Tài liệu Luận văn Tốt nghiệp Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội: Luận văn tốt nghiệp "Giải pháp mở rộng hoạt động tín
dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương
Hà Nội"
LỜI MỞ ĐẦU
Lý luận cũng như thực tiễn phát triển kinh tế thế giới đã cho thấy
hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những lĩnh vực trung tâm quan
trọng nhất trong toàn bộ các hoạt động kinh tế của nhiều quốc gia. Hoạt
động xuất nhập khẩu đã góp phần đáng kể vào việc tăng nguồn thu ngân
sách, đặc biệt là thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán giải quyết công
ăn việc làm cho người dân, thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế, nâng cao vị thế của đất nước trong nền kinh tế toàn cầu.
Việt Nam từ nền kinh tế lạc hậu và kém phát triển chuyển sang xây
dựng nền kinh tế thị trường thì việc mở rộng buôn bán, quan hệ với nước
ngoài là hết sức cần thiết. Sau khi nhận thức được những sai lầm trong
đường lối kinh tế, Đảng và Nhà nước ta quyết tâm thực hiện công cuộc đổi
mới theo hướng "mở cửa" nền kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu, khô...
79 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1034 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tốt nghiệp Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn tốt nghiệp "Giải pháp mở rộng hoạt động tín
dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương
Hà Nội"
LỜI MỞ ĐẦU
Lý luận cũng như thực tiễn phát triển kinh tế thế giới đã cho thấy
hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những lĩnh vực trung tâm quan
trọng nhất trong toàn bộ các hoạt động kinh tế của nhiều quốc gia. Hoạt
động xuất nhập khẩu đã góp phần đáng kể vào việc tăng nguồn thu ngân
sách, đặc biệt là thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán giải quyết công
ăn việc làm cho người dân, thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế, nâng cao vị thế của đất nước trong nền kinh tế toàn cầu.
Việt Nam từ nền kinh tế lạc hậu và kém phát triển chuyển sang xây
dựng nền kinh tế thị trường thì việc mở rộng buôn bán, quan hệ với nước
ngoài là hết sức cần thiết. Sau khi nhận thức được những sai lầm trong
đường lối kinh tế, Đảng và Nhà nước ta quyết tâm thực hiện công cuộc đổi
mới theo hướng "mở cửa" nền kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu, không
ngừng mở rộng quan hệ hợp tác toàn diện với các nước trên thế giới, phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Nhờ vậy, hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt
động XNK nói riêng của Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được những
thành tựu đáng kể và ngày càng khẳng định vị trí của mình trong toàn bộ
nền kinh tế.
Để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh XNK cần phải nâng cao chất
lượng và đa dạng hoá các mặt hàng, muốn vậy phải có sự đầu tư thích đáng
cho quá trình sản xuất, kinh doanh như đổi mới công nghệ, máy móc, trang
thiết bị. Nhưng trên thực tế, vốn của các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động
trên lĩnh vực này còn ít ỏi, không thể giúp cho các doanh nghiệp tự đổi mới
công nghệ nâng cao chất lượng. Xuất phát từ thực tế này và để đạt được
mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra thì cần có sự đầu tư của NHTM, đặc
biệt là NHNT với tư cách là trung tâm cung ứng vốn, hỗ trợ đắc lực cho
lĩnh vực XNK của nền kinh tế.
2
Hoạt động tín dụng tài trợ XNK là một hoạt động hết sức phức tạp,
chứa đựng nhiều rủi ro. Nó không chỉ chịu tác động của chính sách kinh tế
trong nước mà còn chịu sự điều chỉnh của nhiều quy phạm, nguồn luật khác
nhau và bị ảnh hưởng mạnh theo sự biến động của thị trường quốc tế. Do
đó, hoạt động kinh doanh của NHNT trong việc tài trợ tín dụng đối với các
doanh nghiệp XNK ngày càng trở nên phong phú và đòi hỏi phải được
nghiên cứu hoàn thiện cả về nội dung lẫn hình thức.
Qua một thời gian ngắn đi thực tế tại NHNT Hà Nội một Chi nhánh
đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của hệ thống NHNT
Việt Nam em nhận thấy việc nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung và
biện pháp nhằm tháo gỡ những vướng mắc, tồn tại của công tác tín dụng tài
trợ XNK, tiến tới mở rộng và phát triển công tác này cho phù hợp với yêu
cầu mới của nền kinh tế thị trường là vấn đề bức xúc có ý nghĩa thực tiễn
đối với quá trình phát triển kinh tế nước nhà.
Từ nhận thức đó cùng với kiến thức được trang bị qua 4 năm học ở
trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đặc biệt được sự hướng dẫn nhiệt tình
của cô giáo Phạm Hồng Vân và các thầy cô trong trường cũng như sự chỉ
bảo tận tình của anh chị phòng Tín dụng Chi nhánh NHNT Hà Nội, em xin
mạnh dạn chọn đề tài: "Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ
xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội".
Về hình thức, bài viết này được trình bày theo kết cấu sau:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về tín dụng xuất nhập khẩu của
ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại
NHNT Hà Nội
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng xuất
nhập khẩu tại NHNT Hà Nội
Trên cơ sở phân tích hoạt động tín dụng tài trợ XNK của NHNT Hà
Nội trong 3 năm, (2000, 2001, 2002) đề tài tập trung vào tình hình và kinh
3
nghiệm thực tế của hoạt động này để từ đó đưa ra một số khuyến nghị
nhằm góp phần hoàn thiện hoạt động tín dụng XNK tại Chi nhánh. Song do
kiến thức còn hạn chế, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót nhất định,
em rất mong được sự chỉ dạy của thầy cô giáo và góp ý của các bạn để bài
viết được hoàn thiện tốt hơn.
Nhân đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo Phạm
Hồng Vân người đã tận tình giúp đỡ em trong việc chọn đề tài, hướng dẫn
phương hướng triển khai đề tài và tổng kết các kết quả nghiên cứu một
cách có hệ thống.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị tại NHNT Hà
Nội, đặc biệt là phòng Tín dụng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cũng như
chỉ bảo hướng dẫn em hoàn thành đề tài này.
Hà Nội, tháng 4/2003
Sinh viên
Lê Tuấn Anh
4
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI TRỢ CHO XUẤT NHẬP KHẨU
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Một số vấn đề cơ bản về hoạt động xuất nhập khẩu
1. 1. Sự cần thiết của hoạt động xuất nhập khẩu.
Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không thể chỉ dựa
vào nền sản xuất trong nước mà còn phải quan hệ với các nước bên ngoài.
Do có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu... mà mỗi
quốc gia có thế mạnh trong việc sản xuất một số mặt hàng nhất định.
Để đạt được hiệu quả kinh tế đồng thời đáp ứng được nhu cầu ngày
càng đa dạng ở trong nước, các quốc gia đều mong muốn có được những
sản phẩm chất lượng cao với giá rẻ hơn từ các nước khác đồng thời mở
rộng được thị trường tiêu thụ đối với các sản phẩm thế mạnh của mình.
Chính từ mong muốn đó đã làm nảy sinh hoạt động thương mại quốc tế.
Hoạt động thương mại quốc tế thông qua mối quan hệ rộng rãi vượt
ra ngoài biên giới quốc gia sẽ là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với
nền kinh tế bên ngoài, đồng thời tạo ra động lực thúc đẩy quá trình hội
nhập kinh tế ở mỗi khu vực và trên toàn thế giới.
Thương mại quốc tế được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản xuất
khẩu và nhập khẩu. Do vậy, xác định được vai trò quan trọng cũng như có
sự quan tâm thích đáng đến hoạt động XNK là nhiệm vụ hàng đầu của hoạt
động thương mại quốc tế.
Đối với Việt Nam, ngoài những đặc điểm nêu trên chúng ta còn có
những nét đặc thù riêng đó là nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ
tầng kĩ thuật lạc hậu, công nghệ thủ công... đang rất cần được đổi mới, bên
cạnh đó tiềm lực xuất khẩu lại lớn nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Tất
cả những điều này cho thấy hoạt động XNK đối với nước ta càng quan
trọng hơn.
5
Vai trò của XNK đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua một
số khía cạnh cơ bản sau:
* Xuất khẩu
- Xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho đất nước tạo
điều kiện đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển. Thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước sẽ khuyến khích
các ngành, nghề phát triển bởi họ phần nào có được thị trường tiêu thụ ổn
định và mở rộng hơn. Đồng thời, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc
tế sẽ tạo cho các nhà sản xuất sự năng động và sáng tạo trong kinh doanh,
sự quan tâm đúng đắn đến việc nâng cao hiệu quả quản lí, đổi mới công
nghệ cũng như nâng cao chất lượng của sản phẩm.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho việc nhập khẩu có thể diễn ra thuận lợi
hơn nhờ nguồn ngoại tệ thu được và mối quan hệ quốc tế mà nó tạo ra.
* Nhập khẩu
Song song với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng đóng một vai trò
vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Cụ thể:
- Nhập khẩu tạo ra hàng hoá bổ sung cho hàng hoá thiếu hụt trong
nước và thay thế những sản phẩm trong nước không sản xuất được hay sản
xuất với chi phí cao hơn để đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng nội địa một
cách tốt nhất, từ đó tạo sự ổn định về cung-cầu trong nước và cao hơn là sự
ổn định kinh tế vĩ mô.
- Nhập khẩu có tác động đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng
kĩ thuật, đổi mới công nghệ tạo tiền đề thuận lợi cho sản xuất.
- Ngoài ra, nhập khẩu còn có vai trò thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc
cung cấp các nguyên vật liệu, máy móc thiết bị đầu vào cho xuất khẩu cũng
như góp phần định hướng sản phẩm, định hướng thị trường cho xuất khẩu.
6
Cuối cùng, một vai trò hết sức quan trọng của cả xuất và nhập khẩu
đối với sự phát triển kinh tế-xã hội đó là tạo công ăn việc làm, cải thiện đời
sống nhân dân và mở rộng hợp tác quốc tế.
1. 2. Nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu.
Như đã nói trên, trong nền kinh tế mở các doanh nghiệp luôn phải
đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt. Họ không chỉ phải cạnh tranh với các
nhà sản xuất trong nước mà còn phải cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài.
Để chiến thắng trong cạnh tranh, ngoài việc cần thiết phải có sự hỗ trợ của
Nhà nước như sự ưu đãi về thuế, sự điều chỉnh tỉ giá hối đoái phù hợp... các
doanh nghiệp còn cần phải có một tiềm lực tài chính mạnh để thực hiện các
hoạt động như đổi mới dây chuyền công nghệ, mua sắm máy móc hiện đại,
mua sắm nguyên vật liệu, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành... Song trên thực tế do khả năng tài chính có hạn nên hầu hết các
doanh nghiệp đều cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài.
Nhu cầu tài trợ cho hoạt động XNK nảy sinh từ những đòi hỏi đó và
nó gắn liền với các giai đoạn của hoạt động này.
Do hoạt động thương mại quốc tế hiện nay là rất đa dạng và vì thế
cũng hết sức phức tạp (nó bao gồm nhiều mối quan hệ như: thương mại
giữa các nước phát triển, thương mại giữa các nước đang phát triển, thương
mại giữa các nước phát triển và đang phát triển... ) nên để phù hợp với điều
kiện Việt Nam cũng như với đề tài nghiên cứu, ở đây tôi chỉ xin đề cập đến
hoạt động thương mại quốc tế giữa các nước phát triển và đang phát triển.
- Xuất khẩu hàng hoá từ các nước phát triển sang các nước đang phát
triển chủ yếu là hàng hoá tư liệu sản xuất như máy móc thiết bị, kỹ thuật,
công nghệ. Đây là những hàng hoá mà để hoàn thành hoạt động xuất khẩu
cần phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ phân tích nhu cầu, kí kết hợp
đồng, sản xuất cung ứng, lắp ráp chạy thử... đến thanh toán tiền hàng. Nhu
7
cầu tài trợ thường để đáp ứng các chi phí cho quảng cáo, thiết kế mẫu mã,
sản xuất và cung cấp công trình.
- Xuất khẩu hàng hoá từ các nước đang phát triển sang các nước phát
triển chủ yếu là các mặt như nông, lâm, thuỷ hải sản, hàng thô hay mới qua
sơ chế... Và nhu cầu tài trợ thường là để thu mua chế biến xuất khẩu, đáp
ứng nhu cầu vốn tạm thời.
Để có cái nhìn tổng quát về nhu cầu tài trợ nảy sinh trong hoạt động
XNK ta sẽ xem xét nhu cầu tài trợ của các nhà xuất khẩu và nhập khẩu hình
thành trong cùng một hoạt động XNK hàng hoá máy móc, thiết bị kĩ thuật,
công nghệ.
* Nhu cầu tài trợ cho xuất khẩu
Việc thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng hoá máy móc thiết bị thường
kéo dài từ nhiều tháng cho tới vài năm, do đó thông thường nhu cầu tài trợ
thường nảy sinh ở nhiều giai đoạn khác nhau. Cụ thể:
+- Giai đoạn phân tích nhu cầu, thiết kế, tìm kiếm khách hàng, đại
diện tại các hội chợ, đàm phán sơ bộ, lập kế hoạch: Để hoàn thành tốt
giai đoạn này các chuyên gia phải thực hiện các chuyến đi dài ngày và tiến
hành nhiều cuộc đàm phán, phải làm ra hàng mẫu và mô hình để trưng bày,
giới thiệu. Sau đó họ còn phải hoàn tất các tài liệu thiết kế và tính toán
chính xác cho đàm phán hợp đồng. Chi phí cho những hoạt động này không
phải nhỏ, đặc biệt với các cơ sở kinh doanh tiềm lực tài chính còn hạn hẹp.
- Giai đoạn ký kết hợp đồng: Trong trường hợp nhà xuất khẩu chưa
có uy tín cao ở nước ngoài, đối tác có thể yêu cầu một bảo đảm giao hàng
hoặc bảo đảm hoàn thành công trình. Đảm bảo này sẽ có hiệu lực nếu việc
giao hàng hoặc hoàn thành công trình không đúng như thoả thuận.
Trường hợp khác, nếu nhà xuất khẩu cần tiền đặt cọc mà nhà nhập
khẩu là người nước ngoài đang gặp khó khăn về tài chính, nhà xuất khẩu có
8
thể đề nghị ngân hàng của mình cung cấp tín dụng tương đương với số tiền
đặt cọc và nhà nhập khẩu có nghĩa vụ chi trả cho khoản tín dụng đó
- Giai đoạn chuẩn bị sản xuất: Sau khi đã kí hợp đồng, nhà xuất khẩu
sẽ tiến hành chuẩn bị sản xuất. Nhất là việc xây dựng các công trình lớn
như, nhà máy, xí nghiệp... việc này thường đi kèm với chi phí lớn vượt quá
mức đặt cọc.
- Giai đoạn sản xuất: Mặc dù đã có những thoả thuận về việc thanh
toán tiếp theo của người mua, trong thời gian này thường nảy sinh các nhu
cầu tài chính cao về vật tư và chi phí liên quan khác vượt qua các khoản
thanh toán giữa chừng.
- Giai đoạn cung ứng: Ngay cả trong giai đoạn cung ứng cũng có
thể nảy sinh các chi phí cần được tài trợ như chi phí vận tải, bảo hiểm... tuỳ
theo điều kiện cung ứng.
- Giai đoạn lắp ráp, chạy thử, bàn giao công trình: Sau khi hàng
hoá được giao tới địa điểm qui định, nhà xuất khẩu còn cần chi phí cho lắp
ráp chạy thử cho tới khi được người mua thu nhận và chấp nhận thanh toán.
- Giai đoạn bảo hành: Trong giai đoạn này người mua có quyền yêu
cầu được bảo hành ở ngân hàng của nhà xuất khẩu trước khi thanh toán.
