Tài liệu Luận văn Tốt nghiệp Tăng cường quản lý chi Ngân sách Nhà nước với yêu cầu xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm: Luận văn tốt nghiệp: "Tăng cường quản lý
chi Ngân sách Nhà nước với yêu cầu xã
hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn
quận Hoàn Kiếm"
1
Lời nói đầu
Trong thế giới tự nhiên, xã hội loài người là một hình thức tổ chức
cao nhất, trong đó con người luôn đóng vai trò là nhân tố trung tâm của mọi
hoạt động diễn ra trong xã hội và mọi hoạt động đó cũng không nằm ngoài
mục đích nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người. Để có được
những thành tựu to lớn trên mọi phương diện của đời sống con người như
ngày hôm nay, con người đã không ngừng phấn đấu, tìm tòi học hỏi và
nhận thức ngày càng sâu sắc hơn thực tại khách quan nhằm cải thiện môi
trường sống và hoàn thiện chính bản thân mình.
Mỗi con người tồn tại được một cách bình thường trong xã hội đều
cần phải duy trì hai yếu tố cơ bản nhất, đó là trí lực và thể lực; trong đó yếu
tố này là tiền đề cho yếu tố kia phát triển và không tách rời nhau trong toàn
bộ đời sống con người. Muốn có được thể lực tốt...
82 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tốt nghiệp Tăng cường quản lý chi Ngân sách Nhà nước với yêu cầu xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn tốt nghiệp: "Tăng cường quản lý
chi Ngân sách Nhà nước với yêu cầu xã
hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn
quận Hoàn Kiếm"
1
Lời nói đầu
Trong thế giới tự nhiên, xã hội loài người là một hình thức tổ chức
cao nhất, trong đó con người luôn đóng vai trò là nhân tố trung tâm của mọi
hoạt động diễn ra trong xã hội và mọi hoạt động đó cũng không nằm ngoài
mục đích nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người. Để có được
những thành tựu to lớn trên mọi phương diện của đời sống con người như
ngày hôm nay, con người đã không ngừng phấn đấu, tìm tòi học hỏi và
nhận thức ngày càng sâu sắc hơn thực tại khách quan nhằm cải thiện môi
trường sống và hoàn thiện chính bản thân mình.
Mỗi con người tồn tại được một cách bình thường trong xã hội đều
cần phải duy trì hai yếu tố cơ bản nhất, đó là trí lực và thể lực; trong đó yếu
tố này là tiền đề cho yếu tố kia phát triển và không tách rời nhau trong toàn
bộ đời sống con người. Muốn có được thể lực tốt nhất, con người phải luôn
biết cách chăm sóc sức khoẻ cho chính mình: khi khoẻ mạnh phải giữ gìn
sức khoẻ và khi ốm đau phải chạy chữa. Điều này dẫn đến các hoạt động y
tế dần nẩy sinh và không thể thiếu được trong đời sống con người khi hiểm
họa bệnh tật ngày một nhiều.
Do đó, với mục tiêu phát triển toàn diện con người, Đảng và Nhà
nước ta luôn coi trọng sự nghiệp y tế là một trong những sự nghiệp quan
trọng nhất, thiết yếu nhất trong đời sống kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy
các lĩnh vực khác phát triển đi lên. Theo đó mục tiêu phát triển sự nghiệp y
tế chỉ có thể do nhà nước quản lý và bảo đảm bằng quỹ tài chính lớn nhất,
tập trung nhất của nền kinh tế quốc dân, đó là Ngân sách Nhà nước. Vì vậy,
để đạt được kết quả cao nhất trong sự nghiệp y tế ( chăm sóc sức khoẻ,
khám chữa bệnh cho nhân dân) thì nâng cao chất lượng các hoạt động y tế
thông qua quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp này là yêu cầu
cấp bách đặt ra trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và trong
tương lai. Hơn nữa, để người dân được trực tiếp hưởng thụ các dịch vụ
2
chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh do Nhà nước cung cấp, định hướng
phát triển thì chất lượng các hoạt động y tế tuyến cơ sở có tính chất quyết
định và hiện thực nhất với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Nhận thức được tầm quan trọng của các hoạt động sự nghiệp y tế
tuyến cơ sở và từ quá trình nghiên cứu, thực tập tại phòng Tài chính - Vật
giá quận Hoàn Kiếm đã định hướng cho em đi sâu nghiên cứu đề tài:
"Tăng cường quản lý chi Ngân sách Nhà nước với yêu cầu xã hội
hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm".
Kết cấu đề tài gồm 3 phần chính:
Chương I: Sự cần thiết phải quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho
sự nghiệp y tế
Chương II: Thực trạng công tác quản lý chi Ngân sách Nhà nước
trong lĩnh vực y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị tăng cường quản lý chi
Ngân sách Nhà nước với yêu cầu xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa
bàn quận Hoàn Kiếm
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em đã được sự giúp đỡ tận tình
của thầy giáo TS. Phạm Quang Trung và sự chỉ bảo của các cán bộ Phòng
Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm. Nhưng do kiến thức còn hạn chế nên
bài viết của em không thể tránh khỏi những sai sót, em kính mong sự góp ý
của các Thầy, cô giáo Khoa Ngân hàng - Tài chính Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân và các cán bộ Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm.
Em xin chân thành cảm ơn!
3
Chương 1
SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC CHO SỰ NGHIỆP Y TẾ
1.1. QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ
NGHIỆP Y TẾ TUYẾN CƠ SỞ
1.1.1. Tầm quan trọng của sự nghiệp y tế trong đời sống xã hội
Tác động của các hoạt động y tế đến đời sống xã hội
Đời sống kinh tế – xã hội là hình thức biểu hiện cao nhất, tiến bộ
nhất của con người, khác xa với các hoạt động khác có trong thế giới tự
nhiên ở chỗ con người nhận thức được thực tại khách quan và các quy luật
tự nhiên. Để phát triển kinh tế – xã hội thì yếu tố quyết định phải chính là
con người và mục tiêu của phát triển kinh tế – xã hội phải hướng tới duy trì
sự tồn tại, phát triển của con người. Muốn vậy, con người phải có được một
thể lực và trí lực thích hợp nhất, trong đó thể lực lại là tiền đề cho tạo ra và
nâng cao trí lực.
Thể lực thể hiện sự ngày càng thích nghi với môi trường sống của
con người và chính con người lại tự nhận thức, biết nâng cao thể lực thông
qua các hoạt động y tế của mình. Các hoạt động y tế với mục tiêu chăm sóc
sức khoẻ và bảo vệ con người trước những tác động tiêu cực của môi
trường sống. Khi có được sức khoẻ tốt nhất, con người có điều kiện để tiếp
thu và phát triển trí thức cho mình nhằm xây dựng, nâng cao chất lượng
cuộc sống của mình ngày càng tốt hơn.
Các hoạt động y tế là phần không thể thiếu được trong xã hội loài
người, con người luôn luôn có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ không những
của bản thân mà của cả gia đình mình. Không một ai lại sống mà luôn luôn
khoẻ mạnh cả bởi sự thay đổi thường xuyên của môi trường sống cùng với
sự vận động của thế giới tự nhiên. Các hoạt động y tế mà con người sáng
4
tạo ra cũng chính nhằm mục đích điều hoà những tác động không tốt của
môi trường sống tới con người.
Do đó, các hoạt động y tế là không thể thiếu được trong đời sống con
người. Tuy mỗi con người có cuộc sống khác nhau nhưng các hoạt động y
tế lại đóng vai trò tác động chung tới từng người nhằm duy trì và phát triển
giống nòi. Qua những tác động to lớn của y tế tới đời sống con người như
vậy cho nên mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội cần phải
chú trọng và lấy mục tiêu chăm sóc sức khoẻ cho con người làm gốc, định
hướng cho các chương trình kinh tế – xã hội khác vì một mục tiêu chung là
phát triển bền vững. Điều này cũng được thể hiện xuyên suốt trong đường
lối xây dựng và phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước ta, khẳng định
một cách rõ ràng trong Nghị quyết TW4 của Ban chấp hành trung ương
Đảng khoá VII: Con người là nguồn tài nguyên qúi báu nhất của xã hội,
con người quyết định sự phát triển của đất nước, trong đó sức khoẻ là vốn
qúi nhất của mỗi con người và của toàn xã hội. Do vậy, với bản chất nhân
đạo và định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường, ngành y tế phải
đảm bảo sự công bằng và hiệu qủa trong chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.
Nhu cầu về các dịch vụ y tế
Trong sự phát triển ngày nay, khoa học – kỹ thuật ngày một hiện đại
cũng là điều kiện để phát triển lĩnh vực y tế theo kịp và đáp ứng nhu cầu đa
dạng của con người. Không chỉ khi mắc bệnh thì con người mới có nhu cầu
được chạy chữa mà chăm sóc sức khoẻ ban đầu lại là hết sức quan trọng.
Từ khi chưa sinh ra, thai nhi đã được hưởng các chương trình phòng chống
bệnh tật hay các dịch vụ chăm sóc khác qua chăm sóc người mẹ (tiêm
chủng cho phụ nữ mang thai, khám và theo dõi định kỳ thai nhi..). Suốt
toàn bộ đời sống của mình con người luôn luôn đòi hỏi được phòng ngừa
bệnh tật tối đa và đến khi mắc bệnh lại cần điều kiện chữa trị tốt nhất. Một
chu trình phòng chống bệnh tật cho con người cứ diễn ra liên tục suốt toàn
bộ quá trình tồn tại của con người. Chính vì vậy, nhu cầu về các dịch vụ y
5
tế cho con người là vô cùng to lớn, mỗi người đều muốn mình nhận được
những dịch vụ y tế tốt nhất có thể có.
Do nhu cầu về các dịch vụ y tế rất lớn như vậy và lại mang tính chất
đơn lẻ của các cá nhân nên nhu cầu cần được xác định một cách thống nhất,
có thể phân định ra hai loại nhu cầu sau: nhu cầu do cá nhân xác định và
nhu cầu do Chính phủ xác định.
Sự can thiệp của Chính phủ vào việc xác định các nhu cầu về dịch vụ
y tế cũng là một tất yếu trong quá trình quản lý bộ máy Nhà nước và quản
lý nền kinh tế, đời sống xã hội. Bởi vì việc xác định các nhu cầu về dịch vụ
y tế của các cá nhân chỉ xuất hiện khi họ thực sự cần phải được khám chữa
bệnh chứ ít cá nhân lại thấy được mình phải được phòng bệnh hay cần làm
gì để ngăn chặn các đại dịch xảy ra. Các nhu cầu được xác định bởi Chính
phủ nhằm góp phần đẩy lùi các đợt dịch bệnh lây lan hay phòng ngừa
những bệnh dễ mắc phải trong dân cư.
Từ việc định hướng xác định nhu cầu về các dịch vụ y tế mà trong
quá trình quản lý, Nhà nước sẽ có kế hoạch và thực thi các chương trình
mục tiêu để đảm bảo sức khoẻ cộng đồng và hơn hết là gây dựng được sự
tin tưởng vào bộ máy Nhà nước, hệ thống chính trị.
Tìm hiểu về thị trường dịch vụ y tế
Xuất phát từ nhu cầu các dịch vụ y tế của con người và các nhu cầu
này lại có khả năng chi trả từ phía các cá nhân cho nên các mức giá và sản
lượng tương ứng sẽ được xác định, theo đó hình thành nên cầu về các dịch
vụ y tế. Có cầu thì có cung đó là điều mà các nhà kinh tế học đã chứng
minh: Cung các dịch vụ y tế là cung hạn chế bởi tính đặc thù và chuyên
môn cao vốn có của ngành y tế. Khi cung và cầu về y tế gặp nhau hình
thành nên thị trường các dịch vụ y tế.
Điều quan trọng ở đây không phải là chúng ta đi tìm hiểu xem thị
trường các dịch vụ y tế hoạt động ra sao, mà điểm cốt lõi là đặc trưng của
6
thị trường này có gì khác biệt với các thị trường khác, nhằm định hướng
cho công tác triển khai các hoạt động trong sự nghiệp y tế với nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường thì mọi hàng hoá, dịch vụ được định giá
bởi thị trường nhưng dịch vụ y tế lại không nên để thị trường kiểm soát mà
phải có sự quản lý của Chính phủ và được trợ cấp bởi Chính phủ theo một
số điểm quan trọng sau:
+ Thị trường dịch vụ y tế hoạt động phải đem lại mục tiêu công
bằng, nhất là đối với xã hội XHCN tồn tại ở nước ta. Nếu giá cả và khối
lượng dịch vụ y tế được xác định hoàn toàn bởi thị trường thì gây ra tình
trạng mất công bằng, chỉ có những người có đủ tiền mới được hưởng
những dịch vụ y tế có thể với chi phí cao mà những người có thu nhập thấp
hơn không thể có được.
+ Để đạt được công bằng trong thị trường các dịch vụ y tế thì phải
mất đi tính hiệu quả tương ứng với công bằng đạt thêm được, cho nên đóng
vai trò kiểm soát thị trường Chính phủ đứng ra trợ cấp để phát triển các
dịch
vụ y tế ngày một tốt hơn thông qua những chính sách của mình bằng nguồn
Ngân sách Nhà nước.
+ Dịch vụ y tế không thể là hàng hoá công cộng thuần tuý mà chỉ
gần gũi với hàng hoá công cộng thuần tuý ( vẫn tồn tại sự cạnh tranh nhưng
rất hạn chế ) bởi đây là một yếu tố kích thích và tích luỹ cho thị trường dịch
vụ y tế phát triển. Hơn nữa, đời sống con người ngày một nâng cao nên có
thể trang trải một phần chi phí cho việc sử dụng các dịch vụ y tế, giảm bớt
gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước.
+ Thị trường y tế phát triển kém hơn các thị trường khác do thiếu
động cơ lợi nhuận là điều dễ hiểu nhưng cần phải duy trì thị trường này bởi
tính đặc biệt của nó là chăm sóc sức khoẻ và liên quan trực tiếp đến tính
7
mạng con người. Khi thị trường các dịch vụ y tế bị thu hẹp thì sẽ tạo điều
kiện cho kiểm soát và định hướng theo các mục tiêu của Nhà nước về quản
lý nền kinh tế, xã hội dễ dàng hơn.
Do có những điểm khác biệt so với các thị trường khác nên việc
quản lý và định hướng phát triển thị trường các dịch vụ y tế phải được coi
là một trong những chương trình, chiến lược quốc gia quan trọng nhất.
Ngoài ra, cần phải hạn chế những tiêu cực do thông tin không tương xứng
đối với người sử dụng các dịch vụ y tế được cung cấp trên thị trường,
người sử dụng dịch vụ y tế không biết được chính xác thông tin về bác sĩ,
về thuốc men, về bệnh viện... do không dễ gì có được trình độ chuyên môn
phù hợp.
Sự nghiệp y tế đặt ra cho nền kinh tế nước ta
Mục tiêu và bản chất nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự
quản lý của Nhà nước ở nước ta, một Nhà nước “của dân, do dân và vì
dân”, phải coi y tế là một sự nghiệp chung cũng giống như sự nghiệp cách
mạng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta vậy.
Chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân là một trong những công việc hết
sức to lớn, quan trọng mang lợi ích chung và lâu dài cho toàn bộ xã hội.
Với phương châm xây dựng một xã hội XHCN bền vững và phát triển toàn
diện, coi trọng yếu tố quyết định là con người thì không thể đặt các hoạt
động y tế ngoài sự nghiệp chung của toàn xã hội được.
Do vậy, sự nghiệp y tế là yêu cầu tất yếu khách quan của chế độ xã
hội ở nước ta và phải nhằm thực hiện những mục tiêu đem lại những kết
quả về chăm sóc sức khoẻ nhân dân cao nhất. Phấn đấu để mọi người dân
đều được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, có điều kiện tiếp
cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng. Mọi người đều được sống
trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Giảm tỷ lệ
mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi.
