Tài liệu Luận văn Tốt nghiệp Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông): Luận văn tốt nghiệp: “Quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp nhà nước (Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len
Hà Đông)”
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, thành phần kinh tế nhà nước (mà trong đó
doanh nghiệp nhà nước là nòng cốt) giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước thực hiện giao
vốn cho doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước hoàn thành nhiệm vụ
nhà nước giao. Việc Nhà nước giao vốn cho doanh nghiệp nhà nước đặt ra yêu cầu
phải quản lý số vốn đó. Đồng thời, việc thay đổi phương thức quản lý hiện vật
sang phương thức quản lý bằng giá trị là chủ yếu đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa
vai trò của nhà nước trong công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Song
thực tế cho thấy, công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà
nước còn có những bất cập trong chế độ chính sách quản lý, trong tổ chức bộ máy
quản lý và trong tổ chức thực hiện. Điều đó khiến vốn nhà nước tại nhiều doanh
nghiệp ...
77 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1235 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tốt nghiệp Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn tốt nghiệp: “Quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp nhà nước (Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len
Hà Đông)”
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, thành phần kinh tế nhà nước (mà trong đó
doanh nghiệp nhà nước là nòng cốt) giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước thực hiện giao
vốn cho doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước hoàn thành nhiệm vụ
nhà nước giao. Việc Nhà nước giao vốn cho doanh nghiệp nhà nước đặt ra yêu cầu
phải quản lý số vốn đó. Đồng thời, việc thay đổi phương thức quản lý hiện vật
sang phương thức quản lý bằng giá trị là chủ yếu đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa
vai trò của nhà nước trong công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Song
thực tế cho thấy, công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà
nước còn có những bất cập trong chế độ chính sách quản lý, trong tổ chức bộ máy
quản lý và trong tổ chức thực hiện. Điều đó khiến vốn nhà nước tại nhiều doanh
nghiệp đang bị ăn mòn và việc thực hiện vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế
nhà nước bị hạn chế. Do vậy, việc hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại
doanh nghiệp nhà nước trở thành yêu cầu cấp bách hiện nay. Trong điều kiện ngân
sách nhà nước còn hạn hẹp, công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà
nước càng cần được thực hiện tốt hơn.
Trong thời gian thực tập tại Nhà máy len Hà Đông, em đã nghiên cứu tìm hiểu
về công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy và thấy rằng bên cạnh những thành
tựu Nhà máy gặt hái được trong những năm gần đây còn tồn tại nhiều hạn chế
trong công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy (cả khi giao vốn và
trong quá trình sử dụng vốn). Do đó, để thực hiện nhiệm vụ bảo toàn và phát triển
vốn nhà nước giao, công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy cần sớm được
hoàn thiện.
Em chọn đề tài: “Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
(Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông)”
với mục đích qua nghiên cứu phát hiện những hạn chế trong công tác quản lý đối
với phần vốn tại Nhà máy len Hà Đông, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế
đó, từ đó đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại
Nhà máy len Hà Đông.
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Nội dung đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà
máy
len Hà Đông
Chương 3: Đề xuất hoàn thiện công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại
Nhà máy len Hà Đông
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ VỐN NHÀ NƯỚC TẠI
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1. Sự cần thiết quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
1.1.1. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Trên thế giới hiện có rất nhiều quan niệm khác nhau về doanh nghiệp nhà
nước. Có người cho rằng doanh nghiệp nhà nước là các xí nghiệp công làm nhiệm
vụ sự nghiệp (cảnh sát, cứu hoả, y tế, giáo dục...). Khi giảng về doanh nghiệp nhà
nước, giáo sư Michel Rambolt đã đưa ra ba tiêu chí xác định doanh nghiệp nhà
nước: doanh nghiệp nhà nước trực tiếp chịu sự kiểm soát của ai? Sản xuất ra sản
phẩm đem bán hay không đem bán? Hoạt động gắn với lợi ích chung hay lợi ích
cá nhân? Từ đó, ông quan niệm rằng: Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp
chịu sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước, được phân làm hai loại: Loại một là các
xí nghiệp, tổ chức sản xuất những sản phẩm không dùng để bán, nó làm việc vì lợi
ích chung và được gọi là các cơ quan hành chính; Loại hai là các xí nghiệp công
cộng, loại này lại được chia thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất là các doanh nghiệp
sản xuất mặt hàng để bán, trao đổi, hoạt động vì lợi ích chung, sản phẩm của nó
thường là các dịch vụ công cộng. Nhóm hai là các doanh nghiệp hoạt động trong
môi trường phải cạnh tranh, thường hoạt động vì lợi ích riêng nào đó.
Ở nước ta, theo Luật doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày
20/4/1995: doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước thành lập, đầu
tư vốn và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước
có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ
hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh
nghiệp nhà nước có tên gọi, con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt
Nam.
Doanh nghiệp nhà nước mang các đặc điểm chung với các loại hình doanh
nghiệp khác như:
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Thứ nhất, chức năng kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước bao gồm: sản
xuất-cung ứng trao đổi, hợp tác và tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá dịch vụ.
Hai là, doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân. Tư cách pháp nhân của
doanh nghiệp nhà nước là điều kiện cơ bản quyết định sự atồn tại của doanh
nghiệp nhà nước trong hệ thống kinh tế quốc dân. Tư cách pháp nhân của doanh
nghiệp nhà nước đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước phải tự chịu trách nhiệm về quản
lý, về nghĩa vụ tài chính trong việc thanh toán những khoản công nợ khi doanh
nghiệp phá sản hay giải thể. Với tư cách là một pháp nhân độc lập, doanh nghiệp
nhà nước có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh. Tư cách này tạo cho doanh nghiệp nhà nước địa vị
pháp lý để đảm bảo độc lập tự chủ.
Ba là, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước cũng chịu sự
chi phối và tác động của môi trường kinh tế.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nước có thể được phân biệt với các loại hình
doanh nghiệp khác bởi các đặc điểm sau đây:
Một là, doanh nghiệp nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ra
quyết định thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao.
Như vậy doanh nghiệp nhà nước không chỉ được thành lập để thực hiện các hoạt
động kinh doanh (nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế) mà còn để thực hiện các
hoạt động công ích (nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội). Các loại hình doanh
nghiệp khác không phải do nhà nước thành lập mà chỉ được nhà nước cho phép
thành lập trên cơ sở đơn xin thành lập của các chủ thể kinh doanh.
Hai là, doanh nghiệp nhà nước do nhà nước tổ chức quản lý. Nhà nước tổ chức
bộ máy quản lý các doanh nghiệp nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng; nhà
nước bổ nhiệm các cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp, phê duyệt chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch dài hạn hay trung hạn của doanh nghiệp...
Ba là, tài sản của doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận tài sản của nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư vốn thành lập nên nó thuộc sở hữu
nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh doanh không có quyền sở
hữu đối với tài sản mà chỉ là chủ quản lý và tiến hành hoạt động kinh doanh trên
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
số tài sản của nhà nước. Trong khi đó, các chủ thể kinh doanh khác đều là chủ sở
hữu với tài sản kinh doanh của họ.
Có thể phân loại doanh nghiệp nhà nước thành hai loại căn cứ vào chức năng
hoạt động của doanh nghiệp là: doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh
(hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận) và doanh nghiệp nhà nước hoạt
động công ích (hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính
sách của Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh...)
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phát triển trong mối quan hệ
kinh tế đa dạng về hình thức sở hữu, về vốn và tài sản, về cơ chế tổ chức quản lý.
Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không chỉ tồn tại đơn nhất trong khu
vực kinh tế quốc doanh (doanh nghiệp nhà nước) như trong nền kinh tế kế hoạch
hoá mà còn tồn tại dưới nhiều hình thức sở hữu bao gồm các loại hình tổ chức
doanh nghiệp khác nhau như: Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh... Nhưng doanh nghiệp nhà nước có vị trí
đặc biệt quan trọng, nó là bộ phận nòng cốt của thành phần kinh tế nhà nước,
thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Vai trò của doanh nghiệp
nhà nước được thể hiện qua những chức năng cụ thể sau:
Thứ nhất, chức năng định hướng sự phát triển của nền kinh tế. Chức năng này
thể hiện ở chỗ doanh nghiệp nhà nước phải đi tiên phong trong các lĩnh vực chiến
lược theo đường lối phát triển của nhà nước tạo điều kiện cho các thành phần kinh
tế khác tham gia; doanh nghiệp nhà nước phải là mẫu mực về trình độ quản lý, về
hiệu quả kinh doanh để các doanh nghiệp khác noi theo;
Thứ hai, chức năng hỗ trợ và phục vụ. Sự khác biệt giữa doanh nghiệp nhà
nước và các loại hình doanh nghiệp khác là sự phát triển của doanh nghiệp nhà
nước không phải đơn thuần vì bản thân nó mà quan trọng hơn cả là tạo điều kiện
cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy, doanh nghiệp nhà
nước được bố trí xây dựng ở những khu vực ngành nghề cần thiết tạo điều kiện
cho nền kinh tế phát triển đồng đều giữa các vùng của đất nước;
Thứ ba, chức năng đảm bảo sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết và hướng
dẫn nền kinh tế thị trường. Chức năng này được hiểu là các doanh nghiệp nhà
nước phải có đóng góp thích đáng cho sự phát triển kinh tế bằng việc kinh doanh
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
có hiệu quả; doanh nghiệp nhà nước phải bảo đảm vai trò quyết định này để Chính
phủ có đủ nguồn lực chỉ đạo và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo mục tiêu đề
ra.
1.1.2. Tính tất yếu của việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
1.1.2.1. Vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
Vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng là vốn được cấp từ
ngân sách, vốn có nguồn gốc ngân sách và vốn của doanh nghiệp nhà nước tự tích
luỹ.
Từ khái niệm trên có thể thấy vốn nhà nước được cấu thành bởi ba bộ phận:
Một là, vốn được cấp từ ngân sách, là vốn doanh nghiệp nhà nước được cấp
phát lần đầu khi mới hoạt động (xác định từ thời điểm giao nhận vốn), vốn được
cấp bổ sung trong quá trình hoạt động; vốn được tiếp quản từ chế độ cũ để lại.
Hai là, vốn có nguồn gốc ngân sách, là các khoản vốn tăng thêm do được miễn,
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc được cấp lại các khoản phải nộp ngân sách
theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; chênh lệch giá tài sản cố
định, vật tư, hàng hoá tồn kho qua các lần kiểm kê, điều chỉnh giá; các nguồn vốn
viện trợ: viện trợ nhân dân, viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế, quà tặng
theo qui định phải ghi tăng vốn ngân sách cấp;
Ba là, vốn của doanh nghiệp nhà nước tự tích luỹ, chính là phần thu nhập sau
thuế doanh nghiệp nhà nước giữ lại để tái đầu tư.
Hình thức thực hiện đầu tư của Chính phủ vào các doanh nghiệp nhà nước cụ
thể như sau:
Một là, giá trị quyền sử dụng đất, Chính phủ giao đất cho doanh nghiệp nhà
nước hay cho doanh nghiệp thuê đất, thực hiện những chính sách ưu đãi về đất đai
đối với doanh nghiệp nhà nước;
Hai là, cấp vốn điều lệ và bổ sung vốn:
- Vốn điều lệ để san lấp mặt bằng, xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc
thiết bị đưa vào sản xuất;
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
- Vốn bổ sung được cấp trong trường hợp doanh nghiệp nhà nước được giao
thêm nhiệm vụ;
Ba là, không thu khấu hao, miễn giảm thuế hay cấp tín dụng nhà nước ưu đãi...
Những khoản đó được doanh nghiệp nhà nước sử dụng để tái đầu tư, thay thế đổi
mới tài sản cố định và sử dụng cho các yêu cầu kinh doanh khác theo quy định của
Chính phủ.
1.1.2.2. Tính tất yếu của việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
Nhà nước phải quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước vì:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu nhà nước nhưng nhà nước giao
cho một số cá nhân, đơn vị sử dụng. Như vậy có sự tách biệt giữa người sở hữu
vốn và người sử dụng vốn, hai đối tượng này có thể có mục tiêu không phù hợp
nhau. Các doanh nghiệp nhà nước không phải đương đầu với nguy cơ bị đối thủ
cạnh tranh mua lại như các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân. Do đó người sử
dụng vốn có thể sử dụng vào những động cơ cá nhân, những động cơ có thể làm
cho những nhà lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước hành động không nhất quán
với các mục tiêu của doanh nghiệp. Khi những người này không nắm quyền sở
hữu vốn của doanh nghiệp và cũng không thể tăng thêm sự giàu có cho bản thân
bằng cách tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thì chẳng có gì kích thích họ
phải nhìn xa khi quyết định phương án sản xuất kinh doanh. Vì thế đòi hỏi phải có
sự quản lý chặt chẽ của nhà nước nhằm đảm bảo vốn và tài sản của nhà nước
không bị xâm phạm trong quá trình kinh doanh cũng như doanh nghiệp hoạt động
theo đúng mục tiêu nhà nước đề ra.
Thứ hai, nhà nước quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước cũng là
thực hiện vai trò quản lý nhà nước của mình. Nhà nước ban hành các chế độ tài
chính đối với doanh nghiệp nhà nước, theo dõi và kiểm tra việc chấp hành các chế
độ đó. Việc theo dõi, kiểm tra tình hình sử dụng vốn tại các doanh nghiệp nhà
nước giúp cơ quan quản lý nắm bắt được tình hình thực tế tại các doanh nghiệp,
theo dõi tiến trình thực hiện các văn bản. Từ đó thu thập thông tin để chỉnh sửa, bổ
sung, hoàn thiện các chính sách cho kịp thời, phù hợp với thực tế. Đồng thời thông
qua công tác quản lý vốn, nhà nước mới có những thông tin chính xác để đánh giá
đúng chất lượng kinh doanh ở các doanh nghiệp nhà nước. Trên cơ sở các thông
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
tin đánh giá này, nhà nước có kế hoạch sắp xếp, bố trí lại các doanh nghiệp, vốn
và lao động, hoàn thiện các khâu quản lý nhằm đạt hiệu quả kinh doanh và thực
hiện các mục tiêu xã hội.
Thứ ba, đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh, phần lợi
nhuận sau thuế thuộc về nhà nước. Nhà nước sử dụng lợi nhuận đó để duy trì và
tái sản xuất mở rộng doanh nghiệp hoặc đáp ứng một lợi ích nào đó của nhà nước.
Do đó, để lợi nhuận sau thuế được tối đa hoá, nhà nước phải quản lý phần vốn đầu
tư của mình để nó được sử dụng một cách có hiệu quả, trên cở sở đó tăng lợi ích
nhà nước.
