Tài liệu Luận văn Tốt nghiệp Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Công Thương Việt Nam: LUẬN VĂN
Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn
chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Công
Thương Việt Nam
1
CHƯƠNG 1: RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Rủi ro trong hoạt động của các NHTM:
1.1.1. Khái niệm về rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
Định nghĩa truyền thống: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là những biến cố
không mong đợi xảy ra, gây mất mát, thiệt hại tài sản, thu nhập của ngân hàng
trong quá trình hoạt động.
Định nghĩa hiện đại: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là khả năng những sự kiện
chưa chắc chắn trong tương lai sẽ làm cho chủ thể là các NHTM không thể đạt
được những mục tiêu chiến lược và mục tiêu hoạt động, cũng như chi phí cơ hội
của việc làm mất đi những cơ hội thị trường.
1.1.2. Phân loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
Do đặc thù ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ
ngân hàng theo Luật các TCTD nên tính chất hoạt động và rủi ro có những khác
biệt so với các doanh n...
72 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1226 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tốt nghiệp Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Công Thương Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN
Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn
chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Công
Thương Việt Nam
1
CHƯƠNG 1: RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Rủi ro trong hoạt động của các NHTM:
1.1.1. Khái niệm về rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
Định nghĩa truyền thống: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là những biến cố
không mong đợi xảy ra, gây mất mát, thiệt hại tài sản, thu nhập của ngân hàng
trong quá trình hoạt động.
Định nghĩa hiện đại: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là khả năng những sự kiện
chưa chắc chắn trong tương lai sẽ làm cho chủ thể là các NHTM không thể đạt
được những mục tiêu chiến lược và mục tiêu hoạt động, cũng như chi phí cơ hội
của việc làm mất đi những cơ hội thị trường.
1.1.2. Phân loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
Do đặc thù ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ
ngân hàng theo Luật các TCTD nên tính chất hoạt động và rủi ro có những khác
biệt so với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác. Có thể nói, hoạt
động ngân hàng liên quan đến việc chấp nhận rủi ro chứ không phải né tránh rủi
ro. Các NHTM cần đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro -
lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro
chấp nhận. Các NHTM sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà ngân hàng gánh chịu là
hợp lý và kiểm soát được, đồng thời nằm trong phạm vi, khả năng các nguồn lực
tài chính và năng lực tín dụng của mình.
Hoạt động kinh doanh của các NHTM không chỉ bao gồm nghiệp vụ huy động
vốn và cấp tín dụng mà còn rất nhiều lĩnh vực hoạt động khác như bảo lãnh, kinh
doanh ngoại hối, chứng khoán, góp vốn liên doanh, dịch vụ thẻ...
Chính vì vậy nên rủi ro trong hoạt động của các NHTM cũng rất đa dạng:
- Rủi ro tín dụng: là rủi ro về sự tổn thất tài chính, phát sinh từ việc khách hàng đi
vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo
cam kết hoặc việc khách hàng mất khả năng thanh toán. Điều này có nghĩa là các
khoản thanh toán bao gồm cả phần gốc và lãi vay có thể bị trì hoãn, thậm chí là
không được hoàn trả, và hậu quả là sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự luân
2
chuyển tiền tệ và sự bền vững của tính chất trung gian dễ bị tổn thương trong hoạt
động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà
còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác như tài trợ thương
mại, thấu chi, bao thanh toán…
- Rủi ro lãi suất: là rủi ro làm giảm lợi nhuận ròng khi lãi suất biến động theo
chiều hướng bất lợi. Rủi ro lãi suất xảy ra khi có sự chênh lệch giữa kỳ hạn bình
quân của các tài sản và các khoản nợ của ngân hàng trong điều kiện lãi suất thị
trường thay đổi ngoài dự kiến của ngân hàng dẫn đến khả năng giảm thu nhập của
ngân hàng so với dự tính.
- Rủi ro thanh khoản: là rủi ro phát sinh chủ yếu từ xu hướng của các NHTM là
huy động ngắn hạn và cho vay dài hạn, hay nói cách khác là rủi ro khi các NHTM
không đáp ứng được cho các khoản phải trả khi đến hạn thanh toán do tài sản của
ngân hàng không có khả năng thanh khoản hay không thể huy động vốn. Trường
hợp này thường xảy ra nếu như các khoản huy động về mặt kỹ thuật sẽ phải hoàn
trả theo yêu cầu của người gửi tiền. Đặc biệt, như chúng ta đã thấy trong bất cứ
một cuộc khủng hoảng nào thì người gửi tiền sẽ rút tiền của mình ra nhanh hơn
việc người đi vay sẵn sàng trả nợ.
- Rủi ro ngoại hối: là rủi ro phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn của các khoản
ngoại hối mà các NHTM đang nắm giữ, và vì thế làm cho các NHTM có thể phải
gánh chịu thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến động.
- Rủi ro hoạt động: là rủi ro liên quan đến công nghệ, cơ sở hạ tầng, quy trình, con
người trong quá trình hoạt động kinh doanh ngân hàng, hay nói cách khác rủi ro
hoạt động bao gồm toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh từ cách thức mà một NHTM
điều hành các hoạt động của mình.
- Rủi ro luật pháp: là rủi ro ngân hàng có thể bị khởi kiện vì để xảy ra những sai
sót hoặc sự cố trong quá trình hoạt động kinh doanh gây thiệt hại cho khách hàng
và đối tác. Rủi ro luật pháp mà các NHTM phải đối mặt có thể tiềm ẩn trong nhiều
lĩnh vực kinh doanh. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro luật pháp có thể là do con người
hoặc do công nghệ máy móc.Thậm chí, NHTM có thể gặp phải rủi ro luật pháp
ngay cả khi ngân hàng không phải là bên gây thiệt hại.
3
- Rủi ro chiến lược: là rủi ro phát sinh từ những thay đổi trong môi trường hoạt
động của các NHTM trên phạm vi rộng hơn về mặt kinh doanh và tài chính. Rủi ro
chiến lược cũng có thể phát sinh từ các hoạt động của bản thân các NHTM.
- Rủi ro uy tín: là rủi ro khi các NHTM bị dư luận đánh giá xấu, gây khó khăn
nghiêm trọng cho hoạt động của ngân hàng trong việc tiếp cận nguồn vốn hoặc
khách hàng rời bỏ ngân hàng.
- Rủi ro thị trường: là loại rủi ro tổn thất tài sản, xảy ra khi lãi suất, tỷ giá hay giá
cả thị trường biến động theo chiều hướng xấu. Nói cách khác, rủi ro thị trường xảy
ra khi có sự thay đổi của các điều kiện thị trường hay những biến động của thị
trường.
1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các NHTM:
1.2.1. Khái niệm về rủi ro tín dụng:
Có nhiều định nghĩa về rủi ro tín dụng, theo Điều 2 “Quy định về phân loại nợ,
trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng” ban hành kèm theo Quyết
định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN: rủi ro tín
dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo
cam kết.
1.2.2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng:
1.2.2.1. Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp:
Tính chất đa dạng và phức tạp của rủi ro tín dụng biểu hiện ở sự đa dạng và phức
tạp của các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, cũng như các hậu quả do rủi ro
tín dụng gây ra. Nhận thức và vận dụng đặc điểm này, khi thực hiện phòng ngừa
và hạn chế rủi ro tín dụng cần áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp, không chủ quan
với bất cứ một dấu hiệu rủi ro nào. Bên cạnh đó, trong quá trình xử lý hậu quả rủi
ro tín dụng cần xuất phát từ nguyên nhân, bản chất và hậu quả của rủi ro để đưa ra
biện pháp phù hợp.
1.2.2.2. Rủi ro tín dụng có tính tất yếu:
Các chuyên gia kinh tế đều cho rằng hoạt động kinh doanh ngân hàng thực chất là
quản lý rủi ro (chủ yếu là rủi ro tín dụng) ở mức độ phù hợp để đạt được mức lợi
4
nhuận tương ứng. Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến rủi ro,
đặc biệt do không thể có được thông tin cân xứng về việc sử dụng vốn vay cho
hoạt động kinh doanh của khách hàng vay, nên bất cứ khoản cho vay nào cũng
tiềm ẩn nguy cơ rủi ro đối với hoạt động tín dụng của các NHTM. Vì vậy trong
quá trình cấp tín dụng cho khách hàng, các NHTM cần chủ động có các biện pháp
thích hợp để xác định rủi ro, định lượng rủi ro, quản lý rủi ro và kiểm soát rủi ro.
1.2.2.3. Rủi ro tín dụng có thể dự báo trước hoặc không thể dự báo:
Các rủi ro có thể dự báo trước: danh mục cho vay hay đầu tư của một NHTM luôn
luôn có một số khoản thất thoát tiềm tàng chưa được xác định. Tuy nhiên, nếu giả
định rằng các đặc điểm chung của danh mục cho vay nhìn chung vẫn giống nhau
trong một giai đoạn hợp lý thì các NHTM có thể dự báo các khoản thất thoát này
với một mức độ tương đối chính xác bằng cách nghiên cứu các đặc điểm diễn biến
của danh mục cho vay theo thời gian.
Các rủi ro không thể dự báo trước: có nhiều sự kiện nằm ngoài tầm kiểm soát của
các NHTM, các cú sốc ngoại sinh do các điều kiện chưa phát sinh tại thời điểm ký
kết một thỏa thuận kinh doanh,...là những nguyên nhân có thể dẫn đến rủi ro mà
các NHTM không thể dự báo trước.
1.2.3. Biểu hiện của rủi ro tín dụng:
Vì rủi ro tín dụng là khả năng (xác suất) vỡ nợ của khách hàng nên:
- Những khách hàng phá sản, lừa đảo, chây ỳ trong việc trả nợ là biểu hiện rõ nhất.
- Bên cạnh đó, các khoản nợ không trả được khi đến hạn ở các cấp độ khác nhau
cũng thể hiện các khả năng vỡ nợ khác nhau.
Có nhiều tiêu chí phản ảnh rủi ro tín dụng của các NHTM như:
- Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, trên vốn chủ sở hữu, trên quỹ dự phòng
tổn thất.
- Nợ đáng nghi ngờ (có vấn đề): khả năng chuyển thành nợ xấu cao.
- Nợ không có tài sản bảo đảm.
1.2.4. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng:
1.2.4.1. Nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế và các cơ quan quản lý Nhà
Nước:
5
+ Xuất phát từ hệ thống thông tin:
Thông tin tín dụng bao gồm thông tin lịch sử, thông tin hiện tại và xu hướng phát
triển của khách hàng trong tương lai (gồm cả thông tin về tài chính và phi tài
chính) và đặc biệt là các thông tin thống kê về các chỉ tiêu trung bình ngành phục
vụ cho việc xếp loại khách hàng vay.
Hiện nay, các NHTM không chỉ quan tâm đến việc hỏi tin về xếp hạng doanh
nghiệp nhằm đánh giá khách hàng có quan hệ tín dụng mà còn sử dụng thông tin
vào những mục đích khác như mở rộng đối tượng cho vay, thực hiện công tác
marketing đến khách hàng truyền thống, khách hàng tiềm năng, và mở rộng thị
phần trên thị trường. Tuy nhiên:
- Hệ thống thông tin của Việt Nam hiện nay còn khá nhiều bất cập, Việt Nam chưa
có cơ chế công bố thông tin đầy đủ. Trong thời gian qua, Trung tâm thông tin tín
dụng (CIC) trực thuộc NHNN hoạt động đã đạt được những kết quả bước đầu rất
đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin về tình hình hoạt động tín dụng nhưng
chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp hoạt động một cách độc
lập và hiệu quả.
- Vai trò nối kết các NHTM của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) còn lỏng lẻo,
chưa đạt được kết quả như mong muốn.
Đây chính là thách thức cho các NHTM trong việc mở rộng và kiểm soát hoạt
động tín dụng. Nếu các NHTM cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng
trong điều kiện môi trường thông tin bất cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu.
+ Xuất phát từ hệ thống văn bản luật:
Về cơ bản, hoạt động tín dụng của các NHTM đã được Luật hoá trong các văn bản
Luật và các văn bản pháp quy của Chính Phủ, NHNN. Tuy nhiên, qua nghiên cứu,
phân tích, đồng thời, đúc kết từ những trường hợp rủi ro trong thực tế hoạt động
của các NHTM cho thấy vẫn còn những “lỗ hỏng” khá nguy hiểm, đó vừa là
những nguyên nhân sâu xa, vừa là những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến rủi
ro tín dụng của các NHTM.
6
- Hoạt động tín dụng của các NHTM hiện nay chịu sự điều chỉnh, chi phối của khá
hiều luật, văn bản dưới luật chồng chéo, không rõ ràng, không hợp lý, thiếu tính
chặt chẽ và chưa thật sự hoàn chỉnh .
- Chính Phủ thường xuyên ban hành mới các chính sách về thuế, về xuất nhập
khẩu, hoặc các quy định về đất đai, nhà ở…Khi một chính sách bị thay đổi đột
ngột sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, ảnh hưởng đến kế hoạch,
cũng như khả năng dự báo sức tiêu thụ trên thị trường của các doanh nghiệp. Việc
định hướng chiến lược sản xuất, kinh doanh không phù hợp, không chính xác sẽ
dẫn đến sản xuất cung vượt cầu, hàng hóa khó tiêu thụ, giá bán hạ, thua lỗ, khách
hàng sẽ không đảm bảo nguồn tiền trả nợ cho các NHTM.
+ Xuất phát từ công tác kiểm tra, thanh tra:
- Hiện nay, bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra,
kiểm tra, giám sát của NHNN đối với các NHTM chưa thật sự có hiệu quả:
- Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số
nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới thanh tra còn chưa nắm bắt kịp thời.
- Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát còn lạc hậu, chậm được đổi mới,
hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng
ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro và vi phạm.
+ Xuất phát từ các cơ quan ban ngành liên quan:
Hoạt động của các cơ quan ban ngành có liên quan đến hoạt động tín dụng của các
NHTM hiện nay có thể nói còn nhiều vấn đề cần bàn luận:
- Quản lý doanh nghiệp còn lỏng lẻo, cấp phép tràn lan.
- Công chứng tài sản thế chấp sai pháp luật.
- Cơ quan thi hành án thông đồng với người thi hành án, trung tâm bán đấu giá tài
sản thế chấp tiêu cực.
- Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương: Trong những năm gần
đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính Phủ, NHNN và các cơ quan
ban ngành có liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi
hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy luật và các văn bản
hướng dẫn đều đã được ban hành song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì
7
lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc. Các cơ quan pháp luật lại
chậm chạp trong quá trình thực thi chức năng của mình.
- Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng - Bộ Tài chính (DATC) hoạt động chưa
hiệu quả.
1.2.4.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía các NHTM:
+ Xuất phát từ cán bộ quản lý, cán bộ tín dụng:
Đạo đức của cán bộ tín dụng là một trong những yếu tố quan trọng để giải quyết
vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ hạn chế về năng lực có thể được bồi
dưỡng thêm để nâng cao trình độ, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại
giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật sự nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín
dụng. Điều này có thể nhận thấy qua các vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua
có liên quan đến hoạt động ngân hàng đều có sự tiếp tay của những cán bộ tín
dụng cùng với khách hàng hoặc bản thân cán bộ tín dụng cố ý:
- Thực hiện trái với qui trình tín dụng.
- Trực tiếp thu nợ nhưng không nộp mà dùng cho mục đích cá nhân.
- Lập hồ sơ giả để vay tiền cá nhân, nhờ người vay hộ,…
- Tẩy xóa, sửa chữa chứng từ có giá để thế chấp vay tiền.