- Giai đoạn thanh toán: Hiện nay, để việc cung cấp hàng hoá xuất
khẩu được thuận lợi người xuất khẩu thường phải dành cho người mua một
ưu đãi thanh toán trong nhiều năm mà người xuất khẩu và ngân hàng của
họ có thể chấp nhận được. Trong thời gian chờ được thanh toán nhà xuất
khẩu thường có nhu cầu được tài trợ để đảm bảo vốn cho quá trình tái sản
xuất tiếp theo.
* Nhu cầu tài trợ nhập khẩu
Với hoạt động nhập khẩu, nếu như nhà xuất khẩu có nhu cầu tài trợ
để đẩy mạnh hoạt động bán hàng thì các nhà nhập khẩu cũng nảy sinh nhu
9
cầu tài trợ để mua hàng khi khả năng tài chính không đáp ứng được. Vì vậy
về phía nhà nhập khẩu cũng hình thành nhu cầu tài trợ trên nhiều mặt.
- Giai đoạn trước khi kí kết hợp đồng: Ở giai đoạn này các nhà nhập
khẩu cần có những chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác
nhu cầu của mình để tiến hành đấu thầu một cách phù hợp.
- Giai đoạn sau khi kí kết hợp đồng: Sau khi kí kết được hợp đồng,
nhà nhập khẩu cần được tài trợ để đặt cọc, tạm ứng cho nhà xuất khẩu... .
- Giai đoạn sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn
này nhà nhập khẩu có thể phải thực hiện những khoản thanh toán giữa
chừng cho nhà xuất khẩu hay tài trợ cho các công việc ở điạ phương để
chuẩn bị cho đầu tư.
- Giai đoạn cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện
cung ứng hàng hoá có thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo
hiểm đối với các nhà nhập khẩu.
- Nhận hàng hoá: Nếu tiến hành thanh toán cung ứng hàng hoá khi
xuất trình chứng từ (có thư tín dụng kèm theo hoặc theo điều kiện D/P) thì
thường nhà nhập khẩu chỉ có thể nhận được hàng khi giá trị trên hoá đơn đã
ghi rõ hoặc có thể tài trợ được.
- Xử lí tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với hàng hoá chủ định bán
tiếp thì nhà nhập khẩu còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời
gian từ khi nhập hàng về tới khi hàng hoá được tiêu thụ.
Nếu sản phẩm là những dây chuyền công nghệ để sản xuất thì nhà
nhập khẩu sẽ có nhu cầu được tài trợ cho giai đoạn từ khi sản xuất sản
phẩm mới tới khi tiêu thụ được các sản phẩm làm ra và thu được tiền hàng.
Qua việc xem xét nhu cầu tài trợ cho XNK ở trên ta có thể khẳng
định rằng hoạt động kinh doanh XNK có một nhu cầu tài trợ rất lớn. Vậy
10
thì để đáp ứng cho nhu cầu đó có những nguồn tài trợ nào. Dưới đây là một
số nguồn tài trợ thường dùng cho XNK.
11
1.3. Các nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Hoạt động XNK là một trong những hoạt động kinh tế cơ bản, do
vậy nó cũng được tài trợ từ rất nhiều nguồn khác nhau. Trong đó, những
nguồn tài trợ thường được sử dụng là:
* Tín dụng thương mại (hay tín dụng nhà cung cấp): là nguồn tài trợ
được thực hiện thông qua hình thức mua bán chịu hàng hoá, dịch vụ với
các công cụ chủ yêú là kỳ phiếu và hối phiếu. Đây là nguồn tài trợ ngắn
hạn được ưa dùng vì dễ thực hiện, khả năng chuyển thành tiền mặt cao
(thông qua chiết khấu tại các ngân hàng), linh hoạt về thời hạn. Tuy nhiên,
các công cụ như hối phiếu thường được sử dụng trên cơ sở có ngân hàng
đứng ra chấp nhận hay bảo đảm.
* Vốn tự có: Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp khác nhau mà vốn tự
có có thể là vốn Ngân sách cấp, vốn cổ phần của các sáng lập viên công ty
cổ phần hay vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân.
Vốn tự có chủ yếu bao gồm vốn khi thành lập doanh nghiệp như nói
trên và phần lợi nhuận để lại + khấu hao. Sử dụng vốn tự có doanh nghiệp
có thể giảm được hệ số nợ, tạo sự chủ động trong kinh doanh. Tuy vậy,
nguồn tài trợ này có hạn chế là qui mô không lớn và nhiều khi chi phí cơ
hội của việc giữ lại lợi nhuận cao.
* Phát hành cổ phiếu: Với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện
nay họ có thể phát hành cổ phiếu công ty để huy động nguồn vốn trung và
dài hạn. Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp có được sự chủ động
trong việc huy động và sử dụng vốn, giảm được nguy cơ phá sản khi gặp
khó khăn (vì có thể không phải phân chia lợi tức cổ phần hoặc có thể hoãn
trả lợi tức khi bị lỗ hoặc không có nhiều lãi) hay làm tăng vốn chủ sở hữu,
giảm hệ số nợ của doanh nghiệp... Tuy nhiên, chỉ có các doanh nghiệp thỏa
mãn những điều kiện nhất định mới được sử dụng hình thức này. Với nước
12
ta, do thị trường tài chính còn chưa phát triển nên hình thức tài trợ này còn
ít được sử dụng hoặc nếu có sử dụng thì hiệu quả chưa cao.
* Phát hành trái phiếu công ty: Đây cũng là một hình thức tài trợ
khá phổ biến trong nền kinh tế thị trường gần như cổ phiếu.
Trái phiếu là một giấy chứng nhận nợ của doanh nghiệp. Sử dụng phát
hành trái phiếu doanh nghiệp có thể huy động vốn cho hoạt động kinh
doanh mà không dẫn đến phải chia quyền kiểm soát doanh nghiệp như khi
sử dụng cổ phiếu thường. Tuy nhiên, với trái phiếu doanh nghiệp thường
phải trả lợi tức cố định cho dù hoạt động kinh doanh có lãi hay không. Điều
này dễ làm tăng khả năng phá sản đối với doanh nghiệp khi gặp khó khăn
về tài chính. Ngoài ra, với thị trường tài chính chưa phát triển như đã nói
trên thì hình thức này cũng khó phát huy tốt được ưu thế của nó.
* Tín dụng ngân hàng: Ngân hàng có thể tài trợ cho các doanh
nghiệp thông qua nhiều hình thức và với những mục đích sử dụng khác
nhau như: cho vay ngắn hạn theo hạn mức tín dụng, cho vay theo hợp
đồng, cho vay có đảm bảo... để thu mua dự trữ, sản xuất, nhập khẩu nguyên
vật liệu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Hoặc cho vay dài hạn để đầu tư dự
án, mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ... Tuỳ vào từng
doanh nghiệp mà Ngân hàng có thể áp dụng những hình thức nhất định sao
cho thuận lợi với cả hai bên. Một đặc điểm khá nổi bật của tín dụng ngân
hàng là có khả năng linh hoạt về lãi suất cũng như thời hạn.
* Các nguồn tài trợ khác: Ngoài các nguồn tài trợ trên các doanh
nghiệp XNK còn có thể được tài trợ bằng các nguồn như đầu tư nước
ngoài, vay nợ viện trợ của nước ngoài, hỗ trợ của Chính phủ... Hiện nay các
nguồn này thường cũng được sử dụng thông qua các Ngân hàng.
Như vậy, nguồn tài trợ cho XNK rất đa dạng nhưng trong đó nguồn
tín dụng ngân hàng nhờ có những ưu thế riêng nên vẫn nắm giữ một vị trí
13
đặ c biệt đối với sự phát triễn của đất nước nói chung vá hoạt động XNK
nói riêng
14
2. Tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
2.1. Khái niệm, Vai trò của tín dụng ngân hàng
2.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế được rất nhiều nhà kinh
tế học đề cập đến và do đó cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về tín dụng.
Tuy nhiên, theo cách hiểu chung nhất thì: tín dụng là một quan hệ xã hội
giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối liên hệ với nhau thông
qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thái tiền
tệ hoặc hiện vật.
Trên cơ sở đó ta có thể hiểu “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín
dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên doanh
trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ chức, đơn vị kinh tế-xã hội, các
cơ quan Nhà nước và các tầng lớp dân cư ”.
Tín dụng ngân hàng ra đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhờ có
khả năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà nó đã
không ngừng được mở rộng sang tất cả các ngành, lĩnh vực khác nhau
trong đó có hoạt động XNK, nó đã trở thành một nguồn tài trợ không thể
thiếu đối với hoạt động XNK của các quốc gia. Sự tham gia hỗ trợ của các
ngân hàng cho hoạt động XNK có tác động tích cực không chỉ về mặt tài
chính mà còn về cả việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
2.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động XNK được thể hiện
qua các mặt sau:
- Thứ nhất, giống như các nguồn tài trợ khác tín dụng ngân hàng là
một nguồn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp XNK để thu mua dự
trữ, sản xuất, tiêu thụ hàng hoá, mua sắm máy móc thiết bị... phục vụ cho
quá trình sản xuất cũng như tái sản xuất của doanh nghiệp.
15
- Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường.
Kinh doanh có hiệu quả là yêu cầu của hạch toán kinh tế đồng thời
cũng là một trong những điều kiện cung cấp tín dụng của ngân hàng. Do
đó, tín dụng ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu
quả kinh doanh, nâng cao mức doanh lợi. Bên cạnh đó, với khả năng linh
hoạt về thời hạn và lãi suất của tín dụng ngân hàng sẽ khuyến khích sự chủ
động và sáng tạo của các doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn sao cho phù
hợp với nhu cầu về vốn trong mỗi thời kỳ khác nhau.
- Thứ ba, tín dụng ngân hàng thúc đẩy hoạt dộng XNK diễn ra thuận
lợi và nhanh chóng hơn.
- Thứ tư, xuất phát từ tính rủi ro trong hoạt động kinh doanh XNK
cao và do việc thiếu hiểu biết lẫn nhau giữa người mua và người bán sự có
mặt của ngân hàng sẽ là một đảm bảo cho cả hai bên, nhà xuất khẩu sẽ hạn
chế được những rủi ro không thanh toán khi ngân hàng đứng ra đảm bảo
cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu và ngược lại nhờ nguồn tín dụng của
ngân hàng nhà nhập khẩu thực hiện được những nhập khẩu quan trọng
trong khi khả năng tài chính của họ chưa đáp ứng được.
- Thứ năm, ngân hàng là một đầu mối tiếp nhận các nguồn tài trợ của
nước ngoài cho hoạt động XNK. Bởi vì hiện nay phần lớn các nguồn tài trợ
của các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế cho một quốc gia nào đó được
thực hiện qua các ngân hàng nước sở tại.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động XNK càng có ý
nghĩa hơn khi ngân hàng thực hiện các chính sách của Nhà nước, trong đó
có chính sách hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Ngân hàng sẽ
cung cấp cho các nhà XNK những khoản tín dụng lớn với lãi xuất ưu đãi
mà nhờ đó họ có thể giải quyết vấn đề thiếu vốn trong hoạt động kinh
doanh của mình.
16
17
2.2. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng
thương mại.
Thương mại quốc tế bao gồm những mối quan hệ rất đa dạng, phức
tạp. Với tư cách là trung gian tài chính, ngân hàng đóng vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo cho hoạt động XNK diễn ra liên tục nhanh chóng, thuận
lợi cho cả nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu. Dựa trên các tiêu chí ta có thể
chia tín dụng XNK ra thành các hình thức như sau:
2.2.1. Cho vay trong khuôn khổ thanh toán bằng L/C
Thư tín dụng (L/C) là một văn bản pháp lý trong đó một ngân hàng
cam kết sẽ trả một số tiền nhất định cho nhà xuất khẩu hoặc chấp nhận hối
phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất
trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với quy định đề ra
trong thư tín dụng.
* Đối với L/C trong thanh toán hàng nhập khẩu
- Cho vay ký quỹ L/C
Ký quỹ là một quy định của ngân hàng phát sinh trong trường hợp
khách hàng xin được bảo lãnh, khách sẽ phải nộp một khoản tiền nhất định
vào tài khoản của họ tại ngân hàng mà họ xin được bảo lãnh và khoản tiền
đó se được phong toả cho đến khi nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng chấm
dứt. Thông thường khoản tiền này được tính tỷ lệ với giá trị hợp đồng mà
khách hàng xin được bảo lãnh. Trong trường hợp thiếu sự tin cậy hoặc
thương vụ tiềm ẩn rủi ro cao ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng ký quỹ
100% giá trị hợp đồng. Đối với những khách hàng đáng tin cậy hoặc có
quan hệ thường xuyên thì ngân hàng có thể chấp nhận mức ký quỹ thấp hơn
so với giá trị họp đồng.
Thông thường mức ký quỹ L/C phụ thuộc vào các yếu tố sau.
+ Khả năng thanh toán của khách hàng.
18
+ Đối tượng khách hàng
+ Loại L/C: L/C trả chậm thì mức ký quỹ thấp, loại L/C trả
ngay thì bắt buộc mức ký quỹ cao hơn.
+ Loại hàng hoá nhập khẩu, khả năng tiêu thụ.
Trên cơ sở các yếu tố trên, ngân hàng sẽ quyết định mức ký quỹ, nếu
như khách hàng không có đủ số dư trên tài khoản thì phải tiến hành làm
đơn xin vay ngoại tệ ký quỹ L/C.
- Cho vay thanh toán hàng nhập khẩu hoặc tài trợ thanh toán toàn bộ
chứng từ giao hàng.
Theo hình thức này khách hàng phải lập phương án sản xuất kinh
doanh mang tính khả thi cho lô hàng nhập về phục vụ sản xuất kinh doanh.
Đồng thời khách hàng phải lên kế hoách tài chính nhằm xác định khả năng
thanh toán khi đến thời điểm thanh toán dự kiến, xác định khoản thiếu hụt
với ngân hàng tài trợ. Trên cơ sở xem xét và phân tích kế hoạch và phản
ánh của khách hàng, ngân hàng sẽ ra quyết định tài trợ và xác định mức
ngân hàng chấp nhận tài trợ.
* Đối với L/C trong thanh toán hàng xuất khẩu
- Cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở trên cơ sở L/C
đã được chấp nhận do ngân hàng mở L/C phát hành theo yêu cầu của nhà
nhập khẩu. Ngân hàng có thể cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu để tiêu thụ
sản phẩm và có thể thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
- Cho vay chiết khấu hoặc ứng trước tiền hàng xuất khẩu:
Để đáp ứng nhu cầu vốn, nhà xuất khẩu sau khi giao hàng xong có
thể thương lượng với ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ chứng từ hoặc ứng
trước tiền cho mình trước khi bộ chứng từ được thanh toán.
19
2.2.2. Cho vay trong khuôn khổ phương thức nhờ thu kèm chứng từ
- Nhờ thu đi trong thanh toán hàng xuất khẩu: Ngân hàng cho vay
thu mua, sản xuất hàng xuất khẩu, chiết khấu hoặc ứng trước bộ chứng từ
hàng xuất khẩu.
- Nhờ thu đến trong thanh toán hàng nhập khẩu: Ngân hàng tiếp nhận
chứng từ từ ngân hàng nước ngoài, xuất trình hối phiếu đòi tiền nhà nhập
khẩu. Nếu nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán, thì cần phải có sự
tài trợ của ngân hàng cho vay thanh toán hàng nhập khẩu.
2.2.3. Cho vay trên cơ sở hối phiếu
Trong kinh doanh ngoại thương hối phiếu đóng vai trò rất quan
trọng, trên cơ sở hối phiếu ngân hàng có các hình thức cho vay sau:
* Chiết khấu hối phiếu
Chiết khấu hối phiếu là một loại tín dụng ngân hàng cung cấp cho
khách hàng dưới hình thức mua lại hối phiếu trước khi nó đến hạn thanh
toán, tức là ngân hàng mua lại khoản nợ phải đòi. Chiết khấu hối phiếu tạo
điều kiện cho nhà xuất khẩu nhận được tiền sớm hơn nhằm đáp ứng được
nhu cầu về vốn đối với khoản tín dụng cung ứng hàng mà anh ta cấp cho
nhà nhập khẩu.
