Luận văn Tốt nghiệp Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Công Thương Việt Nam

Tài liệu Luận văn Tốt nghiệp Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Công Thương Việt Nam: LUẬN VĂN Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Công Thương Việt Nam 1 CHƯƠNG 1: RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Rủi ro trong hoạt động của các NHTM: 1.1.1. Khái niệm về rủi ro trong hoạt động ngân hàng: Định nghĩa truyền thống: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là những biến cố không mong đợi xảy ra, gây mất mát, thiệt hại tài sản, thu nhập của ngân hàng trong quá trình hoạt động. Định nghĩa hiện đại: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là khả năng những sự kiện chưa chắc chắn trong tương lai sẽ làm cho chủ thể là các NHTM không thể đạt được những mục tiêu chiến lược và mục tiêu hoạt động, cũng như chi phí cơ hội của việc làm mất đi những cơ hội thị trường. 1.1.2. Phân loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng: Do đặc thù ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ ngân hàng theo Luật các TCTD nên tính chất hoạt động và rủi ro có những khác biệt so với các doanh n...

pdf72 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1226 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tốt nghiệp Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Công Thương Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Công Thương Việt Nam 1 CHƯƠNG 1: RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Rủi ro trong hoạt động của các NHTM: 1.1.1. Khái niệm về rủi ro trong hoạt động ngân hàng: Định nghĩa truyền thống: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là những biến cố không mong đợi xảy ra, gây mất mát, thiệt hại tài sản, thu nhập của ngân hàng trong quá trình hoạt động. Định nghĩa hiện đại: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là khả năng những sự kiện chưa chắc chắn trong tương lai sẽ làm cho chủ thể là các NHTM không thể đạt được những mục tiêu chiến lược và mục tiêu hoạt động, cũng như chi phí cơ hội của việc làm mất đi những cơ hội thị trường. 1.1.2. Phân loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng: Do đặc thù ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ ngân hàng theo Luật các TCTD nên tính chất hoạt động và rủi ro có những khác biệt so với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác. Có thể nói, hoạt động ngân hàng liên quan đến việc chấp nhận rủi ro chứ không phải né tránh rủi ro. Các NHTM cần đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro - lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp nhận. Các NHTM sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được, đồng thời nằm trong phạm vi, khả năng các nguồn lực tài chính và năng lực tín dụng của mình. Hoạt động kinh doanh của các NHTM không chỉ bao gồm nghiệp vụ huy động vốn và cấp tín dụng mà còn rất nhiều lĩnh vực hoạt động khác như bảo lãnh, kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, góp vốn liên doanh, dịch vụ thẻ... Chính vì vậy nên rủi ro trong hoạt động của các NHTM cũng rất đa dạng: - Rủi ro tín dụng: là rủi ro về sự tổn thất tài chính, phát sinh từ việc khách hàng đi vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc việc khách hàng mất khả năng thanh toán. Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán bao gồm cả phần gốc và lãi vay có thể bị trì hoãn, thậm chí là không được hoàn trả, và hậu quả là sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự luân 2 chuyển tiền tệ và sự bền vững của tính chất trung gian dễ bị tổn thương trong hoạt động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác như tài trợ thương mại, thấu chi, bao thanh toán… - Rủi ro lãi suất: là rủi ro làm giảm lợi nhuận ròng khi lãi suất biến động theo chiều hướng bất lợi. Rủi ro lãi suất xảy ra khi có sự chênh lệch giữa kỳ hạn bình quân của các tài sản và các khoản nợ của ngân hàng trong điều kiện lãi suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến của ngân hàng dẫn đến khả năng giảm thu nhập của ngân hàng so với dự tính. - Rủi ro thanh khoản: là rủi ro phát sinh chủ yếu từ xu hướng của các NHTM là huy động ngắn hạn và cho vay dài hạn, hay nói cách khác là rủi ro khi các NHTM không đáp ứng được cho các khoản phải trả khi đến hạn thanh toán do tài sản của ngân hàng không có khả năng thanh khoản hay không thể huy động vốn. Trường hợp này thường xảy ra nếu như các khoản huy động về mặt kỹ thuật sẽ phải hoàn trả theo yêu cầu của người gửi tiền. Đặc biệt, như chúng ta đã thấy trong bất cứ một cuộc khủng hoảng nào thì người gửi tiền sẽ rút tiền của mình ra nhanh hơn việc người đi vay sẵn sàng trả nợ. - Rủi ro ngoại hối: là rủi ro phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn của các khoản ngoại hối mà các NHTM đang nắm giữ, và vì thế làm cho các NHTM có thể phải gánh chịu thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến động. - Rủi ro hoạt động: là rủi ro liên quan đến công nghệ, cơ sở hạ tầng, quy trình, con người trong quá trình hoạt động kinh doanh ngân hàng, hay nói cách khác rủi ro hoạt động bao gồm toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh từ cách thức mà một NHTM điều hành các hoạt động của mình. - Rủi ro luật pháp: là rủi ro ngân hàng có thể bị khởi kiện vì để xảy ra những sai sót hoặc sự cố trong quá trình hoạt động kinh doanh gây thiệt hại cho khách hàng và đối tác. Rủi ro luật pháp mà các NHTM phải đối mặt có thể tiềm ẩn trong nhiều lĩnh vực kinh doanh. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro luật pháp có thể là do con người hoặc do công nghệ máy móc.Thậm chí, NHTM có thể gặp phải rủi ro luật pháp ngay cả khi ngân hàng không phải là bên gây thiệt hại. 3 - Rủi ro chiến lược: là rủi ro phát sinh từ những thay đổi trong môi trường hoạt động của các NHTM trên phạm vi rộng hơn về mặt kinh doanh và tài chính. Rủi ro chiến lược cũng có thể phát sinh từ các hoạt động của bản thân các NHTM. - Rủi ro uy tín: là rủi ro khi các NHTM bị dư luận đánh giá xấu, gây khó khăn nghiêm trọng cho hoạt động của ngân hàng trong việc tiếp cận nguồn vốn hoặc khách hàng rời bỏ ngân hàng. - Rủi ro thị trường: là loại rủi ro tổn thất tài sản, xảy ra khi lãi suất, tỷ giá hay giá cả thị trường biến động theo chiều hướng xấu. Nói cách khác, rủi ro thị trường xảy ra khi có sự thay đổi của các điều kiện thị trường hay những biến động của thị trường. 1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các NHTM: 1.2.1. Khái niệm về rủi ro tín dụng: Có nhiều định nghĩa về rủi ro tín dụng, theo Điều 2 “Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng” ban hành kèm theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN: rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. 1.2.2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng: 1.2.2.1. Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp: Tính chất đa dạng và phức tạp của rủi ro tín dụng biểu hiện ở sự đa dạng và phức tạp của các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, cũng như các hậu quả do rủi ro tín dụng gây ra. Nhận thức và vận dụng đặc điểm này, khi thực hiện phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng cần áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp, không chủ quan với bất cứ một dấu hiệu rủi ro nào. Bên cạnh đó, trong quá trình xử lý hậu quả rủi ro tín dụng cần xuất phát từ nguyên nhân, bản chất và hậu quả của rủi ro để đưa ra biện pháp phù hợp. 1.2.2.2. Rủi ro tín dụng có tính tất yếu: Các chuyên gia kinh tế đều cho rằng hoạt động kinh doanh ngân hàng thực chất là quản lý rủi ro (chủ yếu là rủi ro tín dụng) ở mức độ phù hợp để đạt được mức lợi 4 nhuận tương ứng. Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến rủi ro, đặc biệt do không thể có được thông tin cân xứng về việc sử dụng vốn vay cho hoạt động kinh doanh của khách hàng vay, nên bất cứ khoản cho vay nào cũng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro đối với hoạt động tín dụng của các NHTM. Vì vậy trong quá trình cấp tín dụng cho khách hàng, các NHTM cần chủ động có các biện pháp thích hợp để xác định rủi ro, định lượng rủi ro, quản lý rủi ro và kiểm soát rủi ro. 1.2.2.3. Rủi ro tín dụng có thể dự báo trước hoặc không thể dự báo: Các rủi ro có thể dự báo trước: danh mục cho vay hay đầu tư của một NHTM luôn luôn có một số khoản thất thoát tiềm tàng chưa được xác định. Tuy nhiên, nếu giả định rằng các đặc điểm chung của danh mục cho vay nhìn chung vẫn giống nhau trong một giai đoạn hợp lý thì các NHTM có thể dự báo các khoản thất thoát này với một mức độ tương đối chính xác bằng cách nghiên cứu các đặc điểm diễn biến của danh mục cho vay theo thời gian. Các rủi ro không thể dự báo trước: có nhiều sự kiện nằm ngoài tầm kiểm soát của các NHTM, các cú sốc ngoại sinh do các điều kiện chưa phát sinh tại thời điểm ký kết một thỏa thuận kinh doanh,...là những nguyên nhân có thể dẫn đến rủi ro mà các NHTM không thể dự báo trước. 1.2.3. Biểu hiện của rủi ro tín dụng: Vì rủi ro tín dụng là khả năng (xác suất) vỡ nợ của khách hàng nên: - Những khách hàng phá sản, lừa đảo, chây ỳ trong việc trả nợ là biểu hiện rõ nhất. - Bên cạnh đó, các khoản nợ không trả được khi đến hạn ở các cấp độ khác nhau cũng thể hiện các khả năng vỡ nợ khác nhau. Có nhiều tiêu chí phản ảnh rủi ro tín dụng của các NHTM như: - Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, trên vốn chủ sở hữu, trên quỹ dự phòng tổn thất. - Nợ đáng nghi ngờ (có vấn đề): khả năng chuyển thành nợ xấu cao. - Nợ không có tài sản bảo đảm. 1.2.4. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng: 1.2.4.1. Nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế và các cơ quan quản lý Nhà Nước: 5 + Xuất phát từ hệ thống thông tin: Thông tin tín dụng bao gồm thông tin lịch sử, thông tin hiện tại và xu hướng phát triển của khách hàng trong tương lai (gồm cả thông tin về tài chính và phi tài chính) và đặc biệt là các thông tin thống kê về các chỉ tiêu trung bình ngành phục vụ cho việc xếp loại khách hàng vay. Hiện nay, các NHTM không chỉ quan tâm đến việc hỏi tin về xếp hạng doanh nghiệp nhằm đánh giá khách hàng có quan hệ tín dụng mà còn sử dụng thông tin vào những mục đích khác như mở rộng đối tượng cho vay, thực hiện công tác marketing đến khách hàng truyền thống, khách hàng tiềm năng, và mở rộng thị phần trên thị trường. Tuy nhiên: - Hệ thống thông tin của Việt Nam hiện nay còn khá nhiều bất cập, Việt Nam chưa có cơ chế công bố thông tin đầy đủ. Trong thời gian qua, Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trực thuộc NHNN hoạt động đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp hoạt động một cách độc lập và hiệu quả. - Vai trò nối kết các NHTM của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) còn lỏng lẻo, chưa đạt được kết quả như mong muốn. Đây chính là thách thức cho các NHTM trong việc mở rộng và kiểm soát hoạt động tín dụng. Nếu các NHTM cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin bất cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu. + Xuất phát từ hệ thống văn bản luật: Về cơ bản, hoạt động tín dụng của các NHTM đã được Luật hoá trong các văn bản Luật và các văn bản pháp quy của Chính Phủ, NHNN. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, phân tích, đồng thời, đúc kết từ những trường hợp rủi ro trong thực tế hoạt động của các NHTM cho thấy vẫn còn những “lỗ hỏng” khá nguy hiểm, đó vừa là những nguyên nhân sâu xa, vừa là những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro tín dụng của các NHTM. 6 - Hoạt động tín dụng của các NHTM hiện nay chịu sự điều chỉnh, chi phối của khá hiều luật, văn bản dưới luật chồng chéo, không rõ ràng, không hợp lý, thiếu tính chặt chẽ và chưa thật sự hoàn chỉnh . - Chính Phủ thường xuyên ban hành mới các chính sách về thuế, về xuất nhập khẩu, hoặc các quy định về đất đai, nhà ở…Khi một chính sách bị thay đổi đột ngột sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, ảnh hưởng đến kế hoạch, cũng như khả năng dự báo sức tiêu thụ trên thị trường của các doanh nghiệp. Việc định hướng chiến lược sản xuất, kinh doanh không phù hợp, không chính xác sẽ dẫn đến sản xuất cung vượt cầu, hàng hóa khó tiêu thụ, giá bán hạ, thua lỗ, khách hàng sẽ không đảm bảo nguồn tiền trả nợ cho các NHTM. + Xuất phát từ công tác kiểm tra, thanh tra: - Hiện nay, bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của NHNN đối với các NHTM chưa thật sự có hiệu quả: - Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới thanh tra còn chưa nắm bắt kịp thời. - Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát còn lạc hậu, chậm được đổi mới, hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro và vi phạm. + Xuất phát từ các cơ quan ban ngành liên quan: Hoạt động của các cơ quan ban ngành có liên quan đến hoạt động tín dụng của các NHTM hiện nay có thể nói còn nhiều vấn đề cần bàn luận: - Quản lý doanh nghiệp còn lỏng lẻo, cấp phép tràn lan. - Công chứng tài sản thế chấp sai pháp luật. - Cơ quan thi hành án thông đồng với người thi hành án, trung tâm bán đấu giá tài sản thế chấp tiêu cực. - Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương: Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính Phủ, NHNN và các cơ quan ban ngành có liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy luật và các văn bản hướng dẫn đều đã được ban hành song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì 7 lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc. Các cơ quan pháp luật lại chậm chạp trong quá trình thực thi chức năng của mình. - Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng - Bộ Tài chính (DATC) hoạt động chưa hiệu quả. 1.2.4.