8
Trong điều kiện hiện nay, khi chuyển cơ chế mới thì sự nghiệp y tế
được xác định là loại hình sự nghiệp có thu tự đảm bảo một phần chi phí
hoạt động thường xuyên hay là loại hình sự nghiệp có thu tự đảm bảo toàn
bộ chi phí hoạt động thường xuyên, cụ thể được xác định như sau:(1)
Trong đó:
Tổng số thu sự nghiệp của đơn vị bao gồm:
+ Tiền thu phí, lệ phí thuộc Ngân sách Nhà nước ( phần được để lại
đơn vị thu theo quy định): Mức thu phí, lệ phí, tỷ lệ nguồn thu được để lại
đơn vị sử dụng và nội dung chi thực hiện theo quy định của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền đối với từng loại phí, lệ phí.
+ Thu từ hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ: Mức thu từ các hoạt
động này do Thủ trưởng đơn vị quyết định, theo nguyên tắc đảm bảo bù
đắp chi phí và có tích luỹ.
+ Các khoản thu sự nghiệp khác theo quy định của pháp luật (nếu
có).
Tổng số chi hoạt động thường xuyên của đơn vị theo chức năng,
nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao và chi cho các hoạt động có thu sự
nghiệp, bao gồm:
+ Chi cho người lao động: chi tiền lương, tiền công; các khoản phụ
cấp lương; các khoản trích bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, kinh phí công
đoàn theo quy định...
+ Chi quản lý hành chính: vật tư văn phòng, dịch vụ công cộng,
thông tin liên lạc, công tác phí, hội nghị phí...
(1) Việc phân chia loại hình sự nghiệp có thu được cụ thể hoá trong Nghị định số 10/NĐ-CP ngày
16/01/2002 của Chính phủ và Thông tư số 25/2002/TT-BTC ngày 21/03/2002 của Bộ tài chính.
Mức tự đảm bảo chi
phí hoạt động
thường xuyên của
đơn vị sự nghiệp
[A](%)
Tổng số nguồn thu sự nghiệp
Tổng số chi hoạt động thường xuyên
X100%
9
+ Chi các hoạt động nghiệp vụ.
+ Chi hoạt động tổ chức thu phí, lệ phí.
+ Chi hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ ( kể cả chi nộp thuế,
trích khấu hao tài sản cố định).
+ Chi mua sắm tài sản, sửa chữa thường xuyên cơ sở vật chất: nhà
cửa, máy móc thiết bị...
+ Chi khác.
+ Đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường
xuyên: Là đơn vị có nguồn thu sự nghiệp đảm bảo được toàn bộ chi phí
hoạt động thường xuyên, ngân sách không phải cấp kinh phí bảo đảm hoạt
động thường xuyên cho đơn vị ( đây là những đơn vị có tỷ lệ A lớn hơn
hoặc bằng 100%).
+ Đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường
xuyên: Là đơn vị có nguồn thu sự nghiệp chưa tự trang trải toàn bộ chi phí
hoạt động thường xuyên, Ngân sách Nhà nước cấp một phần chi phí hoạt
động thường xuyên cho đơn vị ( đây là những đơn vị có tỷ lệ A nhỏ hơn
100%).
Theo đó, các đơn vị sự nghiệp y tế hiện nay được chủ động hơn
trong hoạt động của mình khi áp dụng Nghị định 10/2002/NĐ-CP, phần
nào giảm bớt đi gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước và thể hiện sự đổi mới
trong quản lý các đơn vị sự nghiệp có thu nói chung cũng như sự nghiệp y
tế nói riêng.
10
1.1.2. Nội dung quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế
tuyến cơ sở
Sự nghiệp y tế đóng vai trò hết sức quan trọng trong khám chữa bệnh
và thực hiện các chiến lược chăm sóc sức khoẻ ban đầu mà Đảng và Nhà
nước ta đã đề ra, cho nên phần lớn nguồn tài chính của các đơn vị sự
nghiệp y tế thuộc nguồn Ngân sách Nhà nước. Nguồn Ngân sách Nhà nước
cấp cho các đơn vị hoạt động sự nghiệp y tế bao gồm:(1)
3Đối với cả hai loại đơn vị sự nghiệp có thu, đơn vị sự nghiệp tự bảo
đảm chi phí và đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí, thì nguồn
Ngân sách Nhà nước cấp ( cả Ngân sách Trung ương và Ngân sách địa
phương) là các khoản sau:
+ Chi phí thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ,
ngành; chương trình mục tiêu quốc gia và các nhiệm vụ đột xuất khác được
cấp có thẩm quyền giao.
+ Kinh phí Nhà nước thanh toán cho đơn vị sự nghiệp theo chế độ đặt hàng
để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước giao, theo giá hoặc khung giá do
Nhà nước quy định ( điều tra, quy hoạch, khảo sát ...).
+ Kinh phí cấp để thực hiện tinh giảm biên chế theo chế độ do Nhà nước
quy định đối với số lao động trong biên chế dôi ra.
+ Vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt
động sự nghiệp theo dự án và kế hoạch hàng năm; vốn đối ứng cho các dự
án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
3Riêng đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí, nguồn Ngân
sách Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thường xuyên. Mức kinh phí Ngân
sách Nhà nước cấp được ổn định theo định kỳ 3 năm và hàng năm được
tăng thêm theo tỷ lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Hết thời hạn 3
năm, mức Ngân sách Nhà nước bảo đảm sẽ được xác định lại cho phù hợp.
(1) Được quy định theo Thông tư số 25/2002/TT-BTC ngày 21/03/2002 của Bộ tài chính
11
Ngoài nguồn từ Ngân sách Nhà nước, chi cho các hoạt động sự
nghiệp y tế còn bao gồm các khoản khác như: nguồn thu sự nghiệp của các
đơn vị ( đã nêu ở phần 1.2.1.) và các nguồn khác theo quy định ( các dự án
viện trợ, quà biếu tặng...).
Nội dung các hoạt động trong sự nghiệp y tế tuyến cơ sở
Sự nghiệp y tế tuyến cơ sở ( gồm y tế thôn, bản, xã, phường, quận,
huyện, thị xã ) là tuyến y tế trực tiếp gần dân nhất, bảo đảm cho mọi người
dân được chăm sóc sức khoẻ cơ bản với chi phí thấp, góp phần thực hiện
công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn hoá, trật tự
an toàn xã hội, tạo niềm tin của nhân dân với chế độ xã hội chủ nghĩa. Do
vậy, các hoạt động y tế cơ sở phải là toàn diện và nằm trong các hoạt động
chủ yếu sau:
+ Các hoạt động khám chữa bệnh thông thường, sơ cứu bệnh nhân
nặng và chăm sóc sức khoẻ ban đầu trên địa bàn quận, huyện, xã, phường
là chủ yếu ( những trường hợp bệnh nhân nặng phải chuyển lớn tuyến trên).
+ Hoạt động trong khuôn khổ các chương trình quốc gia về y tế: các
đơn vị sự nghiệp y tế tuyến cơ sở là các đơn vị trực tiếp triển khai các
chương trình dưới sự chỉ đạo trực tiếp về nghiệp vụ của các sở y tế, bao
gồm các mục tiêu sau:
+ Mục tiêu phòng chống bệnh sốt rét.
+ Mục tiêu phòng chống bệnh bướu cổ.
+ Mục tiêu tiêm chủng mở rộng.
+ Mục tiêu phòng chống lao.
+ Mục tiêu phòng chống bệnh phong.
+ Mục tiêu phòng chống bệnh sốt xuất huyết.
+ Mục tiêu phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em.
+ Mục tiêu phòng chống HIV/AIDS.
12
+ Mục tiêu nâng cấp thiết bị y tế.
Ngoài ra, tuyến y tế cơ sở còn đóng góp hoạt động của mình trong
các nghiệp vụ sau:
+ Thường xuyên tổ chức kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, xử lý
và khắc phục nhanh chóng hậu quả của thảm họa, thiên tai, phòng chống tai
nạn và thương tích, nhất là tai nạn giao thông, tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp hay xử lý các tác động gây ô nhiễm môi trường và tác động
xấu đến sức khoẻ như chất thải bệnh viện, hoá chất bảo vệ thực vật...
+ Trực tiếp tiếp tham gia các đợt phòng dịch và ngăn chặn các bệnh
dịch lây lan kịp thời như: dịch bệnh tiêu chảy, uốn ván, nhiễm khuẩn hô
hấp cấp, thấp tim, giun sán... Tham gia triển khai chương trình sức khoẻ
sinh sản và kế hoạch hoá gia đình như truyền thông, tuyên truyền sinh đẻ
có kế hoạch, chăm sóc sản khoa...
+ Tổ chức cai nghiện ma tuý và tuyên truyền tác hại của ma tuý sâu
rộng trong mọi tầng lớp nhân dân.
+ Các hoạt động y tế khác.
Các hoạt động sự nghiệp y tế ở tuyến cơ sở trực tiếp tác động đến
đời
sống nhân dân trên các địa bàn dân cư nên việc thực hiện quản lý các hoạt
động này có ý nghĩa quan trọng bậc nhất và tạo cơ sở vững chắc của cả
thực hiện các chủ trương chính sách về y tế của Nhà nước cũng như giảm
bớt gánh nặng cho các tuyến y tế cấp trên.
Công tác quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y
tế tuyến cơ sở
Sự nghiệp y tế có tính chất quan trọng trong các chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta đề ra, đặt dưới sự lãnh đạo của
các cơ quan Hành chính sự ngiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước nên các
đơn vị sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế được xác định lấy nguồn từ
13
Ngân sách Nhà nước đảm bảo cho hầu hết các hoạt động của mình. Do vậy,
việc quản lý Ngân sách Nhà nước chi cho sự nghiệp y tế là yêu cầu không
thể thiếu trong điều kiện cần phát huy hơn nữa vai trò và hiệu quả của y tế
trong đời sống kinh tế – xã hội.
Để quản lý các khoản chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế
cũng nảy sinh nhiều cách thức phân chia khác nhau nhưng một cách tổng
quát có thể chia làm các nhóm chi chủ yếu sau:
- Nhóm một: Các khoản chi thường xuyên. Chi thường xuyên là
những khoản chi có tính định kỳ và thường xuyên trong toàn bộ hoạt động
sự nghiệp. Trong nhóm chi thường xuyên lại bao gồm một số khoản cụ thể
sau:
+ Chi cho con người: đây là các khoản chi chủ yếu phục vụ cho đội
ngũ cán bộ công nhân viên hoạt động trong lĩnh vực y tế cũng như quản lý
về y tế như: chi tiền lương, tiền công, tiền thưởng, phụ cấp, các khoản đóng
góp, phúc lợi tập thể và các khoản thanh toán khác cho cán bộ công nhân
viên.
+ Chi cho các nghiệp vụ chuyên môn: là các khoản chi đặc thù cho
lĩnh vực y tế như: mua sắm thuốc chữa bệnh, bơm kim tiêm, bông, băng,
gạc, cồn, phim chụp X quang...; vật tư, trang thiết bị kỹ thuật chuyên dùng
không phải là tài sản cố định và các khoản chi khác.
+ Chi cho quản lý hành chính: bao gồm các khoản chi phục vụ cho
việc quản lý mọi hoạt động sự nghiệp y tế như: chi mua vật tư văn phòng,
điện, nước, thuê bao điện thoại, chi hội nghị, tiếp khách, chi thuê mướn và
các khoản chi khác có liên quan.
- Nhóm hai: Chi mua sắm, sửa chữa. Nhóm chi này bao gồm các
khoản chi chủ yếu cho tài sản cố định: các chi phí sửa chữa tài sản cố định;
mua sắm tài sản cố định; vận chuyển, lắp đặt tài sản cố định; chi phí thanh
lý, nhượng bán tài sản cố định... Do tài sản cố định sử dụng trong lĩnh vực
14
y tế có đặc thù riêng và thuộc về sự nghiệp của Nhà nước nên không được
khấu hao để bù đắp tài sản cố định, không tránh khỏi việc sử dụng kém
hiệu quả, lãng phí.
- Nhóm ba: Chi khác. Đây là các khoản chi phát sinh không thường
xuyên, đột xuất và không thuộc các khoản chi trên.
Các khoản chi Ngân sách Nhà nước hiện nay được cấp phát theo một
số hình thức sau:
+ Phương thức cấp phát theo hạn mức kinh phí: định kỳ cơ quan tài
chính cấp phát hạn mức cho các đơn vị sự nghiệp, căn cứ vào hạn mức mà
các đơn vị rút tiền từ Kho bạc để chi tiêu, hết hạn thời hạn của hạn mức mà
hạn mức chi không hết sẽ bị xoá bỏ. Phương thức này chủ yếu được sử
dụng trong cấp phát kinh phí chi thường xuyên.
+ Phương thức cấp phát theo lệnh chi: kinh phí sau khi cấp phát theo
lệnh chi qua Kho bạc nhà nước quận, huyện tài khoản tiền gửi của các đơn
vị sẽ được tăng thêm đúng bằng số ghi trong lệnh chi, sau khi hết niên độ
kế toán mà đơn vị không chi hết số kinh phí đó thì số còn lại nằm trong số
dư của tài khoản tiền gửi sẽ được chuyển sang năm sau. Phương thức này
dùng cho các cơ quan, đơn vị không có quan hệ thường xuyên với Ngân
sách Nhà nước hay các khoản chi đầu tư, mua sắm tài sản cố định của đơn
vị sự nghiệp.
+ Phương thức cấp phát ủy quyền: phương thức này chủ yếu áp dụng
cho quan hệ giữa Ngân sách Nhà nước Trung ương và Ngân sách Nhà nước
địa phương, áp dụng phương thức này khi các đơn vị thực hiện các nhiệm
vụ chi tiêu trên địa bàn do Ngân sách Nhà nước Trung ương đảm nhận; khi
quyết toán thuộc về Ngân sách Nhà nước trung ương.
+ Phương thức ghi thu- ghi chi: cho phép các đơn vị sự nghiệp sử
dụng các khoản thu sự nghiệp để chi tiêu trực tiếp.
15
+ Phương thức cấp phát theo số lượng công trình hoàn thành:
Phương thức này được áp dụng trong cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản,
thường thì cơ quan tài chính tạm ứng theo công trình, sau khi công trình
hoàn thành thì quyết toán số còn lại.
Tuy nhiên, để thuận tiện cho việc quản lý và hạch toán Ngân sách
Nhà nước chi cho sự nghiệp y tế thì các đơn vị sự nghiệp y tế phải quản lý
danh mục các khoản chi theo chi tiết hệ thống Mục lục Ngân sách Nhà
nước hiện hành.
Trong rất nhiều các phương thức quản lý thì phương thức quản lý chi
Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở chủ yếu hiện nay dựa
vào phương thức quản lý theo dự toán cùng lúc của các đơn vị quản lý như:
Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện; Kho bạc nhà nước quận, huyện, Sở
Tài chính – Vật giá tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Ủy ban nhân dân
quận, huyện và các bộ phận quản lý tại các cơ sở y tế; trong đó, Phòng Tài
chính – Vật giá quận, huyện đóng vai trò chủ đạo thực hiện sự lãnh đạo đối
với các đơn vị dự toán cấp dưới và hướng dẫn của cấp trên. Phương thức
quản lý theo dự toán được tiến hành như sau(1):
∂ Lập dự toán chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế năm đầu
thời kỳ ổn định
3Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao,
nhiệm vụ của năm kế hoạch; Căn cứ vào định mức, chế độ chi tiêu tài
chính hiện hành của Nhà nước quy định; Kết quả thu sự nghiệp và chi hoạt
động thường xuyên năm trước liền kề ( có loại trừ các yếu tố đột xuất,
không thường xuyên) được cấp có thẩm quyền phê duyệt; đơn vị sự nghiệp
lập dự toán thu, chi năm kế hoạch. Căn cứ lập dự toán chi như sau:
- Các khoản chi tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp, trợ
cấp theo lương: tính theo lương cấp bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp
(1) Đơn vị sự nghiệp có thu lập dự toán thu, chi Ngân sách Nhà nước hàng năm thực hiện theo quy định
tại Thông tư số 103/1998/TT-BTC ngày 18/07/1998 của Bộ tài chính và Thông tư số 25/2002/TT-BTC
ngày 21/03/2002 của Bộ tài chính.