Cơ sở để xác định khối lượng tín dụng này là giá trị của hối phiếu
sau khi đã trừ đi giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu mà ngân hàng chiết
khấu hưởng. Các ngân hàng sẽ xác định khối lượng tín dụng cấp ra(giá trị
chiết khấu) theo công thức sau:
Tck = M(1-Lck * t/3600) - P
Trong đó:
Tck: Giá trị chiết khấu
M: Mệnh giá hối phiếu
20
Lck: Lãi suất chiết khấu
t: Thời hạn chiết khấu(ngày)
P: lệ phí
Có 2 hình thức chiết khấu:
- Chiết khấu miễn truy đòi
Ngân hàng mua lại bộ chứng từ của người xuất khẩu, giá mua sẽ thấp
hơn giá trị bộ chứng từ, do ngân hàng tính trừ lại chi phí chiết khấu và thời
gian cần thiết trung bình để đòi tiền nhà nhạap khẩu nước ngoài. Chiết khấu
miễn truy đòi có nghĩa là người xuất khẩu bán hãn bộ chứng từ cho ngân
hàng, nhạn tiền và không còn trách nhiệm hoàn trả, trách nhiệm thu tiền và
quyền sữ dụng số tiền thu được hoàn toàn thuộc về ngân hàng. ở Việt Nam
các ngân hàng ít sữ dụng hình thức chiết khấu này vì nó tiềm ẩn nhiều rủi
ro cho ngân hàng.
- Chiết khấu được phép truy đòi
Cũng tương tự như hình thức trên nhưng trách nhiệm thanh toán hối
phiếu vẩn còn đối với người chiết khấu hối phiếu(nhà xuất khẩu ) và giá trị
chiết khấu cao hơn.
- Chấp nhận hối phiếu:
Tín dụng chấp nhận hối phiếu là khoản tín dụng mà ngân hàng ký
chấp nhận hối phiếu. Người vay khoản tín dụng này chính là nhà nhập khẩu
và khoản vay chỉ là một hình thức, một sự đảm bảo về tài chính. Thực chất
ngân hàng chưa phải xuất tiền thực sự cho người vay. Tuy nhiên khi đến
hạn, nếu nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán thì người cho vay
(ngân hàng) - người đứng ra chấp nhận hối phiếu phải trả nợ thay.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu xảy ra trong trường hợp bên bán thiếu
tin tưởng khả năng thanh toán của bên mua. Họ có thể đề nghị bên mua yêu
cầu một ngân hàng đứng ra chấp nhận trả tiền hối phiếu do bên bán ký phát.
21
Nếu ngân hàng đồng ý, điều đó cũng có nghĩa là ngân hàng đã chấp nhận
một khoản tín dụng cho bên mua để họ thanh toán cho bên bán khi hối
phiếu đến hạn.
Đối với ngân hàng, kể từ khi ký chấp nhận trả tiền hối phiếu cũng
chính là thời điểm bắt đầu gánh chịu rủi ro nếu như bên mua không có tiền
thanh toán cho bên bán khi hối phiếu đến hạn thanh toán.
Đương nhiên nếu đến hạn thanh toán hối phiếu, bên mua có đủ tiền
thì ngân hàng thực sự không phải ứng tiền ra. Như vậy, khoản tín dụng này
chỉ là hình thức, là một sự đảm bảo về tài chính. Trong trường hợp này,
ngân hàng sẽ chỉ nhận được một khoản phí chấp nhận, khoản tiền bù đắp
cho chi phí gánh chịu rủi ro tín dụng mà thôi.
2.2.4. Một số hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu khác
* Bao thanh toán toàn phần và bao thanh toán từng phần
- Bao thanh toán toàn phần (factoring): là một hình thức tài trợ
chính trong hoạt động xuất khẩu. Đó là hoạt động mua bán những khoản
thanh toán chưa tới hạn và ngắn hạn từ những hoạt động xuất khẩu, cung
ứng hàng hoá dịch vụ.
Khác với hoạt động mua bán lại chứng từ thanh toán ở phần trên,
hoạt động factoring chỉ sử dụng cho những hoạt động xuất khẩu thường
xuyên theo định kỳ, theo hợp đồng ngắn hạn và cho nhiều nhà xuất khẩu
khác nhau trong cùng một nước hoặc nhiều nước trong cùng một thời điểm.
Chỉ có những khoản thanh toán đáp ứng những điều kiện sau mới được
phép mua bán:
+ Những khoản mua bán phải tồn tại một cách hợp pháp, phải
có đủ tư cách pháp lý độc lập với quyền một người thứ ba.
+ Hàng hoá đã được cung ứng đầy đủ và đảm bảo chất lượng
cho những khoản thanh toán này.
+ Thời hạn thanh toán này tối đa là 180 ngày.
22
+ Không có quyền cấm chuyển nhượng các khoản thanh toán
này của người nhập khẩu hoặc nước nhập khẩu.
- Bao thanh toán từng phần (forfaiting): cũng là nghiệp vụ mua bán
những khoản thanh toán chưa tới thời hạn như factaring nhưng khác ở một
số điểm sau:
+ Forfaiting chỉ bao những khoản thanh toán cụ thể riêng lẻ
trong toàn bộ quá trình XNK dài hạn và cho từng đối tượng nhập khẩu riêng.
+ Thời hạn thanh toán của factoring tối đa là 6 tháng trong khi
thời hạn đối với forfaiting là 6 tháng đến 10 năm. Forfaiting được coi là
hình thức tín dụng trung và dài hạn.
+ Factaring phục vụ cho những hoạt động XNK không sử dụng tới
tín dụng chứng từ còn forfaiting lại dựa vào chúng và sự bảo đảm của ngân hàng.
* Tín dụng thuê mua
Thuê mua là hình thức tài trợ vốn, ra đời ở Mỹ vào năm 1952, sau đó
nhanh chóng thâm nhập vào Châu Âu đầu những năm 1960 và dần dần hiện
nay đang được các nước trên thế giới áp dụng.
Thuê mua là hình thức thuê tài sản dài hạn mà trong thời gian đó
người cho thuê chuyển giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người đi
thuê sử dụng. Người thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt
thời gian thuê và khi kết thúc thời hạn họ có thể được quyền sở hữu tài sản
thuê hoặc được mua lại tài sản thuê hay là được quyền thuê tiếp. Điều này
tuỳ thuộc vào thoả thuận của hai bên khi ký hợp đồng thuê. Có hai loại hình
thức thuê mua. Đó là: cho thuê vận hành và cho thuê tài chính.
- Cho thuê tai chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông
qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác. Bên đi thuê được
chuyển quyền sở hữu hoặc tiếp tục thuê khi kết thúc thời hạn thuê.
- Cho thuê vận hành: bên đi thuê thuê máy móc, thiết bị trong thời
gian ngắn để sử dụng vào mục đích tạm thời. Mọi rủi ro và lợi ích đem lại
đối với quyền sở hữu tài sản cho thuê vẫn thuộc người cho thuê.
23
So với hình thức cho vay truyền thống, hình thức thuê mua này có
những ưu điểm sau:
+ Các doanh nghiệp sẽ không phải bỏ tiền mua thiết bị ngay
lập tức mà trả tiền thuê thiết bị theo định kỳ, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp chủ động hơn về vốn để tập trung cho sản xuất. Hình thức này có ý
nghĩa nhất đối với doanh nghiệp không đủ vốn nhưng vẫn có thể đi thuê
thiết bị thiết bị để sản xuất và dùng một phần lợi thu được từ sản xuất để trả
tiền thuê định kỳ.
+ So với đi vay ngân hàng, việc thế chấp để được thuê máy
móc thiết bị đơn giản hơn nhiều do thiết bị thuê thuộc quyền sở hữu của
bên cho thuê trong suốt thừoi gian thuê, nên khi bên thuê không trả được
nợ, bên cho thuê có thể lấy lại toàn bộ tài sản cho thuê. Ngày nay các ngân
hàng thường lập công ty tài chính riêng để hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp
và làm phong phú thêm hoạt động của mình.
* Tài trợ bảo lãnh và tái bảo lãnh
Trong thương mại quốc tế, rủi ro là một yếu tố luôn luôn xuất hiện
trong các thương vụ khác nhau (rủi ro thanh toán, rủi ro không thực hiện
hợp đồng). Từ đó nảy sinh nhu cầu bảo lãnh để hạn chế rủi ro.
Trong mua bán quốc tế, đôi khi nhà xuất khẩu không nắm chắc được
khả năng tài chính để thanh toán và mức độ tín nhiệm của nhà nhập khẩu. Do
vậy, nhà xuất khẩu sẽ yêu cầu nhà nhập khẩu phải có một tổ chức thường là
ngân hàng đứng ra bảo lãnh thanh toán. Ngược lại, do không biết rõ hoặc
không tin tưởng nhau, nhà nhập khẩu có thể yêu cầu nhà xuất khẩu có ngân
hàng đứng ra bảo lãnh giao hàng hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
Ngân hàng nhận bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng, dùng để vay
vốn nước ngoài dưới hình thức tín dụng thương mại hoặc tín dụng tài
chính. Trách nhiệm của ngân hàng bảo lãnh là đảm bảo thi hành đúng cam
kết với nước ngoài trong trường hợp người xin bảo lãnh không thực hiện đủ
nghiệp vụ nào đó với nước bên ngoài.
24
Bảo lãnh cũng có nhiều hình thức khác nhau:
+ Mở thư tín dụng trả chậm
+ Ký bảo lãnh hay ký chấp nhận trên các hối phiếu
+ Phát hành thư bảo lãnh với người nước ngoài
+ Lập giấy cam kết trả nợ với nước ngoài... .
Các lợi thế của các bên liên quan trong nghiệp vụ này
- Đối với nhà nhập khẩu (bên được bảo lãnh): được hưởng một
khoản vốn của bên xuất khẩu mà không phải trả lãi (thực chất có thể giá
bán đã tính lãi rồi) chi trả một khoản phí cho người bảo lãnh.
- Đối với nhà xuất khẩu: hoàn toàn yên tâm rằng đến hạn sẽ được
thanh toán nợ. Nếu cần tiền, nhà xuất khẩu cũng có thể đem bộ chứng từ
chiết khấu tại một ngân hàng khác để đáp ứng nhu cầu vốn của mình.
- Đối với ngân hàng bảo lãnh: với bất kì ngân hàng nào, khi tiến
hành bảo lãnh, nghĩa là được sự tín nhiệm, được sự tin tưởng về phía bên
xuất khẩu, bên nhập khẩu. Khi bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng chỉ cho
vay trừu tượng nghĩa là ngân hàng không bỏ ra một khoản vốn nào cả, mà
chỉ lấy uy tín, danh dự của ngân hàng ra cho vay, làm cơ sở cho vay.
Thủ tục bảo lãnh cho vay ngắn hạn theo phương thức cho vay thông
thường nghĩa là khi bảo lãnh cho khách hàng thì khách hàng phải có mục đích
xin vay, có khả năng thanh toán và có tài sản thế chấp. Khi đến hạn, nếu nhà
nhập khẩu không có đủ khả năng thanh toán, thì cần phải làm thủ tục xin vay
tại ngân hàng. Như vậy, mục đích bảo lãnh đã được thực hiện, nghĩa là ngân
hàng bảo lãnh muốn khách hàng của mình vay nhằm thu thêm được một
khoản lãi, có khách hàng mới về mặt tín dụng và chi phí bảo lãnh.
3. Rủi ro trong tín dụng tài trợ XNK của ngân hàng thương mại
Rủi ro trong hoạt động tín dụng tài trợ XNK là một dạng rủi ro trong
hoạt động của ngân hàng thương mại. Đó là những biến cố bất thường, không
mong đợi xảy ra, dẫn đến tổn thất cho ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường
25
với xu hướng toàn cầu hoá ngày càng rõ rệt và quan hệ thương mại quốc tế
ngày càng được mở rộng thì đồng thời hoạt động XNK cũng đồng thời cũng
phát triển với quy mô ngày càng lớn. Điều này đóng vai trò quan trọng trong
việc phát huy lợi thế của các quốc gia trong quan hệ kinh tế đối ngoại với các
quốc gia khác. Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng của hoạt động XNK thì vai trò
của ngân hàng trong việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong hoạt động XNK
ngày càng lớn, và cũng do vậy những rủi ro với các ngân hàng cũng ngày
càng lớn hơn. những rủi ro tín dụng tài trợ XNK là rất đa dạng và khó quản lý.
Bởi vì khác với hoat động tín dụng thông thường, hoạt động tín dụng tài trợ
XNK chịu tác động của nhiều yếu tố ngẫu nhiên, bất ngờ khó nắm bắt như:
tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới, các cuộc khủng hoảng kinh tế chính
trị ảnh hưởng rất lớn đến các quan hệ kinh tế đối ngoại, tác động trực tiếp đến
tâm lý, nhu cầu cũng như nguồn cùn cấp các mặt hàng nhập khẩu. Bên cạnh
đó, các yếu tố liên quan đến tỷ giá, yếu tố thời vụ cũng ảnh hưởng đến giá trị
hàng hoá XNK, qua đó tác động xấu đến hoạt động của doanh nghiệp và ảnh
hưởng đến lợi ích của ngân hàng, dẫn tới tổn thất cho ngân hàng và nền kinh
tế.
Như chúng ta đã biết,trong quan hệ XNk thường luôn có một phía đối
tác nước ngoài, và như vậy, các doanh nghiệp kinh doanh XNK trong nước
cũng như ngân hàng tài trợ rất khó nắm bát được tất cả các thông tin cần thiết
về đối tác một cách chính xác. Do đó, khả năng xảy ra rủi ro đã xảy ra thì tổn
thất không thể tránh khỏi đối với doanh nghiệp cũng như ngân hàng. Mặc dù,
về nguyên tắc trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và đơn vị được tài trợ
luôn có những điều khoản quy định roc ràng quyền hạn của ngân hàng cũng
như trách nhiệm của doanh nghiệp, các điều khoản này nhằm đảm bảo khả
năng trả nợ của doanh nghiệp và sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả.
Đông thời đơn vị được tài trợ cũng luôn phải có tài sản thế chấp đảm bảo
khoản vay. Tuy nhiên, những tài sản thế chấp này lại chính là lô hàng đó.
Thậm chí ngay cả khi hợp đồng XNK hàng hoá của doanh nghiệp là hoàn hảo
26
và doanh nghiệp thực hiện hợp đồng một cách suôn sẻ thì rủi ro vẫn có thể
xảy ra do sự vi phạn các điều khoản trong hợp đồng tín dụng, ngay cả khi các
đơn vị được tài trợ hoàn toàn có khả năng thực hiện các cam kết đó.
Xét một cách tổng thể, ta có thể thấy rằng, rủi ro trong tín dụng tài trợ
XNK cũng giống ngư của tín dụng ngân hàng nói chung nó luôn là một yếu tố
bất lợi, tiềm ẩn có thể xảy ra bất cứ lúc nào, với hậu quả không thể lường
trước được. Vị vậy, đòi hỏi các ngân hàng phải tìm ra biện pháp phòng ngừa,
hạn chế tối đa rủi ro và thiệt hại có thể xảy ra. Muốn vậy các ngân hàng phải
têưjc hiện có hiệu quả trong việc tìm hiểu thông tin về đối tác, về thị trường,
về dự báo và đưa ra các biện pháp phòng ngừa rủi ro.