Tóm lại, việc nhà nước quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là một
đòi hỏi khách quan để bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu trong việc bảo toàn vốn và tài
sản cũng như để thực hiện vai trò quản lý của mình.
1.2. Nội dung công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà
nước
1.2.1. Thiết lập căn cứ về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
Thiết lập căn cứ về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là việc
làm cần thiết nhằm tạo cơ sở giúp các đơn vị được giao vốn thực hiện quản lý vốn
được giao và giúp các cơ quan kiểm tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ giám sát của
mình.
Hình thức biểu hiện cụ thể của nội dung công tác này là việc xây dựng hệ thống
văn bản pháp luật về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Khác với cách thức
quản lý doanh nghiệp trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, trong nền kinh tế thị
trường có sự điều tiết, Nhà nước quản lý doanh nghiệp một cách gián tiếp theo
nguyên tắc: Nhà nước điều chỉnh thị trường, thị trường điều chỉnh doanh nghiệp.
Nhà nước ban hành chính sách nhằm định hướng sự phát triển theo mục tiêu của
Nhà nước và giúp doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh; Nhà
nước tạo hành lang pháp lý thông thoáng, bình đẳng và môi trường kinh doanh
vừa thuận lợi, vừa đòi hỏi hiệu quả kinh tế cao để các doanh nghiệp hoạt động.
Chính sách quản lý vốn được ban hành hướng vào việc khai thác, động viên và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp nhằm khuyến khích
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
phát triển kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần phát triển kinh tế
xã hội của đất nước và nâng cao hiệu quả của nền tài chính quốc gia.
Chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước là một bộ
phận quan trọng trong chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nói riêng và hệ
thống các chính sách tài chính nói chung. Chính sách quản lý vốn đúng đắn sẽ
kích thích sự chuyển dịch các luồng giá trị trong nền kinh tế quốc dân theo hướng
duy động mọi nguồn vốn vào đầu tư phát triển sản xuất, tăng khả năng tích tụ và
tập trung vốn ở doanh nghiệp, nhờ đó tăng quy mô và tốc độ phát triển sản xuất
kinh doanh, tăng nguồn thu vào ngân sách nhà nước. Nguồn thu vào ngân sách
nhà nước càng nhiều thì Chính phủ càng có khả năng tài chính để tăng quy mô đầu
tư vốn, phát triển các quỹ tài trợ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; kế đó,
quy mô đầu tư và tài trợ từ ngân sách đối với doanh nghiệp càng lớn thì nó sẽ kích
thích mạnh mẽ hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, và qua đó Chính phủ còn thực hiện
được yêu cầu điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế theo định hướng đã đề ra.
Các Chính phủ thường ban hành chính sách quản lý vốn và tài sản theo hướng:
Một là, tăng cường quyền tự chủ về mặt tài chính của các doanh nghiệp nhà
nước trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực
quản lý vốn và tài sản;
Hai là, nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc quản lý và sử
dụng các nguồn lực nhà nước giao. Thiết lập các cơ chế thích hợp để hướng sự
quan tâm và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn như:
cơ chế trích lập dự phòng, cơ chế bù lỗ...
Ba là, quy định các chính sách ưu đãi về mặt tài chính đối với các doanh
nghiệp nhà nước hoạt động công ích như: hỗ trợ vốn, bù chênh lệch khi thực hiện
các nhiệm vụ nhà nước giao, bảo đảm thoả đáng lợi ích vật chất cho người lao
động trong các doanh nghiệp nhà nước này...Đồng thời thiết lập cơ chế quản lý
hợp lý đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các nguồn lực nhà
nước giao.
Chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước bao trùm các
nội dung quản lý sau:
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
a, Quản lý việc hình thành vốn của doanh nghiệp nhà nước:
Doanh nghiệp nhà nước có thể được đầu tư vốn khi mới thành lập hoặc đầu tư
bổ sung trong quá trình hoạt động. Ngoại trừ các doanh nghiệp hình thành do kết
quả quốc hữu hoá, các doanh nghiệp nhà nước đều được hình thành trên cơ sở
nguồn vốn cấp phát ban đầu của nhà nước. Tuy nhiên căn cứ vào tình hình thực tế
mà nhà nước quyết định cấp dưới hình thức trực tiếp (cấp thẳng từ ngân sách nhà
nước) hay gián tiếp (qua các hình thức ghi thu-ghi chi như: chuyển vốn từ doanh
nghiệp nhà nước này sang doanh nghiệp nhà nước khác hoặc cho doanh nghiệp
nhà nước nhận trực tiếp các khoản viện trợ để đầu tư...). Đối với vốn lưu động,
nhà nước có thể cấp theo định mức một phần, phần còn lại doanh nghiệp phải huy
động trên thị trường vốn và chịu lãi suất thị trường. Đồng thời, tuỳ thuộc vào khả
năng của ngân sách nhà nước của mỗi nước mà chính sách đầu tư vốn cho doanh
nghiệp nhà nước ở các nước là khác nhau. Ở Pháp, những doanh nghiệp nhà nước
hoạt động theo yêu cầu của nhà nước thì cấp vốn 100%, các doanh nghiệp do nhà
nước quản lý nhưng tự chọn chính sách phát triển, phải cạnh tranh với doanh
nghiệp khác thì nhà nước không cấp vốn. Ở Nhật, mức vốn đầu tư cho doanh
nghiệp tăng nhưng mức độ kiểm soát cũng chặt chẽ hơn. Ở Malaysia, nguồn vốn
của các doanh nghiệp nhà nước được hình thành như sau: Vốn cố định ban đầu
được nhà nước cấp 100% và hàng năm, doanh nghiệp phải trả lãi (theo lãi suất ưu
đãi) trên tổng số vốn đầu tư của nhà nước; vốn lưu động thì các công ty phải vay
theo lãi suất thị trường. Còn ở nước ta, việc quản lý, sử dụng vốn và tài sản trong
doanh nghiệp nhà nước được hướng dẫn cụ thể trong Thông tư số 62/1999/TT-
BTC ngày7/6/1999, Nhà nước đầu tư vốn cho các doanh nghiệp nhà nước mới
thành lập ở những ngành, những lĩnh vực quan trọng. Các cơ quan có thẩm quyền
khi quyết định thành lập doanh nghiệp mới phải đảm bảo đủ vốn thực có tại thời
điểm thành lập không thấp hơn mức vốn pháp định nhà nước quy định cho mỗi
ngành nghề. Trong quá trình kinh doanh, căn cứ vào hiệu quả sản xuất dinh doanh,
nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội mà nhà nước giao cho doanh nghiệp và khả
năng của ngân sách nhà nước, nhà nước xem xét đầu tư bổ sung cho các doanh
nghiệp trong những trường hợp cần thiết. Doanh nghiệp nhà nước được nhà nước
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
giao vốn thuộc sở hữu nhà nước hiện có tại doanh nghiệp sau khi đã được kiểm
tra, thẩm định theo quy định hiện hành của nhà nước.
Số vốn giao cho doanh nghiệp được xác định như sau:
+ Đối với doanh nghiệp thành lập mới là số vốn nhà nước ghi trong quyết toán
vốn đầu tư xây dựng cơ bản bàn giao sang sản xuất kinh doanh, vốn điều lệ được
nhà nước bổ sung và vốn khác thuộc sở hữu nhà nước (nếu có).
+ Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động và thành lập lại (sáp nhập, chia
tách) là số vốn sở hữu hiện có tại doanh nghiệp hoặc các doanh nghiệp thành viên,
sau khi đã được kiểm tra, thẩm định theo quy định hiện hành của nhà nước.
Trong khi khu vực kinh tế tư nhân có thể được huy động một cách tự chủ và
linh động trong môi trường kinh doanh, khu vực kinh tế nhà nước thường chỉ được
phép huy động vốn dưới một số hình thức nhất định, các kênh huy động vốn đó là:
Thứ nhất, huy động vốn từ Ngân sách nhà nước: Các doanh nghiệp khi có nhu
cầu về vốn có thể đề nghị nhà nước xét duyệt cấp vốn cho doanh nghiệp mình.
Đây là nguồn vốn đặc biệt , chỉ các doanh nghiệp nhà nước mới có đặc quyền
được yêu cầu và đây cũng là nguồn vốn chủ lực của các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ hai, huy động vốn thông qua hoạt động liên doanh, liên kết: Đây là việc
góp tiền hoặc tài sản với các doanh nghiệp khác để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp có thể liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tổ chức khác để
huy động vốn.
Thứ ba, huy động vốn bằng cách đi vay: Doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu
vốn của mình bằng cách đi vay những khoản tín dụng dài hạn, ngắn hạn, hoặc
trung hạn từ các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các doanh
nghiệp khác, các cá nhân (kể cả các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp),
được phát hành trái phiếu huy động vốn để đầu tư phát triển.
Thứ tư, huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, cổ phiếu thường mới để
bán cho công nhân viên chức trong doanh nghiệp và ngoài xã hội.
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể huy động vốn cho sản xuất kinh doanh từ chính
các quỹ của doanh nghiệp. Nhà nước có quy định cụ thể về việc sử dụng các quỹ
này.
b, Quản lý việc sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước
Quản lý sử dụng vốn và tài sản trong phạm vi doanh nghiệp:
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước là một đơn vị sản xuất
kinh doanh độc lập, được tự chủ trong hoạt động kinh tế và tự chịu trách nhiệm về
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước thực hiện việc giao quyền sử
dụng vốn và tài sản cho doanh nghiệp nhằm tạo ra sự độc lập tương đối trong việc
tổ chức sản xuất kinh doanh. Mục tiêu cuối cùng của chính sách quản lý sử dụng
vốn và tài sản là bảo toàn và phát triển vốn tại doanh nghiệp. Vì thế, doanh nghiệp
có nghĩa vụ theo dõi chặt chẽ sự biến động của vốn và tài sản, đảm bảo theo đúng
các nguyên tắc kế toán hiện hành, tránh thất thoát tài sản, mất vốn của nhà nước.
Đồng thời doanh nghiệp cũng phải được trao quyền lựa chọn cơ cấu tài sản và các
loại vốn cho hợp lý nhằm phát triển kinh doanh có hiệu quả.
Doanh nghiệp có trách nhiệm mở sổ và ghi sổ kế toán theo dõi chính xác toàn
bộ tài sản và vốn hiện có theo đúng chế độ hạch toán kế toán, thống kê hiện hành;
phản ánh trung thực, kịp thời tình hình sử dụng, biến động của tài sản và vốn trong
quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được quyền sử dụng vốn và qũy để kinh doanh theo nguyên tắc
có hiệu qủa, bảo toàn và phát triển vốn. Trường hợp sử dụng các loại vốn và qũy
khác với mục đích sử dụng đã quy định cho các loại vốn và qũy đó thì phải theo
nguyên tắc hoàn trả, như: dùng các qũy dự phòng, qũy khen thưởng, qũy phúc
lợi...để kinh doanh thì phải hoàn trả qũy đó khi có nhu cầu sử dụng. Doanh nghiệp
được quyền thay đổi cơ cấu tài sản và các loại vốn cho việc phát triển kinh doanh
có hiệu qủa, bảo toàn và phát triển vốn
Doanh nghiệp Nhà nước phải xây dựng quy chế quản lý, bảo quản, sử dụng tài
sản của doanh nghiệp; quy định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân đối với
các trường hợp làm hư hỏng, mất mát tài sản.
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Định kỳ và khi kết thúc năm tài chính doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê
toàn bộ tài sản và vốn hiện có. Xác định chính xác số tài sản thừa, thiếu, tài sản ứ
đọng, mất phẩm chất, nguyên nhân và xử lý trách nhiệm; đồng thời để có căn cứ
lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp phải mở sổ theo dõi chi tiết tất cả các khoản công nợ phải thu
trong và ngoài doanh nghiệp. Định kỳ (tháng, qúy) doanh nghiệp phải đối chiếu,
tổng hợp, phân tích tình hình công nợ phải thu; đặc biệt là các khoản nợ đến hạn,
qúa hạn và các khoản nợ khó đòi. Các khoản nợ không thu hồi được, cần xác định
rõ mức độ, nguyên nhân, trách nhiệm và biện pháp xử lý.
Doanh nghiệp được quyền cho thuê hoạt động các tài sản thuộc quyền quản lý
và sử dụng của mình, để nâng cao hiệu suất sử dụng, tăng thu nhập nhưng phải
theo dõi, thu hồi tài sản khi hết hạn cho thuê. Đối với tài sản cho thuê hoạt động,
doanh nghiệp vẫn phải trích khấu hao theo chế độ quy định. Doanh nghiệp được
đem tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để cầm cố, thế chấp vay vốn
hoặc bảo lãnh tại các tổ chức tín dụng theo đúng trình tự, thủ tục quy định của
pháp luật. Doanh nghiệp không đợc đem cầm cố, thế chấp, cho thuê các tài sản đi
mượn, đi thuê, nhận giữ hộ, nhận cầm cố, nhận thế chấp ... của doanh nghiệp khác
nếu không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản đó.
Doanh nghiệp được nhượng bán các tài sản không cần dùng, lạc hậu về kỹ
thuật để thu hồi vốn sử dụng cho mục đích kinh doanh có hiệu qủa hơn. Chênh
lệch giữa số tiền thu được do thanh lý, nhượng bán tài sản với giá trị còn lại trên
sổ kế toán và chi phí nhượng bán, thanh lý (nếu có) được hạch toán vào kết qủa
kinh doanh của doanh nghiệp.
Mọi tổn thất tài sản của doanh nghiệp phải lập biên bản xác định mức độ,
nguyên nhân và trách nhiệm đưa ra biện pháp xử lý.
Doanh nghiệp được đánh giá lại tài sản và hạch toán tăng giảm vốn khoản
chênh lệch do đánh giá lại tài sản trong các trường hợp sau: Kiểm kê đánh giá lại
tài sản theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; Thực hiện cổ phần
hóa, đa dạng hóa hình thức sở hữu, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp; Dùng tài sản
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
để liên doanh, góp vốn cổ phần (khi đem tài sản đi góp vốn và khi nhận tài sản
về).
Quản lý vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp:
Doanh nghiệp được sử dụng vốn, tài sản để đầu tư ra ngoài doanh nghiệp theo
nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, tăng thu nhập và đảm bảo
nhiệm vụ thu nộp Ngân sách nhà nnớc; việc đầu tư phải tuân theo các quy định
hiện hành của pháp luật.. Các hình thức đầu tư ra ngoài doanh nghiệp gồm: mua
cổ phiếu, góp vốn liên doanh, góp cổ phần và các hình thức đầu tư khác ...