16
lương theo quy định hiện hành đối với từng ngành nghề, công việc. Quỹ
tiền lương, tiền công của đơn vị sự nghiệp được xác định như sau:
Sau khi xác định quỹ tiền lương của đơn vị, việc trả lương cho từng người
lao động được xác định như sau:
Từ cách xác định trên, tính được tổng số kinh phí Ngân sách Nhà nước chi
cho các đơn vị sự nghiệp y tế của quận, huyện bằng cách lấy tổng quỹ
lương của từng đơn vị cộng lại.
Đối với đơn vị sự nghiệp có thu áp dụng đơn giá, định mức lao động
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì tiền lương, tiền công
tính theo đơn giá. Trường hợp nguồn thu, chi giảm sút, không bảo đảm
mức tiền lương tối thiểu cho người lao động. Thủ trưởng đơn vị thống nhất
với tổ chức Công đoàn sử dụng quỹ dự phòng ổn định thu nhập để bảo đảm
mức tiền lương tối thiểu cho người lao động trong đơn vị.
- Chi hoạt động nghiệp vụ: căn cứ vào chế độ và khối lượng
hoạt động nghiệp vụ, kinh phí cho nghiệp vụ chuyên môn của sự nghiệp y
tế xác định theo công thức sau:
Quỹ
tiền
lương
của
đơn
vị
Lươn
g tối
thiểu
chung
người
/tháng
do
Nhà
nước
quy
định
Hệ số
điều
chỉnh
tăng
thêm
mức
lương
tối
thiểu
Hệ số
lương
cấp
bậc
bình
quân
và hệ
số
phụ
cấp
lương
bình
quân
= X ( 1+ ) X
Biên
chế và
lao
động
hợp
đồng
từ 1
năm
trở lên
X X 12 tháng
Tiền
lương
cá nhân
Lương tối
thiểu chung
người/tháng
do Nhà nước
quy định
Hệ số điều
chỉnh tăng
thêm cho
cá nhân
Hệ số lương
cấp bậc và
hệ số phụ
cấp lương
của cá nhân
= X (1 + ) X
17
∑
=
=
n
i
NViNV CC
1
Trong đó:
CNVi: chi nghiệp vụ chuyên môn của Ngân sách Nhà nước dự kiến kỳ kế
hoạch cho đơn vị thứ i.
CNV: số chi Ngân sách Nhà nước cho nghiệp vụ chuyên môn của sự nghiệp
y tế tuyến cơ sở.
- Chi quản lý hành chính(CQL): vật tư văn phòng, dịch vụ công
cộng, công tác phí... theo chế độ chi tiêu tài chính hiện hành do cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền quy định, được xác định theo công thức sau:
)(
1
CNi
n
i
QLiQL SMC ×= ∑
=
Trong đó:
QLiM : mức chi quản lý hành chính bình quân/ 1cán bộ công nhân viên sự
nghiệp y tế tuyến cơ sở dự kiến kỳ kế hoạch thuộc đơn vị thứ i.
CNiS : số cán bộ công nhân viên bình quân dự kiến có mặt trong năm kế
hoạch thuộc đơn vị thứ i.
- Chi hoạt động sản xuất, dịch vụ: vật tư, hàng hoá... theo định
mức kinh tế, kỹ thuật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định và
CNVi
Số dự kiến
chi về vật
liệu, dụng cụ
cho nghiệp
vụ chuyên
môn
Số dự
kiến chi
về nghiên
cứu khoa
học hay
thuê
nghiên
cứu
Số dự
kiến chi
về đồng
phục,
trang
phục cho
y tế, bác
sĩ…
Số dự
kiến chi
về các
khoản
khác
= + + +
18
thực hiện của năm trước, tính hao mòn tài sản cố định theo chế độ áp dụng
hiện hành.
- Chi mua sắm, sửa chữa: được xác định dựa vào yêu cầu thực
tế của các đơn vị sự nghiệp theo công thức sau:
∑
=
×=
n
i
iiMS TNGC
1
)(
Trong đó:
MSC : chi cho mua sắm, sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ của sự nghiệp y tế
tuyến cơ sở theo kế hoạch.
iNG : nguyên giá tài sản cố định hiện có của đơn vị thứ i.
iT : tỷ lệ % được áp dụng để xác định kinh phí dự kiến chi cho mua sắm,
sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ của đơn vị thứ i.
- Chi khác: tuỳ từng thời kỳ, các khoản chi khác được xác định một
tỷ lệ % thích hợp trong tổng số chi Ngân sách Nhà nước tuyến cơ sở.
3Quy trình lập dự toán chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế
tuyến cơ sở. Trên cơ sở những quy định chung về lập dự toán chi Ngân
sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở, quy trình lập dự toán Ngân
sách Nhà nước được trình tự theo các bước sau:
- Bước 1: Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện thông báo cho
các đơn vị sự nghiệp y tế cơ sở thời hạn bắt đầu triển khai lập dự toán Ngân
sách Nhà nước ( thường vào đầu qúi III của năm trước).
- Bước 2: Các đơn vị sự nghiệp y tế cơ sở ( trạm y tế xã,
phường, trạm cai nghiện...) lập dự toán của đơn vị mình trực tiếp gửi lên
Trung tâm y tế quận, huyện.
19
- Bước 3: Trung tâm y tế quận, huyện sau khi nhận được dự
toán của các đơn vị thì tổng hợp với dự toán của Trung tâm y tế rồi gửi lên
Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện.
- Bước 4: Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện tổng hợp, lập
dự toán của sự nghiệp y tế với dự toán Ngân sách quận, huyện gửi UBND
cùng cấp và bảo vệ trước Sở Tài chính – Vật giá tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương ( trước 15/8 hàng năm).
- Bước 5: Sau khi cân đối với dự toán Ngân sách Nhà nước
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Sở Tài chính – Vật giá ấn định số
giao dự toán cho sự nghiệp y tế của quận, huyện.
- Bước 6: Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện sau khi nhận
được số giao dự toán từ Sở Tài chính – Vật giá tiến hành phân bổ Ngân
sách Nhà nước chính thức cho các đơn vị sự nghiệp y tế cơ sở để các đơn
vị này có thể chủ động trong chi tiêu ( chậm nhất vào ngày 05 tháng 01 của
năm tài chính).
- Việc giao dự toán của Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện
cũng phải được Chủ tịch UBND cùng cấp ra văn bản xác định đơn vị sự
nghiệp thuộc loại tự bảo đảm chi phí hoặc đơn vị sự nghiệp bảo đảm một
phần chi phí; giao dự toán thu, chi Ngân sách Nhà nước cho các đơn vị trực
thuộc, trong đó có mức Ngân sách Nhà nước bảo đảm hoạt động thường
xuyên ( đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí).
3Lập dự toán 2 năm tiếp theo của thời kỳ ổn định.
Riêng đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí: nguồn Ngân sách
Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thương xuyên. Mức kinh phí Ngân sách
Nhà nước được cấp ổn định theo định kỳ 3 năm và hàng năm được tăng
thêm theo tỷ lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Hết thời hạn 3 năm,
mức Ngân sách Nhà nước bảo đảm sẽ được xác định lại cho phù hợp.
20
3Yêu cầu lập dự toán chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế
tuyến cơ sở:
+ Dự toán của các đơn vị dự toán trong sự nghiệp y tế phải phản ánh đầy
đủ các khoản chi tiêu theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức của cơ quan
có thẩm quyền ban hành.
+ Dự toán Ngân sách Nhà nước phải được lập theo đúng biểu mẫu, đúng
thời gian quy định...
+ Dự toán của sự nghiệp y tế tuyến cơ sở sau khi được Sở Tài chính – Vật
giá phê duyệt phải được sự thông qua của HĐND và UBND cấp quận,
huyện cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
• Chấp hành chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế cơ sở
Trên cơ sở dự toán chi cả năm được duyệt và nhiệm vụ phải chi
trong qúi, các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến cơ sở sử dụng Ngân sách Nhà
nước lập dự toán chi qúi ( có chia ra tháng, chi tiết theo các mục chi của
Mục lục Ngân sách Nhà nước) gửi Trung tâm y tế quận, huyện để Trung
tâm y tế tổng hợp gửi Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện ( trước ngày
10 của tháng cuối qúi trước). Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện trình
UBND cùng cấp phê duyệt và tiến hành cấp phát cho các đơn vị sự nghiệp
y tế và Trung tâm y tế quận, huyện theo hình thức hạn mức kinh phí.
Đơn vị trực tiếp quản lý về chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y
tế tuyến cơ sở là Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện và kinh phí cấp
phát cho các đơn vị sự nghiệp được thực hiện qua Kho bạc nhà nước trên
cơ sở dự toán đã được phê duyệt của qúi.
Trước kia, kinh phí được cấp phát chi tiết theo các mục chi của Mục
lục Ngân sách Nhà nước đối với kinh phí Ngân sách Nhà nước bảo đảm
hoạt động thường xuyên. Sau năm 2002( từ khi Nghị định số10/NĐ-CP có
hiệu lực), đối với kinh phí Ngân sách Nhà nước bảo đảm hoạt động thường
xuyên ( đối với các đơn vị bảo đảm một phần chi phí: đơn vị sự nghiệp y tế
21
tuyến cơ sở), Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện xuất lệnh chi cho các
đơn vị sự nghiệp qua Kho bạc nhà nước quận, huyện vào mục 134 “ chi
khác” của Mục lục Ngân sách Nhà nước để các đơn vị chi chủ động và phù
hợp với tình hình thực tế đơn vị hơn; nhưng kế toán và quyết toán các
khoản chi phải theo các mục chi của Mục lục Ngân sách Nhà nước tương
ứng. Đối với các khoản kinh phí khác của đơn vi sự nghiệp y tế tuyến cơ sở
( kinh phí thực hiện nhiệm vụ đặt hàng của Nhà nước; kinh phí chương
trình mục tiêu quốc gia; vốn đối ứng các dự án và vốn đầu tư, mua sắm
trang thiết bị y tế...) được cấp phát theo dự toán đã được phê duyệt của cấp
có thẩm quyền.
Trong qúa trình thực hiện, các đơn vị sự nghiệp y tế cơ sở được điều
chỉnh dự toán chi hoạt động sự nghiệp, kinh phí hoạt động thường xuyên đã
được giao cho phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị gửi Phòng Tài
chính – Vật giá quận, huyện và Kho bạc nhà nước nơi đơn vị giao dịch để
theo dõi quản lý. Đối với các khoản kinh phí thuộc Ngân sách Nhà nước
buộc các đơn vị sự nghiệp y tế cơ sở phải mở tài khoản tại Kho bạc nhà
nước quận, huyện để thực hiện chi qua Kho bạc. Ngoài ra, đơn vị sự nghiệp
có thu được mở tài khoản tại Ngân hàng hoặc tại Kho bạc nhà nước để
phản ánh các khoản thu – chi của hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ.
Yêu cầu đặt ra của chấp hành chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp
y tế tuyến cơ sở là phải thường xuyên được sự kiểm tra, thanh tra, kiểm
soát của các cơ quan chủ quản ( Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện;
Kho bạc nhà nước quận, huyện; Sở y tế ) và các cơ quan Nhà nước có liên
quan( UBND, HĐND quận, huyện).
÷ Quyết toán chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở
Sau ngày 31 tháng 12 năm Ngân sách, các đơn vị sự nghiệp y tế thực
hiện khoá sổ kế toán và lập quyết toán của đơn vị mình gửi lên Trung tâm y
tế quận, huyện báo cáo Sở y tế và Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện.
Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện tổng hợp, quyết toán thu – chi Ngân
22
sách Nhà nước trên địa bàn trình UBND, HĐND cùng cấp phê duyệt và
thực hiện đối chiếu với quyết toán Sở Tài chính – Vật giá tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương trước ngày 28 tháng 02 năm sau.
Số liệu trong báo cáo quyết toán phải chính xác, trung thực ( quyết
toán cho năm Ngân sách được tính từ ngày 01/01 đến hết ngày 31/12 ). Nội
dung báo cáo quyết toán Ngân sách phải theo đúng các nội dung ghi trong
dự toán được duyệt và phải báo cáo quyết toán chi tiết theo Mục lục Ngân
sách Nhà nước ( chương – loại – khoản – nhóm – tiểu nhóm – mục – tiểu
mục). Báo cáo quyết toán hàng năm của các đơn vị sự nghiệp y tế cơ sở
phải đúng theo mẫu thống nhất Bộ tài chính ban hành và phải gửi đầy đủ
lên các cấp quản lý có liên quan.
Trong quá trình lập báo cáo quyết toán của các đơn vị sự nghiệp y tế
cơ sở, Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện cần chú ý một số điểm mới
sau:
+ Kinh phí ủy quyền ( trước năm 2001 ) được quyết toán vào chi
Ngân sách thành phố, tỉnh thì nay kinh phí chi mục tiêu của thành phố được
quyết toán vào Ngân sách quận, huyện. Ngoài ra, quyết toán chi Ngân sách
Nhà nước phải bao gồm cả chi từ nguồn thu để lại đơn vị và chi từ Ngân
sách quận, huyện.
+ Các khoản kinh phí chưa sử dụng hết đơn vi được chuyển sang
năm sau để hoạt động, bao gồm: kinh phí Ngân sách Nhà nước bảo đảm
hoạt động thường xuyên và các khoản thu sự nghiệp. Còn các khoản kinh
phí khác: kinh phí nghiên cứu khoa học; chương trình mục tiêu quốc gia;
kinh phí thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước đặt hàng; các nhiệm vụ đột
xuất được cấp có thẩm quyền giao; vốn đầu tư xây dựng cơ bản... của năm
trước chưa được thực hiện không được chuyển sang năm sau trừ trường
hợp đặc biệt theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và các văn bản
hướng dẫn hiện hành của Bộ tài chính.
23
Sau khi quyết toán chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế cơ sở
được hoàn tất đòi hỏi Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện triển khai
ngay công tác kiểm toán đối với các đơn vị để có những điều chỉnh khi cần
thiết theo các văn bản pháp luật về quản lý Ngân sách Nhà nước hiện hành.
Trong quá trình quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế cơ sở
đòi hỏi các đơn vị phải thực hiện công khai Ngân sách Nhà nước như sau:(1)
+Công khai dự toán thu – chi đã được Nhà nước giao ( năm đầu) và
dự toán thu – chi do đơn vị lập ( 2 năm tiếp theo ), kể cả điều chỉnh hoặc bổ
sung trong năm ( nếu có).
+ Công khai quyết toán thu – chi Ngân sách Nhà nước hàng năm của
đơn vị và thông báo duyệt quyết toán của đơn vị dự toán cấp trên.
+ Công khai phương án chi trả tiền lương cho người lao động, trong
đó có hệ số điều chỉnh tăng thêm cho từng người lao động.
+ Công khai việc trích lập và sử dụng các quỹ.
+ Công khai quy định tiêu chuẩn, định mức, chế độ chi tiêu nội bộ.
