác định thể loại. Trong khi nêu lên những
ranh giới cụ thể giữa chúng cũng như những đặc tính và những biến thể phong
phú, lịch sử phân định loại hình tự sự và trữ tình đã có những ý kiến khác
nhau.
Một trong những người đầu tiên nhắc đến khái niệm tự sự trong sự
phân biệt hai loại hình còn lại, phài kể đến la Arixtot. Theo Arixtot, văn học
có ba phương thức mô phỏng hiện thực. Đó là kể về một sự kiện như về một
cái gì tách biệt với mình như Homere vẫn làm, hoặc là người mô phỏng tự nói
về mình không thay đổi ngôi xưng, hoặc là trình bày tất cả những nhân vật
được mô tả trong hành động. Tên gọi của ba phương thức trên lần lượt là tự
sự, trữ tình và kịch. Như vậy, ở dạng ban đầu, tự sự chỉ được coi là một
phương thức mô phỏng hiện thực.
Cho đến sau này, trong quá trình phân biệt loại văn học, các nhà nghiên
cứu mới dựa vào ba phương thức trên mà khái quát hoá, phân loại thành ba
loại hình văn học. Lúc này, tự sự mới xuất hiện với tư cách là một loại hình.
Trong cách phân loại đó, theo Bielinxki, khái niệm tự sự được dùng để chỉ
toàn bộ những tác phẩm biểu hiện đời sống thông qua miêu tả sự kiện. Đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trưng nổi bật nhất và cũng là quan trọng nhất của loại hình tự sự là tính khách
quan. Cũng theo Bielinxki, trong mối quan hệ với những loại hình còn lại, nếu
tác phẩm trữ tình ưa nói tới cái chủ quan, tác phẩm kịch là “sự dung hợp của
các yếu tố đối lập của tính khách quan tự sự và tính chủ quan trữ tình” thì đối
tượng mà tự sự hướng tới là tính khách quan của thế giới.
T.H.Miller, nhà giải cấu trúc Mỹ lại cho rằng “Tự sự là cách để ta đưa
cái sự việc vào một trật tự và từ trật tự ấy mà chúng có được ý nghĩa, tự sự là
cách tạo nghĩa cho sự kiện biến cố”.
Như vậy, mỗi nhà nghiên cứu, dưới các góc độ khác nhau, sẽ có các
quan điểm khác nhau về tự sự.
Song dù nhấn mạnh đặc trưng nào, tiêu chí loại hình vẫn có một cái lõi
chung nhất. Về khái niệm tự sự chúng tôi thống nhất quan điểm của các nhà
biên soạn "Từ điển thuật ngữ văn học" : " Nếu tác phẩm trữ tình phản ánh
hiện thực trong cảm nhận chủ quan về nó thì tác phẩm tự sự lại tái hiện đời
sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự sự phản ánh hiện
thực qua bức tranh mở rộng của đời sống, trong không gian, thời gian, qua các
sự kiện biến cố xảy ra trong cuộc đời con người. Trong tác phẩm tự sự nhà
văn cũng thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình. Nhưng ở đây tư tưởng và
tình cảm của nhân vật thâm nhập sâu sắc vào sự kiện và hành động bên ngoài
của con người tới mức giữa chúng dường như không có sự phân biệt nào cả ".
[328, 11]
Vấn đề cơ bản của phương thức tự sự là "nhà văn kể lại, tả lại từ những
gì bên ngoài mình, khiến cho người đọc có cảm giác rằng hiện thực phản ánh
trong tác phẩm tự sự là một thế giới tạo hình xác định đang tự phát triển, tồn
tại ngoài nhà văn, không phụ thuộc vào tình cảm, ý muốn của nhà văn". [328,
11]. Do thể hiện sự thực đời sống qua các sự kiện biến cố và hành vi con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
người nên tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về một cái gì
đó.
Như vậy, ở tác phẩm tự sự, kể chuyện (hay trần thuật) là yếu tố trung
tâm tổ chức ra thế giới nghệ thuật. Đồng thời vớ i nó, cốt truyện, nhân vật là
những yếu tố hạt nhân, được triển khai nhờ một hệ thống các yếu tố chi tiết,
sự kiện, ngoại hình, tính cách nhân vật, ngoại cảnh... kể cả hệ thống hư cấu
liên tưởng.
Từ đặc trưng trên, có thể thấy, tự sự có một khả năng bao quát rộng
lớn, phản ánh sâu sắc hiện thực cuộc sống và ngày càng có vị trí quan trọng
trong đời sống thể loại văn học.
Bước sang thế kỉ XX, vấn đề lý thuyết tự sự ngày càng được quan tâm,
phổ biến. Tự sự đã bước ra khỏi ranh giới của thể loại văn học để trở thành
một bộ phận nghiên cứu độc lập, có tính liên ngành và có vị trí ngày càng
quan trọng trong ngành khoa học văn học và các khoa học nhân văn. Tự sự
học hiện đại đã trở thành một bộ môn khoa học, hiểu theo nghĩa rộng là
"nghiên cứu cấu trúc của bản tự sự và các vấn đề liên quan hoặc nói cách khác
là nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật của bản tự sự nhằm tìm một cách
đọc" [11, 28].
Cùng với sự xâm nhập giữa các thể loại trong văn học, tự sự không chỉ
có mặt trong truyện ngắn, tiểu thuyết, ngụ ngôn... như một phương thức tạo
nghĩa và truyền thông tin, tự sự còn có mặt trong thơ, thơ trữ tình, ca dao, dân
ca... những thể loại tưởng chừng ở phía bên kia ranh giới của tự sự. Trong
những loại hình trữ tình này, tự sự tham gia một cách rất tích cực có vị trí đặc
biệt và có vai trò tương đối quan trọng. Việc tìm hiểu về lý thuyết tự sự trên
đây sẽ là những cơ sở lý thuyết vững chắc cho việc xem xét sự xâm nhập của
yếu tố tự sự vào trong dân ca Tày - một loại hình trữ tình dân gian tiêu biểu.
1.2.2 Yếu tố tự sự trong văn học dân gian
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Trong các tác phẩm trữ tình, nguyên tắc tái hiện đời sống trong tính chủ
quan đã đặt cái tôi tự bạch, tự biểu hiện của tác giả vào vị trí trung tâm tổ
chức và chi phối thế giới nghệ thuật trong tác phẩm. Trong tác phẩm trữ tình
cũng có sự việc nhân vật chi tiết đời sống... song chúng chỉ là những sự việc
thuần tuý nhằm khách quan hoá, cụ thể lượng thông tin nội cảm - cái mà chủ
thể trữ tình muốn biểu hiện. Chính vì thể loại hình trữ tình là nghệ thuật biểu
hiện trong sự phân biệt với nghệ thuật miêu tả vốn là đặc trưng của loại hình
tự sự.
Nhưng trong quá trình tìm hiểu về dân ca sinh hoạt của người Tày- một
loại hình trữ tình dân gian tiêu biểu, chúng tôi nhận thấy có nhiều bài tác giả
dân gian lại trình bày ý tưởng, tình cảm của mình dưới hình thức đời sống đã
được cải tạo lại. Xét về bản chất, đó là một hình thức chủ quan nhưng xét về
mặt ngoại hình ít nhiều mang tính khách quan gián tiếp.
Ở những bài dân ca đó, tác giả thường miêu tả rộng rãi các hiện tượng
của đời sống cho một hình thức lý tưởng nhất định. Nói theo Gulaixep “xét về
đối tượng và cách thể hiện là tự sự nhưng cái giọng cơ bản thì lạ i hoàn toàn
trữ tình”. Bài ca sau là một ví dụ :
Màn đêm sáp phủ bản mường
Chim ngàn xao xác về rừng tổ xa
Thấy đôi phượng hạc bay qua
Đậu ngay cửa sổ cành hoa nở đầy
Lại sang cây nhãn nhẹ bay
Hai ta khác chốn lúc này gặp nhau
Hỏi ai xui khiến trước sau
Hay là nguyệt lão biết đâu duyên trời ?
Bài ca rõ ràng là lời kết bạn đầy tình tứ và duyên dáng của nhân vật trữ
tình. Nhưng mở đầu lại là lời kể, dụng ý kể chuyện bắt đầu bằng hình ảnh hết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
sức gợi cảm “Màn đêm sáp phủ bản mường” càng vế sau cái dụng ý đó càng
trở lên rõ nét. Chỉ đến hai câu cuối khi cái dòng tự sự ở đầu tạm thời khép lại
thì cái mạch trữ tình mới mở ra:
Hỏi ai xui khiến trước sau
Hay là nguyệt lão biết đâu duyên trời ?
Rõ ràng nếu gọi đây là một câu chuyện thì không phải nhưng trong đó
rứt khoát là có yêu tố kể và tả, chứ không thuần túy chỉ là trữ tình.
Những bài dân ca kiểu vậy trong kho tàng dân ca Tày không phải hiếm.
Mỗi bài thường ghi lại một sự việc một sự kiện triển khai thành một bức tranh
cụ thể qua lời trần thuật trữ tình của tác giả hay nhân vật. Trong lượng thông
tin mà người đọc tiếp nhận được trong các bài ca đó không thể không thừa
nhận có cả lượng thông tin sự việc. Về thực chất, lượng thông tin sự việc đã
được nhận thức thẩm mỹ điều chỉnh lại theo quy luật riêng của loại hình trữ
tình. Yếu tố tự sự như trần thuật, sự kiện, nhân vật... ở đây một mặt tác động
và chừng nào đó đã thay đổi kết cấu trữ tình, nhưng mặt khác lại chịu sự qui
định của kết cấu mang tính chất của chỉnh thể trữ tình. Chúng tôi gọi đó là sự
xâm nhập của yếu tố tự sự vào loại hình trữ tình. Sự xâm nhập này đem đến
các bài ca trữ tình khả năng tái hiện lại những hiện tượng đời sống như trực
tiếp miêu tả cảnh thiên nhiên hoặc thuật lại ít nhiều sự kiện tương đối liên tục.