Doanh nghiệp Nhà nước được phép đưa vốn và tài sản đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài theo quy định của pháp luật.
Bảo toàn và phát triển vốn:
Bảo toàn vốn và phát triển vốn là nghĩa vụ của doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích
của Nhà nước về vốn đã đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp ổn định và phát triển kinh doanh có hiệu quả, tăng thu nhập cho
người lao động và làm nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước. Các biện pháp bảo toàn
vốn thường được áp dụng là:
Thứ nhất, thực hiện đúng chế độ quản lý, sử dụng vốn, tài sản theo các qui định
của Nhà nước;
Thứ hai, thực hiện việc mua bảo hiểm tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng
của doanh nghiệp. Tiền mua bảo hiểm được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh
doanh;
Thứ ba, doanh nghiệp Nhà nước được hạch toán vào chi phí kinh doanh, chi
phí hoạt động khác một số khoản dự phòng theo quy định như: Dự phòng giảm giá
hàng tồn kho, dự phòng các khoản nợ thu khó đòi, dự phòng giảm giá các loại
chứng khoán trong hoạt động tài chính...
Việc lập và sử dụng các khoản dự phòng nói trên thực hiện theo quy định hiện
hành. Ngoài các biện pháp trên, doanh nghiệp được dùng lãi năm sau (trước thuế
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
hoặc sau thuế) để bù lỗ các năm trước, được hạch toán một số thiệt hại (thiên tai,
dịch bệnh ...) vào chi phí hoặc kết qủa kinh doanh theo qui định của Nhà nước.
1.2.2. Phân cấp trong quản lý
Để quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, mỗi nước đều tổ chức cho
mình một bộ máy quản lý khác nhau với cách thức quản lý khác nhau. Bộ máy
này bao gồm bản thân doanh nghiệp nhà nước (với tư cách là người trực tiếp quản
lý, sử dụng vốn nhà nước giao) và các cơ quan quản lý cấp trên (giám sát việc
thực hiện quản lý, sử dụng vốn nhà nước của doanh nghiệp nhà nước và ra các
quyết định quản lý). Mỗi cấp quản lý được phân rõ chức năng nhiệm vụ trong việc
thực hiện hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước.
Ở Pháp và Malaysia, nhà nước trực tiếp cử nhân viên của mình làm công tác
kiểm tra tại doanh nghiệp, nhân viên đó thuộc biên chế Bộ tài chính; ngoài ra mỗi
doanh nghiệp còn chịu sự điều tra của một nhân viên do toá án chỉ định, có chức
năng kiểm tra tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, ở các doanh
nghiệp còn có Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng này là đại diện của nhà
nước, đại diện cho doanh nghiệp và đại diện của công nhân.
Ở một số nước khác như Trung Quốc thì việc quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp nhà nước lại do các Công ty đầu tư tài chính nhà nước đảm nhận. Hoạt
động của Công ty tài chính là hoạt động kinh doanh, khác với việc cử đại diện của
Bộ tài chính làm công việc kiểm tra trực tiếp tại doanh nghiệp. Đây là một tổ chức
tài chính do Chính phủ thành lập giúp Chính phủ thành lập chức năng kinh doanh
các nguồn vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Công ty đầu tư tài chính nhà
nước có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, chủ sở hữu công ty là Chính phủ
Thứ hai, công ty đầu tư tài chính là một doanh nghiệp nhà nước, công ty được
thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, công ty hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, được Chính phủ
giao vốn ban đầu và đầu tư bổ sung vốn trong quá trình hoạt động.
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Thứ tư, chức năng của công ty là kinh doanh vốn nhà nước. Điều này khẳng
định mục đích đầu tư vốn vào các doanh nghiệp nhà nước là để đảm bảo đồng vốn
chẳng những được bảo toàn mà còn được phát triển (gia tăng giá trị của chủ sở
hữu).
Thứ năm, đối tượng hoạt động của công ty là các doanh nghiệp, bao gồm:
doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác có
phần vốn góp của nhà nước như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty hợp danh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Ở Việt Nam, tháng 10/1999, Chính phủ quyết định giải thể Tổng cục quản lý
vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, thành lập Cục tài chính doanh nghiệp
trực thuộc Bộ tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính đối với
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và đại diện chủ sở hữu đối với số vốn
nhà nước đã đầu tư vào doanh nghiệp. Chức năng của Cục tài chính doanh nghiệp
được cụ thể hoá như sau:
Một là, thống nhất quản lý nhà nước về tài chính doanh nghiệp thuộc các thanh
phần kinh tế trong cả nước, có thể tóm tắt các công việc cơ bản như sau:
+ Tổ chức nghiên cứu chiến lược và đề xuất các vấn đề cóm liên quan đến tài
chính doanh nghiệp; dự báo khả năng động viên tài chính từ doanh nghiệp, qua đó
xây dựng các chính sách, chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp, chế độ quản lý,
bảo toàn và phát triển vốn tại doanh nghiệp, chế độ hỗ trợ tài chính cho doanh
nghiệp và các chế độ khác có liên quan đến quản lý tài chính doanh nghiệp theo
quy định của Bộ trưởng Bộ tài chính;
+ Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ quản lý tài chính; chế
độ quản lý vốn nhà nước; chế độ kế toán, kiểm toán doanh nghiệp thống nhất
trong cả nước;
+ Tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp trong cả
nước, đồng thời tổ chức thông tin tài chính doanh nghiệp nhằm cung cấp cho các
cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp và khách hàng những thông tin cập
nhật, chính xác đầy đủ về tình hình tài chính doanh nghiệp; hướng dẫn, bồi dưỡng
nghiệp vụ quản lý tài chính doanh nghiệp;
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Thứ hai, quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp do Thủ tướng chính
phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
thành lập hoặc góp vốn trong đó:
+ Hướng dẫn doanh nghiệp kiểm kê đánh giá tài sản, xác định số vốn nhà
nước; tổ chức giao vốn cho các doanh nghiệp theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ tài
chính;
+ Tổ chức đánh giá, xác định giá trị doanh nghiệp, giá trị vốn nhà nước tại
doanh nghiệp nhà nước trong các trường hợp giải thể, phá sản hoặc chuyển đổi
quyền sở hữu; giám sát việc xử lý vốn, tài sản nhà nước trong các trường hợp chia
tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản và chuyển đổi quyền sở hữu doanh
nghiệp nhà nước; giám sát việc phân phối lợi nhuận sau thuế, việc sử dụng các
quỹ tại doanh nghiệp;
+ Thẩm định nhu cầu hỗ trợ tài chính hàng năm và cấp phát các khoản chi hỗ
trợ cho doanh nghiệp. Tham gia ý kiến về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh doanh của các doanh nghiệp trọng điểm, các tổng công ty nhà nước;
tham gia xây dựng và thông báo chỉ tiêu nộp ngân sách nhà nước hàng năm của
doanh nghiệp theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ tài chính; tham gia các phương án
giá sản phẩm và dịch vụ do nhà nước quy định giá; tham gia việc xây dựng đơn
giá, quỹ tiền lương và xếp hạng doanh nghiệp theo quy định của nhà nước;
+ Kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ quản lý tài chính, kế toán, kiểm
toán của doanh nghiệp; kiểm tra báo cáo tài chính, xác định khả năng hoàn trả nợ,
mức độ bảo toàn và phát triển vốn hàng năm của doanh nghiệp;
+ Tổng hợp, phân tích tình hình quản lý, sử dụng vốn, việc bảo toàn và phát
triển vốn thuộc sở hữu nhà nước tại các loại hình doanh nghiệp trong cả nước và
theo ngành kinh tế;
+ Quản lý các quỹ tài chính hỗ trợ doanh nghiệp do Bộ trưởng Bộ tài chính uỷ
quyền;
+ Hướng dẫn các Sở tài chính-vật giá thống nhất quản lý nhà nước về tài chính
đối với doanh nghiệp do tỉnh thành phố thành lập hoặc góp vốn, tổng hợp phân
tích tình hình tài chính doanh nghiệp trên địa bàn;
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ tài chính giao.
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Dưới Cục tài chính doanh nghiệp, ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
có các Chi cục tài chính doanh nghiệp thuộc Sở tài chính vật giá. Cục tài chính
doanh nghiệp quản lý trực tiêp các doanh nghiệp nhà nước trung ương. Các doanh
nghiệp nhà nước địa phương chịu sự quản lý trực tiếp của các Chi cục tài chính
doanh nghiệp thuộc Sở tài chính-vật giá tỉnh, thành phố.
Hình thức phân công mới này có ưu điểm ở chỗ do doanh nghiệp nhà nước vẫn
được tổ chức theo hai hình thức, đó là doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp
địa phương, đồng thời việc tổ chức cán bộ ở địa phương do UBND tỉnh quyết
định, ở trung ương do Bộ ngành quyết định. Mặt khác các doanh nghiệp trung
ương lớn thường có các chi nhánh ở các địa phương khác nhau nên việc quản lý
theo vùng sẽ hạn chế, đặc biệt là các Tổng công ty thường tập trung ở các địa bàn
thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh... sẽ khiến cho
việc quản lý ở các địa phương rất phức tạp.
Sơ đồ quản lý như sau:
Có thể nói rằng, sự ra đời và đi vào hoạt động theo hệ thống dọc từ Trung ương
tới các tỉnh, thành phố đã giải quyết được những vấn đề có tính nguyên tắc trong
quản lý doanh nghiệp nhà nước, đó là thu gọn đầu mối, thực hiện nguyên tắc một
đầu mối cho từng chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, từng bước
xoá bỏ cơ chế chủ quản, sự phân biệt giữa doanh nghiệp trung ương và doanh
nghiệp địa phương.
BỘ TÀI CHÍNH
Cục tài chính doanh nghiệp
Chi cục tài chính doanh
nghiệp tỉnh, thành phố
Quản lý vốn các doanh nghiệp
trung ương
Quản lý vốn các doanh nghiệp địa
phương
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
1.2.3. Tổ chức thực hiện
Dựa trên các căn cứ về quản lý vốn nhà nước đã được thiết lập (các văn bản
pháp luật liên quan), các cơ quan quản lý (đã được phân cấp quản lý vốn nhà nước
tại doanh nghiệp) sẽ tổ chức thực hiện quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà
nước theo phạm vi chức năng của mỗi cấp đã được quy định.
1.2.3.1. Quản lý việc hình thành vốn của doanh nghiệp nhà nước
Một việc không dễ song không thể thiếu trong hoạt động quản lý là phải xác
định được nhu cầu vốn của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đánh giá và xét duyệt các
trường hợp để đầu tư, giao vốn cho doanh nghiệp một cách hợp lý.
Nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong bất cứ thời điểm nào cũng chính bằng
tổng giá trị tài sản mà doanh nghiệp cần phải có để đảm bảo cho hoạt động kinh
doanh. Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu vốn của doanh nghiệp thường xuyên
biến động tuỳ thuộc vào xu hướng biến động của thị trường. Đồng thời các doanh
nghiệp khác nhau với những đặc điểm kinh tế kỹ thuật khác nhau thì nhu cầu về
vốn cũng khác nhau. Do vậy, xác định nhu cầu vốn của doanh nghiệp là việc làm
cần thiết của các nhà quản lý. Các nhà quản lý thường dùng hai phương pháp sau:
Thứ nhất, phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu, đây là phương pháp dự
tính ngắn hạn, đơn giản nhưng đòi hỏi phải hiểu rõ quy trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, đồng thời phải hiểu rõ tính quy luật của mối quan hệ giữa
doanh thu tiêu thụ sản phẩm với tài sản, vốn và phân phối lợi nhuận của doanh
nghiệp. Đây có thể là phương pháp ước tính nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong
thời gian ngắn, vì cơ bản nó dựa trên giả thiết cho rằng tất cả các chi phí thành
phẩm sẽ chiếm một tỷ lệ ổn định trong doanh thu bán hàng tương lai, không thay
đổi so với tỷ lệ của chúng trong quá khứ. Tỷ lệ phần trăm trên doanh thu này là tỷ
lệ chi phí trung bình trong hai năm gần đây và mỗi khoản mục của báo cáo nhu
cầu vốn dự kiến được tính theo tỷ lệ phần trăm trung bình của doanh thu. Khi tìm
được tỷ lệ phần trăm trung bình của doanh thu thì việc xây dựng báo cáo nhu cầu
sử dụng vốn cho năm kế tiếp theo phương pháp phần trăm trên doanh thu khá đơn
giản.
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Thứ hai, phương pháp hồi quy, đây là phương pháp dự tính dài hạn, bản chất
của phương pháp này dựa trên lý thuyết tương quan trong toán học. Khi sử dụng
phương pháp này, nhà quản lý vốn cũng cần xuất phát từ doanh thu tiêu thụ.
Phương pháp hay được sử dụng để xem xét khả năng nguồn đối với các khoản có
liên quan trực tiếp tới tăng giảm doanh thu.
Sau khi đã xác định nhu cầu vốn của doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tiến hành đầu tư, giao vốn cho doanh nghiệp, công việc này được thực hiện
căn cứ vào các quy định đã được nêu ra trong các văn bản pháp luật liên quan.