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía các NHTM: + Xuất phát từ cán bộ quản lý, cán bộ tín dụng: Đạo đức của cán bộ tín dụng là một trong những yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ hạn chế về năng lực có thể được bồi dưỡng thêm để nâng cao trình độ, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật sự nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng. Điều này có thể nhận thấy qua các vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến hoạt động ngân hàng đều có sự tiếp tay của những cán bộ tín dụng cùng với khách hàng hoặc bản thân cán bộ tín dụng cố ý: - Thực hiện trái với qui trình tín dụng. - Trực tiếp thu nợ nhưng không nộp mà dùng cho mục đích cá nhân. - Lập hồ sơ giả để vay tiền cá nhân, nhờ người vay hộ,… - Tẩy xóa, sửa chữa chứng từ có giá để thế chấp vay tiền. - Định giá TSBĐ không đúng giá trị thực do thông đồng với khách hàng. Bên cạnh vấn đề đạo đức, năng lực, trình độ, kinh nghiệm của một bộ phận cán bộ tín dụng hiện nay chưa đáp ứng nhu cầu công việc. Điều này có thể thấy trong thực tế qua việc bố trí công việc chưa phù hợp với trình độ chuyên môn, bản thân từng cán bộ chưa có ý thức tự nâng cao nghiệp vụ. Ngoài ra có thể nhận thấy rõ nét nhất là công tác phân công cán bộ tín dụng quản lý khách hàng của các NHTM hiện nay không theo chuyên ngành kinh tế, từ đó dẫn đến việc: - Cán bộ tín dụng làm việc theo kiểu đa năng, không chuyên sâu vào một ngành nghề cụ thể nào nên không có nhiều kiến thức chuyên ngành. Khách hàng khi cung cấp các dự án, có nhiều thông số kỹ thuật máy móc chuyên ngành hoàn toàn xa lạ với cán bộ tín dụng. Thuê chuyên gia đánh giá đòi hỏi chi phí cao nên chủ yếu mà các ngân hàng thường làm trong những trường hợp này là tự tìm hiểu thông tin thông qua sách, báo, tạp chí chuyên ngành, qua mạng internet. 8 - Nếu cán bộ tín dụng không có kiến thức chuyên môn về chuyên ngành cần thẩm định sẽ đưa ra những đánh giá sai, gây bức xúc cho khách hàng hoặc ngược lại, khách hàng thông tin sai mà không biết, gây ra những quyết định sai lầm trong cho vay. Ngoài ra, sự gắn bó, nổ lực với công việc của một bộ phận cán bộ tín dụng cũng chưa được phát huy do chính sách tuyển dụng, sử dụng, phân công, bố trí công việc và vấn đề đãi ngộ của các NHTM (đặc biệt là các NHTMNN) chưa đủ sức thu hút. Thực tế hiện nay cho thấy do tác động của quá trình cạnh tranh, rất nhiều cán bộ tín dụng giỏi, nhiều kinh nghiệm của các NHTMNN đã được các NHTMCP, các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tuyển dụng vào những vị trí quan trọng với nhiều đãi ngộ. Nguồn nhân lực của các NHTMNN đã mỏng do quá trình mở rộng mạng lưới, lại ngày càng bị hao hụt do chính sách tuyển dụng, sử dụng, phân công, bố trí công việc, và vấn đề đãi ngộ chưa thật sự thu hút. + Xuất phát từ chính sách, quy trình tín dụng và sự vận dụng chính sách, quy trình tín dụng chưa nghiêm túc: Nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến chất lượng tín dụng của các NHTM đó là chính sách tín dụng. Tuy nhiên, chính sách tín dụng chỉ phát huy tác dụng khi được xây dựng trên cơ sở khách quan và sự nghiêm túc của việc ban hành và vận dụng. Thực tế, vẫn còn nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến chính sách tín dụng chưa thật sự hợp lý: - Chính sách tín dụng của các NHTM hiện nay phần lớn đều chưa đạt tầm chiến lược, chưa theo nguyên tắc thị trường, thậm chí còn bị cuốn theo các hội chứng, phong trào, khẩu hiệu phát triển kinh tế và theo chủ nghĩa thành tích. - Các NHTM hầu như chưa xây dựng được chính sách tín dụng khoa học, phù hợp thể hiện được quan điểm và chiến lược riêng. - Ngoài ra, các NHTM không có chiến lược phát triển rõ nét hay nói cách khác chưa quản trị về danh mục cho vay theo lĩnh vực sở trường. - Chính sách tín dụng với vấn đề lãi suất vẫn còn khá nhiều bất cập. 9 - Quy trình tín dụng thông thường được xác lập trên những quy định chung của pháp luật về ngân hàng và những đặc thù trong hoạt động của riêng mỗi ngân hàng. Thông thường, quy trình tín dụng được thống nhất qua các bước sau: THIẾT L ẬP Quy trình tín dụng nếu không phát huy được tác dụng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng quản lý rủi ro tín dụng. Trên thực tế, không phải quy trình tín dụng của các NHTM luôn đảm bảo tính hợp lý và chặt chẽ, biểu hiện như: - Thông tin cần phải thực hiện trong các bước của quy trình không được quy định chi tiết và đầy đủ, cũng như mối quan hệ giữa các bước chưa được nhận thức đúng đắn. - Trên thực tế, việc phân định rõ giữa khâu thẩm định và cho vay ở nhiều NHTM vẫn chưa thật sự tách biệt. Chỉ một vài ngân hàng đang tiến hành triển khai, áp dụng quy trình tín dụng mới với việc phân chia độc lập giữa ba chức năng: quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro và quản lý nợ. Tuy vậy, giữa mô hình phân chia cũ và mới, bên cạnh những ưu điểm vẫn tồn tại những hạn chế chưa thể khắc phục ảnh hưởng đến công tác quản lý rủi ro tín dụng. - Do sức ép cạnh tranh trong việc mở rộng thị phần tín dụng, trong quá trình vận dụng không ít NHTM đã bỏ qua các bước của quy trình, hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, không chú ý đúng mức đến tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ, nguồn trả nợ của khách hàng vay nên nảy sinh nhiều sai phạm: về điều kiện vay vốn, về việc lập hồ sơ vay vốn, về việc kiểm tra, quản lý nợ vay, về cơ cấu lại thời hạn trả nợ (điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ gốc và lãi). Việc nhận thức chưa đầy đủ và vận dụng chưa thật sự nghiêm túc của cán bộ tín dụng đối với các chính sách và quy trình tín dụng cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của các NHTM vì nếu nhận thức đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các quy THIẾT L ẬP HỒ SƠ KHÁCH HÀNG VAY THANH LÝ HỢP ĐỒNG VÀ XỬ LÝ TRANH CHẤP GIẢI NGÂN VÀ THU NỢ RA QUYẾT ĐỊNH VÀ KÝ HỢP ĐỒNG THẨM ĐỊNH HỒ SƠ KHÁCH HÀNG VAY 10 định, nhất là thẩm tra chặt chẽ khả năng tài chính, hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh, các điều kiện về bảo đảm tiền vay của khách hàng rồi mới quyết định đầu tư thì khả năng thu hồi vốn là rất lớn. Ngược lại, nếu buông lỏng quản lý hoặc thẩm tra chưa đầy đủ đã quyết định đầu tư thì mức độ rủi ro sẽ gia tăng, thậm chí có khi mất vốn. + Xuất phát từ công tác thẩm định: Đánh giá uy tín, năng lực quản trị, năng lực tài chính của khách hàng: - Đánh giá uy tín của khách hàng là vấn đề thật sự khó khăn đối với các cán bộ thực hiện công tác thẩm định trong việc tiếp cận thông tin về khách hàng khi nguồn thông tin và khả năng phát tín hiệu của khách hàng còn hạn chế. Hiện nay, công tác đánh giá uy tín của khách hàng chủ yếu dựa vào cảm tính và chủ quan của các cán bộ nghiệp vụ, như dựa vào các quan hệ trong quá khứ: khách hàng vay trả đúng hạn được xem là khách hàng có uy tín, còn đối với khách hàng mới quan hệ thì chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng khi tiếp xúc với khách hàng, hoặc qua một số thông tin thu thập được. Trong khi đó đối tượng khách hàng được xem là chiến lược phục vụ của ngân hàng là khu vực kinh tế tư nhân thì còn quá non trẻ, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có danh tiếng trên thị trường, ý thức của doanh nghiệp trong việc xây dựng uy tín và thương hiệu chưa cao, các hiệp hội ngành thì chưa phát huy vai trò của mình, chưa hỗ trợ nhiều cho các doanh nghiệp thành viên phát triển, nhất là việc giới thiệu các thành viên cho thị trường nên đã dẫn đến việc thu thập thông tin để đánh giá đối với khu vực kinh tế trên là rất khó khăn. - Đánh giá năng lực của khách hàng: * Về năng lực quản trị: nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp và cũng có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả đồng vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, việc đánh giá nguồn nhân lực, nhất là bộ phận lãnh đạo của khách hàng hiện nay hoàn toàn chưa có cơ sở, chủ yếu là liệt kê bằng cấp và số năm công tác. * Về năng lực tài chính: công việc đánh giá được thực hiện chủ yếu dựa vào việc phân tích số liệu trên các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp. Hiện nay do 11 Việt Nam chưa có quy định về minh bạch thông tin nên có thể nói độ tin cậy của các báo cáo tài chính chưa thật sự cao nên việc phân tích báo cáo tài chính sẽ không phản ánh đúng thực chất năng lực tài chính của khách hàng. Đánh giá hiệu quả phương án/dự án vay là khâu quan trọng, ảnh hưởng lớn nhất đến khả năng thu hồi vốn của các NHTM. Tuy nhiên do có nhiều nhân tố chủ quan và khách quan tác động nên đã dẫn đến chất lượng đánh giá phương án/dự án vay chưa thật sự hiệu quả: - Khi nhận một dự án, cán bộ thẩm định sẽ phải tiến hành thẩm định các khía cạnh như yếu tố thị trường, kỹ thuật, công nghệ và cả các yếu tố kinh tế, xã hội của dự án. Tuy nhiên, việc thẩm định dự án trong một môi trường thiếu thông tin như của Việt Nam là một thách thức lớn đối với các cán bộ thẩm định. Trên thị trường hiện nay, có rất ít doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường. Do đó, khi đánh giá thị trường đối với sản phẩm của dự án, cán bộ thẩm định chủ yếu phải dựa vào các nguồn thông tin không chính thức, thu thập qua báo chí, internet,… - Thêm vào đó, trình độ xây dựng dự án/phương án sản xuất kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn yếu. - Ngoài ra, hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của Nhà Nước thường xuyên thay đổi, không có tính minh bạch và không có tính dự báo cũng có thể gây ra nhiều rủi ro cho dự án, như: các chiến lược phát triển vùng, ngành; các quy định liên quan đến xuất nhập khẩu; các tiêu chuẩn về môi trường, … - Tiêu chuẩn thống nhất chung về mặt bằng đánh giá, cách xếp loại doanh nghiệp giữa các NHTM chưa có sự thống nhất, chưa được tiến hành thường xuyên, định kỳ, một số ngân hàng xem việc này chỉ mang tính hình thức. Kết quả là việc đánh giá dự án không mang tính khả thi, nhất là trong điều kiện trình độ cán bộ thẩm định còn chưa được chuyên sâu. + Xuất phát từ tài sản bảo đảm: Quản trị danh mục TSBĐ là yêu cầu cần thiết trong công tác quản lý rủi ro tín dụng, và là mắc xích quan trọng trong quy trình cho vay thu hồi nợ, xử lý các khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc giám sát, quản lý, đánh giá, phân loại, dự báo, cảnh báo về danh mục các TSBĐ mà một NHTM lựa chọn, xét ưu tiên nhận làm 12 bảo đảm tiền vay chưa được làm thường xuyên, chưa có tính hệ thống mà chỉ dừng ở mức kiểm tra trên hồ sơ pháp lý, định kỳ đánh giá lại giá trị để điều chỉnh mức dư nợ cho vay hoặc yêu cầu khách hàng bổ sung. Theo quy định của pháp luật, việc xác định giá trị TSBĐ tiền vay do các bên thỏa thuận, hoặc thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm xác định, có tham khảo đến các loại giá như giá quy định của Nhà nước (nếu có), giá mua, giá trị còn lại trên sổ sách kế toán và các yếu tố khác về giá. Tuy nhiên, trên thực tế, trừ những động sản có giá trị lớn hàng tỷ đồng, các NHTM mới thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn định giá, còn lại đa số việc định giá đều do các bên thỏa thuận, và như vậy cho thấy giá trị TSBĐ được định giá còn mang tính chủ quan và thiếu tính khoa học. Ngoài ra, về phương pháp định giá đối với từng loại tài sản chưa được các NHTM sử dụng một cách thích hợp, dẫn đến việc: nếu định giá thấp, khách hàng không hài lòng, nhưng nếu định giá cao, NHTM sẽ khó đảm bảo khả năng thu hồi nợ vay và lãi vay trong trường hợp khách hàng mất khả năng thanh toán, khi đó buộc NHTM phải thanh lý tài sản thế chấp, cầm cố. Kinh tế tăng trưởng cao trong vài năm trở lại đây cùng với giá bất động sản bị đẩy lên cao do đầu cơ và vượt xa giá trị thực đã làm nảy sinh tư tưởng lạm dụng vào TSBĐ. Sẽ rất rủi ro nếu cán bộ tín dụng quên rằng khoản vay cần phải được trả bằng chính dòng tiền tạo ra bởi phương án sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng tiền bán TSBĐ. TSBĐ chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến. Tâm lý dựa chủ yếu vào TSBĐ sẽ làm giảm chất lượng thẩm định khoản vay nên sẽ không đánh giá chính xác được hiệu quả và sự an toàn của khoản vay, dễ dẫn đến việc cho vay những dự án rủi ro, khách hàng không uy tín. Đây là thực trạng đáng lo ngại trong quan điểm cấp tín dụng hiện nay của các NHTM. Từ sự lựa chọn không chắc chắn khách hàng tốt để cung cấp tín dụng nên để giảm bớt rủi ro, các NHTM đã tính một phần rủi ro vào trong lãi vay ngân hàng, làm cho khách hàng vay tốt phải gánh chịu một mức lãi vay cao hơn mức đáng ra họ được hưởng. Đây cũng là tâm lý thường thấy ở các NHTM của các nước đang phát triển. 