Nhưng khác với phương thức tự sự, sự tái hiện này không mang mục đích tự
thân mà chỉ nhằm tạo điều kiện để chủ thể bộc lộ những cảm xúc , chiêm
nghiệm, suy tưởng.
Yếu tố tự sự xuất hiện trong bài ca không chỉ với số lượng phong phú
mà còn dưới nhiều biểu hiện khác nhau. Những biểu hiện này có lúc đậm sắc
thái kể chuyện nhưng cũng có lúc mờ nhạt đi bởi cảm xúc trữ tình, trong quá
trình khảo sát phân loại, chúng tôi nhận thấy có thể chia yếu tố tự sự trong
dân ca Tày ra làm hai tiểu loại:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Những bài ca có cốt truyện
- Những bài ca không có cốt truyện
Vấn đề này chúng tôi sẽ trở lại sâu hơn, cụ thể hơn trong các chương tiếp
theo.
Tóm lại cần phải khẳng định một lần nữa sự có mặt của yếu tố tự sự
trong dân ca Tày, sự xuất hiện này có lúc biểu hiện ra bằng lời trần thuật,
miêu tả hành động, cử chỉ của nhân vật trực tiếp xuất hiện trong bài ca, cũng
có khi nó chỉ dừng lại ở một duyên cớ, một lời đưa đẩy. Nhưng dù xuất hiện
dưới hình thức nào thì mục đích cuối cùng của nó cũng là làm nền tảng ngọn
nguồn cho cảm xúc trữ tình bắt mạnh vào để bộc lộ giãi bày.
* Tiểu kết:
Tóm lại qua các công trình nghiên cứu, qua quá trình khảo sát và phân
tích dân ca sinh hoạt của người Tày, chúng tôi nhận thấy có sự xuất hiện của
yếu tố tự sự trong mảng dân ca này. Yếu tố ấy có các cung bậc đậm nhạt, mầu
sắc khác nhau, đã biểu hiện ra trong sự phong phú, đa dạng của các lời ca.
Yếu tố ấy xuất hiện đã đem đến cho cảm xúc trữ tình những sắc thái mới lạ,
hấp dẫn.
Tuy nhiên, hiện nay rất khó tìm cho khái niệm này một nội hàm chung
nhất, đầy đủ nhất và toàn diện nhất. Tìm hiểu đề tài này, chúng tôi không có
tham vọng đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về yếu tố tự sự trong dân ca
Tày. Song ở chương có tính chất tiền đề lý luận này, chúng tôi cũng cố gắng
xác định một số khái niệm cơ bản làm nền tảng cho việc tìm hiểu vấn đề này
ở các chương tiếp theo. Chương này chỉ có tính chất giới thiệu khái quát.
Những biểu hiện cụ thể cũng như vai trò của yếu tố tự sự sẽ được chúng tôi
trình bày rõ hơn ở các chương tiếp theo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
CHƢƠNG 2: CÁC DẠNG THỨC BIỂU HIỆN CỦA YẾU TỐ TỰ SỰ
TRONG DÂN CA
Dân ca Tày thường dài hơn dân ca Việt. Đa số một bài thường từ năm
đến sáu câu, có bài trên dưới chục câu, thỉnh thoảng có bài trên trăm câu. Một
đặc điểm dễ nhận thấy trong dân ca Tày là chất trữ tình kết hợp hài hòa với lối
tự sự, phô diễn, giãi bày khiến dân ca Tày vừa giản dị hồn nhiên vừa lãng
mạn thơ mộng.
Xuất hiện ở loại hình tưởng như đối lập này, yếu tố tự sự khẳng định vị
trí của mình bằng những cung bậc khác nhau, với biểu hiện vô cùng phong
phú. Tập hợp lại có thể chia làm hai dạng cơ bản:
- Những bài ca có cốt truyện
- Những bài ca không có cốt truyện
2.1 Những bài ca có cốt truyện
Với đặc trưng thuộc về loại hình trữ tình dân gian, dân ca Tày xuất hiện
với chức năng chính là để biểu hiện diễn biến tâm trạng. Trong các bài ca này,
nổi lên bình diện thứ nhất và tâm tư tình cảm của nhân vật trữ tình chứ không
phải sự kiện khách quan. Hệ quả có thể suy ra từ điều này là sự xuất hiện của
yếu tố trong một bài ca không phải là điều bắt buộc và lại càng không phải là
yếu tố quyết định có thể chi phối. Nhưng khi tìm hiểu về dân ca Tày chúng tôi
nhận thấy có rất nhiều bài ca chất tự sự kết hợp chặt chẽ với mạch trữ tình dàn
trải. Điều đó đã đem đến một loại bài ca mà các âm hưởng chủ đạo hoàn toàn
là trữ tình nhưng lại được bao bọc bởi cái vỏ bề ngoài đậm tính tự sự. Chúng
tôi gọi đây là những bài ca có cốt truyện
Đó là những bài ca ghi chép sự việc tương đối hoàn chỉnh, hợp thành
một thể thống nhất, có những chỗ bước đầu cấu thành tình tiết câu chuyện
sinh động thú vị, thể hiện tương đối xuất sắc nghệ thuật tự sự.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ở những bài ca này dù dài hay ngắn, ghi một phiến đoạn hay một
trường diện của cuộc sống thì những sự kiện trong đó vẫn được kể lại tương
đối hoàn chỉnh. Cho dù một người đứng ngoài khách quan kể lại hay chính
người trong cuộc tự giãi bày tâm sự thì những bài ca này đều khắc hoạ nhân
vật tương đối tinh tế, miêu tả cụ thể những sự kiện quan trọng bước đầu có
dáng dấp câu chuyện, hé lộ sức sống của nghệ thuật tự sự trong loại hình trữ
tình dân gian.
Yếu tố tự sự biểu hiện trong những bài ca có cốt truyện còn có thể chia
nhỏ làm hai cấp độ biểu hiện: những bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh và những
bài ca có cốt truyện đơn giản.
Trước khi đi vào từng tiểu loại cụ thể, ở đây xin nói rõ về thêm về quan
niệm cốt truyện trong thơ ca dân gian Tày.
Khi tìm hiểu thơ ca dân gian Nga, nhà nghiên cứu T.M Akimova cho
rằng: “Trong bài hát trữ tình dân gian bao giờ cũng có cốt truyện cho dù cốt
truyện có nhỏ kém phát triển tới đâu đi chăng nữa”.
Thực ra chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng có một số lượng lớn
các bài ca trữ tình dân gian không có một chút tính tự sự nào và dù một số bài
có yếu tố tự sự đi chăng nữa thì cũng không thể gọi là cốt truyện được. Xuất
phát từ hai phương thức phản ánh cuộc sống khác nhau, cốt truyện trong dân
ca khác xa so với cốt truyện trong các thể loại tự sự như : truyện cổ tích,
truyện cười, truyện thơ... Nếu như trong các thể loại tự sự khác, cốt truyện là
phương tiện chính để tạo ra các hiện tượng nghệ thuật, qua đó mở ra nội dung
cơ bản của thể loại này thì trong các bài hát trữ tình dân gian, các tình huống
cốt truyện lại là nguyên cớ để biểu đạt những tư tưởng tình cảm nhất định.
Các tình huống cốt truyện, nếu có, trong các bài hát dân gian không phải là
yếu tố chủ đạo xác định kết cấu. Ngược lại chính nó phụ thuộc vào yếu tố
khác của kết cấu, đóng vai trò phụ thuộc. Mặt khác, theo đúng nghĩa của “Từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
điển thuật ngữ văn học”: “Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức
theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản,
quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc loại hình tự
sự và kịch”. [88, 11]
Nếu đối chiếu vào dân ca Tày thì với ý nghĩa chặt chẽ nhất của khái
niệm này sẽ không thể tồn tại một cốt truyện nào trong một bài ca cụ thể.
Như vậy, chỉ có thể hiểu một cách hết sức quy ước về yếu tố cốt truyện
của thơ ca dân gian truyền thống. Về mặt nguyên tắc chúng không có cốt
truyện đúng theo quan điểm và ý nghĩa của thuật ngữ này khi ta dùng cho tác
phẩm tự sự. Tuy nhiên chúng ta cũng vẫn cần và có thể nói về tính cốt truyện
mang màu sắc riêng có thể thấy trong một số bài ca có sự xuất hiện của yếu tố
tự sự.
2.1.1 Những bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh
Do việc quan niệm cốt truyện trong cả các bài hát trữ tình dân gian
hoàn toàn mang tính quy ước nên sự hoàn chỉnh của cốt truyện cũng chỉ là
khái niệm mang tính tương đối. Đó chỉ là kết quả của việc so sánh cấp độ này,
đặt cấp độ này trong mối tương quan với các cấp độ biểu hiện còn lại của yếu
tố tự sự trong dân ca Tày.
Qua việc so sánh, có thể rút ra một nhận xét, cấp độ có cốt truyện hoàn
chỉnh là biểu hiện rõ nét nhất của yếu tố tự sự trong dân ca. Cấp độ này
thường được biểu hiện ra bằng những bài ca có dung lượng, quy mô lớn, số
lượng nhiều. Đó là những bài ca đi vào mô tả trường diện của cuộc sống với
nhiều chi tiết sinh động, sự kiện phong phú… nhưng thống nhất trong một kết
cấu tương đối chặt chẽ. Nhiều khi những bài đó đã đạt đến mức gần như một
câu chuyện có tình tiết hoàn chỉnh được diễn đạt dưới dạng thơ ca.
Dù chỉ chiếm một số lượng khá khiêm tốn nhưng với độ đậm nét nhất
của hình thức biểu hiện, dễ nhận ra dạng thức này trong một bài ca cụ thể. Bài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
lượn “mười hai tháng” là một trong những bài ca thể hiện tương đối xuất sắc
nghệ thuật tự sự ở cấp độ đầu tiên này.
