Tài liệu Luận văn Trình bày những lý luận chung về tích luỹ và ứng dụng những lý luận đó vào thực tiễn Việt Nam: LUẬN VĂN:
Bày những lý luận chung về tích luỹ và
ứng dụng những lý luận đó vào thực
tiễn Việt nam.
Lời nói đầu
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng để phát triển kinh tế,
ngoài việc lựa chọn đường lối phát triển còn phải có các yếu tố vật chất để thực hiện được
đường lối đó. Đối với các nước đã phát triển mạnh mẽ như Mỹ, Anh, Pháp …chúng ta đều
thấy rằng họ có một tiềm lực kinh tế (đặc biệt là tiềm lực về vốn ) rất mạnh. Còn đối với
những nước đang phát triển như nước ta với diểm khởi đầu rất thấp, nguồn vốn tự có rất ít,
mà một trong những đặc trưng của các nước đang phát triển là tỷ lệ tích luỹ thấp, chỉ dưới
10% thu nhập, mà tích luỹ thấp sẽ dẫn đến trình độ kĩ thuật và năng suất lao động thấp. Do
đó đòi hỏi các nước đang phát triển phải tìm biện pháp để phá vỡ vòng luẩn quẩn này. Muốn
vậy, phải lựa chọn mô hình phát triển kinh tế phù hợp. Song trong các mô hình tăng trưởng
kinh tế hiện đại, các nhà kinh tế đặc biệt nhấn mạnh vai...
23 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1056 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Trình bày những lý luận chung về tích luỹ và ứng dụng những lý luận đó vào thực tiễn Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Bày những lý luận chung về tích luỹ và
ứng dụng những lý luận đó vào thực
tiễn Việt nam.
Lời nói đầu
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng để phát triển kinh tế,
ngoài việc lựa chọn đường lối phát triển còn phải có các yếu tố vật chất để thực hiện được
đường lối đó. Đối với các nước đã phát triển mạnh mẽ như Mỹ, Anh, Pháp …chúng ta đều
thấy rằng họ có một tiềm lực kinh tế (đặc biệt là tiềm lực về vốn ) rất mạnh. Còn đối với
những nước đang phát triển như nước ta với diểm khởi đầu rất thấp, nguồn vốn tự có rất ít,
mà một trong những đặc trưng của các nước đang phát triển là tỷ lệ tích luỹ thấp, chỉ dưới
10% thu nhập, mà tích luỹ thấp sẽ dẫn đến trình độ kĩ thuật và năng suất lao động thấp. Do
đó đòi hỏi các nước đang phát triển phải tìm biện pháp để phá vỡ vòng luẩn quẩn này. Muốn
vậy, phải lựa chọn mô hình phát triển kinh tế phù hợp. Song trong các mô hình tăng trưởng
kinh tế hiện đại, các nhà kinh tế đặc biệt nhấn mạnh vai trò của vốn đầu tư đối với tăng
trưởng kinh tế. Samuelson cho rằng một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế hiện
đại là "kĩ thuật công nghiệp tiên tiến hiện đại dựa vào việc sử dụng vốn lớn". Do đó vốn là cơ
sở để phát huy tác dụnh của các yếu tố khác. Vốn là cơ sở để tạo ra việc làm, để có công
nghệ tiên tiến, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế, góp phần
thúc đẩy phát triển sản xuất theo chiều sâu và cuối cùng cơ cấu sử dụng vốn sẽ là điều quan
trọng tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước.
Với Việt nam, các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét chung là, chúng ta đã có bước
khởi đầu tốt đẹp trong giai đoạn phát triển mới. Nhưng để đạt được tốc độ tăng trưởng
cao và liên tục trong thời gian tới còn nhiều khó khăn. Mà một trong những khó khăn đó
là thiếu vốn.
Trên đây chúng ta đã thấy vốn quan trọng như thế nào đối với việc phát triển kinh
tế. Vì vậy điều chúng ta cần giải quyết là làm sao để tăng nguồn vốn của mình bằng cách
tích luỹ, huy động vốn từ trong và ngoài nước. Song trong những cách để có được nguồn
vốn, thì tích luỹ và huy động vốn từ trong nước là quan trọng nhất. Và có như thế chúng
ta mới không bị phụ thuộc vào bên ngoài, vì sự phát triển từ nội lực bao giờ cũng là sự
phát triển bền vững nhất.
Nhận thức được vai trò của việc tích luỹ vốn mà em lựa chọn làm đề tài này. Trong
bài viết em sẽ trình bày những lý luận chung về tích luỹ và ứng dụng những lý luận đó
vào thực tiễn Việt nam.
Chương I
Lý luận tích luỹ tư bản
I. Bản chất và nguồn gốc của tích luỹ tư bản:
Sản xuất ra của cải vật chất là điều kiện tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Xã hội không thể ngừng tiêu dùng do đó không thể ngừng sản xuất. Bất cứ quá trình
sản xuất xã hội nào nếu xét theo tiến trình đổi mới không ngừng của nó, chứ không phải
xét theo hình thái từng lúc của nó thì đồng thời cũng đều là quá trình tái sản xuất. Quá
trình này là tất yếu khách quan và có hai hình thức là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất
mở rộng. tái sản xuất giản đơn không phải là tái sản xuất điển hình của CNTB mà hình
thái điển hình của CNTB là tái sản xuất mở rộng. Muốn tái sản xuất mở rộng nhà tư bản
không thể sử dụng hết giá trị thặng dư cho tiêu dùng cá nhân, mà phải dùng một phần giá
trị thặng dư để tăng quy mô đầu tư so với năm trước. Chính phần giá trị thặng dư đó được
gọi là tư bản phụ thêm. Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay chuyển hoá giá trị
thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản. Xét một cách cụ thể tích luỹ tư bản
nhằm tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể
chuyển hoá thành tư bản được là vì tư bản thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất
của một tư bản mới. Tích luỹ tư bản là là tất yếu khách quan do quy luật kinh tế cơ bản,
quy luật giá trị và cạnh tranh... của phương thức sản xuất TBCN quy định. Nguồn gốc
duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ chiếm một tỷ lệ ngày
càng lớn trong toàn bộ tư bản. Như vậy thực chất của tích luỹ tư bản là biến một phần giá
trị thặng dư thành tư bản phụ thêm (tư bản bất biến phụ thêm và tư bản khả biến phụ
thêm) để mở rộng sản xuất. Trong quá trình sản xuất lãi cứ đập vào vốn, vốn càng lớn thì
lãi càng lớn, do đó lao động của công nhân trong quá khứ lại trở thành phương tiện mạnh
mẽ để bóc lột chính người công nhân.
Quá trình tích luỹ đã làm cho quyền sở hữu trong nền sản xuất hàng hoá biến thành
quyền chiếm đoạt TBCN. Khác với nền sản xuất hàng hoá giản đơn, trong nền sản xuất
TBCN sự trao đổi giữa người lao động và nhà tư bản dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng
những chiếm không một phần lao động của công nhân mà còn là người sở hữu hợp pháp
lao động không công đó. Sự thay đổi căn bản trong quan hệ sở hữu hoàn toàn không vi
phạm quy luật giá trị.