Các biện pháp phải được thiết lập một cách đồng bộ và phải được thưc
hiện một cách nghiêm túc và có sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng chuyên
trách. Có như vậy mới có thể thực hiện tốt được công tác phòng ngừa ruỉ ro,
hạn chế tối đa tổn thất, thúc đẩy sự phát triển của hoạt động XNK nhằm tăng
nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, đổi mới công nghệ, thúc đẩy nền kinh tế phát
triển.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng tài trợ xuất
nhập khẩu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Do việc cho vay có liên quan chặt chẽ đến cả ngân hàng và khách
hàng mà nó phục vụ, các chính sách cho vay phải được phác hoạ một cách
cẩn thận sau khi đã xem xét nhiều yếu tố. Sau đây là một số yếu tố quan
trọng nhất ảnh hưởng đến tín dụng tài trợ XNK của NHTM.
4.1. Chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước
Các hoạt động kinh tế nói chung và XNK nói riêng chịu tác động rất lớn
bởi chính sách chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước.
- Về mặt tích cực: chính sách vĩ mô của Nhà nước có thể tạo điều
kiện cho vay XNK của ngân hàng được mở rộng và phát triển. Nếu Nhà
nước dùng chính sách tiền tệ mở rộng thì NHTM được cấp thêm vốn dự
27
trữ, khả năng cho vay của ngân hàng sẽ gia tăng. Các ngân hàng có thể có
chính sách cho vay tự do hơn. Chính sách lãi suất linh hoạt, lãi suất thực
dương luôn là đòn bẩy thúc đẩy hoạt động tín dụng của ngân hàng. Hoạt
động tín dụng tài trợ XNK chủ yếu diễn ra theo hình thức cho vay bằng
ngoại tệ. Vì vậy nếu Nhà nước cho phép tập trung ngoại tệ vào ngân hàng,
quản lý ngoại tệ một cách chặt chẽ thì ngân hàng sẽ có nhiều nguồn ngoại
tệ đáp ứng nhu cầu nhập máy móc, thiết bị, nguyên liệu của nhà nhập khẩu.
- Về mặt tiêu cực: Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước có thể gây
ra nhiều rủi ro cho hoạt động tín dụng XNK của ngân hàng. Nếu Nhà nước
không có chiến lược hướng về xuất khẩu thì hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp XNK rất hạn chế. Từ đó dẫn đến hoạt động cho vay của ngân
hàng sẽ ít đi lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm xuống. Khi Nhà nước áp đặt
một hàng rào thuế quan, phi thuế quan thì nó sẽ dẫn đến tăng giá của một
số loại hàng nhập khẩu, lượng hàng nhập khẩu giảm dẫn đến nhu cầu vay
vốn giảm.
Ngoài ra, việc thay đổi nhỏ trong chính sách lãi suất, tỷ giá hối đoái
cũng tác động không ít đến hoạt động tín dụng tài trợ XNK của Ngân hàng.
Môi trường pháp không ổn định, cơ chế chính sách hay thay đổi làm ảnh
hưởng đến chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, làm đảo lộn chính
sách tín dụng của từng ngân hàng. Đây chính là nguyên nhân gây ra rủi ro
tín dụng cho các NHTM.
4.2. Môi trường kinh tế chính trị, xã hội trong và ngoài nước
Đất nước, khu vực mà có nền kinh tế bị rơi vào khủng hoảng hoặc
luôn luôn bị chao đảo, biến động mạnh về kinh tế, chính trị dễ dẫn đến hoạt
động tín dụng của Ngân hàng bị thu hẹp. Ngược lại, nếu kinh tế ổn định sẽ
dẫn đến chính sách cho vay tự do hơn. Thực tiễn cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ năm 1997 ở khu vực Đông Nam Á đã chứng minh điều đó. Tất
cả hoạt động của các ngành các lĩnh vực của các quốc gia trong khu vực,
đặc biệt hoạt động của hệ thống ngân hàng đã bị ảnh hưởng sâu sắc. Hàng
28
loạt ngân hàng của Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia bị tàn phá do không thu
lại được các khoản nợ, không cho vay được để bù đắp chi phí khi nhu cầu
tín dụng của khu vực giảm.
Tình hình chính trị xã hội chiến tranh cũng như thiên tia, dịch hoạ
cũng là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro bất khả kháng đối với
các khoản cho vay của Ngân hàng.
4.3. Khả năng ý thức thanh toán của doanh nghiệp XNK
Nhu cầu tín dụng của ngân hàng là yếu tố quyết định đến hoạt động
tín dụng ngân hàng được mở rộng hay thu hẹp. Song nếu có nhu cầu vay
vốn để nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu
nhưng khả năng hoàn trả của doanh nghiệp không cao thì ngân hàng cũng
sẽ không cho vay. Mặt khác, khi ngân hàng cấp vốn cho vay các doanh
nghiệp XNK, nhưng vì một nguyên nhân nào đó các ngân hàng này gặp rủi
ro trong quá trình hoạt động kinh doanh (bị huỷ bỏ hợp đồng, hàng bị mất
cắp giảm giá trị... ) làm cho họ không thu hồi đủ vốn để trả lại các khoản
vay cho ngân hàng. Đối với ngân hàng khi mà có quá nhiều khách hàng đến
hạn trả mà khôn có khả năng thanh toán hoặc cố ý chây ỳ thiếu ý thức tôn
trọng các điều khoản thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thì ngân hàng sẽ
mất khả năng thanh toán của mình thậm chí ngân hàng còn rơi vào tình
trạng phá sản.
Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và của
doanh nghiệp hoạt động XNK nói riêng với thái độ ý thức thanh toán của
doanh nghiệp sẽ thúc đẩy hay kìm hãm hoạt động tín dụng của ngân hàng.
4.4. Năng lực cho vay của ngân hàng
Khả năng huy động vốn của năng lực cho vay phụ thuộc vào vốn tự
có của ngân hàng. Do đó nếu doanh nghiệp kinh doanh XNK có nhu cầu
vốn lớn, trong khi nguồn vốn của ngân hàng nhỏ thì sẽ không thoả mãn yêu
29
cầu của doanh nghiệp. Tín dụng XNK của NHTM gắn liền với nguồn vốn
ngoại tệ. Do đó làm thế nào để huy động đủ ngoại tệ đáp ứng nhu cầu vay
của doanh nghiệp nhập khẩu đang là vấn đề lớn đối với nhiều NHTM.
4.5. Các nhân tố khác
Trình độ quản lý kinh doanh, quản lý vốn cũng như trình độ chuyên
môn của đội ngũ nhân viên tín dụng không phải là không có ý nghĩa đối với
hoạt động cho vay XNK của ngân hàng. Với một đội ngũ nhân viên có kinh
nghiệm, có trình độ trong thẩm định dự án, xem xét đơn vay vốn của khách
hàng thì chất lượng tín dụng sẽ cao và ngược lại.
Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng tài trợ XNK của NHTM cũng luôn
phải đối mặt với rủi ro lãi suất hay tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái luôn luôn
biến động, sự biến động này có thể diễn ra hàng ngày. Nếu tỷ giá hối đoái hợp
lý sẽ khuyến khích cả nhập khẩu và xuất khẩu, tạo điều kiện cho nền kinh tế
nói chung và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng sẽ phát triển.
Hoạt động cho vay của ngân hàng chịu tác động của nhiều nhân tố
khác nhau. Có nhân tố tác động tích cực khuyến khích mở rộng hoạt động
cho vay. Song cũng có không ít những nhân tố kìm hãm, gây rủi ro cho
hoạt động này của ngân hàng. Các ngân hàng khi cấp tín dụng cho doanh
nghiệp XNK phải lường trước mọi rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động
ngoại thương để từ đó có những quyết định đúng đắn, kịp thời, đạt hiệu quả
kinh tế cao nhất.
30
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI.
1. Khái quát về NHNT Hà Nội
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNT Hà Nội
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh TP Hà Nội (gọi tắt là
NHNT Hà Nội) được thành lập theo quyết định số 177/QĐ/NH ngày 22
tháng 12 năm 1984 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(nay là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), chính thức đi vào hoạt
động từ 01/ 03/1985 theo sự quản lý và phân công của NHNT Việt Nam.
NHNT Hà Nội là một tổ chức tài chính có tư cách pháp nhân, thực hiện
hạch toán kế toán và kinh tế thống nhất trong hệ thống NHNT Việt Nam,
hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính, đảm bảo và phát triển vốn, tự
bù đắp chi phí và tự chịu rủi ro.
NHNT Hà Nội là ngân hàng trực thuộc và là Chi nhánh cấp I trong hệ
thống NHNT Việt Nam, cùng với NHNT TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa- Vũng
Tàu được xếp loại doanh nghiệp hạng I
1.2. Cơ cấu tổ chức của NHNT Hà Nội
Cơ cấu tổ chức của NHNT hà nội được trình bày theo sơ đồ sau
31
Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức NHNT Hà Nội:
2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNT Hà Nội.
Trong những năm vừa qua, cùng với hệ thống NHNT Việt Nam nói
chung, NHNT Hà Nội đã có nhiều thành công tích cực trong hoạt động kinh
doanh, tiếp tục khẳng định vị trí của mình trong quá trình phát huy các
nguồn nội lực, thu hút nguồn ngoại lực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế
xã hội trên địa bàn Thủ đô Hà Nội. Đây là kết quả được duy trì trong những
năm vừa qua, được thực hiện cụ thể trên các mặt nghiệp vụ:
2.1. Về huy động vốn.
- Nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế luôn là yêu cầu bức thiết, nhất là
đối với địa bàn Hà Nội. Hiện nay, NHNT Hà Nội thực hiện huy động vốn
bằng VND và các ngoại tệ mạnh thông qua các hình thức như: Tiết kiệm
(có kỳ hạn và không kỳ hạn), phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, mở tài khoản...
Ban Giám Đốc
Phòng Tín Dụng
Tổng Hợp
Phòng Thanh Toán
Quốc Tế
Phòng Tin Học
Phòng Hành Chính
Nhân Sự
Phòng Kế Toán -Tài
Chính
Phòng Ngân quỹ
Phòng Dịch Vụ Khách
Hàng
Tổ Kiểm Tra Nội
Bộ
Tổ Quan Hệ Khách
Hàng
32
- Về ngoại tệ, NHNT Hà Nội thực hiện huy động và thu đổi 11 loại
ngoại tệ, chủ yếu là các loại ngoai tệ mạnh và các ngoại tệ phục vụ cho nhu
cầu XNK của nền kinh tế.
Trong năm 2002 vừa qua, với vị trí và uy tín được tạo dựng trong
nhiều năm, NHNT Hà Nội đã hoàn thành tốt công tác huy động vốn theo kế
hoạch, đóng góp lớn vào thành tích huy động vốn chung của toàn hệ thống
NHNT. Kết quả như sau:
Tổng nguồn vốn huy động của Chi nhánh trong năm 2002 là 3996 tỷ
đồng, tăng 22% so với cùng kỳ 2001. Trong đó:
+ Huy động từ dân cư đạt 3.254 tỷ đồng, tăng 24% và chiếm
81% tổng số vốn huy động
+ Huy động từ các tổ chức kinh tế đạt 740 tỷ đồng, tăng 13%
và chiếm 18% trong tổng nguồn vốn huy động.
Nhờ vậy, tổng nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh trong năm 2002
là 4.242 tỷ đồng. Trong đó:
+ Vốn điều lệ : 13 tỷ VND
+ Vốn và các quỹ khác: 107 tỷ VND (do tích lũy qua các năm).
+ Vốn huy động: 4.122 tỷ VND
2.2. Về công tác sử dụng vốn.
NHNT Hà Nội sử dụng vốn theo nguyên tắc: An toàn và Hiệu quả.
Ngân Hàng chủ yếu cho vay các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội và
một số tỉnh lân cận. Hiện nay NHNT Hà Nội cho vay 1 khách hàng tối đa là
80 tỷ đồng, và cho vay trung – dài hạn tối đa một dự án là 35 tỷ đồng.
Ngân hàng tập trung cho vay phục vụ XNK, đầu tư mở rộng sản xuất,
xây dựng các nhà máy lớn trên địa bàn Hà Nội, cho vay các dự án phục vụ
công nghiệp, giao thông công cộng, y tế, xây dựng cơ bản... Phương thức cho
33
vay của Ngân hàng là khá phong phú, tuy vậy hai phương thức cho vay chủ
yếu của NHNT Hà Nội là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức tín
dụng.
Với kết quả sử dụng vốn sinh lời của Chi nhánh trong năm 2002 đạt
99% tổng nguồn vốn huy động, tăng 62% so với năm 2001. Chi nhánh đã
chủ động mở rộng hoạt động tín dụng nhằm đáp ứng vốn có hiệu quả cho nền
kinh tế và tăng cường nguồn vốn cho NHNT Việt Nam, thông qua 2 kênh sử
dụng vốn chính là đầu tư tín dụng trực tiếp và điều chuyển vốn nội bộ.
Công tác tín dụng của Chi nhánh trong năm 2002 đã thực sự khởi sắc:
Doanh số cho vay đạt 3. 625 tỷ đồng, tăng 64%. Doanh số thu nợ đạt 3. 255
tỷ đồng, tăng 62%, dư nợ tín dụng đạt 985 tỷ đồng, tăng 60% so với năm
2001. Trong đó:
- Dư nợ tín dụng ngắn hạn đạt 793 tỷ đồng, tăng 74%. Chi nhánh đã đáp
ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn cho các khách hàng, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp nắm bắt được thời cơ kinh doanh. Đặc biệt, Chi nhánh đã thực
hiện cho vay USD để thu mua và làm hàng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi nhằm
hỗ trợ hoạt động xuất khẩu của thành phố với doanh số cho vay đạt 4 triệu USD.
- Dư nợ tín dụng trung và dài hạn đạt 192 tỷ đồng, tăng 107%. Chi
nhánh đã chủ động tìm kiếm các dự án đầu tư có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu
vốn đầu tư đổi mới công nghệ và mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế xã
hội ở Thủ đô.
Hiệu quả tín dụng của Chi nhánh là rõ rệt, mặc dù mở rộng và tăng
nhanh cả về doanh số và số dư cho vay nhưng vẫn đảm bảo an toàn và có
chất lượng, dư nợ quá hạn chỉ chiếm 0,6% tổng dư nợ, đặc biệt trong năm
2002 không phát sinh một khoản nợ quá hạn nào.
2.3. Về công tác thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ.
34
Phát huy thế mạnh và uy tín đã tạo dựng được trên trường quốc tế của
toàn hệ thống, NHNT Hà Nội đã thực sự trở thành địa chỉ tin cậy cho các
doanh nghiệp hoạt động XNK trên địa bàn. Công tác thanh toán quốc tế năm
2002 có chất lượng tốt với tổng doanh số thanh toán XNK cả năm đạt 374
triệu USD, tăng 18% so với năm 2001 (Chủ yếu là thông qua L/C, D/P, D/A,
TTR). Trong đó doanh số thanh toán nhập khẩu tăng 30%, riêng doanh số
thanh toán xuất khẩu bằng 78% so với doanh số thanh toán xuất năm 2001 do
khó khăn hoạt động xuất khẩu chung của cả nước.
Bảng 1: Doanh số thanh toán XNK qua các năm
(Đơn vị: Nghìn USD)
Chỉ tiêu 2000 2001 2002
Nhập khẩu 210. 144 239. 589 292. 196
Xuất khẩu 83. 434 87. 721 68. 863
(Nguồn: Báo cáo tín dụng của NHNT Hà Nội qua các năm)
Đi đôi với hoạt động thanh toán XNK, công tác kinh doanh ngoại tệ
cung được chú trọng nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu về ngoại tệ trong thanh
toán XNK. Doanh số mua bán ngoại tệ năm 2002 tăng mạnh, đạt 131 triệu
USD, tăng 13% so với năm 2001. Chi nhánh đã tự chủ động cân đối các
nguồn ngoại tệ để cung ứng cho nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu
cho sản xuất và tiêu ding của các doanh nghiệp và khách hàng có quan hệ.