Ở nước ta, cấp vốn đã trở thành hình thức đắc lực nhất đối với doanh nghiệp
nhà nước trong suốt thời kỳ bao cấp. Đến nay tuy đã giảm nhiều song các doanh
nghiệp nhà nước vẫn được bao cấp nhiều qua giá và qua cấp vốn từ ngân sách nhà
nước. Trước đây và hiện nay, Nhà nước cấp toàn bộ vốn cố định và một phần vốn
lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước căn cứ vào nhu cầu vốn lưu động của
doanh nghiệp, thường là 30%. Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp nhà nước
ở nước ta được xác định theo công thức sau:
Tổng doanh thu
Nhu cầu vốn lưu động =
Vòng quay vốn lưu động
Nếu trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp thiếu vốn, số vốn thiếu
xin được cấp bổ sung. Nhu cầu vốn cấp bổ sung tính theo công thức:
Số vốn thiếu xin được
cấp bổ sung
=
Nhu cầu vốn lưu
động
-
Số vốn lưu động hiện
có tài doanh nghiệp
Trong những năm qua, Chính phủ đã xét duyệt để cấp vốn bổ sung cho nhiều
doanh nghiệp theo nhiều dự án. Trong 3 năm 1997-->1999, Nhà nước đã đầu tư
trực tiếp cho các doanh nghiệp nhà nước gần 8000 tỷ đồng, trong đó 6428 tỷ đồng
là để cấp vốn bổ sung cho các doanh nghiệp. Có thể thấy việc quản lý nhu cầu, cấp
phát vốn đã từng bước chặt chẽ hơn. Nhà nước đã chú ý đầu tư cho các doanh
nghiệp nhà nước một cách có trọng điểm hơn chứ không dàn trải như trước. Vốn
được cấp cho doanh nghiệp nhà nước một cách hợp lý hơn. Các doanh nghiệp
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
được nhà nước đầu tư vốn phải nằm trong chiến lược phát triển của Nhà nước và
phải thoả mãn một số yêu cầu nhất định. Đồng thời, mức hỗ trợ tối đa cũng được
quy định rõ. Ví dụ như trong đợt hỗ trợ vốn năm 1998 quy định rõ các đối tượng
được xét đầu tư vốn là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích, các doanh
nghiệp nhà nước hạch toán độc lập đang hoạt động có sản xuất chế biến hàng xuất
khẩu, chế biến hàng nông hải thuỷ sản, xây dựng các công trình quan trọng của
nhà nước với những điều kiện cụ thể cho mỗi loại hình doanh nghiệp về doanh thu
lợi nhuận và mức nộp ngân sách. Nhờ có sự chọn lọc trong nhu cầu vốn bổ sung
này mà đồng vốn của nhà nước trong những năm gần đây đã được sử dụng có hiệu
quả hơn và đúng đối tượng hơn. Trong hai năm 1997 và 1998, Nhà nước đã đầu tư
thêm vào một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thông qua việc cấp bổ sung một
lượng vốn đáng kể (khoảng 3000 tỷ đồng) cho các doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ
sản phẩm xuất khẩu cao và có thị trường xuất khẩu. Các doanh nghiệp đã biết kết
hợp vốn ngân sách với các nguồn vốn tự có của doanh nghiệp. Số vốn tự bổ sung
của một số ngành chiếm tỷ trọng rất lớn trong nguồn vốn chủ sở hữu và cũng tăng
về số tuyệt đối liên tục qua các năm, ví dụ: ngành Hàng hải, Bưu điện, Hàng
không. Kết quả thống kê của Cục tài chính doanh nghiệp cho biết: Quy mô vốn
nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua tăng. Tuy nhiên, việc
cấp vốn của nhà nước vẫn còn những hạn chế. Hiện tượng thiếu vốn trầm trọng tại
số đông các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay là một minh chứng cho sự
chưa hợp lý trong việc cấp vốn cho doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng chung của
các doanh nghiệp nhà nước ta hiện nay là tình trạng thiếu vốn sản xuất kinh
doanh. Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư thành lập nhưng vốn nhà nước
không đủ mức tối thiểu cho sản xuất kinh doanh. Có tới 60% doanh nghiệp nhà
nước không đủ vốn pháp định theo Nghị định 50/CP. Trên 50% các doanh nghiệp
nhà nước chưa đủ vốn lưu động tương ứng với quy mô hoạt động kinh doanh.
Tổng công ty nhà nước được ưu tiên các điều kiện vật chất, nguồn lực để phát
triển song hiện vẫn có tới gần 80% số Tổng công ty có mức vốn nhà nước dưới
mức vốn bình quân của các Tổng công ty, trong đó 35% Tổng công ty có mức vốn
nhà nước dưới 1000 tỷ đồng. Con số này chứng tỏ có tình trạng chênh lệch về vốn
khá lớn giữa các Tổng công ty và số Tổng công ty thiếu vốn, ít vốn là chiếm đa số.
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Bên cạnh nguồn vốn nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý, sử dụng, nguồn
vốn huy động được bằng việc sử dụng các khoản nợ, đặc biệt là các khoản vay
cũng được quản lý khá chặt chẽ do nó ảnh hưởng đến cơ cấu vốn, cơ cấu tài sản
của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu. Ở nước
ta, các khoản nợ phải trả cũng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của các doanh
nghiệp nhà nước. Theo kết quả kiểm kê nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước
thời điểm 0 giờ ngày 1/1/2000, tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước là
527.267 tỷ đồng trong đó vốn chủ sở hữu là 173.857 tỷ đồng (chiếm 32,9%), còn
tổng vốn huy động qua các khoản nợ phải trả là 353.410 tỷ đồng (chiếm tới 67%
tổng nguồn vốn). Việc huy động vốn qua các khoản nợ cũng ngày một tăng. Nợ
của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng tăng về quy mô cũng như về tỷ trọng
trong cơ cấu vốn đối với một số doanh nghiệp nhà nước. Điều này phản ánh khả
năng huy động vốn của các doanh nghiệp có tăng lên.
b, Quản lý việc sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước
Là một loại hình doanh nghiệp nên doanh nghiệp nhà nước cũng có những đặc
điểm như các loại hình doanh nghiệp khác về tư cách pháp nhân, về điều kiện và
mục đích kinh doanh. Tuy nhiên, khác với các doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế khác, doanh nghiệp nhà nước là các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước.
Vì vậy để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp nhà nước và bảo vệ lợi ích của mình với tư cách là
chủ sở hữu. Nhà nước cần thiết phải thực hiện hoạt động giám sát. Giám sát sử
dụng vốn nhà nước là một nội dung quan trọng của hoạt động giám sát tài chính-
một bộ phận của giám sát doanh nghiệp nhà nước, đó là việc theo dõi kiểm tra của
chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý nhằm hướng các hoạt động của khách
thể quản lý theo đúng mục tiêu mà chủ thể quản lý đã lựa chọn, phủ hợp với quy
chế pháp luật hiện hành. Giám sát sử dụng vốn nhà nước vừa là yêu cầu khách
quan, vừa xuất phát từ chức năng quản lý nhà nước với doanh nghiệp, vừa do yêu
cầu bảo vệ lợi ích của nhà nước với tư cách là chủ sở hữu.
Các đơn vị quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện vai trò quản lý
nhà nước thông qua giám sát. Việc giám sát nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động
kinh doanh, hiệu quả sự dụng vốn và khả năng thanh toán nợ đối với từng doanh
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
nghiệp để xem xét quyết định việc tăng thêm hoặc giảm bớt số vốn đầu tư vào
doanh nghiệp, xếp loại doanh nghiệp và quyết định thưởng phạt đối với người
quản lý và điều hành doanh nghiệp hoặc sắp xếp lại doanh nghiệp. Ngoài ra, giám
sát doanh nghiệp còn để đánh giá việc chấp hành các văn bản quy phạm pháp luật,
chế độ tài chính, chuẩn mực kế toán hiện hành và đánh giá tổng thể về tình hình
hoạt động sản xuất kinh đoanh của doanh nghiệp để phục vụ cho việc ban hành,
hoàn thiện các chính sách vĩ mô và chế độ đối với doanh nghiệp trong từng ngành,
từng lĩnh vực, thực hiện sự hỗ trợ đối với trường hợp cần hỗ trợ của nhà nước
nhằm khắc phục những khó khăn tạm thời và phát triển doanh nghiệp. Các hình
thức giám sát doanh nghiệp nhà nước bao gồm:
Thứ nhất, giám sát từ bên trong: là giám sát nội bộ do các tổ chức của doanh
nghiệp như kiểm toán nội bộ, ban kiểm soát, thanh tra nhân dân và do doanh
nghiệp tự tổ chức thực hiện.
Thứ hai, giám sát từ bên ngoài: là giám sát do cơ quan chức năng của nhà
nước hoặc các tổ chức cá nhân bên ngoài doanh nghiệp tổ chức thực hiện. Việc
giám sát bên ngoài doanh nghiệp được thực hiện dưới hai hình thức:
Một là, giám sát gián tiếp: là theo dõi và kiểm tra từ xa thông qua báo cáo
tài chính, thống kê và chế độ báo cáo khác do các cơ quan chức năng của nhà
nước quy định, thông qua báo cáo công khai tình hình tài chính tại thị trường
vốn, thị trường chứng khoán.
Hai là, giám sát trực tiếp: được thực hiện bằng các hoạt động kiểm tra,
thanh tra, khảo sát nắm tình hình trực tiếp tại doanh nghiệp.
Ngoài ra, còn có thể thông qua các công ty tư vấn (bao gồm công ty tư vấn tài
chính kế toán, thuế, các công ty kiểm toán độc lập, công ty đánh giá tài sản...) để
thực hiện các dịch vụ về giám sát doanh nghiệp.
Có thể giám sát trước, trong quá trình thực hiện và sau khi thực hiện:
+ Giám sát trước khi thực hiện là việc kiểm tra tính khả thi của các dự án
như kế hoạch ngắn hạn hoặc dài hạn; dự án đầu tư xây dựng hoặc đầu tư ra
ngoài doanh nghiệp, dự án huy động vốn...
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
+ Giám sát trong quá trình thực hiện là theo dõi, kiểm tra hoặc thanh tra tính
hiệu lực của các quy định pháp luật, nguyên tắc quản lý điều hành của doanh
nghiệp và hiệu quả các hoạt động của doanh nghiệp.
+ Giám sát sau khi thực hiện là việc theo dõi, kiểm tra, thanh tra các kết quả
hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở các báo cáo kết quả hoặc quyết toán
định kỳ và giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật, quyết định của
chủ sở hữu hoặc điều lệ doanh nghiệp.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước, có thể sử dụng
một số chỉ tiêu sau:
Hiệu quả sử dụng vốn và khả năng sinh lời:
Tổng lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu =
Tổng doanh thu
Chỉ tiêu này dùng để xem xét một đồng doanh thu đem lại bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
Tổng lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu =
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này được dùng để xem xét một đồng vốn chủ sở hữu đem lại bao nhiêu
đồng lợi nhuận.
Mức độ bảo toàn vốn:
Số vốn nhà
nước bảo toàn
cuối kỳ
=
Số vốn nhà
nước đầu kỳ
+
Số vốn nhà nước
đầu tư thêm hoặc
rút về
+
Số vốn đầu tư
thêm từ lợi
nhuận sau thuế
Khả năng thanh toán:
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
Khả năng thanh toán hiện thời =
Nợ ngắn hạn
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Tiền
Khả năng thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Các chỉ tiêu này phản ánh khả năng thanh toán nợ quá hạn của doanh nghiệp.
Hiệu quả của việc quản lý sử dụng vốn tại các doanh nghiệp nhà nước được thể
hiện bằng hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói
riêng của các doanh nghiệp nhà nước.
Trong công tác kiểm tra giám sát quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp
cần:
Thứ nhất, nắm được tình hình vốn, tài sản của doanh nghiệp trong cả nước và
phân loại theo doanh nghiệp nhà nước trung ương, doanh nghiệp nhà nước địa
phương một cách có hệ thống;
Thứ hai, thiết lập cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh về doanh nghiệp nhà nước ở các địa
phương và trung ương dựa trên tiêu chí nhất định. Cơ sở dữ liệu sẽ phục vụ cho
việc phân tích đánh giá về doanh nghiệp nhà nước không chỉ của cơ quan tài chính
mà của nhiều ngành chức năng của trung ương, các chuyên gia trong nước và
quốc tế; giúp phân biệt giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn, đóng
vai trò quyết định trong nền kinh tế. Chất lượng của cơ sở dữ liệu cần được nâng
cao bằng việc xử lý, sắp xếp khoa học các dữ liệu. Khai thác, sử dụng hệ thống cơ
sở dữ liệu sao cho có hiệu quả, không chỉ phục vụ cho việc đánh giá tổng quát tình
hình doanh nghiệp cả nước mà còn được sử dụng đề phân tích đánh giá từng
doanh nghiệp, từng ngành...
Thứ ba, bên cạnh việc giám sát từ xa cần thực hiện việc giám sát tại chỗ. Hàng
năm, tuỳ theo điều kiện cụ thể tình hình quản lý vốn của các doanh nghiệp, cơ
quan quản lý tài chính doanh nghiệp tổ chức kiểm tra theo chuyên để hoặc kiểm
tra toàn diện ở một số hoặc toàn bộ các doanh nghiệp trên địa bàn. Việc kiểm tra
như vậy giúp cho doanh nghiệp nhà nước chấn chỉnh công tác quản lý vốn, hạch
toán kế toán...
Thêm vào đó, các cơ quan thanh tra tài chính, kiểm toán nhà nước cùng tiến
hành thường xuyên việc thanh tra và kiểm toán tại doanh nghiệp nhà nước. Việc
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
kiểm tra này sẽ giúp khắc phục được một số yếu kém còn tồn tại trong công tác
quản lý vốn, đồng thời qua đó góp phần làm tăng thu cho ngân sách nhà nước.
Việc giám sát, kể cả giám sát từ xa và giám sát tại chỗ cần tập trung vào đánh
giá, phát hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó dự báo sớm
tình hình mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp và đề xuất biện pháp để ngăn
chặn tình trạng này. Công tác giám sát cần giúp cho việc đánh giá đúng thực trạng
tình hình quản lý vốn và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, như việc phát
hiện doanh nghiệp bị thua lỗ, doanh nghiệp đầu tư lãng phí, công nghệ thiết bị lạc
hậu, khả năng tiêu thụ sản phẩm, giá thành sản phẩm và khả năng thu hồi vốn
không được tính toán kỹ... để có biện pháp ngăn chặn kịp thời;
Thứ tư, kênh thông tin từ doanh nghiệp lên các cơ quan tài chính cũng như
trong hệ thống cơ quan tài chính doanh nghiệp thường phải nhanh, đầy đủ.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý vốn nhà nước tại
doanh nghiệp nhà nước
1.3.1. Quan điểm của nhà nước về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Quan điểm của nhà nước về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp là nhân tố
đầu tiên, có ảnh hưởng quyết định tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp nhà nước. Sở dĩ như vậy là vì nhân tố này sẽ quyết định tổ chức bộ máy
quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp như thế nào? Nội dung các văn bản pháp
luật phục vụ cho công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp phải như thế
nào? Trình độ của cán bộ quản lý? Chẳng hạn: Nếu một nhà nước quan niệm nên
tạo sự chủ động cao cho doanh nghiệp thì việc xây dựng văn bản pháp luật, tổ
chức bộ máy quản lý cũng được thực hiện theo hướng tạo sự chủ động cho doanh
nghiệp, bộ máy quản lý gọn nhẹ, chấm dứt sự can thiệp sâu vào hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp...