Toàn bài gồm mười ba đoạn, đã kể lại một cách tường tận công việc
của nhà nông. Qua lời kể của một nhân vật dường như khách quan, đứng
ngoài câu chuyện, các chi tiết sự việc cứ lần lượt hiện lên theo dòng mạch
thời gian.
Bài lượn được bắt đầu từ tháng một và chất tự sự được khởi nguồn từ
hành động:
Tháng giêng mùng một đốt hương liền
Đốt đèn hai ngọn lên chầu tiên
Đốt đèn hai ngọn lên chầu bụt
Diễn biến của câu chuyện là diễn biến của sự việc trong suốt mười hai
tháng. Gắn với tháng hai là:
Tháng hai xuân tới trăm hoa nở
Liệu mà xuất giá chị em ơi
Tháng ba lại mở đầu bằng công việc phát rẫy bông dưới chân núi:
Tháng ba phát rẫy bông chân núi.
Cũng trong tháng này, với cái nắng dịu dịu của tiết mùa xuân:
Trai ở thư phòng, thư ngại viết
Gái mắt lim dim ở góc nhà
…………................................
Trai ở học đường thư ngại viết
Gái ở phòng hương tính ngại đàn
Bước sang tháng tư, công việc lúc này trở nên bận rộn hơn bởi :
Tháng tư đám mạ mọc xanh xanh
Dồn dập mùa công thêm hát đình
Dồn dập mùa công thêm hát hội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Cấu tứ của bài ca tiếp tục được xây dựng theo trình tự của thời gian và
công việc trong năm. Theo dòng mạch đó, nhân vật trữ tình đã liệt kê và kể lại
một cách chi tiết tỉ mỉ công việc và kinh nghiệm làm ruộng suốt từ tháng năm
cho đến tháng mười. Cái nền tự sự đã đem đến logic chặt chẽ cho toàn bài.
Bài ca vì thế mà giống một bản tường trình dài tổng kết kinh nghiệm làm việc
hữu hiệu và quen thuộc của nhà nông:
Tháng sáu làm cỏ bận trăm dường
Cúi mặt làm cỏ đầu đượm sương.
Là những thành quả lao động đang lớn lên từng ngày như một sự bù
đắp xứng đáng công sức người chăm bón:
- Tháng tám ngoài đồng bông trắng lúa
- Tháng chín ca mùa lúa chín vàng
- Tháng mười là mùa ta gặt hái
Cho chàng cái hái, cái đòn dây
Chàng đi gặt, cho chàng đòn, hái
Chàng xem liệu gặt hái ra tay
- Tháng một ngoài đồng những rạ rơm
Cắt én một đôi đi dạo mường
Cắt én một đôi đi dạo xứ
Lúa gặt vào bồ bỏ rơm vàng
Trải dài suốt mười hai khổ thơ là công việc của mười hai tháng trong
năm, cho đến khổ mười ba, bài ca đã kết lại trong nỗi nhớ bạn tình da diết,
trong cái xoay vần của tạo hoá và gợi mở những niềm lạc quan tươi sáng.
Một năm mười hai tháng xoay vần
Nhớ bạn lòng mơ ngày gặp mặt
Nhớ bàn lòng mong biết mặt thân
Năm tháng trôi đi vẫn còn xuân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Có thể nói bài lượn đã thể hiện được rõ nét sắc tinh tế sắc điệu của ngòi
bút tự sự dưới hình thức bài ca năm tháng. Tả theo thời gian, nói thẳng sự
việc, bài lượn đã ghi chép toàn diện cuộc sống khẩn trương gian khổ của
người nông dân Tày trong suốt một năm qua. Bài lượn kể nhiều sự kiện, bao
quát thời gian dài, không gian rộng mà vẫn có dòng mạch, chương pháp. Cố
nhiên ở đây tuy chưa cấu thành câu chuyện có tình tiết sinh động, hoàn chỉnh
như yêu cầu của một tác phẩm tự sự chính thống, nhưng trong cảnh ong bay
bướm lượn, màu cỏ xanh cây mướt, tiếng chim hót trùng kêu…được kết hợp
nhuần nhuyễn khéo léo đan dệt với hoạt động nông trang. Toàn bài thơ điểm
xuyết cảnh mùa vụ, phối hợp với tả việc, từ đó làm cho bài thơ có kết cấu chặt
chẽ hồn nhiên vừa không hề có cảm giác rối loạn, thể hiện đẩy đủ phong phú
cảnh lao động của người nông dân nơi đây.
Song song tồn tại với yếu tố tự sự là những dòng thơ tràn đầy cảm xúc
trữ tình. Đó là những phiến đoạn nói về tâm trạng nỗi lòng của nhân vật trữ
tình đan xen trong những chi tiết kể lể công việc đồng áng của nhà nông. Nội
dung của các câu thơ đó có thể là nỗi buồn thương da diết vì cảnh cô đơn lẻ
bạn:
Bên bạn có đôi làm được chóng
Độc thân lẻ thiếu ruộng bỏ không.
Là nỗi khắc khoải, ngẩn ngơ của sự chia lìa xa cách:
Nhớ bạn xa nhau ngày ngày buồn
Giá được ở gần nhau, bạn nhỉ
Là nỗi nhớ triền miên không sao dứt được:
Nhớ nhung nhân ngãi mỗi ngày buồn
Chính nhờ những dòng thơ này mà bài ca có âm hưởng trữ tình đằm
thắm thiết tha. Người nghe, người đọc chợt nhận ra các dòng mạch cảm xúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vẫn là âm hưởng chủ đạo trong những bài ca dạng này. Và như thế trên cái
nền tự sự, bài ca vẫn đứng vững ở ranh giới loại hình trữ tình.
Những bài ca về chủ đề nông sự là nơi thể hiện sắc nét nghệ thuật tự sự,
thay cho lời kể, ở đây công việc nhà nông được hợp thành một bộ phận của
nội dung thơ ca. Những bài ca này hoặc kể về việc lo tìm giống má, làm
vườn, đánh cá, buôn trâu hay dệt vải, ươm tơ... đều đã phản ánh được sinh
động bức tranh sinh hoạt của người Tày.
Hợp thành tiểu loại này, ngoài những bài ca thuộc về chủ đề nông sự
như bài lượn mười hai tháng trên còn phải kể đến những bài lượn séc.
Lượn séc có nghĩa là lượn theo sách. Những bài lượn này có hai kiểu.
Kiểu thứ nhất là lượn tự sự lịch sử. Đây là những bài lượn diễn ca lịch sử một
cách chính thức theo sách chứ không thêm bớt. Những bài lượn này mặc dù
được trình bày trong các cuộc lượn nhưng lại mang chất tự sự đậm đà hơn
tính trữ tình. Mặt khác, những bài lượn này khi cất lên không nhất thiết phải
bộc lộ cảm xúc yêu thương, trạng thái tình cảm. Mục đích của chúng có khi
chỉ dừng lại ở việc thi thố tài năng giữa các chàng trai cô gái có dịp gặp nhau.
Cho nên chúng tôi không chú ý phân tích rõ bài lượn tự sự lịch sử trong phạm
vi nghiên cứu của đề tài này.
Kiểu thứ hai là những bài lượn tóm tắt cốt truyện hoặc chỉ tóm lấy một
vài chi tiết của cốt truyện, rồi thông qua những chi tiết đó, bài lượn có thể bộ
lộ trực tiếp hay gián tiếp gửi gắm vào trong đó những cảm xúc yêu thương.
Những bài lượn này tuy mang đậm dấu ấn của loại hình tự sự nhưng mục đích
cuối cùng vẫn là để bộc lộ cảm xúc trữ tình. Cho nên chúng tôi xếp chúng vào
những bài lượn tự sự - trữ tình và đặt chúng ở dạng thức biểu hiện cao nhất
của yếu tố tự sự trong loại hình trữ tình dân gian - dạng thức những bài ca có
cốt truyện hoàn chỉnh. Dạng thức này khá phổ biến trong những bài lượn tóm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tắt một cốt truyện cổ. Bài lượn Lương Sơn Bá – Trúc Anh Đài là một ví dụ cụ
thể.
Bài lượn được phỏng theo truyện cổ dân gian cùng tên của Trung Quốc.
Trai gái Tày yêu thích câu chuyện tình thuỷ chung mà bi thảm này nên đã
đem lên sân khấu nhà sàn, dùng tiếng hát lời ca mà cất lên thành câu chuyện.
Bài ca vì thế có cái mạch lạc rõ nét của yếu tố tự sự lại có cái da diết của
những cảm xúc trữ tình. Nội dung của câu chuyện này có thể tóm tắt như sau:
Anh Đài là một cô gái thông minh, ham học có chí lớn. Để thoả mãn khát
vọng, nàng đã cải trang thành một phong lưu công tử sắm sửa hành lý, lên
đường đi du học. Trên đường đi nàng gặp Sơn Bá, một nho sinh cũng đang
trên đường đi học. Hai người kết nghĩa anh em, hai người cùng học một
trường, cùng ăn chung một mâm, ngủ cùng một chiếc giường mà Sơn Bá
không hề biết Anh Đài là nữ nhi cải trang. Một hôm Anh Đài bắt được thư
cha gọi về nhà. Sơn Bá tiễn Anh Đài đi mấy chục dặm đường trở về, bắt được
thư Anh Đài nói thật mình là con gái, lúc này chàng mới biết sự thật. Khi Sơn
Bá trở về nhà, Anh Đài đã bị bố mẹ ép gả cho anh chàng họ Mã, lễ cưới sắp
sửa tiến hành. Quá đau khổ Sơn Bá đã chết, Anh Đài để tang khóc lóc thảm
thiết. Đám cưới Anh Đài được tổ chức long trọng. Khi kiệu cưới đi qua mộ
Sơn Bá, Anh Đài xuống kiệu kêu khóc, mộ tự nhiên mở ra, Anh Đài chui vào.