1.1.3. Xu hướng xã hội hoá các hoạt động y tế trong điều kiện hiện nay
Khái niệm, nội dung của xã hội hoá
Sự nghiệp y tế đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc chăm
sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho nhân dân cho nên đòi hỏi phải có sự
đóng góp tích cực cả từ phía Nhà nước cũng như nhân dân vào các hoạt
động y tế. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra phương hướng và
chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao:
“ Xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao là vận
động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự
phát triển các sự nghiệp đó nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về
(1) Nội dung công khai cụ thể thực hiện theo quy định tại Thông tư số 83/1999/TT-BTC ngày
01/07/1999 của Bộ tài chính.
24
giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao trong sự phát triển về vật chất và tinh thần
của nhân dân ”(1)
Theo đó, xã hội hoá các hoạt động y tế là sự nỗ lực của quản lý Nhà
nước cũng như sự tham gia rộng rãi của quần chúng nhân dân nhằm phát
triển một cách toàn diện sự nghiệp y tế của nước nhà. Xã hội hoá các hoạt
động y tế trong khuôn khổ các chính sách khuyến khích và huy động nguồn
lực trong nhân dân của Nhà nước cho sự nghiệp y tế. Bên cạnh đó, xã hội
hoá cần phải có sự đồng tình ủng hộ của quần chúng nhân dân tham gia vào
sự nghiệp y tế.
Để cụ thể quá trình thực hiện xã hội hoá các hoạt động y tế, nội dung
các chính sách khuyến khích cần phải tập trung vào khuyến khích các cơ sở
ngoài công lập phát triển một cách thích hợp. Các nội dung đó bao gồm:
chính sách khuyến khích về cơ sở vật chất, đất đai; về thuế, phí, lệ phí; về
tín dụng; về bảo hiểm; về chế độ khen thưởng, phong tặng danh hiệu... do
Nhà nước đề ra; những nội dung này được coi có tính quyết định trong chủ
trương của Nhà nước góp phần vào khuyến khích xã hội hoá các hoạt động
y tế. Cùng với việc phát triển các cơ sở công lập hoạt động phục vụ chăm
sóc, khám chữa bệnh nhân dân cần phải tích cực hơn nữa trong phát huy
tính tự chủ và năng động của các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến cơ sở. Sự phát
triển bền vững sự nghiệp y tế nước nhà phải luôn được đặt trong mối quan
hệ hỗ trợ qua lại giữa phát triển các đơn vị y tế công lập và dân lập mà các
chính sách xã hội hoá đã đề ra.
Yêu cầu khuyến khích xã hội hoá đối với sự nghiệp y tế
Sự nghiệp y tế nếu chỉ được bảo đảm từ phía Nhà nước sẽ không tạo
đà cho sự phát triển nhanh và bền vững, nên yêu cầu khuyến khích xã hội
hoá đối với sự nghiệp y tế là thực sự cần thiết và đang đặt ra cho phát triển
(1) Điều 1, Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/08/1999 về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với
các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao.
25
kinh tế – xã hội của chúng ta, bởi xã hội hoá đối với sự nghiệp y tế góp
phần:
+ Tạo điều kiện lồng ghép các yêu cầu bảo vệ và nâng cao sức khoẻ
của nhân dân trong các chính sách vĩ mô về kinh tế, xã hội, các chương
trình, dự án phát triển sản xuất, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo.
+ Đa dạng hoá các loại hình chăm sóc sức khoẻ, tìm kiếm và khai
thác các nguồn đầu tư khác nhau cho y tế như: bảo hiểm y tế tự nguyện,
viện trợ nước ngoài v.v... xây dựng các điển hình tiên tiến về vệ sinh môi
trường, an toàn cộng đồng.
+ Tiếp tục củng cố và phát triển các trung tâm truyền thông giáo dục
sức khoẻ các tỉnh, thành phố. Phát triển mạng lưới tuyên truyền tới từng xã,
phường, thôn, bản... Sử dụng các biện pháp và hình thức truyền thông phù
hợp để mọi tầng lớp nhân dân và các tổ chức quần chúng tự nguyện tham
gia và đóng góp vào việc bảo vệ sức khoẻ cho chính bản thân mình và cộng
đồng.
Do vậy, yêu cầu đặt ra cho xã hội hoá đối với sự nghiệp y tế là phải
được tiến hành một cách thận trọng và toàn diện, tránh tiến hành một cách
ồ ạt, sai lệch với tư tưởng ban đầu đề ra. Hơn nữa, từng bước đi trong tiến
trình xã hội hoá phải được cụ thể bởi các quy phạm luật pháp, căn cứ vào
tình hình nền kinh tế đất nước tránh sự nóng vội chủ quan duy ý chí và cần
xác định đây là mục tiêu lâu dài.
Trong khuôn khổ các chính sách xã hội hoá cần đẩy mạnh sự hợp tác
của các Bộ, ngành, tổ chức xã hội, huy động sự tham gia của nhân dân, của
toàn xã hội, kể cả sự tham gia của khu y tế tư nhân vào việc thực hiện các
hoạt động chăm sóc sức khoẻ, đa dạng hoá các hình thức cung cấp dịch vụ
tư vấn về chăm sóc sức khoẻ cho các đối tượng; mở rộng và nâng cao hiệu
quả của việc hợp tác quốc tế song phương, đa phương với các nước, các tổ
chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ trong lĩnh vực y tế nói chung.
26
Sự khác biệt của xã hội hoá các hoạt động y tế với phát
triển tự phát
Xã hội hoá các hoạt động y tế chính là khuyến khích sự tham gia của
mọi đối tượng vào sự nghiệp y tế nhưng lại cần phải nhận thức đầy đủ về
sự khác biệt của xã hội hoá với phát triển tự phát:
Thứ nhất, xã hội hoá là chủ trương và chính sách có định hướng của
quản lý Nhà nước trên yêu cầu thực tế phát triển kinh tế – xã hội. Còn phát
triển tự phát là sự tham gia và rút lui khỏi các hoạt động y tế không có định
hướng nào cả, mà chỉ đáp ứng yêu cầu lợi ích cá nhân.
Thứ hai, cả xã hội hoá và phát triển tự phát đều phải tuân theo những
quy định chung của pháp luật nhưng khả năng tiềm ẩn về vi phạm hay lách
luật của phát triển tự phát trong lĩnh vực y tế sẽ chiếm tỷ lệ cao hơn bởi yếu
tố lợi nhuận sẽ làm mờ đi tính chất nhân đạo vốn có của các hoạt động y tế.
Thứ ba, xã hội hoá các hoạt động y tế vừa góp phần giảm gánh nặng
cho Ngân sách Nhà nước vừa đảm bảo sự công bằng vốn có và gia tăng
động lực hiệu quả các hoạt động y tế là rất lớn. Còn về phía phát triển tự
phát cũng có thể đạt được hiệu quả rất cao của các hoạt động y tế nhưng ít
có được sự công bằng mà muốn điều hoà được mục tiêu công bằng và mục
tiêu hiệu quả sẽ gây áp lực lớn, bị động cho Ngân sách Nhà nước do những
hậu quả ngoài ý muốn.
Ngoài ra, phát triển tự phát có thể dẫn tới độc quyền trong lĩnh vực y
tế mà chế độ xã hội XHCN không mong muốn điều đó. Chính vì vậy, xã
hội hoá là phù hợp với con đường đi lên CNXH mà chúng ta đã lựa chọn,
gây dựng và bảo vệ cho đến ngày hôm nay.
Mối liên hệ giữa quản lý chi Ngân sách Nhà nước với xã
hội hoá các hoạt động y tế
Trong quá trình tiến hành xã hội hoá các hoạt động y tế, yêu cầu đặt
ra cho các đơn vị sự nghiệp y tế là cần phải tự chủ về tài chính và luôn
27
phấn đấu tiên phong trong các hoạt động chăm sóc sức khoẻ, khám chữa
bệnh cho nhân dân. Các cơ sở ngoài công lập hoạt động trong lĩnh vực y tế
cần được sự khuyến khích và đầu tư phần nào về nguồn vốn hoạt động từ
phía Nhà nước; có như vậy mới vừa thúc đẩy các cơ sở ngoài công lập đi
vào hoạt động trong lĩnh vực y tế vừa tạo đà cho phát triển của hình thức
này. Tuy nhiên, việc xã hội hoá các hoạt động y tế, nguồn chi từ Ngân sách
Nhà nước vẫn phải đóng vai trò chủ đạo, quan trọng nhất nhưng tỷ trọng so
với tổng chi về y tế của toàn xã hội dần giảm một cách phù hợp.
Trước kia, khi chưa có chính sách khuyến khích xã hội hoá các hoạt
động y tế, việc quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế đã gặp
không ít những khó khăn thì nay thực hiện xã hội hoá các hoạt động y tế lại
càng phức tạp hơn. Ngày nay, quản lý chi Ngân sách Nhà nước trong
khuôn khổ xã hội hoá phải góp phần khuyến khích tự chủ về tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp y tế đồng thời chú trọng đến các chương trình mục
tiêu quốc gia về chăm sóc sức khoẻ nhằm đưa mọi đối tượng tham gia vào
các chương trình này. Mặc dù vậy, quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự
nghiệp y tế phải đáp ứng việc thúc đẩy, định hướng phát triển các hoạt
động y tế đồng thời tránh các biểu hiện tiêu cực trong quản lý chi Ngân
sách Nhà nước ( như lãng phí, tham ô, chi sai mục đích v.v...).
Do sự tham gia rộng rãi của nhiều chủ thể vào các hoạt động y tế nên
việc quản lý các hoạt động y tế cần phải thống nhất, đặc biệt là các hoạt
động về tài chính cần phải lưu ý trong việc quy định về các khoản thu, các
khoản chi, công khai tài chính hàng năm,... một cách thống nhất của Chính
phủ và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Bởi vậy, quản lý chi Ngân
sách Nhà nước và xã hội hoá các hoạt động y tế có mối liên hệ tác động
qua lại lẫn nhau: quản lý chi Ngân sách Nhà nước tạo tiền đề cho khuyến
khích xã hội hoá đồng thời xã hội hoá lại là điều kiện để giảm bớt gánh
nặng cho chi Ngân sách Nhà nước mà vẫn đảm bảo mục tiêu công bằng và
mục tiêu hiệu quả cần đạt được trong lĩnh vực y tế.
28
29
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC Y TẾ TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN HOÀN KIẾM
2.1. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH CÔNG CỦA QUẬN
HOÀN KIẾM
2.1.1. Đặc điểm về kinh tế – xã hội trên địa bàn quận
Với diện tích tự nhiên 4,5km2 ( hầu như không có diện tích đất nông
nghiệp ), dân số 186.000 người, quận Hoàn Kiếm là một quận nội thành, có
vị trí ở trung tâm thủ đô Hà Nội, lịch sử phát triển gắn liền với lịch sử ngàn
năm Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội và lịch sử 36 phố phường. Quận
Hoàn Kiếm không những là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của
thành phố Hà Nội mà còn là một trung tâm lớn của cả nước. Ngày nay, với
sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta, quận Hoàn Kiếm luôn là
một địa bàn dẫn đầu về mọi lĩnh vực: công nghiệp, thương mại và dịch vụ
so với các đơn vị hành chính cùng cấp, xứng đáng là quận trung tâm của
thủ đô Hà Nội.
* Về kinh tế: sự phát triển về kinh tế được phản ánh thông qua mối
quan hệ mọi lĩnh vực với thu - chi Ngân sách Nhà nước trên địa bàn quận.
Trong những năm qua công tác thu - chi Ngân sách Nhà nước trên địa bàn
quận đã đạt được kết quả ổn định, vững chắc và có nhịp độ tăng trưởng
dương phù hợp tình hình phát triển kinh tế, xã hội của quận:
+ Về thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, quận Hoàn Kiếm là địa
bàn trọng điểm của kinh doanh thương mại dịch vụ nên có số thu về thuế
công thương nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong thu NSNN. Số thu Thành phố
giao cho quận năm sau cao hơn thực hiện năm trước từ 15%-20%.
30
+ Về thu ngân sách quận: Thu ngân sách quận để cân đối chi ngân
sách theo tỷ lệ điều tiết chung của Thành phố thì quận có ưu thế là số thu
lớn, lại là nơi có nhiều đơn vị Trung ương và Thành phố giao dịch đóng
trên địa bàn nên thu đảm bảo chi và có kết dư lớn. Số thu tăng bình quân
trên 11%/năm.
+ Về chi ngân sách: Quận Hoàn Kiếm là đơn vị có số chi trung bình
và thấp so với các quận (huyện) bạn, do nhiệm vụ chi sự nghiệp kinh tế,
giao thông, đô thị ở quận trung tâm nên Thành phố đảm nhiệm là chính chỉ
chiếm 30% đến 33% trên tổng số thu ngân. Nhiệm vụ chi của quận chủ yếu
là chi thường xuyên chiếm tỷ trọng từ 70% đến 75% tổng chi ngân sách.
Tuy vậy, công tác quản lý Ngân sách Nhà nước trên địa bàn quận
cũng gặp không ít những khó khăn:
- Công tác thu Ngân sách Nhà nước chịu ảnh hưởng lớn của tính
phức tạp trên địa bàn và tình hình kinh doanh trên địa bàn chủ yếu là kinh
doanh nhỏ lẻ nên việc khai thác nguồn thu từ hoạt động kinh doanh này
chưa đạt hiệu quả cao. Hơn nữa, phần thu từ các Doanh nghiệp Nhà nước
giảm đáng kể do các đơn vị quốc doanh sát nhập, cổ phần hoá và thua lỗ
kéo dài tăng lên; cùng với việc Nhà nước lại có chính sách bỏ các khoản
thu sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước tại các đơn vị này.
- Công tác chi Ngân sách Nhà nước do ảnh hưởng của dân số đông
trên một diện tích địa lý hẹp nên quản lý chi Ngân sách Nhà nước gặp
nhiều phức tạp, dàn trải và cần nhiều kinh phí cho duy trì trật tự trị an, dẫn
đến tình trạng nguồn chi không được tập trung nhiều cho đầu tư phát triển
mà hầu hết là chi tiêu cho hoạt động thường xuyên.
* Về văn hoá, xã hội
Các sự nghiệp y tế, giáo dục, thể dục thể thao... trên địa bàn
thường xuyên được sự quan tâm, đầu tư phát triển của các cấp, các ngành
tạo điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống trong dân cư; cùng với đó các
công tác chính sách xã hội đối với các đối tượng chính sách ( gia đình
thương binh, liệt sỹ; bà mẹ Việt Nam anh hùng; người có công với cách
mạng...) được đảm bảo đúng theo sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Do
vậy, đời sống cả về vật chất và tinh thần của nhân dân trong quận ngày một
31
nâng lên, góp phần đưa quận Hoàn Kiếm trở thành một trong những đơn vị
đi đầu về thực hiện công tác văn hoá, xã hội của thành phố.
Với những đặc điểm trên về kinh tế - xã hội mà quận Hoàn Kiếm có
được đã góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng, phát triển; huy động
nguồn lực đưa quận phát triển nhanh, bền vững về mọi lĩnh vực và trở
thành một điểm sáng của thủ đô Hà Nội.
2.1.2. Công tác quản lý tài chính Ngân sách Nhà nước đối với sự
nghiệp y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm
Khái quát chung về phòng Tài chính – Vật giá quận Hoàn
Kiếm
Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm là đơn vị trực tiếp quản
lý tài chính Ngân sách Nhà nước trên toàn địa bàn quận về mọi lĩnh vực,
trong đó có quản lý thu - chi Ngân sách Nhà nước đối với các đơn vị sự
nghiệp y tế của quận.
Phòng TC-VG quận Hoàn Kiếm có trụ sở tại số nhà 56 Hàng Cân.