1.3.2. Tổ chức bộ máy quản lý
Hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước tiếp đó phụ thuộc
vào tổ chức bộ máy quản lý, vốn nhà nước sẽ không thể được quản lý tốt nếu tổ
chức bộ máy quản lý không hợp lý. Hiện nay ở nhiều nước, cơ quan trực tiếp tiến
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
hành công tác quản lý tài chính nói chung và quản lý vốn nhà nước nói riêng đối
với doanh nghiệp cũng là cơ quan trực tiếp hoặc gián tiếp ban hành các chính
sách, chế độ quản lý vốn tại doanh nghiệp (thông qua việc dự thảo các chính sách
trình cơ quan có thẩm quyền ký ban hành). Bộ máy quản lý gồm một cơ quan
trung ương và các cơ quan địa phương. Với mô hình này, việc giám sát doanh
nghiệp được thực hiện theo phương thức từ xa, định kỳ theo quy định, tiến hành từ
cấp địa phương đến trung ương. Công tác giám sát từ xa nếu được thực hiện đầy
đủ, kịp thời sẽ tạo điều kiện cho cơ quan quản lý có được cái nhìn tổng thể về toàn
bộ hệ thống doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế. Tuy nhiên, việc quản vốn
nhà nước không chỉ là nhiệm vụ của một cơ quan duy nhất, nó đòi hỏi sự kết hợp
chặt chẽ của các cơ quan quản lý khác như đơn vị chủ quản, cơ quan thuế...Các cơ
quan này cũng thực hiện việc giám sát tại chỗ đối với các doanh nghiệp. Doanh
nghiệp rất nhạy cảm đối với hoạt động giám sát tại chỗ này. Việc giám sát tại chỗ
có thực sự phát huy hiệu quả, nghĩa là thấy và phản ánh được kịp thời những khó
khăn mà doanh nghệp đang gặp phải để tìm cách tháo gỡ, tạo điều kiện thuận lợi
cho các dự án đầu tư doanh nghiệp đang thực hiện...Đồng thời các cơ quan quản lý
phải tổ chức việc giám sát tại chỗ cho phù hợp, không gây cản trở đối với hoạt
động của doanh nghiệp và không để cho một số cán bộ lợi dụng việc giám sát
ngay tại doanh nghiệp để làm lợi cho riêng mình.
Ở nước ta, việc tổ chức phân cấp quản lý các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn
những vướng mắc. Cơ chế quản lý Bộ chủ quản và cấp hành chính chủ quản vẫn
còn gây nhiều khó khăn cho hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà
nước. Hiện nay, Cục tài chính doanh nghiệp chịu trách nhiệm quản lý các doanh
nghiệp nhà nước trong cả nước, song thực sự thì Cục chỉ quản lý và trực tiếp giải
quyết những vấn đề về vốn liên quan đến những doanh nghiệp nhà nước trung
ương, những doanh nghiệp nhà nước địa phương thì do Sở tài chính vật giá tỉnh,
thành phố quản lý. Việc phân cấp quản lý này tạo ra một sự phát triển không cân
đối giữa các doanh nghiệp nhà nước trung ương và các doanh nghiệp nhà nước địa
phương, đồng thời cũng chưa triệt để trong việc thực hiện mục đích hình thành
Cục tài chính doanh nghiệp là quản lý thống nhất các doanh nghiệp nhà nước. Quy
mô của các doanh nghiệp nhà nước trung ương lớn hơn các doanh nghiệp nhà
nước địa phương, các doanh nghiệp nhà nước trung ương cũng mau đổi mới máy
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
móc thiết bị hơn doanh nghiệp nhà nước địa phương do có nhiều nguồn vốn đầu
tư. Các doanh nghiệp nhà nước trung ương làm ăn cũng hiệu quả hơn các doanh
nghiệp nhà nước địa phương. Từ đây có thể thấy, việc quản lý các doanh nghiệp
nhà nước tuy đã tập trung gọn lại về một đầu mối là Cục tài chính doanh nghiệp
nhưng trên thực tế thì việc quản lý các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự được tập
rtung và đó là một trong các nguyên nhân gây ra sự phát triển không đồng đều
giữa các doanh nghiệp nhà nước. Sở dĩ việc quản lý vẫn cần phải phân cấp như
vậy vì hiện nay khối lượng công việc cho cán bộ quản lý tại Cục tài chính doanh
nghiệp là quá lớn. Bởi vậy, việc xây dựng và hoàn thiện hơn nữa bộ máy quản lý
các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới là một vấn đền không kém phần
không kém phần quan trọng được đặt ra cùng với việc đổi mới công tác quản lý
vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
1.3.3. Sự phù hợp của các văn bản pháp luật liên quan
Để tối đa hoá lợi nhuận, các doanh nghiệp có thể bất chấp những lợi ích chung
của toàn xã hội. Để hạn chế mặt tiêu cực đó, bên cạnh “bàn tay vô hình”- các quy
luật của thị trường còn có “bàn tay hữu hình”-sự can thiệp của nhà nước. Sự can
thiệp của nhà nước thể hiện qua những chính sách quản lý vĩ mô đối với nền kinh
tế, qua hệ thống pháp luật...Các chính sách quản lý của nhà nước vừa trực tiếp,
vừa gián tiếp tác động tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà
nước.
Sự tác động trực tiếp thể hiện qua những chính sách trực tiếp liên quan tới hoạt
động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Đó là những chính sách
quy định về nội dung quản lý vốn, phương pháp quản lý vốn, bộ máy quản lý vốn.
Các chính sách này được thực hiện bởi cơ quan quản lý nhà nước cũng như hệ
thống các doanh nghiệp nhà nước. Một hệ thống chính sách quản lý đúng đắn, đầy
đủ sẽ đem lại hiệu quả quản lý cao và ngược lại, một hệ thống chính sách quản lý
chưa đầy đủ, không đồng bộ, còn thiếu sót sẽ làm giảm hiệu quả của công tác
quản lý.
Sự tác động gián tiếp của chính sách quản lý của nhà nước tới hoạt động quản
lý vốn nhà nước thể hiện ở chỗ: các chính sách quản lý của nhà nước có tạo ra
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
được một môi trường thuận lợi cho công tác quản lý vốn nhà nước hay không, hay
tạo khó khăn cho công tác quản lý? Ví dụ như: chính sách về sắp xếp lại doanh
nghiệp nhà nước có tạo điều kiện cho công tác quản lý vốn nhà nước hay không?...
Ở nước ta, tác động của yếu tố này tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại
doanh nghiệp nhà nước thể hiện rất rõ. Cùng với việc không ngừng hoàn thiện hệ
thống văn bản chính sách về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (căn
cứ để quản lý), việc tổ chức thực hiện đã cho thấy những dấu hiệu tích cực rõ rệt.
Tuy vậy vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế trong hệ thống chính sách đòi hỏi phải tiếp
tục hoàn thiện để quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước tốt hơn.
1.3.4. Trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý
Trình độ, năng lực của cán bộ quản lý trực tiếp tác động tới hoạt động quản lý
vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Bộ máy quản lý các doanh nghiệp nhà
nước là cơ quan trực tiếp tiến hành hoạt động quản lý tài chính nói chung và quản
lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Không những thế ở nhiều
nước đây còn là cơ quan trực tiếp hay gián tiếp ban hành các chính sách, chế độ về
quản lý vốn tại các doanh nghiệp. Bởi vậy, sự am hiểu của cán bộ quản lý về
ngành nghề lĩnh vực mình quản lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng nắm bắt
tình hình của họ với lĩnh vực đó, do đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc cán bộ quản
lý đó có phân tích và đưa ra được những kết luận đúng đắn hay không, có dự thảo
ra được những chính sách quản lý đúng đắn hay không? Thêm vào đó, phẩm chất
đạo đức của cán bộ quản lý sẽ quyết định việc họ có thực hiện quản lý đúng theo
lương tâm trách nhiệm hay không?
1.3.5. Môi trường kinh tế-chính trị-xã hội
Sự ổn định về kinh tế-chính trị-xã hội là nhân tố quan trọng, có tác động lớn tới
hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp và do đó tác động tới hoạt động quản lý
vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Môi trường chính trị-xã hội ổn định, nền
kinh tế tăng trưởng ổn định, ít lạm phát và ít biến động sẽ tạo ra cho các nhà đầu
tư một tâm lý yên tâm trong quá trình huy động và sử dụng vốn, do đó vốn nhà
nước tại doanh nghiệp nhà nước có điều kiện được bảo toàn và phát triển.
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Nền kinh tế nước ta mới chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường-một cơ chế kinh
tế luôn được quan niệm là năng động, bất ổn định, chứa đựng nhiều cơ hội và cả
những khó khăn. Trong thời gian qua, do nhiều lý do như ảnh hưởng khủng hoảng
kinh tế khu vực, thiên tai khiến môi trường kinh tế nước ta chưa thực sự ổn định.
Mặt khác, môi trường kinh tế hiện nay của nước ta còn đang thiếu nhiều yếu tố
cần thiết để tạo điều kiện cũng như tạo động lực cho hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp.
Các nhân tố trên đây đều tác động lớn tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại
doanh nghiệp nhà nước. Bởi vậy việc nghiên cứu tác động của từng nhân tố cũng
như tác động tổng hợp của các nhân tố tới hoạt động quản lý vốn nhà nước là hết
sức cần thiết. Từ đó tìm ra được các nguyên nhân dẫn đến những bất hợp lý trong
hoạt động quản lý vốn nhà nước, rồi đưa ra những đề xuất để hoàn thiện công tác
quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐỐI VỚI PHẦN VỐN
NHÀ NƯỚC TẠI NHÀ MÁY LEN HÀ ĐÔNG
2.1. Tổng quan Nhà máy len Hà Đông
2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển
Nhà máy len Hà Đông là một doanh nghiệp nhà nước, được khởi công xây
dựng vào tháng 4/1958. Năm 1959, chính thức đi vào hoạt động và có tên là Nhà
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
máy nhuộm in hoa Hà Đông. Khi đó, Nhà máy chỉ là một cơ sở gia công nhuộm
tẩy các mặt hàng vải lụa, sợi thuộc công ty Bông vải, sợi-Bộ nội thương. Ban đầu,
công nghệ sản xuất chủ yếu là sản xuất thủ công tren chảo rang và hong khô ngoài
trời.
Tháng 1/1961, Nhà máy chính thức được chuyển sang cho bộ Công nghiệp nhẹ
quản lý và đổi tên thành Xí nghiệp in hoa Hà Đông. Nhiệm vụ chủ yếu của xí
nghiệp lúc đó là in hoa trên vải và khăn mặt bông, nhuộm vải sợi phục vụ tiêu
dùng trong nước.
Năm 1973, theo kế hoạch đầu tư mở rộng của Bộ Công nghiệp nhẹ, xí nghiệp
được đầu tư xây dựng thêm một phân xưởng sản xuất len phục vụ cho dệt thảm
xuất khẩu. Nhờ đó, thiết bị sản xuất của xí nghiệp được cơ khí hoá dần dần. Đến
năm 1977, xí nghiệp được đổi tên thành Nhà máy len nhuộm Hà Đông, thuộc Liên
hiệp các xí nghiệp dệt Bộ công nghiệp.
Từ năm 1990, thực hiên chương trình Đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước,
Nhà máy đã tiến hành tổ chức lại sản xuất và sắp xếp lại lao động. Để giải quyết
công ăn việc làm cho số lao động dư thừa, Nhà máy đã xây dựng thêm một bộ
phận dệt thảm len xuất khẩu, đồng thời phát triển thêm dây truyền in vải hoa (là
nghề truyền thống của nhà máy). Cũng trong năm này, Nhà máy đổi tên thành
Công ty len Hà Đông. Năm 1996, Nhà máy đầu tư xây dựng thêm một phân
xưởng sản xuất len Acrylic đan áo từ xơ hoá học với dây chuyền công nghệ và
máy móc nhập khẩu từ Pháp.
Năm 1999, Nhà máy chính thức sát nhập trở thành đơn vị trực thuộc Công ty
len Việt Nam (thành viên của Tổng công ty dệt may Việt Nam) và mang tên Nhà
máy len Hà Đông. Hiện mặt hàng chủ yếu của Nhà máy là len thảm và len
Acrylic; ngoài ra, nhà máy còn nhận gia công nhuộm vải và in hoa.
Qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển, Nhà máy đã có nhiều cố gắng trong
việc đầu tư mở rộng cơ sở vật chất kĩ thuật cho sản xuất. Từ một cơ sở gia công,
sản xuất thủ công ban đầu, đến nay đã trở thành một nhà máy với 320 cán bộ công
nhân viên. Trong những năm gần đây, do biến động của thị trường tiêu thụ, sản
phẩm của nhà máy phải cạnh tranh với các hàng hoá nhập lậu bằng các đường tiểu
nghạch qua biên giới nên Nhà máy gặp rất nhiều khó khăn. Tuy vậy, Nhà máy vẫn
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Nhà máy len Hà Đông
Công ty len Việt Nam
Tổng công ty dệt may Việt
Nam
luôn cố gắng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, đảm bảo việc làm cho số
lao động hiện có.
2.1.2. Bộ máy quản lý
Nhà máy len Hà Đông hiện là thành viên hạch toán phụ thuộc Công ty len Việt
Nam, một thành viên (hạch toán độc lập) của Tổng công ty dệt may Việt Nam.
Bởi vậy giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ, thể
hiện ở các mặt sau:
Tổng công ty Dệt - May Việt Nam là Tổng
công ty Nhà nước, do Thủ tướng Chính phủ quyết
định thành lập, gồm các thành viên có quan hệ
gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công
nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt
động trong ngành dệt, may mặc, nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công
chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao; nâng
cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn Tổng
công ty, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Cụ thể là:
+ Đổi mới công nghệ, trang thiết bị theo chiến lược phát triển của Tổng công ty
+ Giao lại cho các đơn vị thành viên quản lý, sử dụng các nguồn lực mà Tổng
công ty đã nhận của Nhà nước; điều chỉnh những nguồn lực đã giao cho các đơn
vị thành viên trong trường hợp cần thiết, phù hợp với kế hoạch phát triển chung
của toàn Tổng công ty.
+ Lựa chọn, khai thác và mở rộng thị trường trong và ngoài nước; hướng dẫn
và phân công thị trường cho các đơn vị thành viên; được xuất khẩu, nhập khẩu
theo quy định của Nhà nước.
+ Hướng dẫn giá hoặc khung giá xuất, nhập khẩu vật tư, nguyên liệu, phụ liệu,
thiết bị, phụ tùng, sản phẩm và dịch vụ trong Tổng công ty; quy định khung giá
xuất, nhập khẩu một số vật tư, nguyên phụ liệu, thiết bị, phụ tùng, sản phẩm và
dịch vụ quan trọng. Trường hợp các đơn vị thành viên phải áp dụng mức giá
không nằm trong khung giá xuất, nhập khẩu do Tổng công ty quy định thì phải
được sự đồng ý của Tổng Giám đốc.
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
+ Xây dựng và áp dụng các định mức lao động, vật tư chủ yếu, đơn giá tiền
lương trên đơn vị sản phẩm trong khuôn khổ các định mức, đơn giá của Nhà nước.