Linh hồn hai người hoá thành bươm bướm để đời đời kiếp kiếp bay lượn trên
hoa thơm cỏ lạ, hưởng mãi tình yêu trong trắng.
Toàn bộ cốt truyện đó đã được cô đọng lại trong tám mươi câu thơ.
Một dung lượng không phải là ngắn so với phạm vi một bài lượn nhưng lại
chưa đủ dài để trở thành một truyện thơ cùng tên. Nhưng trong từng đấy câu
cũng có đủ cả cốt truyện, nhân vật, những chi tiết sinh động, những phiến
đoạn miêu tả… Tất cả đã liên hệ với nhau một cách thống nhất tạo thành một
bài ca có dáng dấp một câu chuyện hoàn chỉnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Mạch tự sự được bắt đầu bằng việc giới thiệu, sự xuất hiện của hai
nhân vật chính: Lương Sơn Bá và Trúc Anh Đài.
Sơn Bá đời xưa con nhà văn
Neo đơn đi học chỉ một mình
Một mình đi học đi qua bản
Rồi gặp Anh Đài kết bạn thân
Anh Đài ngày ấy thật khôn
Phận gái đóng giả thành trai tân
Kết cùng Sơn Bá làm bạn hữu
Rủ nhau đi học học trường quan.
Bằng ngôn ngữ súc tích và cô đọng, bốn khổ đã làm đầy đủ các mục
của phần mở đầu. Từ việc giới thiệu tên nhân vật, gia cảnh của từng người
đến hoàn cảnh hai người gặp gỡ đều gói gọn trong số lượng câu chữ ngắn
ngủi ấy.
Sau mở đầu như vậy, truyện bắt đầu đi vào tóm tắt diễn biến câu
chuyện. Cách kể ở đây theo từng đoạn. Mỗi đoạn là một chi tiết chắt lọc đã
được thơ hoá. Chín đoạn thơ đã kể lại tuần tự từ lúc Sơn Bá – Anh Đài học
cùng trường cho đến lúc Đài bị gả bán.
Ở đây ngoài việc kể và tả, bài ca bắt đầu xuất hiện những đối thoại. Đó
là lời dặn dò của Anh Đài:
Anh hỡi ở lại chăm học giỏi
Em về thăm cha mẹ mấy ngày
Và lời nhắn nhủ của Sơn Bá:
Anh về còn học học thi bù
Thi thư phải học học cho hết
Thi đỗ trạng nguyên đệ nhất tài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Lời thoại tuy dung lượng ngắn, số lượng ít nhưng cũng đủ phả vào
trong đó cái hơi thở sinh động của tự sự. Bài lượn vì thế bớt đi cái nặng nề
của tính chất kể và tả.
Bài lượn cứ diễn biến theo cái mạch truyện truyền thống, cho đến cái
mâu thuẫn giữa tình yêu thuỷ chung với quyết định ép gả của cha mẹ thì dừng
lại. Đến đây câu chuyện rẽ sang một hướng khác theo cái tư duy sáng tạo của
người Tày. Sơn Bá trong suy nghĩ của người hát lên khúc ca này không phải
là một chàng trai bi luỵ, đau khổ đến nỗi phải ôm mối hận mà giã biệt cuộc
đời. Chủ động hơn, chàng quyết tâm học hành để có thể đường hoàng xin
cưới Anh Đài:
Sơn Bá nhắn lại với Anh Đài
Anh về còn học học thi tài
Thi thư phải học, học cho hết
Thi đỗ trạng nguyên đệ nhất tài
Sơn Bá đi, Anh Đài ở lại bị cha mẹ ép duyên gả bán. Đau khổ và tuyệt
vọng, nàng tìm đến cái chết. Mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm trong các
hành động:
Năm canh sầu não đi ra đường
Anh Đài nhớ bạn lòng buồn thương
Mới giả vào rừng để chờ đợi
Khăn đào vắt cổ vấn thân nàng.
Bỏ lại hết những chi tiết về lễ cưới, gạt ra ngoài sự việc Anh Đài chui
vào mộ, đôi uyên ương hoá thành bươm bướm, câu chuyện kết thúc bất ngờ
trong những dòng trữ tình ngoại đề da diết một nỗi buồn thương:
Anh Đài thời xưa thuộc giống hoa
Sinh về dương thế chẳng thành gia
Sinh xuống dương gian tâm lạc số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Thành chim khảm khắc vọng rừng xa.
Ở đó không chỉ có một trường đoạn miêu tả tỉ mỉ như trong truyện cổ
tích, cũng không có những đoạn biến thiên có hậu như trong truyện thơ
Sanpec_Anh Tài. Nó chốt tại trong cái biến ảo. Một cái kết mang đậm hơi
thở, đặc trưng của những bài lượn. Có lẽ vì thế mà đây chỉ là tiền thân, là
bước đi chập chững, là những thử nghiệm ban đầu của truyện thơ.
Câu chuyện kết thúc không có cảnh đôi uyên ương hồ điệp mà mãi bên
nhau. Chỉ có cảnh Anh Đài biến thành chim khảm khắc cô đơn lẻ bạn. Khảm
khắc là một giống chim kêu đêm hè, được dung để ví với người yêu sầu thảm
vì xa nhau mà than thở. Phải chăng khi hư tạo ra kết thúc này, người hát muốn
kín đáo bày tỏ những xúc cảm nỗi lòng của mình với bạn tình?
Nhìn lại toàn bộ, có thể kết luận rằng bài lượn theo dòng tự sự là chính
nhưng những bài ca dạng này vẫn được xếp vào loại những bài ca tự sự - trữ
tình bởi lẽ chen vào giữa thanh âm tự sự vẫn là những dòng cảm xúc trữ tình
sôi nổi. Đó là những phản ứng, những sắc thái tình cảm khác nhau mà người
hát kín đáo gửi gắm qua việc miêu tả tâm trạng nhân vật:
Sơn Bá đến nơi liền lên nhà
Nhưng chẳng thấy bạn lòng xót xa
và:
Năm canh sầu não đi ra đường
Anh Đài nhớ bạn lòng buồn thương
Mặt khác ngay trong việc lựa chọn, hay việc thay đổi chi tiết để kể lại
cũng đã gián tiếp bộc lộ tình cảm. Đó là còn chưa đề cập tới sắc thái tình cảm
trực tiếp của người diễn xướng. Bài ca vì thế vừa có các mạch tự sự sắc nét
vừa có tính trữ tình sâu lắng.
Nói một cách khách quan, so với những truyện thơ cùng lấy cốt truyện
từ những câu chuyện cổ, thì nghệ thuật tự sự trong những bài ca dạng này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
chưa thật thành thục, nhưng bù lại nó lại có cái trong sáng giản dị có xen kẽ
được dòng mạch trữ tình tràn đầy cảm xúc yêu thương.
Dân ca là nghệ thuật trữ tình và nếu một sáng tác văn học nghệ thuật
không sáng tác theo phương thức trữ tình, không mang tính trữ tình thì không
phải là dân ca. Khác với truyện thơ, anh hùng ca, thần thoại ca... lấy kể
chuyện về số phận một hay nhiều nhân vật làm mục đích, dân ca lấy tỏ bày
tâm tình tác giả, lấy phô diễn nhiều tâm tư tình cảm làm mục đích. Do vậy
việc xuất hiện yếu tố tự sự dưới hình thức một cốt truyện hoàn chỉnh như trên
không thể là điều phổ biến trong dân ca Tày. Theo thống kê của chúng tôi, chỉ
có 19 bài trong tổng số 463 bài có sự xuất hiện của yếu tố tự sự. Một con số
không nhiều nhưng từng đấy cũng đủ thấy sắc điệu tự sự độc đáo tồn tại trong
một loại hình tưởng như có phần đối lập.
2.1.2 Những bài ca có cốt truyện đơn giản
Một đặc điểm rất quan trọng khi quan sát kết cấu dân ca Tày là các bài
dân ca này đa số dài hơn dân ca Việt. Tính chất trần thuật, kể lể, phô diễn đậm
nét hơn. Điều đó đã tạo ra một nhóm bài ca mà chúng tôi gọi là những bài ca
có cốt truyện đơn giản.
Thật ra ranh giới một bài ca có cốt truyện đơn giản với một bài ca có
cốt truyện hoàn chỉnh cũng chỉ mang tính tương đối. Đường biên ranh giới
không phải lúc nào cũng rõ nét. Chỉ có thể căn cứ vào dung lượng tự sự trong
từng bài ca cụ thể mà xếp chúng vào dạng này hay dạng khác.
Xuất hiện dưới dạng này, yếu tố tự sự thường được hình thức hoá bằng
một kết cấu năng động và ngắn gọn. Đó là những mẩu chuyện, những tình tiết
được sắp xếp theo hệ thống ít nhiều khác nhau hoặc có khi là một bản tóm tắt
cô đọng của những bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh. Do không có một dung
lượng dài để phản ánh một trường diện của cuộc sống, những bài ca dạng này
thường chỉ đi vào miêu tả một phiến đoạn của cuộc sống thường nhật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
X.G.Laduchin nhận xét “Đối với các bài hát trữ tình dân gian không
nên nói đến cốt truyện mà tốt hơn là nói đến các yếu tố của cốt truyện”. Như
đã nói ở trên, với tác phẩm thuộc loại hình trữ tình, khó có thể tồn tại cốt
truyện, hiểu theo nghĩa chặt chẽ của từ này. Nhưng với các bài ca ở dạng thức
này có thể nói rẳng dù không có cốt truyện theo đúng nghĩa của thuật ngữ
này, song thực ra tự chúng đã mang tính cốt truyện làm cho các sự kiện phát
triển và liên hệ một cách thống nhất.