2. 4. Về công tác Kế toán, Thanh toán Ngân hàng
Hiện nay NHNT Hà Nội đã tích cực chủ động tham gia cùng với
NHNT Việt Nam và Ngân Hàng Nhà nước ứng dụng công nghệ ngân hàng
hiện đại vào công tác thanh toán của ngân hàng đảm bảo thanh toán nhanh,
chính xác và tăng nhanh vòng quay sử dụng vốn của các doanh nghiệp qua
Ngân hàng.
35
Có thể nói, hiên nay NHNT Việt Nam nói chung và NHNT Hà Nội
nói riêng có công nghệ thanh toán hiện đại nhất trong hệ thống Ngân hàng
Việt Nam. NHNT Hà Nội là đơn vị đầu tiên trong toàn hệ thống ứng dụng
chương trình “Tầm nhìn 2010 – Hệ thống VCB Vision 2010”, đây là dự án
của Ngân Hàng Thế Giới do Vietcombank triển khai dựa trên nền tảng công
nghệ hiên đại nhất của Mỹ. Các ứng dụng nổi bật của chương trình này là:
- Là hệ thống xử lý trực tuyến và các dịch vụ hỗ trợ.
- Có hệ thống định hướng khách hàng.
- Giao dịch một cửa
- Gửi một nơi, rút nhiều nơi (điều này các Ngân hàng khác chưa làm
được).
- Thanh toán tự động.
Nhờ đó, năm 2002 lượng khách hàng đến mở tài khoản tăng 46% so
với năm 2001, số lượng khách hàng có tài khoản đến 31/12/2002 là 31.982,
trong đó có 570 đơn vị và 4106 cá nhân mở tài khoản giao dịch tại Chi
nhánh.
Bảng 2: Số lượng tài khoản giao dịch qua các năm:
(Đơn vị: tỷ đồng)
Năm 2002 2001 2000
Số lượng 16. 248 21. 215 31. 982
( nguồn: báo cáo của NHNT Hà nội)
Doanh số thanh toán trong hệ thống Ngân Hàng Ngoại Thương đạt
34.509 tỷ đồng, tăng 45%; Thanh toán bù trừ đạt 5.045 tỷ đồng, tăng 16%;
Thanh toán qua NHNN đạt 2.294 tỷ đồng, tăng 47% so với năm 2001;
Thanh toán liên Ngân hàng áp dụng từ tháng 5 - 2002 đạt 656 tỷ đồng.
2.5. Về dịch vụ kiều hối, thẻ và bảo lãnh Ngân Hàng
36
Với chính sách đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các sản phẩm
dịch vụ ngân hàng, công tác dịch vụ Ngân hàng của Chi nhánh trong năm
2002 tăng mạnh.
Chất lượng thanh toán và trình độ phục vụ ngày càng được nâng cao,
công tác thanh toán chi trả kiều hối của Chi nhánh trong năm 2002 đạt
doanh số 15,546 triệu USD. Tuy còn nhỏ so với hơn 2 tỷ USD kiều hối
được chuyển về trong năm qua nhưng cũng đã tăng tới 94% so với năm
2001.
NHNT Hà Nội đã mở rộng và phát triển các sản phẩm và dịch vụ
ngân hàng hiện đại vào cuộc sống. Ngoài các chương trình dịch vụ mới như
VCB-Online, Home-banking, E-banking, Ci-tad... Ngân hàng đã chú trọng
tạo điều kiện cho khách hàng giao dịch, tiếp cận với các dịch vụ thanh toán
mới nhất của ngân hàng. Công tác phát hành thẻ lần đầu tiên được Chi
nhánh triển khai đã có hiệu quả tốt:
- Thẻ rút tiền mặt tự động ATM số lượng phát hành đạt 3.086 thẻ,
doanh số thanh toán là 35 tỷ đồng,
- Thẻ Visa, Master số lượng thẻ mới phát hành đã đạt 162 thẻ, doanh
số thanh toán thẻ tín dụng là 128 ngàn USD, tăng 44% so với năm 2001.
Hiện nay ngoài Visa và Master, NHNT Hà Nội còn phát hành và thanh toán
các loại thẻ tín dụng khác như Amex, Diner Club, và thẻ ghi nợ VCB-ATM.
Năm 2002 cũng là năm mà dịch vụ bảo lãnh ngân hàng tăng mạnh về
cả số lượng và loại hình bảo lãnh. Nhiều hình thức bảo lãnh được thực hiện
với các mức ký quỹ phù hợp, tạo điều kiện cho khách hàng có thể sử dụng
dịch vụ bảo lãnh ngân hàng mà không bị ứ đọng vốn (các loại hình bảo lãnh
hiện nay ngân hàng đang áp dụng bao gồm: Bảo lãnh Thanh toán, bảo lãnh
Dự thầu, và bảo lãnh Thực hiện hợp đồng). Tổng doanh thu bảo lãnh cả
năm đạt 72.135 triệu đồng, tăng 366% so với năm 2001. Năm vừa qua
không có khoản bảo lãnh nào bị quá hạn.
37
Hiện nay Chi nhánh đang áp dụng việc tín chấp, giảm mức ký quỹ
xuống nhằm thu hút nhiều khách hàng hơn nữa.
3. Thực trạng hoạt động tín dung xuất nhập khẩu tại NHNT Hà nội.
Trong toàn bộ chuyên đề này tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD
được sử dụng thống nhất như sau:
Tỷ giá USSD/VNĐ = 14501 (năm 2000)
= 15054 (năm 2001)
= 15349 (năm 2002)
3.1. Về công tác huy động vốn
Huy động vốn là một khâu quan trọng trong hoạt động ngân hàng
nhằm tạo nguồn cho hoạt động tài trợ của ngân hàng. Xét về mặt này
NHNT Hà Nội đã thực hiện khá tốt.
Bảng3: Cơ cấu nguồn vốn huy động
(Đơn vị: triệu đông, nghìn USD)
2000 2001 2002
Chỉ tiêu
Số tiền Số tiền % so với 2000 Số tiền
% so với
2001
1/Tiền gửi TCKT 403. 336 558221 138, 4 739537 132, 48
- Đồng Việt Nam 330338 415000 125, 63 540000 106, 93
- Ngoại tệ 72. 998 (5034)
143221
(9500) 195, 91
199537
(13000) 132, 67
2/Tiền gửi dân cư 2277654 2651221 116, 84 3237004 122, 09
- Đồng Việt Nam 180592 230000 127, 36 620000 278, 03
- Ngoại tệ 2097062 (144615)
2431221
(161500) 115, 93
2617004
(170500) 110, 00
38
3/Các nguồn khác 34082 49701 145, 82 19817 39, 87
- Đồng Việt Nam 9140 23 - 17 74, 91
- Ngoại tệ 24942 -
49678
(3300) 199, 17
19800
(1290) 62, 50
Tổng 2756735 3268935 118, 58 3996342 121, 53
(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh hàng năm của NHNT Hà nội)
Biểu 1: Cơ cấu nguồn vốn huy động
Trong cơ cấu nguồn vốn huy động của NHNT Hà Nội tiền gửi dân
cư chiếm bộ phận chủ yếu trong tổng nguồn vốn huy động. Mặc dù gặp
phải những khó khăn vào cuối năm 2002 do tình hình chính trị trên thế giới
có biến động và sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, nhưng nhìn
chung nguồn vốn của ngân hàng tăng nhanh qua các năm. Để đạt được kết
quả huy động vốn như trên, Chi nhánh đã áp dụng nhiều biện pháp, hình
thức huy động khác nhau như phát hành kỳ phiếu, cung cấp dịch vụ ATM,
ngân hàng trực tuyến, nâng cao chất lượng phục vụ, điều này đã tạo ra
thuận lợi cho khách hàng, tạo uy tín cho ngân hàng.
Trong năm 2002, tổng nguồn vốn huy động của Chi nhánh đạt
3396342 triệu đồng tăng 21,53% so với năm 2001
39
+ Nguồn vốn VND huy động năm 2002 đạt 11600 triệu đồng
chiếm 29% tổng nguồn vốn, tăng 59,34% so với năm 2001. Nguyên nhân chủ
yếu là lãi suất huy động tăng và đạt mức cao kỷ lục trong vài năm gần đây.
+ Huy động vốn ngoại tệ đạt 184790 nghìn USD tăng 10,78%
so với năm 2001.
+ Trong cơ cấu nguồn vốn huy động thì huy động vốn ngoại
tệ chiếm tỷ trọng lớn hơn so với huy động băng VND, đạt doanh số
2836342 triệu đồng (Quy VND theo tỷ giá 15349VND/USD), chiếm tỷ
trọng 71% tổng nguồn vốn huy động
3.2. Về hoạt động sử dụng vốn tài trợ các hoạt động xuất nhập khẩu
Hoạt động tín dụng XNK tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội ngày
càng diễn ra sôi nổi và đa dạng. Để đáp ứng nhu cầu vốn trong hoạt động
XNK của các doanh nghiệp, Ngân hàng đã tiến hành đa dạng hoá các hình
thức tài trợ, áp dụng nhiều hình thức tài trợ mới, đồng thời không ngừng cải
tiến các hình thức tài trợ mới.
Hiện nay, tại NHNT Hà Nội có áp dụng nhiều hình thức tín dụng tài
trợ XNK, bao gồm:
Cho vay phục vụ nhập khẩu, gồm có:
- Cho vay Ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị, hàng hoá, khuyến
khích cho vay đối với những mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất được.
-Cho vay bằng Đồng Việt Nam để mua Ngoại tệ phục vụ nhập khẩu.
-Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu, cho vay ký quỹ L/C.
-Bảo lãnh.
Cho vay phục vụ xuất khẩu, gồm có:
- Cho vay vốn lưu động để thu mua, chế biến, sản xuất hàng xuất
khẩu theo đúng L/C quy định, hợp đồng ngoại thương đã ký kết.
- Chiết khấu chứng từ hàng xuất khẩu.
Hiện nay tại NHNT Hà Nội chưa áp dụng các hình thức như tín dụng
thuê mua, tín dụng chấp nhận hối phiếu, tín dụng bao thanh toán.
40
Hoạt động tài trợ xuất nhập là hoạt động sử dụng vốn chủ yếu của
NHNT Hà Nội. Thực hiện phương châm mở rộng hoạt động tín dụng đồng
thời bảo đảm an toàn vốn, lợi nhuận hợp lý, Chi nhánh đã nổ lực vươn lên
đáp ứng yêu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sự phát
triển hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn Thủ đô.
Dựa trên sự phân loại tín dụng tài trợ XNK theo các tiêu chí khác nhau ta
đi sâu phân tích tình hình hoạt động tài trợ XNK tại NHNT Hà Nội:
* Theo thời hạn khoản tài trợ
Bảng 4: Doanh số cho vay tài trợ XNK tại NHNT Hà Nội
(Đơn vị: 1 triệu đồng, 1000USD)
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
1/Tín dụng Ngắn hạn 879426 895037 1459253
a-Đồng Việt Nam
380476
497327
739247
b-Ngoại tệ
34408
26419
46909
2/Tín dụng trung dài hạn 47273 40221 43340
a-Đồng Việt Nam 3233 19040 26272
b-Ngoại tệ 3037 1407 1112
Tổng số 926699 935260 1502593
(Nguồn: Báo cáo tín dụng hàng năm của NHNT Hà Nội)
Cuối năm 2001, do sự biến động về tình hình chính trị thế giới, nguy
cơ khủng bố tăng cao, đặc biệt là sự kiện ngày 11/9, đã làm ảnh hưởng đến
hoạt động XNK của Việt Nam, do đó cũng làm ảnh hưởng đến doanh số
cho vay của ngân hàng, năm 2001 doanh số cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ
chỉ có 26419 nghìn USD giảm 23, 2% so với năm 2000.
41
Đầu năm 2002, ban giám đốc đã đặc biệt chú trọng đến công tác tín
dung của Chi nhánh, đề ra nhiều biện pháp thiết thực, kết quả là doanh số
cho vay đã tăng mạnh, tổng dư nợ đạt 1502593 triệu đồng, tăng 60,7% so
với năm 2001. Đặc biệt tín dụng ngắn hạn đạt 1459253 triệu đồng, tăng
63% so với năm 2001, doanh số cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ tăng
mạnh, đạt 46909 nghìn USD, tăng 77,6% so với năm 2001.
Tín dụng trung dài hạn cũng có sự tiến bộ đáng kể đạt 43340 triệu
đồng, tăng 3119 triệu so với năm 2001.
Về cơ cấu cho vay qua biểu 1 ta thấy là tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng doanh số cho vay phục xuất nhập khâu. Năm 2002 cho
vay ngắn hạn có sự tăng đột biến so với năm 2001 về doanh số cũng như cả
2 loại tiền VND, Ngoại tệ.
Biểu 2: Cơ cấu tín dụng theo theo thời hạn từ 2000 - 2002
* Xét hoạt động tài trợ XNK theo mặt hàng xuất khẩu hay nhập khẩu
Một nhiệm vụ quan trọng của Chi nhánh NHNT Hà Nội là phục vụ
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá XNK. Do đó, Ngân hàng
rất chú trọng đến hình thức cho vay theo mặt hàng. Các mặt hàng chủ yếu
mà ngân hàng tài trợ là:
42
- Về xuất khẩu: Chi nhánh chú trọng cho vay đối với các ngành có
thế mạnh của nền kinh tế như hàng dệt may, hàng thủ công mỹ nghệ, giầy
dép các loại, nông sản...
-Về nhập khẩu: Chi nhánh quan tâm chú ý đến hoạt động cho vay nhập
khẩu máy móc, điện tử và linh kiện, thuốc chữa bệnh, hoá chất các loại...
43
Bảng 5: Cho vay tài trợ XNK theo mặt hàng tại NHNT Hà Nội
(Đơn vị: 1 triệu đồng, 1000USD)
Dư nợ VND Dư nợ ngoại tệ Mặt hàng
2000 2001 2002 2000 2001 2002
I/Hàng nhập khẩu 75502 65645 102194 28332 24710 37729
1. Máy móc 4552 5627 3066 5763 3016 9627
2. Sắt thép 20125 17501 25549 3250 2125 3521
3. Xe máy và linh kiện 7624 6984 5110 2115 6240 5615
4. Điện tử và linh kiện 23221 20153 34746 6410 8115 7428
5. Thuốc chữa bệnh 3294 2626 4088 584 518 921
6. Bông, sợi, vải 6427 10129 20439 1121 1237 2325
7. Hoá chất các loại 3721 1876 3066 610 2310 1015
8. Hàng khác 6538 749 6132 8479 1149 7277
II/Hàng xuất khẩu 258009 310578 520778
1. Cà phê 18515 21156 78117
2. Hàng lâm sản 125645 64520 130195
3. Hàng dệt may 84210 105273 155168
4. Hàng thủ công mỹ
nghệ 24620 42520 104156
5. Hàng khác 5019 77109 53142
III/Cho vay khác 185340 187052 300519
Tổng số 518851 563275 923491 28332 24710 37729
(Nguồn: Báo cáo tín dụng hàng năm của NHNT Hà nội)
NHNT Hà Nội không có sự phân biệt rõ ràng nào về nghành hàng
được XNK. Tuy nhiên, do nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hoá -
hiện đại hoá nên các nhu cầu về máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến, hàng
hoá vật tư là nhu cầu thiết thực. Vì vậy, theo khuyến cáo của Chính phủ,
NHNT Hà Nội hạn chế tài trợ nhập các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ hoặc các
mặt hàng mà các nhà sản xuất trong nước có thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
44
nội địa. Điều này góp phần bảo vệ nền sản xuất trong nước và thúc đẩy nền
kinh tế đi lên.