Động cơ thúc đẩy tích luỹ và tái sản xuất mở rộng TBCN là một quy luật kinh tế cơ
bản của CNTB. Mục đích của nền sản xuất TBCN là sự lớn lên không ngừng của giá trị.
Để thực hiện mục đích đó các nhà tư bản không ngừng tích luỹ và tái sản xuất mở rộng
xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột công nhân. Mặt khác do tính cạnh
tranh quyết liệtnên các nhà tư bản buộc phải không ngừng làm cho tư bản của mình tăng
lên. Điều đó chỉ có thể thực hiện bằng cách tăng nhanh tư bản tích luỹ. Nói như vậy hình
như có mâu thuẫn giữa phần tiêu dùng của nhà tư bản và phần tích luỹ. Thực ra trong
buổi đầu của sản xuất TBCN, sự ham muốn làm giàu của các nhà tư bản thường chi phối
tuyệt đối nhưng đến một trình độ phát triển nhất định, sự tiêu dùng xa phí của cácnhà tư
bản ngày càng tăng lên theo sự tích luỹ tư bản.
II. Những nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản
Quy mô tích luỹ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư và tỷ lệ phân chia giá trị
thặng dư thành tư bản phụ thêm và thu nhập.
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích luỹ phụ thuộc vào
tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng của nhà
tư bản. Nếu nhà tư bản sử dụng khối lượng giá trị thặng dư đó vào việc tiêu dùng nhiều
cho cá nhân thì khối lượng giá trị thặng dư dành cho tích luỹ sẽ ít đi. Khi đó quy mô của
tích luỹ tư bản của nhà tư bản đó sẽ giảm đi. Ngược lại việc tiêu dùng ít đi sẽ làm tăng
khối lượng tích luỹ, khi đó quy mô tích luỹ sẽ tăng lên. Tích luỹ của chế độ TBCN nhằm
thu được ngày càng nhiều giá trị thặng dư : sản xuất mở rộng thì chúng càng tăng cường
bóc lột công nhân thu được thêm nhiều giá trị thặng dư. Khi đó nhà tư bản càng có vốn
mở rộng thêm sản xuất, quy mô bóc lột càng tăng lên. Ngoài tiêu dùng xa phí của mình,
nhà tư bản còn phải đối phó với tình trạng cạnh tranh gay gắt trong xã hội tư bản nên họ
đều phải tăng thêm tích luỹ để mở rộng sản xuất với quy mô lớn hơn giành nhằm phần
thắng cho mình trên thương trường.
Nếu tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó đã cho sẵn, thì rõ ràng đại lượng
của tư bản tích luỹ sẽ do đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết định. Do đó những
nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ chính là những nhân tố quyết định quy mô của
khối lượng giá trị thặng dư. Những nhân tố đó là :
Một là, mức độ bóc lột sức lao động.
Nâng cao mức độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công của công
nhân. Như vậy công nhân không những bị nhà tư bản chiếm đoạt lao động thặng dư, mà
còn bị chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, bị cắt xén một phần tiền công. Việc cắt xén
tiền công giữ vai trò quan trọng trong quá trình tích luỹ tư bản.
Nâng cao mức bóc lột bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động.
Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động rõ ràng làm tăng thêm giá trị
thặng dư, do đó làm tăng bộ phận giá trị thặng dư tư bản hoá, tức là làm tăng tích luỹ. ảnh
hưởng này còn thể hiện ở chỗ số lượng lao động tăng thêm mà nhà tư bản chiếm không
do tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động không đòi hỏi phải tăng thêm tư bản
một cách tương ứng (không đòi hỏi phải tăng thêm số lượng công nhân, tăng thêm máy
móc, thiết bị mà hầu như chỉ cần tăng thêm sự hao phí nguyên liệu).
Hai là, trình độ năng suất lao động xã hội.
Việc nâng cao năng suất lao động sẽ làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó tăng
thêm bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hoá. Song vấn đề ở đây là quy mô của tích luỹ
không chỉ được quyết định bởi khối lượng giá trị thặng dư, mà còn bởi khối lượng tư liệu
sản xuất và tư liệu tiêu dùng, do khối lượng giá trị thặng dư đó có thể chuyển hoá thành.
Như vậy năng suất lao động tăng sẽ làm tăng thêm những yếu tố vật chất của tư bản, do
đó làm tăng quy mô của tích luỹ. Năng suất lao động cao thì lao động sống sử dụng được
nhiều lao động quá khứ hơn, lao động quá khứ đó lại tái hiện dưới hình thái có ích mới,
chúng làm chức năng tư bản để sản xuất ra tư bản càng nhiều, do đó mà quy mô của tư
bản tích luỹ càng lớn. Như vậy năng suất lao động là nhân tố quan trọng quyết định đến
quy mô của tích luỹ.
Ba là, sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng.
Trong quá trình sản xuất, tất cả các bộ phận cấu thành của máy móc đều hoạt động,
tức là máy móc tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng chúng chỉ hao mòn dần,
do đó giá tri của chúng được chuyển dần từng phần vào sản phẩm, vì vậy có sự chênh
lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Mặc dù đã mất dần giá trị như vậy, nhưng
trong suốt thời gian hoạt động máy móc vẫn có tác dụng khi còn đủ giá trị. Do đó, nếu
không kể đến phần giá trị của máy móc chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian, thì
máy móc phục vụ không công đó chẳng khác gì lực lượng tự nhiên.
Lực lượng sản xuất xã hội càng phát triển, máy móc càng hiện đại, phần giá trị của
nó chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian càng ít, thì sự chênh lệch giữa tư bản cố
định sử dụng và tư bản cố định tiêu dùng càng lớn. Do đó tư bản lợi dụng được những
thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều.
Bốn là, quy mô của tư bản ứng trước.
Với mức bóc lột không đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do số lượng công nhân bị
bóc lột quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến
càng lớn, thì giá trị thặng dư bóc lột được và quy mô tích luỹ cũng càng lớn. Đối với sự
tích luỹ của cả xã hội thì quy mô của tư bản ứng trước chỉ là nhỏ nhưng rất quan trọng. C.
Marx đã nói rằng tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của sự tích luỹ
mà thôi.
Tích luỹ dưới chế độ TBCN làm cho của cải của xã hội ngày càng tập trung vào tay
giai cấp tư sản, người công nhân càng bị bóc lột nặng nề, càng tăng thêm thất nghiệp và
nghèo đói, làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản ngày thêm sâu
sắc hơn. Mặt khác tiêu dùng của người lao động bị hạn chế trong một phạm vi rất nhỏ
hẹp. Một phần lớn thu nhập quốc dân của xã hội TBCN là dùng vào việc tiêu dùng không
sản xuất và tiêu dùng ăn bám của chúng. Phần thu nhập quốc dân dùng vào tích luỹ do đó
tương đối ít so với khả năng và đòi hỏi của sự phát triển khách quan của xã hội. Sự chênh
lệch đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa có điều kiện phát sinh, phá hoại nặng
nề và thường xuyên nền sản xuất của xã hội TBCN. Nhưng mặt khác thành quả kinh tế
mà xã hội tư bản đạt được lại vô cùng to lớn và có ý nghĩa lịch sử quan trọng.