Do vậy yếu tố nổi bật của cốt truyện tồn tại trong những bài ca này vẫn
là mối liên hệ gắn bó chặt chẽ giữa các chi tiết hoạt động, sự việc… được nói
đến trong bài ca.
So với những bài ca có cốt truyện rõ nét, những bài ca có cốt truyện mờ
nhạt đông đảo hơn về mặt số lượng. Xuất hiện trong dân ca sinh hoạt Tày có
45 bài ở dạng này, chiếm khoảng 9,7% số lượng bài ca có sự xuất hiện của
yếu tố tự sự. Một con số không phải quá lớn những cũng đủ thấy hiện tượng
thâm nhập chuyển hoá lẫn nhau giữa các loại hình văn học dân gian.
Xuất hiện ở dạng này, có lúc yếu tố tự sự xuất hiện trong một bài ca có
đủ các nhân vật, chi tiết, hoạt động và đối thoại. Chẳng hạn bài ca sau:
Chiều rồi đi chợ em về
Lời chưa nhắn hết đã thì chia tay
Lên nhà phờ phạc tỉnh say
Nhai cơm như nhá trầu cay nhọc nhằn
Dậy múc nước lã về chan
Bát ăn chưa hết đặt bàn ngần ngơ
Dối cha: thiếu thịt cơm thừa
Dối mẹ: cơm nóng con chưa muốn và
Thực thì nhớ nghĩa hai ta
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Một bài ca không dài, tất cả chỉ có chín câu nhưng đã chín câu đó kịp
tạo thành một câu chuyện khá trọn vẹn và hấp dẫn.
Câu chuyện đơn giản những có khá đầy đủ yếu tố cơ bản của một cốt
truyện: có nhân vật, thời gian, đặc điểm, có sự việc, hành động, có cả lời dẫn
truyện của người kể lẫn ngôn ngữ đối thoại trực tiếp của nhân vật.
Đại từ “em” ở đầu câu cho thấy tác giả (cô gái) đang trực tiếp kể
chuyện của chính mình. Nội dung, tính chất của câu chuyện và cách kể của
tác giả cho thấy người kể đang rất muốn gửi gắm tâm sự của mình đến một
người. Người đó có thể là cô đang thầm yêu trộm nhớ, cũng có thể là người
đã cùng có nặng lòng thề thốt yêu thương. Nhưng dù là ai thì cũng đang cách
xa cô để lại trong lòng cô một nỗi niềm tương tư trĩu nặng.
Hai từ “Chiều rồi” cho thấy thời gian xảy ra câu chuyện và thời gian kể
lại câu chuyện rất gần nhau, điều đang ở trong một ngày. Nghĩa là câu chuyện
được kể lại khi nó vừa xảy ra, còn đang hết sức nóng hổi và tươi mới. Điều
này phản ánh rõ nhu cầu khẩn thiết muốn được giãi bày sẻ chia của người nói.
Hai câu đầu đã giới thiệu rõ thời gian địa điểm, nhân vật của câu
chuyện. Thời gian chiều rồi, lúc cô gái trên đường đi chợ về. Địa điểm : chợ,
một nơi gặp gỡ giao lưu quen thuộc của các chàng trai cô gái Tày, mộ t không
gian nảy sinh những mối tình thắm thiết nhưng cũng là nơi những đôi tình
nhân phải từ biệt nhau ra về. Nhân vật “em” là nhân vật chính của câu
chuyện, cũng là người kể chuyện, là nhân vật trữ tình của bài ca. Như vậy
những chi tiết trong câu chuyện kể đã được cụ thể hoá và cá biệt hoá rất cao.
Đó là một trong những lý do khiến bài lượn cất lên sinh động và hấp dẫn.
Hai câu đầu hoàn thành xuất sắc trong vai trò là lý do để dẫn đến một
chuỗi hành động liên tiếp được kể ra trong sáu câu:
Lên nhà phờ phạc tỉnh say
Nhai cơm như nhá trầu cay nhọc nhằn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Dậy múc nước lã về chan
Bát ăn chưa hết đặt bàn ngần ngơ
Dối cha: thiếu thịt cơm thừa
Dối mẹ: cơm nóng con chưa muốn và
Những hành động: lên nhà phờ phạc, nhai cơm như nhá trầu cay nhọc
nhằn, dậy múc nước lã về chan, bát ăn chưa hết đặt bàn ngẩn ngơ… đã nói lên
tất cả các nỗi nhớ niềm thương của người con gái đang yêu.
Cái tâm trạng "ngồi không yên ổn, đứng không vững vàng" khiến cô
chỉ muốn tìm người để sẻ chia giãi bày tâm sự. Nhưng mặt khác, cái kín đáo,
e lệ của một người con gái đang yêu khiến cô không thể cất lên những lời
đang giấu kín trong đáy lòng mình. Cho nên muốn trò chuyện nhưng ý tứ còn
e ngại, ngập ngừng. Cô chỉ dám kể lại những hành động từ lúc chia tay với
người cô yêu dấu. Và càng như mọi cô gái khác dối nỗi e thẹn, ngượng ngùng
buộc cô phải nghĩ ra lý do dối cha dối mẹ. Và cô đã kể lại:
Dối cha: thịt thiếu cơm thừa
Dối mẹ: cơm nóng con chưa muốn và
Đến đây ngoài những tiếp nối của sự việc, còn xuất hiện lời thoại của
nhân vật, lời thoại tuy ít, dung lượng ngắn nhưng đã làm phong phú thêm cho
câu chuyện. Đồng thời cùng góp thêm một nhân tố trong việc giúp cô gái kín
đáo giãi bày tình cảm.
Những tưởng cô gái sẽ kể tiếp để người nghe tế nhị mà thầm cảm thông
chia sẻ với cô.Nhưng dường như nỗi nhớ càng nén càng nồng, càng giấu lại
càng lộ, những muốn chia sẻ ngay nhưng còn ngại ngùng, nên ý tứ phải nói xa
rồi mới dám nói gần :
Thực thì nhớ nghĩa hai ta
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Sau tất cả những lời kể lể, tường thuật thì điều muốn nói cũng được nói
ra trực tiếp. Cái mãnh liệt của tình yêu khiến cô gái không thể giấu mãi lòng
mình. Từ “thực ra” đứng đầu đã thay cô thừa nhận tất cả.
Bài ca kết thức ở đây là hợp lý và hoàn hảo. Với cách kể từ xa đến gần,
từ giao tiếp đến trực tiếp, theo một trật tự thời gian nhất quán, bài ca đã mang
trong mình dáng dấp một câu chuyện, tuy còn đơn giản những khá chặt chẽ.
Những bài có có xuất hiện cốt truyện đơn giản còn xuất hiện khá nhiều
trong chùm những bài hát than thân của những người đi ở, những người
nghèo khổ, của những người vợ, những cô gái bị ép duyên... những nhân vật
trữ tình mà mới nghe đến họ, ta đã có thể hình dung bao sự kiện và nỗi niềm
chất chứa.
Thông thường những lời ca than thân được hát lên theo phong cách trữ
tình trực tiếp. Có nghĩa người hát dùng lời ca trực tiếp nói lên nỗi đau khổ của
mình (hoặc của những người cùng cảnh ngộ) qua đó họ tâm sự,, bày tỏ thái độ
và các sắc thái tình cảm của mình. Nhưng cũng có khi vì một lý do gì đó, có
thể là để nói lên tâm tình của mình một cách ý nhị hơn, hoặc muốn tìm sự
cảm thông qua những lời kể lể chi tiết, họ đã dùng “sự” để thay “tình” nói lên
tất cả. Và lúc đó ta sẽ có một bài ca than thân đậm sắc thái tự sự. Chẳng hạn
bài ca chàng trai nghèo muộn vợ. Toàn bài ca như sau:
Hăm tám tết người ta rửa lá
Rỗng tuyếch nhà vẫn đói nghèo
Ba mươi người thịt gà với vịt
Nhà ta con trẻ khóc ỉ eo
Xào thịt, chảo người reo tựa pháo
Ốc ruộng ta xào chảo cũng reo
Tháng riêng vác ô chuồn biền biệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bàn thờ hương khói lạnh đêm ngày
Nhà người thắp đèn lại thắp nến
Nhà ta đom đóm bay lập loè
Nhà người đã gà lịa thêm vit
Nhà ta tôm tép cũng không hay
Gà gáy o o, gà gáy thật
Nhà trên nhà dưới dậy tới nơi
Người ta có vợ thay chồng dậy
Không vợ sai nhờ tự động thôi
Nghe bên chị có nhiều gái goá
Phiền chị manh mối giúp một người
Lựa chọn thời điểm trước tết, người kể đã thể hiện rất rõ dụng ý kể lể,
miêu tả trạng thái gia cảnh nhà mình. Người Kinh có câu: "...chẳng giàu thì
nghèo - chiều ba mươi tết thịt treo trong nhà". Nhưng với chàng trai nghèo
này thì gia cảnh được kể và tả lại thật thảm hại, đáng thương :
Hăm tám tết, người ta rửa cá
Rỗng tuếch nhà ta vẫn đói nghèo
Ba mươi người thịt gà với vịt
Nhà ta trẻ con khóc ỉ eo
Xào thịt chảo người reo tựa pháo
Ốc ruộng ta xào chảo cũng reo
Khác với những bài ca trên, ở đây từng chi tiết từng hành động được kể
và tả lại luôn đặt trong sự so sánh và đối chiếu với cảnh giàu sang của kẻ
khác. Từng cặp câu đặt trong thế đối ngẫu khiến cả đoạn thơ cứ dội đi dội lại
mãi cái mỉa mai, chua chát cái cảnh nghèo khổ, cùng cực.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Câu chuyện lại được tiếp tục bằng thời điểm tháng giêng trong không
khí ngày tết, càng tô đậm hơn cảnh khốn cùng của chàng trai nghèo.