Phòng được thành lập từ tháng 08/1990. Thực hiện nhiệm vụ theo quy
định tại quyết định số 1141/QĐ-UB ngày18/03/1988 với chức năng quản lý
tài chính thương nghiệp. Đến tháng 09/1997 đổi tên thành Phòng Tài chính
– Vật giá, thực hiện nhiệm vụ theo quyết định số 3581/QĐ-UB ngày
16/09/1997của UBND thành phố Hà Nội.
Hiện nay, căn cứ vào sự phân cấp của hệ thống Ngân sách Nhà nước
và các văn bản hướng dẫn hoạt động, phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn
Kiếm được tổ chức theo mô hình sau:
32
B
Ộ
P
H
Ậ
N
H
À
N
H
C
H
ÍN
H
,
K
Ế
T
O
Á
N
Đ
Ơ
N
V
Ị
B
Ộ
P
H
Ậ
N
K
Ế
T
O
Á
N
T
H
U
–
C
H
I
N
SN
N
B
Ộ
P
H
Ậ
N
Q
U
Ả
N
LÝ
N
SN
N
C
Á
C
Đ
Ơ
N
V
Ị S
Ự
N
H
IỆ
P
B
Ộ
P
H
Ậ
N
Q
U
Ả
N
LÝ
N
SN
N
K
H
Ố
I
PH
Ư
Ờ
N
G
( 1
8
ph
ườ
ng
)
B
Ộ
P
H
Ậ
N
K
Ế
T
O
Á
N
T
Ổ
N
G
H
Ợ
P
Hình1: Sơ đồ tổ chức bộ máy hành chính
phòng Tài chính – Vật giá quận Hoàn Kiếm.
T
R
Ư
Ở
N
G
P
H
Ò
N
G
PH
Ó
TR
Ư
Ở
N
G
P
H
Ò
N
G
33
Cơ cấu tổ chức của Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm được
hình thành trên cơ sở các căn cứ nêu trên và từ những nhiệm vụ cụ thể của
phòng:
+ Giúp UBND quận hướng dẫn và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản
lý về tài chính Ngân sách Nhà nước trên địa bàn quận theo quy định của
pháp luật.
+ Hướng dẫn các cơ quan, đơn vị dự toán thuộc quận, ban tài chính
phường xây dựng dự toán Ngân sách hàng năm, xây dựng dự toán Ngân
sách quận theo hướng dẫn của Sở Tài chính - Vật giá, trình UBND quận
xem xét để trình HĐND quận quyết định.
+ Lập phương án phân bổ Ngân sách quận, lập dự toán điều chỉnh
trong trường hợp cần thiết theo quy định trình UBND quận xem xét, trình
HĐND quyết định, đảm bảo điều hành theo tiến độ và dự toán đã được
quyết định, hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý, điều hành và quyết toán ngân
sách cấp phường.
+ Kiểm tra việc quản lý tài chính Ngân sách của các cơ quan, đơn vị
hành chính sự nghiệp và đoàn thể thuộc quận. Phối hợp với cơ quan thuế
trong quản lý công tác thu Ngân sách Nhà nước trên địa bàn theo quy định
của pháp luật, phối hợp với Kho bạc Nhà nước thực hiện cấp phát đầy đủ,
kịp thời, đúng chế độ, tiêu chuẩn cho các đối tượng sử dụng Ngân sách
quận.
+ Tổng hợp thu - chi Ngân sách Nhà nước trên địa bàn quận, hướng
dẫn và kiểm tra quyết toán Ngân sách cấp phường, lập quyết toán Ngân
sách trên địa bàn theo quy định.
+ Báo cáo tài chính Ngân sách theo quy định của luật Ngân sách Nhà
nước và theo yêu cầu công tác quản lý của cấp trên.
+ Quản lý tài sản Nhà nước khu vực hành chính sự nghiệp thuộc
quận theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ tài chính, quản lý
34
tài sản tịch thu sung công quỹ Nhà nước theo quy định và phân cấp của Bộ
tài chính và UBND thành phố.
+ Quản lý nguồn kinh phí được cấp trên cấp cho Ngân sách quận.
+ Làm thường trực hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng theo
NĐ22/1998/CP và quyết định 20/1998/QĐ-UB của UBND thành phố Hà
Nội quy định khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho an ninh- quốc phòng,
lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia.
+ Quản lý một số quỹ tài chính ngoài Ngân sách Nhà nước theo quy
định, quản lý một số loại biên lai ấn chỉ chuyên dùng được giao.
+ Làm một số công việc thuộc lĩnh vực tài chính khi được Quận ủy-
HĐND và UBND quận giao phó bằng văn bản.
Từ những nhiệm vụ cụ thể đề ra cho Phòng Tài chính - Vật giá quận
Hoàn Kiếm, cơ cấu tổ chức của đơn vị đáp ứng được yêu cầu về tinh gọn
bộ máy, thuận tiện cho quá trình quản lý đạt hiệu quả cao trong hoạt động
và hơn hết phù hợp với biên chế sẵn có.
Thực hiện theo các nhiệm vụ và phân cấp Ngân sách Nhà nước,
Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm trực tiếp quản lý về tài chính
Ngân sách Nhà nước đối với các đơn vị sự nghiệp y tế trên địa bàn quận,
bao gồm:
+Trung tâm y tế quận
+ 18 trạm y tế phường
+1 trạm đa khoa ( bảo hiểm)
+ 1 nhà hộ sinh ( 40 giường )
+ 1 trạm phòng dịch
+ 1 trạm cai nghiện
+ 1 trụ sở ủy ban dân số gia đình và trẻ em ( chi Ngân sách quận )
35
Trong đó:
- Trung tâm y tế quận có nhiệm vụ hỗ trợ trong quá trình quản lý chi
Ngân sách Nhà nước cho các đơn vị còn lại và tổng hợp số liệu khi có yêu
cầu của Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm; đồng thời thực hiện
quản lý về biên chế, nghiệp vụ chuyên môn của các đơn vị sự nghiệp y tế
theo hướng dẫn của Sở y tế.
- Các đơn vị sự nghiệp y tế của quận Hoàn Kiếm vừa chịu sự quản lý
của Trung tâm y tế quận và Phòng Tài chính - Vật giá quận; riêng 18 trạm
y tế phường không có bộ phận quản lý về tài chính Ngân sách Nhà nước
mà trực tiếp được sự giúp đỡ của ban tài chính phường ( về công tác hạch
toán, kế toán và lập dự toán, phường hỗ trợ kinh phí phòng dịch cho trạm y
tế của mình...)
Hiện nay, theo quy định trong Nghị định số 10/2002/NĐ-CP các đơn
vị sự nghiệp y tế quận Hoàn Kiếm mới là loại hình đơn vị sự nghiệp có thu
tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên; do tính chất hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp y tế quận là thực hiện các chương trình mục
tiêu quốc gia về y tế, phòng chống dịch bệnh là chủ yếu nên nguồn thu của
các đơn vị y tế rất hạn chế.
36
2.2. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO
CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ QUẬN HOÀN KIẾM THỜI GIAN QUA
2.2.1. Đánh giá chung về thực hiện quản lý quỹ Ngân sách Nhà nước
cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở địa bàn quận Hoàn Kiếm
2.2.1.1. Tình hình chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế so với các
sự nghiệp khác
Phòng Tài chính – Vật giá quận Hoàn Kiếm là cấp Ngân sách trung
gian trong hệ thống Ngân sách Nhà nước, đơn vị thực hiện quản lý về thu –
chi Ngân sách Nhà nước trong mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội...;
trong đó có sự nghiệp y tế. Quá trình quản lý và thực hiện các nhiệm vụ chi
cho sự nghiệp y tế của quận, Phòng Tài chính – Vật giá quận Hoàn Kiếm
đóng vai trò là đơn vị tiếp nhận, huy động và cơ cấu một cách hợp lý các
nguồn chi từ Ngân sách thành phố phân bổ; huy động Ngân sách quận,
phường và phần thu sự nghiệp để lại đơn vị. Cơ cấu đó được thể hiện trong
bảng 1, cụ thể như sau:
Do các hoạt động y tế phục vụ trên địa bàn quận là các hoạt động
chăm sóc sức khoẻ ban đầu ( mang tính chất phòng ngừa là chính ); chủ
yếu thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, phòng chống bệnh dịch
lây lan, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, tổ chức cai nghiện,... nên tỷ
trọng của nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế thấp hơn so
với các sự nghiệp khác cả về số tuyệt đối và số tương đối.
Mặc dù, sự nghiệp y tế chiếm từ 6-8% tổng số chi các sự nghiệp, tỷ
trọng này thấp hơn so với các sự nghiệp khác ( sự nghiệp giáo dục - đào tạo
chiếm hơn 50%; quản lý hành chính, Đảng, đoàn thể chiếm hơn 15%...);
nhưng do tính chất quan trọng của các đơn vị y tế cơ sở nên cơ cấu chi cho
sự nghiệp y tế bao quát được hầu hết các nhiệm vụ được giao và đảm bảo
việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân thông qua tuyến y tế cơ sở.
37
Tỷ
tr
ọn
g
(%
) 6,
3
4,
9
58
,7
24
,6
5,
5
10
0
N
ăm
2
00
2
Số
th
ực
hi
ện
52
29
40
19
48
57
6
20
39
9
45
93
82
81
6
Tỷ
trọ
ng
(%
) 7,
4
5,
0
54
,7
26
,3
6,
6
10
0
N
ăm
2
00
1
Số
th
ực
hi
ện
47
41
31
55
34
86
3
16
76
1
42
03
63
72
3
Tỷ
trọ
ng
(%
) 7,
5
10
,8
58
,9
15
,6
7,
2
10
0
N
ăm
2
00
0
Số
th
ực
hi
ện
33
44
48
36
26
33
6
69
87
31
96
44
69
9
C
hỉ
ti
êu
1.
C
hi
sự
n
gh
iệ
p
y
tế
2.
C
hi
sự
n
gh
iệ
p
ki
nh
tế
3.
C
hi
sự
n
gh
iệ
p
gi
áo
d
ục
-
đà
o
tạ
o
4.
C
hi
q
uả
n
lý
h
àn
h
ch
ín
h,
Đ
ản
g,
đ
oà
n
th
ể
5.
C
hi
a
n
ni
nh
- q
uố
c
ph
òn
g
Tổ
ng
số
B
ản
g
1:
C
hi
N
gâ
n
sá
ch
N
hà
n
ướ
c
ch
o
sự
n
gh
iệ
p
y
tế
so
v
ới
m
ột
số
h
oạ
t đ
ộn
g
kh
ác
tr
ên
đ
ịa
b
àn
q
uậ
n
H
oà
n
K
iế
m
g
ia
i đ
oạ
n
(2
00
0-
20
02
),
tro
ng
đ
ó
ba
o
gồ
m
c
hi
N
gâ
n
sá
ch
th
àn
h
ph
ố;
N
gâ
n
sá
ch
q
uậ
n,
p
hư
ờn
g;
c
hi
từ
n
gu
ồn
đ
ể
lạ
i đ
ơn
v
ị
<
đơ
n
vị
: t
riệ
u
đồ
ng
>
N
gu
ồn
: B
áo
c
áo
q
uy
ết
to
án
N
gâ
n
sá
ch
N
hà
n
ướ
c
nă
m
2
00
0-
20
02
c
ủa
P
hò
ng
T
ài
C
hí
nh
-
V
ật
g
iá
qu
ận
H
oà
n
K
iế
m
38
Ngoài ra, chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế quận Hoàn
Kiếm vẫn được gia tăng ( năm sau cao hơn năm trước ) nhằm cải thiện và
phát triển cho các hoạt động y tế phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế –
xã hội chung toàn quận.
2.2.1.2 Thực trạng quản lý nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho sự
nghiệp y tế địa bàn quận Hoàn Kiếm trong những năm qua
Những nét chung về chi Ngân sách Nhà nước cho sự
nghiệp y tế
Để quản lý nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế,
Phòng Tài chính – Vật giá quận Hoàn Kiếm triệt để quản lý theo dự toán:
hàng năm trên cơ sơ số dự toán duyệt đầu năm, phòng trực tiếp phân bổ dự
toán được Sở Tài chính – Vật giá thành phố Hà Nội và UBND quận giao
cho các đơn vị y tế trên địa bàn cùng với sự giúp đỡ của Trung tâm y tế
quận:
Hình 1: Tình hình thực hiện chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế
so với dự toán các năm 2000,2001,2002.
Qua biểu đồ trên, cho thấy việc thực hiện quản lý chi Ngân sách Nhà
nước cho sự nghiệp y tế là rất sát với dự toán hàng năm, tỷ lệ thực hiện
thường trên 90% so với dự toán được giao. Tuy nhiên, phần lớn số thực chi
Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế nằm trong nguồn chủ yếu từ Ngân
sách Nhà nước và từ thu sự nghiệp của đơn vị, bởi sự nghiệp y tế nằm trong
khuôn khổ các chương trình mục tiêu quốc gia và mục đích tồn tại của y tế
Số
tiền
Năm
39
tuyến cơ sở là chủ trương, chính sách thực hiện chăm sóc sức khoẻ ban đầu
cho nhân dân, phòng chống dịch bệnh lây lan.
Chi tiết các nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến
cơ sở địa bàn quận Hoàn Kiếm được cụ thể ở bảng 2:
Tỷ
lệ
so
vớ
i n
ăm
20
01
(%
)
11
0,
3
12
6,
2
74
,6
11
0,
3
Tỷ
trọ
ng
(%
)
78
,7
16
,9
4,
4
10
0
N
ăm
2
00
2
Số
ti
ền
41
16
88
1
23
2
52
29
Tỷ
lệ
so
vớ
i n
ăm
20
00
(%
)
14
4,
5
11
9,
3
17
6,
7
14
1,
8
Tỷ
tr
ọn
g
(%
) 78
,7
14
,7
6,
6
10
0
N
ăm
2
00
1
Số
ti
ền
37
32
69
8
31
1
47
41
Tỷ
trọ
ng
(%
)
77
,2
17
,5
5,
3
10
0
N
ăm
2
00
0
Số
ti
ền
25
83
58
5
17
6
33
44
B
ản
g
2:
C
ơ
cấ
u
cá
c
ng
uồ
n
th
ực
c
hi
N
gâ
n
sá
ch
N
hà
n
ướ
c
ch
o
sự
n
gh
iệ
p
y
tế
tr
ên
đ
ịa
b
àn
q
uậ
n
H
oà
n
K
iế
m
gi
ai
đ
oạ
n
(2
00
0-
20
02
)
<
đơ
n
vị
: t
riệ
u
đồ
ng
>
N
gu
ồn
: B
áo
c
áo
q
uy
ết
to
án
N
gâ
n
sá
ch
N
hà
n
ướ
c
nă
m
2
00
0-
20
02
c
ủa
P
hò
ng
T
ài
C
hí
nh
-
V
ật
g
iá
qu
ận
H
oà
n
K
iế
m
40
C
hỉ
ti
êu
1.
C
hi
từ
N
gâ
n
sá
ch
th
àn
h
ph
ố
2.
C
hi
N
gâ
n
sá
ch
q
uậ
n,
p
hư
ờn
g
3.
C
hi
từ
n
gu
ồn
th
u
để
lạ
i đ
ơn
v
ị
Tổ
ng
số
Trong các nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho các hoạt động y tế
trên địa bàn quận Hoàn Kiếm thì nguồn chi từ Ngân sách thành phố luôn
chiếm tỷ trọng lớn nhất: năm 2000 chiếm 77,2%; năm 2001 chiếm 78,7%;
năm 2002 chiếm 78,7%; điều này chứng tỏ sự quan trọng của từ Ngân sách
thành phố chi cho sự nghiệp y tế quận nhằm thực hiện các nhiệm vụ về
chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân do thành phố và Sở y tế Hà Nội giao hàng
năm. Thứ đến, nguồn chi bổ sung từ Ngân sách quận và Ngân sách phường
cũng góp phần không nhỏ cho chi tiêu của sự nghiệp y tế tuyến cơ sở: năm
2000 chiếm 17,5%; năm 2001 chiếm 14,7%; năm 2002 chiếm 16,9%; trong
đó Ngân sách quận hỗ trợ một phần chi thường xuyên và Ngân sách
phường chủ yếu hỗ trợ qua các khoản chi cho hoạt động phòng dịch trên
địa bàn các phường.