III. Mối quan hệ Tích luỹ-Tích tụ- Tập trung tư bản.
Quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua hai con đường là tích tụ và tập trung
tư bản.
Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản hoá một phần
giá trị thặng dư. Nó là kết quả trực tiếp của tích luỹ tư bản.
Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt có sẵn thành một tư bản cá
biệt khác lớn hơn. Tập trung tư bản diễn ra bằng hai phương pháp là cưỡng bức (các nhà tư
bản bị thôn tính do phá sản) và tự nguyện ( các nhà tư bản liên hiệp, tổ chức thành công ty cổ
phần). Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ biện chứng với nhau và tác động thúc đẩy nhau
nhưng lại không đồng nhất với nhau. Sự khác nhau này không chỉ khác nhau về mặt chất mà
còn khác nhau về mặt lượng.
Tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản xã hội, nó phản ánh mối quan hệ trực tiếp
giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Tập trung tư bản không làm tăng quy mô tư
bản xã hội mà chỉ phân phối lại và tổ chức lại tư bản xã hội, nó phản ánh quan hệ trực
tiếp giữa các nhà tư bản. Nó có vai trò rất lớn trong quá trình chuyển sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn TBCN và quá trình chuyển chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn thấp lên giai đoạn cao.
Nếu gạt bỏ tính chất TBCN, tích tụ và tập trung là hình thức làm tăng thu nhập quốc dân
và sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn vốn của xã hội trong quá trình sản xuất.
Quá trình tích luỹ tư bản tất yếu dẫn đến sự phân cực : một bên làm cho chủ nghĩa tư bản
phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu thông qua sự tích tụ và tập trung của tư bản, thông qua
việc nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản và làm cho giai cấp tư sản ngày càng giàu có xa hoa.
Còn một bênlà giai cấp những người lao động không tránh khỏi sự thất nghiệp và bần cùng. Đó
là quy luật chung của tích luỹ tư bản.
Chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở dùng bạo lực để tước đoạt của những người sản
xuất nhỏ, đặc biệt là nông dân. Quá trình đó đã biến chế độ tư hữu nhỏ dựa trên lao động
cá nhân thành chế độ sở hữu TBCN dựa trên sự bóc lột lao động làm thuê, biến sản xuất
nhỏ lạc hậu, phân tán thành sản xuất lớn, tập trung. Đó là sự phủ định chế độ tư hữu của
những người sản xuất nhỏ. Nhưng khi phương thức sản xuất TBCN đã hình thành thì quá
trình tích luỹ và cạnh tranh dẫn đến tư bản và sản xuất được tập trung ngày càng lớn, do
đó sản xuất được xã hội hoá cao hơn, lực lượng sản xuất được phát triển mạnh hơn. Điều
đó làm cho mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa phát triển. Sự phát triển của mâu thuẫn này sẽ dẫn đến sự tất yếu thay thế chủ
nghĩa tư bản bằng xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Đó là xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản,
xu hướng tạo ra những tiền đề vật chất và tiền đề xã hội cao cho sự phủ định đối với chủ
nghĩa tư bản.
ChươngII
Vận dụng lý luận tích luỹ tư bản
vào thực tiễn Việt Nam
I. Vai trò tích luỹ vốn ở Việt nam
1. Tích tụ và tập trung vốn trong nước
Thành quả của những quốc gia phát triển nhanh trên thế giới đã khẳng định một
điều rằng tích tụ và tập trung vốn trong nước có một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá
trình tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia. Đó là động lực, là cơ sở cho sự thăng tiến
của cả nền kinh tế, từ đó mở ra những hướng đi mới cho các ngành, các lĩnh vực hoạt
động có hiệu quả hơn. ở việt Nam, tốc độ tăng trưởng của công nghiệp nói riêng và của
cả nền kinh tế nói chung trong tương lai tất nhiên chủ yếu vẫn phải dựa vào lượng đầu tư
lớn. Chỉ trên cơ sở có một lượng đầu tư mạnh từ việc tích luỹ nội bộ nền kinh tế, thông
qua quá trình tích tụ và tập trung vốn của các doanh nghiệp cũng như của cả cộng đồng
dân cư, từ đó mới có thể trang bị cho ngành công nghiệp có kĩ thuật cao, sử dụng nhiều
nhân công và khai thác một cách hữu hiệu các nguồn tài nguyên của đất nước.
Khái niệm vốn trong nước đó là toàn bộ những yếu tố cần thiết để cấu thành quá
trình sản xuất -kinh doanh được hình thành nên từ các nguồn lực kinh tế và sản phẩm
thặng dư của nhân dân lao động qua nhiều thế hệ trong mỗi gia đình, mỗi doanh nghiệp
và cả quốc gia.
Vốn hiểu theo nghĩa hẹp đó là tiềm lực về tài chính của mỗi cá nhân, mỗi doanh
nghiệp và mỗi quốc gia. Còn vốn được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nguồn nhân lực,
nguồn tài lực, chất xám, tiền bạc và cả quan hệ đã tích luỹ của một cá nhân, một doanh
nghiệp hay một quốc gia. Vì thế, việc tích tụ và tập trung nguồn vốn nói chung là cực kỳ
cần thiết cho sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Trong thời gian sắp
tới đây chúng ta phải tìm ra các biện pháp khả thi, tối ưu nhất để tăng cường tích tụ và tập
trung vốn nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn theo nghĩa rộng để phát triển kinh tế.
Kinh nghiệm của các quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Singapore... là những
ví dụ điển hình. Việt Nam muốn đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá -hiện đại hoá nền
kinh tế cần huy động tối đa không chỉ nguồn vốn tiền mặt còn nằm rải rác trong dân cư
mà còn cần phải huy động các nguồn tài lực, những kinh nghiệm quản lý, và tất cả các
quan hệ bang giao cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế.
Các nhân tố cấu thành vốn trong nước bao gồm: Vốn tiền tệ, các dạngcủa cải, vốn
con người, vốn tư liệu sản xuất, các quan hệ trong nền kinh tế thị trường... Trong đó vốn
tiền tệ là điểm xuất phát được ứng ra để chuyển hoá thành các yếu tố của quá trình sản
xuất kinh doanh nhằm tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá và làm gia tăng giá trị. Bất cứ một
quá trình sản xuất nào dù ở cấp độ gia đình, doanh nghiệp hay cấp độ quốc gia cũng đều
cần một lượng vốn tiền tệ ứng ra đủ một số lượng cần thiết để mua sắm các yếu tố cấu
thành quá trình sản xuất, mới có thể tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh trong hiện
tại. Điều đó nói lên rằng mỗi doanh nghiệp cũng như cả quốc gia cần phải có một lượng
vốn nhất định dưới dạng tiền tệ, dưới dạng tài nguyên đã được khai thác, hoặc một lượng
của cải nhất định của các thế hệ trước, hoặc một số lượng nhất định sở hữu về trí tuệ, bản
quyền phát minh... Ngày nay các nguồn vốn đó có thể chuyển hoá cho nhau và biến thành
tiền mặt trong những điều kiện nhất định. Hiện nay chúng ta đang thiếu nhiều vốn tiền
mặt nhưng bù lại chúng ta có một đội ngũ đông đảo người lao động có trình độ và tay
nghề cao. Vấn đề là chúng ta phải biết biến nguồn nhân lực quan trọng này thành của cải
và tiền mặt để phát triển kinh tế. Thực hiện điều đó bằng cách tập trung đào tạo nguồn
nhân lực ở một trình độ cao hơn, tìm tòi những thành tựu mới về khoa học –công nghệ,
khoa học quản lý và những kinh nghiệm quý giá mà loài người đã tích luỹ được từ trước.