Công ty Len Việt nam là doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, hạch
toán độc lập, được Tổng công ty dệt may Việt Nam giao vốn, tài nguyên, đất đai
và các nguồn lực khác. Công ty chịu trách nhiệm về cam kết của mình trong phạm
vi số vốn do Công ty quản lý và sử dụng, cụ thể là:
- Trong chiến lược và đầu tư phát triển, Công ty được giao tổ chức thực hiện
các dự án đầu tư phát triển theo kế hoạch của Tổng công ty và được Tổng công ty
giao các nguồn lực để thực hiện dự án đó;
- Trong hoạt động kinh doanh, Công ty xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch
của mình trên cơ sở bảo đảm các mục tiêu, chỉ tiêu, các cân đối lớn, các định mức
kinh tế - kỹ thuật chủ yếu, đơn giá và giá của Công ty phù hợp với kế hoạch chung
của Tổng công ty;
- Trong hoạt động tài chính và hạch toán kinh tế:
+ Công ty được nhận vốn là nguồn lực khác của Nhà nước do Tổng công ty
giao lại cho Công ty. Công ty có nhiệm vụ bảo toàn, phát triển vốn và các nguồn
lực này;
+ Công ty được hình thành quỹ đầu tư xây dựng cơ bản, quỹ phát triển sản
xuất, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ dự trữ tài chính theo Quy chế tài chính
của Tổng công ty; có nghĩa vụ trích nộp và sử dụng các quỹ tập trung của Tổng
công ty quy định tại Quy chế tài chính Tổng công ty và theo các quyết định của
Hội đồng quản trị;
+ Công ty giao vốn và nguồn lực khác cho các nhà máy thành viên, được quyền
điều hoà vốn, điều động tài sản giữa các nhà máy thành viên, tương ứng với nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh Công ty giao theo nguyên tắc tăng, giảm.
Nhà máy len Hà Đông, với tư cách là một thành viên hạch toán phụ thuộc
Công ty len Việt Nam, được Công ty giao vốn, chịu trách nhiệm trước Công ty và
Nhà nước về hiệu quả sử dụng, bảo toàn phát triển vốn và các nguồn lực được
giao. Nhà máy chịu sự chỉ đạo, điều phối trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
hoạt động đầu tư và sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ trong hoạt động tài chính của
Công ty.
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
GIÁM
ĐỐC
Nhà máy Len Hà Đông tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh theo mô hình trực
tuyến. Đứng đầu nhà máy là giám đốc- chịu trách nhiệm lãnh đạo chung toàn nhà
máy. Giám đốc chịu trách nhiệm trước Nhà nước, trước nhà máy về mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Giúp việc cho
giám đốc có phó giám đốc kĩ thuật là người tham mưu cho giám đốc. Dưới nữa,
Nhà máy có các phòng ban chức năng như: Phòng tổ chức hành chính, Phòng kĩ
thuật, Phòng kinh doanh, Phòng tài chính- kế toán. Giữa các phòng ban chức
năng có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, cùng triển khai thực hiện các mục tiêu sản
xuất kinh doanh của Nhà máy. Dưới đây là sơ đồ tổ chức quản lý của Nhà máy len
Hà Đông:
2.1.3. Đặc điểm tổ chức hệ thống sản xuất và tiêu thụ
2.1.3.1. Nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu của Nhà máy bao gồm nguyên liệu chính và vật liệu phụ (hoá
Phó giám đốc kỹ
thuât
Phòng tổ chức
hành chính
Phòng kinh
doanh
Phòng kỹ thuật Phòng tài chính-
kế toán
Phân xưởng
len 1
Phân xưởng
len 2
Phân xưởng
nhuộm, in hoa
Ngành cơ
điện
Các tổ sản xuất Phân xưởng
cơ điện
Phân xưởng
nồi hơi
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
chất thuốc nhuộm, nước nhuộm, nhiên liệu động lực) với nhiều chủng loại dùng
để sản xuất các loại sản phẩm khác nhau.
Nguyên liệu chính chủ yếu bao gồm: Lông cừu nhập từ NewDiland dùng để
sản xuất len thảm; Tow Acrylic trắng nhập từ Nhật Bản để sản xuất len Acrylic.
Vật liệu phụ bao gồm: Midlonfast blue E 200%, Polar Yellow, Albegal A dùng
để sản xuất len thảm; Tinegal MR, Soft AWT dùng để sản xuất len Acrylic; Các
loại vật liệu phụ khác.
2.1.3.2. Lao động
Nhà máy len Hà Đông có số công nhân viên trong danh sách là 405 người
nhưng hiện thực tế đi làm tại Nhà máy là 320 người trong đó nhân viên quản lý là
44 người (do thời gian trước, Nhà máy không có việc làm nên đã giải quyết cho
một bộ phận công nhân viên về nghỉ không lương).
2.1.3.3. Trang thiết bị, máy móc
Máy móc, thiết bị của Nhà máy len Hà Đông hiện nay đã quá cũ. Hầu hết các
máy móc, thiết bị của Nhà máy đã được đưa vào sử dụng từ năm 1976 và 1982.
Riêng máy móc thiết bị tại phân xưởng 2 tuy mới được đầu tư mua năm 1996
nhưng không phải máy móc thiết bị mới được sản xuất mà cũng chỉ là hàng dùng
lại, theo xác minh chúng được sản xuất từ năm 1989.
2.1.3.4. Cơ cấu tổ chức sản xuất
Nhà máy gồm có 3 phân xưởng và một ngành sản xuất. Các phân xưởng đều có
mô hình tổ chức quản lý như sau: Đứng đầu các phân xưởng, ngành là các quản
đốc, trưởng ngành. Giúp việc cho các quản đốc có các đốc công, các cán bộ kĩ
thuật và các tổ trưởng sản xuất, giúp việc cho trưởng ngành cũng có các tổ trưởng
sản xuất. Mỗi phân xưởng và ngành sản xuất một hoặc một nhóm sản phẩm: Phân
xưởng len 1 sản xuất len thảm, phân xưởng len 2 sản xuất len cao cấp Acrylic đan
áo từ xơ hoá học, phân xưởng nhuộm- in hoa nhuộm, in vải hoa gia công các loại
theo yêu cầu của khách hàng, ngành cơ điện sản xuất phụ trợ cho các phân xưởng
trong nhà máy.
2.1.3.5. Tình hình tiêu thụ:
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Hiện nay, Nhà máy có hai cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm của Nhà máy,
nhưng chỉ có một cửa hàng là hoạt động thực sự có hiệu quả. Tình hình tiêu thụ
sản phẩm được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Sản lượng thực tế năm 2001, 2002
Sản lượng sản xuất (kg) Sản lượng tiêu thụ (kg)
Loại sản phẩm
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2001 Năm 2002
Len thảm 85.507 67.277 80.303 63.375
Len Acrylic 187.335 306.675 179.485 229.684
(Nguồn: Báo cáo tình hình tiêu thụ sản phẩm của Nhà máy)
Như vậy, sản lượng sản xuất, tiêu thụ len thảm giảm do nhu cầu đối với mặt
hàng này giảm mạnh. Chỉ có len Acrylic là tăng sản lượng sản xuất, tiêu thụ; với
mặt hàng này, đối thủ cạnh tranh đáng kể nhất của Nhà máy là len AC của Trung
Quốc có giá hiện rẻ hơn len của Nhà máy 2000đ/cân song chất lượng kém hơn,
tràn vào theo đường tiểu ngạch chiếm lĩnh thị trường và len Vĩnh Thịnh chuyên
sản xuất len Acrylic dùng để đan áo, công ty này nhập khẩu top màu nên có lợi thế
là màu của họ đẹp và đồng đều hơn song lại có hạn chế là không chủ động được
về màu của sản phẩm nên không đáp ứng được nhu cầu đa dạng và thường xuyên
thay đổi của khách hàng, trong khi đó Nhà máy len Hà Đông do quy trình sản xuất
là tự nhuộm màu nên tuy sản phẩm không đẹp và đồng đều được như bên Vĩnh
Thịnh (do công nghệ lạc hậu hơn và tay nghề công nhân yếu hơn) song lại có thể
chủ động trong việc nhuộm màu đáp ứng nhu cầu đa dạng và hay thay đổi của
người tiêu dùng; nhờ lợi thế đó mà sản lượng sản xuất, tiêu thụ của Nhà máy năm
qua vẫn tăng. Có thể kể tên một số khách hàng lớn của Nhà máy trong 2 năm qua
gồm có: Công ty TNHH Hoàng Dương (60 tấn len Acrylic mỗi năm), Công ty cổ
phần kinh doanh len Sài Gòn (20 tấn len Acrylic mỗi năm), Công ty TNHH Đông
Đô (20 tấn len thảm), Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Nam
Định (6 tấn len thảm)...
2.2. Thực trạng công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà
máy len Hà Đông
2.2.1. Cơ sở thực hiện quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Quốc hội, Chính Phủ, các Bộ ban hành các văn bản pháp luật (từ Luật tới
Thông tư) quy định các chế độ quản lí vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước.
Có thể kể tên một số văn bản sau đây: Luật doanh nghiệp nhà nước ngày
20/04/1995; Nghị định số 59/CP ngày 3/10/1996 của Chính phủ về Quy chế quản
lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước; Nghị định số
27/1999/NĐ-CP ngày 20/04/1999 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Nghị
định số 59/CP nói trên; Nghị định số 69/2002/NĐ-CP ngày 12/7/2002 về quản lý
và xử lý nợ tồn đọng đối với DNNN và Thông tư số 85/2002/TT-BTC hướng dẫn
thực hiện Nghị định này; Thông tư số 62/1999/TT-BTC ngày7/6/1999 hướng dẫn
việc quản lý, sử dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước; Chế độ quản lí,
sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định (Ban hành kèm theo Quyết định số
166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999 của Bộ trưởng Bộ tài chính)...
Tổng công ty dệt may Việt Nam dựa vào những văn bản pháp luật liên quan
như trên và Quy chế tài chính mẫu của Tổng công ty nhà nước (Ban hành kèm
theo Quyết định số 838 TC/QĐ/TCDN ngày 28/8/1996 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính) xây dựng Quy chế tài chính của Tổng công ty dệt may Việt Nam (Ban hành
kèm theo Quyết định số 36/QĐ/HĐQT ngày 15/2/1997 của Chủ tịch Hội đồng
quản trị Tổng công ty dệt may Việt Nam). Công ty len Việt Nam (một thành viên
hạch toán độc lập Tổng công ty dệt may Việt Nam) căn cứ vào đó xây dựng Quy
chế tài chính Công ty len Việt Nam (Ban hành kèm theo Quyết định số 19/QĐ-
CTLVN ngày 19/8/1999 của Tổng giám đốc Công ty len Việt Nam), trong đó đưa
ra Chế độ tài chính của các đơn vị thành viên ( là các thành viên hạch toán phụ
thuộc Công ty len Việt Nam trong đó có Nhà máy len Hà Đông). Các nhà máy
thành viên chịu trách nhiệm thi hành nghiêm chỉnh các quy định trong quy chế
này. Ngoài các quy định trên, các nhà máy thành viên thực hiện đúng quy chế
quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh theo quy định hiện hành của nhà nước.
Nội dung các văn bản trên đây hình thành nên căn cứ để các cấp quản lý quản
lý vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông.
2.2.2. Tổ chức thực hiện quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy
2.2.2.1. Quản lý quá trình hình thành vốn
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Được thành lập ngày 29/3/1999, Công ty len Việt Nam thực hiện giao vốn cho
Nhà máy len Hà Đông trên cơ sở số vốn Nhà máy len Hà Đông đang quản lý và sử
dụng. Theo Biên bản giao vốn đó, vốn Công ty len Việt Nam giao cho Nhà máy
len Hà Đông sử dụng và bảo toàn tính đến 0h ngày 1/7/1999 thể hiện ở Bảng dưới:
Bảng 2: Vốn giao cho Nhà máy len Hà Đông tính đến ngày 1/7/1999
đơn vị : đồng
Trong đó
Chỉ tiêu
Tổng nguồn
vốn Nguồn ngân sách Nguồn bổ sung
Tổng số vốn giao 11.250.652.059 4.847.958.744 6.402.693.315
1. Vốn cố định 5.200.688.859 2.503.093.658 2.697.595.201
-Dùng trong SXKD 4.956.668.276 2.259.073.075 2.697.595.201
-Chờ thanh lý 244.020.583 244.020.583 0
2. Vốn lưu động 6.049.963.200 2.344.865.086 3.705.098.114
-Dùng trong SXKD 2.833.413.014 0 2.833.413.014
-Ứ đọng chờ thanh
lý
3.216.550.186 2.344.865.086 871.685.100
(Nguồn : Biên bản giao vốn cho Nhà máy len Hà Đông ngày 1/7/1999)
Số vốn giao được xác định qua sổ sách Nhà máy len Hà Đông đưa lên, không
được Công ty len Việt Nam kiểm kê kỹ lưỡng để đánh giá lại giá trị phần vốn nhà
nước tại Nhà máy.
Theo số liệu tổng kết được từ Báo cáo tài chính của Nhà máy những năm gần
đây, Vốn Nhà nước giao cho Nhà máy được thể hiện ở Đồ thị sau:
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Đồ thị 1: Tình hình biến động vốn nhà nước qua hai năm 2001-2002
(số dư tại thời điểm 31/12 hàng năm)
Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
VNN (đ) 11203245976 11255478548 10877609283 18488599890
NV (đ) 18549821203 21.438.844.185 21452408485 21959137838
VNN/NV (%) 60,40 52,50 50,71 84,20
3a) Biểu diễn theo giá trị tuyệt đối (đơn vị: đồng):
3b) Biểu diễn theo giá trị tương đối (đơn vị: %):
0
5000000000
10000000000
15000000000
20000000000
N¨m 1999 N¨m 2000 N¨m 2001 N¨m 2002
VNN
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Đồ thị trên cho thấy chỉ có sự giảm nhẹ của vốn nhà nước giai đoạn 1999-2001
theo cả giá trị tuyệt đối và tương đối (trong năm 2001 Nhà máy điều chuyển 1 cửa
hàng cho Công ty len Việt Nam cùng máy móc cho Nhà máy len Bình Lợi); song
sang năm 2002 thì có sự biến động mạnh là do khoản vốn 7.478.889.093 đ trước
đã được Công ty len Việt Nam quyết định điều chuyển khỏi Nhà máy nhưng Nhà
máy chưa chuyển mà vẫn để lại ở tài khoản 336- phải trả nội bộ, trong năm 2000
sau khi Nhà máy được kiểm toán thấy việc điều chuyển đó không hợp lí đã kiến
nghị lên Công ty điều chuyển lại số vốn đó cho Nhà máy và được Công ty thực
hiện trong năm 2002.