Chi nhánh cho vay VNĐ đối với các doanh nghiệp kinh doanh hàng
xuất khẩu, mặt hàng dệt may và thủ công mỹ nghệ có tổng dư nợ cho vay
nhiều nhất. Điều này rất phù hợp với cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam vì đây
là hai trong số 16 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất nước ta.
Dư nợ cho vay xuất khẩu trong năm 2002 tại NHNT Hà Nội đạt
520778 triệu đồng, tăng 66,7%. So với năm 2001, về nhập khẩu, do sự hồi
phục của nền kinh tế nên nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị điện tử linh
kiện của nền kinh tế tăng mạnh nên dư nợ cho vay bằng VND đạt 102194
triệu đồng, tăng 55,7% so với năm 2001, dư nợ cho vay ngoại tệ đạt 37729
nghìn USD tăng 52,7% so với năm 2001.
Trong đó, máy móc các loại là mặt hàng có dư nợ cho vay nhiều
nhất, năm 2002 cho vay ngoại tệ cho vay ngoại tệ để nhập khẩu máy móc
đạt 9627 nghìn USD, tăng hơn 2 lần so với năm 2001. Đặc biệt có sự
chuyển biến rõ về hình thức nhập khẩu, trong cơ cấu cho vay, cho vay phục
vụ nhập khẩu máy móc chiếm vị trí hàng đầu, trong khi đó cho vay phục vụ
nhập khẩu hàng tiêu dùng điện tử giảm, chỉ chiếm vị trí thứ 2.
* Về cơ cấu cho vay xuất khẩu so với nhập khẩu tại NHNT Hà Nội
Bảng 6: Cơ cấu cho vay Xuất khẩu-Nhập khẩu tại NHNT Hà Nội
(Đơn vị: Triệu đồng)
2000 2001 2002
Chỉ tiêu
Doanh số Tỷ trọng Doanh số Tỷ trọng Doanh số Tỷ trọng
1-Cho vay NK 486344 46,79 437629 52,48 681296 45,34
2-Cho vay XK 258009 31,2 310578 28,84 520778 34,66
3-Cho vay
khác 185340 22 187052 19 300519 20
Tổng 926699 935260 1502593
(Nguồn: Báo cáo tín dụng hàng năm của NHNT Hà nội)
45
Trong cơ cấu cho vay tại NHNT Hà Nội, doanh số cho vay nhập
khẩu chiếm tỷ trọng lớn nhất (Trung bình trên 45%). Tuy nhiên, trong 3
năm qua tỷ lệ này có xu hướng giảm dần, từ 52,48% vào năm 2000 còn
45,34% vào năm 2002.
Trong năm 2001, doanh số cho vay xuất khẩu đã tăng 120,37% so
với năm 2000, còn cho vay nhập khẩu giảm 10,12%, thể hiện xu hướng
nhập khẩu mạnh của các đơn vị kinh doanh.
Trong năm 2002, doanh số cho vay XNK tăng mạnh, trung bình là
160% so với năm 2001. Có được kết quả trên là do chính sách huy động
vốn tích cực của Chi nhánh nhằm thu hút được một lượng vốn đáng kể để
phục vụ cho hoạt động cho vay đối với nền kinh tế, chính sách khách hàng
linh hoạt và đặc biệt là việc thực thi một chính sách lãi suất hấp dẫn so với
các Ngân hàng khác.
Biểu 3: Cơ cấu cho vay xuất khẩu so với nhập khẩu
3.3. Đánh giá hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu nhập khẩu tại
Ngân hàng ngoại thương Hà Nội
3. 3. 1 Những mặt tích cực đạt được
Trong bối cánh hoạt động tiền tệ của Ngân hàng nói chung và NHNT
Hà Nội nói riêng đã gặp nhiều khó khăn, rủi ro vẫn còn tiềm ẩn, tất cả các
46
cán bộ làm công tác tín dụng phải chấn chỉnh hoạt động, đi vào kỷ cương
tuân thủ chặt chẽ theo quy định cho vay. Với phương châm cho vay an
toàn, hiệu qủa và hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro phát sinh nhằm từng
bước nâng cao chất lượng tín dụng, việc thẩm định, phê duyệt cho vay đã
từng bước được cải tiến đáp ứng nhu cầu của khách hàng, trách nhiệm của
cán bộ tín dụng dần dần được nâng cao. Do vậy hoạt động tín dụng của Chi
nhánh NHNT Hà Nội đã đạt được một số kết quả nhất định góp phần vào
kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh, thể hiện ở một số mặt sau:
- Đứng trước sự cạnh tranh gay gắt về cả lãi suất cũng như giành giật
khách hàng của các Ngân hàng hoạt động trên địa bàn Thủ đô, Chi nhánh
luôn quan tâm đặc biệt tới công tác khách hàng, bên cạnh việc duy trì ưu
đãi với khách hàng truyền thống và khách hàng vay có giá trị lớn, Chi
nhánh đã quan tâm phát triển sản phẩm mới như ngân hàng trực tuyến,
ATM…mở rộng thêm khách hàng mới với mục đích an toàn, hiệu quả. Do
vậy, tín dụng tăng trưởng mạnh. Đến ngày 31/12/2002 doanh số cho vay
phục vụ XNK đạt 1502593 triệu đồng, chiếm 44.57% tổng dư nợ cho vay
và tăng 61% so với năm 2001.
- Các phương thức tài trợ truyền thống như: Cho vay ngắn, trung- dài
hạn có bảo đảm, thanh toán L/C, chiết khấu thương phiếu... ngày càng được
Chi nhánh hoàn thiện và phát triển. Bên cạnh đó, Chi nhánh không ngừng
phát triển thêm các phương thức tài trợ mới để đảm bảo đáp ứng tốt nhất
nhu cầu vốn cho khách hàng như: Cho vay ứng trước từ hàng xuất khẩu,
mở tín dụng trả chậm, tín dụng thuê mua...
- Nguồn thông tin thu thập được trong quá trình cho vay ngày càng
phong phú đa dạng. Nếu như trước đây các thông tin về khách hàng dùng
để phân tích thường được cung cấp bởi chính khách hàng, thì hiện nay
ngoài nguồn thông tin từ khách hàng vay vốn, Chi nhánh còn tiến hành thu
thập thông tin từ các tài liệu phân tích thị trường, tài liệu lưu trữ liên ngân
hàng, các văn bản luật, thông tin từ Trung tâm phòng ngừa rủi ro, thông tin
47
từ hệ thống thông tin của Ngân hàng Nhà nước, thông tin từ các cơ quan
kiểm toán... Ngoài ra, trong điều kiện hiện nay, các cán của Chi nhánh còn
được trang bị và hỗ trợ khá tốt với những phương tiện cần thiết như máy
tính nối mạng, điện thoại, máy fax... Điều này một mặt tạo điều kiện thuận
lợi cho các cán bộ Chi nhánh nhanh chóng có được những thông tin cần
thiết, thu giảm thời gian thẩm định, mặt khác giúp cho các cán bộ dễ dàng
hơn trong qúa trình thu nợ, quản lý tài khoản tiền gửi của khách hàng
- Chi nhánh đã bám sát yêu cầu thực tế của các doanh nghiệp để đầu
tư kịp thời vào các ngnàh kinh tế then chốt cuả Thủ đô. Trong năm 2002 đã
cho vay được 24 dự án, các dự án đều phát huy hết hiệu quả trả nợ gốc và
lãi đúng hạn. Tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn ngoại tệ tăng 7.75% so với
năm 2001
- Với phương châm luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt với
trang thiết bị hiện đại, giờ đây Chi nhánh đã có khả năng đáp ứng cho
khách hàng các loại sản phẩm với chất lượng cao nhất, các dịch vụ của Chi
nhánh ngày càng phong phú. Đặc biệt Chi nhánh đã áp dụng dịch vụ trọn
gói (từ mở tài khoản, cho vay, mua bán ngoại tệ đến thanh toán XNK...)
cho khách hàng lớn của mình, điều này đã được đông đảo khách hàng trong
và ngoài nước hoan nghênh.
- Các biện pháp đảm bảo tiền vay được cán bộ chi nhánh thẩm định
tương đối cẩn thận, hạn chế được tình trạng một tài sản thế chấp được
khách hàng thế chấp để vay vốn ở hai nơi. Các phương thức chiết khấu
thương phiếu được sử dụng, tính toán một cách linh hoạt đảm bảo thận lợi
cho khách hàng trong việc vay vốn.
- Chi nhánh rất chú trọng công tác tuyển chọn, đào tạo và đào tạo lại
đội ngũ cán bộ. Hiên nay Chi nhánh có một đội ngũ cán bộ trẻ, năng động
với trình độ nghiệp vụ vững vàng, đây là cơ sở để phát triển và hoàn thiện
các phương thức tín dụng tài trợ XNK hiện Chi nhánh đang áp dụng, có
khả năng đáp ứng được các yêu cầu đối với các phương thức tài trợ phức
48
tạp, đồng thời phát triển thêm các hình thức mới nhằm đa dạng hoá các
hình thức tài trợ tại chi nhánh.
- Hệ thống trang thiết bị thông tin ngày càng hiện đại với số lượng
ngày càng nhiều tạo điều kiện thuận lợi cho Cán bộ trong việc cập nhật
thông tin, phân tích thông tin, soạn thảo các văn bản cũng như tiếp cận với
các phương thức mới, các điều luật mới trong hoạt động thanh toán quốc tế...
3.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân
3.3.2.1. Những tồn tại
Bên cạnh những thành công đã đạt được thì công tác tín dụng tài trợ
XNK của NHNT Hà Nội vẫn còn một số tồn tại cần phải khắc phục:
* Tồn tại lớn nhất, khó khăn và lâu dài nhất cho hoạt động tín dụng
của Chi nhánh đó là nợ tồn đọng (bao gồm nợ khoanh, nợ chờ xử lý) rất lớn
mà chưa có biện pháp giải quyết hữu hiệu. Phần lớn các khoản nợ khoanh
đều bị giảm, xoá, không có nguồn hỗ trợ bù đắp, ngoài việc bán tài sản thế
chấp. Quá trình hoàn thiện thủ tục đưa tài sản thế chấp ra bán đấu giá tại
trung tâm bán đấu giá thuộc sở tư pháp Hà Nội vẫn còn nhiều vướng mắc
như hồ sơ thế chấp không đầy đủ hoặc giả mạo; con nợ chây ỳ cản trở
Ngân hàng bán tài sản, thời hạn khởi kiện đã hết, các tranh chấp dân sự
phát sinh cản trở việc phát mại tài sản để thu nợ; thủ tục bán đấu giá còn
gây phiền hà cho khách hàng như mức lệ phí đấu giá, tiền đặt cọc, tình
trạng buôn ép giá kiếm lời làm ảnh hưởng đến tâm lý khách hàng không
muốn đưa tài sản thế chấp ra bán tại các trung tâm. Bên cạnh đó, phần lớn
các DNNN chưa được cấp giấy chứng từ nhận chủ truyền tài sản thuộc
quản lý của doanh nghiệp. Mặt khác, việc đảm bảo bằng tài sản của các
DNNN chỉ mang tính hình thức, nên khi doanh nghiệp không có khả năng
hoàn trả được nợ thì việc xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng sẽ rất khó
khăn, không để giải quyết nhanh chóng và thời gian kéo dài, dẫn đến ứ
đọng vốn trong kinh doanh của Ngân hàng.
49
Bảng 7: Tình hình nợ quá hạn (Quy VND) trong hoạt động tài trợ XNK tại
NHNT Hà Nội
(Đơn vị: Triệu đồng)
2000 2001 2002
Chỉ tiêu
Số tiền Tỷ trọng(%) Số tiền
Tỷ
trọng(%) Số tiền
Tỷ
trọng(%)
Tổng dư nợ 357. 652 485. 652 502. 736
Nợ quá hạn 16. 702 4, 67 15. 061 3, 1 17. 356 3, 45
Nợ khoanh 28. 752 - 29. 201 - 23. 562 -
(Nguồn: Báo cáo tín dụng hàng năm của NHNT Hà nội)
Nhìn vào bảng (Bảng 5) chúng ta thấy rằng: tỷ lệ nợ quá hạn tại
NHNT Hà Nội là thấp, có xu hướng giảm trong 2 năm gần đây so với mức
4,67% vào năm 2000. Hầu hết các khoản nợ quá hạn trên đây đều là nợ
ngắn hạn và tập trung vào một số doanh nghiệp nhà nước, và các khoản nợ
này là từ những năm trước còn tồn đọng lại, khiến cho tình hình tài chính
của Chi nhánh không được lành mạnh.
Qua các con số trên cho ta thấy rủi ro trong hoạt động của Chi nhánh
là có thể xảy ra, do đó đòi hỏi Chi nhánh cần phải có biện pháp phù hợp kịp
thời nhằm phòng tránh các rủi ro có thể xảy ra, đồng thời phải giải quyết
triệt để số lượng nợ quá hạn còn tồn đọng, tránh dẩn đến nợ khó đòi, gây
tổn thất cho Chi nhánh.
Mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn 3,45% vào năm 2002 là không lớn, song con
số hơn 17 tỷ đồng nợ quá hạn thì không nhỏ, và nếu để chúng biến thành nợ
khó đòi dẩn đến tổn thất nguồn vốn thì sẽ gây ra thiệt hại lớn cho Chi nhánh.
50
* Doanh số cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn nhỏ, có
thể thấy trong doanh số cho vay cả ngắn hạn, trung và dài hạn thì doanh
nghiệp quốc doanh chiếm tỷ lệ lớn (trung bình trên 90% tổng doanh số cho
vay). Đành rằng rủi ro cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
là rất cao, việc định hướng chiến lược cho vay XNK đối với DNNN là khá
hợp lý vì nó đảm bảo mục tiêu an toàn và lợi nhuận cho Ngân hàng. Tuy
nhiên, trong thời gian gần đây, số lượng DNNN có nợ quá hạn tại Ngân
hàng cũng khá lớn. Bên cạnh đó, số lượng các doanh nghiệp thuộc khu vực
ngoài quốc doanh rất đông đảo và không phải doanh nghiệp nào cũng có
tình hình tài chính không lành mạnh. Một số doanh nghiệp làm ăn rất có
hiệu quả như các doanh nghiệp liên doanh, 100% vốn nước ngoài là nhóm
khách hàng mà Ngân hàng chưa có đủ tin tưởng để lôi cuốn và chiếm lĩnh
được. Chính vì vậy, tiềm năng của loại khách hàng này khá lớn, Ngân hàng
cần phải tìm ra nhiều giải pháp để khai thác triệt để các doanh nghiệp kinh
tế ngoài quốc doanh.
* Các hình thức cho vay tài trợ XNK còn quá đơn điệu chủ yếu là tổ
chức cổ điển, chưa áp dụng hình thức cho vay mới như bao thanh toán, cho
thuê tài chính... làm giảm tính hấp dẫn đối với khách hàng. Hơn nữa, trong khi
cho vay lại quá tập trung vào khâu lưu thông vì vậy rủi ro rất lớn.
* Chi nhánh vẫn chưa có cơ sở bảo quản hàng hoá, chưa nắm được
các lô hàng thế chấp một cách chắc chắn. Do vậy, khi khách hàng cố tình
không hoàn trả nợ thì Chi nhánh đành chịu.
* Công tác đào tạo cán bộ còn chưa kịp với yêu cầu và nhiệm vụ
mới, các cán bộ xử lý nghiệp vụ còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm như cho
vay vượt quá quyền hạn giải quyết, cho vay không thẩm định kỹ (không có
tài sản thế chấp hoặc nếu có lại không tự quản lý mà để khách hàng quản
lý, thậm chí mở L/C không đưa hết các điều kiện hợp đồng... ), nắm bắt
thông tin chưa nhanh nhạy theo kịp biến động của thị trường dẫn đến tình
trạng Chi nhánh luôn phải đối phó với sự lừa đảo khi thực hiện hợp đồng
51
tín dụng tài trợ XNK. Đây là một trng những nguyên nhân dẫn đến những
thiếu sót, những vụ việc đổ vỡ gây ảnh hưởng đến uy tín của Chi nhánh.