Vậy làm thế nào để nguồn lực của hơn 70 triệu người thành một nguồn vốn hữu hiệu cho
tăng trưởng?Trước hết chúng ta phải biết sử dụng có hiệu quả nguồn tiền mặt hiện có và
ưu tiên cho đầu tư phát triển chứ không phải cho tiêu xài cá nhân. Thứ hai là phải sử
dụng có hiệu quả nguồn thời gian của cộng đồng dân cư. Chính quỹ thời gian từ nay đến
năn 2020-là thời điểm mà chúng ta dự định sẽ hoàn thành quá trình công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đó không còn nhiều. Chúng ta chỉ có thể hi vọng vượt lên dòng thời cuộc khi
chúng ta biết tiết kiệm thời gian. Làm được như vậy thì vốn thời gian sẽ biến thành vốn
tiền mặtlớn gấp nhiều lần so với việc chúng ta cứ hoạt động, làm việc với một tốc độ
chậm chạp như hiện nay. Tương tự như vậy cách sử dụng tài năng của mỗi con người
cũng pphải có cách nhìn nhận, đánh giá, cất nhắc một cách linh hoạt thực sự.
Qua đó ta thấy rằng các yếu tố cấu thành vốn trong nước có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau và trong những điều kiện cần thiết các nhân tố này có thể chuyển hoá và thay
thế lẫn nhau. Điều quan trọng nhất là phải tìm ra cấu trúc một cách hiệu quả nhất các
nhân tố của quá trình sản xuất để sao cho mỗi đồng vốn trong nước sẽ tạo ra nhiều của
cải nhất cho xã hội.
Việc xác định mục tiêu tích tụ và tập trung vốn trong nước phải do yêu cầu thực tiễn
đòi hỏi. Trong mỗi giai đoạn nếu xuất hiện nhiều mục tiêu thì phải biết cân đối, kết hợp
thực hiện, trong đó phải coi các mục tiêu kinh tế là cơ sở có tính quyết định.
2. Vai trò của tích luỹ vốn
2. 1. Đối với sự tăng trưởng, phát triển kinh tế
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tích tụ và tập trung vốn rất chặt chẽ. Sự
tăng trưởng vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của tích tụ và tập trung vốn. Khi nền kinh
tế đạt được tăng trưởng cao, mức sống của người dân thay đổi nhanh chóng thì người dân
lại quan tâm nhiều hơn đến việc tích luỹ cho cuộc sống sau này. Quá trình tích luỹ sẽ diễn
ra với tốc độ nhanh chóng và khối lượng vốn được tích luỹ ngày càng lớn. Ngược lại quá
trình tích tụ và tập trung vốn lại là đòn bẩy cho sự tăng trưởng của nền kinh tế. Tích tụ và
tập trung vốn càng nhiều, thì quy mô vốn đầu tư càng lớn cho các hoạt động kinh tế diễn
ra được nhanh chóng. Do đó, con đường tích tụ và tập trung vốn trong nước có hiệu quả
là bài toán cần tháo gỡ đầu tiên để tăng tốc nền kinh tế Việt Nam. Chừng nào các nguồn
lực: tiền bạc, của cải, đất đai, tài nguyên, trí tuệ của con người... được tập trung tối đa vào
dòng chảy của đầu tư để sản sinh ra những dòng lợi nhuận mới cao gấp nhiều lần số vốn
ban đầu, thì chừng đó mỗi doanh nghiệp hay cả quốc gia chúng ta mới có thể đạt được
những bước phát triển vượt bậc về kinh tế. Chính vì vốn có vai trò quyết định trong việc
tạo ra mọi của cải vật chất và những tiến bộ xã hội, vì thế nó là nhân tố vô cùng quan
trọng để thực hiện quá trình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển cơ sở hạ tầng,
chuyển dịch cơ cấu và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhờ đó, đời sống nhân dân
ngày một nâng cao, các nguồn lực về con người, tài nguyên và các mối bang giao cũng
được khai thác có hiệu quả hơn. Từ đó, tácđộng mạnh đến cơ cấu kinh tế của đất nước
được chuyển dịch nhanh chóng theo hướng công nghiệp hoá -hiện đại hoá, làm cho nền
kinh tế có các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ cao và hướng mạnh về xuất
khẩu. Chính điều đó đã dẫn tới nền kinh tế sẽ có tốc độ tăng trưởngcao và ổn định.
Việt Nam sẽ có tốc độ tăng trưởng như thế nào trong những thập niên tới, một phần
tuỳ thuộc vào tỷ lệ GDP được dành cho đầu tư đạt mức cao, trong khi đó lượng đầu tư
cần thiết để tăng thêm mỗi đồng sản phẩm lại phải nhỏ. Theo các chuyên gia nước ngoài
đánh giá, họ cũng cho rằng “Phần lớn chứ không phải là tất cả vốn đầu tư là bắt nguồn từ
tích luỹ trong nước ”. Tăng trưởng kinh tế đến lượt nó lại là cơ sở cho việc tăng lượng
vốn đầu tư đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhanh hơn. Nhiều
chuyên gia quốc tế cho rằng Việt Nam muốn phát triển đạt tốc độ theo hướng rồng bay
thì phải nỗ lực huy động tích luỹ trong nước tăng cường nó có hiệu quả với vốn nước
ngoài và đầu tư phải có hiệu quả cao để hệ số ICOR chỉ ở mức 2, 5 và mức tăng trưởng
phải ít nhất là trên 8% một năm như vậy thì thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam
có thể tăng gấp 4-5 lần trong vòng một thế hệ. Việt Nam có thể lựa chọn các tình huống
tăng trưởng tuỳ theo mức tích luỹ trong nước và mức đầu tư trên GDP cũng như hiệu suất
sử dụng vốn.