Thực hiện chủ trương chung về quản lý Ngân sách quận và phát triển
nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế nói riêng cũng như phát
triển toàn bộ nguồn chi nói chung. Các nguồn chi từ Ngân sách thành phố (
năm 2000 là nguồn chi kinh phí ủy quyền của thành phố, từ năm 2001 đến
nay là chi kinh phí chương trình mục tiêu của thành phố); chi từ Ngân sách
quận và chi từ Ngân sách phường luôn được tăng lên hàng năm cho phù
hợp với yêu cầu phát triển sự nghiệp y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm:
+ Chi Ngân sách thành phố: năm 2000 là 2583 triệu đồng, năm 2001 là
3732 triệu đồng ( tăng 1149 triệu đồng so với năm 2000 hay tăng 44,5% )
41
và năm 2002 là 4116 triệu đồng ( tăng 384 triệu đồng so với năm 2001 hay
tăng 10,3% ).
+ Chi từ Ngân sách quận và Ngân sách phường: năm 2000 là 585 triệu
đồng, năm 2001 là 698 triệu đồng ( tăng 113 triệu đồng so với năm 2000
hay tăng 19,3% ) và năm 2002 là 881 triệu đồng ( tăng 183 triệu đồng so
với năm 2001 hay tăng 26,2% ).
Sở dĩ, số chi Ngân sách Nhà nước được tăng lên hàng năm như vậy
là do việc quyết định tỷ lệ tăng thêm hàng năm của Chính phủ quy định cho
sự nghiệp y tế cơ sở mà sự nghiệp y tế quận Hoàn Kiếm là một thực tế.
Bên cạnh đó, các nguồn chi Ngân sách Nhà nước cũng bao hàm các
nguồn chi từ nguồn để lại đơn vị: các đơn vị sự nghiệp y tế quận Hoàn
Kiếm hoạt động phục vụ mục tiêu về y tế của quốc gia nên các nguồn thu
để lại đơn vị cũng thuộc vào Ngân sách Nhà nước, bởi đây chính là một
cách chi gián tiếp của Nhà nước thông qua các đơn vị này. Chi từ nguồn
thu để lại đơn vị sự nghiệp y tế quận Hoàn Kiếm thường không cao: năm
2000 là 176 triệu đồng, năm 2001 là 311 triệu đồng và năm 2002 là 232
triệu đồng; là do hầu hết các trạm y tế phường không có nguồn thu; mà
nguồn thu từ viện phí chủ yếu nhỏ từ một trạm đa khoa, một nhà hộ sinh (
40 giường), và cho thuê địa điểm ( khoảng trên 60 triệu đồng ).
Quy trình quản lý Ngân sách Nhà nước chi cho sự nghiệp y tế
Phòng Tài chính – Vật giá quận Hoàn Kiếm theo dự toán. Để việc quản lý
các nguồn chi Ngân sách Nhà nước như đã nêu trên đạt kết quả tốt, Phòng
Tài chính – Vật giá quận Hoàn Kiếm đã triệt để phương thức quản lý Ngân
sách Nhà nước theo dự toán, cụ thể như sau:
n Hướng dẫn lập dự toán Ngân sách Nhà nước chi cho sự nghiệp y
tế trên địa bàn quận
Hàng năm vào tháng đầu của qúi III, các đơn vị sự nghiệp y tế của
quận: 18 trạm y tế phường, nhà hộ sinh, trạm cai nghiện, trạm phòng dịch,
42
Ủy ban dân số gia đình và trẻ em, trạm đa khoa... căn cứ vào tình hình thực
hiện 6 tháng đầu năm, ước thực hiện năm báo cáo và định mức do UBND
thành phố Hà Nội quy định để lập dự toán thu – chi Ngân sách Nhà nước,
cụ thể theo định mức đang được Phòng Tài chính – Vật giá quận Hoàn
Kiếm áp dụng trong bảng 3:
Đ
ịn
h
m
ức
c
hi
N
gâ
n
sá
ch
N
hà
n
ướ
c
1.
50
0.
00
0
đồ
ng
/x
ã,
th
ị t
rấ
n/
th
án
g
50
0.
00
0/
xã
, t
hị
tr
ấn
/th
án
g
20
0.
00
0
đồ
ng
/n
gư
ời
/th
án
g
80
0.
00
0
đồ
ng
/n
gư
ời
/th
án
g
10
,2
tr
iệ
u
đồ
n g
/b
iê
n
ch
ế/
nă
m
9,
6
tri
ệu
đ
ồn
g/
bi
ên
c
hế
/n
ăm
13
tr
iệ
u
đồ
ng
/g
iư
ờn
g
bệ
nh
/n
ăm
3.
00
0.
00
0
đồ
ng
/g
iư
ờn
g
bệ
nh
/n
ăm
10
.0
00
.0
00
đ
ồn
g/
gi
ườ
ng
b
ện
h/
nă
m
7.
80
0
đồ
ng
/n
gư
ời
d
ân
/n
ăm
B
ản
g
3:
Đ
ịn
h
m
ức
c
hi
sự
n
gh
iệ
p
y
tế
tu
yế
n
cơ
sở
àn
h
th
eo
q
uy
ết
đ
ịn
h
số
7
5/
19
98
/Q
Đ
-U
B
n
gà
y
26
/1
2/
19
98
c
ủa
U
B
N
D
th
àn
h
ph
ố
H
à
N
ội
)
43
N
ội
d
un
g
đị
nh
m
ức
I/
Đ
ịn
h
m
ức
c
hi
th
ư
ờn
g
xu
yê
n
củ
a
tr
ạm
y
tế
x
ã,
p
hư
ờn
g,
th
ị t
rấ
n:
( k
hô
ng
k
ể
lư
ơn
g,
p
hụ
c
ấp
lư
ơn
g
và
c
ác
k
ho
ản
đ
ón
g
gó
p)
1.
X
ã,
th
ị t
rấ
n:
Tr
on
g
đó
:
+
Tự
th
u:
+
N
gâ
n
sá
ch
N
hà
n
ướ
c
hỗ
tr
ợ:
2.
P
hư
ờn
g:
Tr
on
g
đó
:
+
T
ự
th
u:
+
N
gâ
n
sá
ch
N
hà
n
ướ
c
hỗ
tr
ợ:
II
/ Đ
ịn
h
m
ức
c
hi
c
ho
p
hò
ng
k
há
m
k
hu
v
ực
1.
Ph
òn
g
kh
ám
k
hu
v
ực
n
ội
th
àn
h:
2.
P
hò
ng
k
há
m
k
hu
v
ực
n
go
ại
th
àn
h:
II
I/
Đ
ịn
h
m
ức
c
ho
n
hà
h
ộ
si
nh
q
uậ
n
Tr
on
g
đó
:
+
T
ự
th
u:
+
N
gâ
n
sá
ch
N
hà
n
ướ
c
hỗ
tr
ợ:
IV
/ Đ
ịn
h
m
ức
c
hi
c
ho
p
hò
ng
b
ện
h:
44
Dựa vào định mức nêu trên, nhiệm vụ đề ra cho năm sau và số kiểm
tra của Phòng Tài chính – Vật giá giao, cùng với các văn bản pháp quy về
quản lý Ngân sách Nhà nước; các đơn vị sự nghiệp y tế lập nên dự toán
của mình gửi Trung tâm y tế quận tổng hợp để gửi Phòng Tài chính – Vật
giá quận. Trong qúa trình lập dự toán chi Ngân sách Nhà nước cho sự
nghiệp y tế trên địa bàn quận, Phòng Tài chính – Vật giá đã thực hiện các
nhiệm vụ sau:
+ Ước tính số thu – chi của từng đơn vị sự nghiệp y tế trên địa bàn trong
năm kế hoạch và thông báo số đó cho các đơn vị có định hướng lập dự
toán.
+ Tổng hợp dự toán thu – chi Ngân sách Nhà nước ( gồm cả ghi thu - ghi
chi tại đơn vị ) của các đơn vị sự nghiệp y tế với thu chi Ngân sách quận để
trình Sở Tài chính – Vật giá thành phố Hà Nội cân đối và phê duyệt.
+ Sau khi được Sở Tài chính – Vật giá thành phố Hà Nội ấn định số giao
dự toán, Phòng Tài chính – Vật giá quận Hoàn Kiếm trình phân bổ dự toán
năm để UBND quận ra quyết định giao dự toán thu – chi cho từng đơn vị
sự nghiệp y tế của quận.
+ Thông báo dự toán chi Ngân sách Nhà nước ( đến từng mục chi ) đã được
phân bổ cho các đơn vị đến Kho bạc nhà nước quận thực hiện việc kiểm
soát chi và tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp y tế quận chủ động thực
hiện chi tiêu.
Quá trình lập và phân bổ dự toán thu – chi Ngân sách Nhà nước cho
các đơn vị sự nghiệp y tế quận Hoàn Kiếm phải được các đơn vị, Phòng Tài
chính – Vật giá thống nhất thực hiện chấp hành Ngân sách Nhà nước trước
đầu qúi II năm Ngân sách nhằm đảm bảo tiến độ thu – chi một cách kịp
thời.
45
o Quản lý và chấp hành chi Ngân sách Nhà nước đối với các đơn vị sự
nghiệp y tế quận Hoàn Kiếm
Từ khi thực hiện luật Ngân sách Nhà nước ( năm 1997 ) và các văn
bản hướng dẫn quản lý tài chính Ngân sách Nhà nước cho các đơn vị sự
nghiệp có thu cũng như các đơn vị sự nghiệp y tế, công tác quản lý và chấp
hành chi Ngân sách Nhà nước đối với sự nghiệp y tế của quận Hoàn Kiếm
dần đi vào nề nếp và đúng định hướng của Nhà nước. Các khoản chi Ngân
sách Nhà nước đảm bảo chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước và gắn với
nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ nhân dân trên địa bàn quận; đã được các đơn
vị thực hiện tương đối sát thực tế; đúng hướng chỉ đạo của HĐND, UBND
quận và theo quản lý trực tiếp của Phòng Tài chính – Vật giá quận.
Hơn nữa, trong quá trình thực hiện quản lý Ngân sách Nhà nước,
Phòng Tài chính – Vật giá quận luôn thực hiện chính sách tiết kiệm chi: giữ
lại 10% tiết kiệm, chỉ phân bổ 90% dự toán năm cho các đơn vị sự nghiệp y
tế, mặc dù số chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế chiếm tỷ trọng
nhỏ trong tổng số chi Ngân sách quận.
Ngoài ra, mối quan hệ giữa Phòng Tài chính – Vật giá với Kho bạc
nhà nước quận, Sở Tài chính – Vật giá thành phố Hà Nội, HĐND, và
UBND quận được duy trì tốt ( do xoá bỏ được cơ chế xin – cho, thay bằng
tuân thủ theo các quy định của luật Ngân sách Nhà nước hiện hành) và mọi
hoạt động trong sự nghiệp y tế quận diễn ra đúng tiến độ và đạt hiệu quả
cao.
pCông tác quyết toán chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế trên địa
bàn quận
Hàng năm các đơn vị sự nghiệp y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm
đều thực hiện tốt việc lập báo cáo thu – chi của đơn vị mình đúng biểu mẫu
quy định, đúng thời hạn cho nên tạo điều kiện cho Phòng Tài chính – Vật
46
Sở Tài chính - Vật giá
thành phố Hà Nội
Kho bạc nhà nước
thành phố Hà Nội
Phòng Tài chính - Vật giá
quận Hoàn Kiếm
Kho bạc nhà nước
quận Hoàn Kiếm
Đơn vị sự nghiệp y tế
Lệnh
chi
Lệnh chi
Hạn mức
giá quận thực hiện quyết toán với Sở Tài chính – Vật giá thành phố Hà Nội
và Kho bạc nhà nước quận được thuận lợi, đúng tiến độ.
Bên cạnh đó, công tác thanh tra, kiểm tra quyết toán và công khai
Ngân sách Nhà nước được Phòng Tài chính – Vật giá quận thực hiện đầy
đủ đối với các đơn vị sự nghiệp y tế nên tránh được những mâu thuẫn, sai
lệch trong quá trình duyệt quyết toán hàng năm.
Các hình thức cấp phát các nguồn chi Ngân sách Nhà nước
cho các đơn vị sự nghiệp y tế của quận Hoàn Kiếm
Hiện nay, việc cấp phát Ngân sách Nhà nước cho các đơn vị sự
nghiệp y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm trực tiếp do Phòng Tài chính –
Vật giá quận cấp phát, nguồn kinh phí chương trình mục tiêu của thành phố
( trước là nguồn kinh phí ủy quyền của thành phố được cấp phát theo hạn
mức kinh phí về Kho bạc nhà nước quận thực hiện chi tiêu cho các đơn vị )
hiện nay được Sở Tài chính – Vật giá cấp phát theo lệnh chi thuộc về Ngân
sách quận tại Kho bạc nhà nước quận và Phòng Tài chính – Vật giá quận
cấp phát hạn mức cho các đơn vị chi
tiêu, cụ thể theo mô hình sau:
47
Hình 2: Sơ đồ cấp phát kinh phí chương trình mục tiêu của thành
phố
Về nội dung tiền tệ thì kinh phí ủy quyền của thành phố không khác
gì so với kinh phí chương trình mục tiêu của thành phố không khác gì so
với kinh phí chương trình mục tiêu của thành phố nhưng giữa hai nguồn
kinh phí này lại có sự khác nhau về hình thức cấp và kinh phí chương trình
mục tiêu đạt có hình thức cấp phát hợp lý hơn:
+ Đối với kinh phí ủy quyền ( trước năm 2001 ) được cấp phát bằng
hình thức hạn mức, Phòng Tài chính – Vật giá được Sở Tài chính – Vật giá
ủy quyền quản lý và cấp phát cho các đơn vị sự nghiệp y tế; còn sau khi
thực hiện quyết toán kinh phí ủy quyền thuộc về Ngân sách thành phố.
+ Đối với kinh phí chương trình mục tiêu, hình thức cấp phát được
cụ thể như sơ đồ trên: kinh phí được cấp phát trực tiếp hẳn về Ngân sách
quận theo lệnh chi tiền và Phòng Tài chính – Vật giá quận cấp hạn mức cho
các đơn vị sự nghiệp y tế để các đơn vị chi tiêu. Riêng đối với kinh phí hoạt
động thường xuyên thuộc Ngân sách quận ( kinh phí chương trình mục tiêu
đã được nằm trong Ngân sách quận, bổ sung của Ngân sách quận, phường)
cấp cho các đơn vị sự nghiệp y tế vào mục 134 “ Chi khác ” của Mục lục
Ngân sách Nhà nước khi đơn vị rút tiền từ Kho bạc nhà nước quận về chi
tiêu ( trước khi có Nghị định số 10/2002/NĐ-CP các đơn vị sự nghiệp y tế
phải rút tiền đúng theo các mục các khoản chi trong dự toán ). Điều này,
giúp cho các đơn vị sự nghiệp y tế quận Hoàn Kiếm chủ động hơn trong chi
tiêu, không gây nên tình trạng thừa thiếu nguồn chi mà vẫn đảm bảo quyết
toán các khoản chi đúng theo các quy định hiện hành. Cuối năm, kinh phí
48
chương trình mục tiêu của thành phố được quyết toán thuộc về Ngân sách
quận.