Ở Nhà máy len Hà Đông, hình thức thực hiện đầu tư và phạm vi đầu tư của
Nhà nước vào Nhà máy cụ thể như sau:
Một là, cấp vốn điều lệ và bổ sung vốn:
- Vốn điều lệ để san lấp mặt bằng, xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc
thiết bị đưa vào sản xuất;
- Vốn bổ sung được cấp trong trường hợp Nhà máy được Công ty len Việt
Nam giao thêm nhiệm vụ (chủ yếu dưới hình thức tài sản điều chuyển về hay
giảm khoản phải trả nội bộ);
Hai là, cho Nhà máy vay dài hạn không tính lãi, để lại tiền khấu hao để Nhà
máy tái đầu tư, thay thế đổi mới tài sản cố định và sử dụng cho các yêu cầu kinh
doanh khác theo quy định của Nhà nước;
Ba là, giao quyền sử dụng đất cho Nhà máy dưới hình thức thuê đất:
- Diện tích đất Nhà máy thuê là 39.938m2
- Về đường phố, khu đất nằm trên đường 430 thuộc địa bàn Vạn Phúc. Căn
cứ vào Quyết định 03 của UBND tỉnh Hà Tây thì lô đất của Nhà máy nằm
trên đường phố loại 2.
- Về vị trí, căn cứ vào thông tư liên bộ 856, thông tư 70 của Bộ Tài Chính,
căn cứ thực tế lô đất của Nhà máy từ đường 430 kéo dài xuống áp với ruộng
canh tác của Vạn Phúc (chiều dài > 200m2).
- Về tiền thuê, hiện Nhà máy phải nộp tiền thuê hàng năm: 101.457.000 đ.
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Là một đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc Công ty len Việt Nam, vốn Nhà
nước giao cho Nhà máy quản lí và sử dụng bao gồm:
Một là, vốn được cấp từ ngân sách và vốn có nguồn gốc ngân sách:
+ Do Công ty len Việt Nam cấp trực tiếp;
+ Công ty len Việt Nam điều chuyển về từ các đơn vị nội bộ là các Nhà máy:
Dệt chăn - Len Bình Lợi, Len Vĩnh Thịnh, Len Biên Hoà, Len Hải Phòng, Len
Nam Định;
+ Quỹ khấu hao cơ bản Công ty len Việt Nam không thu mà để lại cho Nhà
máy quản lí và sử dụng (để tái đầu tư, thay thế đổi mới tài sản cố định và sử dụng
cho các yêu cầu kinh doanh khác theo quy định);
+ Tiền lãi không phải trả từ các khoản vốn vay Tổng công ty dệt may Việt
Nam;
Hai là, vốn Nhà máy tự tích luỹ từ lợi nhuận sau thuế của Nhà máy;
Hàng năm Nhà máy len Hà Đông căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất kinh doanh,
tiến hành xây dựng kế hoạch tài chính. Công ty len Việt Nam xem xét nhu cầu về
vốn của Nhà máy; nếu qua xem xét thấy Nhà máy thiếu vốn, Công ty có biện pháp
bổ sung kịp thời: điều động, xin cấp bổ sung theo luật định, hoặc đi vay cho Nhà
máy và ngược lại.
Bên cạnh vốn được giao, Nhà máy đã tự huy động vốn để phục vụ sản xuất
kinh doanh, thay đổi cơ cấu nguồn và tài sản nhằm mục tiêu hiệu qủa, bảo toàn và
phát triển vốn, cụ thể: Nhà máy sử dụng tín dụng Ngân hàng với số dư Nợ
1000.000.000đ tại thời điểm 01/01/2002, tín dụng thương mại với số dư Nợ
435.504.481 đồng tại thời điểm 01/01/2002 và 617.731.708 đồng tại thời điểm
31/12/2000... Vốn này được Nhà máy sử dụng để phục vụ kịp thời các nhu cầu
trong kinh doanh theo nguyên tắc bảo toàn và có hoàn trả. Tài sản được thay đổi
cơ cấu theo hướng giảm ngân quỹ nhằm đẩy mạnh sản xuất (tăng tồn kho) và tiêu
thụ (tăng phải thu). Tổng giám đốc Công ty len Việt Nam uỷ quyền cho Giám đốc
Nhà máy len Hà Đông được vay vốn lưu động theo mức quy định tại giấy uỷ
quyền với thời gian vay từ 6 tháng đến dưới 12 tháng. Vay dài hạn được căn cứ
vào từng dự án được duyệt. Trong trường hợp có nhu cầu vay lớn hơn, Tổng giám
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
đốc sẽ uỷ quyền từng trường hợp cụ thể. Tổng giám đốc công ty còn uỷ quyền cho
Giám đốc nhà máy len Hà Đông được ký hợp đồng mua nguyên vật liệu trả chậm
thông qua Vinatex ở phía bắc, hoặc các đơn vị khác.
2.2.2.2. Quản lý quá trình sử dụng vốn
a, Từ phía Nhà máy len Hà Đông:
Nhà máy len Hà Đông theo đó đã và đang thực hiện các biện pháp quản lý sau:
Một là, Nhà máy đã mở sổ và ghi sổ kế toán (theo hình thức Nhật ký chứng từ)
theo dõi chính xác toàn bộ tài sản và vốn hiện có theo đúng chế độ hạch toán kế
toán, thống kê hiện hành: cụ thể là theo Quyết định số 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày
1/11/1995 về chế độ kế toán doanh nghiệp; Thông tư số 10 TC/CĐKT ngày
20/3/1997 và Thông tư số 120/1999/TT-BTC ngày 7/10/1999 hướng dẫn sửa đổi,
bổ sung chế độ kế toán doanh nghiệp về niên độ kế toán (bắt đầu từ 1/1 kết thúc
31/12); đơn vị tiền tệ sử dụng trong ghi chép (đồng); phương pháp kế toán TSCĐ
(phương pháp khấu hao tuyến tính và đánh giá theo mặt bằng giá tại thời điểm);
phương pháp kế toán hàng tồn kho (phương pháp kê khai thường xuyên)...; phản
ánh trung thực, kịp thời tình hình sử dụng, biến động của tài sản và vốn trong qúa
trình kinh doanh của Nhà máy; với báo cáo tài chính doanh nghiệp, Nhà máy thực
hiện đúng các quy định trong Chế độ báo cáo tài chính doanh nghiệp ban hành
theo Quyết định số 167/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000. Theo đó, Nhà máy đã
lập 3 biểu mẫu báo cáo bắt buộc là Bảng cân đối kế toán, Kết quả hoạt động kinh
doanh và Thuyết minh báo cáo tài chính. Thực hiện công khai tài chính với cán bộ
thuế và với cấp trên (Công ty len Việt Nam).
Hai là, đối với ngân quỹ, Nhà máy đã mở sổ theo dõi chi tiết các khoản: Tiền
mặt tại quỹ (gồm cả ngân phiếu), Tiền gửi ngân hàng và Tiền đang chuyển; thực
hiện Quy chế tài chính của Công ty len Việt Nam, Nhà máy đã mở tài khoản Việt
Nam đồng ở Ngân hàng Công thương Hà Tây (số dư cuối năm 2002 là
826.720.150 đồng), thực hiện chuyên thu, chuyên chi đối với tài khoản này theo
quy định của Công ty len Việt Nam (quy định trong Quy chế tài chính Công ty len
Việt Nam). Cụ thể, tài khoản này đã được thông báo tới ngân hàng về được quy
định chuyên thu chuyên chi như sau:
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
- Về thu: + Thu về các khoản tiền do Công ty len Việt Nam và các nhà máy
thành viên trong Công ty chuyển tới;
+ Thu về các khoản do cơ quan nhà nước cấp;
+ Thu về các khoản do Nhà máy nộp vào tài khoản;
+ Thu về tiền hoàn thuế GTGT;
- Về chi: + Rút tiền về để trả lương và các khoản chi phí khác tại Nhà máy;
+ Chi trả bằng chuyển khoản cho các đơn vị trong nước về việc mua
nguyên vật liệu ;
+ Chuyển tiền về Công ty và các đơn vị thành viên trong Công ty;
+ Trả tiền điện, điện thoại, nước, nộp thuế.
Tuy vậy, quy định về hạn mức số dư tiền mặt (50.000.000 đồng) và số dư tài
khoản (100.000.000 đồng) của Công ty len Việt Nam không được Nhà máy thực
hiện.
Ba là, đối với TSCĐ, từ năm 2000 đến nay, Nhà máy quản lí, sử dụng và trích
khấu hao đúng theo Chế độ quản lí, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định ban
hành kèm theo Quyết định số 166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999 của Bộ trưởng
Bộ tài chính (trước đó, Nhà máy đã thực hiện theo Chế độ quản lý, sử dụng và
trích khấu hao tài sản cố định ban hành kèm theo Quyết định số 1062
TC/QĐ/CSTC ngày 14/11/1996 của Bộ trưởng Bộ Tài chính). Cụ thể:
- Các TSCĐ trong Nhà máy đều có bộ hồ sơ riêng (bộ hồ sơ gồm có biên bản
giao nhận tài sản cố định, hợp đồng, hoá đơn mua tài sản cố định và các chứng từ
khác có liên quan), được theo dõi, quản lý, sử dụng và trích khấu hao theo đúng
các quy định trong Chế độ hiện hành. Nhà máy áp dụng phương pháp khấu hao
tuyến tính theo điều 18 của Chế độ này, theo đó:
Mức trích khấu hao Nguyên giá của tài sản cố định
trung bình hàng năm =
của tài sản cố định Thời gian sử dụng.
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Thời gian sử dụng của TSCĐ được Nhà máy định theo quy định tại điều 15 của
Chế độ hiện hành. Đồng thời, Nhà máy xác định nguyên giá của tài sản cố định
như sau:
+ Đối với TSCĐ loại mua sắm (như Máy biến áp 380/ 220 V-nguyên giá
63.570.440 đ, Máy bứt đầu tư thêm-nguyên giá 84.028.704 đ mới mua năm
2001...): Nguyên giá = giá thực tế phải trả + chi phí vận chuyển, bốc dỡ + chi
phí lắp đặt, chạy thử, thuế và lệ phí tr|ớc bạ;
+ Đối với TSCĐ loại đầu tư xây dựng (như Nhà kèo tiệp Len 2 mới-nguyên giá
664.007.464 đ xây xong trong năm 2001, Nhà vệ sinh khu điều hành-nguyên
giá 39.174.000 đ xây xong đầu năm 2002...):
Nguyên giá = giá quyết toán công trình xây dựng + các chi phí khác liên
quan;
+ Đối với TSCĐ loại được Công ty len cấp, được điều chuyển đến từ các đơn
vị nội bộ của Công ty len (như Máy ghép chuyển từ len NĐ lên- nguyên giá
865.422.356 đ, Máy sợi thô chuyển từ len NĐ lên-nguyên giá 449.515.209
đ...): Nguyên giá TSCĐ là nguyên giá phản ánh ở đơn vị bị điều chuyển phù
hợp với bộ hồ sơ của TSCĐ đó. Nhà máy căn cứ vào nguyên giá, số khấu hao
luỹ kế,. giá trị còn lại trên sổ kế toán và bộ hồ sơ của TSCĐ đó để xác định các
chỉ tiêu nguyên giá, số khấu hao luỹ kế, giá trị còn lại trên sổ kế toán của tài
sản cố định và phản ánh vào sổ kế toán. Các chi phí có liên quan tới việc điều
chuyển tài sản cố định được Nhà máy hạch toán vào chi phí kinh doanh trong
kỳ.
- Nhà máy sử dụng quỹ khấu hao cơ bản của Nhà máy để tái đầu tư, thay thế
đổi mới tài sản cố định. Trong năm 2002, Nhà máy đề nghị Công ty len Việt Nam
xin trích từ quỹ này hơn 1 tỷ đồng để mua sắm máy móc thiết bị và xây dựng nhà
xưởng mới cho dự án đầu tư bổ sung thiết bị tăng năng lực sản xuất dây chuyền
kéo sợi len từ 150 tấn/nămÆ 300 tấn/năm.
- Các chi phí để nâng cấp TSCĐ được Nhà máy phản ánh tăng thêm nguyên giá
TSCĐ đó. Các chi phí sửa chữa TSCĐ được Nhà máy hạch toán trực tiếp (hoặc
phân bổ dần nếu chi phí là lớn) vào chi phí kinh doanh trong thời kỳ.
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
- TSCĐ được Nhà máy phân loại, thống kê, đánh số và có thẻ riêng, được theo
dõi chi tiết theo từng đối tượng ghi tài sản cố định và được phản ánh trong sổ theo
dõi TSCĐ. Hiện TSCĐ trong Nhà máy được phân thành:
+ TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh, gồm Loại 1: Nhà cửa, vật kiến trúc
(như trụ sở làm việc, nhà kho, hàng rào, sân bãi...), Loại 2: Máy móc, thiết bị
công tác (như máy bứt tách tow, máy ghép, máy sợi, máy đậu Savio, máy xe...
); Loại 3: Phương tiện vận tải (hiện chỉ có Ô tô); Loại 4: Thiết bị, dụng cụ
quản lý (như Máy phô tô SF 2025 h/c, Máy in LQ 2180 t/v, Máy FAX 1270,
Máy vi tính máy in ổ đĩa CD (KD,KT,GĐ,T/c), Máy điều hoà nhiệt độ (GĐ),
Bộ loa đài phòng họp, Điên thoại...); Loại 5: Thiết bị động lực (như Máy biến
thế 380/ 220 V, Máy biến áp 380/ 220 V, Hệ thống điện, Hệ thống nước, Nồi
hơi đốt than...); Loại 6: Đất.
+ TSCĐ dùng cho phúc lợi, gồm có 28 căn nhà trong khu tập thể Len Nhuộm
và Mương thoát nước tập thể;
Nhà máy đã thực hiện việc quản lý, sử dụng đối với những TSCĐ đã khấu hao
hết nhưng vẫn tham gia vào hoạt động kinh doanh như: Máy nhuộm len, Máy
đánh ống, Máy sấy len, Máy chải, Máy xé săn, Máy nén khí, Máy xé trộn, Máy sợi
con, Máy vắt ly tâm, Máy bào, Máy nhuộm mẫu... Định kỳ vào cuối mỗi năm tài
chính, Nhà máy vẫn tiến hành kiểm kê TSCĐ và kết quả kiểm kê cho kết quả đủ;
- Riêng đối với quyền sử dụng đất (mà theo sổ sách của Nhà máy là Đất), diện
tích đất 39.938m2 Nhà nước giao đã được Nhà máy quản lí và sử dụng như sau:
+ Phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy (xây dựng nhà cửa
công trình kiến trúc cho hoạt động sản xuất, cho công tác quản lí điều hành và
hoạt động bán hàng);
+ Một số mảnh đất do chưa có nhu cầu sử dụng cho các hoạt động nêu trên
được nhà máy đầu tư xây dựng thành các cửa hàng, nhà xưởng để cho thuê.