* Bên cạnh đó, phương thức quản lý các món vay XNK ở Ngân
hàng chưa hợp lý. Quyết định và quản lý các món vay ở NHNT Hà Nội là
phân công đều cho các cán bộ tín dụng. Điều này có lợi là mở rộng tầm
hiểu biết cho các cán bộ tín dụng sang lĩnh vực XNK. Nhưng như thế sẽ
gây cản trở lớn cho các món vay được thực hiện có hiệu quả vì để thực
hiện một khoản vay tín dụng XNK đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có hiểu biết
sâu về thị trường, luật pháp quốc tế của các nước về hoạt động XNK. Ngoài
ra, Chi nhánh vẫn chưa hạch toán độc lập kết quả tín dụng XNK với hoạt
động tín dụng khác mặc dù hoạt động tín dụng tài trợ XNK là nhiệm vụ
chính của Ngân hàng. Điều này cũng ảnh hưởng phần nào đến việc đánh
giá kết quả kinh doanh và vạch ra phương hướng của hoạt động tín dụng tài
trợ XNK tại Ngân hàng trong thời gian tới.
3.3.2.2. Nguyên nhân
* Nguyên nhân chủ quan
- Thứ nhất: Năng lực cho vay của Ngân hàng
Do NHNT Hà Nội là Chi nhánh trực thuộc NHNT Việt Nam nên
phần lớn những dự án cho vay tài trợ XNK của Ngân hàng đều phải thông
qua NHNT Việt Nam xem xét và quyết định. Đồng thời theo quy định,
NHNT Hà Nội chỉ được cho vay đối với các doanh nghiệp trên địa bàn Thủ
đô. Nhưng phần lớn những doanh nghiệp này lại là doanh nghiệp vừa và
nhỏ nên cũng rất hạn chế quy mô cho vay của Ngân hàng.
- Thứ hai: Trình độ bất cập của cán bộ Ngân hàng
Nhận thức về bản chất tín dụng không đầy đủ dẫn đến đơn giản, sơ
sài trong chấp hành quy định. Cán bộ tín dụng thiếu trình độ hiểu biết về
pháp luật, thể lệ tập bán thương mại và thanh toán quốc tế, trình độ ngoại
ngữ không đáp ứng được nhu cầu nghiệp vụ. Một cán bộ quản lý tín dụng
XNK nếu tính theo dư nợ thì bằng hàng chục cán bộ quản lý cho vay hộ sản
52
xuất (năm 2000, dư nợ cho vay XNK tại Chi nhánh chiếm 71% tổng dư
nợ), điều đó thể hiện hiệu quả đầu tư XNK nhưng trái lại cũng thể hiện khả
năng rủi ro lớn nếu như cán bộ tín dụng đó không được trang bị đầy đủ kiến
thức tổng hợp và kinh nghiệm đạo đức kinh doanh. Ngân hàng chưa có đội
ngũ chuyên gia giỏi về lĩnh vực khoa học kỹ thuật, công nghệ mới nên lúng
túng trong việc thẩm định các dự án lớn, nhất là các dự án năng suất có
vốn đầu tư và nhập khẩu thiết bị nước ngoài. Thực trạng đội ngũ cán bộ tín
dụng NHNT Hà Nội hiện nay là vấn đề đáng được lưu tâm, số cán bộ có
thâm niên trên 10 năm thì chưa được đào tạo lại để có đủ kiến thức kinh
doanh theo cơ chế thị trường, số cán bộ mới vào thì còn thiếu kinh nghiệm
và tri thức thực tế trong thị trường chằng chịt những mối quan hệ phức tạp.
- Thứ ba: Chấp hành thể lệ tín dụng và quy trình nghiệp vụ
Những trường hợp rủi ro trong tín dụng có nguyên nhân quan trọng
là việc chấp hành không nghiêm chỉnh thể lệ tín dụng và quy trình nghiệp
vụ của cán bộ Ngân hàng. Thể hiện trong việc thẩm định và lập hồ sơ vay
vốn. Có trường hợp cán bộ lập hồ sơ giải khai tăng tài sản thế chấp để rút
vốn Ngân hàng và vay ké, là kết quả của hai nguyên nhân sâu xa sau đây:
+ Việc xác định giá trị tài sản thế chấp do cán bộ Ngân hàng t
hực hiện mang tính chủ quan.
+ Việc lập hồ sơ cho vay và hồ sơ tài sản thế chấp không được
tách độc lập với chức năng tín dụng.
Quản lý nợ vay còn thể hiện và hồ sơ tài sản thế chấp không được
tách độc lập với chức năng tín dụng. Quản ý nợ vay còn thể hiện thiếu trách
nhiệm, gia h ạn nợ, chuyển nợ quá hạn không đúng quy trình nghiệp vụ,
đảo nợ nội tệ với ngoại tệ (vay đồng tiền này để trả nợ đồng tiền khác), dẫn
đến tình trạng nợ xấu chạy vòng quanh, nguy cơ mất vốn Ngân hàng ngày
càng lớn.
- Thứ tư: Cơ sở vật chất và giờ làm việc
53
Chi nhánh NHNT Hà Nội xây dựng trụ sở năm 1992. Sang năm
2001, trụ sở đã trở nên chật chội. Điều này trước tiên sẽ ảnh hưởng đến tâm
lý khách hàng. Khách hàngđến với Ngân hàng sẽ tin cậy hơn nếu Ngân
hàng có cơ sở vật chất tốt. Song ở đây phòng tín dụng không đủ diện tích
để kê bàn tiếp khách. Hơn nữa, cơ sở vật chất như vậy sẽ ảnh hưởng đến
điều kiện làm việc của Ngân hàng.
Bên cạnh đó, giờ làm việc của Chi nhánh sẽ không cạnh tranh được
với Ngân hàng nước ngoài. Vì vậy Ngân hàng đóng cửa vào lúc 16 giờ
trong khi giờ đóng cửa của hàng nước ngoài là 18 giờ.
* Nguyên nhân khách quan
Hệ thống NHNT ra đời tư cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp,
cơ chế thị trường đang hình thành với nhiều thử thách và phức tạp. Hậu quả
của khủng hoảng kinh tế xã hội, sự đổ vỡ của các tổ chức tín dụng năm
1989 đã để lại trong xã hội một tư tưởng nặng nề về tâm lý. Lưu thông
hàng hoá tiền tệ chậm, một loạt doanh nghiệp phá sản. Các chính sách Nhà
nước thiếu đồng bộ, môi trường pháp lý không đảm bảo an toàn kinh
doanh. Từ sau đổi mới, bên cạnh các nhân tố tích cực, hàng loạt các yếu tố
tiêu cực xuất hiện cùng với sự bung ra của sản xuất xã hội, nhiều công ty,
xí nghiệp hữu danh vô thực ra đời tìm mọi thủ đoạn chiếm đoạt tài sản
Ngân hàng.
- Thứ nhất: Môi trường pháp lý.
+ Môi trường pháp lý chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ nên đã
gây ra những khó khăn vướng mắc cho Chi nhánh trong quá trình hoạt
động kinh doanh. Các NHNT hiện nay hoạt động dưới sự điều chỉnh của
luật Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, hệ thống luật và dưới luật của
chính phủ. Một số quy định trong luật còn xa rời với thực tiễn như:
+ Thể lệ tín dụng của các Ngân hàng còn nhiều vướng mắc.
Thứ nhất, không cho phép doanh nghiệp có nợ quá hạn vay. Đối với các
54
doanh nghiệp khi gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh thì vốn là vấn đề
giải quyết mọi ách tắc lại không được đáp ứng. Ngân hàng cho vay để cứu
doanh nghiệp nếu thành công thì có thành tích, còn nếu rủi ro thì bị truy tội
cố ý làm trái hoặc ít nhất cũng là thiếu tinh thần trách nhiệm. Thứ hai, theo
quy định, nếu NHNT nào thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh mở L/C mà phát
sinh nợ quá hạn thì sẽ không được thực hiện nghiệp vụ này cho đến khi giải
quyết song số nợ quá hạn đó. Chính vì vậy, trong năm 1991, NHNT Hà
Nội có nợ quá hạn phát sinh từ nghiệp vụ này nên đến nay Ngân hàng vẫn
chưa được thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh mở L/C trả chậm do chưa thu
hồi được nợ.
+ Quy chế chính sách của Nhà nước trong việc xử lý tài sản thế
chấp còn nhiều bất cập như Ngân hàng không thể tự đứng ra bán tài sản thế
chấp để thu nợ mà phải được sự đồng ý và có giấy uỷ quyền của tài sản.
Trên thực tế, khi gặp con nợ chây ỳ không hợp tác thì Ngân hàng chỉ còn
cách khởi kiện tại toà án. Việc xử lý sẽ kéo dài thậm chí đi đến chỗ bế tắc
nếu con nợ liên quan đến vụ án hình sự hoặc bỏ trốn. Theo quy định thì
Ngân hàng chỉ được giải chấp tài sản nếu người vay trả hết nợ hoặc có tài
sản thế chấp bổ sung cho khoản nợ còn thiếu. Tuy nhiên, đại đa số khách
hàng yêu cầu Ngân hàng giải chấp để họ tự bán tài sản trả nự Ngân hàng,
trong khi trị giá bán tài sản trả nợ Ngân hàng, trong khi trị giá bán tài sản thế
chấp thấp hơn nhiều so với nợ vay và nguồn vay không có tài sản nào khác
để thế chấp cho Ngân hàng, hoặc họ đã ngừng sản xuất kinh doanh chuẩn bị
phá sản.
+ Quy chế lập quỹ dự phòng rủi ro không phù hợp. Quỹ dự
phòng rủi ro được hình thành từ lợi nhuận ròng, tổ chức tín dụng trong khi
lợi nhuận của Ngân hàng còn thấp chưa kể một số Ngân hàng bị thua lỗ. Tỷ
lệ này là 10% thì quá tháp không hể đủ bù đắp rủi ro tín dụng và sự mất mát
của các tài sản có của Ngân hàng. Mặt khác, theo quy định, quỹ rủi ro chỉ
được bù đắp cho các nguyên nhân khách quan, trong khicác kết hợp khoản
55
rủi ro do nguyên nhân khách quan thì phần lớn không thu hồi đủ vốn sau khi
truy cứu trách nhiệm bồi thường dẫn đến mất vốn của Ngân hàng mà thực
chất là tiền gửi khách hàng và khả năng thanh toán của Ngân hàng.
+ Hoạt động tín dụng tài trợ XNK liên quan đến nhiều ban
ngành trong nước như Bộ Thương mại, Tổng cục hải quan, Bộ công nghiệp
Việt Nam... Vì vậy, nó chịu sự điều chỉnh của nhiều luật mà các luật ở
nước ta còn có sự đan chéo, gây nhiều khó khăn cho các quyết định của
trọng tài quốc tế trong nước và vụ kiện.
+ Chính sách ngoại thương của Nhà nước chưa thực sự nhất
quán. Nhiều hình thức cấp bách ban hành chưa lâu đã thay đổi, lúc thì
khuyến khích nhập khẩu mặt hàng này, lúc thì cấp hạn ngạch thuế cao để
hạn chế nó. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, từ đó dẫn đến những rủi ro cho hoạt động Ngân hàng như ứ đọng
vốn, không thu hồi được vốn về.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước đang có xu hướng chuyển dịch các
nghiệp vụ tài trợ XNK sang các Ngân hàng nước ngoài, các Ngân hàng liên
doanh, Ngân hàng cổ phần thương mại. Do vậy, Chi nhánh phải chịu sự
cạnh tranh khốc liệt. Nhiều dự án có hiệu quả trong lĩnh vực xuất khẩu cà
phê, hải sản... đã rơi vào Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài. Điều dó đã ảnh
hưởng rất nhiều đến hoạt động tín dụng tài trợ XNK của NHNT Hà Nội.
- Thứ hai: Chính sách lãi suất và tỷ giá
Lãi suất cho vay vẫn là vấn đề bức xúc khiến hệ thống Ngân hàng ta
phải tập trung giải quyết. Mặc dù đã tổ chức được nhiều cuộc thảo luận
xoay quanh vấn đề này song cho đến nay lãi suất cho vay của hệ thóng
Ngân hàng nước ta vẫn còn cao so với chi phí lạm phát và lãi suất trên thị
trường khu vực. Trong điều kiện tỷ giá ổn định nhiều doanh nghiệp đã chấp
nhận nợ quá hạn ngoại tệ để sử dụng ngoại tệ ngoài sự kiểm soát của Ngân
hàng. Doanh nghiệp lợi dụng điều này để kinh doanh trên lưng Ngân hàng
với hình thức tinh vi như cho doanh nghiệp khác vay thậm chí là cho chính
56
Ngân hàng vay lại một nội tệ với lãi suất cao để hưởng chênh lệch. Tất cả
điều này đều tạo ra rủi ro tiền mặt cho nguồn vốn hoạt động của Ngân
hàng, kết quả là ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng.
- Thứ ba: Môi trường kinh doanh
Hiện nay, điều kiện Việt Nam chưa cho phép mở rộng các hình thức
tín dụng XNK:
+ Thương phiếu là công cụ cổ điển được sử dụng lâu đời trong
quan hệ thương mại ở các nước phát triển, nhưng đến nay, ở Việt Nam vẫn
chưa được sử dụng.
+ Thị trường hối đoái chưa phát triển, các nghiệp vụ mà các
Ngân hàng, nhà xuất khẩu có thể tham gia để phòng tránh rủi ro như
forward, options, future chưa hình thành.
+ Nhà nước chưa có chính sách, chiến lược đủ mạnh ủng hộ
hoạt động XNK như cung cấp thông tin, phát triển mạng lưới tin học, viễn
thông tạo tiền đề cho hoạt động XNK.
+ Bên cạnh đó, trong năm 2002, hoạt động kinh tế của cả nước
nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng tiếp tục chịu ảnh hưởng của những
khó khăn của kinh tế thế giới. Thị trường trong nước có sức mua giảm sút,
hàng hoá chậm luân chuyển tạo ra nguy cơ giảm phát trong nền kinh tế.
Kinh tế đôi ngoại có một số khó khăn mới: thị trường XNK giá cả giảm sút,
đầu tư nước ngoài bị thu hẹp... đã tác động lớn đến hoạt động Ngân hàng.
Đặc biệt đối với NHNT Hà Nội, điều này còn khó khăn hơn nhiều vì hầu
hết các doanh nghiệp đều là kinh tế địa phương với quy mô sản xuất kinh
doanh nhỏ, khả năng hấp thụ vốn thấp...
+ Tỷ giá một đồng ngoại tệ thay đổi thất thường, đặc biệt tỷ giá
đồng đô la tăng nhanh ảnh hưởng đến nhập khẩu phục vụ sản xuất trong
nước. Mặt khác một số mặt hàng nông sản xuống giá liên tục cũng ảnh
hưởng lớn đến xuất khẩu và kết quả kinh doanh của các đơn vị xuất khẩu
gặp khó khăn.
57
- Thứ tư: Thiên tai lũ lụt
Thiên tai lũ lụt hạn hán cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro bất khả
kháng cho doanh nghiệp, nó đem lại thiệt hại về kinh tế và e ngại về tâm lý
cho các tổ chức kinh doanh và cá nhân. Những thiệt hại này khiến cho các
doanh nghiệp vốn đã làm ăn không hiệu quả để trả gốc lẫn lãi cho khoản
vay khi đến lại càng gặp khó khăn nghiêm trọng hơn. Do vậy tỷ lệ nợ quá
hạn của Ngân hàng tăng lên làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của
Ngân hàng.