13 Đối với vấn đề bảo hiểm tài sản, cán bộ tín dụng thường không chú ý đôn đốc, kiểm tra việc khách hàng có mua bảo hiểm đúng định kỳ để đến khi phương tiện bị tai nạn, việc trục vớt, sửa chữa phải bỏ thêm rất nhiều vốn, gây khó khăn lâu dài về khả năng thanh toán khoản nợ vay… Thông tin bất cân xứng về giá trị thực của TSBĐ giữa khách hàng và NHTM cũng là vấn đề cần được quan tâm. Khi thế chấp, cầm cố tài sản chỉ có khách hàng biết rõ về hiện trạng của tài sản như sự hỏng hóc trong các dây chuyền sản xuất, máy móc, thiết bị, hoặc ngôi nhà rất khó bán do một số đặc điểm đặc biệt. Trong khi đó trình độ của cán bộ thường không đáp ứng đầy đủ chuyên môn trong tất cả các lĩnh vực nên không thể đánh giá được chính xác hiện trạng của máy móc thiết bị cũng như nắm được những thông tin không tốt về đất đai, nhà ở; điều này ảnh hưởng rất lớn đến giá trị mua bán của tài sản. Vì vậy, khi xảy ra rủi ro, việc phát mãi tài sản để thu hồi nợ gặp không ít khó khăn. Thêm vào đó, cơ chế pháp lý về bảo đảm tiền vay chưa rõ ràng, chịu sự điều chỉnh, chi phối của nhiều văn bản luật, dưới luật chồng chéo nhau, đặc biệt đối với TSBĐ là bất động sản. Cuối cùng là các vấn đề liên quan đến quá trình xử lý, phát mãi TSBĐ đã gây cản trở không ít cho các NHTM như: - Việc các ngân hàng phải đối mặt với những khó khăn trong thời gian trước khi bán đấu giá tài sản. - Trong việc phát mãi TSBĐ, các NHTM chưa có thực quyền trong việc bán, quản lý và khai thác tài sản thuộc quyền tiếp quản. - Sự phối hợp giữa cơ quan công an, viện kiểm soát, tòa án, các sở, ban, ngành, chính quyền địa phương trong việc xử lý TSBĐ còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ, chặt chẽ và kịp thời. - Việc xác định quyền sở hữu thực sự của khách hàng đối với tài sản cũng là vấn đề khó khăn. - Vướng mắc khi NHTM nhận lại TSBĐ từ cơ quan thi hành án. - Thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng cho người mua, người nhận tài sản của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền còn quá nhiêu khê. 14 + Xuất phát từ thông tin tín dụng: Các NHTM hiện nay chưa nhận được sự phối hợp hỗ trợ cung cấp thông tin từ các cơ quan chức năng như cơ quan thuế, chi cục thống kê, hay các cơ quan chủ quản. Bên cạnh các nguyên nhân khách quan, bản thân các NHTM đôi khi cũng lệ thuộc khá nhiều vào các số liệu của khách hàng cung cấp mà chưa chủ động tìm kiếm thông tin hay nói cách khác có tình trạng thông tin bất cân xứng giữa các NHTM và khách hàng vay. Việc thu thập thông tin của mỗi ngân hàng về khách hàng, về ngành nghề, về môi trường kinh tế mà khách hàng đang hoạt động, về các văn bản mới được ban hành, về tình hình diễn biến giá cả thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là những cảnh báo về các ngành hàng ngân hàng đang và sẽ đầu tư chưa được thực hiện một cách thường xuyên và có tính hệ thống. + Xuất phát từ hoạt động kiểm soát nội bộ: Hiện nay, các NHTM đều có bộ phận kiểm soát nội bộ, tuy nhiên, ở một số ngân hàng, bộ phận này chưa thật sự hoạt động có hiệu quả, nhất là tình trạng thiếu nhân sự, cũng như trình độ của cán bộ chưa đáp ứng cả về nghiệp vụ lẫn kinh nghiệm nên không thể phát hiện các sai phạm để có những khuyến cáo kịp thời nhằm chấn chỉnh và tư vấn cho ban điều hành về những rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Kiểm soát nội bộ có một số ưu thế hơn so với việc thanh tra, kiểm tra của NHNN do: - Xét về thời gian, công tác kiểm soát nội bộ của các NHTM xử lý kịp thời, nhanh chóng các vấn đề ngay khi vừa phát sinh. - Xét về tính sâu sát của người kiểm soát viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh nên mọi vấn đề được hiểu đúng với bản chất của nó. 1.2.4.3. Nguyên nhân từ phía khách hàng đi vay: + Đối với khách hàng là doanh nghiệp: Trong hoạt động kinh doanh, ngoài nguồn vốn tự có của mình, các doanh nghiệp luôn phải sử dụng một nguồn vốn bên ngoài, đó là vốn vay các NHTM. Đây là 15 nhu cầu vay vốn rất cần thiết nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách ổn định. Tùy đặc điểm và tính chất hoạt động của từng loại hình doanh nghiệp, việc sử dụng vốn vay của các NHTM cũng có sự khác nhau. Rủi ro tín dụng xuất phát từ phía khách hàng là doanh nghiệp thường do: - Mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng không được thực hiện đúng. - Khách hàng không thật sự nỗ lực trong việc sử dụng vốn vay có hiệu quả. - Khách hàng chưa có thiện chí trong vấn đề cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác cho ngân hàng để phục vụ cho việc cấp tín dụng. - Một bộ phận khách hàng không có thiện chí trong việc trả nợ. - Công tác quản lý, điều hành của một số các doanh nghiệp chưa thật sự hiệu quả. - Sự hạn chế của đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp. - Tình hình tài chính của hầu hết các doanh nghiệp thiếu sự minh bạch, trung thực, chưa đáp ứng yêu cầu. - Công nghệ, quy trình sản xuất không tạo ra được những sản phẩm mang tính cạnh tranh. - Sự tác động của các nhân tố khách quan như môi trường pháp lý, môi trường kinh tế - xã hội... + Đối với khách hàng là cá nhân: Mặc dù quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng là cá nhân thủ tục đơn giản hơn nhiều so với khách hàng là doanh nghiệp, song thực tế số lượng khách hàng cá nhân lại rất lớn nên việc tìm hiểu các nguyên nhân từ phía khách hàng cá nhân có ý nghĩa rất quan trọng. Với khách hàng cá nhân, nguyên nhân rủi ro có thể là: - Hoạt động kinh doanh không gặp thuận lợi, khả năng quản lý tình hình tài chính yếu kém. - Nguồn hoàn trả chính từ thu nhập cơ bản bị mất hoặc suy giảm do mất việc, chuyển sang công việc kém hơn hoặc không còn khả năng lao động. - Cá nhân gặp những chuyện bất thường trong cuộc sống, vì vậy, họ phải sử dụng một số tiền lớn nên ảnh hưởng khả năng hoàn trả cho ngân hàng. 16 - Đạo đức cá nhân không tốt: cố tình lừa đảo ngân hàng, sử dụng vốn sai mục đích... 1.2.4.4. Nguyên nhân khác: Sự biến động quá nhanh, và khó có thể dự đoán được trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước cũng ảnh hưởng đến chất lượng các khoản cấp tín dụng của các NHTM. Biểu hiện rõ nét nhất là tình hình biến động giá cả các mặt hàng mà các NHTM đang đầu tư, hoặc các cơ chế, chính sách thương mại, chính sách xuất nhập khẩu các nước áp dụng đối với Việt Nam (hạn ngạch, chính sách bảo hộ, hay các vụ kiện thương mại,..): - Ngành dệt may trong những năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị khống chế hạn ngạch đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may. - Mặt hàng thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi phí giá thành cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm. - Dầu thô, nông, lâm, thủy hải sản…cũng ở trong tình trạng tương tự: giá cả diễn biến bất thường và chính sách bảo hộ thị trường, cạnh tranh với các đối tác lớn cũng gây rủi ro cho các nhà xuất khẩu... Bên cạnh đó, quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập kinh tế quốc tế cũng tác động không nhỏ đến hoạt động cấp tín dụng của các NHTM. Với môi trường hội nhập, các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, nguy cơ thua lỗ là điều có thể xảy ra. Bản thân các NHTM trong môi trường hội nhập kinh tế cũng gặp phải những nguy cơ rủi ro khi phải cạnh tranh với các NHTM nước ngoài vốn mạnh hơn về mọi mặt, khi vấn đề nợ xấu gia tăng vì hầu hết những khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút... Cuối cùng là do sự ổn định của nền kinh tế nước ta khi chính sách quản lý kinh tế vẫn có những thay đổi đột ngột, hành lang pháp lý chưa thật sự an toàn, điều chỉnh quy hoạch các ngành, các vùng chưa phù hợp… 1.2.5. Đánh giá rủi ro tín dụng: 17 Các Ngân hàng phải đánh giá và xác định rủi ro tín dụng trên cơ sở khả năng “chống đỡ rủi ro” và kiểm soát, quản trị rủi ro của mình để có chính sách tín dụng phù hợp. Để đánh giá ngân hàng thường áp dụng một số tiêu chí sau: + Tỷ lệ an toàn vốn thối thiểu: Đây là tỷ lệ giữa vốn tự có của ngân hàng trên tổng tài sản có rủi ro quy đổi. Tỷ lệ này phản ánh và đo lường mức độ chịu đựng của ngân hàng khi rủi ro tín dụng phát sinh. Ý nghĩa của tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cho thấy mức độ rủi ro mà các ngân hàng được phép mạo hiểm trong sử dụng vốn cao hay thấp tùy thuộc vào độ lớn của của vốn tự có của ngân hàng, cụ thể: Đối với những ngân hàng có vốn tự có lớn thì nó được phép sử dụng vốn với mức độ liều lĩnh hơn nhằm thu lại lợi nhuận cao hơn, rủi ro lớn hơn, ngược lại, những ngân hàng mà vốn tự có ít chỉ phải đầu tư vốn một cách an toàn hơn. • Nếu H 3 = 8% : ngân hàng có một tỷ lệ hợp lý giữa vốn tự có với mức độ rủi ro trong sử dụng tài sản • Nếu H 3 > 8% : mức độ rủi ro của ngân hàng thấp, ngân hàng sử dụng vốn an toàn nhưng kém hiệu quả, có thể giảm sút lợi nhuận. • Nếu H 3 < 8 : mức độ rủi ro lớn, vốn tự có của ngân hàng không đủ sức bảo vệ cho ngân hàng một khi rủi ro xuất hiện. + Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ + Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu. + Tỷ lệ nợ xấu trên quĩ dự phòng tổn thất. + Nợ đáng nghi ngờ (nợ có vấn đề) - có khả năng chuyển thành nợ xấu cao. + Nợ không có tài sản đảm bảo. 1.2.6. Tác động của rủi ro tín dụng: Để đạt được lợi nhuận cao, thu hút thêm nhiều khách hàng, nâng cao sức cạnh tranh, các NHTM luôn tìm cách mở rộng hoạt động tín dụng, cung ứng nhiều hơn các dịch vụ phục vụ cho khách hàng, nhưng song song đó các ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn. Các loại rủi ro này luôn tiềm ẩn làm tăng chi phí, 18 giảm lợi nhuận, lỗ hoặc mất vốn dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn vốn để chi trả tiền gửi cho khách hàng. Các NHTM do không thu hồi được các khoản nợ và lãi đến hạn, dẫn đến mất khả năng thanh toán, nếu nghiêm trọng và kéo dài dễ gây hiệu ứng phản ứng dây chuyền, đe dọa đến hàng loạt các NHTM khác do khách hàng đua nhau rút tiền gửi, nền kinh tế lâm vào khủng hoảng tài chính, tiền tệ. Bài học về sự đổ vỡ hàng loạt các hợp tác xã tín dụng trong những năm 1989-1990 ở nước ta, Chính Phủ đã phải bỏ ra hàng trăm tỷ đồng để ổn định tình hình kinh tế và an ninh xã hội; nhìn rộng hơn là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực Đông Nam Á vào những năm 1997-1998, Chính Phủ nhiều nước và các tổ chức tài chính quốc tế đã phải dốc hầu bao để cứu nguy các NHTM, cơ cấu lại các NHTM, quyết định giải thể, sáp nhập các NHTM để đảm bảo khả năng thanh toán, duy trì mở rộng tín dụng nhằm phục hồi kinh tế các nước gặp khủng hoảng. 1.2.6.1. Tác động đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM: Khi gặp rủi ro tín dụng, các NHTM chẳng những không thu hồi được vốn tín dụng đã cấp và lãi từ hoạt động cho vay, mà còn phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho các ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Hay nói cách khác, các ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, mất lòng tin của người gửi tiền, từ đó ảnh hưởng đến uy tín của cả ngân hàng. Và không thu được nợ, vòng quay vốn tín dụng của các NHTM sẽ giảm từ đó làm cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng không đạt hiệu quả như mong muốn. Tóm lại, rủi ro tín dụng xảy ra ở những mức độ khác nhau: nhẹ nhất là các NHTM sẽ bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất là khi các NHTM không thu được cả vốn và lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao sẽ dẫn đến bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, các NHTM có thể sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy, đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay. 1.2.6.2. Đối với nền kinh tế nói chung: Khi một NHTM gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở khắp mọi nơi sẽ rơi vào tâm trạng hoang mang, lo sợ, khi đó sẽ xảy ra tình trạng mọi 19 người ồ ạt đến rút tiền ở tất cả các ngân hàng, việc làm này sẽ tác động xấu đến toàn hệ thống ngân hàng. Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp, vì vậy NHTM phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp. Khi đó, sự rối loạn của các NHTM sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế, làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Tóm lại, nếu những tổn thất do rủi ro trong hoạt động tín dụng gây ra ở mức kiểm soát được thì việc xử lý tương đối dễ dàng trong giới hạn cho phép của quỹ dự phòng bù đắp rủi ro của các NHTM. Tuy nhiên, khi tổn thất lớn, vượt quá khả năng xử lý của các NHTM thì vấn đề sẽ trở nên nghiêm trọng, gây hậu quả khó lường không những cho chính NHTM, mà còn cho cả những NHTM và các doanh nghiệp khác có liên quan, ảnh hưởng tới quyền lợi người gửi tiền và cuối cùng, ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế, và là nguy cơ tiềm ẩn cho khủng hoảng tài chính. Nếu tác động lớn, đôi khi ảnh hưởng đến cả nền kinh tế khu vực và thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. 1.3. Nguyên tắc của Basel về quản trị rủi ro tín dụng: 1.3.1. Nguyên tắc 1: Hội đồng quản trị có trách nhiệm phê duyệt và định kỳ xem xét chiến lược về rủi ro tín dụng và các chính sách về rủi ro tín dụng của ngân hàng. Chiến lược về rủi ro tín dụng phản ánh mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng với mức sinh lời nhất định mà ngân hàng kỳ vọng. Chiến lược cần thể hiện tuyên bố của ngân hàng trong việc sẵn sàng cấp tín dụng dựa trên loại hình rủi ro tiềm năng, ngành kinh tế, vị trí địa lý, dòng tiền, kỳ hạn và mức sinh lời dự kiến. Chiến lược cũng có thể xác định thị trường mục tiêu và các đặc tính tổng quát mà ngân hàng muốn đạt được trong danh mục tín dụng. 1.3.2. Nguyên tắc 2: Ban điều hành có trách nhiệm thực hiện chiến lược chấp nhận một tỷ lệ nợ xấu được Hội đồng quản trị phê duyệt, phát triển các chính sách, thủ tục nhằm phát 20 hiện, đo lường, theo dõi và kiểm soát nợ xấu. Các chính sách và thủ tục này cần nhằm vào rủi ro nợ xấu phát sinh trong mọi hoạt động của ngân hàng, ở cấp độ từng khoản tín dụng cũng như toàn bộ danh mục đầu tư. Các thủ tục, quy trình, văn bản cần được xây dựng, triển khai cũng như các trách nhiệm phê duyệt, xem xét khoản cho vay cần được phân định rõ ràng và phù hợp. 1.3.3. Nguyên tắc 3: Các ngân hàng cần xác định và quản trị rủi ro tín dụng trong mọi sản phẩm và hoạt động của mình. Đối với các sản phẩm và hoạt động mới, ngân hàng cần xây dựng biện pháp quản trị rủi ro và kiểm soát phù hợp trước khi được đưa vào sử dụng hoặc triển khai và phải được Hội đồng quản trị phê duyệt. Điều quan trọng là Ban điều hành cần xác định rằng các nhân viên liên quan trong bất kì hoạt động nào có rủi ro tín dụng, cho dù là đã thực hiện hay là hoạt động mới, cơ bản hay phức tạp, điều phải có đủ năng lực thực hiện với những tiêu chuẩn cao nhất và tuân thủ các chính sách và thủ tục của ngân hàng. 1.3.4. Nguyên tắc 4: Các ngân hàng phải hoạt động trong phạm vi các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh được xác định rõ ràng. Những tiêu chí này cần chỉ rõ thị trường mục tiêu của ngân hàng và đồng thời ngân hàng phải hiểu biết rõ về khách hàng vay vốn cũng như mục đích và cơ cấu của khoản tín dụng. Hay nói cách khác các tiêu chí cần chỉ rõ đối tượng khách hàng đủ tiêu chuẩn được cấp tín dụng, các loại hình tín dụng và các điều khoản và điều kiện cấp tín dụng. 1.3.5. Nguyên tắc 5: Ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng và nhóm khách hàng vay vốn để tạo ra các loại hình rủi ro tín dụng khác nhau nhưng có thể so sánh và theo dõi được trong sổ sách kế toán của ngân hàng và sổ sách kế toán kinh doanh, nội bản và ngoại bản. Cần xây dựng giới hạn đối với các ngành, lĩnh vực kinh tế, khu vực địa lý và các sản phẩm cụ thể. Cũng như các giới hạn rủi ro trong mọi lĩnh vực hoạt động của ngân hàng mà có liên quan đến rủi ro tín dụng. Những giới hạn này giúp bảo đảm các hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng đa dạng. Giới hạn tín dụng là rất quan 21 trọng trong quản lý toàn bộ hộ sơ rủi ro tín dụng hoặc rủi ro đối tác của một ngân hàng. Để có hiệu quả, các giới hạn này cần mang tính ràng buộc và không đi theo nhu cầu của khách hàng. 1.3.6. Nguyên tắc 6: Để có được danh mục đầu tư tín dụng lành mạnh, ngân hàng cần có qui trình rõ ràng trong việc phê duyệt các khoản tín dụng mới cũng như sửa đổi, gia hạn và tái tài trợ các khoản tín dụng hiện tại.Ngân hàng cần phát triển đội ngũ nhân viên quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, kiến thức nhằm đưa ra nhận định thận trọng trong việc đánh giá phê duyệt và quản lý rủi ro tín dụng. 1.3.7. Nguyên tắc 7: Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sở giao dịch công bằng giữa các bên. Đặc biệt, các khoản tín dụng cho các công ty và cá nhân có liên quan phải được phê duyệt trên cơ sở ngoại lệ cần theo dõi cẩn thận và triển khai các bước cần thiết để kiểm soát nhằm loại trừ rủi ro. Việc gia hạn tín dụng cần được thực hiện theo các tiêu chí và trình tự cụ thể và rõ ràng. Việc này, tạo ra hệ thống hồ sơ và chứng từ nhằm tăng cường việc ra quyết định tín dụng đúng đắn. 1.3.8. Nguyên tắc 8: Các ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối với các danh mục đầu tư có rủi ro tín dụng. 1.3.9. Nguyên tắc 9: Ngân hàng cần có hệ thống theo dõi điều kiện của từng khoản tín dụng, bao gồm việc xác định mức độ đầy đủ của dự phòng và dự trữ. 1.4. Kinh nghiệm của các ngân hàng Thái Lan trong việc quản trị rủi ro tín dụng: Mặc dù có bề dầy hoạt động hàng trăm năm, nhưng vào năm 1997 - 1998, hệ thống ngân hàng Thái Lan vẫn bị chao đảo trước cơn khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á. Nhiều công ty tài chính và NHTM bị phá sản hoặc buộc phải sáp nhập. Trước tình hình đó buộc các ngân hàng Thái Lan phải xem xét lại toàn bộ chính sách, cách thức, quy trình hoạt động ngân hàng, đặc biệt là lĩnh vực tín dụng nhằm 22 giảm thiểu rủi ro…Đi đôi với việc đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng và dịch vụ, xác định khách hàng, mục tiêu, chủ động tiếp thị khách hàng…một loạt các thay đổi căn bản trong hoạt động tín dụng đã được các ngân hàng Thái Lan triển khai nhanh chóng và triệt để: - Tách bạch, phân công rõ chức năng các bộ phận và tuân thủ các khâu trong quy trình giải quyết các khoản vay, ví dụ điển hình như: * Tại Bangkok Bank: trước đây, các bộ phận trong quy trình cấp tín dụng chỉ là một, nay, đã tách hẳn thành hai bộ phận độc lập: bộ phận tiếp nhận giải quyết hồ sơ và bộ phận thẩm định. Trong đó, bộ phận thẩm định phải có báo cáo thẩm định tín dụng, gồm: chiến lược và kế hoạch kinh doanh, báo cáo xếp hạng rủi ro…Đây là một thay đổi căn bản của Bangkok Bank nhằm bảo đảm tính độc lập, khách quan trong quá trình thực thi cấp tín dụng. * Tại Siam Comercial Bank (SCB): cũng đã xây dựng mô hình tổ chức triển khai dịch vụ tín dụng theo nguyên tắc phân định rõ trách nhiệm của ba bộ phận: Marketing khách hàng, thẩm định và quyết định cho vay. Ngân hàng đã phân loại khách hàng theo từng nhóm, từ đó nhận rõ tính chất khác nhau làm cơ sở cho việc xác định nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ phận trong việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ, thẩm định và ra quyết định. - Tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề mang tính nguyên tắc trong hoạt động tín dụng. Trước đây rất nhiều ngân hàng Thái Lan không tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc tín dụng trong quá trình cho vay, chỉ quan tâm đến TSBĐ, không quan tâm đến dòng tiền của khách hàng. Vì thế, hậu quả là nợ xấu có lúc lên tới 40% (1997- 1998). Nhưng hiện nay, các ngân hàng không chỉ triệt để chấp hành nguyên tắc tín dụng mà còn quan tâm nhiều đến các thông tin của khách hàng, coi trọng đến chu chuyển dòng tiền và việc thu hồi vốn. - Tiến hành cho điểm khách hàng để quyết định cho vay. - Tuân thủ thẩm quyền phán quyết tín dụng. - Coi trong việc giám sát khoản vay sau khi cho vay bằng cách tiếp tục thu thập thông tin khách hàng, thường xuyên đánh giá xếp loại khách hàng để có biện pháp xử lý kịp thời các tình huống rủi ro. 23 - Coi trọng việc cập nhật hiểu biết nghề nghiệp, đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng và khả năng thực thi độc lập nhiệm vụ cho cán bộ tín dụng. - Áp dụng Sổ tay tín dụng được viết rất công phu, rõ ràng, dễ áp dụng; có chính sách cho vay riêng đối với bất động sản là lĩnh vực có rủi ro rất cao. 24 CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM – CN 11 2.1. Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội Quận 11 trong thời gian qua: Quận 11 chính thức có tên trên bản đồ Sài Gòn-Gia Định từ ngày 01/07/1969 theo sắc luật số 73 của chính quyền Sài Gòn cũ. Ban đầu gồm 4 phường được tách ra từ Quận 5 và Quận 6: Phường Phú Thọ (Quận 5 cũ), Phường Cầu Tre, Bình Thới, Phú Thọ Hòa (Quận 6 cũ). Sau đó lập thêm 2 phường là Bình Thạnh và Phú Thạnh. Sau ngày giải phóng 30/04/1975, địa bàn Quận 11 được giữ nguyên với 6 phường và 47 khóm. Đến ngày 01/06/1976 được phân chia lại thành 21 phường. Sau nhiều lần điều chỉnh địa giới, đến nay Quận 11 có 16 phường. Quận 11 có tổng diện tích 513,58 ha, nằm ở Tây Nam thành phố. Giáp Quận Bình Tân ) ở phía Bắc và Tây Bắc, phía Đông giáp Quận 5,10, phía Nam và Tây Nam giáp ranh Quận 6. Tính đến cuối năm 2004, quận 11 có dân số là 229.837 người, có 120.474 nữ (tỷ lệ 52,41%). Người Hoa có 103.189 người (tỷ lệ 44,89%), mật độ dân số trung bình là 44.722 người/km2 Năm 2008 Giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt 3.330,135 tỷ đồng tăng 6,1% so với năm 2007, trong đó khối công ty cổ phần có vốn nhà nước tăng 9,2%; khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 12,9%; khối hợp tác xã giảm 15%, khối cá thể tăng 2,1% Tổng giá trị đầu tư máy móc thiết bị và nhà xưởng năm 2008 là 27,916 tỷ đồng giảm 78% so với năm 2007, trong đó khối ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng 90,1%, khối cơ sở cá thể chiếm tỷ trọng 9,9%. Doanh thu thương mại dịch vụ năm 2008 đạt 28,045 tỷ đồng, tăng 16,18% so với năm 2007, trong đó khối doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước giảm 28,33%; khối hợp tác xã tăng 128,35%; khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 1,62%; khối cá thể tăng 24,39%. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI NĂM 2009 Năm 2009, tiếp tục quá trình thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006-2010) mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận lần thứ IX đã đề 25 ra, Quận xác định các nhiệm vụ trọng tâm và chỉ tiêu chủ yếu cần tập trung thực hiện như sau: Một số chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 : Giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp tăng 6% trở lên so với thực hiện năm 2008. Doanh thu thương mại-dịch vụ tăng 20% trở lên so với thực hiện năm 2008. Một số nhiệm vụ - giải pháp trọng tâm: Duy trì tốc độ tăng trưởng và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng thương mại-dịch vụ. Tổ chức triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển thương mại dịch vụ; sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đến năm 2010, tầm nhìn đến 2015. Chú trọng phát triển thành phần kinh tế tập thể cả về số lượng và chất lượng. 