Sau hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế đã có nhiều chuyển biến quan trọng và đạt
được những thành tựu to lớn, nhưng chúng ta vẫn là nước nghèo, mức sống vẫn còn thấp,
tích tụ và tập trung vốn trong nội bộ nền kinh tế còn quá thấp. Trong khi đó nhu cầu vốn
đầu tư cho cả nền kinh tế nói chung và cho việc phát triển công nghiệp nói riêng rất lớn
và cấp bách. Theo nhiều số liệu thống kê cho biết tổng số vốn đầu tư phát triển của toàn
xã hội năm 1995 khoảng 62000 tỷ đồng tăng 19% so với năm trước trong đó nguồn vốn
do các doanh nghiệp tự đầu tư là hơn 5000 tỷ đồng, nhân dân và các công ty tư nhân đầu
tư khoảng 16000 tỷ đồng..Vì thế, để đạt được một tốc độ tăng trưởng cao trong những
năm tới thì chúng ta phải tập trung được nguồn vốn nội địa một cách triệt để hơn từ
những nguồn vốn tiết kiệm của Nhà nước, các doanh nghiệp và từ mọi người dân. Nếu
tìm cách huy động được nguồn vốn tích luỹ hiện không sinh lời này(vàng, ngoại tệ
mạnh..) thì tỷ lệ tích luỹ sẽ tăng song song với mức đầu tư. Nguồn vốn này sẽ tạo đà cho
sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và mức tăng trưởng đạt hiệu quả cao nhất.
2. 2. Đối với quá trình công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước.
Trong đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do Đại hội VIII của Đảng
đề ra, vấn đề tích luỹ vốn và sử dụng vốn để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá có
tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn.
Ai cũng biết rằng để CNH-HĐH cần phải có vốn và thời gian. Chủ nghĩa tư bản
phải hàng trăm năm phát triển công nghiệp mới đi vào hiện đại hoá nền sản xuất xã hội.
Trong quá trình phát triển suốt gần một thế kỷ, CNTB phải tích luỹ vốn từ công nghiệp
nhẹ, bóc lột lao động thặng dư, bần cùng hoá giai cấp công nhân và nông dân, xâm lược
cướp bóc thuộc địa mới cho ra đời được một số ngành công nghiệp nặng, rồi từ đó tạo ra
cơ sở vật chất, kỹ thuật quan trọng nhất để tiến hành CNH-HĐH nền kinh tế. Liên xô
trước đây, từ một nước phát triển công nghiệp vào loại trung bình cũng phải hàng chục
năm tích luỹ vốn từ sản xuất, tiết kiệm tiêu dùng để thực hiện công nghiệp hoá.
Hiện nay, chúng ta tiến hành CNH-HĐH tuy tình hình thế giới đã khác trước, nền
kinh tế xã hội của đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng nhưng nước ta vẫn còn nghèo,
chậm phát triển thì vấn đề tích luỹ vốn và sử dụng vốn cho CNH-HĐH là vấn đề có tầm
quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa tiên quyết đối với toàn bộ quá trình xây dựng “cái cốt vật
chất kỹ thuật”của CNXH ở nước ta. Cần nói rõ thêm trong đường lối CNH-HĐH, từ
trước đến nay Đảng ta luôn chủ trương tự chủ tự lực cánh sinh xây dựng, phát triển kinh
tế công nghiệp, tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế.
Sau nhiều thập kỷ xây dựng và phát triển kinh tế, nhất là sau hơn 10 năm đổi mới,
nền kinh tế đất nước đã có những khởi sắc, tốc độ tăng trưởng khá, sản xuất phát triển, có
tích luỹ từ nội bộ, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Đảng ta nhận định nước ta đã có những tiền đề cần thiết để đẩy mạnh CNH-HĐH
đất nước. Là một nước nông nghiệp, Đảng ta xác địnhmột nguồn vốn lớn cho CNH ở
nước ta là tích luỹ từ nông nghiệp. Với hơn 80% dân số sống bằng nông nghiệp, ở nông
thôn và đây là thị trường rộng lớn, lâu dài của công nghiệp, nguồn cung cấp lương thực
và nhân lực cho sự phát triển công nghiệp. Trước hết phát triển công nghiệp, CNH-HĐH
vẫn phải dưa trên cơ sở, nền tảng phát triển nông nghiệp toàn diện, hướng công nghiệp
phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Gắn liền với phát triển nông lâm, ngư nghiệp
một nền nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, bền vững năng suất cao, chất lượng
hàng hoá tốt, có vị trí trên thị trường khu vực và quốc tế là phát triển tiểu thủ công nghiệp
và phát triển những ngành công nghiệp nhẹ sản xuất các mặt hàng thiết yếu đáp ứng nhu
cầu trong nước và hướng ra thị trường bên ngoài làm hàng xuất khẩu có giá trị. Chính sự
phát triển của tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ sẽ thu hút lao động xã hội, giải
quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân và tạo ra nguồn vốn để thực hiện CNH-HĐH
trước mắt cũng như lâu dài về sau.
Các ngành kinh tế mang ý nghĩa xương sống như điện lực, dầu khí, bưu điện, giao
thông, vật liệu xây dựng, dệt may, chế biến... đang dần được phát huy tác dụng, tạo
nguồn vốn tích luỹ lớn để chúng ta tiếp tục thực hiện sự nghiệpCNH-HĐH nền kinh tế
đất nước.
Các nguồn lợi khác thu được từ các ngành kinh tế mới như du lịch, dịch vụ, khai
thác... cũng là nguồn vốn cần tập trung để xây dựng phát triển các công trình kinh tế công
nghiệp phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH theo một kế hoạch định hướng thống nhất của
Nhà nước .
CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân, do dân và vì dân. Nếu trước đây khi tiến
hành công nghiệp hoá, trong quan niệm và trong chỉ đạo, điều hành, thực hiện mức tập
trung chủ yếu vào các đơn vị kinh tế quốc doanh thì giờ đây CNH-HĐH phải do toàn dân
làm trong đó kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai trò chủ đạo làm nòng cốt. Do
vậy, vấn đề tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá cũng phải xuất phát từ quan điểm mới đó.
Phải bằng mọi cách tuyên truyền có chính sách kinh tế thu hút mọi nguồn vốn từ trong
nhân dân. Làm sao để mỗi đồng tiền nhàn rỗi của người dân đều được huy động cho sự
nghiệp to lớn, vĩ đại này. Các thành phần kinh tế khác ngoài kinh tế Nhà nước và kinh tế
tập thể cũng phải đóng góp vốn thông qua các chính sách điều tiết của Nhà nước. Đồng
thời các cơ sở kinh tế, các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế đó cũng tự tích luỹ
vốn, đổi mới thiết bị và công nghệ, đi vào CNH-HĐH.
Những kinh nghiệm trong nước và quốc tế đã chỉ ra rằng :Các nguồn vốn bên ngoài
(nguồn vốn vay, nguồn vốn trong hợp tác, liên doanh với nước ngoài, viện trợ... ) là rất
quan trọng, nhất là ở giai đoạn đầu của quá trình CNH-HĐH, khi nguồn vốn tích luỹ
trong nước còn chưa được huy động hiệu quả. Vì thế nhiều quốc gia đã tìm cách mở cửa
với thế giới bên ngoài, gọi tư bản nước ngoài đầu tư vào trong nước... Có quốc gia thì
khuyến khích buôn bán với nước ngoài để thu nguồn ngoại tệ quan trọng cho quá trình
phát triển công nghiệp. Nhưng nguồn vốn trong nước vẫn đóng vai trò quyết định, bởi vì
nguồn vốn từ bên ngoài dù có lớn đến mấy nếu không có các nguồn đầu tư do sự tích luỹ
từ bên trong thì nguồn vốn bên ngoài cũng không thể sử dụng có hiệu quả. Chính vì thế
chúng ta phải đề cao tầm quan trọng có tính chất quyết định của tích tụ và tập trung vốn
trong nước. Phải nói rằng đi vay là phải trả cả vốn lẫn lãi với rất nhiều điều kiện ràng
buộc từ phía bên ngoài. Vì thế, bằng mọi biện pháp và hình thức phù hợp, linh hoạt để ra
sức đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn cho CNH-HĐH trong đó “vốn trong
nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng”.