+ Nhà máy điều chuyển Nhà kho vật tư phụ tùng (gồm cả đất) cho Công ty len
Việt Nam trong năm 2002 theo yêu cầu của Công ty len;
+ Bên cạnh đó vẫn còn một số mảnh đất để trống do chưa có nhu cầu sử dụng
hoặc không thể khai thác sử dụng (phía sau giáp với đồng Vạn Phúc có 10000m2
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
(rộng 200m * 50m) do ảnh hưởng của đường điện cao thế nên hiện tại Nhà máy
không đưa vào khai thác sử dụng được);
- Nhà máy cho thuê hoạt động các TSCĐ thuộc quyền quản lý và sử dụng của
mình (những TSCĐ tạm thời chưa dùng đến) để nâng cao hiệu suất sử dụng, tăng
thu nhập, đồng thời vẫn đảm bảo theo dõi và quản lý được TSCĐ. Nhà máy đã lập
phương án trình Tổng giám đốc Công ty len Việt Nam duyệt trước khi thực hiện.
Nhà máy và bên thuê TSCĐ đã lập hợp đồng thuê TSCĐ trong đó nói rõ loại
TSCĐ, thời gian thuê, tiền thuê phải trả và trách nhiệm hai bên. Cụ thể: Nhà máy
ký hợp đồng cho công ty TNHH dệt Quốc Tấn thuê nhà xưởng (1507 m2 ,
10.549.000 đ/tháng) + sân bãi (556,55 m2, 1.947.925 đ/tháng) thời hạn 10 năm
(1/7/2000Æ1/7/2010); cho công ty TNHH Hoàng Dương thuê 1 cửa hàng
(1.200.000 đ/tháng) thời hạn 5 năm (15/5/2001Æ15/5/2005), cho thuê nhà nồi hơi
KZL (309 m2, 2.781.000 đ/tháng) + sân bãi (550 m2, 1.925.000 đ/tháng) thời hạn
10 năm (1/7/2000Æ1/7/2010). Hiện mỗi năm Nhà máy thu hơn 200 triệu đồng
tiền thuê. Trong thời gian cho thuê, Nhà máy vẫn tính và trích khấu hao đối với
những TSCĐ này vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
- Nhà máy đã nhượng bán các TSCĐ không cần dùng, lạc hậu về kỹ thuật để
thu hồi vốn sử dụng cho mục đích kinh doanh có hiệu qủa hơn (năm 2001, Nhà
máy nhượng bán 1 ô tô tải con và 1 máy sợi con thu 147 triệu đồng, năm 2002
nhượng bán 1 số TSCĐ gắn với Nhà in hoa thu 11 triệu đồng); Nhà máy cũng đã
thanh lý những tài sản lạc hậu hư hỏng không có khả năng phục hồi, tài sản lạc
hậu kỹ thuật không có nhu cầu sử dụng, tài sản sử dụng không có hiệu qủa và
không thể nhượng bán nguyên trạng. Hiện Nhà máy cũng đang xin Công ty len
Việt Nam cho thanh lý một số tài sản khác (đã khấu hao hết). Những tài sản chờ
thanh lý bao gồm:
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
1 Máy xé săn
1 Máy chải số 1
1 Hệ thống hút bụi máy chải
1 hệ Máy nén làm lạnh 107,3kw
1 hệ Tháp làm mát 116m3/h
1 hệ Máy điều hoà không khí
2 Nồi hơi đốt dầu Pháp
1 Máy xé Lông cừu ET 60
1 Máy In GL h/c
2 Máy Vi tính 300 A t/v
1 Máy in LQ 2180 t/v
1 Nồi hơi đốt than
1 Máy đánh ống chuyển từ NĐ lên
3 Máy nhuộm len
1 Máy sấy lông cừu
Để nhượng bán, thanh lý tài sản, một Hội đồng đánh giá thực trạng về mặt kỹ
thuật, thẩm định giá trị tài sản đã được thiết lập (gồm có sự tham gia của Giám
đốc, cán bộ phòng kỹ thuật, phòng kế toán và phòng kinh doanh). Tài sản đem
nhượng bán được tổ chức đấu giá, thông báo công khai trên báo Nhân Dân. Chênh
lệch giữa số tiền thu được do thanh lý, nhượng bán tài sản với giá trị còn lại trên
sổ kế toán và chi phí nhượng bán, thanh lý đã được hạch toán vào kết qủa kinh
doanh của Nhà máy (phần Lợi nhuận bất thường).
Bốn là, đối với công nợ, Nhà máy đã mở sổ theo dõi chi tiết tất cả các khoản
công nợ phải thu theo từng đối tượng nợ, thời gian nợ và số tiền thiếu nợ. Định kỳ
(tháng, qúy), Nhà máy tiến hành đối chiếu, tổng hợp, phân tích tình hình công nợ
phải thu; đặc biệt là các khoản nợ đến hạn, qúa hạn và các khoản nợ khó đòi (là
các khoản phải thu dự kiến không thu được trong kỳ kinh doanh tới do khách nợ
không có khả năng thanh toán). Với các khoản nợ không thu hồi được, Nhà máy
xác định rõ mức độ, nguyên nhân, trách nhiệm và biện pháp xử lý rồi trình Tổng
giám đốc Công ty len Việt Nam xem xét phê duyệt. Ngày 10/9/2002, một Hội
đồng xử lý công nợ đã được thành lập, họp xem xét Nợ tồn đọng khó đòi phát sinh
từ năm 1996 đến nay vẫn chưa thu hồi được. Hội đồng gồm Giám đốc, Trưởng
phòng tài chính-kế toán và một nhân viên phòng tài chính- kế toán chuyên kế toán
công nợ của Nhà máy. Căn cứ vào Nghị định số 69/2002/NĐ-CP về quản lí và xử
lí nợ tồn đọng đối với DNNN và Quyết định số 628/QĐ-TCHC của Giám đốc Nhà
máy len Hà Đông về thành lập Hội đồng xử lý công nợ, sau khi xem xét kỹ khả
năng thu hồi các khoản nợ tồn đọng, đã thống nhất trích lập dự phòng các khoản
nợ tồn đọng khó đòi sau:
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Bảng 3: Các khoản nợ tồn đọng khó đòi phát sinh từ năm 1996 đến nay
STT Tên người nợ Số nợ (đ) Năm p/s nợ Lý do lập dự phòng
1
HTX Hoà Phát-Hoa
Vang-QNĐN
11.539.300 1998
Khách hàng đã ngừng
hoạt động và không
tìm được địa chỉ
2
Nguyễn Văn Mạnh-
Cục thuế Hà Tây
2.000.000 1996
Là cá nhân đã già yếu
không có khả năng
thanh toán
3
Nhà máy giầy Yên
Viên
965.579 1996
Chi phí đòi nợ > Giá
trị khoản nợ phải thu
4
Nhà máy dệt vải
công nghiệp HN
867.500 1998
Chi phí đòi nợ > Giá
trị khoản nợ phải thu
Tổng cộng 15.372.379
(Nguồn: Biên bản xử lý công nợ khó đòi năm 2002 của Nhà máy)
Toàn thể Hội đồng xử lý công nợ đã nhất trí thông qua biên bản. Mức trích dự
phòng như vậy là phù hợp với Thông tư số 107/2001/TT-BTC ngày 31/12/2001
hướng dẫn chế độ trích lập và bổ sung các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho,
giảm giá chứng khoán đầu tư, dự phòng nợ khó đòi tại doanh nghiệp; theo đó,
tổng mức lập dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi tối đa bằng 20% tổng dư nợ
phải thu của doanh nghiệp tại thời điểm lập Báo cáo tài chính năm (tức là không
quá 20% * 6.422.771.513 = 1.284.554.302,6 đ >15.372.379 đ). Khoản dự phòng
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
các khoản nợ khó đòi sau tạm được Nhà máy hạch toán vào chi phí kinh doanh
của Nhà máy. Mức trích này đã được Tổng giám đốc Công ty len Việt Nam duyệt.
Năm là, đối với dự trữ, Nhà máy đã mở sổ theo dõi chi tiết tất cả các khoản
mục (gồm: Hàng mua đang đi đường; Nguyên liệu, vật liệu tồn kho; Công cụ,
dụng cụ trong kho; Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang; Thành phẩm tồn kho;
hàng hoá tồn kho và Hàng gửi đi bán). Định kỳ (tháng, qúy), Nhà máy tiến hành
đối chiếu, tổng hợp, phân tích tình hình hàng tồn kho. Riêng đối với công cụ lao
động nhỏ, Nhà máy đã theo dõi, quản lý, sử dụng chúng như đồi với TSCĐ và đã
tính toán, phân bổ dần giá trị của chúng vào chi phí kinh doanh theo thời gian sử
dụng cho phù hợp. Đối với công cụ đã phân bổ hết mà vẫn sử dụng được, Nhà
máy đã theo dõi, quản lý, sử dụng chúng như những công cụ lao động nhỏ bình
thường nhưng không phân bổ giá trị của nó vào chi phí kinh doanh. Đặc biệt, ngày
6/12/1999, Nhà máy len Hà Đông đã thành lập Hội đồng kiểm kê gồm: Giám đốc,
Trưởng phòng tài chính-kế toán, Trưởng phòng kinh doanh, Trưởng phòng kỹ
thuật sản xuất đầu tư và hai phó phòng kỹ thuật sản xuất đẩu tư cùng nhau kiểm
tra xem xét đánh giá chất lượng các loại vật tư hàng hoá thành phẩm kém mất
phẩm chất của Nhà máy tại thời điểm 0 giờ ngày 1/1/2000 như sau:
+ Thảm len phục vụ xuất khẩu: Là loại thảm dệt ra với hy vọng trả nợ cho CH
Liên bang Nga. Nhưng do chỉ tiêu trả nợ từ năm 1996 đến nay không có, cho nên
không tiêu thụ được. Tổng số loại thảm này tồn kho đến 31/12/1999 là 1211,74
m2, số thảm này được dệt ra từ những năm 1991, 1994, 1995 nên chất lượng bị suy
giảm nhiều, mặt thảm bị con nhậy cắn, các tua đa phần bị úa vàng, chất lượng
kém;
+ Hoá chất thuốc nhuộm tồn kho ứ đọng lâu ngày: Do không có chỉ tiêu trả nợ
cho CH liên bang Nga nên mặt hàng len thảm bị thu hẹp lại. Vì vậy, số hoá chất
thuốc nhuộm mua về để chuẩn bị phục vụ cho sản xuát len thảm bị tồn kho ứ đọng
nhiều, vì tồn kho lâu năm nên số hoá chất thuốc nhuộm này bị tác động của độ ẩm,
không khí, oxy hoá làm chất lượng giảm đi rất nhiều, đại bộ phận là vón cục, chảy
nước, thậm chí có những loại không còn sử dụng được trong sản xuất công nghiệp
nữa (chỉ đưa vào sản xuất ở dạng thủ công nghiệp);
+ Vải thành phẩm tồn kho lâu ngày: Đại bộ phận số vải này là vải đầu tấm, vải
có khuyết tật trong quá trình nhuộm và cũng có cả khuyết tật ngay khi còn là vải
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
mộc được dồn từ năm này sang năm khác; số vải này do chất lượng kém, khó tiêu
thụ nên tồn kho quá lâu năm, vì vậy độ bền cũng như màu sắc các dạng lỗi, không
còn đảm bảo theo tiêu chuẩn phân loại nữa;
+ Len thảm: Số len thảm tồn kho từ đầu những năm 1990 đến nay đã bị nhậy
cắn nhiều, ố vàng, chất lượng suy giảm rất nhiều;
+ Len Acrylic: Do mới đầu tư nên chất lượng chưa đạt được như len Acrylic
của các Nhà máy có truyền thống như len Vĩnh Thịnh, len Biên Hoà. Mặt khác, do
chưa có kinh nghiệm trong khâu tiếp cận thị trường, nắm bắt những nhu cầu của
khách hàng cho nên một số màu sắc bị lạc mốt, chỉ số sợi bị lạc hậu;
+ Phụ tùng dụng cụ: Một số phụ tùng dụng cụ để từ lâu không sử dụng đến dẫn
đến bị han rỉ, nứt hỏng, giá trị sử dụng bị giảm đi rất nhiều;
Bảng 4: Giá trị nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm ứ đọng kém, mất phẩm
chất đến 31/12/1999
đơn vị: đồng
STT Tên vật tư
Theo giá trị sổ
sách
Theo giá trị xác
định lại
Chênh lệch
tăng(+) giảm(-)
A B 1 2 3=1-2
1 Hàng mộc 8.670.560 4.947.400 -3.723.160
2
Thuốc nhuộm
hoá chất
1.259.331.692 536.851.416 -722.480.276
3 Xăng dầu mỡ 202.173.366 148.617.506 -53.555.860
4
Phụ tùng và
vật liệu khác
94.185.309 24.501.660 -69.683.649
5
Công cụ dụng
cụ
14.289.789 7.843.330 -6.446.459
6 Vải các loại 305.660.388 140.603.779 -165.056.609
7 Thảm len 588.978.514 98.210.000 -490.768.514
8 Len thảm 482.085.827 428.186.000 -53.899.827
9 Len đan 1.175.293.162 695.744.000 -479.549.162
Tổng 4.130.668.607 2.085.505.091 -2.045.163.516
(Nguồn: Biên bản xác định chất lượng vật tư, hàng hoá, thành phẩm kém, mất
phẩm chất tồn kho đến 1/1/2000)
Nguyễn Hồng Thắng-TCC41A Chuyên đề tốt
nghiệp
Tất cả mọi thành viên của Hội đồng kiểm kê đều ký tên vào Biên bản này. Nhà
máy đã thảo Công văn số 159/CV-TCKT về việc xin xử lý hàng hoá kém mất
phẩm chất kèm theo Biên bản này gửi Công ty len Việt Nam, đề nghị Công ty len
Việt Nam đề nghị Tổng công ty dệt may Việt Nam xem xét và giải quyết cho Nhà
máy được giảm vốn của số vật tư, hàng hoá, thành phẩm kém, mất phẩm chất tồn
kho đến 1/1/2000 là: 2.045.163.516 đ; đồng thời có phương án
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn tốt nghiệp Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông).pdf