- Định giá TSBĐ không đúng giá trị thực do thông đồng với khách hàng.
Bên cạnh vấn đề đạo đức, năng lực, trình độ, kinh nghiệm của một bộ phận cán bộ
tín dụng hiện nay chưa đáp ứng nhu cầu công việc. Điều này có thể thấy trong
thực tế qua việc bố trí công việc chưa phù hợp với trình độ chuyên môn, bản thân
từng cán bộ chưa có ý thức tự nâng cao nghiệp vụ. Ngoài ra có thể nhận thấy rõ
nét nhất là công tác phân công cán bộ tín dụng quản lý khách hàng của các NHTM
hiện nay không theo chuyên ngành kinh tế, từ đó dẫn đến việc:
- Cán bộ tín dụng làm việc theo kiểu đa năng, không chuyên sâu vào một ngành
nghề cụ thể nào nên không có nhiều kiến thức chuyên ngành. Khách hàng khi
cung cấp các dự án, có nhiều thông số kỹ thuật máy móc chuyên ngành hoàn toàn
xa lạ với cán bộ tín dụng. Thuê chuyên gia đánh giá đòi hỏi chi phí cao nên chủ
yếu mà các ngân hàng thường làm trong những trường hợp này là tự tìm hiểu
thông tin thông qua sách, báo, tạp chí chuyên ngành, qua mạng internet.
8
- Nếu cán bộ tín dụng không có kiến thức chuyên môn về chuyên ngành cần thẩm
định sẽ đưa ra những đánh giá sai, gây bức xúc cho khách hàng hoặc ngược lại,
khách hàng thông tin sai mà không biết, gây ra những quyết định sai lầm trong cho
vay.
Ngoài ra, sự gắn bó, nổ lực với công việc của một bộ phận cán bộ tín dụng cũng
chưa được phát huy do chính sách tuyển dụng, sử dụng, phân công, bố trí công
việc và vấn đề đãi ngộ của các NHTM (đặc biệt là các NHTMNN) chưa đủ sức thu
hút. Thực tế hiện nay cho thấy do tác động của quá trình cạnh tranh, rất nhiều cán
bộ tín dụng giỏi, nhiều kinh nghiệm của các NHTMNN đã được các NHTMCP,
các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tuyển dụng vào những vị trí quan trọng
với nhiều đãi ngộ. Nguồn nhân lực của các NHTMNN đã mỏng do quá trình mở
rộng mạng lưới, lại ngày càng bị hao hụt do chính sách tuyển dụng, sử dụng, phân
công, bố trí công việc, và vấn đề đãi ngộ chưa thật sự thu hút.
+ Xuất phát từ chính sách, quy trình tín dụng và sự vận dụng chính sách, quy
trình tín dụng chưa nghiêm túc:
Nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến chất lượng tín dụng của các
NHTM đó là chính sách tín dụng. Tuy nhiên, chính sách tín dụng chỉ phát huy tác
dụng khi được xây dựng trên cơ sở khách quan và sự nghiêm túc của việc ban
hành và vận dụng. Thực tế, vẫn còn nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến chính
sách tín dụng chưa thật sự hợp lý:
- Chính sách tín dụng của các NHTM hiện nay phần lớn đều chưa đạt tầm chiến
lược, chưa theo nguyên tắc thị trường, thậm chí còn bị cuốn theo các hội chứng,
phong trào, khẩu hiệu phát triển kinh tế và theo chủ nghĩa thành tích.
- Các NHTM hầu như chưa xây dựng được chính sách tín dụng khoa học, phù hợp
thể hiện được quan điểm và chiến lược riêng.
- Ngoài ra, các NHTM không có chiến lược phát triển rõ nét hay nói cách khác
chưa quản trị về danh mục cho vay theo lĩnh vực sở trường.
- Chính sách tín dụng với vấn đề lãi suất vẫn còn khá nhiều bất cập.
9
- Quy trình tín dụng thông thường được xác lập trên những quy định chung của
pháp luật về ngân hàng và những đặc thù trong hoạt động của riêng mỗi ngân
hàng. Thông thường, quy trình tín dụng được thống nhất qua các bước sau:
THIẾT L ẬP
Quy trình tín dụng nếu không phát huy được tác dụng sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng quản lý rủi ro tín dụng. Trên thực tế, không phải quy trình tín dụng của các
NHTM luôn đảm bảo tính hợp lý và chặt chẽ, biểu hiện như:
- Thông tin cần phải thực hiện trong các bước của quy trình không được quy định
chi tiết và đầy đủ, cũng như mối quan hệ giữa các bước chưa được nhận thức đúng
đắn.
- Trên thực tế, việc phân định rõ giữa khâu thẩm định và cho vay ở nhiều NHTM
vẫn chưa thật sự tách biệt. Chỉ một vài ngân hàng đang tiến hành triển khai, áp
dụng quy trình tín dụng mới với việc phân chia độc lập giữa ba chức năng: quan
hệ khách hàng, quản lý rủi ro và quản lý nợ. Tuy vậy, giữa mô hình phân chia cũ
và mới, bên cạnh những ưu điểm vẫn tồn tại những hạn chế chưa thể khắc phục
ảnh hưởng đến công tác quản lý rủi ro tín dụng.
- Do sức ép cạnh tranh trong việc mở rộng thị phần tín dụng, trong quá trình vận
dụng không ít NHTM đã bỏ qua các bước của quy trình, hạ thấp tiêu chuẩn đánh
giá khách hàng, không chú ý đúng mức đến tình hình tài chính, năng lực sản xuất
kinh doanh, khả năng trả nợ, nguồn trả nợ của khách hàng vay nên nảy sinh nhiều
sai phạm: về điều kiện vay vốn, về việc lập hồ sơ vay vốn, về việc kiểm tra, quản
lý nợ vay, về cơ cấu lại thời hạn trả nợ (điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ gốc
và lãi).
Việc nhận thức chưa đầy đủ và vận dụng chưa thật sự nghiêm túc của cán bộ tín
dụng đối với các chính sách và quy trình tín dụng cũng ảnh hưởng đến chất lượng
tín dụng của các NHTM vì nếu nhận thức đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các quy
THIẾT L ẬP
HỒ SƠ
KHÁCH
HÀNG VAY
THANH LÝ
HỢP ĐỒNG
VÀ XỬ LÝ
TRANH CHẤP
GIẢI
NGÂN
VÀ THU
NỢ
RA QUYẾT
ĐỊNH VÀ KÝ
HỢP ĐỒNG
THẨM ĐỊNH
HỒ SƠ
KHÁCH
HÀNG VAY
10
định, nhất là thẩm tra chặt chẽ khả năng tài chính, hiệu quả của phương án sản
xuất kinh doanh, các điều kiện về bảo đảm tiền vay của khách hàng rồi mới quyết
định đầu tư thì khả năng thu hồi vốn là rất lớn. Ngược lại, nếu buông lỏng quản lý
hoặc thẩm tra chưa đầy đủ đã quyết định đầu tư thì mức độ rủi ro sẽ gia tăng, thậm
chí có khi mất vốn.
+ Xuất phát từ công tác thẩm định:
Đánh giá uy tín, năng lực quản trị, năng lực tài chính của khách hàng:
- Đánh giá uy tín của khách hàng là vấn đề thật sự khó khăn đối với các cán bộ
thực hiện công tác thẩm định trong việc tiếp cận thông tin về khách hàng khi
nguồn thông tin và khả năng phát tín hiệu của khách hàng còn hạn chế. Hiện nay,
công tác đánh giá uy tín của khách hàng chủ yếu dựa vào cảm tính và chủ quan
của các cán bộ nghiệp vụ, như dựa vào các quan hệ trong quá khứ: khách hàng vay
trả đúng hạn được xem là khách hàng có uy tín, còn đối với khách hàng mới quan
hệ thì chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng khi tiếp xúc với khách
hàng, hoặc qua một số thông tin thu thập được. Trong khi đó đối tượng khách
hàng được xem là chiến lược phục vụ của ngân hàng là khu vực kinh tế tư nhân thì
còn quá non trẻ, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có danh tiếng trên
thị trường, ý thức của doanh nghiệp trong việc xây dựng uy tín và thương hiệu
chưa cao, các hiệp hội ngành thì chưa phát huy vai trò của mình, chưa hỗ trợ nhiều
cho các doanh nghiệp thành viên phát triển, nhất là việc giới thiệu các thành viên
cho thị trường nên đã dẫn đến việc thu thập thông tin để đánh giá đối với khu vực
kinh tế trên là rất khó khăn.
- Đánh giá năng lực của khách hàng:
* Về năng lực quản trị: nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định sự thành
bại của một doanh nghiệp và cũng có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả đồng vốn
của ngân hàng. Tuy nhiên, việc đánh giá nguồn nhân lực, nhất là bộ phận lãnh đạo
của khách hàng hiện nay hoàn toàn chưa có cơ sở, chủ yếu là liệt kê bằng cấp và
số năm công tác.
* Về năng lực tài chính: công việc đánh giá được thực hiện chủ yếu dựa vào việc
phân tích số liệu trên các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp. Hiện nay do
11
Việt Nam chưa có quy định về minh bạch thông tin nên có thể nói độ tin cậy của
các báo cáo tài chính chưa thật sự cao nên việc phân tích báo cáo tài chính sẽ
không phản ánh đúng thực chất năng lực tài chính của khách hàng.
Đánh giá hiệu quả phương án/dự án vay là khâu quan trọng, ảnh hưởng lớn nhất
đến khả năng thu hồi vốn của các NHTM. Tuy nhiên do có nhiều nhân tố chủ quan
và khách quan tác động nên đã dẫn đến chất lượng đánh giá phương án/dự án vay
chưa thật sự hiệu quả:
- Khi nhận một dự án, cán bộ thẩm định sẽ phải tiến hành thẩm định các khía cạnh
như yếu tố thị trường, kỹ thuật, công nghệ và cả các yếu tố kinh tế, xã hội của dự
án. Tuy nhiên, việc thẩm định dự án trong một môi trường thiếu thông tin như của
Việt Nam là một thách thức lớn đối với các cán bộ thẩm định. Trên thị trường hiện
nay, có rất ít doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường. Do đó,
khi đánh giá thị trường đối với sản phẩm của dự án, cán bộ thẩm định chủ yếu phải
dựa vào các nguồn thông tin không chính thức, thu thập qua báo chí, internet,…
- Thêm vào đó, trình độ xây dựng dự án/phương án sản xuất kinh doanh của hầu
hết các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn yếu.
- Ngoài ra, hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của Nhà Nước thường xuyên
thay đổi, không có tính minh bạch và không có tính dự báo cũng có thể gây ra
nhiều rủi ro cho dự án, như: các chiến lược phát triển vùng, ngành; các quy định
liên quan đến xuất nhập khẩu; các tiêu chuẩn về môi trường, …
- Tiêu chuẩn thống nhất chung về mặt bằng đánh giá, cách xếp loại doanh nghiệp
giữa các NHTM chưa có sự thống nhất, chưa được tiến hành thường xuyên, định
kỳ, một số ngân hàng xem việc này chỉ mang tính hình thức. Kết quả là việc đánh
giá dự án không mang tính khả thi, nhất là trong điều kiện trình độ cán bộ thẩm
định còn chưa được chuyên sâu.
+ Xuất phát từ tài sản bảo đảm:
Quản trị danh mục TSBĐ là yêu cầu cần thiết trong công tác quản lý rủi ro tín
dụng, và là mắc xích quan trọng trong quy trình cho vay thu hồi nợ, xử lý các
khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc giám sát, quản lý, đánh giá, phân loại, dự báo,
cảnh báo về danh mục các TSBĐ mà một NHTM lựa chọn, xét ưu tiên nhận làm
12
bảo đảm tiền vay chưa được làm thường xuyên, chưa có tính hệ thống mà chỉ
dừng ở mức kiểm tra trên hồ sơ pháp lý, định kỳ đánh giá lại giá trị để điều chỉnh
mức dư nợ cho vay hoặc yêu cầu khách hàng bổ sung.
Theo quy định của pháp luật, việc xác định giá trị TSBĐ tiền vay do các bên thỏa
thuận, hoặc thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định trên cơ sở giá thị
trường tại thời điểm xác định, có tham khảo đến các loại giá như giá quy định của
Nhà nước (nếu có), giá mua, giá trị còn lại trên sổ sách kế toán và các yếu tố khác
về giá. Tuy nhiên, trên thực tế, trừ những động sản có giá trị lớn hàng tỷ đồng, các
NHTM mới thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn định giá, còn lại đa số việc
định giá đều do các bên thỏa thuận, và như vậy cho thấy giá trị TSBĐ được định
giá còn mang tính chủ quan và thiếu tính khoa học.
Ngoài ra, về phương pháp định giá đối với từng loại tài sản chưa được các NHTM
sử dụng một cách thích hợp, dẫn đến việc: nếu định giá thấp, khách hàng không
hài lòng, nhưng nếu định giá cao, NHTM sẽ khó đảm bảo khả năng thu hồi nợ vay
và lãi vay trong trường hợp khách hàng mất khả năng thanh toán, khi đó buộc
NHTM phải thanh lý tài sản thế chấp, cầm cố.
Kinh tế tăng trưởng cao trong vài năm trở lại đây cùng với giá bất động sản bị đẩy
lên cao do đầu cơ và vượt xa giá trị thực đã làm nảy sinh tư tưởng lạm dụng vào
TSBĐ. Sẽ rất rủi ro nếu cán bộ tín dụng quên rằng khoản vay cần phải được trả
bằng chính dòng tiền tạo ra bởi phương án sản xuất kinh doanh chứ không phải
bằng tiền bán TSBĐ. TSBĐ chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh
doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến. Tâm lý dựa chủ yếu vào TSBĐ sẽ
làm giảm chất lượng thẩm định khoản vay nên sẽ không đánh giá chính xác được
hiệu quả và sự an toàn của khoản vay, dễ dẫn đến việc cho vay những dự án rủi ro,
khách hàng không uy tín. Đây là thực trạng đáng lo ngại trong quan điểm cấp tín
dụng hiện nay của các NHTM. Từ sự lựa chọn không chắc chắn khách hàng tốt để
cung cấp tín dụng nên để giảm bớt rủi ro, các NHTM đã tính một phần rủi ro vào
trong lãi vay ngân hàng, làm cho khách hàng vay tốt phải gánh chịu một mức lãi
vay cao hơn mức đáng ra họ được hưởng. Đây cũng là tâm lý thường thấy ở các
NHTM của các nước đang phát triển.
13
Đối với vấn đề bảo hiểm tài sản, cán bộ tín dụng thường không chú ý đôn đốc,
kiểm tra việc khách hàng có mua bảo hiểm đúng định kỳ để đến khi phương tiện bị
tai nạn, việc trục vớt, sửa chữa phải bỏ thêm rất nhiều vốn, gây khó khăn lâu dài
về khả năng thanh toán khoản nợ vay…
Thông tin bất cân xứng về giá trị thực của TSBĐ giữa khách hàng và NHTM cũng
là vấn đề cần được quan tâm. Khi thế chấp, cầm cố tài sản chỉ có khách hàng biết
rõ về hiện trạng của tài sản như sự hỏng hóc trong các dây chuyền sản xuất, máy
móc, thiết bị, hoặc ngôi nhà rất khó bán do một số đặc điểm đặc biệt. Trong khi đó
trình độ của cán bộ thường không đáp ứng đầy đủ chuyên môn trong tất cả các
lĩnh vực nên không thể đánh giá được chính xác hiện trạng của máy móc thiết bị
cũng như nắm được những thông tin không tốt về đất đai, nhà ở; điều này ảnh
hưởng rất lớn đến giá trị mua bán của tài sản. Vì vậy, khi xảy ra rủi ro, việc phát
mãi tài sản để thu hồi nợ gặp không ít khó khăn.