Vốn cho sản xuất nói chung tích luỹ vốn cho công cuộc CNH-HĐH nói riêng, suy
cho cùng là nguồn giá trị thặng dư tích luỹ được từ lao động xã hội và của cải tài nguyên
khai thác được. Đất nước ta có nguồn tài nguyên rất phong phú, cần có kế hoạch khai
thác, sử dụng có hiệu quả để có vốn cho phát triển kinh tế. Song nguồn vốn quan trọng
nhất là lao động thặng dư của toàn xã hội. Muốn có giá trị thặng dư từ lao động xã hội để
tích luỹ trong điều kiện một nước nghèo, kinh tế chậm phát triển, chúng ta không còn
cách nào khác là phải tạo ra năng suất lao động cao và thực hành tiết kiệm. Trong lĩnh
vực này, Đảng ta chủ trương là phải giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu
dùng giữa xây dựng, phát triển kinh tế với cải thiện nâng cao đời sống nhân dân.
Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là tiết kiệm lớn nhất để tạo
ra nguồn vốn tích luỹ cho sản xuất trong nước phát triển.
Về mặt chiến lược chính sách huy động vốn như trên là đúng đắn, nhưng về mặt
sách lược trong giai đoạn trước mắt khi thu nhập quốc dân theo bình quân đầu người còn
thấp, khả năng tích tụ và tập trung vốn trong nước còn có hạn thì chúng ta cần coi trọng
cả nguồn vốn trong nước lẫn nguồn vốn bên ngoài. Do đó phải tận dụng khả năng để thu
hút tối đa các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, không nên có một cái nhìn máy móc đòi
hỏi tỷ lệ vốn đó phải thế này thế kia. Cần phải có một cái nhìn biện chứng để thấy rằng
vào những lúc và những nơi cụ thể đối với một số công trình nhất định chúng ta có thể và
cần phải dựa vào vốn đầu tư của nước ngoài nhiều hơn mặc dù nguồn vốn đó có những
mức lãi suất nặng, nhẹ khác nhau. Như vậy trong quá trình tạo các tiền đề cho CNH-
HĐH cũng như để triển khai công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể thiếu vai trò của
vốn. Mặt khác, muốn phát huy nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo bồi dưỡng nhân
tài để phát huy tối đa cho công cuộc CNH-HĐH cũng cần phải có vốn đầu tư cao cho sự
nghiệp giáo dục, đẩy nhanh ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất, cũng
như việc xây dựng cơ sở hạ tầng càng không thể thiếu vai trò của vốn. Cho nên suy đến
cùng nguồn vốn trong nước vẫn là quyết định sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
phải được tiến hành bằng của cải cộng với sức lực và trí tuệ của nhân dân ta là chính.
II. Thực trạng và giải pháp quá trình tích luỹ vốn của Việt Nam
1. Thực trạng quá trình tích luỹ vốn của Việt Nam
Trước đây, trong nền kinh tế bao cấp, chỉ huy khi mà cuộc sống của người dân còn
vô cùng khó khăn, tiêu dùng còn thiếu thốn thì quá trình tích luỹ vốn còn gặp rất nhiều
trở ngại. Mặt khác Nhà nước lại can thiệp quá sâu vào nền kinh tế dẫn đến việc các tổ
chức doanh nghiệp không thể phát huy hết được khả năng tham gia vào thị trường của
mình. Việc điều chỉnh mang nặng tính chỉ huy của Nhà nước làm cho nhiệm vụ tích tụ và
tập trung vốn không đạt được hiệu quả đặt ra. Người dân phải lo tiêu dùng từng ngày nên
không thể chú trọng vào việc tích luỹ. Nguồn vốn viện trợ của nước ngoài lại chứa đựng
nhiều yếu tố chính trị nên không được phát huy hết khả năng vốn có của nó. Các chủ
doanh nghiệp chưa dám mạnh dạn đầu tư vì khả năng rủi ro cao, đồng tiền không ổn
định, thị trường chưa đảm bảo được tính chất cạnh tranh vốn có của nó.
Từ khi chuyển đổi cải cách nền kinh tế nhìn chung đời sống nhân dân đã được cải
thiện rõ rệt, tổng thu nhập quốc dân tăng nhanh, thị trường hàng hoá phong phú và sôi
động hẳn lên... những thành quả đạt được đó là không thể nghi ngờ.
Tuy nhiên những gì mà chúng ta đạt được vẫn còn quá nhỏ bé. So với thế giới, nền
kinh tế của ta vẫn còn lạc hậu, kém phát triển. Vậy nguyên nhân là ở đâu?