Tháng giêng vác ô chuồn biền biệt
Bàn thờ hương khói lạnh đêm ngày
Nhà người thắp đèn lại thắp nến
Nhà ta đom đóm bay lập loè
Nhà người đã gà lại thêm vịt
Nhà ta tôm tép lại không hay.
Ngày tết, người ta gặp gỡ vui chơi thì chàng trai nghèo lại “chuồn biền
biệt”, người ta thắp những nén hương tưởng nhớ đến tổ tiên, tìm sự ấm áp
thanh tịnh trong cõi lòng thì chàng trai nghèo đến nỗi “bàn thờ hương khói
lạnh đêm ngày”, người ta thắp đèn thắp nến để mong xua đi cái bóng tối thì
chàng trai nghèo âm thầm làm bạn với ánh sáng của đom đóm. Trong cái sự
chân thực và cụ thể của lời kể, những cái gì gọi là cảnh nghèo, cảnh khổ đã
được phơi bày tường tận và chi tiết.
Nỗi khổ không chỉ bởi gia cảnh nghèo khổ, mạch chuyện còn được nối
tiếp bởi những dòng kể về cảnh muộn vợ:
Gà gáy o o, gà gáy thật
Nhà trên nhà dưới dậy tới nơi
Người ta có vợ thay chồng dậy
Không vợ sai nhờ tự dậy thôi
Nếu như cảnh nghèo khó được diễn giải bằng một loạt hành động, tình
tiết, sự việc thì cảnh muộn vợ lại chỉ được diễn tả trong một hành động
“không vợ sai, nhờ, tự dậy thôi”. Nhưng chỉ một hành động đấy cũng đủ để
thấy mọi lời nói về cái cô đơn trống vắng, lạnh lẽo của căn nhà thiết bàn tay
của người phụ nữ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Như vậy, yếu tố tự sự đã mô tả một cảnh ngộ nặng nề của một con
người nghèo khổ. Mười sáu câu đầu không hề có chất trữ tình vui tươi, sáng
sủa. Thay thế vào đó là xâu chuỗi các hành động chi tiết u ám. Bài ca vì thế
mà buồn bã. Nỗi buồn không được trực tiếp nói ra qua bất cứ lời kể nào
nhưng lại hiện hữu gián tiếp thông qua một loạt lời kể. Những tưởng bài ca sẽ
kết lại trong các dư vị đắng cay chua xót. Nhưng ngay khi không khí mười
sáu câu đầu khép lại trong nỗi bi quan u ám thì hai câu cuối lại ánh lên một
ánh sáng của lòng lạc quan vô bờ:
Nghe bên chị có nhiều gái goá
Phiền chị mối manh giúp một người
Như vậy, bài ca trên, một mặt, qua phần “sự” làm cho ta thấy được
thêm phần bị vùi dập, khổ đau trong xã hội cũ, mặt khác qua cốt lõi trữ tình
ẩn sâu bên trong, những bài hát cũng đã gây được lòng cảm mến trước tinh
thần lạc quan, tin tưởng của họ. Với dung lượng dàn trải trong mười tám dòng
thơ bài ca đã tạo nên một mô hình cốt truyện tuy còn mờ nhạt nhưng khá trọn
vẹn. Sự xuất hiện của yếu tố tự sự ở đây đã tạo được sự cộng hưởng cao độ
với mạch trữ tình thấm đượm trong mỗi dòng thơ kể lể xót xa.
Hợp thành dạng thức biểu hiện của cốt truyện đơn giản, bên cạnh
những bài ca trên còn phải kể đến một số bài thuộc về chủ đề nông sự. Cùng
chung kết cấu với những bài lượn mười hai tháng nhưng xét về nội dung,
những bài ca này ngắn gọn hơn, sơ lược hơn rất nhiều. Ở chúng xuất hiện đầy
đủ yếu tố kể và tả nhưng lại chưa đủ dữ liệu để đẩy lên cấp độ cao hơn. Do đó
chúng tôi xếp vào dạng những bài ca có cốt truyện đơn giản.
Chỉ vài câu mộc mạc mà hiện lên cả một lịch trình về canh tác và thời
vụ của những cư dân sử dụng ngôn ngữ Tày. Bài ca sau là một ví dụ cụ thể:
Tháng giêng tháng hai hoa đua nở
Tháng ba tháng tư ong hội động
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Mùa xuân vừa hết ong xao xác
Tháng năm tháng sáu bận mùa công
Tháng bảy tháng tám dệt đầy hoa
Tháng chín tháng mười bạn gặt mùa
Tháng một tháng chạp hoa rụng hết
Mười hai tháng vận chuyển lại qua.
Sắp xếp theo trình tự thời gian vốn là dạng kết cấu mang tính truyền
thống trong văn học nói chung và trong văn học dân gian nói riêng. Trong văn
học dân gian, kết cấu này sử dụng rộng rãi khi tổ chức sắp xếp các sự kiện của
thể loại tự sự như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích…Trong loại hình trữ tình
dân gian, cụ thể là trong dân ca sinh hoạt, kết cấu này khá phổ biến trong
những bài ca về nghề nghiệp. Bài ca trên là một trong số đó.
Cấu tứ bài ca được xây dựng theo trình tự thời gian, dấu ấn từng tháng
và công việc trong năm. Ba dòng đầu là những lời ta phác thảo đặc trưng
thiên nhiên nơi vùng núi tây bắc. Bốn dòng tiếp theo đã làm nhiệm vụ kể khái
quát công từ tháng năm đến tháng mười. Câu thứ bảy lại quay về với việc
miêu tả thiên nhiên trong tháng mười một. Bài ca kết lại ở dòng thứ tám,
trong cái triết lý về sự tuần hoàn của thời gian. Trên cái nền tự sự, theo cái
mạch thời gian, từ cảnh thiên nhiên đến sinh hoạt đã hiện lên ngắn gọn mà rõ
nét, đơn giản mà cụ thể.
Xu hướng xây dựng nên những cốt truyện đơn giản làm nền cho cảm
xúc trữ tình mạnh mẽ ngân lên khá phổ biến trong dân ca Tày. Và ở mỗi
mảng đề tài đều có nhiều đặc trưng kết cấu biểu hiện sắc nét. Nhưng có thể
nói ở nhiều bài lượn sách, tự sự xuất hiện dưới hình thức cốt truyện đơn giản
có những biểu hiện sắc nét hơn cả. Bài lượn sử “Tống Trân” là một ví dụ.
Khác với bài lượn “Lương Sơn Bá – Trúc Anh Đài” ở trên, bài lượn này chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tóm tắt một vài chi tiết của cốt truyện. Dù ngắn gọn và cô đọng nhưng bài ca
cũng đã đáp ứng được mô hình của một cốt truyện đơn giản.
Bài lượn gồm mười chín câu, chia làm hai phần rõ nét: phần trữ tình
đằm thắm bộc lộ trực tiếp tâm tư tình cảm của những người đang ngân lên
tiếng hát lời ca và phần tự sự trải dài trong những chi tiết tóm tắt về câu
truyện cổ đã từng được trai gái Tày say mê, yêu thích.
Phần đầu của bài ca chỉ có ba câu, ba câu thuần tuý trữ tình, tràn ngập
thanh âm trong trẻo của tình yêu lứa đôi:
Yêu nhau ta yêu lấy cùng ta
Như Tống Trân Cúc Hoa thuở trước
Yêu nhau như bạn ngọc hát ca
Phần thứ hai: gồm mười sáu câu, gói gọn tất cả những chi tiết tóm tắt
về câu chuyện cổ Tống Trân – Cúc Hoa. Mười sáu câu, một dung lượng
không dài nếu không muốn nói là quá ngắn so với một câu chuyện cổ. Nhưng
với ngôn ngữ súc tích, trong cái giới hạn đó đã kịp đưa vào cả thơ, cả truyện
lại có cả kịch nữa.
Dòng tự sự này được tuần tự bắt đầu từ sự kiện Tống Trân đỗ bảng
vàng:
Tống Trân đỗ đăng khoa bảng vàng
Câu chuyện vừa được mở ra đã tiếp nối một dòng thắt nút:
Công chúa ở triều đường thanh tân
Mong yêu chàng Tống Trân làm chồng
Thế nhưng;
Thành quan còn nhớ những Cúc Hoa
Chẳng màng đến Dương Nga công chúa
Đến đây mâu thuẫn mảy sinh ở trên đã được đẩy lên thành kịch tính
trong cảnh:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nên vua tốn bắt cống sứ Hung Nô
Đi ở hết mười thu lại về
Ở đây, mẫu thuẫn là kịch tính của bài ca không chỉ dừng lại ở cảnh đầy
ải mà Tống Trân phải chịu. Hoàn cảnh và tình thế còn đặt ra những vấn đề
phức tạp hơn nhiều. Mâu thuẫn không chỉ có một. Sợi dây sự kiện căng lên
một lần nữa bởi kịch tính nối tiếp nhau:
Cúc Hoa nàng vẫn chờ có thảo
Trực tiết như vậy ở chờ mong
Yêu chồng hết lòng trông mẹ già
Nhưng trưởng giả sai ngoa bất chính
Gả nàng cho Trương Đính chồng người
Nhưng cái kết thấm đượm ý vị nhân văn trên đầy mầu sắc lạc quan của
truyện cổ tích đã ngân lên những giai điệu tươi sáng cho toàn bộ câu chuyện.