2.2. Giới thiệu về Ngân hàng Công thương Việt Nam Chi nhánh 11: 2.2.1. Giới thiệu về Ngân hàng Công thương Việt Nam: Thực hiện Nghị quyết 3, khoá VI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội Đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc chuyển họat động ngân hàng sang hạch toán kinh doanh và hình thành hệ thống Ngân hàng hai cấp, từ ngày 01/07/1988 Ngân hàng Công thương Việt Nam ra đời và đi vào họat động trên cơ sở Vụ Tín dụng Công nghiệp và Vụ Tín dụng thương nghiệp của Ngân hàng nhà nước trung ương cùng các phòng Tín dụng công nghiệp, thương nghiệp của Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước địa phương Quá trình hình thành tổ chức bộ máy hoạt động của Ngân hàng Công thương Việt Nam tính đến nay trải qua 3 giai đọan: - Giai đoạn thức nhất (từ tháng 07/1988 đến hết năm 1990): Trong giai đọan này, Ngân hàng Công thương chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý như một liên hiệp xí nghiệp đặc biệt, các chi nhánh thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập - Giai đoạn thứ 2: (Từ tháng 01/1991 đến tháng 09/1996): Sau khi pháp lệnh Ngân Hàng có hiệu lực thi hành (tháng 10/1990), theo Quyết định 402/CT ngày 14/11/1990 của Chủ tịch HĐBT ( nay là Thủ tướng Chính phủ ), Ngân hàng Công thương Việt Nam mới thực sự trở thành một Ngân hàng thương mại có chức năng 26 kinh doanh tiền tệ. Mô hình tổ chức kinh doanh được dịnh hình rõ: Ngân hàng Công thương Việt Nam là một pháp nhân thuộc sở hữu Nhà nước, thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, các chi nhánh là các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc. - Giai đoạn thứ 3 (từ tháng 09/1996 đến nay): Theo mô hình Tổng công ty Nhà nước, Ngân hàng Công thương Việt Nam được quản lý bởi Hội Đồng Quản trị, điều hành bởi Tổng Giám Đốc, có các chi nhánh là các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc. Ngân hàng Công thương Việt Nam có tên giao dịch trước đây là Industrial and commercial of Vietnam, gọi tắt là Incombank, và kể từ ngày 15/04/2008 Ngân hàng công thương với thương hiệu mới là Vietinbank (Vietnam bank for industry and trade). Vốn là một trong những Ngân hàng thương mại Nhà nước lớn nhất tại Việt Nam (NHCTVN đã tiến hành IPO và đang chuyển đổi mô hình thành NHTM cổ phần Nhà nước) , VietinBank có tổng tài sản chiếm hơn 25% thị phần trong toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nguồn vốn của VietinBank luôn tăng trưởng qua các năm, tăng mạnh kể từ năm 1996, đạt bình quân hơn 20% năm, đặc biệt có năm tăng 35% so với năm trước. Mạng lưới kinh doanh trải rộng toàn quốc với 3 Sở Giao dịch, 140 chi nhánh, 188 phòng giao dịch, 258 điểm giao dịch, 191 quỹ tiết kiệm, 742 máy rút tiền tự động, hai văn phòng đại diện. Có 03 Công ty hạch toán độc lập là Công ty Cho thuê Tài chính, Công ty TNHH Chứng khoán, Công ty Quản lý Nợ và Khai thác Tài sản và 03 đơn vị sự nghiệp là Trung tâm thẻ, Trung tâm công nghệ thông tin và Trường đào tạo nguồn nhân lực. Ngoài ra, NHCT còn góp vốn liên doanh vào Ngân hàng Indovina và Công ty Liên doanh Bảo hiểm Châu Á NHCTVN (IAI); góp vốn vào 07 công ty trong đó có Công ty cổ phần Chuyển mạch Tài chính quốc gia Việt Nam, Công ty cổ phần Xi măng Hà Tiên, Công ty cổ phần cao su Phước Hòa, Ngân hàng thương mại cổ phần Gia Định, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Công Thương v.v. NHCTVN hiện tại có quan hệ đại lý với trên 800 ngân hàng, định chế tài chính tại trên 90 quốc gia, vùng lãnh thổ trên toàn thế giới.Vốn tự có của NHCTVN đến 27 ngày 31/12/2008 là 10.800 tỷ đồng, tổng tài sản lên tới 196.012 tỷ đồng, chiếm khoảng 10% tổng tài sản toàn ngành ngân hàng. 2.2.2. Giới thiệu về Ngân hàng Công thương Việt Nam-Chi nhánh 11: 2.2.2.1. Lịch sử hình thành: Là một trong những chi nhánh của NHCTVN hoạt động tại TP.HCM, có trụ sở tại 1447-1449 đường Ba tháng Hai, Phường 16 Quận 11, TP.HCM. NHCTVN-CN11 hoạt động dưới sự điều hành trực tiếp của Giám Đốc. 2.2.2.2. Cơ cấu tổ chức: Đóng trên địa bàn quận 11, là cái nôi của sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nên hoạt động của NHCTVN-CN 11 không tách rời với hoạt động của thành phần kinh tế này cũng như các doanh nghiệp của Quận. Những năm gần đây hoạt động của Chi nhánh có xu thế mở rộng đến một số lĩnh vực thương mại dịch vụ, đầu tư cơ sở hạ tầng, mở rộng đầu tư ra các địa bàn lân cận, các khu công nghiệp. MÔ HÌNH TỔ CHỨC NHCTVN-CN11 đến thời điểm hiện nay, thành lập được 12 phòng và tổ nghiệp vụ (Phòng khách hàng, Phòng Kế toán, Phòng Ngân quỹ, Phòng Hành chính nhân sự, Phòng Giao dịch Phú Thọ, Phòng Giao dịch Lãnh Binh Thăng, Phòng Giao dịch Cây Gõ, Tổ Quản lý rủi ro, Tổ điện toán, Tổ tổng hợp, Tổ tiếp thị, Tổ nguồn BAN GIÁM ĐỐC PHÒNG KHÁCH HÀNG CÁC TỔ NGHIỆP VỤ PHÒNG KTKSNB TẠI CN11 PHÒNG KẾ TOÁN PHÒNG NGÂN QUỸ PHÒNG HÀNH CHÍNH CÁC PHÒNG GIAO DỊCH 28 vốn, với số lượng cán bộ, nhân viên gần 80 người. Ngoài ra còn có Phòng Kiểm soát nội bộ trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam đóng tại Chi nhánh, thực hiện nhiệm vụ kiểm tra kiểm soát nội bộ toàn bộ hoạt động của Chi nhánh.. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên chi nhánh hiện nay đa số đạt trình độ Đại học, có sự kết hợp giữa cán bộ lâu năm kinh nghiệm và cán bộ trẻ năng động, đã phần nào đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới. Hoạt động của NHCTVN-CN11 trong thời gian qua có tác dụng và ảnh hưởng không nhỏ đối với kinh tế Quận 11 nói riêng và góp phần phát triển kinh tế thành phố nói chung. Định hướng phát triển của Chi nhánh đến năm 2012: Kể từ năm 2009, NHCTVN bắt đầu hoạt động theo mô hình NHTM cổ phần, nên toàn bộ hoạt động của các chi nhánh trong đó có NHCTVN-CN11 có nhiều điều kiện thuận lợi. Tuy nhiên công tác tín dụng sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức: - Kinh tế toàn cầu đang có những dấu hiệu suy thoái, thị trường bắt đầu thu hẹp. - Nền kinh tế trong nước chịu ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính toàn cầu và lạm phát cao từ năm 2008, cán cân thanh toán chưa ổn định, sức cạnh tranh nền kinh tế thấp, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. - Khả năng xuất khẩu bị đe dọa nghiêm trọng do sự cạnh tranh gay gắt với hàng Trung Quốc và các nước khối ASEAN. Tuy nhiên, NHCTVN-CN11 vẫn xây dựng chiến lược phát triển đến năm 2012 là phải chiếm được 30% thị phần cho vay và huy động trên địa bàn Quận 11, trong đó một số nhiệm vụ trong năm 2009 được cụ thể như sau: - Cho vay nền kinh tế: tăng trên 25% - Tỷ lệ nợ nhóm 2: dưới 3% - Tỷ lệ nợ xấu: dưới 2% - Tỷ lệ cho vay có tài sản bảo đảm: trên 99% 2.2.2.3. Hoạt động cho vay chủ yếu của NHCTVN-CN11: NHCTVN-CN11 cung ứng cho các khách hàng các sản phẩm cho vay gồm : 29 • Xét theo thời hạn: - Cho vay ngắn hạn có thời hạn đến 1 năm - Cho vay trung hạn: Có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm - Cho vay dài hạn: Có thời hạn từ trên 5 năm trở lên • Xét theo phương thức cho vay: - Cho vay từng lần: Áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu không thường xuyên. Mỗi lần vay khách hàng phải làm thủ tục vay vốn và cùng Ngân hàng ký kết hợp đồng tín dụng. Doanh số cho vay không vượt quá số tiền cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng - Cho vay theo hạn mức: Cho các đối tượng khách hàng có nhu cầu thường xuyên. Căn cứ theo nhu cầu: Ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng một hạn mức, khách hàng chỉ ký kết HĐTD một lần, các lần sau chỉ làm thủ tục nhận nợ, việc quản lý nợ theo hạn mức. - Cho vay dự án đầu tư: Cho các đối tượng là các dự án, phương án đầu tư trung dài hạn để xây dựng mua sắm nhà xưởng, máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ… - Phương thức cho vay trả góp: Ngân hàng cho vay các đối tượng có nhu cầu cho các mục đích sinh hoạt, tiêu dùng cá nhân hoặc sản xuất kinh doanh nhỏ, lẻ… - Cho vay phát hành thẻ tín dụng: Ngân hàng chấp nhận cho khách hàng sử dụng số vốn vay cho những nhu cầu thanh toán, rút tiền mặt tại máy ATM hoặc các điểm chấp nhận thẻ. - Cho vay theo hạn mức dự phòng: Ngân hàng cam kết đảm bảo một khoản tín dụng cho khách hàng theo hạn mức ký kết, khách hàng phải chịu một khoản phí phát sinh và lãi khi sử dụng vốn. - Cho vay hợp vốn: NHCTVN-CN 11 cùng các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. - Cho vay theo hạn mức thấu chi: Ngân hàng chấp nhận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách cho những nhu cầu thanh toán chi trả. 30 - Cho vay khác: Tùy theo đặc điểm nhu cầu Ngân hàng sẽ cung cấp cho khách hàng các loại cho vay phù hợp. 2.2.2.4. Kết quả kinh doanh tại NHCTVN-CN11 Bảng 1 : HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 1. Thu nhập trong đó thu từ cho vay: 2. Chi phí 3. Lợi nhuận 63.985 58.311 51.583 12.402 90.733 82.703 73.196 17.537 112.997 102.007 92.727 20.270 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11 Qua bảng cho thấy kết quả hoạt động của Chi nhánh đều tăng trưởng qua các năm. Nguồn thu của Chi nhánh vẫn chủ yếu là thu từ hoạt động cho vay, cụ thể: năm 2006: 91,13%, năm 2007: 91,15% và năm 2008: 90,27%. 2.3. Thực trạng công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHCTVN-CN11 trong 3 năm qua: 2.3.1. Quy trình cho vay và kiểm soát cho vay Do nhận biết được tầm quan trọng của việc cấp tín dụng đến khách hàng cho nên NHCTVN thống nhất quy trình cấp tín dụng và kiểm soát đối với các khoản vay áp dụng cho các chi nhánh trong toàn hệ thống để đảm bảo tính thống nhất và tuân thủ các quy định có liên quan của pháp luật Quy trình được thực hiện trong 4 bước: Bước 1: Tiếp nhận và thẩm định hồ sơ vay vốn Theo các quy định và quy trình về kiểm soát của tại Ngân hàng Công thương Việt Nam: Các bộ phận thẩm định cho vay và thẩm định độc lập phải kiểm tra toàn bộ hồ sơ với các quy định về nhiệm vụ như sau: Cán bộ tín dụng thực hiện: - Kiểm tra sự đầy đủ và phù hợp của hồ sơ pháp lý - Kiểm tra năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự và thẩm quyền của người vay, người đại diện. 31 - Kiểm tra hồ sơ khoản vay: • Sự đầy đủ về số lượng của hồ sơ khoản vay theo quy định • Sự phù hợp của hồ sơ khoản vay với phương thức cho vay, thời hạn cho vay • Tính pháp lý và nội dung của các báo cáo tài chính của phương án/dự án vay vốn. - Kiểm tra hồ sơ bảo đảm tiền vay: • Sự đầy đủ về số lượng, tính pháp lý và nội dung của hồ sơ chứng minh quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất của bên thế chấp, cầm cố, văn bản bảo lãnh của bên bảo lãnh • Sự khớp đúng giữa hồ sơ và hiện trạng của tài sản bảo đảm • Việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay của đơn vị chính cho đơn vị phụ thuộc • Việc công chứng / chứng thực đối với hợp đồng bảo đảm tiền vay, đăng ký giao dịch bảo đảm • Việc mua bảo hiểm tài sản bảo đảm. - Kiểm tra hồ sơ giải quyết cho vay: • Kiểm tra việc đáp ứng các điều kiện vay vốn theo quy định • Tính khả thi, hiệu quả, khả năng trả nợ của phương án/dự án • Các điều kiện quy định riêng đối với từng đối tượng khách hàng • Các đối tượng không được vay hoặc hạn chế cho vay • Kiểm tra nội dung khoản vay: mức cho vay so với giá trị tài sản bảo đảm, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay, đối tượng cho vay, điều kiện giải ngân… • Kiểm tra lại nội dung, hình thức, sự đầy đủ và tính hợp lệ của: Tờ trình thẩm định cho vay, thông báo / bản thoả thuận giới hạn tín dụng cấp có thẩm quyền, chữ ký tắt của lãnh đạo phòng khách hàng trên từng trang của các hồ sơ theo quy định - Kiểm tra trình tự thẩm định, phê duyệt (đảm bảo theo nguyên tắc độc lập giữa thẩm định cho vay, thẩm định rủi ro tín dụng độc lập và quyết định cho vay), và thẩm quyền phê duyệt theo phân cấp ủy quyền 32 - Kiểm tra hình thức và nội dung của hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay • Đảm bảo tư cách pháp lý của người ký trên hợp đồng • Sự phù hợp của nội dung hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay với quyết định phê duyệt của người có thẩm quyền và tính ràng buộc có lợi cho NHCTVN-CN11 - Kiểm tra việc nhập dữ liệu của khoản vay thuộc phần hành trên hệ thống INCAS - Chỉnh sửa và hoàn thiện kịp thời các thiếu sót trên hồ sơ được phát hiện sau khi kiểm tra, giám sát Lãnh đạo phòng khách hàng thực hiện: - Rà soát việc nhập dữ liệu của cán bộ tín dụng - Đề xuất các biện pháp xử lý sai sót Cán bộ quản lý rủi ro thực hiện - Kiểm tra, rà soát lại các yếu tố rủi ro về hồ sơ khách hàng và hồ sơ liên quan đến khoản vay trên cơ sở hồ sơ do các phòng khách hàng cung cấp và các nguồn thông tin khác. - Kiểm tra, giám sát việc nhập dữ liệu của khoản vay vào hệ thống INCAS của phòng khách hàng - Lập phiếu báo lỗi cho phòng khách hàng theo từng hợp đồng tín dụng, trường hợp phát hiện lỗi mang tính rủi ro cao phải trình người có thẩm quyền xem xét quyết định. Lãnh đạo tổ quản lý rủi ro - Kiểm soát lại các nội dung kiểm tra, đề xuất của cán bộ quản lý rủi ro và yêu cầu hoàn thiện, bổ sung - Đôn đốc, kiểm tra việc nhập dữ liệu vào hệ thống INCAS của phòng khách hàng. - Đề xuất các biện pháp xử lý sai sót Người có thẩm quyền quyết định xử lý sau khi kiểm tra: - Quyết định việc thoả thuận, bổ sung các nội dung cần thiết để đảm bảo an toàn cho khoản vay. 33 - Quyết định các biện pháp xử lý theo đề nghị của phòng khách hàng, tổ quản lý rủi ro trong phạm vi thẩm quyền Bước 2: Phê duyệt, ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng Nếu đơn xin vay được chấp thuận, các bộ phận tiến hành kiểm