Chúng ta thấy rằng tiềm năng tiềm năng trong dân còn rất lớn nhưng tỷ lệ tiết kiệm
và đầu tư còn thấp, nhiều hộ gia đình và không ít những doanh nghiệp còn đầu tư chưa có
hiệu quả, nguồn vốn vẫn không luân chuyển được từ nơi thừa đến nơi thiếu. Đầu tư của
Nhà nước tuy đã tăng lên nhưng còn dàn trải, còn lãng phí, thị trường tiền tệ, thị trường
vốn còn chậm phát triển, lãi suất tín dụng chưa phù hợp với việc đẩy mạnh quá trình tích
tụ và tập trung vốn, vì thế còn hạn chế đầu tư phát triển. Các hình thức tích tụ và tập
trung vốn chưa tạo ra sức hấp dẫn với người có vốn và hệ số sử dụng vốn trong nền kinh
tế còn thấp. Việc tích tụ và tập trung vốn từ các thành phần kinh tế ngoài ngân sách còn
chậm và chưa đồng bộ. Hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng trung gian phục vụ cho
việc giao lưu nguồn vốn tích luỹ giữa những người có tiền nhàn rỗi với các đơn vị sản
xuất kinh doanh còn chưa có tác động tích cực mạnh mẽ. Đặc biệt là các chính sách tài
chính tiền tệ chưa giải quyết đúng và trúng các vấn đề bức xúc của nền kinh tế. Do đó nó
chưa thực sự trở thành đòn bẩy có hiệu quả trong điều khiển kinh tế vĩ mô, nhằm thúc
đẩy sản xuất, tạo và nuôi dưỡng nguồn thu, chống thất thu thuế....ở giai đoạn này đáng ra
ngân hàng phải trở thành trung tâm thanh toán và tín dụng của xã hội thì nó lại chưa đảm
nhận được vai trò quan trọng đó. Ngoài ra ở giai đoạn này còn thiếu vắng nhiều giải pháp
tích tụ và tập trung vốn hữu hiệu, trong đó có công cụ thị trường chứng khoán. Việc quản
lý và sử dụng vốn đầu tư còn phân tán, không tập trung tối đa vốn tiền mặt cũng ngư
nhân tài vật lực để giải quyết với tốc độ nhanh các công trình thiết yếu mang tính chất
“xương sống” của nền kinh tế, vẫn còn nhiều lãng phí và kém hiệu quả. Điều quan trọng
là chúng ta chưa tạo ra được một phong trào tiết kiệm thực sự ăn sâu vào suy nghĩ và
hành động của mỗi người dân, mỗi công sở và mỗi doanh nghiệp. Hệ thống hành chính
nói chung còn lắm thủ tục phiền hà, vì thế người dân còn chưa hăng hái bỏ tiền ra đầu tư
sản xuất kinh doanh nói chung và đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp nói riêng. Thị
trườngchứng khoán nói chung còn đang trong thời kỳ sơ khai nên chưa có hiệu quả tích
cực. Quy mô nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách hiện nay còn hết sức nhỏ bé do mức thu
nhập thực tế của Việt nam còn thấp, các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất đã
chưa đủ sức hấp dẫn thu hút dân chúng bỏ vốn vào sản xuất thay cho việc tiêu dùng cá
nhân. Mặt khác nạn lãng phí và tiêu dùng quá mức so với điều kiện và với những kết quả
đạt được còn quá khiêm tốn của nền kinh tế, trong cán bộ Đảng viên, trong một bộ phận,
tầng lớp dân cư là rất đáng báo động. Hàng nghìn, hàng chục tỷ đồng bị thất toát do tham
ô lãng phí trong xây dựng, mua sắm thiết bị tiêu dùng đắt tiền... Đây thật sự là một tội ác
hết sức nguy hiểm trong khi đất nước còn nghèo, dân còn khổ, khi mà toàn Đảng, toàn
dân đang dồn mọi nỗ lực, tiết kiệm từng đồng xu, từng giờ để tích luỹ vốn, tái sản xuất,
tạo vốn để tiến hành CNH-HĐH.
Do đó những nhà quản lý kinh tế cần tiếp tục nghiên cứu để tìm ra các giải pháp
tích tụ và tập trung vốn đạt hiệu quả cao nhất, đáp ứng được yêu cầu về vốn cho sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ở Việt nam.
2. Những giải pháp tăng cường tích luỹ vốn ở Việt nam
Mục đích của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa : “ CNXH là làm nhằm nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần văn hoá cho mọi người dân sung sướng, ấm no”. Trong điều kiện
nước ta, từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH chúng ta không còn cách nào khác là một mặt phải
huy động toàn bộ sức lực của mọi người, mọi ngành mọi cấp để tăng gia sản xuất thúc
đẩy sản xuất phát triển ; mặt khác, phải triệt để tiết kiệm nhằm tích luỹ vốn từ nội bộ nền
kinh tế nước ta cho sự nghiệp xây dựng phát triển nền kinh tế sản xuất lớn XHCN.
2. 1. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích luỹ - tiêu dùng
Vì mục tieu của xã hội XHCN là không ngừng tái sản xuất mở rộng, tăng thêm sản
phẩm xã hội, nâng cao mức sống của người dân lao động mà chúng ta cần phải xác định
cho được giữa quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng. Tỷ lệ cụ thể giữa tích luỹ và tiêu dùng phụ
thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong xã
hội, hiệu quả của kỹ thuật mới sử dụng hợp lý các nguồn vật tư, lao động và các yếu tố
khác nữa.
Tương quan giữa tích luỹ và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử dụng đươc các tài
sản hiện có, thực hiện được mức tích luỹ có thể đảm bảo phát triển sản xuất với tốc độ
cao và ổn định mà cuối cùng vẫn đảm bảo tăng tiêu dùng và tích luỹ không đến mức cao
nhất. Vởi tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng sắp xếp như thế nào là thích đáng?Tỷ lệ này có
phải cố định không và dựa trên nguyên tắc nào để sắp xếp tỷ lệ đó?Đây là vấn đề trung
tâm của việc phân phối xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện cụ thể mối quan hệ giữa xây dựng
kinh tế và cải thiện đời sống giữa lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, giữa lợi ích của
nhân dân và lợi ích của toàn xã hội... Việc phân chia tỷ lệ này không cố định mà thay đổi
tuỳ thuộc vào nhu cầu của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Đồng thời chúng ta
phải không ngừng khuyến khích tất cả mọi người dân đều ra sức tiết kiêm, tích luỹ. Như
vậy có thể nói tỷ lệ giữa tíh luỹ và tiêu dùng không chỉ đơn thuần là tỷ lệ về kinh tế mà là
thể hiện đường lối chính sách của Đảng trong từng thời kỳ nhất định.
2. 2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn
Để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, trước hết chúng ta phải xác định rõ từng đối
tượng được cấp vốn, từ đó phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý cho các ngành nhằm tạo
ra hiệu quả sử dụng vốn cao hơn.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ không nên cấp vốn toàn bộ mà nên
tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp, nhờ vậy doanh nghiệp sẽ có trách nhiệm hơn với
đồng vốn của mình, đồng thời chính nhờ có cổ phần hoá mà tạo điều kiện cho các chủ
doanh nghiệp phát huy mọi năng lực cũng như khả năng quản lý của họ từ đó sẽ nâng cao
rất nhiều hiệu quả sử dụng vốn.
Việc đồng vốn có được sử dụng hiệu quả hay không một phần lớn phụ thuộc vào
yếu tố con người. Vì thế cần phải có một đội ngủ cán bộ quản lý có trình độ năng lực và
trách nhiệm cao. Đồng thời nhà nước cũng cần phải xem xét lại mô hình tổ chức quản lý,
chú ý đến đội ngũ cán bộ, tạo diều kiện thuận lợi nhất cho họ có thể phát huy mọi năng
lực của mình. Đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt nguồn vốn FDI trong khu
vực cũng như trên thế giới thì việc thiết lập một cơ chế tổ chức gọn nhẹ không chồng
chéo có hiêu quả cũng tạo ra khả năng cạnh tranh lớn.
2. 3. Tăng cường tích luỹ vốn trong nước và có biện pháp thu hút vốn đầu tư
nước ngoài
Tích luỹ vốn trong nước có nhiều giải pháp nhưng giải pháp hàng đầu là nguồn vốn
từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn này sẽ đóng vai trò quan trọng để giải quyết các nhu
cầu chi của nhà nước về chi thường xuyên, chi cho đầu tư phát triển và cho phát triển
công nghiệp. Vì vậy nâng cao hiệu quả tích luỹ, tích tụ và tập trung vốn qua ngân sách
nhà nước là hết sức cấp bách và có ý nghĩa thực tiễn lớn lao.