Còn các nguồn thu sự nghiệp của các đơn vị y tế quận được để lại bổ
sung chi tiêu tại đơn vị, đây được coi là khoản chi gián tiếp của Nhà nước
và cũng được quyết toán đầy đủ trong quyết toán chi Ngân sách quận và
cuối niên độ kế toán.
49
2.2.1.3. Phân tích tình hình sử dụng Ngân sách Nhà nước chi cho sự
nghiệp y tế quận Hoàn Kiếm theo cơ cấu chi tiêu
Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như
của HĐND, UBND thành phố Hà Nội và quận Hoàn Kiếm, nguồn Ngân
sách Nhà nước cấp cho sự nghiệp y tế trên địa bàn quận có nhịp độ tăng
trưởng dương hàng năm và ngày càng phục vụ tốt hơn công tác chăm sóc
sức khoẻ cho nhân dân.
Để đáp ứng các yêu cầu thực tế của chi Ngân sách Nhà nước cho sự
nghiệp y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm đạt kết quả cao nên số chi Ngân
sách Nhà nước luôn giữa được nhịp độ tăng trưởng ổn định và ngày càng
tăng lên: năm 2000 có số chi là 3344 triệu đồng; năm 2001 có số chi đạt
4741 triệu đồng ( tăng 1397 triệu đồng hay 41,8% so với năm 2000 ); năm
2002 có số chi là 5229 triệu đồng ( tăng 488 triệu đồng hay 10,3% so với
năm 2001 ).
Xét về tính chất, hình thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp y tế
trên địa bàn quận và để tiện lợi cho quá trình quản lý chi Ngân sách Nhà
nước cho sự nghiệp y tế, cơ cấu chi tiêu Ngân sách Nhà nước được chia ra
làm ba nhóm chính:
+ Chi thường xuyên
+ Chi mua sắm, sửa chữa
+ Chi khác
Cơ cấu các khoản chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế của
quận Hoàn Kiếm được cụ thể qua bảng 4 dưới đây:
50
Tỷ
lệ
so
vớ
i n
ăm
20
01
(%
)
13
3,
0
59
,2
10
,1
11
0,
3
Tỷ
tr
ọn
g
(%
) 77
,9
18
,8
3,
3
10
0
N
ăm
2
00
2
Số
ti
ền
40
75
98
2
17
2
52
29
Tỷ
lệ
so
vớ
i n
ăm
20
00
(%
)
12
4,
7
19
1,
0
94
,4
14
1,
8
Tỷ
tr
ọn
g
(%
) 64
,6
35
,0
0,
4
10
0
N
ăm
2
00
1
Số
ti
ền
30
64
16
60
17
47
41
Tỷ
trọ
ng
(%
)
73
,5
26
,0
0,
5
10
0
N
ăm
2
00
0
Số
ti
ền
24
57
86
9 18
33
44
C
hỉ
ti
êu
1.
C
hi
th
ườ
ng
x
uy
ên
2.
C
hi
m
ua
sắ
m
, s
ửa
c
hữ
a
3.
C
hi
k
há
c
Tổ
ng
số
B
ản
g
4:
C
ơ
cấ
u
ch
i N
gâ
n
sá
ch
N
hà
n
ướ
c
ch
o
sự
n
gh
iệ
p
y
tế
p
hâ
n
bổ
th
eo
n
hó
m
c
hi
tr
ên
đ
ịa
b
àn
q
uậ
n
H
oà
n
K
iế
m
gi
ai
đ
oạ
n
(2
00
0-
20
02
)
<
đơ
n
vị
: t
riệ
u
đồ
ng
>
N
gu
ồn
: B
áo
c
áo
q
uy
ết
to
án
N
gâ
n
sá
ch
N
hà
n
ướ
c
nă
m
2
00
0-
20
02
c
ủa
P
hò
ng
T
ài
C
hí
nh
-
V
ật
g
iá
qu
ận
H
oà
n
K
iế
m
51
Sự gia tăng của chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế quận
Hoàn Kiếm cũng thể hiện rất rõ trong các nhóm chi:
- Chi thường xuyên cho sự nghiệp y tế trên địa bàn quận Hoàn
Kiếm thường chiếm từ 60-70% trong tổng số chi Ngân sách Nhà nước là
do đặc điểm chung của y tế tuyến cơ sở: các khoản chi thường xuyên đảm
bảo chi cho mua sắm thuốc men; trả lương cho cán bộ, công nhân viên y tế
và quản lý về y tế... nhằm phục vụ công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu mà
tuyến y tế cơ sở đảm nhận. Cùng với sự gia tăng chung của chi Ngân sách
Nhà nước cho sự nghiệp y tế thì nhóm chi thường xuyên cũng tăng lên:
năm 2000 số chi thường xuyên là 2457 triệu đồng; năm 2001 chi thường
xuyên là 3064 triệu đồng ( tăng 607 triệu đồng hay tăng 24,7% so với năm
2000 ); còn năm 2002 chi thường xuyên đạt 4075 triệu đồng ( tăng 1011
triệu đồng hay tăng 33,0% so với năm 2001 ).
- Chi mua sắm, sửa chữa trang thiết bị phục vụ các hoạt động y
tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm cũng thường xuyên được chú trọng (
khoảng 20% tổng chi Ngân sách Nhà nước ) hàng năm tăng đáng kể: năm
2001 chi cho mua sắm, sửa chữa là 1660 triệu đồng ( tăng 91% so với năm
2000 ); còn năm 2002 mức chi cho mua sắm, sửa chữa là 982 triệu đồng (
do số quận giao cho mua sắm là 970 triệu đồng mới chỉ thực hiện được
259,2 triệu đồng, đạt 26,7% dự toán).
- Chi khác: nhóm chi khác của các đơn vị sự nghiệp y tế trên địa
bàn quận Hoàn Kiếm chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng số chi (
thường nhỏ hơn 4% ) do một số chi phí phát sinh trong năm được đưa vào
mục này như: chi tiếp khách và các khoản chi không thuộc phạm vi các
khoản chi trên.
Để quản lý các nhóm chi trong sự nghiệp y tế trên địa bàn quận Hoàn
Kiếm, việc phân chia chi tiết các nhóm chi là hết sức cần thiết nhằm đạt
được hiệu quả cao trong quản lý chi theo nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả:
52
* Về chi thường xuyên ( được cụ thể qua bảng 5 dưới đây ):
Tỷ
lệ
so
vớ
i n
ăm
20
01
(%
)
13
2,
0
26
6,
8
68
,7
13
3,
0
Tỷ
tr
ọn
g
(%
) 60
,9
25
,8
13
,3
10
0
N
ăm
2
00
2
Số
ti
ền
24
82
10
51
54
2
40
75
Tỷ
lệ
so
vớ
i n
ăm
20
00
(%
)
12
4,
7
85
,7
16
1,
7
12
4,
7
Tỷ
tr
ọn
g
(%
) 61
,4
12
,8
25
,8
10
0
N
ăm
2
00
1
Số
ti
ền
18
81
39
4
78
9
30
64
Tỷ
trọ
ng
(%
)
61
,4
18
,7
19
,9
10
0
N
ăm
2
00
0
Số
ti
ền
15
09
46
0
48
8
24
57
C
hỉ
ti
êu
1.
C
hi
c
ho
c
on
n
gư
ời
2.
C
hi
c
ho
n
gh
iệ
p
vụ
c
hu
yê
n
m
ôn
3.
C
hi
c
ho
q
uả
n
lý
h
àn
h
ch
ín
h
Tổ
ng
số
B
ản
g
5:
T
ìn
h
hì
nh
sử
d
ụn
g
ki
nh
p
hí
th
ườ
ng
x
uy
ên
c
ho
sự
n
gh
iệ
p
y
tế
tr
ên
đ
ịa
b
àn
q
uậ
n
H
oà
n
K
iế
m
gi
ai
đ
oạ
n
(2
00
0-
20
02
)
<
đơ
n
vị
: t
riệ
u
đồ
ng
>
N
gu
ồn
: B
áo
c
áo
q
uy
ết
to
án
N
gâ
n
sá
ch
N
hà
n
ướ
c
nă
m
2
00
0-
20
02
c
ủa
P
hò
ng
T
ài
C
hí
nh
-
V
ật
g
iá
qu
ận
H
oà
n
K
iế
m
53
Chi thường xuyên Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế quận
Hoàn Kiếm chủ yếu tập trung vào các đối tượng cụ thể sau:
+ Chi cho con người
+ Chi cho nghiệp vụ chuyên môn
+ Chi cho quản lý hành chính
- Chi cho con người trong sự nghiệp y tế của quận Hoàn Kiếm
thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số chi thường xuyên ( trên 60%
tổng số chi thường xuyên ) do số biên chế tương đối lớn của các đơn vị y tế
hay các quy định khác về chế độ tiền lương, tiền công, phụ cấp đối với đối
tượng thụ hưởng ( mức tiền lương tối thiểu tăng từ 180.000 đồng/tháng lên
210.000 đồng/tháng từ năm 2001; tăng từ 210.000 đồng/ tháng lên 290.000
đồng/tháng vào năm 2003).
- Phần còn lại là chi cho nghiệp vụ chuyên môn và chi cho quản lý
hành chính: hai phần chi này tương đối đồng đều nhau. Sở dĩ như vậy là do
việc chi tiêu cho hai phần này có tính tương đồng nhau, tăng của nguồn này
là giảm tương đối của nguồn kia tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của các
đơn vị.
* Về chi mua sắm, sửa chữa:
Hàng năm, các đơn vị sự nghiệp y tế quận Hoàn Kiếm luôn dành một
phần Ngân sách Nhà nước đầu tư cho mua sắm Tài sản cố định, trang thiết
bị đặc thù của ngành y tế và chi cho sửa chữa, nâng cấp các thiết bị y tế
hiện có. Đây là một khoản chi không thể thiếu được đối với sự nghiệp y tế
quận Hoàn Kiếm, cụ thể cơ cấu ở bảng 6:
54
Tỷ
lệ
so
vớ
i n
ăm
20
01
(%
) 30
,1
10
9,
2
59
,2
Tỷ
tr
ọn
g
(%
) 32
,2
67
,8
10
0
N
ăm
2
00
2
Số
ti
ền
31
6
66
6
98
2
Tỷ
lệ
so
vớ
i n
ăm
20
00
(%
)
25
8,
0
13
2,
0
19
1,
0
Tỷ
tr
ọn
g
(%
) 63
,3
36
,7
10
0
N
ăm
2
00
1
Số
ti
ền
10
50
61
0
16
60
Tỷ
trọ
ng
(%
)
46
,8
53
,2
10
0
N
ăm
2
00
0
Số
ti
ền
40
7
46
2
86
9
C
hỉ
ti
êu
1.
C
hi
c
ho
m
ua
sắ
m
2.
C
hi
c
ho
sử
a
ch
ữa
Tổ
ng
số
B
ản
g
6:
T
ìn
h
hì
nh
sử
d
ụn
g
ki
nh
p
hí
m
ua
sắ
m
, s
ửa
c
hữ
a
ch
o
sự
n
gh
iệ
p
y
tế
tr
ên
đ
ịa
b
àn
q
uậ
n
H
oà
n
K
iế
m
gi
ai
đ
oạ
n
(2
00
0-
20
02
)
<
đơ
n
vị
: t
riệ
u
đồ
ng
>
N
gu
ồn
: B
áo
c
áo
q
uy
ết
to
án
N
gâ
n
sá
ch
N
hà
n
ướ
c
nă
m
2
00
0-
20
02
c
ủa
P
hò
ng
T
ài
C
hí
nh
-
V
ật
g
iá
qu
ận
H
oà
n
K
iế
m
55
Tuỳ từng yêu cầu về trang thiết bị mới hàng năm hay nhiệm vụ phải
sửa chữa, nâng cấp mà cơ cấu nguồn chi cho mua sắm, sửa chữa thay đổi
tương ứng: năm 2001 do chủ trương của thành phố đầu tư vào trang thiết bị
y tế quận Hoàn Kiếm nên số chi cho mua sắm chiếm tỷ trọng cao ( chiếm
63,3% trong tổng số chi cho mua sắm, sửa chữa ); còn năm 2002 tuy chưa
thực hiện mua sắm đạt kế hoạch quận giao ( mới chỉ đạt 26,7% kế hoạch )
nhưng số chi cho sửa chữa nâng cấp các thiết bị y tế, nhà cửa cũng chiếm
tỷ trọng đáng kể ( 67,8% số quyết toán chi cho mua sắm sửa chữa).
Qua quá trình quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế
trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, phòng Tài chính - Vật giá quận đã quản lý
chi tương đối sát với dự toán được giao, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng trong
chi tiêu cho sự nghiệp y tế và kịp thời chi tiêu cho các nhiệm vụ về chăm
sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh và phòng dịch đề ra từng thời kỳ. Hơn nữa,
các khâu của quản lý chi Ngân sách Nhà nước cũng được Phòng Tài chính
- Vật giá quận quản lý chặt chẽ cùng với sự phối hợp của các ban ngành
liên quan đảm bảo chi đúng, chi đủ nên hầu như không có đơn vị nào phải
xuất toán. Công tác quản lý thu - chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y
tế quận Hoàn Kiếm đã từng bước phát triển và ổn định; mọi hoạt động
chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh và phòng dịch luôn được củng cố, đi
vào nề nếp đảm bảo đúng định hướng của Đảng, Nhà nước và các cấp đề
ra.
2.2.1.4. Tác động của quản lý Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế
đến khuyến khích xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận Hoàn
Kiếm
Những kết quả đạt được ở trên về quản lý chi Ngân sách Nhà nước
cho sự nghiệp y tế của quận Hoàn Kiếm đã góp phần không nhỏ tới khuyến
khích xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận.
Các khoản chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế của quận
Hoàn Kiếm luôn đóng vai trò chủ đạo, bao trùm lên mọi hoạt động y tế
56
diễn ra trên địa bàn quận; theo đó sẽ khuyến khích sự tham gia của nhiều
chủ thể vào các hoạt động y tế. Chi Ngân sách Nhà nước tạo một nền tảng
vững chắc cho việc phát triển các hình thức cơ sở y tế ngoài công lập ( đó
là việc thành lập các phòng khám tư nhân hay bán công..)
Bên cạnh đó, các đơn vị sự nghiệp y tế của quận đã dần có nguồn thu
( trạm đa khoa, nhà hộ sinh..) đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường
xuyên, tạo điều kiện tự chủ nguồn tài chính trong chi tiêu phục vụ các hoạt
động nghiệp vụ của mình.
Quá trình thực hiện xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận
Hoàn Kiếm còn được thể hiện bằng cách phát triển rộng rãi các cơ sở y tế
tới tận các phường ( 18 phường đều đã có trạm y tế ) nhằm chăm sóc sức
khoẻ một cách sâu rộng trong quần chúng nhân dân và thuận tiện cho việc
tuyên truyền các chương trình y tế quốc gia cho mọi tầng lớp dân cư. Để
mọi người dân được chăm sóc sức khỏe ban đầu với chi phí thấp nhất, các
hoạt động khám chữa bệnh bảo hiểm y tế dần được quận thực hiện.
Do vậy, xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm
đã dần đi vào phương hướng hoạt động của các đơn vị sự nghiệp y tế quận,
nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân. Các chương
trình y tế đã có được sự đồng tình ủng hộ và thực hiện bởi số đông các tầng
lớp dân cư.