Nhân cách và phẩm giá con người như được chứng thực và khẳng định:
Lòng vẫn yêu thương chồng cũ
Trực tiết mà ăn ở chính chuyên
Yêu nhau như vợ chồng thuở trước
Tạc bia ở cửa phòng không phai
Như vậy, bài lượn đã lựa chọn và kể lại một cách tóm tắt câu chuyện cổ
Tống Trân – Cúc Hoa. Truyện được mở đầu bằng sự kiện Tống Trân đỗ trạng
nguyên - một motip khá phổ biến trong truyện cổ tích, và kết thúc trong sự
chờ đợi thủy chung của Cúc Hoa. Nhìn suốt bài lượn, dường như người hát cố
giữ thái độ khách quan trong khi kể lại câu chuyện nhưng thật ra sắc thái tình
cảm chủ quan đã bộc lộ ngay từ những dòng thơ đầu tiên, trước khi bắt đầu
vào câu chuyện. Đấy là chưa đề cập đến sắc thái tình cảm của người diễn
xướng bài ca. Cho nên, bài hát dù theo dòng tự sự là chính cũng không che
lấp được âm điệu trữ tình được bộc lộ ra khá mạnh mẽ. Bài ca vì thế luôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
đứng vững ở ranh giới của loại hình trữ tình dù có sự xâm nhập mạnh mẽ của
yếu tố tự sự.
Những bài ca kiểu này thường được tập trung ở mảng lượn sử trong
lượn cọi. Nó xuất hiện trong cuộc hát khi tình cảm đôi bên đã đến hồi đằm
thắm. Cho nên nó là một bộ phận quan trọng trong dân ca và chủ đề tình yêu.
Nội dung của những bài ca này hết sức phong phú và nhiều vẻ. Từ những bài
tâm tình vui vẻ, đến những bài buồn bã sâu xa, tùy theo tâm trạng, cảm xúc và
thái độ của các chàng trai, cô gái. Hạnh phúc tình yêu hay nỗi bất hạnh đều
được thể hiện một cách nghệ thuật dưới dạng một câu chuyện có đầy đủ nhân
vật, chi tiết, hành động… liên kết chặt chẽ logic với nhau. Yếu tố tự sự dưới
hình thức tóm tắt một câu chuyện cổ đã trở thành một phương tiện bên ngoài
hữu hiệu để đôi bên nam nữ kín đáo bộc lộ tâm trạng bên trong của mình.
Như vậy, qua việc khảo sát và phân tích một số bài ca cụ thể, chúng tôi
nhận thấy trong các bài có cốt truyện đơn giản, những cốt truyện này đều đã
bị điều chỉnh theo những quy luật của loại hình trữ tình. Cho nên, nó có
những đặc trưng rất riêng biệt. Đó thường là những câu chuyện kết cấu một
chiều đơn giản. Người kể thường không phải đứng ngoài cốt truyện hay sự
kiện. Họ thường không kể chuyện của người khác mà kể chuyện của chính
mình. Nhân vật trong chuyện kể thường ở ngôi thứ nhất số ít mà ít khi ở ngôi
thứ ba. Điều đó đã dẫn đến một hệ quả là số lượng nhân vật trong các bài ca
kể chuyện là rất ít. Nhân vật thường phải đảm nhiệm nhiều vai, vừa là nhân
vật trữ tình, vừa là nhân vật kể, vừa là nhân vật trung tâm trong lời kể. Lời kể
chính là lời bộc bạch nội tâm. Nội dung được kể thường là nỗi niềm tâm sự
nhiều hơn là cảnh ngộ được nói đến. Và điều quan trọng là tự sự dù có xuất
hiện thì cuối cùng cũng là để biểu hiện cảm hứng trữ tình. Lối tự sự này
không làm mờ đi yếu tố trữ tình trong đó mà ngược lại còn làm cho mạch trữ
tình đậm đà và đặc sắc hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.2 Những bài ca không có cốt truyện
So với cấp độ trước xuất hiện ở cấp độ này, yếu tố tự sự mờ nhạt hơn
rất nhiều và có phần bị che lấp bởi cảm xúc trữ tình. Ở dạng này thường là
những bài ca có tính chất kể chuyện nhưng cốt truyện và nhân vật trữ tình
thường không rõ, lời kể thường ngắn, và ngay sau đó là lời tâm tình cảm thán.
Xuất hiện trong những bài ca thuộc dạng này, yếu tố tự sự có thể không có
được cái vẻ ngoài đậm nét nhưng đây mới là dạng phổ biến của yếu tố này
trong dân ca Tày. Con số 399 bài là một minh chứng thuyết phục.Hơn nữa,
không chỉ tồn tại với số lượng đông đảo, yếu tố tự sự còn tìm cho mình những
biểu hiện vô cùng phong phú. Và đây là một số dạng thức tiêu biểu:
- Yếu tố tự sự xuất hiện dưới dạng thức kể chuyện trực tiếp liền mạch.
- Yếu tố tự sự xuất hiện dưới dạng thức kể chuyện bâng quơ
- Yếu tố tự sự xuất hiện dưới dạng thức kể chuyện xen lẫn cảm xúc
trữ tình.
2.2.1 Những bài ca kể chuyện trực tiếp, liền mạch.
Dân ca là thể loại đặc trưng cho loại hình trữ tình dân gian, logic của
bài ca chính là logic của sự thống nhất của một hay nhiều trạng thái cảm xúc.
Nhưng khi có sự xuất hiện của yếu tố tự sự thì ngoài liên kết cần có của một
bài ca trữ tình thì còn cần phải có mối liên hệ gắn kết các sự kiện lại với nhau.
Chỉnh thể trọn vẹn của bài ca chỉ có được khi xuất hiện song song hai dạng
liên kết này. Dạng thức kể chuyện trực tiếp liền mạch tồn tại như một sự hoà
hợp thống nhất giữa hai loại liên kết trên.
So sánh với dạng thức khác trong các bài ca trữ tình tự sự thì kể chuyện
trực tiếp liền mạch là dạng thức gần gũi với mô hình cốt truyện hơn cả. Bởi
vì, các sự kiện đưa ra kết dính với nhau về mặt ý nghĩa và thống nhất trong
việc thể hiện nội dung, chủ đề chung. Song chúng lại chưa đạt được “nồng
độ” cần thiết để chuyển sang trạng thái những bài ca tự sự - trữ tình. Hơn nữa,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
chất trữ tình lẫn ngay sau và đậm nét hơn hai cấp độ trên rất nhiều. Do đó yếu
tố tự sự trong những bài ca này chỉ dừng lại ở dạng kể chuyện trực tiếp, liền
mạch. Đa số dân ca Tày có hình thức tự sự này:
Anh cất chân đi dạo tới đây
Đến đầu ruộng phía tây bên trái
Chân bước còn bến bãi Thạch Lâm
Mắt ngược trông mênh mông hoa lá
Bướm ong bay rộn rã ngoài trong
Thương hoa xót trong lòng mặc bướm
Lòng anh càng đau đớn tương tư
Thở than cùng với người thương với
Tính chất truyện đã được ngợi ca ngày từ những câu đầu tiên của bài.
Càng những câu sau dụng ý kể chuyện của nhân vật càng rõ, các hành động
được mô tả cụ thể: cất chân đi dạo, đến, bước vào... đã xâu chuỗi thật chặt chẽ
để tạo nên sự kết dính cho toàn bài ca. Chỉ đến hai câu cuối cùng ta mới thấy
tâm trạng bộc lộ thật rõ, trong những vần thơ đầy cảm xúc yêu thương:
Lòng anh càng đau đớn tương tư
Thở than cùng với người thương với.
Rõ ràng nếu nói đó là một câu chuyện có cốt truyện đàng hoàng thì
chưa đủ, song trong đó dứt khoát có yếu tố kể và tả chứ không chỉ có tâm
trạng.
Trong những bài ca dạng này, “sự” thường xuất hiện trước làm nền cho
“tình” xuất hiện, “tình” gợi ra sau làm cho “sự” trở nên mượt mà ý nhị. Sự
phối hợp nhịp nhàng giữa “sự” và “tình” một mặt đã nói sâu sắc và kín đáo
trạng thái cảm xúc trữ tình, mặt khác còn tạo nên logic liền mạch chặt chẽ cho
toàn bài ca. Có thể tiếp tục chứng minh điều này qua một bài dân ca sau:
Hôm nay anh đi chợ về tối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nghe tiếng nói rì rầm nhà dưới
Nghe tiếng nói thủ thỉ nhà trên
Nghe tiếng cười nhà bên
Nghe tiếng nói ngoài sân
Anh liền đặt bát cơm dở xuống
Mắt liền liếc ra cửa sổ
Chân liền bước xuống thang
Không có lửa khác sáng
Cứ ngỡ rằng sáng trăng
Hoá ra có gái ngoan về làng
Ngay từ những câu đầu tiên chàng trai đã muốn chia sẻ với người nghe
bằng tâm sự “ hôm nay”. Nhưng câu sau càng rõ dụng ý kể chuyện.Trên các
giai điệu rộn ràng của tình cảm hồn nhiên bộc trực là dồn dập những hành
động như: về, nghe, dệt, liếc... Tất cả đã được chính anh kể lại, trực tiếp và
chân thành. Ở đây tuy chưa kịp thấy người đẹp, mới chỉ nghe thôi mà lòng
chàng trai đã rạo rực hẳn lên, dường như bị một sức mạnh huyền bí nào đó lôi
cuốn, không thể cưỡng lại được:
Nghe tiếng nói rì rầm nhà dưới
Nghe tiếng nói thủ thỉ nhà trên
Nghe tiếng cười nhà bên
Nghe tiếng nói ngoài sân
Anh liền đặt bát cơm dở xuống
Mắt liền liếc ra cửa sổ
Chân liền bước xuống thang
Các hành động liên tiếp nối liền theo trật tự thời gian được xâu chuỗi
lại càng bộc lộ mãnh liệt cái mạch ngầm trữ tình ẩn đằng sau câu chữ. Ý tứ xa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
xôi cứ dần được hé lộ. Và đến câu cuối cùng, khi “sự” tạm thời khép lại thì lời
làm quen tình tứ mới được hé lộ:
Hóa ra có gái ngoan về làng
Có thể nói bài ca là tâm trạng điển hình của các chàng trai trước giờ
phút gặp gỡ. Có điều khác là thay lời phô bày trực tiếp, tâm trạng đó lại được
kể lại bằng một hoạt động dồn dập, chắc khoẻ. Cảm xúc được ánh lên từ
những sự việc hành động cho nên “sự” và “tình” đan xen, vấn vít vào nhau.