Thêm vào đó, cơ chế pháp lý về bảo đảm tiền vay chưa rõ ràng, chịu sự điều
chỉnh, chi phối của nhiều văn bản luật, dưới luật chồng chéo nhau, đặc biệt đối với
TSBĐ là bất động sản.
Cuối cùng là các vấn đề liên quan đến quá trình xử lý, phát mãi TSBĐ đã gây cản
trở không ít cho các NHTM như:
- Việc các ngân hàng phải đối mặt với những khó khăn trong thời gian trước khi
bán đấu giá tài sản.
- Trong việc phát mãi TSBĐ, các NHTM chưa có thực quyền trong việc bán, quản
lý và khai thác tài sản thuộc quyền tiếp quản.
- Sự phối hợp giữa cơ quan công an, viện kiểm soát, tòa án, các sở, ban, ngành,
chính quyền địa phương trong việc xử lý TSBĐ còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ,
chặt chẽ và kịp thời.
- Việc xác định quyền sở hữu thực sự của khách hàng đối với tài sản cũng là vấn
đề khó khăn.
- Vướng mắc khi NHTM nhận lại TSBĐ từ cơ quan thi hành án.
- Thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng cho người mua, người nhận tài sản
của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền còn quá nhiêu khê.
14
+ Xuất phát từ thông tin tín dụng:
Các NHTM hiện nay chưa nhận được sự phối hợp hỗ trợ cung cấp thông tin từ các
cơ quan chức năng như cơ quan thuế, chi cục thống kê, hay các cơ quan chủ quản.
Bên cạnh các nguyên nhân khách quan, bản thân các NHTM đôi khi cũng lệ thuộc
khá nhiều vào các số liệu của khách hàng cung cấp mà chưa chủ động tìm kiếm
thông tin hay nói cách khác có tình trạng thông tin bất cân xứng giữa các NHTM
và khách hàng vay.
Việc thu thập thông tin của mỗi ngân hàng về khách hàng, về ngành nghề, về môi
trường kinh tế mà khách hàng đang hoạt động, về các văn bản mới được ban hành,
về tình hình diễn biến giá cả thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là những
cảnh báo về các ngành hàng ngân hàng đang và sẽ đầu tư chưa được thực hiện một
cách thường xuyên và có tính hệ thống.
+ Xuất phát từ hoạt động kiểm soát nội bộ:
Hiện nay, các NHTM đều có bộ phận kiểm soát nội bộ, tuy nhiên, ở một số ngân
hàng, bộ phận này chưa thật sự hoạt động có hiệu quả, nhất là tình trạng thiếu
nhân sự, cũng như trình độ của cán bộ chưa đáp ứng cả về nghiệp vụ lẫn kinh
nghiệm nên không thể phát hiện các sai phạm để có những khuyến cáo kịp thời
nhằm chấn chỉnh và tư vấn cho ban điều hành về những rủi ro tín dụng có thể xảy
ra.
Kiểm soát nội bộ có một số ưu thế hơn so với việc thanh tra, kiểm tra của NHNN
do:
- Xét về thời gian, công tác kiểm soát nội bộ của các NHTM xử lý kịp thời, nhanh
chóng các vấn đề ngay khi vừa phát sinh.
- Xét về tính sâu sát của người kiểm soát viên, do việc kiểm tra được thực hiện
thường xuyên cùng với công việc kinh doanh nên mọi vấn đề được hiểu đúng với
bản chất của nó.
1.2.4.3. Nguyên nhân từ phía khách hàng đi vay:
+ Đối với khách hàng là doanh nghiệp:
Trong hoạt động kinh doanh, ngoài nguồn vốn tự có của mình, các doanh nghiệp
luôn phải sử dụng một nguồn vốn bên ngoài, đó là vốn vay các NHTM. Đây là
15
nhu cầu vay vốn rất cần thiết nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp thực hiện
nhiệm vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách ổn định. Tùy đặc điểm và tính
chất hoạt động của từng loại hình doanh nghiệp, việc sử dụng vốn vay của các
NHTM cũng có sự khác nhau.
Rủi ro tín dụng xuất phát từ phía khách hàng là doanh nghiệp thường do:
- Mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng không được thực hiện đúng.
- Khách hàng không thật sự nỗ lực trong việc sử dụng vốn vay có hiệu quả.
- Khách hàng chưa có thiện chí trong vấn đề cung cấp thông tin đầy đủ và chính
xác cho ngân hàng để phục vụ cho việc cấp tín dụng.
- Một bộ phận khách hàng không có thiện chí trong việc trả nợ.
- Công tác quản lý, điều hành của một số các doanh nghiệp chưa thật sự hiệu quả.
- Sự hạn chế của đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp.
- Tình hình tài chính của hầu hết các doanh nghiệp thiếu sự minh bạch, trung thực,
chưa đáp ứng yêu cầu.
- Công nghệ, quy trình sản xuất không tạo ra được những sản phẩm mang tính
cạnh tranh.
- Sự tác động của các nhân tố khách quan như môi trường pháp lý, môi trường
kinh tế - xã hội...
+ Đối với khách hàng là cá nhân:
Mặc dù quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng là cá nhân thủ tục đơn
giản hơn nhiều so với khách hàng là doanh nghiệp, song thực tế số lượng khách
hàng cá nhân lại rất lớn nên việc tìm hiểu các nguyên nhân từ phía khách hàng cá
nhân có ý nghĩa rất quan trọng.
Với khách hàng cá nhân, nguyên nhân rủi ro có thể là:
- Hoạt động kinh doanh không gặp thuận lợi, khả năng quản lý tình hình tài chính
yếu kém.
- Nguồn hoàn trả chính từ thu nhập cơ bản bị mất hoặc suy giảm do mất việc,
chuyển sang công việc kém hơn hoặc không còn khả năng lao động.
- Cá nhân gặp những chuyện bất thường trong cuộc sống, vì vậy, họ phải sử dụng
một số tiền lớn nên ảnh hưởng khả năng hoàn trả cho ngân hàng.
16
- Đạo đức cá nhân không tốt: cố tình lừa đảo ngân hàng, sử dụng vốn sai mục
đích...
1.2.4.4. Nguyên nhân khác:
Sự biến động quá nhanh, và khó có thể dự đoán được trên các mặt kinh tế, chính
trị, xã hội trong và ngoài nước cũng ảnh hưởng đến chất lượng các khoản cấp tín
dụng của các NHTM. Biểu hiện rõ nét nhất là tình hình biến động giá cả các mặt
hàng mà các NHTM đang đầu tư, hoặc các cơ chế, chính sách thương mại, chính
sách xuất nhập khẩu các nước áp dụng đối với Việt Nam (hạn ngạch, chính sách
bảo hộ, hay các vụ kiện thương mại,..):
- Ngành dệt may trong những năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị khống
chế hạn ngạch đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp dệt may.
- Mặt hàng thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá phôi
thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất
do chi phí giá thành cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
- Dầu thô, nông, lâm, thủy hải sản…cũng ở trong tình trạng tương tự: giá cả diễn
biến bất thường và chính sách bảo hộ thị trường, cạnh tranh với các đối tác lớn
cũng gây rủi ro cho các nhà xuất khẩu...
Bên cạnh đó, quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập kinh tế quốc tế cũng tác
động không nhỏ đến hoạt động cấp tín dụng của các NHTM. Với môi trường hội
nhập, các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối
mặt với sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, nguy cơ thua lỗ là điều có thể xảy ra.
Bản thân các NHTM trong môi trường hội nhập kinh tế cũng gặp phải những nguy
cơ rủi ro khi phải cạnh tranh với các NHTM nước ngoài vốn mạnh hơn về mọi
mặt, khi vấn đề nợ xấu gia tăng vì hầu hết những khách hàng có tiềm lực tài chính
lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút...
Cuối cùng là do sự ổn định của nền kinh tế nước ta khi chính sách quản lý kinh tế
vẫn có những thay đổi đột ngột, hành lang pháp lý chưa thật sự an toàn, điều chỉnh
quy hoạch các ngành, các vùng chưa phù hợp…
1.2.5. Đánh giá rủi ro tín dụng:
17
Các Ngân hàng phải đánh giá và xác định rủi ro tín dụng trên cơ sở khả năng
“chống đỡ rủi ro” và kiểm soát, quản trị rủi ro của mình để có chính sách tín dụng
phù hợp. Để đánh giá ngân hàng thường áp dụng một số tiêu chí sau:
+ Tỷ lệ an toàn vốn thối thiểu: Đây là tỷ lệ giữa vốn tự có của ngân hàng trên tổng
tài sản có rủi ro quy đổi. Tỷ lệ này phản ánh và đo lường mức độ chịu đựng của
ngân hàng khi rủi ro tín dụng phát sinh.
Ý nghĩa của tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cho thấy mức độ rủi ro mà các ngân hàng được phép
mạo hiểm trong sử dụng vốn cao hay thấp tùy thuộc vào độ lớn của của vốn tự có
của ngân hàng, cụ thể: Đối với những ngân hàng có vốn tự có lớn thì nó được
phép sử dụng vốn với mức độ liều lĩnh hơn nhằm thu lại lợi nhuận cao hơn, rủi ro
lớn hơn, ngược lại, những ngân hàng mà vốn tự có ít chỉ phải đầu tư vốn một cách
an toàn hơn.
• Nếu H 3 = 8% : ngân hàng có một tỷ lệ hợp lý giữa vốn tự có với mức độ rủi ro
trong sử dụng tài sản
• Nếu H 3 > 8% : mức độ rủi ro của ngân hàng thấp, ngân hàng sử dụng vốn an
toàn nhưng kém hiệu quả, có thể giảm sút lợi nhuận.
• Nếu H 3 < 8 : mức độ rủi ro lớn, vốn tự có của ngân hàng không đủ sức bảo vệ
cho ngân hàng một khi rủi ro xuất hiện.
+ Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
+ Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu.
+ Tỷ lệ nợ xấu trên quĩ dự phòng tổn thất.
+ Nợ đáng nghi ngờ (nợ có vấn đề) - có khả năng chuyển thành nợ xấu cao.
+ Nợ không có tài sản đảm bảo.
1.2.6. Tác động của rủi ro tín dụng:
Để đạt được lợi nhuận cao, thu hút thêm nhiều khách hàng, nâng cao sức cạnh
tranh, các NHTM luôn tìm cách mở rộng hoạt động tín dụng, cung ứng nhiều hơn
các dịch vụ phục vụ cho khách hàng, nhưng song song đó các ngân hàng cũng phải
đối mặt với nhiều rủi ro hơn. Các loại rủi ro này luôn tiềm ẩn làm tăng chi phí,
18
giảm lợi nhuận, lỗ hoặc mất vốn dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn vốn để chi trả
tiền gửi cho khách hàng. Các NHTM do không thu hồi được các khoản nợ và lãi
đến hạn, dẫn đến mất khả năng thanh toán, nếu nghiêm trọng và kéo dài dễ gây
hiệu ứng phản ứng dây chuyền, đe dọa đến hàng loạt các NHTM khác do khách
hàng đua nhau rút tiền gửi, nền kinh tế lâm vào khủng hoảng tài chính, tiền tệ.
Bài học về sự đổ vỡ hàng loạt các hợp tác xã tín dụng trong những năm 1989-1990
ở nước ta, Chính Phủ đã phải bỏ ra hàng trăm tỷ đồng để ổn định tình hình kinh tế
và an ninh xã hội; nhìn rộng hơn là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực
Đông Nam Á vào những năm 1997-1998, Chính Phủ nhiều nước và các tổ chức tài
chính quốc tế đã phải dốc hầu bao để cứu nguy các NHTM, cơ cấu lại các NHTM,
quyết định giải thể, sáp nhập các NHTM để đảm bảo khả năng thanh toán, duy trì
mở rộng tín dụng nhằm phục hồi kinh tế các nước gặp khủng hoảng.
1.2.6.1. Tác động đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM:
Khi gặp rủi ro tín dụng, các NHTM chẳng những không thu hồi được vốn tín dụng
đã cấp và lãi từ hoạt động cho vay, mà còn phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy
động khi đến hạn, điều này làm cho các ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi.
Hay nói cách khác, các ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản,
mất lòng tin của người gửi tiền, từ đó ảnh hưởng đến uy tín của cả ngân hàng. Và
không thu được nợ, vòng quay vốn tín dụng của các NHTM sẽ giảm từ đó làm cho
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng không đạt hiệu quả như mong muốn.
Tóm lại, rủi ro tín dụng xảy ra ở những mức độ khác nhau: nhẹ nhất là các NHTM
sẽ bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất là khi các
NHTM không thu được cả vốn và lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao sẽ dẫn đến bị lỗ và
mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, các NHTM có thể sẽ
bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân
hàng nói riêng. Chính vì vậy, đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận
trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.
1.2.6.2. Đối với nền kinh tế nói chung:
Khi một NHTM gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở khắp
mọi nơi sẽ rơi vào tâm trạng hoang mang, lo sợ, khi đó sẽ xảy ra tình trạng mọi
19
người ồ ạt đến rút tiền ở tất cả các ngân hàng, việc làm này sẽ tác động xấu đến
toàn hệ thống ngân hàng.
Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp, vì vậy
NHTM phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản suất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Khi đó, sự rối loạn của các NHTM sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền
kinh tế, làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp
tăng, xã hội mất ổn định.
Tóm lại, nếu những tổn thất do rủi ro trong hoạt động tín dụng gây ra ở mức kiểm
soát được thì việc xử lý tương đối dễ dàng trong giới hạn cho phép của quỹ dự
phòng bù đắp rủi ro của các NHTM. Tuy nhiên, khi tổn thất lớn, vượt quá khả
năng xử lý của các NHTM thì vấn đề sẽ trở nên nghiêm trọng, gây hậu quả khó
lường không những cho chính NHTM, mà còn cho cả những NHTM và các doanh
nghiệp khác có liên quan, ảnh hưởng tới quyền lợi người gửi tiền và cuối cùng,
ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế, và là nguy cơ tiềm ẩn cho khủng hoảng tài
chính. Nếu tác động lớn, đôi khi ảnh hưởng đến cả nền kinh tế khu vực và thế giới
vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và
thế giới.
1.3. Nguyên tắc của Basel về quản trị rủi ro tín dụng:
1.3.1. Nguyên tắc 1:
Hội đồng quản trị có trách nhiệm phê duyệt và định kỳ xem xét chiến lược về rủi
ro tín dụng và các chính sách về rủi ro tín dụng của ngân hàng. Chiến lược về rủi
ro tín dụng phản ánh mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng với mức sinh lời nhất
định mà ngân hàng kỳ vọng. Chiến lược cần thể hiện tuyên bố của ngân hàng
trong việc sẵn sàng cấp tín dụng dựa trên loại hình rủi ro tiềm năng, ngành kinh tế,
vị trí địa lý, dòng tiền, kỳ hạn và mức sinh lời dự kiến. Chiến lược cũng có thể xác
định thị trường mục tiêu và các đặc tính tổng quát mà ngân hàng muốn đạt được
trong danh mục tín dụng.