- Thứ năm: Về phía doanh nghiệp XNK
+ Vốn tự có của doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ: phần lớn các doanh
nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tồn tại và
hoạt động dựa vào nguồn vón Ngân hàng là chính. Vì vậy, khi được Ngân
hàng cho vay thì lợi nhuận sinh lời không đủ trả lãi cho Ngân hàng. Ngoài ra
còn vì nhiều doanh nghiệp có vốn tự có thấp nhưng Ngân hàng bắt buộc phải
cho vay để thực hiện các mục tiêu của chính phủ. Và khi các doanh nghiệp
này làm ăn không có hiệu qủa thì Ngân hàng phải tự ganh chịu rủi ro.
+ Phương án kinh doanh của nhiều doanh nghiệp không hợp lý:
Sự bất hợp lý thể hiện qua việc nghiên cứu thị trường, dự đoán mức tiêu
thụ không chính xác, đán giá lại công suất, máy móc không khớp với
nguyên liệu đầu vào dẫn đến không hoàn thành lịch trả nợ cho Ngân hàng.
Các doanh nghiệp nhập máy móc thiết bị bằng trả chậm còn nhiều vốn xây
dựng cơ bản do ngân sách Nhà nước cấp. Song do nguồn vốn này được cấp
không đúng hạn hoặc bị cắt giảm nên không đảm bảo đúng tiến độ thi công,
ảnh hưởng đến khả năng trả nợ đúng han của doanh nghiệp.
+ Do mới chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, kiến
thức của doanh nghiệp về hoạt động tín dụng, về hợp đồng thương mại còn
hạn chế gây bất lợi cho Ngân hàng (doaNgân hàng nghiệp bị ép mua với
giá cao, chất lượng không đảm bảo, công nghệ lạc hậu thiếu đồng bộ, quy
định phương án trả nợ không hợp lý dẫn đến nguồn thu không được bù đắp
58
và trả nợ Ngân hàng). Ngoài một số doanh nghiệp còn không thực hiện
đúng cam kết khi vay vốn như không mua bảo hiểm tài sản, sử dụng vốn
sai mục đích.
Trong thời gian tới, nếu Chi nhánh NHNT Hà Nội khắc phục được
những tồn tại sau đây thì Chi nhánh sẽ luôn là người bạn tin cậy của khách
hàng trong lĩnh vực tài trợ XNK nói riêng và lĩnh vực kinh doanh nói
chung
59
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ MỞ RỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP
KHẨU TẠI NHNT HÀ NỘI
1 Định hướng hoạt động năm 2003 của NHNT Hà nội
1.1. Định hướng chung
Để có được kết quả kinh doanh tốt hơn trong năm 2003, Chi nhánh
sẽ tiếp tục đổi mới và phát triển theo các định hướng sau:
* Tiếp tục bám sát định hướng phát triển của NHNT Việt Nam cũng
như định hướng phát triển kinh tế xã hội của thành phố. Tiếp tục đẩy mạnh
huy động vốn thông qua nhiều hình thức: Đa dạng hoá sản phẩm với chất
lượng cao, mở rộng phát triển màng lưới, duy trì việc đánh giá phân loại
khách hàng tiền gửi để có những biện pháp thu hút khách hàng, khuyếch
trương và quảng bá các sản phẩm mới. Phấn đấu tốc độ tăng trưởng nguồn
vốn huy động tăng 15% so với năm 2002, đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ.
* Đẩy mạnh công tác sử dụng vốn của Chi nhánh. Mở rộng tín dụng
để đổi mới nâng cao chất lượng đầu tư tín dụng nhiều biện pháp và luôn
đảm bảo phương châm “an toàn, hiệu quả”. Tập chung xử lý nợ quá hạn,
hạn chế tối đa rủi ro trong kinh doanh, giải quyết tốt mua bán ngoại tệ, đáp
ứng cơ bản nhu cầu của khách hàng theo đúng hướng hoạt động và sản xuất
kinh doanh trong nước. Phấn đấu mức dư nợ tới năm 2002 tăng 26% so với
năm 2000. Tiếp tục bám sát các đơn vị có nợ quá hạn và các cấp chủ quan
của đơn vị để cùng xử lý thu hồi nợ. Mục tiêu của năm 2001 là mức dư nợ
quá hạn xuống dưới 2, 5%.
* ổn định tổ chức và vận hành theo mô hình mới - Ngân hàng bán lẻ.
Tiếp tục quan tâm đào tạo và đào tạo lại cán bộ kết hợp với việc nghiên cứu
khoa học. Bổ sung thêm cán bộ mới tuyển dụng vào các phòng nghiệp vụ
và thực hiện tốt các giao dịch trong chương trình mới.
60
Tạo điều kiện cho cán bộ học thêm kiến thức chuyên môn, ngoại ngữ
và trình độ để thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh.
* Triển khai đầu tư xây dựng mới: Xúc tiến việc cải tạo sửa chữa nhà
344 Bà triệu, để chuyển hoạt động của Chi nhánh về đây và triển khai dự án
xây dựng mới lại trụ sở chính 78 Nguyễn Du, đáp ứng nhu cầu phục vụ
hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong thiên niên kỷ mới.
1.2. Phương hướng trong hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu
Một Ngân hàng muốn thành công trong hoạt động kinh doanh thì
mọi hoạt động của Ngân hàng phải nỗ lực, chung sức góp phần tạo uy tín
cho Ngân hàng. Khi đó Ngân hàng sẽ có nhiều khách hàng quen. Các khách
hàng này sử dụng dịch vụ của Ngân hàng từ đó sẽ mang lại lợi ích cho từng
lĩnh vực mà Ngân hàng kinh doanh.
Tại NHNT Hà Nội cũng vậy, một định hướng chung như thế sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng tài trợ XNK. Để hoàn thiện hoạt
động này Chi nhánh đề ra định hướng: Đẩy mạnh đầu tư cho nhóm khách
hàng chiến lược, mở rộng tìm kiếm các dự án có hiệu quả, phục vụ kinh doanh
XNK và kinh tế đối ngoại của Thủ đô để đầu tư. Tiến tới đa dạng hoá các loại
hình tính dụng tài trợ XNK nhằm khai thác tối ưu nguồn vốn hiện có.
2. Giải pháp hoàn thiện hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại NHNT
Hà Nội
Qua việc nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng XNK của Chi
nhánh NHNT Hà Nội trong vài năm gần đây, chúng ta thấy rằng bên cạnh
những hoạt động đạt được hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín
dụng tài trợ XNK nói riêng vẫn tồn tại những vướng mắc cần giải quyết.
Căn cứ vào mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước,
dựa vào phương hướng nhiệm vụ hoạt động trong những năm tới của Chi
nhánh và từ thực tiễn hoạt động của NHNT Hà Nội, em xin mạnh dạn nêu
ra một số giải pháp và đề xuất sau.
61
2.1. Nhóm giải pháp về quản trị điều hành
2.1.1 Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn
Định hướng tín dụng XNK của Chi nhánh phải phù hợp với chính
sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước và nằm trong chiến lược kinh
doanh của Ngân hàng.
Điều kiện kiên quyết đảm bảo tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng
nguồn vốn. Có huy động vốn được nhiều thì Ngân hàng mới có thể cho vay
hoặc đa dạng hoá hoạt động kinh doanh phục vụ khách hàng và ngược lại,
việc sử dụng vốn khuyến khích Ngân hàng đẩy mạnh đa dạng các hình thức
huy động. Chính vì vậy, Chi nhánh phải tiếp tục mở rộng khai thác các
nguồn vốn theo các hướng:
- Xây dựng đề án phát hành kỳ phiếu ra nước ngoài trên thị trường
vốn quốc tế: NHNTHà Nội đã có uy tín trong hệ thống Ngân hàng quốc tế
và thị trường trong và ngoài nước. Đây là cơ sở quan trọng nhất để huy
động vốn bằng kỳ phiếu và kinh doanh trên thị trường chứng khoán quốc
tế. Vấn đề quyết định thành công trong nghiệp vụ này là đội ngũ nhân viên
có đủ trình độ kinh nghiệm nghề nghiệp. Trước hết nên phát hành kỳ phiếu
trung gian với các Ngân hàng đại lý có uy tín. Mặc dù thực hiện mua mỗi
giới hiệu quả chưa cao nhưng nghiệp vụ đảm bảo an toàn và làm tiền đề
cho chiến lược kinh doanh lâu dài. Sau khi thâm nhập vào thị trường tiền
tệ, lựa chọn và thử nghiệm, Ngân hàng sẽ từng bước thành lập văn phòng
đại diện và Chi nhánh tại các thị trường này để nhanh chóng hoàn hập với
cộng đồng Ngân hàng quốc tế.
- Tiếp tục khuyến khích dân cư gửi tiền vào Chi nhánh bằng các
chính sách tăng lãi xuất tiền gửi cả VNĐ lẫn ngoại tệ, cả ngắn hạn lẫn trung
và dài hạn. Đối với khách hàng truyền thống, Ngân hàng nên có các phần
thưởng xứng đáng, có chính sách ưu đãi riêng.
- Chi nhánh cần sử dụng thế mạnh uy tín của mình để tranh thủ
nguồn vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước dành cho các ngành kinh tế mũi
62
nhọn, các hoạt động kinh doanh XNK. . và thông qua mối quan hệ đối
ngoại của hệ thống NHNT, Chi nhánh nên đẩy mạnh vốn vay dài hạn ở các
tổ chức quốc tế.
2.1.2. Định hướng chiến lược tài trợ
Chuyển hướng tài trợ từ cho vay thương vụ có tính chất riêng lẻ thụ
đọng sang cho vay theo dự án khép kín chu trình lưu thông hàng hoá từ sản
xuất đến tiêu thụ. Việc lựa chọn và thẩm định dự án đầu tư trở thành nhân
tố có ý nghĩa quan trọng nhất đối với sự thành công của Ngân hàng. Một dự
án mặc dù đá được các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền thẩm định và
phê duyệt, nhưng trước khi quyết định cho vay, Ngân hàng cần phải thẩm
định xem xét lại:
- Tính pháp lý của bộ hồ sơ bao gồm hồ sơ dự án và hồ sơ xây dựng
theo điều kiện xây dựng của Nhà nước, hồ sơ mua sắm thiết bị theo quy chế
đấu thầu và quy định của bộ thương mại (nếu có thiết bị nhập khẩu), hồ sơ
tín dụng theo quy định của Ngân hàng.
- Phương án vay và trả nợ của dự án tính toán các nguồn vốn và nguồn
tài trợ, dự kiến biến động của các thông số ảnh hưởng đến nguồn trả nợ.
- Thẩm định nhóm chi tiêu hiệu quả: thời gian hoàn vốn, hiệu quả
ròng (NPV), thể lệ hoàn vốn nội bộ, tỷ suất lợi nhuận...
Đối với dự án có giá trị lớn vượt giới hạn tỷ lệ vốn có của doanh
nghiệp và Ngân hàng, nên sử dụng hình thức cho vay đồng tài trợ thay
bằng việc cho vay doanh nghiệp có dư nợ tại Ngân hàng hiện nay.
2.2. nhóm giải pháp về nghiệp vụ tín dụng tài trợ XNK
2.2.1. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án XNK
Cũng như đối với các loại tín dụng khác, quy trình tín dụng XNK
được chia thành 3 giai đoạn theo thời gian và tính chất khoản vay.
* Giai đoạn thẩm định trước khi cho vay
63
Đây là giai đoạn khởi đầu và quan trọng nhất thể hiện khả năng tiếp
cận dự án và khách hàng của ngân hàng. Đối với những doanh nghiệp
truyền thống có quan hệ uy tín được cán bộ tín dụng thường xuyên theo dõi
thì chỉ cần tập trung thẩm định phương án kinh doanh của khách hàng. Dù
là phương án cho vay vốn lưu động hay cố định thì những nội dung cơ bản
cần xem xét là:
- Khẳng định thị trường tiêu thụ hàng hoá dịch vụ trong phương án
kinh doanh với các yếu tố khu vực thị trường tiêu thụ, giá cả, chất lượng
cạnh tranh, quan hệ của doanh nghiệp trên thị trường, các đối tác bán hàng
và mua hàng, thu thập thông tin của các ngân hàng và các doanh nghiệp
khác, sử dụng hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro bằng phương pháp
thống kê, so sánh, tổng hợp và đánh giá sản phẩm trong mối quan hệ với
chính sách Nhà nước có so sánh trên thị trường quốc tế.
- Thẩm định lại toàn bộ số liệu, dữ liệu và các chỉ tiêu của dự án kinh
doanh theo hệ thống các phương pháp và công thức có sẵn hoặc nạp dữ liệu
cho máy tính theo chương trình được cài đặt sãn.
* Giai đoạn phê duyệt và giải ngân
Mặc dù hồ sơ vay được cácn bộ tín dụng thẩm định đầy đủ, nhưng
khâu xem xét phê duyệt là không thể thiếu. Vì thực tế, không thể có một
cán bộ tín dụng lý tưởng lại sự hiểu biết toàn diện được cả nghiệp vụ ngân
hàng và kiến thức tổng hợp về thị trường, khoa học kỹ thuật, luật pháp...
nên khả năng đánh giá của họ không thể đầy đủ và hoàn toàn đúng.
Kế toán là người kiểm soát cuối cùng trước khi giải ngân kiêm tra và
lưu trữ tài sản thế chấp, cầm cố, hợp đồng tín dụng và khê ước vay tiền,
trước khi phát tiền vay hoặc chuyển tiền thanh toán và lưu hồ sơ giải ngân
như các loại chứng từ có giá.
* Giai đoạn kiểm tra sau
Đây là giai đoạn kiểm nghiệm tính chính xác, khách quan của
phương án kinh doanh đã được ngân hàng thẩm định:
64
- Kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay: về nguyên tắc, vốn vay chỉ
được sử dụng đúng mục đích trong phương án kinh doanh. Việc phát triển
tiền vay bằng tiền mặt, ngân phiếu, sec, sẽ gây khó khăn cho khả năng kiểm
soát của ngân hàng. Giải pháp tốt nhất là giải pháp vốn vay qua tài khoản
cho khách hàng vay là bắt buộc đối với doanh nghiệp và khuyến khích cá
nhân hộ sản xuất.
- Thu hồi và xử lý nợ
Đối với nợ quá hạn, số tiền thu nợ từ khách hàng bao gồm trị giá của
phần vốn gốc và phần lãi. Nếu hạch toán thu gốc toàn bộ tiền thu thì ngân
hàng sẽ giảm được dư nợ quá hạn nhưng không có thu nhập, còn nếu hạch
toán thu lãi trước thì sẽ mất vốn. Bởi vậy, theo nguyên tắc bảo toàn vốn thì
ngân hàng cần thu gốc trước, đơn vị ngân hàng nào còn có nợ quá hạn thì
không có thu nhập. Hiện nay, một số ngân hàng hạch toán thu nợ quá hạn
cả gốc và lãi theo tỷ lệ 50/50 là không hợp lý.
2.2.2. Quản lý tài sản thế chấp cầm cố
- Xây dựng hệ thống kho tàng đủ tiêu chuẩn quản lý vật tự, hàng
hoá... dùng làm tài sản thế chấp. Hoạt động kinh doanh kho bãi được thực
hiện theo các chế độ khoán tài chính của công ty thu mua. Về nguyên tắc,
tài sản thế chấp cầm cố cho khoản vay phải là những tài sản được hình
thành trước và độc lập với vốn vay. Nhưng nếu ngân hàng có kho bãi đầy
đủ điều kiện an toàn, có thể chấp nhận tài sản hình thành từ vốn vay để làm
hàng hoá vật tư đảm bảo việc giải chấp trên cơ sở thanh toán của người
vay.
- Bảo hiểm tài sản, hàng hoá để phòng ngừa rủi ro bất khả kháng như
thiên tai, lũ lụt, hoả hoạn... tài sản do ngân hàng quản lý cần được bảo
hiểm. Ngân hàng có thể thực hiện bằng hợp đồng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn tốt nghiệp Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội.pdf