Như vậy sự xuất hiện của lối miêu tả, kể lể, dù chưa tạo ra được một cốt
truyện song cũng đã xâu chuỗi các sự kiện lại, càng cộng hưởng với nhau
trong việc diễn tả trọn vẹn cảm xúc chân thành, sôi nổi trong lòng chàng trai
Tày.
Xu hướng sử dụng lối kể chuyện tạo nền cho cảm xúc trữ tình bộc lộ
khá phổ biến trong những bài miêu tả trai gái gặp gỡ, trao đổi tình cảm với
nhau. Ngoài bài ca trên, có thể kể đến rất nhiều bài ca khác, lời ca làm quen
tình tứ sau là một ví dụ:
Hôm nay ra cửa giờ lành
Thấy con cá chép nép mình bên sông
Mua chài em tới Cao Bằng
Cá ở vực chẳng ở nông bao giờ
Nay trông thấy cá bất ngờ
Muốn trao câu chuyện thời giờ thế nao
Người đâu chủ nói chả chào
Có duyên được gặp biết bao thoả lòng
Em xin chào trước mặt chàng
Biết chào anh có thưa không mà chào
Vừa chào vừa ngượng làm sao?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Làm quen là một phần của cuộc yêu đương. Bản thân nó chứa đựng tất
cả tấm chân tình sự tài hoa, và cả cái duyên may đồng điệu giữa hai con
người. Cách làm quen của dân tộc nào mang dấu ấn của dân tộc ấy. Cung
cách thâm trầm của người Tày với cái kín đáo ê lệ thường thấy của người con
gái khiến cho cô gái trong trường hợp này không thể trực tiếp vấn đáp đối
phương. Nhưng tình cảm tha thiết trong lòng cũng khiến cô không thể im lặng
mà nhìn người thương. Thông minh và cũng không kém ý nhị duyên dáng, cô
gái đã chủ động tạo cơ hội làm quen bằng cách thức rất riêng.
Hôm nay ra cửa giờ lành
Thấy con cá chép nép mình bên song
Mua chài em tới Cao Bằng
Cá ở vực chẳng ở nông bao giờ.
Tính chất “truyện” xuất hiện ngay từ những dòng đầu tiên. Cũng trong
những dòng đầu tiên trên ấy, trong các việc lựa chọn giờ lành để đi ra khỏi
cửa, hình như đã hàm ý một điều gì sâu xa kín đáo, muốn nói là chưa tiện nói.
Vẫn cái đà câu chuyện, cô gái lại tiếp tục kể lể sự việc. Sự việc hành động rất
rõ ràng và chặt chẽ, nhưng người nghe vẫn thấy một cái gì vu vơ khó hiểu. Ý
tứ của bốn câu đầu dường như vẫn chưa được lý giải, cắt nghĩa.
Câu thứ năm vẫn nối tiếp sự việc bằng một cảm xúc đó rất mơ hồ:
Nay trông thấy cá bất ngờ
Nhưng chính trong từ “bất ngờ” ở cuối câu mà hình như hé lộ một điều
gì. Có một điều gì dường như là lơ lửng vừa muốn nói lại vùa như muốn giấu
kín trong câu này. Cho đến câu thứ sáu:
Muốn trao câu chuyện thời giờ thế nao?
Cái điều muốn nói cũng đã được trực tiếp nói ra. Sau tất cả những sự
việc gợi dẫn, cái câu hỏi đầy e ấp, thẹn thùng nhưng cũng đầy chủ động, tự tin
đã được bộc lộ. Năm câu còn lại tiếp tục làm nhiệm vụ phô bày nội dung ý tứ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
kết bạn cũng như tâm trạng còn đang bối rối, ngượng ngùng. Đến đây, bài ca
đã ngả hẳn sang dòng mạch trữ tình. Yếu tố tự sự chỉ xuất hiện trong năm câu
đầu nhưng trong năm câu ngắn gọn đó cũng đủ thấy cái nội dung kể chuyện,
cái duyên cớ tự sự của bài ca.
Những bài ca dao thuộc dạng kể chuyện trực tiếp, liền mạch đặc biệt
phổ biến trong những bài ca thuộc các chương tông, vọng – những chương
nói về tâm trạng mong đợi trông chờ người thương. Những bài lượn này bao
giờ cũng được mở đầu bằng công thức trông trời, trông mây, trông trăng...
chính từ cái công thức mang đậm tính ước lệ này ta sẽ nhận ra yếu tố tự sự
hiện lên trong từng câu từng chữ. Sau khi tạo được những lời vào đầu vững
chắc, cảm xúc mới được bộc lộ. Và cái nắng, mưa, sương, móc trong cách kể
lể của chàng trai, cô gái đã tạo ra một không khí vắng lặng, một tâm trạng
bâng khuâng một chiều sâu thương nhớ vời vợi:
- Tháng tám anh trông mây theo núi
Mây đi mây chẳng lại với ngàn
Thân buồn cùng bạn đường quá đỗi
Lòng bứt rứt khốn nỗi vô cùng
Tối trời lại tưng bừng trời sáng
Biết cửa nhà đã định hay chưa. Bạn ơi!
Thân em chỉ yêu thật một chàng
- Tháng bảy anh trông móc, mù, sương
Đêm ngồi trông trăng suông đến sáng
Bốn phương sương lai láng kín trời
........................................................
Ngày vắng em làm việc giữa rừng
Nắng dịu em nhớ anh thương anh với
Ta sinh đã gắn bó làm đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nắng xiên xem bóng rơi em hỡi
Đêm trằn trọc vời vợi hãy thương
Ngày vắng nhớ đến mường anh với.
Xét từ nhiều bài ca trong kho tàng dân ca Tày, có thể nhận thấy yếu tố
tự sự xuất hiện với cấp độ những bài ca kể chuyện trực tiếp liền mạch chiếm
một số lượng lớn, và có thể nói là lớn nhất so với tương quan còn lại. Trong
tổng số bài ca có sự xuất hiện của yếu tố tự sự có tới 316 bài thuộc dạng này.
Chưa nói tới các nhân tố khác, chỉ xét riêng về mặt số lượng, tần số xuất hiện
như vậy cũng đủ chứng minh ưu thế hơn hẳn của dạng thức này trong địa
phận những bài ca có sự xuất hiện của yếu tố tự sự.
2.2.2 Những bài ca kể chuyện bâng quơ.
Như ta đã nói ở phần trên, dân ca với đặc trưng thuộc về loại hình trữ
tình dân gian, cho nên yếu tố tự sự xuất hiện trong một bài ca cụ thể hoàn toàn
không phải là yếu tố chủ đạo. Không thể phủ nhận là yếu tố này xuất hiện đã
đem lại những bài ca những sắc mầu riêng, âm điệu riêng nhưng phải thừa
nhận một điều là yếu tố này xuất hiện chỉ đóng vai trò phụ thuộc. Do vậy mà
yếu tố tự sự xuất hiện không chịu những quy định quá chặt chẽ như trong tác
phẩm tự sự. Điểm khác biệt lớn với một tác phẩm tự sự là không phải lúc nào
yếu tố tự sự xuất hiện cũng kéo theo một hệ thống các sự kiện có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau. Có một số lớn các bài ca có xuất hiện của yếu tố tự sự thế
nhưng các sự kiện gần như không ăn nhập với nhau. Điều đó đã hình thành
nên một loại hình mới trong hình thức biểu hiện của yếu tố tự sự – dạng thức
kể chuyện bâng quơ.
Dấu ấn đặc trưng của các bài ca này là có sự xuất hiện lời kể của nhân
vật, nhưng ngoài câu chuyện được kể, trong bài ca còn có rất nhiều chi tiết
không đầu không cuối, không “ăn nhập” vào “mạch truyện”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Theo kết quả khảo sát, có 20 bài ca được xếp vào dạng này và dễ dàng
tìm được một bài để chứng minh:
Tháng năm ruộng bỏ không cày
Vào vụ mùa này lắm đất nhiều công
Tháng mười gặt lúa chưa xong
Thóc rơi thân gãy phí công cấy cày
Hoa xuân cũng héo cuối ngày
Gái tơ không bạn hèn thay ai cầu
Thấy rồi đèn sắp cạn dầu
Bấc ngắn ta nối đỡ sầu đèn chong
Cạn dầu là bỏ đèn không
Khuyên mời nào bạn dặm trường lượn vui.
Tính chất “truyện” được gợi ra ngay từ những dòng đầu tiên. Bốn dòng
đầu hoàn toàn là công việc làm ăn của nhà nông. Nếu đi theo đúng mạch tự sự
này, bài ca sẽ lại là một bản tổng kết kinh nghiệm canh tác hoàn chỉnh của
những con người quanh năm gắn bó với công việc ruộng đồng. Nhưng hai câu
năm, sáu xuất hiện mạch thơ chuyển hẳn sang trữ tình:
Hoa xuân cũng héo cuối ngày
Gái tơ không bạn hèn thay ai cầu.
Hai câu này có thể là lời chê bai, khích bác của chàng trai trước một cô
gái quá kiêu kì, hoặc cũng có thể là lời cay nghiệt của những kẻ ác tâm độc
miệng...Nhưng dù là của ai thì những lời buông ra đều là những lời rất nặng
nề, không kiêng nể. Có thể vì thế mà chủ nhân của nó không thể nói ngay, nói
thẳng. Cho nên nó phải ngụy tạo dưới bốn câu đầy chất tự sự, dù rằng giữa
“sự” và “tình” gần như không có sợi dây liên hệ.
Ba câu tiếp theo lại làm cho sợi dây liên hệ thêm lỏng lẻo:
Thấy rồi đèn sắp cạn dầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bấc ngắn ta nói đỡ sầu đèn chong
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Truyện ngắn Vũ Trọng Phụng.pdf