Một biện pháp để tăng cường lượng vốn là thông qua các tổ chức tín dụng và ngân
hàng. Đây là hai hình thức tích luỹ vốn có hiệu quả tương đối cao do có thể thu hút được
vốn còn nhàn dỗi trong nhân dân. Để thực hiện được ngày càng tốt các nghiệp vụ của
mình, một mặt ngân hàng cần phải tự đổi mới phương thức phục vụ khách hàng mở rộng
các hình thức tiết kiệm qua bưu điện cải tiến các thủ tục đảm bảo an toàn bí mật và ổn
định cho tiền gửi của khách hàng, đồng thời chính phủ cũng cần có biện pháp nâng cao
lãi suất nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn nhàn dỗi trong dân. Đặc biệt là hệ thống ngân
hàng cần phối hợp chặt chẽ với các quỹ tín dụng nhân dân để tích tụ và tập trung vốn
được thuận tiện. Chúng ta có thể huy động vốn cả qua các công ty bảo hiểm, công ty sổ
xố kiến thiết, qua sự tài trợ của các nhà doanh nghiệp, các quỹ từ thiện, quỹ hỗ trợ,... Mặt
khác, việc tích tụ và tập trung các nguồn vốn trong nước từ các nguồn tài nguyên quốc
gia và từ những tài sản công còn bỏ phí vừa là mục tiêu vừa là biện pháp cơ bản trước
mắt và lâu dài để chúng ta tăng thêm nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển. Cần
nghiên cứu lại các quy định về đất và quyền sử dụng đất kết hợp hài hoà với các tổ chức
thị trường liên quan. Trong thời gian tới phải tìm cách để khai thác cao nhất hiệu quả nhất
nguồn vốn từ tài sản công. Đó là cơ sở vật chất trực tiếp sẵn có mà chúng ta có thể huy
động bằng cả hiện vật hoặc huy động bằng tiền trở thành nguồn thu trực tiếp của ngân
sách Nhà nước là cơ sở ban đầu cần thiết để gọi vốn đầu tư nước ngoài.
Và một biện pháp mới được áp dụng ở nước ta hiện nay là thu hút vốn thông qua thị
trường chứng khoán. Đây là hình thức tích tụ và tập trung vốn rất có hiệu quả đang được
các nước phát triển áp dụng. Tuy nhiên để có thể phát triển thị trường chứng khoán trước
hết chúng ta phải tiến hành cổ phần hoá doang nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà
nước và đồng thời phải phát triển hệ thống ngân hàng thương mại. Chính thị trường
chứng khoán là một hình thức của thị trường vốn, và nếu thị trường chứng khoán hoạt
động tốt thì nó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế.
Ngoài nguồn vốn tích luỹ trong nước thì trong hoàn cảnh hiện nay khi nền kinh tế
mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì một nguồn vốn có vai trò đặc biệt quan
trọng khác là nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư
gián tiếp trong đó vốn đầu tư trực tiếp có ý nghĩa vô cùng lớn đối với sự phát triển của
nền kinh tế trong nước. Vì thế mà chúng ta cần phải có chính sách thu hút vốn đầu tư trực
tiếp, đặc biệt là vốn của các nước phát triển. Để thực hiện được chiến lược này cần phải
thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ của chính phủ trong đó một biện pháp quan trọng là
phải cải thiện môi trường đầu tư thích ứng với điều kiện cạnh tranh mới tạo sức hấp dẫn
cho các nhà đầu tư. Do vậy chúng ta phải nhanh chóng sửa đổi và bổ sung bộ luật đầu tư
nước ngoài cho phù hợp với tình hình mới hiện nay đảm bảo cho quyền lợi của nhà đầu
tư cũng như của chính chúng ta.
Kết luận
Như vậy việc nghiên cứu tích luỹ tư bản và việc vận dụng lí luận đó vào thực tiễn
Việt Nam là hoàn toàn cần thiết. Muốn cho sự nghiệp CNH-HĐH đạt được thành công
trước hết phải có vốn lớn. Mà điều đó chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện được bởi tiềm
năng vốn của Việt Nam là rất mạnh. Vấn đề mấu chốt ở đây là phải có những giải pháp
thích hợp nào có thể huy động nguồn vốn đó để sử dụng có hiệu quả nhất.
Nền kinh tế sẽ phát triển bền vững và liên tục tất nhiên điều đó chỉ có thể thực hiện
được khi cùng với những đổi thay mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, mỗi người dân, mỗi
doanh nghiệp …không chỉ biết làm giầu cho mình mà còn phải biết làm giầu cho toàn xã
hội. Qui luật cạnh tranh đã buộc bất cư một nhà doanh nghiệp nào cũng phải không
ngừng mở rộng vốn đầu tư để phát triển doanh nghiệp. Con đường duy nhất để mở rộng
vốn đầu tư của mình chính là con đường phải tích luỹ ngày càng nhiều hơn mà thôi. Vì
thế Nhà nước cần nuôi dưỡng khát vọng cho cả cộng đồng dân cư luôn biết say mê tích
luỹ để mở rộng đầu tư hơn là lòng thèm khát hưởng thụ. Cho nên hãy tích lũy đi nghĩa là
hãy biến một phần thật nhiều lợi nhuận trở thành vốn đầu tư. Mặt khác việc thu hút ngày
càng nhiều vốn đầu tư từ nước ngoài (FDI , ODA…. ) sẽ có tác động hỗ trợ rất lớn. Đó
chính là xa lộ dẫn đến sự giầu có của các cá nhân, các gia đình, các doanh nghiệp và cả
đất nước mà đối với Việt Nam thì đó là sự thành công của công cuộc CNH-HĐH đất
nước.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mac-Lênin .
2. Kinh tế học của P. A. Samuelson.
3. Tư bản-Quyển 1-Tập 3/ K. Marx.
4. Tạp chí Ngân hàng số 10-1996.
5. Thông tin tài chính số 10 –1998.
6. Thời báo kinh tế Việt nam 2000-2001.
7. Tích tụ và tập trung vốn trong nước /Trần Xuân Kiên.
8. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng.
mục lục
Chương I: Lý luận tích luỹ tư bản ..................................................................... 3
I. Bản chất và nguồn gốc của tích luỹ tư bản: ................................................................ 3
II. Những nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản ......................................... 4
III. Mối quan hệ Tích luỹ-Tích tụ- Tập trung tư bản. .................................................... 7
Chương II: Vận dụng lý luận tích luỹ tư bản
vào thực tiễn Việt Nam .................................................................... 8
I. Vai trò tích luỹ vốn ở Việt nam ..................................................................................... 8
1. Tích tụ và tập trung vốn trong nước ............................................................... 8
2. Vai trò của tích luỹ vốn ................................................................................. 10
II. Thực trạng và giải pháp quá trình tích luỹ vốn của Việt Nam .............................. 15
1. Thực trạng quá trình tích luỹ vốn của Việt Nam ......................................... 15
2. Những giải pháp tăng cường tích luỹ vốn ở Việt nam ................................ 17
Kết luận ......................................................................................................... 20
Tài liệu tham khảo ................................................................................................... 21
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Trình bày những lý luận chung về tích luỹ và ứng dụng những lý luận đó vào thực tiễn Việt nam.pdf