soát: Cán bộ tín dụng thực hiện - Kiểm tra điều kiện giải ngân: • Kiểm tra việc đáp ứng các điều kiện giải ngân theo quy định và nội dung thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, cam kết bảo lãnh. • Kiểm tra lại tình hình khách hàng, tài sản thế chấp nếu thời điểm giải ngân quá 3 tháng theo thời điểm quyết định cho vay. - Kiểm tra nội dung giải ngân: • Đối tượng giải ngân, số tiền giải ngân • Sự phù hợp của hình thức rút vốn với nội dung, điều kiện thanh toán của chứng từ rút vốn, mục đích, đối tượng vay vốn • Kiểm tra hóa đơn, chứng từ hồ sơ liên quan đến đối tượng đề nghị rút vốn và đối tượng vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; kiểm tra số tiền giải ngân được ghi trên chứng từ rút tiền • Kiểm tra thực tế đối tượng giải ngân ( nếu cần thiết ) - Kiểm tra việc xử lý phát sinh khi giải ngân • Kiểm tra lại hồ sơ, thủ tục, trình tự thực hiện trong trường hợp có sự thay đổi các nội dung đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng • Trong thời gian giải ngân nếu phát hiện khách hàng có những biểu hiện khó khăn về tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc vi phạm các cam kết, cán bộ tín dụng báo cáo kịp thời thực trạng và đề xuất biện pháp xử lý với lãnh đạo phòng và người có thẩm quyền. - Rà soát lại việc nhập dữ liệu của khoản vay thuộc phần hành công việc của mình trên hệ thống INCAS - Thực hiện chỉnh sửa, hoàn thiện kịp thời những thiếu sót trên hồ sơ được phát hiện trong quá trình kiểm tra. 34 Lãnh đạo phòng khách hàng thực hiện. - Kiểm soát lại các nội dung kiểm tra, yêu cầu hoàn thiện, bổ sung - Đôn đốc việc bổ sung hoàn thiện và duy trì dữ liệu liên quan đến khoản vay và thực hiện các công việc của mình trên hệ thống INCAS của cán bộ tín dụng. - Đề xuất các biện pháp xử lý sai sót Cán bộ quản lý rủi ro thực hiện - Kiểm tra, giám sát việc nhập dữ liệu giải ngân vào hệ thống INCAS của phòng khách hàng. - Lập phiếu thông báo lỗi cho phòng khách hàng theo từng hợp đồng tín dụng khi phát hiện lỗi hoặc theo định kỳ. Lãnh đạo tổ quản lý rủi ro thực hiện. - Đôn đốc kiểm tra việc nhập dữ liệu.vào hệ thống INCAS của phòng khách hàng. Người có thẩm quyền quyết định xử lý sau kiểm tra. - Tăng cường cán bộ/biện pháp kiểm tra, giám sát trong trường hợp cần thiết - Dừng/tạm dừng giải ngân; áp dụng các biện pháp giám sát đặc biệt đối với các trường hợp có rủi ro cao. - Quyết định các biện pháp xử lý theo đề nghị của phòng khách hàng trong phạm vi thẩm quyền Bước 3:Thanh toán nợ vay và kết thúc hợp đồng tín dụng Cán bộ tín dụng thực hiện: - Kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn vay • Thường xuyên theo dõi diễn biến dư nợ của khách hàng, trạng thái nợ của hợp đồng tín dụng qua phân hệ cho vay INCAS. • Chậm nhất 5 ngày làm việc trước khi đến hạn nợ cán bộ tín dụng phải thông báo cho khách hàng thu xếp nguồn trả nợ đúng hạn. • Đôn đốc khách hàng gửi đầy đủ, đúng hạn các báo cáo theo yêu cầu. • Kiểm tra sử dụng vốn vay theo định kỳ hoặc đột xuất. 35 • Định kỳ 6 tháng/lần, kiểm tra toàn diện tình hình tài chính, đánh giá lại tài sản bảo đảm, định kỳ hàng năm phân tích tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh và quan hệ tín dụng của khách hàng. • Xây dựng phương án, biện pháp quản lý, thu hồi nợ vay đối với từng khoản vay hoặc từng hợp đồng tín dụng • Cập nhật, bổ sung các dữ liệu liên quan đến khoản vay vào hệ thống INCAS. - Kiểm tra việc xử lý các phát sinh trong quá trình quản lý khoản vay. • Kiểm tra thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ • Kiểm tra, định giá lại tài sản bảo đảm • Cập nhật, bổ sung các dữ liệu liên quan đến khoản vay vào hệ thống INCAS. - Kiểm tra việc thanh lý hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay và giải chấp tài sản. • Phối hợp bộ phận kế toán đối chiếu, kiểm tra số tiền trả nợ gốc, lãi, phí • Tuân thủ quy trình xuất kho tài sản bảo đảm, hồ sơ tài sản bảo đảm và thủ tục xóa đăng ký giao dịch bảo đảm. • Rà soát lại việc nhập dữ liệu của khoản vay thuộc phần hành công việc mình trên hệ thống INCAS. • Thực hiện kiểm tra, hoàn thiện hồ sơ sau khi giải ngân.trường hợp phát hiện sai sót sau khi giải ngân, báo cáo đề xuất cho người có thẩm quyền xử lý. Lãnh đạo phòng khách hàng thực hiện. - Bố trí và đôn đốc cán bộ tín dụng thực hiện tốn công việc của mình, kiểm soát lại các nội dung kiểm tra, yêu cầu hoàn thiện, bổ sung - Ký trên các biên bản kiểm tra, phân tích khách hàng… của cán bộ tín dụng - Đôn đốc việc bổ sung hoàn thiện và duy trì dữ liệu liên quan đến khoản và thực hiện các công việc của mình trên hệ thống INCAS. - Đề xuất các biện pháp xử lý sai sót Cán bộ quản lý rủi ro thực hiện - Rà soát phát hiện kịp thời các rủi ro có thể phát sinh trong quá trình sử dụng vốn vay và khi thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ của khách hàng 36 - Phối hợp với cán bộ tín dụng kiểm tra việc chấp hành, việc tuân thủ nội dung trong thông báo phê duyệt của trụ sở chính (nếu có) - Kiểm tra, giám sát việc nhập dữ liệu giải ngân vào hệ thống INCAS của phòng khách hàng. - Lập phiếu thông báo lỗi cho phòng khách hàng theo từng hợp đồng tín dụng khi phát hiện lỗi hoặc theo định kỳ. Lãnh đạo tổ quản lý rủi ro thực hiện. - Kiểm soát lại các nội dung kiểm tra, đề xuất của cán bộ quản lý rủi ro và yêu cầu hoàn thiện bổ sung các nội dung chưa đầy đủ - Đôn đốc kiểm tra cán bộ quản lý rủi ro giám sát việc nhập dữ liệu liên quan đến khoản vay vào hệ thống INCAS của phòng khách hàng. - Ghi rõ ý kiến trên tờ trình đề xuất các biện pháp xử lý của cán bộ quản lý rủi ro Người có thẩm quyền quyết định xử lý sau kiểm tra. - Tăng cường cán bộ/biện pháp kiểm tra, giám sát trong trường hợp cần thiết - Dừng/tạm dừng giải ngân; áp dụng các biện pháp giám sát đặc biệt đối với các trường hợp có rủi ro cao. - Quyết định các biện pháp xử lý theo đề nghị của phòng khách hàng trong phạm vi thẩm quyền • Bước 4: Lưu hồ sơ 2.3.2. Các quy định về thẩm quyền, giới hạn tín dụng và thẩm định rủi ro độc lập 2.3.2.1. Về thẩm quyền - Hội đồng tín dụng cơ sở: Trên cơ sở mức ủy quyền của Tổng Giám Đốc, Hội đồng tín dụng cơ sở quyết định mức phán quyết cao nhất cho Giám Đốc Chi nhánh. Giám Đốc chi nhánh được ủy quyền cho Trưởng phòng giao dịch, Trưởng điểm giao dịch. Quyết định giới hạn tín dụng, giới hạn cho vay, bảo lãnh…. theo quy chế hội đồng tín dụng. Định kỳ hàng năm hội đồng tín dụng cơ sở định hướng cơ cấu tín dụng cho chi nhánh. 37 Các món vay phải thông qua hội đồng tín dụng cơ sở gồm: - Các món vay từ 70 % mức phán quyết của chi nhánh trở lên - Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất cho khoản vay từ 5 tỷ trở lên 2.3.2.2. Quy định về giới hạn tín dụng Giới hạn tín dụng là tổng mức cấp tín dụng tối đa mà NHCTCN11 có thể chấp nhận trong giao dịch đối với một khách hàng, bao gồm: giới hạn cho vay, giới hạn tài trợ thương mại và giới hạn thấu chi. Thực hiện giới hạn tín dụng trong những trường hợp: Khách hàng là doanh nghiệp lần đầu quan hệ tín dụng; Giới hạn tín dụng theo định kỳ tối thiểu một năm. Các mức giới hạn tín dụng áp dụng: - Giới hạn cho vay/bảo lãnh/chiết khấu/bao thanh toán một khách hàng không vướt quá 15% vốn tự có của Ngân hàng Công thương Việt Nam - Giới hạn bảo lãnh và cho vay không vượt quá 25% vốn tự có của Ngân hàng Công thương Việt Nam - Giới hạn cho vay của một nhóm khách hàng liên quan không vượt quá 50% vốn tự có của Ngân hàng Công thương Việt Nam - Giới hạn cho vay và bảo lãnh của một nhóm khách hàng liên quan không vượt quá 60% vốn tự có của Ngân hàng Công thương Việt Nam 2.3.2.3. Quy định về thẩm định độc lập: - Các khách hàng có quan hệ lần đầu với ngân hàng - Giới hạn tín dụng cho khách hàng là tổ chức kinh tế từ 25 tỷ trở lên (đối với chi nhánh được ủy quyền phán quyết từ 50 tỷ trở lên) và từ 15 tỷ trở lên ( đối với chi nhánh được ủy quyền dưới 50 tỷ ) - Giới hạn cho vay/ bảo lãnh/ chiết khấu đối với khách hàng là tổ chức kinh tế từ 15 tỷ đồng trở lên (đối với chi nhánh được ủy quyền phán quyết từ 50 tỷ trở lên) và từ 10 tỷ trở lên ( đối với chi nhánh được ủy quyền dưới 50 tỷ ) - Giá trị một khoản cấp tín dụng đối với khách hàng là tổ chức kinh tế dưới hình thức cho vay/ bảo lãnh/ chiết khấu từ 7 tỷ đồng trở lên (đối với chi nhánh được ủy quyền phán quyết từ 50 tỷ trở lên) và từ 5 tỷ trở lên (đối với chi nhánh được ủy quyền dưới 50 tỷ) 38 - Các trường hợp khác do người có thẩm quyền yêu cầu. 2.3.3. Áp dụng công nghệ trong quản lý cho vay: Hệ thống INCAS (Advanced management System): Là phần mềm quản lý và thanh toán, được mua từ Malaysia. Được áp dụng từ năm 2005 trong dự án hiện đại hóa Ngân Hàng. Hệ thống INCAS đã giúp cho trụ sở chính giám sát được toàn bộ hoạt động và việc thực hiện quy trình nghiệp vụ của tất cả các chi nhánh, giám sát việc cấp hạn mức tín dụng và các quyết định phê duyệt. • Hệ thống INCAS quản lý, xử lý dữ liệu tập trung và tích hợp các ứng dụng của các Module: cho vay, tài trợ thương mại, thông tin khách hàng, báo cáo quản lý, quản lý nợ tập trung… đã giúp cho công tác kiểm soát nội bộ được hiệu quả. Hệ thống có chức năng cung cấp thông tin, cụ thể: - Cho phép vấn tin trực tuyến vào bất cứ thời điểm nào khi cần thiết - Thông tin về khách hàng, từng hợp đồng cho vay, từng tài sản bảo đảm. - Thông tin liên quan đến giao dịch trong ngày, trong tháng và sản phẩm cho vay - Nhật ký các xử lý giao dịch. • Giới thiệu về Module cho vay: - Module cho vay có 68 tham số - Tham số cho vay chi phối tất cả các hoạt động của Module cho vay và các hoạt động của Module tài trợ thương mại, Module tiền gửi. - Tham số cho vay có thể thay đổi linh hoạt tùy theo mục đích quản lý của Ngân hàng - Trong tham số, các tiêu thức quản lý, phân loại đều được mã hóa, giúp cho việc quản lý thống nhất trong toàn hệ thống và chiết xuất thông tin thuận lợi, chính xác - Một số tham số cơ bản trong Module cho vay:  CIF (customer information file): Quản lý thông tin khách hàng khi lần đầu tiên giao dịch vay vốn và được khai báo trong hệ thống. Mỗi khách hàng có một số CIF duy nhất dùng trong toàn hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam. 39  A/A (Accomodation of Application): Là số dư tín dụng cao nhất dành cho một khách hàng bao gồm hạn mức dư nợ (cho vay và thấu chi) và hạn mức tài trợ thương mại (L/C và bảo lãnh). Mỗi khách hàng chỉ có một số A/A duy nhất. Hạn mức cấp trên A/A là hạn mức áp dụng cho khách hàng đó.  Facility: Được sử dụng để quản lý hạn mức hoặc quản lý hợp đồng của từng loại sản phẩm hoặc từng nhóm sản phẩm. Một A/A có thể có nhiều Facility, Facility có nhiều cấp từ 0-9 tùy thuộc vào mục tiêu quản lý. Chức năng của Facility: Quản lý hạn mức của các tài khoản vay thuộc từng facility. Tùy theo đặc điểm của từng khoản vay có thể sử dụng các Facility khác nhau: Facility tuần hoàn: Hạn mức còn lại được quản lý theo dư nợ gốc. Facility không tuần hoàn:Hạn mức còn lại được quản lý theo doanh số. Vídụ: Facility tuần hoàn và không tuần hoàn Ngân hàng cùng khách hàng ký một hợp đồng tín dụng 10 tỷ trong một năm: Từ 01/01/2007 đến 31/12/2007. Ngày 05/01/2007 khách hàng giải ngân 6 tỷ Ngày 05/7/2007 khách hàng trả 3 tỷ. Ngày 10/07/2007 khách hàng có nhu cầu giải ngân hết theo hợp đồng. Mức giải ngân tối đa là: Nếu áp dụng Facility tuần hoàn: 10 – (6 – 3) = 7 tỷ Nếu áp dụng Facility không tuần hoàn: 10 – 6 = 4 tỷ. Facility chia sẻ và không chia sẻ: Facility chia sẻ: Dưới Facility gốc có thể tạo những Facility con Facitlity không chia sẻ: Dưới facility là tài khoản vay (không có facility con) Vì vậy, đối với phương thức cho vay hạn mức, hoặc cho vay từng lần nhiều loại đồng tiền, nhiều mức lãi suất khác nhau ngân hàng thường sử dụng chức năng tuần hoàn, chia sẻ của Facility và sử dụng chức năng không tuần hoàn, không chia sẻ đối với cho vay từng lần chỉ áp dụng một loại đồng tiền hoặc một mức lãi suất,.. 