2.2.2. Thuận lợi và khó khăn cho quá trình thực hiện chi Ngân sách
Nhà nước cho các hoạt động y tế quận Hoàn Kiếm
¾ Những thuận lợi trong thực hiện quản lý chi Ngân sách Nhà nước
cho sự nghiệp y tế
Trong khuôn khổ công tác quản lý chi Ngân sách Nhà nước của
Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm đã đạt được những kết quả khả
quan và tương đối ổn định nhằm phục vụ các yêu cầu về phát triển kinh tế -
xã hội trên địa bàn quận nói chung cũng như thực hiện tốt quản lý chi Ngân
57
sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế quận. Sở dĩ như vậy, do trong quá trình
thực hiện quản lý Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm có được
những thuận lợi nhất định:
Thứ nhất, phòng hoạt động trong khuôn khổ luật Ngân sách Nhà
nước và thường xuyên có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp chính
quyền từ Trung ương đến đến địa phương. Từ khi luật Ngân sách Nhà nước
ra đời ( thực hiện từ năm 1997 ), các hoạt động quản lý chi Ngân sách Nhà
nước cho sự nghiệp y tế của Phòng Tài chính - Vật giá được cụ thể hơn,
định hướng rõ ràng hơn và thống nhất trong các nghiệp vụ được phân cấp
thuộc về phòng.
Thứ hai, bộ máy quản lý Ngân sách Nhà nước của Phòng Tài chính -
Vật giá ngày một kiện toàn hơn ( thực hiện sự phân cấp của Nhà nước cụ
thể bởi Thông tư số 103/1998/TT-BTC ngày 18/07/1998 ). Tổ chức nhân
sự của phòng phù hợp với cấp quản lý Ngân sách Nhà nước trung gian mà
phòng đảm nhiệm, hơn nữa lại thực hiện được tiêu chuẩn hoá biên chế
(không có biên chế dôi dư ); số biên chế của phòng được phân công nhiệm
vụ một cách cụ thể theo từng bộ phận góp phần giải quyết tốt các công tác
quản lý thu - chi Ngân sách Nhà nước ( lập, chấp hành và quyết toán Ngân
sách Nhà nước theo đúng tiến độ, đúng các chuẩn mực do Nhà nước quy
định).
Thứ ba, đội ngũ cán bộ viên chức giàu kinh nghiệm thực tế được
trang bị cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý luận ( 14/15
cán bộ đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành; 1 đồng chí trưởng phòng tốt
nghiệp cao cấp lý luận; 2 đồng chí tốt nghiệp trung cấp lý luận; còn lại
được học tập theo chương trình chuyên viên ). Phòng có một hệ thống
chính trị khá đầy đủ và vững chắc ( 8/15 cán bộ là Đảng viên ). Hơn nữa,
đội ngũ cán bộ thường xuyên được tham gia học tập trong các chương trình
mới phục vụ cho công tác quản lý Ngân sách Nhà nước của thành phố ( học
các chương trình quản lý Ngân sách Nhà nước bằng máy tính; phòng là đơn
58
vị thí điểm triển khai chương trình quản lý Ngân sách Nhà nước bằng máy
tính do Chính phủ Cộng hoà liên bang Đức tài trợ cho Chính phủ Việt
Nam; tham gia lớp triển khai thực hiện luật Ngân sách Nhà nước mới ban
hành bắt đầu thực hiện từ năm 2004 do Sở Tài chính - Vật giá thành phố
Hà Nội tổ chức...).
Thứ tư, trang thiết bị làm việc luôn được cải tiến và trang bị đầy đủ:
phòng có hệ thống máy tính cá nhân ( trang bị máy tính đến từng người ) và
hệ thống mạng máy tính nội bội ngành ( phục vụ cho báo cáo nhanh với
UBND quận và Sở Tài chính - Vật giá thành phố Hà Nội). Thêm vào đó,
điều kiện làm việc ngày càng được đảm bảo: nhà cao tầng có trang bị điều
hoà, trụ sở làm việc thuận lợi cho việc đi lại tới các cơ quan trong địa bàn
quận cũng như của Trung ương.
Ngoài ra, Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm còn có những
thuận lợi khác đem lại cho công tác quản lý thu - chi Ngân sách Nhà nước
như: quận Hoàn Kiếm là một địa bàn có kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị..
phát triển; mức sống dân cư cao, trình độ học vấn dân cư cao, trong quận
có nhiều cơ quan chính quyền của Trung ương...
¾ Những khó khăn gặp phải trong quá trình quản lý chi Ngân sách
Nhà nước cho sự nghiệp y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm:
Tuy đã đạt được những thành tựu rất vững chắc và toàn diện trong
quá trình quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế trên địa bàn
quận Hoàn Kiếm nhưng Phòng Tài chính - Vật giá quận cũng gặp không ít
những khó khăn trong công tác quản lý của mình:
Thứ nhất, chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế qua các năm
có tăng nhưng còn hạn chế gây khó khăn cho phân bổ chi tiêu tại các đơn
vị: chi thường xuyên ( tới 60% chi trả lương cho công nhân viên ) chịu áp
lực của tăng mức lương tối thiểu ( từ 210.000 đồng/ tháng lên 290.000
đồng/ tháng ); chi mua sắm, sửa chữa chưa đáp ứng được nhu cầu hiện đại
hoá ngành y tế, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế chậm được đổi mới và
59
nâng cấp; chi bình quân cho người dân/năm còn thấp ( thấp hơn 10.000
đồng/năm ) nên khó đảm bảo chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân...
Thứ hai, khám chữa bệnh bảo hiểm y tế chưa được triển khai rộng rãi
cho mọi người dân, mới chỉ áp dụng cho một số đối tượng bảo hiểm y tế
bắt buộc và bảo hiểm y tế học sinh. Do đó, khả năng huy động sự đóng góp
kinh phí của người dân vào công tác khám chữa bệnh còn hạn chế, khuyến
khích xã hội hoá các hoạt động y tế diễn ra chậm chạp.
Thứ ba, chất lượng khám chữa bệnh trên địa bàn quận Hoàn Kiếm
chưa cao, chưa thực sự khuyến khích nhân dân khám chữa bệnh tại các
trạm y tế, trạm đa khoa đối với một số bệnh thông thường mà người dân
thường các bệnh viện tuyến trên gây nên tình trạng quá tải ở các bệnh viện
này.
Thứ tư, chế độ phụ cấp, lương cho các cán bộ y tế - nhất là cán bộ y
tế cơ sở ở các trạm y tế phường - còn thấp, nên chưa tạo động lực khuyến
khích được cán bộ yên tâm làm việc ở các đơn vị lâu dài. Bên cạnh đó,
nhiều trạm y tế phường, trạm đa khoa, nhà hộ sinh... còn thiếu cả y tá và
bác sỹ chuyên môn; cùng với trình độ về chuyên môn của các cán bộ y tế
còn thấp chưa được cập nhật các kiến thức y học mới do các chính sách đào
tạo, chính sách ưu đãi và hỗ trợ cán bộ y tế cơ sở chưa thực hiện đầy đủ,
đồng bộ.
Thứ năm, công tác giám sát chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm,
vệ sinh môi trường, và thúc đẩy các chương trình mục tiêu về y tế quốc gia
còn thiếu đồng bộ, kết quả đạt được chưa cao: việc dùng chất hoá học gây
tác động xấu trong chế biến thực phẩm, hoá mỹ phẩm chưa được kiểm soát
chặt chẽ; công tác vệ sinh môi trường chưa được đảm bảo ( nhất là khu vực
các chợ, khu cầu Long Biên ...) và các chương trình mục tiêu về y tế của
quốc gia tuy được triển khai rộng rãi nhưng chưa thực sự có hiệu quả cao,
còn tiềm ẩn nguy cơ mắc một số bệnh như: lao, phong, bướu cổ,
HIV/AIDS, suy dinh dưỡng ở trẻ em...
60
Thứ sáu, đối với công tác quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự
nghiệp y tế còn nhiều bất cập cả với Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn
Kiếm và các đơn vị sự nghiệp y tế:
+ Về công tác lập dự toán: các đơn vị còn mang tư tưởng đối phó với
công tác lập dự toán nên ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dự toán của
Phòng Tài chính - Vật giá quận, dự toán phải bổ sung nhiều lần ( có những
dự toán bổ sung đến cuối năm mới giao được ); do đó các đơn vị thực hiện
chi tiêu thiếu chủ động. Mặt khác, các khoản dự toán thu không bao quát
hết các nguồn thu sự nghiệp của hoạt động y tế, trong khi đó dự toán chi
thường cao hơn tách rời khả năng thu Ngân sách Nhà nước.
+ Về công tác chấp hành chi Ngân sách: việc xây dựng dự toán qúi
các đơn vị còn làm chiếu lệ, do đó thường dẫn đến bị động trong chi tiêu
của các đơn vị không tránh khỏi các đơn vị chi sai mục đích, chưa thực sự
tiết kiệm và hiệu quả.
+ Về công tác kế toán, quyết toán Ngân sách: còn có đơn vị hạch
toán, kế toán chưa chính xác, sai Mục lục Ngân sách Nhà nước các nội
dung chi tiêu dẫn đến việc tổng hợp báo cáo quyết toán của Phòng Tài
chính - Vật giá quận phải điều chỉnh nhiều lần, ảnh hưởng đến công tác
kiểm tra, đối chiếu, cân đối của cấp Ngân sách Nhà nước cấp trên.
2.2.3. Nguyên nhân gây ra những khó khăn trong quá trình thực hiện
quản lý chi Ngân sách Nhà nước
Những khó khăn trong quá trình thực hiện quản lý chi Ngân sách
Nhà nước cho sự nghiệp y tế quận Hoàn Kiếm là do những nguyên nhân
chủ yếu sau:
¾ Nguyên nhân chủ quan ( cả từ phía Phòng Tài chính - Vật giá
quận và các đơn vị sự nghiệp y tế của quận):
Thứ nhất, công tác quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y
tế của Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm chưa sát với các hoạt
61
động thực tế của các đơn vị sự nghiệp y tế, còn thiếu sự gắn kết giữa phòng
với các cấp Trung ương và các cấp cơ sở ( trạm y tế phường, ban tài chính
phường, trung tâm y tế quận...).
Thứ hai, các cán bộ làm công tác kế toán ở các đơn vị, các phường,
trung tâm y tế còn chưa theo kịp sự đổi mới công tác quản lý tài chính
Ngân sách Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Ý thức chấp hành chế độ,
chính sách còn yếu hay chưa nghiêm túc; chưa coi trọng việc quản lý Ngân
sách Nhà nước với phương thức theo dự toán.
Thứ ba, phát triển khoa học công nghệ và ứng dụng tin học trong
công tác quản lý tài chính Ngân sách Nhà nước đối với sự nghiệp y tế chưa
được chú trọng; phần lớn hệ thống mạng máy tính và máy tính của các đơn
vị chưa khai thác một cách triệt để nhất.
Thứ tư, việc phân chia các nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho sự
nghiệp y tế trên địa bàn theo nội dung chi chưa thực sự hợp lý, gây ra tình
trạng lãng phí nguồn chi. Tỷ trọng mua sắm, sửa chữa trang thiết bị y tế,
thiết bị quản lý còn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng chi tiêu.
Thứ năm, công tác y tế dự phòng chưa thực sự được triển khai đồng
bộ trên địa bàn và công tác tuyên truyền, giáo dục sức khỏe chưa phát huy
đúng vai trò của nó.
Thứ sáu, các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế và chất lượng
khám chữa bệnh chưa đạt được những yêu cầu đã đề ra. Chất lượng khám
chữa bệnh trên địa bàn quận do các đơn vị sự nghiệp đảm nhận còn thấp
chưa thu hút được đông đảo nhân dân tới khám và chữa bệnh và phần nào
gây nên sự quá tải cho các bệnh viện tuyến trên.
Thứ bảy, trình độ chuyên môn của các y, bác sỹ phục vụ trong các
đơn vị sự nghiệp y tế còn hạn chế, việc đổi mới công tác khám chữa bệnh
cũng như cập nhật các thông tin y tế chưa thực sự được chú trọng.
62
Thứ tám, các hoạt động khám chữa bệnh còn thiếu đa dạng, chưa đáp
ứng nhu cầu phong phú của người dân và thiếu sự kết hợp giữa khám chữa
bệnh theo phương pháp hiện đại và y dược học cổ truyền.
Thứ chín, nguồn thu động viên từ các đơn vị sự nghiệp y tế trên địa
bàn chưa đảm bảo tự chủ về tài chính cho các đơn vị và cải thiện đời sống
cán bộ phục vụ trong các đơn vị y tế đó.
¾ Nguyên nhân khách quan:
- Do địa bàn quận rộng và phức tạp ( với 18 phường ), nên việc phân
bổ số chi gặp nhiều khó khăn.
- Định mức chi tiêu thấp gây khó khăn cho việc lập dự toán ( định
mức được xây dựng trên cơ sở mức lương tối thiểu 180.000 đồng/tháng )
và các nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế còn thấp.
- Hệ thống các văn bản giữa các ban ngành và Trung ương còn chậm
được đổi mới, chồng chéo gây khó khăn cho quá trình thực hiện.
- Các khuôn khổ pháp lý về y tế tuy chặt chẽ nhưng gây rào cản lớn
cho sự gia nhập của các đối tượng tham gia hoạt động trong lĩnh vực y tế
nên không khuyến khích xã hội hoá các hoạt động y tế phát triển.
- Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng nhanh, sự khác biệt ngày càng
lớn về mức sống trên địa bàn gây khó khăn trong thực hiện các chính sách
đảm bảo về công bằng trong chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho nhân
dân.
Tuy các nguyên nhân chủ quan gây tác động trực tiếp, mạnh mẽ tới
công tác quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế trên địa bàn
quận Hoàn Kiếm nhưng các nguyên nhân khách quan lại một phần gián
tiếp tác động lên các hoạt động y tế trên địa bàn quận. Việc nhận thức đầy
đủ nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra những tồn tại, khó khăn
cho quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế góp phần định
63
hướng hoạt động và đưa ra các giải pháp, kiến nghị kịp thời phù hợp với
thực tế.
64
Chương 3
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ TĂNG CƯỜNG QUẢN
LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VỚI YÊU CẦU XÃ HỘI
HOÁ CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
HOÀN KIẾM
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TRONG THỜI GIAN TỚI
Phát huy những thành tích đã đạt được, nhận thức rõ những tồn tại
cần khắc phục, tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc của ngành, tạo ra
các cân đối giữa phòng bệnh và chữa bệnh, y học hiện đại với cổ truyền,
giữa đầu tư nâng cao chất lượng điều trị bằng kỹ thuật chuyên sâu với giải
quyết vấn đề y tế cơ sở, nhằm làm tốt công tác bảo vệ chăm sóc sức khoẻ
cho cán bộ và nhân dân trong quận trên cơ sở nâng cao chất lượng quản lý
chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp y tế.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ đặt ra, mục tiêu định hướng cơ bản năm
2003 là:
* Mục tiêu chung cho sự nghiệp y tế quận Hoàn Kiếm:
Phấn đấu để mọi người dân được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ ban đầu, được cung cấp các dịch vụ y tế cơ bản. Nâng cao chất lượng
các dịch vụ y tế nhằm tăng cường sức khoẻ nhân dân, giảm tỷ lệ mắc và
chết do bệnh tật. Từng bước thực hiện công bằng, hiệu quả trong chăm sóc
y tế. Mọi người đều được phát triển tốt về thể chất và tinh thần.
* Một số nhiệm vụ trọng tâm năm 2003 và những năm tiếp theo
- Chủ động phòng chống dịch không để bệnh dịch nguy hiểm xảy ra,
nếu có dịch phát sinh phải tổ chức bao vây, dập tắt kịp thời, không để tử
vong do dịch.
65
- Từng bước thực hiện kế hoạch củng cố và hoàn thiện mạng lưới y
tế cơ sở nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ
nhân dân.
- Tiếp tục duy trì đưa Bác sĩ, Kỹ thuật viên giỏi vào công tác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn tốt nghiệp Tăng cường quản lý chi Ngân sách Nhà nước với yêu cầu xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm.pdf