1.3.2. Nguyên tắc 2:
Ban điều hành có trách nhiệm thực hiện chiến lược chấp nhận một tỷ lệ nợ xấu
được Hội đồng quản trị phê duyệt, phát triển các chính sách, thủ tục nhằm phát
20
hiện, đo lường, theo dõi và kiểm soát nợ xấu. Các chính sách và thủ tục này cần
nhằm vào rủi ro nợ xấu phát sinh trong mọi hoạt động của ngân hàng, ở cấp độ
từng khoản tín dụng cũng như toàn bộ danh mục đầu tư. Các thủ tục, quy trình,
văn bản cần được xây dựng, triển khai cũng như các trách nhiệm phê duyệt, xem
xét khoản cho vay cần được phân định rõ ràng và phù hợp.
1.3.3. Nguyên tắc 3:
Các ngân hàng cần xác định và quản trị rủi ro tín dụng trong mọi sản phẩm và hoạt
động của mình. Đối với các sản phẩm và hoạt động mới, ngân hàng cần xây dựng
biện pháp quản trị rủi ro và kiểm soát phù hợp trước khi được đưa vào sử dụng
hoặc triển khai và phải được Hội đồng quản trị phê duyệt. Điều quan trọng là Ban
điều hành cần xác định rằng các nhân viên liên quan trong bất kì hoạt động nào có
rủi ro tín dụng, cho dù là đã thực hiện hay là hoạt động mới, cơ bản hay phức tạp,
điều phải có đủ năng lực thực hiện với những tiêu chuẩn cao nhất và tuân thủ các
chính sách và thủ tục của ngân hàng.
1.3.4. Nguyên tắc 4:
Các ngân hàng phải hoạt động trong phạm vi các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh
được xác định rõ ràng. Những tiêu chí này cần chỉ rõ thị trường mục tiêu của ngân
hàng và đồng thời ngân hàng phải hiểu biết rõ về khách hàng vay vốn cũng như
mục đích và cơ cấu của khoản tín dụng. Hay nói cách khác các tiêu chí cần chỉ rõ
đối tượng khách hàng đủ tiêu chuẩn được cấp tín dụng, các loại hình tín dụng và
các điều khoản và điều kiện cấp tín dụng.
1.3.5. Nguyên tắc 5:
Ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng và nhóm
khách hàng vay vốn để tạo ra các loại hình rủi ro tín dụng khác nhau nhưng có thể
so sánh và theo dõi được trong sổ sách kế toán của ngân hàng và sổ sách kế toán
kinh doanh, nội bản và ngoại bản.
Cần xây dựng giới hạn đối với các ngành, lĩnh vực kinh tế, khu vực địa lý và các
sản phẩm cụ thể. Cũng như các giới hạn rủi ro trong mọi lĩnh vực hoạt động của
ngân hàng mà có liên quan đến rủi ro tín dụng. Những giới hạn này giúp bảo đảm
các hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng đa dạng. Giới hạn tín dụng là rất quan
21
trọng trong quản lý toàn bộ hộ sơ rủi ro tín dụng hoặc rủi ro đối tác của một ngân
hàng. Để có hiệu quả, các giới hạn này cần mang tính ràng buộc và không đi theo
nhu cầu của khách hàng.
1.3.6. Nguyên tắc 6:
Để có được danh mục đầu tư tín dụng lành mạnh, ngân hàng cần có qui trình rõ
ràng trong việc phê duyệt các khoản tín dụng mới cũng như sửa đổi, gia hạn và tái
tài trợ các khoản tín dụng hiện tại.Ngân hàng cần phát triển đội ngũ nhân viên
quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, kiến thức nhằm đưa ra nhận định thận
trọng trong việc đánh giá phê duyệt và quản lý rủi ro tín dụng.
1.3.7. Nguyên tắc 7:
Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sở giao dịch công bằng giữa các bên.
Đặc biệt, các khoản tín dụng cho các công ty và cá nhân có liên quan phải được
phê duyệt trên cơ sở ngoại lệ cần theo dõi cẩn thận và triển khai các bước cần thiết
để kiểm soát nhằm loại trừ rủi ro.
Việc gia hạn tín dụng cần được thực hiện theo các tiêu chí và trình tự cụ thể và rõ
ràng. Việc này, tạo ra hệ thống hồ sơ và chứng từ nhằm tăng cường việc ra quyết
định tín dụng đúng đắn.
1.3.8. Nguyên tắc 8:
Các ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối với các danh mục
đầu tư có rủi ro tín dụng.
1.3.9. Nguyên tắc 9:
Ngân hàng cần có hệ thống theo dõi điều kiện của từng khoản tín dụng, bao gồm
việc xác định mức độ đầy đủ của dự phòng và dự trữ.
1.4. Kinh nghiệm của các ngân hàng Thái Lan trong việc quản trị rủi ro tín
dụng:
Mặc dù có bề dầy hoạt động hàng trăm năm, nhưng vào năm 1997 - 1998, hệ
thống ngân hàng Thái Lan vẫn bị chao đảo trước cơn khủng hoảng tài chính - tiền
tệ Châu Á. Nhiều công ty tài chính và NHTM bị phá sản hoặc buộc phải sáp nhập.
Trước tình hình đó buộc các ngân hàng Thái Lan phải xem xét lại toàn bộ chính
sách, cách thức, quy trình hoạt động ngân hàng, đặc biệt là lĩnh vực tín dụng nhằm
22
giảm thiểu rủi ro…Đi đôi với việc đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng và dịch vụ,
xác định khách hàng, mục tiêu, chủ động tiếp thị khách hàng…một loạt các thay
đổi căn bản trong hoạt động tín dụng đã được các ngân hàng Thái Lan triển khai
nhanh chóng và triệt để:
- Tách bạch, phân công rõ chức năng các bộ phận và tuân thủ các khâu trong quy
trình giải quyết các khoản vay, ví dụ điển hình như:
* Tại Bangkok Bank: trước đây, các bộ phận trong quy trình cấp tín dụng chỉ là
một, nay, đã tách hẳn thành hai bộ phận độc lập: bộ phận tiếp nhận giải quyết hồ
sơ và bộ phận thẩm định. Trong đó, bộ phận thẩm định phải có báo cáo thẩm định
tín dụng, gồm: chiến lược và kế hoạch kinh doanh, báo cáo xếp hạng rủi ro…Đây
là một thay đổi căn bản của Bangkok Bank nhằm bảo đảm tính độc lập, khách
quan trong quá trình thực thi cấp tín dụng.
* Tại Siam Comercial Bank (SCB): cũng đã xây dựng mô hình tổ chức triển khai
dịch vụ tín dụng theo nguyên tắc phân định rõ trách nhiệm của ba bộ phận:
Marketing khách hàng, thẩm định và quyết định cho vay. Ngân hàng đã phân loại
khách hàng theo từng nhóm, từ đó nhận rõ tính chất khác nhau làm cơ sở cho việc
xác định nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ phận trong việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ,
thẩm định và ra quyết định.
- Tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề mang tính nguyên tắc trong hoạt động tín dụng.
Trước đây rất nhiều ngân hàng Thái Lan không tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên
tắc tín dụng trong quá trình cho vay, chỉ quan tâm đến TSBĐ, không quan tâm đến
dòng tiền của khách hàng. Vì thế, hậu quả là nợ xấu có lúc lên tới 40% (1997-
1998). Nhưng hiện nay, các ngân hàng không chỉ triệt để chấp hành nguyên tắc tín
dụng mà còn quan tâm nhiều đến các thông tin của khách hàng, coi trọng đến chu
chuyển dòng tiền và việc thu hồi vốn.
- Tiến hành cho điểm khách hàng để quyết định cho vay.
- Tuân thủ thẩm quyền phán quyết tín dụng.
- Coi trong việc giám sát khoản vay sau khi cho vay bằng cách tiếp tục thu thập
thông tin khách hàng, thường xuyên đánh giá xếp loại khách hàng để có biện pháp
xử lý kịp thời các tình huống rủi ro.
23
- Coi trọng việc cập nhật hiểu biết nghề nghiệp, đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ
năng và khả năng thực thi độc lập nhiệm vụ cho cán bộ tín dụng.
- Áp dụng Sổ tay tín dụng được viết rất công phu, rõ ràng, dễ áp dụng; có chính
sách cho vay riêng đối với bất động sản là lĩnh vực có rủi ro rất cao.
24
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN
DỤNG TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM – CN 11
2.1. Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội Quận 11 trong thời gian qua:
Quận 11 chính thức có tên trên bản đồ Sài Gòn-Gia Định từ ngày 01/07/1969 theo
sắc luật số 73 của chính quyền Sài Gòn cũ. Ban đầu gồm 4 phường được tách ra từ
Quận 5 và Quận 6: Phường Phú Thọ (Quận 5 cũ), Phường Cầu Tre, Bình Thới,
Phú Thọ Hòa (Quận 6 cũ). Sau đó lập thêm 2 phường là Bình Thạnh và Phú
Thạnh.
Sau ngày giải phóng 30/04/1975, địa bàn Quận 11 được giữ nguyên với 6 phường
và 47 khóm. Đến ngày 01/06/1976 được phân chia lại thành 21 phường. Sau nhiều
lần điều chỉnh địa giới, đến nay Quận 11 có 16 phường. Quận 11 có tổng diện tích
513,58 ha, nằm ở Tây Nam thành phố. Giáp Quận Bình Tân ) ở phía Bắc và Tây
Bắc, phía Đông giáp Quận 5,10, phía Nam và Tây Nam giáp ranh Quận 6. Tính
đến cuối năm 2004, quận 11 có dân số là 229.837 người, có 120.474 nữ (tỷ lệ
52,41%). Người Hoa có 103.189 người (tỷ lệ 44,89%), mật độ dân số trung bình là
44.722 người/km2
Năm 2008 Giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt 3.330,135 tỷ
đồng tăng 6,1% so với năm 2007, trong đó khối công ty cổ phần có vốn nhà nước
tăng 9,2%; khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 12,9%; khối hợp tác xã giảm
15%, khối cá thể tăng 2,1%
Tổng giá trị đầu tư máy móc thiết bị và nhà xưởng năm 2008 là 27,916 tỷ đồng
giảm 78% so với năm 2007, trong đó khối ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng
90,1%, khối cơ sở cá thể chiếm tỷ trọng 9,9%.
Doanh thu thương mại dịch vụ năm 2008 đạt 28,045 tỷ đồng, tăng 16,18% so với
năm 2007, trong đó khối doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước giảm 28,33%;
khối hợp tác xã tăng 128,35%; khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 1,62%;
khối cá thể tăng 24,39%.
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI NĂM 2009
Năm 2009, tiếp tục quá trình thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm (2006-2010) mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận lần thứ IX đã đề
25
ra, Quận xác định các nhiệm vụ trọng tâm và chỉ tiêu chủ yếu cần tập trung thực
hiện như sau:
Một số chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 :
Giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp tăng 6% trở lên so với thực hiện
năm 2008. Doanh thu thương mại-dịch vụ tăng 20% trở lên so với thực hiện năm
2008.
Một số nhiệm vụ - giải pháp trọng tâm:
Duy trì tốc độ tăng trưởng và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia
tăng tỷ trọng thương mại-dịch vụ. Tổ chức triển khai thực hiện Quy hoạch phát
triển thương mại dịch vụ; sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đến năm
2010, tầm nhìn đến 2015. Chú trọng phát triển thành phần kinh tế tập thể cả về số
lượng và chất lượng.
2.2. Giới thiệu về Ngân hàng Công thương Việt Nam Chi nhánh 11:
2.2.1. Giới thiệu về Ngân hàng Công thương Việt Nam:
Thực hiện Nghị quyết 3, khoá VI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nghị
định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội Đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) về
việc chuyển họat động ngân hàng sang hạch toán kinh doanh và hình thành hệ
thống Ngân hàng hai cấp, từ ngày 01/07/1988 Ngân hàng Công thương Việt Nam
ra đời và đi vào họat động trên cơ sở Vụ Tín dụng Công nghiệp và Vụ Tín dụng
thương nghiệp của Ngân hàng nhà nước trung ương cùng các phòng Tín dụng
công nghiệp, thương nghiệp của Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước địa phương
Quá trình hình thành tổ chức bộ máy hoạt động của Ngân hàng Công thương Việt
Nam tính đến nay trải qua 3 giai đọan:
- Giai đoạn thức nhất (từ tháng 07/1988 đến hết năm 1990): Trong giai đọan này,
Ngân hàng Công thương chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý như một liên hiệp xí
nghiệp đặc biệt, các chi nhánh thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập
- Giai đoạn thứ 2: (Từ tháng 01/1991 đến tháng 09/1996): Sau khi pháp lệnh Ngân
Hàng có hiệu lực thi hành (tháng 10/1990), theo Quyết định 402/CT ngày
14/11/1990 của Chủ tịch HĐBT ( nay là Thủ tướng Chính phủ ), Ngân hàng Công
thương Việt Nam mới thực sự trở thành một Ngân hàng thương mại có chức năng
26
kinh doanh tiền tệ. Mô hình tổ chức kinh doanh được dịnh hình rõ: Ngân hàng
Công thương Việt Nam là một pháp nhân thuộc sở hữu Nhà nước, thực hiện hạch
toán kinh tế độc lập, các chi nhánh là các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc.
- Giai đoạn thứ 3 (từ tháng 09/1996 đến nay): Theo mô hình Tổng công ty Nhà
nước, Ngân hàng Công thương Việt Nam được quản lý bởi Hội Đồng Quản trị,
điều hành bởi Tổng Giám Đốc, có các chi nhánh là các đơn vị thành viên hạch
toán phụ thuộc.
Ngân hàng Công thương Việt Nam có tên giao dịch trước đây là Industrial and
commercial of Vietnam, gọi tắt là Incombank, và kể từ ngày 15/04/2008 Ngân
hàng công thương với thương hiệu mới là Vietinbank (Vietnam bank for industry
and trade).
Vốn là một trong những Ngân hàng thương mại Nhà nước lớn nhất tại Việt Nam
(NHCTVN đã tiến hành IPO và đang chuyển đổi mô hình thành NHTM cổ phần
Nhà nước) , VietinBank có tổng tài sản chiếm hơn 25% thị phần trong toàn bộ hệ
thống ngân hàng Việt Nam. Nguồn vốn của VietinBank luôn tăng trưởng qua các
năm, tăng mạnh kể từ năm 1996, đạt bình quân hơn 20% năm, đặc biệt có năm
tăng 35% so với năm trước.
Mạng lưới kinh doanh trải rộng toàn quốc với 3 Sở Giao dịch, 140 chi nhánh, 188
phòng giao dịch, 258 điểm giao dịch, 191 quỹ tiết kiệm, 742 máy rút tiền tự động,
hai văn phòng đại diện. Có 03 Công ty hạch toán độc lập là Công ty Cho thuê Tài
chính, Công ty TNHH Chứng khoán, Công ty Quản lý Nợ và Khai thác Tài sản và
03 đơn vị sự nghiệp là Trung tâm thẻ, Trung tâm công nghệ thông tin và Trường
đào tạo nguồn nhân lực. Ngoài ra, NHCT còn góp vốn liên doanh vào Ngân hàng
Indovina và Công ty Liên doanh Bảo hiểm Châu Á NHCTVN (IAI); góp vốn vào
07 công ty trong đó có Công ty cổ phần Chuyển mạch Tài chính quốc gia Việt
Nam, Công ty cổ phần Xi măng Hà Tiên, Công ty cổ phần cao su Phước Hòa,
Ngân hàng thương mại cổ phần Gia Định, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
Công Thương v.v.
NHCTVN hiện tại có quan hệ đại lý với trên 800 ngân hàng, định chế tài chính tại
trên 90 quốc gia, vùng lãnh thổ trên toàn thế giới.Vốn tự có của NHCTVN đến
27
ngày 31/12/2008 là 10.800 tỷ đồng, tổng tài sản lên tới 196.012 tỷ đồng, chiếm
khoảng 10% tổng tài sản toàn ngành ngân hàng.
2.2.2. Giới thiệu về Ngân hàng Công thương Việt Nam-Chi nhánh 11:
2.2.2.1. Lịch sử hình thành:
Là một trong những chi nhánh của NHCTVN hoạt động tại TP.HCM, có trụ sở tại
1447-1449 đường Ba tháng Hai, Phường 16 Quận 11, TP.HCM. NHCTVN-CN11
hoạt động dưới sự điều hành trực tiếp của Giám Đốc.
2.2.2.2. Cơ cấu tổ chức:
Đóng trên địa bàn quận 11, là cái nôi của sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nên hoạt
động của NHCTVN-CN 11 không tách rời với hoạt động của thành phần kinh tế
này cũng như các doanh nghiệp của Quận. Những năm gần đây hoạt động của Chi
nhánh có xu thế mở rộng đến một số lĩnh vực thương mại dịch vụ, đầu tư cơ sở hạ
tầng, mở rộng đầu tư ra các địa bàn lân cận, các khu công nghiệp.
MÔ HÌNH TỔ CHỨC
NHCTVN-CN11 đến thời điểm hiện nay, thành lập được 12 phòng và tổ nghiệp
vụ (Phòng khách hàng, Phòng Kế toán, Phòng Ngân quỹ, Phòng Hành chính nhân
sự, Phòng Giao dịch Phú Thọ, Phòng Giao dịch Lãnh Binh Thăng, Phòng Giao
dịch Cây Gõ, Tổ Quản lý rủi ro, Tổ điện toán, Tổ tổng hợp, Tổ tiếp thị, Tổ nguồn
BAN GIÁM ĐỐC
PHÒNG
KHÁCH
HÀNG
CÁC TỔ
NGHIỆP
VỤ
PHÒNG
KTKSNB
TẠI CN11
PHÒNG
KẾ
TOÁN
PHÒNG
NGÂN
QUỸ
PHÒNG
HÀNH
CHÍNH
CÁC
PHÒNG
GIAO DỊCH
28
vốn, với số lượng cán bộ, nhân viên gần 80 người. Ngoài ra còn có Phòng Kiểm
soát nội bộ trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam đóng tại Chi nhánh, thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra kiểm soát nội bộ toàn bộ hoạt động của Chi nhánh..
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên chi nhánh hiện nay đa số
đạt trình độ Đại học, có sự kết hợp giữa cán bộ lâu năm kinh nghiệm và cán bộ trẻ
năng động, đã phần nào đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới.
Hoạt động của NHCTVN-CN11 trong thời gian qua có tác dụng và ảnh hưởng
không nhỏ đối với kinh tế Quận 11 nói riêng và góp phần phát triển kinh tế thành
phố nói chung.
Định hướng phát triển của Chi nhánh đến năm 2012:
Kể từ năm 2009, NHCTVN bắt đầu hoạt động theo mô hình NHTM cổ phần, nên
toàn bộ hoạt động của các chi nhánh trong đó có NHCTVN-CN11 có nhiều điều
kiện thuận lợi. Tuy nhiên công tác tín dụng sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn và
thách thức:
- Kinh tế toàn cầu đang có những dấu hiệu suy thoái, thị trường bắt đầu thu hẹp.
- Nền kinh tế trong nước chịu ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính toàn cầu và lạm
phát cao từ năm 2008, cán cân thanh toán chưa ổn định, sức cạnh tranh nền kinh tế
thấp, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
- Khả năng xuất khẩu bị đe dọa nghiêm trọng do sự cạnh tranh gay gắt với hàng
Trung Quốc và các nước khối ASEAN.
Tuy nhiên, NHCTVN-CN11 vẫn xây dựng chiến lược phát triển đến năm 2012 là
phải chiếm được 30% thị phần cho vay và huy động trên địa bàn Quận 11, trong
đó một số nhiệm vụ trong năm 2009 được cụ thể như sau:
- Cho vay nền kinh tế: tăng trên 25%
- Tỷ lệ nợ nhóm 2: dưới 3%
- Tỷ lệ nợ xấu: dưới 2%
- Tỷ lệ cho vay có tài sản bảo đảm: trên 99%
2.2.2.3. Hoạt động cho vay chủ yếu của NHCTVN-CN11:
NHCTVN-CN11 cung ứng cho các khách hàng các sản phẩm cho vay gồm :
29
• Xét theo thời hạn:
- Cho vay ngắn hạn có thời hạn đến 1 năm
- Cho vay trung hạn: Có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm
- Cho vay dài hạn: Có thời hạn từ trên 5 năm trở lên
• Xét theo phương thức cho vay:
- Cho vay từng lần: Áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu không thường xuyên.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm thủ tục vay vốn và cùng Ngân hàng ký kết hợp
đồng tín dụng. Doanh số cho vay không vượt quá số tiền cho vay đã thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng
- Cho vay theo hạn mức: Cho các đối tượng khách hàng có nhu cầu thường xuyên.
Căn cứ theo nhu cầu: Ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng một hạn mức, khách hàng
chỉ ký kết HĐTD một lần, các lần sau chỉ làm thủ tục nhận nợ, việc quản lý nợ
theo hạn mức.
- Cho vay dự án đầu tư: Cho các đối tượng là các dự án, phương án đầu tư trung
dài hạn để xây dựng mua sắm nhà xưởng, máy móc thiết bị, dây chuyền công
nghệ…
- Phương thức cho vay trả góp: Ngân hàng cho vay các đối tượng có nhu cầu cho
các mục đích sinh hoạt, tiêu dùng cá nhân hoặc sản xuất kinh doanh nhỏ, lẻ…
- Cho vay phát hành thẻ tín dụng: Ngân hàng chấp nhận cho khách hàng sử dụng
số vốn vay cho những nhu cầu thanh toán, rút tiền mặt tại máy ATM hoặc các
điểm chấp nhận thẻ.
- Cho vay theo hạn mức dự phòng: Ngân hàng cam kết đảm bảo một khoản tín
dụng cho khách hàng theo hạn mức ký kết, khách hàng phải chịu một khoản phí
phát sinh và lãi khi sử dụng vốn.
- Cho vay hợp vốn: NHCTVN-CN 11 cùng các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng
nhu cầu của khách hàng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: Ngân hàng chấp nhận cho khách hàng chi vượt
số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách cho những nhu cầu thanh toán chi
trả.
30
- Cho vay khác: Tùy theo đặc điểm nhu cầu Ngân hàng sẽ cung cấp cho khách
hàng các loại cho vay phù hợp.
2.2.2.4. Kết quả kinh doanh tại NHCTVN-CN11
Bảng 1 : HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
1. Thu nhập
trong đó thu từ cho vay:
2. Chi phí
3. Lợi nhuận
63.985
58.311
51.583
12.402
90.733
82.703
73.196
17.537
112.997
102.007
92.727
20.270
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11
Qua bảng cho thấy kết quả hoạt động của Chi nhánh đều tăng trưởng qua các năm.
Nguồn thu của Chi nhánh vẫn chủ yếu là thu từ hoạt động cho vay, cụ thể: năm
2006: 91,13%, năm 2007: 91,15% và năm 2008: 90,27%.
2.3. Thực trạng công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại
NHCTVN-CN11 trong 3 năm qua:
2.3.1. Quy trình cho vay và kiểm soát cho vay
Do nhận biết được tầm quan trọng của việc cấp tín dụng đến khách hàng cho nên
NHCTVN thống nhất quy trình cấp tín dụng và kiểm soát đối với các khoản vay
áp dụng cho các chi nhánh trong toàn hệ thống để đảm bảo tính thống nhất và tuân
thủ các quy định có liên quan của pháp luật Quy trình được thực hiện trong 4
bước:
Bước 1: Tiếp nhận và thẩm định hồ sơ vay vốn
Theo các quy định và quy trình về kiểm soát của tại Ngân hàng Công thương Việt
Nam: Các bộ phận thẩm định cho vay và thẩm định độc lập phải kiểm tra toàn bộ
hồ sơ với các quy định về nhiệm vụ như sau:
Cán bộ tín dụng thực hiện:
- Kiểm tra sự đầy đủ và phù hợp của hồ sơ pháp lý
- Kiểm tra năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự và thẩm quyền của người
vay, người đại diện.
31
- Kiểm tra hồ sơ khoản vay:
• Sự đầy đủ về số lượng của hồ sơ khoản vay theo quy định
• Sự phù hợp của hồ sơ khoản vay với phương thức cho vay, thời hạn cho vay
• Tính pháp lý và nội dung của các báo cáo tài chính của phương án/dự án vay
vốn.
- Kiểm tra hồ sơ bảo đảm tiền vay:
• Sự đầy đủ về số lượng, tính pháp lý và nội dung của hồ sơ chứng minh quyền
sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất của bên thế chấp, cầm cố, văn bản bảo lãnh của
bên bảo lãnh
• Sự khớp đúng giữa hồ sơ và hiện trạng của tài sản bảo đảm
• Việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay của đơn vị chính cho đơn vị phụ
thuộc
• Việc công chứng / chứng thực đối với hợp đồng bảo đảm tiền vay, đăng ký giao
dịch bảo đảm
• Việc mua bảo hiểm tài sản bảo đảm.
- Kiểm tra hồ sơ giải quyết cho vay:
• Kiểm tra việc đáp ứng các điều kiện vay vốn theo quy định
• Tính khả thi, hiệu quả, khả năng trả nợ của phương án/dự án
• Các điều kiện quy định riêng đối với từng đối tượng khách hàng
• Các đối tượng không được vay hoặc hạn chế cho vay
• Kiểm tra nội dung khoản vay: mức cho vay so với giá trị tài sản bảo đảm, thời
hạn cho vay, lãi suất cho vay, đối tượng cho vay, điều kiện giải ngân…
• Kiểm tra lại nội dung, hình thức, sự đầy đủ và tính hợp lệ của: Tờ trình thẩm
định cho vay, thông báo / bản thoả thuận giới hạn tín dụng cấp có thẩm quyền,
chữ ký tắt của lãnh đạo phòng khách hàng trên từng trang của các hồ sơ theo quy
định
- Kiểm tra trình tự thẩm định, phê duyệt (đảm bảo theo nguyên tắc độc lập giữa
thẩm định cho vay, thẩm định rủi ro tín dụng độc lập và quyết định cho vay), và
thẩm quyền phê duyệt theo phân cấp ủy quyền
32
- Kiểm tra hình thức và nội dung của hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền
vay
• Đảm bảo tư cách pháp lý của người ký trên hợp đồng
• Sự phù hợp của nội dung hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay với
quyết định phê duyệt của người có thẩm quyền và tính ràng buộc có lợi cho
NHCTVN-CN11
- Kiểm tra việc nhập dữ liệu của khoản vay thuộc phần hành trên hệ thống INCAS
- Chỉnh sửa và hoàn thiện kịp thời các thiếu sót trên hồ sơ được phát hiện sau khi
kiểm tra, giám sát
Lãnh đạo phòng khách hàng thực hiện:
- Rà soát việc nhập dữ liệu của cán bộ tín dụng
- Đề xuất các biện pháp xử lý sai sót
Cán bộ quản lý rủi ro thực hiện
- Kiểm tra, rà soát lại các yếu tố rủi ro về hồ sơ khách hàng và hồ sơ liên quan đến
khoản vay trên cơ sở hồ sơ do các phòng khách hàng cung cấp và các nguồn thông
tin khác.
- Kiểm tra, giám sát việc nhập dữ liệu của khoản vay vào hệ thống INCAS của
phòng khách hàng
- Lập phiếu báo lỗi cho phòng khách hàng theo từng hợp đồng tín dụng, trường
hợp phát hiện lỗi mang tính rủi ro cao phải trình người có thẩm quyền xem xét
quyết định.
Lãnh đạo tổ quản lý rủi ro
- Kiểm soát lại các nội dung kiểm tra, đề xuất của cán bộ quản lý rủi ro và yêu cầu
hoàn thiện, bổ sung
- Đôn đốc, kiểm tra việc nhập dữ liệu vào hệ thống INCAS của phòng khách hàng.
- Đề xuất các biện pháp xử lý sai sót
Người có thẩm quyền quyết định xử lý sau khi kiểm tra:
- Quyết định việc thoả thuận, bổ sung các nội dung cần thiết để đảm bảo an toàn
cho khoản vay.
33
- Quyết định các biện pháp xử lý theo đề nghị của phòng khách hàng, tổ quản lý
rủi ro trong phạm vi thẩm quyền
Bước 2: Phê duyệt, ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng
Nếu đơn xin vay được chấp thuận, các bộ phận tiến hành kiểm soát:
Cán bộ tín dụng thực hiện
- Kiểm tra điều kiện giải ngân:
• Kiểm tra việc đáp ứng các điều kiện giải ngân theo quy định và nội dung thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, cam kết bảo lãnh.
• Kiểm tra lại tình hình khách hàng, tài sản thế chấp nếu thời điểm giải ngân quá
3 tháng theo thời điểm quyết định cho vay.
- Kiểm tra nội dung giải ngân:
• Đối tượng giải ngân, số tiền giải ngân
• Sự phù hợp của hình thức rút vốn với nội dung, điều kiện thanh toán của chứng
từ rút vốn, mục đích, đối tượng vay vốn
• Kiểm tra hóa đơn, chứng từ hồ sơ liên quan đến đối tượng đề nghị rút vốn và
đối tượng vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; kiểm tra số tiền giải ngân
được ghi trên chứng từ rút tiền
• Kiểm tra thực tế đối tượng giải ngân ( nếu cần thiết )
- Kiểm tra việc xử lý phát sinh khi giải ngân
• Kiểm tra lại hồ sơ, thủ tục, trình tự thực hiện trong trường hợp có sự thay đổi
các nội dung đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng
• Trong thời gian giải ngân nếu phát hiện khách hàng có những biểu hiện khó
khăn về tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc vi phạm các cam kết, cán
bộ tín dụng báo cáo kịp thời thực trạng và đề xuất biện pháp xử lý với lãnh đạo
phòng và người có thẩm quyền.
- Rà soát lại việc nhập dữ liệu của khoản vay thuộc phần hành công việc của mình
trên hệ thống INCAS
- Thực hiện chỉnh sửa, hoàn thiện kịp thời những thiếu sót trên hồ sơ được phát
hiện trong quá trình kiểm tra.
34
Lãnh đạo phòng khách hàng thực hiện.
- Kiểm soát lại các nội dung kiểm tra, yêu cầu hoàn thiện, bổ sung
- Đôn đốc việc bổ sung hoàn thiện và duy trì dữ liệu liên quan đến khoản vay và
thực hiện các công việc của mình trên hệ thống INCAS của cán bộ tín dụng.
- Đề xuất các biện pháp xử lý sai sót
Cán bộ quản lý rủi ro thực hiện
- Kiểm tra, giám sát việc nhập dữ liệu giải ngân vào hệ thống INCAS của phòng
khách hàng.
- Lập phiếu thông báo lỗi cho phòng khách hàng theo từng hợp đồng tín dụng khi
phát hiện lỗi hoặc theo định kỳ.
Lãnh đạo tổ quản lý rủi ro thực hiện.
- Đôn đốc kiểm tra việc nhập dữ liệu.vào hệ thống INCAS của phòng khách hàng.
Người có thẩm quyền quyết định xử lý sau kiểm tra.
- Tăng cường cán bộ/biện pháp kiểm tra, giám sát trong trường hợp cần thiết
- Dừng/tạm dừng giải ngân; áp dụng các biện pháp giám sát đặc biệt đối với các
trường hợp có rủi ro cao.
- Quyết định các biện pháp xử lý theo đề nghị của phòng khách hàng trong phạm
vi thẩm quyền
Bước 3:Thanh toán nợ vay và kết thúc hợp đồng tín dụng
Cán bộ tín dụng thực hiện:
- Kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn vay
• Thường xuyên theo dõi diễn biến dư nợ của khách hàng, trạng thái nợ của hợp
đồng tín dụng qua phân hệ cho vay INCAS.
• Chậm nhất 5 ngày làm việc trước khi đến hạn nợ cán bộ tín dụng phải thông
báo cho khách hàng thu xếp nguồn trả nợ đúng hạn.
• Đôn đốc khách hàng gửi đầy đủ, đúng hạn các báo cáo theo yêu cầu.
• Kiểm tra sử dụng vốn vay theo định kỳ hoặc đột xuất.
35
• Định kỳ 6 tháng/lần, kiểm tra toàn diện tình hình tài chính, đánh giá lại tài sản
bảo đảm, định kỳ hàng năm phân tích tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh và
quan hệ tín dụng của khách hàng.
• Xây dựng phương án, biện pháp quản lý, thu hồi nợ vay đối với từng khoản vay
hoặc từng hợp đồng tín dụng
• Cập nhật, bổ sung các dữ liệu liên quan đến khoản vay vào hệ thống INCAS.
- Kiểm tra việc xử lý các phát sinh trong quá trình quản lý khoản vay.
• Kiểm tra thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ
• Kiểm tra, định giá lại tài sản bảo đảm
• Cập nhật, bổ sung các dữ liệu liên quan đến khoản vay vào hệ thống INCAS.
- Kiểm tra việc thanh lý hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay và giải
chấp tài sản.
• Phối hợp bộ phận kế toán đối chiếu, kiểm tra số tiền trả nợ gốc, lãi, phí
• Tuân thủ quy trình xuất kho tài sản bảo đảm, hồ sơ tài sản bảo đảm và thủ tục
xóa đăng ký giao dịch bảo đảm.
• Rà soát lại việc nhập dữ liệu của khoản vay thuộc phần hành công việc mình
trên hệ thống INCAS.
• Thực hiện kiểm tra, hoàn thiện hồ sơ sau khi giải ngân.trường hợp phát hiện sai
sót sau khi giải ngân, báo cáo đề xuất cho người có thẩm quyền xử lý.
Lãnh đạo phòng khách hàng thực hiện.
- Bố trí và đôn đốc cán bộ tín dụng thực hiện tốn công việc của mình, kiểm soát lại
các nội dung kiểm tra, yêu cầu hoàn thiện, bổ sung
- Ký trên các biên bản kiểm tra, phân tích khách hàng… của cán bộ tín dụng
- Đôn đốc việc bổ sung hoàn thiện và duy trì dữ liệu liên quan đến khoản và thực
hiện các công việc của mình trên hệ thống INCAS.
- Đề xuất các biện pháp xử lý sai sót
Cán bộ quản lý rủi ro thực hiện
- Rà soát phát hiện kịp thời các rủi ro có thể phát sinh trong quá trình sử dụng vốn
vay và khi thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ của khách hàng
36
- Phối hợp với cán bộ tín dụng kiểm tra việc chấp hành, việc tuân thủ nội dung
trong thông báo phê duyệt của trụ sở chính (nếu có)
- Kiểm tra, giám sát việc nhập dữ liệu giải ngân vào hệ thống INCAS của phòng
khách hàng.
- Lập phiếu thông báo lỗi cho phòng khách hàng theo từng hợp đồng tín dụng khi
phát hiện lỗi hoặc theo định kỳ.
Lãnh đạo tổ quản lý rủi ro thực hiện.
- Kiểm soát lại các nội dung kiểm tra, đề xuất của cán bộ quản lý rủi ro và yêu cầu
hoàn thiện bổ sung các nội dung chưa đầy đủ
- Đôn đốc kiểm tra cán bộ quản lý rủi ro giám sát việc nhập dữ liệu liên quan đến
khoản vay vào hệ thống INCAS của phòng khách hàng.
- Ghi rõ ý kiến trên tờ trình đề xuất các biện pháp xử lý của cán bộ quản lý rủi ro
Người có thẩm quyền quyết định xử lý sau kiểm tra.
- Tăng cường cán bộ/biện pháp kiểm tra, giám sát trong trường hợp cần thiết
- Dừng/tạm dừng giải ngân; áp dụng các biện pháp giám sát đặc biệt đối với các
trường hợp có rủi ro cao.
- Quyết định các biện pháp xử lý theo đề nghị của phòng khách hàng trong phạm
vi thẩm quyền
• Bước 4: Lưu hồ sơ
2.3.2. Các quy định về thẩm quyền, giới hạn tín dụng và thẩm định rủi ro độc
lập
2.3.2.1. Về thẩm quyền
- Hội đồng tín dụng cơ sở: Trên cơ sở mức ủy quyền của Tổng Giám Đốc, Hội
đồng tín dụng cơ sở quyết định mức phán quyết cao nhất cho Giám Đốc Chi
nhánh. Giám Đốc chi nhánh được ủy quyền cho Trưởng phòng giao dịch, Trưởng
điểm giao dịch.
Quyết định giới hạn tín dụng, giới hạn cho vay, bảo lãnh…. theo quy chế hội đồng
tín dụng. Định kỳ hàng năm hội đồng tín dụng cơ sở định hướng cơ cấu tín dụng
cho chi nhánh.
37
Các món vay phải thông qua hội đồng tín dụng cơ sở gồm:
- Các món vay từ 70 % mức phán quyết của chi nhánh trở lên
- Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất cho khoản vay từ 5 tỷ trở lên
2.3.2.2. Quy định về giới hạn tín dụng
Giới hạn tín dụng là tổng mức cấp tín dụng tối đa mà NHCTCN11 có thể chấp
nhận trong giao dịch đối với một khách hàng, bao gồm: giới hạn cho vay, giới hạn
tài trợ thương mại và giới hạn thấu chi. Thực hiện giới hạn tín dụng trong những
trường hợp: Khách hàng là doanh nghiệp lần đầu quan hệ tín dụng; Giới hạn tín
dụng theo định kỳ tối thiểu một năm.
Các mức giới hạn tín dụng áp dụng:
- Giới hạn cho vay/bảo lãnh/chiết khấu/bao thanh toán một khách hàng không vướt
quá 15% vốn tự có của Ngân hàng Công thương Việt Nam
- Giới hạn bảo lãnh và cho vay không vượt quá 25% vốn tự có của Ngân hàng
Công thương Việt Nam
- Giới hạn cho vay của một nhóm khách hàng liên quan không vượt quá 50% vốn
tự có của Ngân hàng Công thương Việt Nam
- Giới hạn cho vay và bảo lãnh của một nhóm khách hàng liên quan không vượt
quá 60% vốn tự có của Ngân hàng Công thương Việt Nam
2.3.2.3. Quy định về thẩm định độc lập:
- Các khách hàng có quan hệ lần đầu với ngân hàng
- Giới hạn tín dụng cho khách hàng là tổ chức kinh tế từ 25 tỷ trở lên (đối với chi
nhánh được ủy quyền phán quyết từ 50 tỷ trở lên) và từ 15 tỷ trở lên ( đối với chi
nhánh được ủy quyền dưới 50 tỷ )
- Giới hạn cho vay/ bảo lãnh/ chiết khấu đối với khách hàng là tổ chức kinh tế từ
15 tỷ đồng trở lên (đối với chi nhánh được ủy quyền phán quyết từ 50 tỷ trở lên)
và từ 10 tỷ trở lên ( đối với chi nhánh được ủy quyền dưới 50 tỷ )
- Giá trị một khoản cấp tín dụng đối với khách hàng là tổ chức kinh tế dưới hình
thức cho vay/ bảo lãnh/ chiết khấu từ 7 tỷ đồng trở lên (đối với chi nhánh được ủy
quyền phán quyết từ 50 tỷ trở lên) và từ 5 tỷ trở lên (đối với chi nhánh được ủy
quyền dưới 50 tỷ)
38
- Các trường hợp khác do người có thẩm quyền yêu cầu.
2.3.3. Áp dụng công nghệ trong quản lý cho vay: Hệ thống INCAS (Advanced
management System):
Là phần mềm quản lý và thanh toán, được mua từ Malaysia. Được áp dụng từ
năm 2005 trong dự án hiện đại hóa Ngân Hàng. Hệ thống INCAS đã giúp cho trụ
sở chính giám sát được toàn bộ hoạt động và việc thực hiện quy trình nghiệp vụ
của tất cả các chi nhánh, giám sát việc cấp hạn mức tín dụng và các quyết định phê
duyệt.
• Hệ thống INCAS quản lý, xử lý dữ liệu tập trung và tích hợp các ứng dụng của
các Module: cho vay, tài trợ thương mại, thông tin khách hàng, báo cáo quản lý,
quản lý nợ tập trung… đã giúp cho công tác kiểm soát nội bộ được hiệu quả. Hệ
thống có chức năng cung cấp thông tin, cụ thể:
- Cho phép vấn tin trực tuyến vào bất cứ thời điểm nào khi cần thiết
- Thông tin về khách hàng, từng hợp đồng cho vay, từng tài sản bảo đảm.
- Thông tin liên quan đến giao dịch trong ngày, trong tháng và sản phẩm cho vay
- Nhật ký các xử lý giao dịch.
• Giới thiệu về Module cho vay:
- Module cho vay có 68 tham số
- Tham số cho vay chi phối tất cả các hoạt động của Module cho vay và các hoạt
động của Module tài trợ thương mại, Module tiền gửi.
- Tham số cho vay có thể thay đổi linh hoạt tùy theo mục đích quản lý của Ngân
hàng
- Trong tham số, các tiêu thức quản lý, phân loại đều được mã hóa, giúp cho việc
quản lý thống nhất trong toàn hệ thống và chiết xuất thông tin thuận lợi, chính xác
- Một số tham số cơ bản trong Module cho vay:
CIF (customer information file): Quản lý thông tin khách hàng khi lần
đầu tiên giao dịch vay vốn và được khai báo trong hệ thống. Mỗi khách hàng có
một số CIF duy nhất dùng trong toàn hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam.
39
A/A (Accomodation of Application): Là số dư tín dụng cao nhất dành cho
một khách hàng bao gồm hạn mức dư nợ (cho vay và thấu chi) và hạn mức tài trợ
thương mại (L/C và bảo lãnh). Mỗi khách hàng chỉ có một số A/A duy nhất. Hạn
mức cấp trên A/A là hạn mức áp dụng cho khách hàng đó.
Facility: Được sử dụng để quản lý hạn mức hoặc quản lý hợp đồng của
từng loại sản phẩm hoặc từng nhóm sản phẩm. Một A/A có thể có nhiều Facility,
Facility có nhiều cấp từ 0-9 tùy thuộc vào mục tiêu quản lý.
Chức năng của Facility: Quản lý hạn mức của các tài khoản vay thuộc từng
facility. Tùy theo đặc điểm của từng khoản vay có thể sử dụng các Facility khác
nhau:
Facility tuần hoàn: Hạn mức còn lại được quản lý theo dư nợ gốc.
Facility không tuần hoàn:Hạn mức còn lại được quản lý theo doanh số.
Vídụ:
Facility tuần hoàn và không tuần hoàn
Ngân hàng cùng khách hàng ký một hợp đồng tín dụng 10 tỷ trong một năm: Từ
01/01/2007 đến 31/12/2007.
Ngày 05/01/2007 khách hàng giải ngân 6 tỷ
Ngày 05/7/2007 khách hàng trả 3 tỷ.
Ngày 10/07/2007 khách hàng có nhu cầu giải ngân hết theo hợp đồng. Mức giải
ngân tối đa là:
Nếu áp dụng Facility tuần hoàn: 10 – (6 – 3) = 7 tỷ
Nếu áp dụng Facility không tuần hoàn: 10 – 6 = 4 tỷ.
Facility chia sẻ và không chia sẻ:
Facility chia sẻ: Dưới Facility gốc có thể tạo những Facility con
Facitlity không chia sẻ: Dưới facility là tài khoản vay (không có facility con)
Vì vậy, đối với phương thức cho vay hạn mức, hoặc cho vay từng lần nhiều loại
đồng tiền, nhiều mức lãi suất khác nhau ngân hàng thường sử dụng chức năng tuần
hoàn, chia sẻ của Facility và sử dụng chức năng không tuần hoàn, không chia sẻ
đối với cho vay từng lần chỉ áp dụng một loại đồng tiền hoặc một mức lãi suất,..
40
Tài khoản cho vay: Được dùng để theo dõi và quản lý diễn biến của từng khoản
vay theo từng hợp đồng tín dụng cụ thể. Tài khoản cho vay được gắn trực tiếp với
Facility cho vay
Tài khoản cho vay có 3 loại: Tài khoản thông thường, tài khoản chính và tài khoản
chi tiết
Tùy theo thuộc tính của Facility có thể mở một hoặc nhiều tài khoản thông
thường, có thể mở một tài khoản chính và một hoặc nhiều tài khoản chi tiết.
• Ích lợi của Module cho vay:
- Quản lý hạn mức tổng thể của một khách hàng
- Có khả năng kiểm tra và phê duyệt trực tuyến tổng hạn mức cho vay
- Có khả năng theo dõi, quản lý, giám sát một khoản vay từ khi khởi tạo đến khi
kết thúc
- Có thể vấn tin trực tuyến về toàn bộ hoạt động cho vay đối với từng khách hàng,
từng sản phẩm cho vay của từng chi nhánh và toàn hệ thống, giúp cho lãnh đạo có
thông tin chính xác để ra các quyết định quản lý phù họp, kịp thời.
• Sự tương thích giữa Module cho vay với quy trình cho vay:
- Khi khách hàng đến vay: thực hiện khai báo thông tin khách hàng, tạo CIF.
- Duyệt giới hạn tín dụng: thực hiện tạo và phê duyệt hạn mức A/A, nhập thông tin
khách hàng, hệ thống sẽ tự tính điểm làm cơ sở phân loại khách.
- Ký hợp đồng cho vay: tạo và phê duyệt Facility
- Tài sản bảo đảm hoàn tất thủ tục công chứng và đăng ký giao dịch: liên kết tài
sản bảo đảm, khởi tạo và phê duyệt liên kết tài sản thế chấp với Facility (tương
ứng với tài sản thế chấp cho hợp đồng vay nào thì liên kết tài sản thế chấp đó cho
facility tương ứng).
- Tạo tài khoản: Giải ngân
2.3.4. Những kết quả đạt được từ hoạt động phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín
dụng tại NHCTVN-CN11
2.3.4.1. Công tác nguồn vốn:
41
BẢNG 2: TÌNH HÌNH NGUỒN VỐN QUA 3 NĂM
ĐVT: triệu đồng
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
CHỈ TIÊU
Số dư
So với
2005
(% )
Tỷ
Trọng
(%)
Số dư
So với
2006
(% )
Tỷ
Trọng
(%)
Số dư
So với
2007
(% )
Tỷ
Trọng
(% )
- Phân theo đơn vị tiền tệ 600.285 115,82 100 715.763 119,24 100 902.261 126,06 100
+ Nguồn vốn VND 500.004 118,16 83,29 603.742 120,75 84,35 790.383 130,91 87,60
+ Ngoại tệ quy ra VND 100.281 105,40 16,71 112.021 111,71 15,65 111.878 99,87 12,40
-Phân theo nguồn hình thành 600.285 115,82 100 715.763 119,24 100 902.261 126,06 100
+ Nguồn vốn huy động 448.425 131,19 74,70 561.813 125,29 78,49 762.659 135,75 84,53
+ Điều chuyển vốn nội bộ 55.782 66,16 9,29 42.437 76,08 5,93 34.642 81,63 3,84
+ Vốn khác 96.078 104,24 16,01 111.513 116,07 15,58 104.960 94,12 11,63
TỔNG NGUỒN VỐN 600.285 115,82 100 715.513 119,24 100 902.261 126,06 100
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11
Qua bảng số liệu thống kê về tình hình nguồn vốn của Chi nhánh trong ba năm
2006-2008, nhận thấy, tổng nguồn vốn năm 2006 so với năm 2005 tăng 15,82%,
năm 2007 so với năm 2006 tăng 19,204% và năm 2008 so với năm 2007 tăng
26,06%. Nguồn vốn tăng chủ yếu do nguồn vốn huy động tăng, thể hiện sự cố
gắng của Chi nhánh trong việc tự cân đối vốn kinh doanh, giảm dần sự lệ thuộc
vào NHCTVN thông qua chỉ tiêu vốn điều chuyển nội bộ có xu hướng giảm dần
về tỷ trọng trong cơ cấu nguồn vốn.
2.3.4.2. Công tác sử dụng vốn:
42
BẢNG 3: TÌNH HÌNH CHO VAY QUA 3 NĂM
ĐVT: triệu đồng
CHỈ TIÊU
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
2007/ 2006
(%)
2008/2007
(%)
DOANH SỐ CHO VAY 757.230 888.944 1.101.262 117,39 123,88
- VND 756.830 876.114 1.080.574 115,76 123,34
- Ngoại tệ quy ra VND 400 12.830 20.688 3,21 161,25
DOANH SỐ THU NỢ 730.288 739.343 1.062.744 101,24 143,74
- VND 730.288 739.343 1.062.744 101,24 143,74
- Ngoại tệ quy re VND 0 0 0
DƯ NỢ 544.013 693.614 732.132 127,50 105,55
- VND 445.250 582.021 599.851 130,72 103,06
- Ngoại tệ quy re VND 98.763 111.593 132.281 112,99 118,54
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11
Hoạt động tín dụng của NHCTVN-CN11 trong 03 năm qua, ở cả ba chỉ tiêu đều
có sự tăng trưởng rõ nét. Doanh số cho vay và dư nợ VND đến thời điểm cuối mỗi
năm tuy đều tăng nhưng mức độ tăng của doanh số cho vay chậm hơn mức độ tăng
của dư nợ, vì trong các năm qua xu hướng thời hạn cho vay được định kỳ hạn nợ
dài hơn, phù hợp với vòng quay vốn của đơn vị. Ngoài ra việc kéo dài thời hạn
cho vay cũng phản ánh khả năng tự cân đối vốn của chi nhánh, nên chi nhánh
mạnh dạn hơn trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Không như trước đây,
do nguồn vốn điều chuyển nội bộ chiếm tỷ trọng cao, lãi suất cao hơn lãi suất huy
động bình quân của chi nhánh nên việc định kỳ hạn nợ chưa thật chính xác, mà đó
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn. Nhìn chung,
NHCTVN-CN11 đã thực hiện khá tốt công tác cho vay và thu nợ, đảm bảo quay
vòng vốn vay, gia tăng hiệu quả hoạt động.
Trong 3 năm qua, do việc sàng lọc khách hàng cẩn trọng, nên khách hàng của
NHCTVN-CN11 đều là những khách hàng tốt, bao gồm những khách hàng truyền
thống, chuyên sản xuất kinh doanh những sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu
trong nước và xuất khẩu như: may mặc, da giày, nhựa gia dụng, chế biến nông, hải
sản….và một số khách hàng mới nổi, kinh doanh về cơ sở hạ tầng: nhà ở, cao ốc
văn phòng cho thuê.. Quá trình cho vay luôn được thẩm định chặt chẻ, ngoài ra do
43
dư nợ tại chi nhánh gần như gần 100% là dư nợ có tài sản bảo đảm nên trong 3
năm qua chi nhánh gần như không bị mất vốn do khách hàng không trả được nợ.
Dư nợ trong 2 năm: 2007 và 2008 tăng cũng do nguyên nhân chi nhánh thực hiện
cho vay hợp vốn Dự án Nhà máy Điện đạm Cà Mau với Chủ đầu tư: Tổng Công ty
dầu khí Việt Nam, khoản vay được bảo lãnh bởi Bộ tài chính.Tham gia dự án hợp
vốn này, gồm có Ngân hàng ngoại thương VN với vai trò đầu mối, các ngân hàng
thành viên: Ngân hàng Công thương Việt nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam. Trong hệ thống Ngân hàng Công thương thì các Chi
nhánh sẽ thực hiện giải ngân gồm có: Sở Giao dịch 1-NHCTVN, NHCTVN-
CN11, NHCTVN- CN Cà Mau. Tổng dự án đầu tư: 384,84 triệu USD, trong đó:
- NH Ngoại thương VN: 78%
- NH Nông nghiệp và phát triển Nông thôn VN: 4%
- NH Công thương VN: 18 % ( CN 11: 4% )
Trong chỉ tiêu cho vay bằng ngoại tệ, đều là khoản giải ngân cho Nhà máy Điện
Đạm Cà Mau, và khoản cho vay chưa đến kỳ hạn trả nợ nên không phát sinh
doanh số thu nợ về ngoại tệ quy ra đồng Việt Nam.
Nhìn chung, trong hoạt động cho vay, tuy chi nhánh đã rất chú trọng đến việc phát
triển an toàn và hiệu quả, đảm bảo không để phát sinh rủi ro, nhưng hoạt động cho
vay còn nghèo nàn, các sản phẩm tín dụng và các nghiệp vụ hỗ trợ chưa đa dạng.
Cụ thể là các hoạt động thanh toán, tín dụng liên quan đến xuất nhập khẩu còn
nhiều hạn chế: như mở L/C, chiết khấu bộ chứng từ, nhờ thu….nên một số khách
hàng chưa mạnh dạn đến vay vốn và duy trì quan hệ với chi nhánh.
44
BẢNG 4: CƠ CẤU DƯ NỢ THEO THỜI GIAN VÀ THEO NGÀNH
ĐVT: triệu đồng
CHỈ TIÊU
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
2007/ 2006
(% )
2008/2007
(%)
PHÂN THEO THỜI HẠN 544.013 693.614 732.132 127.50 105.55
- Ngắn hạn 443.091 450.985 494.441 101.78 109.64
- Trung, dài hạn 100.922 242.629 237.691 240.41 97.96
PHÂN THEO NGÀNH HÀNG 544.013 693.614 732.132 127.50 105.55
- Công nghiệp 297.929 402.762 265.721 135.19 65.97
- Thương nghiệp, dịch vụ 184.080 225.142 295.293 122.31 131.16
- Hạ tầng 3.843 15.206 18.800 395.68 123.64
- Khác 58.161 50.504 152.318 86.83 301.60
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11
Qua bảng tổng hợp nhận thấy, cho vay ngắn hạn tại chi nhánh chiếm tỷ lớn trong
tổng dư nợ, cụ thể là 81,45% trong năm 2006; 65,02% năm 2007 và 67,53% năm
2008. Xét theo mức độ đầu tư cho từng ngành kinh tế thì cho vay công nghiệp và
thương nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất, phù hợp với cơ cấu kinh tế của Quận 11
nói riêng và kinh tế thành phố nói chung. Năm 2006 tỷ trọng cho vay công nghiệp
chiếm 54,77%; năm 2007 chiếm: 58,07% và năm 2008 là: 36,29%. Đối với
thương nghiệ, dịch vụ, năm 2006 tỷ trọng là: 36,02%, năm 2007: 32,46%, năm
2008: 40,33%. Như đã phân tích ở bảng 3, do cho vay dự án Nhà máy Điện Đạm
Cà Mau và việc giải ngân tập trung chủ yếu từ năm 2006, nên số dư cho vay trung
và dài hạn của các năm 2007 và 2008 tăng nhanh.
Dư nợ cho vay công nghiệp năm 2007 tăng cao và giảm nhanh trong năm 2008 là
do quá trình khai báo vào hệ thống sản phẩm cho vay chưa chính xác nên năm
2008 chi nhánh đã tách dư nợ những khoản vay này ra khỏi nhóm ngành công
nghiệp. Nhìn chung cơ cấu đầu tư theo ngành ổn định và tăng trưởng theo mức
tăng trưởng chung của Chi nhánh.
2.3.5. Tình hình phân loại nợ, trích dự phòng và xử lý nợ xấu
45
BẢNG 5: DƯ NỢ PHÂN THEO NHÓM
ĐVT: triệu đồng
CHỈ TIÊU Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
DƯ NỢ CHO VAY 544.013 693.614 732.132
+ Nợ nhóm 1 530.734 682.698 730.631
+ Nợ nhóm 2 12.618 5.100 830
+ Nợ xấu: 661 5.816 671
- Nợ nhóm 3 190 0 0
- Nợ nhóm 4 0 5.200 0
- Nợ nhóm 5 471 616 671
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11
Do Chi nhánh quan tâm đúng mức công tác quản trị rủi ro nên đã hạn chế việc
phát sinh nợ nhóm 2 và nợ xấu. Tuy nhiên nợ xấu đến cuối năm 2007 tăng cao, số
dư là: 5.816 triệu đồng. Đây chủ yếu là những khoản nợ quá hạn từ một năm trở
lên mà đã tồn tại từ cuối năm 2006, lúc đó còn ở nợ nhóm 2. Tuy Chi nhánh đã có
nhiều cố gắng trong việc giải quyết các khoản nợ này từ rất sớm, thông qua các
biện pháp thương lượng như: quản lý các khoản thu của khách hàng; để khách
hàng tự bán tài sản thế chấp;… nhưng cuối cùng do khách hàng cố tình chây ỳ, chi
nhánh phải đưa ra tòa phát mãi tài sản. Tuy nhiên do khách hàng còn vay nợ nhiều
đối tượng khác nên công việc tố tụng kéo dài chưa thể xử lý được tài sản thế chấp.
BẢNG 6: PHÂN LOẠI NỢ VÀ TÍNH TOÁN SỐ TIỀN
PHẢI TRÍCH LẬP DỰ PHÒNG RỦI RO
Đơn vị: Triệu đồng
Đến 31/12/ 2006 Đến 31/12/ 2007 Đến 31/12/ 2008
Chỉ tiêu
Dư nợ
gốc của
các
khoản
nợ
Giá trị
khấu
trừ
TSĐB
Số tiền
dự
phòng
phải
trích
Dư nợ
gốc của
các
khoản
nợ
Giá
trị
khấu
trừ
TSĐ
B
Số tiền
dự
phòng
phải
trích
Dư nợ
gốc của
các
khoản
nợ
Giá trị
khấu
trừ
TSĐB
Số tiền
dự
phòng
phải
trích
I.Dự phòng chung 695.103 5.213 742.067 5.276
II. Dự phòng cụ thể 13.279 12.745 281 10.916 8.747 947 1.501 1.954 51
1. Nợ nhóm 2 12.618 12.196 126 5.100 3.795 65 830 647 9
2. Nợ nhóm 3 190 219 0 0 0 0 0 0 0
3. Nợ nhóm 4 0 5.200 3.746 727 0 0 0
4. Nợ nhóm 5 471 330 155 616 603 155 671 1.307 42
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11
46
BẢNG 7 : SỐ TRÍCH DỰ PHÒNG RỦI RO
Đơn vị: Triệu đồng
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Số dự
phòng
đã trích
Số dự
phòng
đã xử
lý RR
Số dự
phòng
còn lại
Số dự
phòng
đã trích
Số dự
phòng
đã xử
lý RR
Số dự
phòng
còn
lại
Số dự
phòng
đã trích
Sốdự
phòng
đã xử
lý RR
Sốdự
phòng
còn lại
Số tiền dự phòng
3.823 5.200 -1.377 7.825 0 6.448 1.259 2.384 5.323
- Dự phòng chung
0 0 0 4.749 0 4.749 125 0 4.874
- Dự phòng cụ thể
3.823 5.200 -1.377 3.076 0 1.699 1.134 2.384 449
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11
Thực hiện theo quyết định 493/NHNN ngày 22/04/2005, NHCTVN đã ban hành
quyết định 234/QĐ-HĐQT-NHCT37 ngày 09/06/2005 để quy định và hướng dẫn
việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro trong hệ thống Ngân hàng Công
thương. Chi nhánh 11 đã chấp hành nghiêm túc và thực hiện phân loại và trích dự
phòng đầy đủ. Việc trích dự phòng trên cơ sở tính toán phân loại hàng hàng, chi
nhánh báo cáo về NHCTVN và định kỳ hàng quý NHCTVN sẽ thông báo số trích
dự phòng cho chi nhánh.
Trong năm 2006 số thực trích dự phòng rủi ro là: 3.823 triệu đồng, trong đó toàn
bộ là trích dự phòng cụ thể. Số dự phòng chung chưa trích vì do NHCTVN chưa
phân bổ mức trích cho Chi nhánh. Đến năm 2007 thì số trích dự phòng của Chi
nhánh 11 là: 7.825 trịệu đồng, gồm 4.749 triệu đồng là dự phòng chung và 3.076
là dự phòng cụ thể. Đến năm 2008 tình hình nợ nhóm 2 và nợ xấu không phát sinh
thêm nhiều nên chi nhánh chỉ trích thêm cho các khoản dự phòng chỉ có: 1.259
triệu đồng, gồm 125 triệu là trích dự phòng chung và 1.134 triệu là dự phòng cụ
thể.
47
BẢNG 8: TỔNG HỢP TÌNH HÌNH NỢ XẤU
Đơn vị: Triệu đồng
DƯ NỢ
STT CHỈ TIÊU
31/12/2006 31/12/2007 31/12/2008
1 Ngân hàng chưa khởi kiện 519 474 629
2 Ngân hàng đang khởi kiện chưa có bản án 100 5.200 0
3 Đang thi hành án 0 100 0
4 Nợ xấu không khả năng thu hồi 42 42 42
TỔNG CỘNG NỢ XẤU 661 5.816 671
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11
BẢNG 9: TÌNH HÌNH XỬ LÝ NỢ XẤU
Đơn vị: Triệu đồng
STT CHỈ TIÊU Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
1 Nợ xấu đầu năm 12.422 661 5.816
2 Nợ xấu phát sinh trong năm 456 5.300 0
3
Nợ xấu được xử lý trong năm: trong đó:
- Bằng nguồn dự phòng rủi ro
- Do phát mãi tài sản
- Khác
12. 217
5.200
250
6.767
145
0
0
145
5.145
2.384
1.000
1.761
TỔNG CỘNG NỢ XẤU 661 5.816 671
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11
Về việc xử rủi ro tín dụng từ nguồn dự phòng rủi ro, trong năm 2006, NHCTVN
đã cho Chi nhánh xử lý rủi ro 2 khoản nợ xấu với tổng số là 5.200 triệu đồng của
hai doanh nghiệp: một doanh nghiệp kinh doanh chế biến thức ăn gia súc, kinh
doanh thua lỗ do rơi vào thời điểm dịch cúm gia cầm phát sinh; một doanh nghiệp
vay vốn kinh doanh chứng khoán thua lỗ. Nguồn xử lý rủi ro vượt mức dự phòng
rủi ro đã trích được NHCTVN phân bổ cho Chi nhánh trích bù bổ sung trong năm
2007. Tuy nhiên do các khoản vay này đều có tài sản thế chấp nên Chi nhánh đều
thu hồi được vốn và lãi vào đầu năm 2008.
Năm 2007, Chi nhánh xử lý được 145 triệu, chủ yếu do khách hàng tự trả nợ, đến
năm 2008 Chi nhánh xử lý được 2.384 triệu từ nguồn dự phòng (khoản nợ được
hạch toán ngoại bảng) và thu nợ được 1.761 triệu nên nợ xấu đã giảm đáng kể, tuy
48
nhiên quỹ dự phòng cụ thể đến cuối năm 2008 tại Chi nhánh chỉ còn 449 triệu
đồng.
Nhìn chung, những thiệt hại do rủi ro tín dụng tại chi nhánh không lớn. Kết quả
này một phần do chi nhánh rất coi trọng yếu tố tài sản thế chấp cho các khoản vay.
Tuy nhiên trước tình hình suy giảm chung của kinh tế thế giới, sự “đóng băng” của
trường bất động sản, nếu không quan tâm đến công tác quản trị và nâng cao chất
lượng thẩm định, thì Chi nhánh sẽ có nhiều nguy cơ mất vốn do tài sản thế chấp
phát mãi thu hồi không đủ.
2.3.6. Nguyên nhân rủi ro tín dụng tại NHCTVN-CN11
Qua việc phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tại NHCTVN-CN11, cụ thể là
phân tích tình hình sử dụng vốn và chất lượng tín dụng thông qua tỷ lệ nợ xấu trên
tổng dư nợ, nhận thấy có nhiều nguyên nhân chủ quan từ phía chính NHCTVN-
CN11 và nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế nói chung, các cơ quan ban
ngành có liên quan, và từ phía các khách hàng của ngân hàng, dẫn đến việc phát
sinh rủi ro tín dụng. Việc nhận biết được nguyên nhân dẫn đến rủi ro để có thể đưa
ra những giải pháp phù hợp là công việc quan trọng và cần thiết để nâng cao chất
lượng quản lý rủi ro tín dụng của NHCTVN-CN11.
2.3.6.1. Nguyên nhân khách quan:
+ Sự thiếu nhất quán và đồng bộ trong quản lý điều hành của nhà nước và các
văn bản luật:
Hoạt động tín dụng của NHCTVN-CN11 trong thời gian qua chịu ảnh hưởng
không chỉ từ việc hệ thống luật và các văn bản dưới luật liên quan đến hoạt động
ngân hàng có sự chồng chéo, không rõ ràng, không hợp lý, thiếu tính chặt chẽ
trong đó có các chính sách về xuất nhập khẩu. Như trong thời gian vừa qua, khi
Chính Phủ ban hành các văn bản về tăng thuế xuất nhập khẩu một số mặt hàng mà
trước đó Chi nhánh đã mở L/C bảo lãnh nhập khẩu hoặc cho vay vốn sản xuất
hàng xuất khẩu, do thuế tăng nên việc kinh doanh của một số khách hàng bị thua
lỗ, từ đó dẫn đến việc khách hàng chậm trả nợ hoặc không trả được nợ cho ngân
hàng.
49
Chính sách quy hoạch thiếu nhất quán cũng gây không ít khó khăn cho nhiều
khách hàng của Chi nhánh. Vốn trước đây, địa bàn hoạt động của các khách hàng
này đóng tại Quận 11, sau đó do hoạt động sản xuất gây ô nhiễm, theo chủ trương
của Quận, một số doanh nghiệp phải thực hiện di dời. Tuy nhiên, do điều kiện vốn
đầu tư còn thấp nên không ít doanh nghiệp đã phải tự di dời vào những khu công
nghiệp tự phát ở Củ Chi, Bình Tân, Bình Chánh, Long An vào những năm 2000-
2005... Sau một thời gian chưa kịp cho hoạt động ổn định và phát triển, các doanh
nghiệp này lại phải hoặc đã có kế hoạch tiếp tục di dời vào những khu công nghiệp
tập trung, nên gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc ổn định sản xuất và làm
phát sinh thêm các chi phí cho việc tái di dời.
Khi một chính sách bị thay đổi đột ngột sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh, ảnh hưởng đến kế hoạch, cũng như khả năng dự báo sức tiêu thụ trên thị
trường của các doanh nghiệp. Việc định hướng chiến lược sản xuất, kinh doanh
không phù hợp, không chính xác sẽ dẫn đến sản xuất cung vượt cầu, hàng hoá khó
tiêu thụ, giá bán hạ, thua lỗ, doanh nghiệp sẽ không đảm bảo nguồn tiền trả nợ, khi
đó rủi ro xảy ra đối với ngân hàng là điều khó tránh khỏi.
+ Thông tin tín dụng:
Trong thời gian qua, NHCTVN-CN11 trước khi quyết định cấp tín dụng, nhiều lần
khai thác thông tin từ CIC, tuy nguồn thông tin do CIC cung cấp đã có nhiều cải
tiến nhưng vẫn chưa đảm bảo nhanh nhạy, kịp thời, chất lượng thông tin chưa thật
sự đáp ứng được yêu cầu.
Các NHTM nói chung và NHCTVN-CN11 nói riêng hiện nay chưa nhận được sự
phối hợp hỗ trợ cung cấp thông tin từ các cơ quan chức năng như cơ quan thuế, chi
cục thống kê, hay các cơ quan chủ quản.
Khi tiến hành phân tích hồ sơ khách hàng, NHCTVN-CN11 cũng còn lệ thuộc khá
nhiều vào các số liệu của khách hàng cung cấp mà chưa chủ động tìm kiếm thông
tin hay nói cách khác có tình trạng thông tin bất cân xứng giữa các ngân hàng và
khách hàng vay .
2.3.6.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía NHCTVN-CN11:
+ Cán bộ tín dụng:
50
Năng lực, trình độ, kinh nghiệm của một bộ phận cán bộ tín dụng tại NHCTVN-
CN11 hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu công việc. Mặc dù tất cả các cán bộ tín
dụng đều có trình độ đại học, tốt nghiệp đúng chuyên ngành, tuy nhiên do độ tuổi
của đa số cán bộ tín dụng còn khá trẻ, phần lớn vừa được tuyển dụng, còn ít kinh
nghiệm nên cần phải có thêm thời gian để được đào tạo thêm, và đúc kết nhiều
kinh nghiệm. Bên cạnh nguyên nhân trên, vẫn còn một số ít cán bộ chưa có ý thức
tự nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, ít chịu học hỏi kinh nghiệm, chỉ thực hiện
công việc một cách thụ động.
Thêm vào đó, công tác phân công cán bộ tín dụng quản lý khách hàng của
NHCTVN-CN11 hiện nay không theo từng ngành hàng, lĩnh vực kinh doanh nên
dẫn đến việc cán bộ tín dụng làm việc theo kiểu đa năng, không chuyên sâu vào
một ngành nghề cụ thể nào nên không có nhiều kiến thức chuyên ngành. Cho nên
đối với những dự án đòi hỏi phải thẩm định liên quan đến các yếu tố về kỹ thuật,
cán bộ tín dụng chưa thể đáp ứng được yêu cầu.. Thuê chuyên gia đánh giá đòi hỏi
chi phí cao nên chủ yếu ngân hàng tự tìm hiểu thông tin thông qua sách, báo, tạp
chí chuyên ngành, qua mạng internet.
Ngoài ra, do khối lượng công việc nhiều trong khi đòi hỏi thời gian giải quyết cho
vay phải nhanh chóng để phục vụ khách hàng nên cũng không thể tránh khỏi sơ
suất trong tác nghiệp của cán bô tín dụng.
+ Thông tin tín dụng:
Việc thu thập thông tin của chi nhánh về khách hàng, về ngành nghề, về môi
trường kinh tế mà khách hàng đang hoạt động còn nhiều hạn chế, chủ yếu thông
qua ( CIC ), chi nhánh chưa quan tâm đến công tác lưu trữ và phân tích các thông
tin về khách hàng, về tình hình diễn biến giá cả, thị trường trong và ngoài nước
một cách hệ thống và thường xuyên.
+ Tài sản bảo dảm:
Rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHCTVN-CN11 trong thời gian qua tuy
không nhiều nhưng khi cần đến phát mãi tài sản thế chấp Chi nhánh cũng gặp
không ít khó khăn liên quan đến TSBĐ.
51
- Người vay không phải là người chủ sở hữu của tài sản thế chấp mà cũng không
phải là tài sản thế chấp của bên thứ 3. Trường hợp này, người vay vốn được chủ
sở hữu tài sản uỷ quyền để sử dụng tài sản trong đó có quyền được thế chấp.Về
khía cạnh pháp lý khi thế chấp và vay vốn là không sai, và các cơ quan công
chứng cũng chấp nhận chứng thực vào hợp đồng thế chấp, nhưng khi cần phát mãi
thì người chủ sở hữu gây khó khăn cho Ngân hàng và làm kéo dài thời gian tố
tụng. Lý do chủ sở hữu tài sản viện dẫn là không uỷ quyền việc bán tài sản hoặc
người được uỷ quyền thế chấp tài sản đã sử dụng vốn vay không phù hợp với thoả
thuận với người uỷ quyền.
- Việc quản lý, phân loại, cảnh báo về danh mục các TSBĐ chưa được các cán bộ
tín dụng làm thường xuyên và định kỳ hàng năm, thậm chí việc định giá lại tài sản
đảm bảo chỉ làm chiếu lệ, thường là đánh giá bằng với mức trước đây để hợp pháp
hoá cho khoản vay còn dư nợ tại thời điểm định giá lại. Nên có một số trường hợp
khi phát mãi, xuất hiện tình trạng giá trị thanh lý thấp hơn so với giá trị thẩm định
ban đầu, không đủ thu hồi lãi, buộc Chi nhánh phải thực hiện giảm và xóa lãi cho
người vay.
- Quá trình định giá trị TSBĐ được chi nhánh thực hiện theo cách các bên tự thoả
thuận, sau khi cán bộ tín dụng xác định giá trị tài sản trên cơ sở tham khảo bảng
giá đất quy định do UBND TP ban hành hàng năm. Do đa số cán bộ tín dụng tại
NHCTVN-CN11 còn khá trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm nên chưa được trang bị
đầy đủ nghiệp vụ chuyên môn trong ngành thẩm định giá cũng như sự thông thạo
về tài sản cần thẩm định, nhất là trong lĩnh vực bất động sản. Chính vì vậy, khi
tiến hành định giá, phương pháp định giá đối với từng loại tài sản chưa được các
cán bộ tín dụng sử dụng một cách thích hợp, dẫn đến việc nếu định giá thấp, khách
hàng không hài lòng, nhưng nếu định giá cao ngân hàng sẽ khó đảm bảo khả năng
thu hồi nợ và lãi vay trong trường hợp khách hàng mất khả năng thanh toán.
- Tâm lý chung của phần lớn các cán bộ tín dụng khi cấp tín dụng vẫn chủ yếu dựa
vào TSBĐ. Sẽ rất rủi ro nếu cán bộ tín dụng quên rằng khoản vay cần phải được
trả bằng chính dòng tiền tạo ra bởi phương án sản xuất kinh doanh chứ không phải
bằng tiền bán TSBĐ. TSBĐ chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh
52
doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến. Tâm lý dựa chủ yếu vào TSBĐ sẽ
làm giảm chất lượng thẩm định khoản vay nên sẽ không đánh giá chính xác được
hiệu quả và sự an toàn của khoản vay, dễ dẫn đến việc cho vay những dự án rủi ro,
khách hàng không uy tín.
- Do không thể nắm bắt được chuyên môn trong tất cả các lĩnh vực, nên không
tránh khỏi việc cán bộ tín dụng không thể đánh giá được chính xác hiện trạng của
tất cả các loại máy móc thiết bị, nhất là đối với những máy móc thiết bị chuyên
dụng. Thêm vào đó là tình trạng thông tin bất cân xứng về giá trị thực của TSBĐ
giữa khách hàng và ngân hàng cũng là vấn đề cần được quan tâm. Vì khi thế chấp,
cầm cố tài sản chỉ có khách hàng biết rõ về hiện trạng của tài sản. Chính vì vậy,
khi xảy ra rủi ro, việc phát mãi tài sản để thu hồi nợ gặp không ít khó khăn.
- Việc cơ chế pháp lý về bảo đảm tiền vay hiện nay chưa rõ ràng và các vấn đề liên
quan đến quá trình xử lý, phát mãi TSBĐ đã gây cản trở không ít cho ngân hàng
+ Chính sách tín dụng, quy trình tín dụng và mô hình tổ chức:
Song song với việc thực hiện đề án hiện đại hóa ngân hàng do NHCTVN triển
khai, bên cạnh việc áp dụng công nghệ quản lý hiện đại, NHCTVN đã ban hành,
đổi mới nhiều quy định, quy trình cho vay và giám sát cho vay..., đồng thời
NHCTVN cũng xây dựng và triển khai mô hình hoạt động mới, điểm nổi bật là đã
thay đổi căn bản cơ chế quản lý điều hành hoạt động tín dụng truyền thống bằng
mô hình hiện đại. Tại các chi nhánh trong hệ thống NHCTVN, phòng tín dụng
được tách ra thành các phòng khách hàng doanh nghiệp và phòng khách hàng cá
nhân. Ngoài ra thành lập thêm phòng thẩm định rủi ro độc lập đảm bảo hai chức
năng quan trọng trong hoạt động tín dụng là chức năng quan hệ khách hàng và
chức năng quản lý rủi ro. Mô hình mới được thực hiện theo Quyết định 063/QĐ-
HĐQT-NHCT1 ngày 29/03/2006, nhưng mãi đến 01/07/2007 Chi nhánh mới
thành lập được Tổ quản lý rủi ro, nhưng nhân sự đến nay vẫn chưa ổn định. Kể từ
khi mô hình mới đi vào hoạt động, tính hiệu quả của quy trình chưa cao vì thực
chất ý kiến đề xuất cho vay của phòng khách hàng vẫn có tính quyết định trong xét
duyệt cho vay. Tổ quản lý rủi ro chủ yếu hợp thức hóa quy trình cho vay, chưa
53
phát huy vai trò của mình, một phần do kinh nghiệm còn hạn chế một phần do nễ
nang chưa có những ý kiến, đề xuất thực sự độc lập.
+ Công tác thẩm định:
Trong quy trình cấp tín dụng, thẩm định được xem là bước quan trọng và ảnh
hưởng lớn nhất đến hiệu quả của khoản vay. Rủi ro tín dụng sẽ xảy ra nếu công tác
thẩm định không được thực hiện tốt. Khi tiến hành thẩm định, cán bộ tín dụng phải
tiến hành thẩm định cả yếu tố uy tín, năng lực quản lý và năng lực quản trị của
khách hàng.
Tuy nhiên, hiện nay, công việc đánh giá uy tín của khách hàng đang là vấn đề thật
sự khó khăn khi nguồn thông tin của khách hàng còn hạn chế. Cán bộ tín dụng khi
đánh giá, chủ yếu dựa vào cảm tính và chủ quan, như căn cứ vào các quan hệ trong
quá khứ: khách hàng vay trả đúng hạn được xem là khách hàng có uy tín, còn đối
với khách hàng mới quan hệ thì chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ tín
dụng khi tiếp xúc với khách hàng, hoặc qua một số thông tin thu thập được. Trong
khi đó, đối tượng khách hàng được xem là chiến lược phục vụ của ngân hàng là
khu vực kinh tế tư nhân thì còn quá non trẻ, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, chưa có danh tiếng trên thị trường, ý thức của doanh nghiệp trong việc xây
dựng uy tín và thương hiệu chưa cao, các hiệp hội ngành thì chưa phát huy vai trò
của mình, chưa hỗ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn tốt nghiệp- Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Công Thương Việt Nam.pdf