40 Tài khoản cho vay: Được dùng để theo dõi và quản lý diễn biến của từng khoản vay theo từng hợp đồng tín dụng cụ thể. Tài khoản cho vay được gắn trực tiếp với Facility cho vay Tài khoản cho vay có 3 loại: Tài khoản thông thường, tài khoản chính và tài khoản chi tiết Tùy theo thuộc tính của Facility có thể mở một hoặc nhiều tài khoản thông thường, có thể mở một tài khoản chính và một hoặc nhiều tài khoản chi tiết. • Ích lợi của Module cho vay: - Quản lý hạn mức tổng thể của một khách hàng - Có khả năng kiểm tra và phê duyệt trực tuyến tổng hạn mức cho vay - Có khả năng theo dõi, quản lý, giám sát một khoản vay từ khi khởi tạo đến khi kết thúc - Có thể vấn tin trực tuyến về toàn bộ hoạt động cho vay đối với từng khách hàng, từng sản phẩm cho vay của từng chi nhánh và toàn hệ thống, giúp cho lãnh đạo có thông tin chính xác để ra các quyết định quản lý phù họp, kịp thời. • Sự tương thích giữa Module cho vay với quy trình cho vay: - Khi khách hàng đến vay: thực hiện khai báo thông tin khách hàng, tạo CIF. - Duyệt giới hạn tín dụng: thực hiện tạo và phê duyệt hạn mức A/A, nhập thông tin khách hàng, hệ thống sẽ tự tính điểm làm cơ sở phân loại khách. - Ký hợp đồng cho vay: tạo và phê duyệt Facility - Tài sản bảo đảm hoàn tất thủ tục công chứng và đăng ký giao dịch: liên kết tài sản bảo đảm, khởi tạo và phê duyệt liên kết tài sản thế chấp với Facility (tương ứng với tài sản thế chấp cho hợp đồng vay nào thì liên kết tài sản thế chấp đó cho facility tương ứng). - Tạo tài khoản: Giải ngân 2.3.4. Những kết quả đạt được từ hoạt động phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng tại NHCTVN-CN11 2.3.4.1. Công tác nguồn vốn: 41 BẢNG 2: TÌNH HÌNH NGUỒN VỐN QUA 3 NĂM ĐVT: triệu đồng Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 CHỈ TIÊU Số dư So với 2005 (% ) Tỷ Trọng (%) Số dư So với 2006 (% ) Tỷ Trọng (%) Số dư So với 2007 (% ) Tỷ Trọng (% ) - Phân theo đơn vị tiền tệ 600.285 115,82 100 715.763 119,24 100 902.261 126,06 100 + Nguồn vốn VND 500.004 118,16 83,29 603.742 120,75 84,35 790.383 130,91 87,60 + Ngoại tệ quy ra VND 100.281 105,40 16,71 112.021 111,71 15,65 111.878 99,87 12,40 -Phân theo nguồn hình thành 600.285 115,82 100 715.763 119,24 100 902.261 126,06 100 + Nguồn vốn huy động 448.425 131,19 74,70 561.813 125,29 78,49 762.659 135,75 84,53 + Điều chuyển vốn nội bộ 55.782 66,16 9,29 42.437 76,08 5,93 34.642 81,63 3,84 + Vốn khác 96.078 104,24 16,01 111.513 116,07 15,58 104.960 94,12 11,63 TỔNG NGUỒN VỐN 600.285 115,82 100 715.513 119,24 100 902.261 126,06 100 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11 Qua bảng số liệu thống kê về tình hình nguồn vốn của Chi nhánh trong ba năm 2006-2008, nhận thấy, tổng nguồn vốn năm 2006 so với năm 2005 tăng 15,82%, năm 2007 so với năm 2006 tăng 19,204% và năm 2008 so với năm 2007 tăng 26,06%. Nguồn vốn tăng chủ yếu do nguồn vốn huy động tăng, thể hiện sự cố gắng của Chi nhánh trong việc tự cân đối vốn kinh doanh, giảm dần sự lệ thuộc vào NHCTVN thông qua chỉ tiêu vốn điều chuyển nội bộ có xu hướng giảm dần về tỷ trọng trong cơ cấu nguồn vốn. 2.3.4.2. Công tác sử dụng vốn: 42 BẢNG 3: TÌNH HÌNH CHO VAY QUA 3 NĂM ĐVT: triệu đồng CHỈ TIÊU Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 2007/ 2006 (%) 2008/2007 (%) DOANH SỐ CHO VAY 757.230 888.944 1.101.262 117,39 123,88 - VND 756.830 876.114 1.080.574 115,76 123,34 - Ngoại tệ quy ra VND 400 12.830 20.688 3,21 161,25 DOANH SỐ THU NỢ 730.288 739.343 1.062.744 101,24 143,74 - VND 730.288 739.343 1.062.744 101,24 143,74 - Ngoại tệ quy re VND 0 0 0 DƯ NỢ 544.013 693.614 732.132 127,50 105,55 - VND 445.250 582.021 599.851 130,72 103,06 - Ngoại tệ quy re VND 98.763 111.593 132.281 112,99 118,54 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11 Hoạt động tín dụng của NHCTVN-CN11 trong 03 năm qua, ở cả ba chỉ tiêu đều có sự tăng trưởng rõ nét. Doanh số cho vay và dư nợ VND đến thời điểm cuối mỗi năm tuy đều tăng nhưng mức độ tăng của doanh số cho vay chậm hơn mức độ tăng của dư nợ, vì trong các năm qua xu hướng thời hạn cho vay được định kỳ hạn nợ dài hơn, phù hợp với vòng quay vốn của đơn vị. Ngoài ra việc kéo dài thời hạn cho vay cũng phản ánh khả năng tự cân đối vốn của chi nhánh, nên chi nhánh mạnh dạn hơn trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Không như trước đây, do nguồn vốn điều chuyển nội bộ chiếm tỷ trọng cao, lãi suất cao hơn lãi suất huy động bình quân của chi nhánh nên việc định kỳ hạn nợ chưa thật chính xác, mà đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn. Nhìn chung, NHCTVN-CN11 đã thực hiện khá tốt công tác cho vay và thu nợ, đảm bảo quay vòng vốn vay, gia tăng hiệu quả hoạt động. Trong 3 năm qua, do việc sàng lọc khách hàng cẩn trọng, nên khách hàng của NHCTVN-CN11 đều là những khách hàng tốt, bao gồm những khách hàng truyền thống, chuyên sản xuất kinh doanh những sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu trong nước và xuất khẩu như: may mặc, da giày, nhựa gia dụng, chế biến nông, hải sản….và một số khách hàng mới nổi, kinh doanh về cơ sở hạ tầng: nhà ở, cao ốc văn phòng cho thuê.. Quá trình cho vay luôn được thẩm định chặt chẻ, ngoài ra do 43 dư nợ tại chi nhánh gần như gần 100% là dư nợ có tài sản bảo đảm nên trong 3 năm qua chi nhánh gần như không bị mất vốn do khách hàng không trả được nợ. Dư nợ trong 2 năm: 2007 và 2008 tăng cũng do nguyên nhân chi nhánh thực hiện cho vay hợp vốn Dự án Nhà máy Điện đạm Cà Mau với Chủ đầu tư: Tổng Công ty dầu khí Việt Nam, khoản vay được bảo lãnh bởi Bộ tài chính.Tham gia dự án hợp vốn này, gồm có Ngân hàng ngoại thương VN với vai trò đầu mối, các ngân hàng thành viên: Ngân hàng Công thương Việt nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Trong hệ thống Ngân hàng Công thương thì các Chi nhánh sẽ thực hiện giải ngân gồm có: Sở Giao dịch 1-NHCTVN, NHCTVN- CN11, NHCTVN- CN Cà Mau. Tổng dự án đầu tư: 384,84 triệu USD, trong đó: - NH Ngoại thương VN: 78% - NH Nông nghiệp và phát triển Nông thôn VN: 4% - NH Công thương VN: 18 % ( CN 11: 4% ) Trong chỉ tiêu cho vay bằng ngoại tệ, đều là khoản giải ngân cho Nhà máy Điện Đạm Cà Mau, và khoản cho vay chưa đến kỳ hạn trả nợ nên không phát sinh doanh số thu nợ về ngoại tệ quy ra đồng Việt Nam. Nhìn chung, trong hoạt động cho vay, tuy chi nhánh đã rất chú trọng đến việc phát triển an toàn và hiệu quả, đảm bảo không để phát sinh rủi ro, nhưng hoạt động cho vay còn nghèo nàn, các sản phẩm tín dụng và các nghiệp vụ hỗ trợ chưa đa dạng. Cụ thể là các hoạt động thanh toán, tín dụng liên quan đến xuất nhập khẩu còn nhiều hạn chế: như mở L/C, chiết khấu bộ chứng từ, nhờ thu….nên một số khách hàng chưa mạnh dạn đến vay vốn và duy trì quan hệ với chi nhánh. 44 BẢNG 4: CƠ CẤU DƯ NỢ THEO THỜI GIAN VÀ THEO NGÀNH ĐVT: triệu đồng CHỈ TIÊU Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 2007/ 2006 (% ) 2008/2007 (%) PHÂN THEO THỜI HẠN 544.013 693.614 732.132 127.50 105.55 - Ngắn hạn 443.091 450.985 494.441 101.78 109.64 - Trung, dài hạn 100.922 242.629 237.691 240.41 97.96 PHÂN THEO NGÀNH HÀNG 544.013 693.614 732.132 127.50 105.55 - Công nghiệp 297.929 402.762 265.721 135.19 65.97 - Thương nghiệp, dịch vụ 184.080 225.142 295.293 122.31 131.16 - Hạ tầng 3.843 15.206 18.800 395.68 123.64 - Khác 58.161 50.504 152.318 86.83 301.60 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11 Qua bảng tổng hợp nhận thấy, cho vay ngắn hạn tại chi nhánh chiếm tỷ lớn trong tổng dư nợ, cụ thể là 81,45% trong năm 2006; 65,02% năm 2007 và 67,53% năm 2008. Xét theo mức độ đầu tư cho từng ngành kinh tế thì cho vay công nghiệp và thương nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất, phù hợp với cơ cấu kinh tế của Quận 11 nói riêng và kinh tế thành phố nói chung. Năm 2006 tỷ trọng cho vay công nghiệp chiếm 54,77%; năm 2007 chiếm: 58,07% và năm 2008 là: 36,29%. Đối với thương nghiệ, dịch vụ, năm 2006 tỷ trọng là: 36,02%, năm 2007: 32,46%, năm 2008: 40,33%. Như đã phân tích ở bảng 3, do cho vay dự án Nhà máy Điện Đạm Cà Mau và việc giải ngân tập trung chủ yếu từ năm 2006, nên số dư cho vay trung và dài hạn của các năm 2007 và 2008 tăng nhanh. Dư nợ cho vay công nghiệp năm 2007 tăng cao và giảm nhanh trong năm 2008 là do quá trình khai báo vào hệ thống sản phẩm cho vay chưa chính xác nên năm 2008 chi nhánh đã tách dư nợ những khoản vay này ra khỏi nhóm ngành công nghiệp. Nhìn chung cơ cấu đầu tư theo ngành ổn định và tăng trưởng theo mức tăng trưởng chung của Chi nhánh. 2.3.5. Tình hình phân loại nợ, trích dự phòng và xử lý nợ xấu 45 BẢNG 5: DƯ NỢ PHÂN THEO NHÓM ĐVT: triệu đồng CHỈ TIÊU Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 DƯ NỢ CHO VAY 544.013 693.614 732.132 + Nợ nhóm 1 530.734 682.698 730.631 + Nợ nhóm 2 12.618 5.100 830 + Nợ xấu: 661 5.816 671 - Nợ nhóm 3 190 0 0 - Nợ nhóm 4 0 5.200 0 - Nợ nhóm 5 471 616 671 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11 Do Chi nhánh quan tâm đúng mức công tác quản trị rủi ro nên đã hạn chế việc phát sinh nợ nhóm 2 và nợ xấu. Tuy nhiên nợ xấu đến cuối năm 2007 tăng cao, số dư là: 5.816 triệu đồng. Đây chủ yếu là những khoản nợ quá hạn từ một năm trở lên mà đã tồn tại từ cuối năm 2006, lúc đó còn ở nợ nhóm 2. Tuy Chi nhánh đã có nhiều cố gắng trong việc giải quyết các khoản nợ này từ rất sớm, thông qua các biện pháp thương lượng như: quản lý các khoản thu của khách hàng; để khách hàng tự bán tài sản thế chấp;… nhưng cuối cùng do khách hàng cố tình chây ỳ, chi nhánh phải đưa ra tòa phát mãi tài sản. Tuy nhiên do khách hàng còn vay nợ nhiều đối tượng khác nên công việc tố tụng kéo dài chưa thể xử lý được tài sản thế chấp. BẢNG 6: PHÂN LOẠI NỢ VÀ TÍNH TOÁN SỐ TIỀN PHẢI TRÍCH LẬP DỰ PHÒNG RỦI RO Đơn vị: Triệu đồng Đến 31/12/ 2006 Đến 31/12/ 2007 Đến 31/12/ 2008 Chỉ tiêu Dư nợ gốc của các khoản nợ Giá trị khấu trừ TSĐB Số tiền dự phòng phải trích Dư nợ gốc của các khoản nợ Giá trị khấu trừ TSĐ B Số tiền dự phòng phải trích Dư nợ gốc của các khoản nợ Giá trị khấu trừ TSĐB Số tiền dự phòng phải trích I.Dự phòng chung 695.103 5.213 742.067 5.276 II. Dự phòng cụ thể 13.279 12.745 281 10.916 8.747 947 1.501 1.954 51 1. Nợ nhóm 2 12.618 12.196 126 5.100 3.795 65 830 647 9 2. Nợ nhóm 3 190 219 0 0 0 0 0 0 0 3. Nợ nhóm 4 0 5.200 3.746 727 0 0 0 4. Nợ nhóm 5 471 330 155 616 603 155 671 1.307 42 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11 46 BẢNG 7 : SỐ TRÍCH DỰ PHÒNG RỦI RO Đơn vị: Triệu đồng Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số dự phòng đã trích Số dự phòng đã xử lý RR Số dự phòng còn lại Số dự phòng đã trích Số dự phòng đã xử lý RR Số dự phòng còn lại Số dự phòng đã trích Sốdự phòng đã xử lý RR Sốdự phòng còn lại Số tiền dự phòng 3.823 5.200 -1.377 7.825 0 6.448 1.259 2.384 5.323 - Dự phòng chung 0 0 0 4.749 0 4.749 125 0 4.874 - Dự phòng cụ thể 3.823 5.200 -1.377 3.076 0 1.699 1.134 2.384 449 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11 Thực hiện theo quyết định 493/NHNN ngày 22/04/2005, NHCTVN đã ban hành quyết định 234/QĐ-HĐQT-NHCT37 ngày 09/06/2005 để quy định và hướng dẫn việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro trong hệ thống Ngân hàng Công thương. Chi nhánh 11 đã chấp hành nghiêm túc và thực hiện phân loại và trích dự phòng đầy đủ. Việc trích dự phòng trên cơ sở tính toán phân loại hàng hàng, chi nhánh báo cáo về NHCTVN và định kỳ hàng quý NHCTVN sẽ thông báo số trích dự phòng cho chi nhánh. Trong năm 2006 số thực trích dự phòng rủi ro là: 3.823 triệu đồng, trong đó toàn bộ là trích dự phòng cụ thể. Số dự phòng chung chưa trích vì do NHCTVN chưa phân bổ mức trích cho Chi nhánh. Đến năm 2007 thì số trích dự phòng của Chi nhánh 11 là: 7.825 trịệu đồng, gồm 4.749 triệu đồng là dự phòng chung và 3.076 là dự phòng cụ thể. Đến năm 2008 tình hình nợ nhóm 2 và nợ xấu không phát sinh thêm nhiều nên chi nhánh chỉ trích thêm cho các khoản dự phòng chỉ có: 1.259 triệu đồng, gồm 125 triệu là trích dự phòng chung và 1.134 triệu là dự phòng cụ thể. 47 BẢNG 8: TỔNG HỢP TÌNH HÌNH NỢ XẤU Đơn vị: Triệu đồng DƯ NỢ STT CHỈ TIÊU 31/12/2006 31/12/2007 31/12/2008 1 Ngân hàng chưa khởi kiện 519 474 629 2 Ngân hàng đang khởi kiện chưa có bản án 100 5.200 0 3 Đang thi hành án 0 100 0 4 Nợ xấu không khả năng thu hồi 42 42 42 TỔNG CỘNG NỢ XẤU 661 5.816 671 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11 BẢNG 9: TÌNH HÌNH XỬ LÝ NỢ XẤU Đơn vị: Triệu đồng STT CHỈ TIÊU Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 1 Nợ xấu đầu năm 12.422 661 5.816 2 Nợ xấu phát sinh trong năm 456 5.300 0 3 Nợ xấu được xử lý trong năm: trong đó: - Bằng nguồn dự phòng rủi ro - Do phát mãi tài sản - Khác 12. 217 5.200 250 6.767 145 0 0 145 5.145 2.384 1.000 1.761 TỔNG CỘNG NỢ XẤU 661 5.816 671 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11 Về việc xử rủi ro tín dụng từ nguồn dự phòng rủi ro, trong năm 2006, NHCTVN đã cho Chi nhánh xử lý rủi ro 2 khoản nợ xấu với tổng số là 5.200 triệu đồng của hai doanh nghiệp: một doanh nghiệp kinh doanh chế biến thức ăn gia súc, kinh doanh thua lỗ do rơi vào thời điểm dịch cúm gia cầm phát sinh; một doanh nghiệp vay vốn kinh doanh chứng khoán thua lỗ. Nguồn xử lý rủi ro vượt mức dự phòng rủi ro đã trích được NHCTVN phân bổ cho Chi nhánh trích bù bổ sung trong năm 2007. Tuy nhiên do các khoản vay này đều có tài sản thế chấp nên Chi nhánh đều thu hồi được vốn và lãi vào đầu năm 2008. Năm 2007, Chi nhánh xử lý được 145 triệu, chủ yếu do khách hàng tự trả nợ, đến năm 2008 Chi nhánh xử lý được 2.384 triệu từ nguồn dự phòng (khoản nợ được hạch toán ngoại bảng) và thu nợ được 1.761 triệu nên nợ xấu đã giảm đáng kể, tuy 48 nhiên quỹ dự phòng cụ thể đến cuối năm 2008 tại Chi nhánh chỉ còn 449 triệu đồng. Nhìn chung, những thiệt hại do rủi ro tín dụng tại chi nhánh không lớn. Kết quả này một phần do chi nhánh rất coi trọng yếu tố tài sản thế chấp cho các khoản vay. Tuy nhiên trước tình hình suy giảm chung của kinh tế thế giới, sự “đóng băng” của trường bất động sản, nếu không quan tâm đến công tác quản trị và nâng cao chất lượng thẩm định, thì Chi nhánh sẽ có nhiều nguy cơ mất vốn do tài sản thế chấp phát mãi thu hồi không đủ. 2.3.6. Nguyên nhân rủi ro tín dụng tại NHCTVN-CN11 Qua việc phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tại NHCTVN-CN11, cụ thể là phân tích tình hình sử dụng vốn và chất lượng tín dụng thông qua tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, nhận thấy có nhiều nguyên nhân chủ quan từ phía chính NHCTVN- CN11 và nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế nói chung, các cơ quan ban ngành có liên quan, và từ phía các khách hàng của ngân hàng, dẫn đến việc phát sinh rủi ro tín dụng. Việc nhận biết được nguyên nhân dẫn đến rủi ro để có thể đưa ra những giải pháp phù hợp là công việc quan trọng và cần thiết để nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín dụng của NHCTVN-CN11. 2.3.6.1. Nguyên nhân khách quan: + Sự thiếu nhất quán và đồng bộ trong quản lý điều hành của nhà nước và các văn bản luật: Hoạt động tín dụng của NHCTVN-CN11 trong thời gian qua chịu ảnh hưởng không chỉ từ việc hệ thống luật và các văn bản dưới luật liên quan đến hoạt động ngân hàng có sự chồng chéo, không rõ ràng, không hợp lý, thiếu tính chặt chẽ trong đó có các chính sách về xuất nhập khẩu. Như trong thời gian vừa qua, khi Chính Phủ ban hành các văn bản về tăng thuế xuất nhập khẩu một số mặt hàng mà trước đó Chi nhánh đã mở L/C bảo lãnh nhập khẩu hoặc cho vay vốn sản xuất hàng xuất khẩu, do thuế tăng nên việc kinh doanh của một số khách hàng bị thua lỗ, từ đó dẫn đến việc khách hàng chậm trả nợ hoặc không trả được nợ cho ngân hàng. 49 Chính sách quy hoạch thiếu nhất quán cũng gây không ít khó khăn cho nhiều khách hàng của Chi nhánh. Vốn trước đây, địa bàn hoạt động của các khách hàng này đóng tại Quận 11, sau đó do hoạt động sản xuất gây ô nhiễm, theo chủ trương của Quận, một số doanh nghiệp phải thực hiện di dời. Tuy nhiên, do điều kiện vốn đầu tư còn thấp nên không ít doanh nghiệp đã phải tự di dời vào những khu công nghiệp tự phát ở Củ Chi, Bình Tân, Bình Chánh, Long An vào những năm 2000- 2005... Sau một thời gian chưa kịp cho hoạt động ổn định và phát triển, các doanh nghiệp này lại phải hoặc đã có kế hoạch tiếp tục di dời vào những khu công nghiệp tập trung, nên gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc ổn định sản xuất và làm phát sinh thêm các chi phí cho việc tái di dời. Khi một chính sách bị thay đổi đột ngột sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến kế hoạch, cũng như khả năng dự báo sức tiêu thụ trên thị trường của các doanh nghiệp. Việc định hướng chiến lược sản xuất, kinh doanh không phù hợp, không chính xác sẽ dẫn đến sản xuất cung vượt cầu, hàng hoá khó tiêu thụ, giá bán hạ, thua lỗ, doanh nghiệp sẽ không đảm bảo nguồn tiền trả nợ, khi đó rủi ro xảy ra đối với ngân hàng là điều khó tránh khỏi. + Thông tin tín dụng: Trong thời gian qua, NHCTVN-CN11 trước khi quyết định cấp tín dụng, nhiều lần khai thác thông tin từ CIC, tuy nguồn thông tin do CIC cung cấp đã có nhiều cải tiến nhưng vẫn chưa đảm bảo nhanh nhạy, kịp thời, chất lượng thông tin chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu. Các NHTM nói chung và NHCTVN-CN11 nói riêng hiện nay chưa nhận được sự phối hợp hỗ trợ cung cấp thông tin từ các cơ quan chức năng như cơ quan thuế, chi cục thống kê, hay các cơ quan chủ quản. Khi tiến hành phân tích hồ sơ khách hàng, NHCTVN-CN11 cũng còn lệ thuộc khá nhiều vào các số liệu của khách hàng cung cấp mà chưa chủ động tìm kiếm thông tin hay nói cách khác có tình trạng thông tin bất cân xứng giữa các ngân hàng và khách hàng vay . 2.3.6.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía NHCTVN-CN11: + Cán bộ tín dụng: 50 Năng lực, trình độ, kinh nghiệm của một bộ phận cán bộ tín dụng tại NHCTVN- CN11 hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu công việc. Mặc dù tất cả các cán bộ tín dụng đều có trình độ đại học, tốt nghiệp đúng chuyên ngành, tuy nhiên do độ tuổi của đa số cán bộ tín dụng còn khá trẻ, phần lớn vừa được tuyển dụng, còn ít kinh nghiệm nên cần phải có thêm thời gian để được đào tạo thêm, và đúc kết nhiều kinh nghiệm. Bên cạnh nguyên nhân trên, vẫn còn một số ít cán bộ chưa có ý thức tự nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, ít chịu học hỏi kinh nghiệm, chỉ thực hiện công việc một cách thụ động. Thêm vào đó, công tác phân công cán bộ tín dụng quản lý khách hàng của NHCTVN-CN11 hiện nay không theo từng ngành hàng, lĩnh vực kinh doanh nên dẫn đến việc cán bộ tín dụng làm việc theo kiểu đa năng, không chuyên sâu vào một ngành nghề cụ thể nào nên không có nhiều kiến thức chuyên ngành. Cho nên đối với những dự án đòi hỏi phải thẩm định liên quan đến các yếu tố về kỹ thuật, cán bộ tín dụng chưa thể đáp ứng được yêu cầu.. Thuê chuyên gia đánh giá đòi hỏi chi phí cao nên chủ yếu ngân hàng tự tìm hiểu thông tin thông qua sách, báo, tạp chí chuyên ngành, qua mạng internet. Ngoài ra, do khối lượng công việc nhiều trong khi đòi hỏi thời gian giải quyết cho vay phải nhanh chóng để phục vụ khách hàng nên cũng không thể tránh khỏi sơ suất trong tác nghiệp của cán bô tín dụng. + Thông tin tín dụng: Việc thu thập thông tin của chi nhánh về khách hàng, về ngành nghề, về môi trường kinh tế mà khách hàng đang hoạt động còn nhiều hạn chế, chủ yếu thông qua ( CIC ), chi nhánh chưa quan tâm đến công tác lưu trữ và phân tích các thông tin về khách hàng, về tình hình diễn biến giá cả, thị trường trong và ngoài nước một cách hệ thống và thường xuyên. + Tài sản bảo dảm: Rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHCTVN-CN11 trong thời gian qua tuy không nhiều nhưng khi cần đến phát mãi tài sản thế chấp Chi nhánh cũng gặp không ít khó khăn liên quan đến TSBĐ. 51 - Người vay không phải là người chủ sở hữu của tài sản thế chấp mà cũng không phải là tài sản thế chấp của bên thứ 3. Trường hợp này, người vay vốn được chủ sở hữu tài sản uỷ quyền để sử dụng tài sản trong đó có quyền được thế chấp.Về khía cạnh pháp lý khi thế chấp và vay vốn là không sai, và các cơ quan công chứng cũng chấp nhận chứng thực vào hợp đồng thế chấp, nhưng khi cần phát mãi thì người chủ sở hữu gây khó khăn cho Ngân hàng và làm kéo dài thời gian tố tụng. Lý do chủ sở hữu tài sản viện dẫn là không uỷ quyền việc bán tài sản hoặc người được uỷ quyền thế chấp tài sản đã sử dụng vốn vay không phù hợp với thoả thuận với người uỷ quyền. - Việc quản lý, phân loại, cảnh báo về danh mục các TSBĐ chưa được các cán bộ tín dụng làm thường xuyên và định kỳ hàng năm, thậm chí việc định giá lại tài sản đảm bảo chỉ làm chiếu lệ, thường là đánh giá bằng với mức trước đây để hợp pháp hoá cho khoản vay còn dư nợ tại thời điểm định giá lại. Nên có một số trường hợp khi phát mãi, xuất hiện tình trạng giá trị thanh lý thấp hơn so với giá trị thẩm định ban đầu, không đủ thu hồi lãi, buộc Chi nhánh phải thực hiện giảm và xóa lãi cho người vay. - Quá trình định giá trị TSBĐ được chi nhánh thực hiện theo cách các bên tự thoả thuận, sau khi cán bộ tín dụng xác định giá trị tài sản trên cơ sở tham khảo bảng giá đất quy định do UBND TP ban hành hàng năm. Do đa số cán bộ tín dụng tại NHCTVN-CN11 còn khá trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm nên chưa được trang bị đầy đủ nghiệp vụ chuyên môn trong ngành thẩm định giá cũng như sự thông thạo về tài sản cần thẩm định, nhất là trong lĩnh vực bất động sản. Chính vì vậy, khi tiến hành định giá, phương pháp định giá đối với từng loại tài sản chưa được các cán bộ tín dụng sử dụng một cách thích hợp, dẫn đến việc nếu định giá thấp, khách hàng không hài lòng, nhưng nếu định giá cao ngân hàng sẽ khó đảm bảo khả năng thu hồi nợ và lãi vay trong trường hợp khách hàng mất khả năng thanh toán. - Tâm lý chung của phần lớn các cán bộ tín dụng khi cấp tín dụng vẫn chủ yếu dựa vào TSBĐ. Sẽ rất rủi ro nếu cán bộ tín dụng quên rằng khoản vay cần phải được trả bằng chính dòng tiền tạo ra bởi phương án sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng tiền bán TSBĐ. TSBĐ chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh 52 doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến. Tâm lý dựa chủ yếu vào TSBĐ sẽ làm giảm chất lượng thẩm định khoản vay nên sẽ không đánh giá chính xác được hiệu quả và sự an toàn của khoản vay, dễ dẫn đến việc cho vay những dự án rủi ro, khách hàng không uy tín. - Do không thể nắm bắt được chuyên môn trong tất cả các lĩnh vực, nên không tránh khỏi việc cán bộ tín dụng không thể đánh giá được chính xác hiện trạng của tất cả các loại máy móc thiết bị, nhất là đối với những máy móc thiết bị chuyên dụng. Thêm vào đó là tình trạng thông tin bất cân xứng về giá trị thực của TSBĐ giữa khách hàng và ngân hàng cũng là vấn đề cần được quan tâm. Vì khi thế chấp, cầm cố tài sản chỉ có khách hàng biết rõ về hiện trạng của tài sản. Chính vì vậy, khi xảy ra rủi ro, việc phát mãi tài sản để thu hồi nợ gặp không ít khó khăn. - Việc cơ chế pháp lý về bảo đảm tiền vay hiện nay chưa rõ ràng và các vấn đề liên quan đến quá trình xử lý, phát mãi TSBĐ đã gây cản trở không ít cho ngân hàng + Chính sách tín dụng, quy trình tín dụng và mô hình tổ chức: Song song với việc thực hiện đề án hiện đại hóa ngân hàng do NHCTVN triển khai, bên cạnh việc áp dụng công nghệ quản lý hiện đại, NHCTVN đã ban hành, đổi mới nhiều quy định, quy trình cho vay và giám sát cho vay..., đồng thời NHCTVN cũng xây dựng và triển khai mô hình hoạt động mới, điểm nổi bật là đã thay đổi căn bản cơ chế quản lý điều hành hoạt động tín dụng truyền thống bằng mô hình hiện đại. Tại các chi nhánh trong hệ thống NHCTVN, phòng tín dụng được tách ra thành các phòng khách hàng doanh nghiệp và phòng khách hàng cá nhân. Ngoài ra thành lập thêm phòng thẩm định rủi ro độc lập đảm bảo hai chức năng quan trọng trong hoạt động tín dụng là chức năng quan hệ khách hàng và chức năng quản lý rủi ro. Mô hình mới được thực hiện theo Quyết định 063/QĐ- HĐQT-NHCT1 ngày 29/03/2006, nhưng mãi đến 01/07/2007 Chi nhánh mới thành lập được Tổ quản lý rủi ro, nhưng nhân sự đến nay vẫn chưa ổn định. Kể từ khi mô hình mới đi vào hoạt động, tính hiệu quả của quy trình chưa cao vì thực chất ý kiến đề xuất cho vay của phòng khách hàng vẫn có tính quyết định trong xét duyệt cho vay. Tổ quản lý rủi ro chủ yếu hợp thức hóa quy trình cho vay, chưa 53 phát huy vai trò của mình, một phần do kinh nghiệm còn hạn chế một phần do nễ nang chưa có những ý kiến, đề xuất thực sự độc lập. + Công tác thẩm định: Trong quy trình cấp tín dụng, thẩm định được xem là bước quan trọng và ảnh hưởng lớn nhất đến hiệu quả của khoản vay. Rủi ro tín dụng sẽ xảy ra nếu công tác thẩm định không được thực hiện tốt. Khi tiến hành thẩm định, cán bộ tín dụng phải tiến hành thẩm định cả yếu tố uy tín, năng lực quản lý và năng lực quản trị của khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay, công việc đánh giá uy tín của khách hàng đang là vấn đề thật sự khó khăn khi nguồn thông tin của khách hàng còn hạn chế. Cán bộ tín dụng khi đánh giá, chủ yếu dựa vào cảm tính và chủ quan, như căn cứ vào các quan hệ trong quá khứ: khách hàng vay trả đúng hạn được xem là khách hàng có uy tín, còn đối với khách hàng mới quan hệ thì chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng khi tiếp xúc với khách hàng, hoặc qua một số thông tin thu thập được. Trong khi đó, đối tượng khách hàng được xem là chiến lược phục vụ của ngân hàng là khu vực kinh tế tư nhân thì còn quá non trẻ, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có danh tiếng trên thị trường, ý thức của doanh nghiệp trong việc xây dựng uy tín và thương hiệu chưa cao, các hiệp hội ngành thì chưa phát huy vai trò của mình, chưa hỗ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn tốt nghiệp- Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Công Thương Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan