Tài liệu Luận văn Tốt nghiệp Bàn về một số giải pháp marketing nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm tại Công ty cao su An Dương: Luận văn tốt nghiệp: “Một số giải pháp
marketing nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm tại
Công ty cao su An Dương ”
3
LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường càng trở nên
gay gắt, quyết liệt hơn. Cạnh tranh vừa là công cụ để chọn lựa vừa là công cụ
đào thải các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên thị trường. Các doanh
nghiệp hoạt động trong môi trường kinh doanh luôn biến động cùng nhiều cơ
hội và nguy cơ tiềm ẩn với mức độ cạnh tranh khốc liệt nhất. Vì thế để giữ
vững và nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường là điều rất khó khăn,
đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn có biện pháp tiếp cận thị trường một cách có
chủ động, phù hợp và sẵn sàng đối phó với mọi nguy cơ, đe doạ cũng như áp
lực cạnh tranh trên thị trường. Để làm được điều này doanh nghiệp phải thực
hiện sản xuất kinh doanh theo hướng thị trường, theo khách hàng và phải ứng
dụng hoạt động marketing vào thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị
trườn...
59 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1041 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tốt nghiệp Bàn về một số giải pháp marketing nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm tại Công ty cao su An Dương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn tốt nghiệp: “Một số giải pháp
marketing nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm tại
Công ty cao su An Dương ”
3
LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường càng trở nên
gay gắt, quyết liệt hơn. Cạnh tranh vừa là công cụ để chọn lựa vừa là công cụ
đào thải các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên thị trường. Các doanh
nghiệp hoạt động trong môi trường kinh doanh luôn biến động cùng nhiều cơ
hội và nguy cơ tiềm ẩn với mức độ cạnh tranh khốc liệt nhất. Vì thế để giữ
vững và nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường là điều rất khó khăn,
đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn có biện pháp tiếp cận thị trường một cách có
chủ động, phù hợp và sẵn sàng đối phó với mọi nguy cơ, đe doạ cũng như áp
lực cạnh tranh trên thị trường. Để làm được điều này doanh nghiệp phải thực
hiện sản xuất kinh doanh theo hướng thị trường, theo khách hàng và phải ứng
dụng hoạt động marketing vào thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị
trường trong đó việc xây dựng và hoàn thiện một chính sách Mar_mix với
những chiến lược và biện pháp cụ thể nhằm thúc đầy tiêu thụ sản phẩm sẽ là
công cụ cạnh tranh sắc bén nhất, hiệu quả nhất của doanh nghiệp để đi đến
thành công.
Từ nhận thức trên trong quá trình thực tập tại Công ty cao su An Dương và
được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giaó trong Khoa marketing mà trực
tiếp là Thầy giáo Vũ Trí Dũng cùng với sự giúp đỡ chỉ bảo, tạo điều kiện thực
tập tốt của các cô chú cán bộ công nhân viên trong Công ty cao su An Dương,
tôi đã lựa chọn đề tài “Một số giải pháp marketing nhằm thúc đẩy tiêu thụ
sản phẩm tại Công ty cao su An Dương ”.
Mục đích của đề tài nhằm phân tích tình hình thực trạng thị trường săm lốp
ôtô tại Việt nam và vị thế hiện tại của Công ty cao su An Dương cùng những
biến động của thị trường và mục tiêu sắp tới của Công ty cao su An Dương để
đề suất các chiến lược, biện pháp Mar_mix phù hợp cho sản phẩm săm lốp ôtô,
góp phần giữ vững và nâng cao vị thế của Công Ty trên thị trường săm lốp ôtô
trong điều kiện sản xuất kinh doanh mới.
Kết cấu của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 phần:
Phần I: Lý luận về chiến lược và các giải pháp marketing hỗn hợp trong
kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm.
Phần II: Thực trạng thị trường săm lốp và việc tổ chức, vận hành chiến
lược marketing hỗn hợp nhằm thúc đẩy tiêu thụ mặt hàng săm lốp tại Công
ty cao su An Dương.
Phần III: Hoàn thiện chương trình marketing hỗn hợp nhằm tiêu thụ mặt
hàng săm lốp ôtô tại Công ty cao su An Dương .
4
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC VÀ CÁC GIẢI PHÁP MARKETING HỖN
HỢP TRONG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
NHẰM THÚC ĐẨY TIÊU THỤ SẢN PHẨM.
I-DOANH NGHIỆP, THỊ TRƯỜNG VÀ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP :
1-Doanh nghiệp:
Theo điều 3-luật Công Ty định nghĩa doanh nghiệp như sau:
“Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích chủ
yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh. Mỗi một doanh nghiệp là một tế
bào của nền kinh tế, tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường
nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận ”.
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
phát triển theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Do vậy mà có
rất nhiều loại hình doanh nghiệp. Đó là doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp
tập thể (hợp tác xã), các Công Ty kinh doanh (công ty TNHH và Công Ty cổ
phần). Đây là những doanh nghiệp chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực của
nền kinh tế .
Ngoài ra còn một số như cơ sở kinh doanh của Đảng, của Đoàn thanh
niên. Các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường
bằng cách cung ứng hàng hoá, dịch vụ. Doanh nghiệp mua hàng hoá đầu vào
và bán sản phẩm đầu ra của mình, lợi nhuận thu được là khoản chênh lệch giữa
chi phí bỏ ra và số tiền thu về. Như vậy một doanh nghiệp vừa là người cung
ứng hàng hoá, dịch vụ vừa là người mua các hàng hoá đầu vào. Lợi nhuận cuối
cùng phản ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy mỗi doanh nghiệp
đều muốn mua hàng hoá đầu vào với giá thấp nhất có thể và bán với mức giá
cao nhất có thể tương ứng với mức sản lượng mong muốn.
Trong cơ chế thị trường, hoạt động của doanh nghiệp phải gắn liền với
thị trường. Mức giá và sản lượng sản xuất của doanh nghiệp không phải do
doanh nghiệp quyết định mà do thị trường quyết định, bởi mức độ cạnh tranh
gay gắt trên thị trường do không chỉ có doanh nghiệp tham gia cung ứng hàng
hoá, dịch vụ mà còn hàng trăm doanh nghiệp khác đang sẵn sàng giành giật
khách hàng, lợi nhuận với doanh nghiệp .Vì thế thị trường, khách hàng là yếu
tố sống còn quyết định tới sự thành bại của doanh nghiệp trên thương trường.
Doanh nghiệp phải giữ lấy khách hàng của mình, sản xuất theo nhu cầu thị
trường để “bán cái người tiêu dùng cần chứ không phải là cái mà doanh
nghiệp có”.
2-Thị trường:
2.1.Khái niệm thị trường :
Trong nền kinh tế, thị trường là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng và mang
tính chất sống còn đối với doanh nghiệp. Thị trường hiểu một cách đơn thuần
5
đó là sự vận động của cung-cầu phát sinh ra giá được thể hiện tập trung nhất
trong hoạt động mua bán hàng hoá bằng tiền tệ, ở những thời gian, không gian,
đối tượng, phương thức khác nhau. Vậy tuỳ theo góc độ tìm hiểu và phương
thức thể hiện mà có những định nghĩa khác nhau. Nhưng theo quan điểm
marketing thị trường được hiểu theo 2 góc độ :
-Theo phân tích đánh giá thị trường dưới góc độ Xã hội tổng thể:
Thị trường là một tập phức hợp và liên tục các nhân tố, môi trường kinh
doanh và các quan hệ trao đổi thương mại được hấp dẫn và thực hiện trong một
không gian mở hữu hạn các chủ thể cung- cầu và phương thức tương tác chúng
nhằm tạo điều kiện tồn tại và phát triển cho sản xuất và kinh doanh hàng hoá.
-Dưới góc độ thị trường của doanh nghiệp :
Thị trường là tập hợp các khách hàng và người cung ứng hiện thực và
tiềm năng, có nhu cầu thị trường về những mặt hàng của hàng hoá mà Công Ty
có ý định kinh doanh trong mối quan hệ với các nhân tố môi trường kinh
doanh và tập hợp người bán-đối thủ cạnh tranh của nó.
Biểu hình 1: Mô hình quyết định Marketing về thị trường
của doanh nghiệp
2.2.Vai trò của thị trường :
Việc giải quyết những mâu thuẫn kinh tế giữa người mua và người bán,
giữa người sản xuất và người tiêu dùng đều được thực hiện trên thị trường. Do
đó thị trương có vai trò quan trọngtrong sản xuất , kinh doanh và quản lý kinh
tế.
-Thị trường chỉ là nơi diễn ra hoạt động mua và bán, nó còn thể hiện các mối
quan hệ hàng hoá tiền tệ. Do đó thị trường còn được coi là môi trường của
doanh nghiệp. Thị trường tồn tại một cách khách quan, từng Công Ty không có
khả năng làm thay đổi thị trường mà trong quá trình kinh doanh phải từng
Những người sản xuất Những người môi giới
Công
Ty
kinh
doanh
Môi trường kinh doanh
Những người phân
phối
Người mua
6
bước thay đổi để thích ứng và tiếp cận với thị trường. Ngược lại qua thị trường,
các Công Ty có thể nhận biết được nhu cầu Xã hội, và cũng qua thị trường,
doanh nghiệp có thể đánh giá hiệu quả kinh doanh của chính bản thân mình.
-Thị trường là “chiếc cầu nối giữa sản xuất và người tiêu dùng ”, qua hoạt
động ngiên cứu thị trường người sản xuất sẽ định hướng được hướng phát triển
sản xuất ra cái gì để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Thị trường vừa là mục
tiêu, vừa là suất phát điểm của mọi quá trình sản xuất kinh doanh. Thật vậy, để
có hàng hoá, Xã hội phải chi các chi phí sản xuất, chi phí phụ khác. Thị trường
lại là nơi kiểm nghiệm các chi phí đó và thực hiện yêu cầu của quy luật tiết
kiệm lao động xã hội.
-Trong quản lý kinh tế thị trường là căn cứ, là đối tượng của kế hoạch hoá, là
công cụ bổ xung cho các công cụ điều tiết vĩ mô của nền kinh tế. Thị trường là
nơi Nhà nước tác động qua lại với các cơ sở sản xuất kinh doanh .
Biểu hình 2: Mô hình tổng quát vai trò của thị trường.
Thị trường có điều tiết
Cung Cầu
Giá cả
3.Môi trường marketing của doanh nghiệp :
Môi trường marketing được định nghĩa như sau: “môi trường marketing
của doanh nghiệp là tập hợp những chủ thể tích cực và những lực lượng hoạt
động ở bên ngoài doanh nghiệp có ảnh hưởng đến khả năng chỉ đạo bộ phận
marketing, thiết lập và duy trì mối quan hệ hợp tác tốt đẹp với khách hàng mục
tiêu”.
Do tính chất luôn biến động, khống chế và hoàn toàn bất định, môi trường
marketing đụng chạm sâu sắc đến đời sống của doanh nghiệp, nó có thể gây ra
những bất ngờ lớn và những hậu quả lặng nề. Vì thế Công Ty cần phải chú ý
theo dõi tất cả những diễn biến của môi trường.
Quản lý kinh tế vĩ mô
Người tiêu dùng
Cơ chế thị trường Cơ chế hạch toán
Người sản xuất
7
Môi trường marketing gồm môi trường vĩ mô và môi trường vi mô với
những yếu tố sau:
3.1.Môi trường vi mô:
Các lực lượngtachính sách dụng trong môi trường vi mô của doanh
nghiệp được trìnhbày trên hình sau:
Biểu hình 3: Những lực lượng cơ bản tác dụng trong môi trường vi mô
của Công Ty
Công chúng trực tiếp
-Công ty: khi soạn thảo các kế hoạch marketing những người lãnh đạo bộ
phận marketing của Công Ty phải chú ý tới lợi ích của các nhóm trong nội bộ
bản thân Công Ty như: Ban lãnh đạo tối cao, phòng Tài chính, Phòng Thiết kế
thử nghiệm, phòng Cung ứng vật tư sản xuất, bộ phận sản xuất và Kế toán…tất
cả những nhóm này tạo nên môi trường vi mô của Công Ty Hoạt động của tất
cả những bộ phận này dù thế này hay thế khác đều ảnh hưởng tới những kế
hoạch và hoạt động marketing .
-Những người cung ứng: những người cung ứng là những Công Ty kinh
doanh, những người có thể cung cấp cho Công Ty và các đối thủ cạnh tranh ,
các nguồn vật tư cần thết để sản xuất ra những mặt hàng cụ thể hay dịch vụ
nhất định. Những sự kiện xảy ra trong môi trường “ người cung ứng” có thể
ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động marketing của Công Ty. Do vậy Công
Ty phải chú ý theo dõi chặt chẽ những biến động từ phía nguồn cung.
-Những người môi giới marketing : là những Công Ty hỗ trợ cho doanh
nghiệp đi lên, tiêu thụ và phổ biến hàng hoá của doanh nghiệp trong giới khách
hàng. Bao gồm những người môi giới thương mại, các Công Ty chuyên tổ
chức lưu thông hàng hoá, các tổ chức dịch vụ marketing và các tổ chức tài
chính tín dụng. Những người này thực hiện hỗ trợ về các mặt: tìm kiếm khách
hàng, bán sản phẩm, tổ chức lưu thông hàng hoá, dự trữ, các hoạt động
Công ty
Các đối thủ
cạnh tranh
Những
người
cung
ứng
Khách hàng
Trung
gian
marketing
8
marketing cùng các hỗ trợ về tài chính, tín dụng. Do vậy những lực lượng này
rất quan trọng đối với doanh nghiệp.
-Khách hàng:
Là lực lượng quan trọng nhất, ảnh hưởng đến thành bại của Công Ty. Công
ty cần phải nghiên cứu kỹ khách hàng của mình. Nhìn chung có 5 dạng thị
trường khách hàng đó là: thị trường người tiêu dùng, thị trường các nhà sản
xuất, thị trường nhà bán buôn trung gian, thị trường các cơ quan nhà nước và
thị trường quốc tế.
-Đối thủ cạnh tranh:
Mọi Công Ty đều rất nhiều đối thủ cạnh tranh khác nhau, có 4 kiểu đối
thủ cạnh tranh cơ bản đó là: những mong muốn cạnh tranh, những loại hàng
cạnh tranh, những mặt hàng cạnh tranh, những nhãn hiệu cạnh tranh. Người
làm marketing phải xem xét kỹ 4 dạng đối thủ cạnh tranh và phải lưu ý đặc biệt
đến các nhãn hiệu cạnh tranh.
-Công chúng trực tiếp:
Trong thành phầng của môi trường marketing có nhiều công chúng trực
tiếp khác nhau. Công chúng trực tiếp có thể hoặc là hỗ trợ, hoặc là chống lại
những nỗ lực của Công Ty nhằm phục vụ thị trường.
Công ty có thể xây dựng kế hoạch marketing cho tất cả các công chúng
trực tiếp cơ bản của mình cũng như cho tất cả thị trường khách hàng. Bất kỳ
Công ty nào cũnghoạt động trong môi trường gồm 7 loại công chúng trực tiếp
là: giới tài chính, công chúng thuộc các phương tiện thông tin, công chúng
thuộc cơ quan nhà nước, công chúng thuộc các nhóm công dân hành động,
công chúng địa phương, quần chúng đông đảo và công chúng nội bộ.
Công ty cần lôi kéo và tạo sự ủng hộ từ phía công chúng trực tiếp.
3.2.Môi trường vĩ mô:
Các Công Ty, những người cung ứng, những người trung gian marketing
khách hàng các đối thủ cạnh tranh và công chúng đều hoạt động trong một môi
trường vĩ mô rộng lớn của các lực lượng và xu hướng tạo ra những cơ hội,
đồng thời nảy sinh ra những mối đe doạ. Do vậy Công Ty luôn phải theo dõi
và đối phó với các yếu tố môi trường. Môi trường marketing vĩ mô của doanh
nghiệp bao gồm:
3.2.1. Môi trường nhân khẩu:
Con người tạo nên thị trường vì vậy yếu tố đầu tiên của môi trường cần theo
dõi là dân số. Môi trường nhân khẩu đề cập đến quy mô và tỷ lệ tăng dân số ở
các thành phố, khu vực và quốc gia, sự phân bố tuổi tác và cơ cấu dân tộc,
trình độ học vấn và mẫu hình hộ gia đình cũng như các đặc điểm và phong trào
của khu vực. Sau đâylà những đặc điểm và xu hướng chủ yếu về nhân khẩu và
những hàm ý của chúng đối với việc lập kế hoạch marketing .
-Sự bùng nổ dân số thế giới:
Dân số thế giới đang tăng vọt tạo ra một sự tăng nhu cầu về nhiều loại sản
phẩm thiết yếu trong khi các nguồn tài nguyên đang ngày càng khan hiếm.
9
Điều này có nghĩa là thị trường đang tăng cùng với sức mua khá lớn, song bên
cạnh nhu cầu hàng hoá tăng lên thì doanh nghiệp sẽ phải đối mặt vơío chi phí
sản xuất tăng cao do sự khan hiếm nguồn lực và sức mua có thể không tăng
cùng với nhu cầu.
-Cơ cấu tuổi của dân số quyết định các nhu cầu :
Dân số các nứơc có cơ cấu tuổi khác nhau. Mỗi nhóm sẽ có một số nhu cầu
về sản phẩm và dịch vụ nhất định, những tập hợp về nhu cầu về sản phẩm, dịch
vụ này sẽ tạo ra những đoạn thị trường khác nhau cho các doanh nghiệp . Mỗi
nhóm tuổi trong cơ cấu dân số cũng sẽ có những sở thích về phương tiện
chuyền thông, về hình thức bán lẻ sẽ giúp những người làm marketing xác định
chi tiết hơn những hàng hoá tung ra thị trường của mình.
-Thị trường dân tộc:
Cơ cấu dân tộc và chủng tộc ở các nước rất khác nhau, mỗi nhóm dân cư có
những mong muốn nhất định và thói quen mua sắm nhất định, vì vậy các biện
pháp nỗ lực marketing sẽ có tác dụng khác nhau đối với các dân tộc, chủng tộc
khác nhau ngay trong mỗi quốc gia, do đó các Công Ty đã hướng sản phẩm và
các hoạt động marketing vào một hay một số nhóm :
- Các nhóm chình độ học vấn:
Trình độ học vấn của dân cư trong một quốc gia được phân thànhnhiều nhóm
khác nhau và mỗi nhóm sẽ có nhu cầu đặc trưng về một số loại sản phẩm dịch
vụ .
-Các kiểu hộ gia đình:
Xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống gia đình cũng có những thay đổi
theo, hình thành nên các kiểu hộ gí đình. Mà kiểu hộ gia đình sẽ có những nhu
cầu và thói quen mua sắm riêng.
-Di chuyển chỗ ở trong dân cư:
Sự di chuyển chỗ ở trong dân cư đã tạo ra sự thay đổi trong phân bố dân cư,
mật độ dân số tại các khu vực, các quốc gia. Địa điểm cư chú của dâ cư tạo nên
sự khác biệt về sở thích đối với hàng hoá, dịch vụ, và việc di chuyển chỗ ở
trong dân cư từ đó sẽ làm thay đỗi nhu cầu về các loại hàng hoá dịch vụ khác
nhau trong dân cư.
Những tác động của các thay đổi trên sẽ dẫn đến việc chia nhỏ thị
trường đại chúng thành rất nhiều vi thị trường khác nhau về lứa tuổi, giới tính,
trình độ học vấn, địa lý… Mỗi nhóm có những sở thích rõ rệt và đặc điểm tiêu
dùng riêng.
3.2.2. Môi trường kinh tế:
Thị trường cần có sức mua và công chúng, sức mua hiện có trong một nền
kinh tế phụ thuộc vào thu nhập hiện có, giá cả, lương, tiết kiệm, nợ nần và khả
năng có thể vay tiền. Vì thế những người làm marketing phải theo dõi chặt chẽ
những xu hướng chủ yếu trong thu nhập và các kiêủ chi tiêu của người tiêu
dùng . Những xu hướng này sẽ chịu tác động của sự suy thoái kinh tế, tỷ lệ thất
nghiệp, lãi suất tín dụng và lạn phát.
3.2.3 Môi trường tự nhiên:
10
Môi trường tự nhiên đang ngày càng có những thay đổi xấu đi với mức độ ô
nhiễm nghiêm trọng. Những biến động này đều có ảnh hưởng đến hàng hoá mà
Công Ty sản xuất và đưa ra thị trường. Có bốn xu hướng trong môi trường tự
nhiên với các mối đe doạ và cơ hội gắn liền:
-Thiếu hụt nguyên liệu:
Hầu hết các tài nguyên tự nhiên đều là hữu hạn và có những tài nguyên
không tái tạo, do vậy các Công Ty đang phải đương đầu với tình hình khan
hiếm nguyên liệu, chi phí tăng lên điều này ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm
gây khó khăn trong tiêu thụ, song cũng mở ra hướng mới cho các Công Ty đầu
tư vào nghiên cứu, tìm ra vật liệu mới thay thế.
-Chi phí năng lượng tăng:
Nguồn năng lượng chủ yếu hiện nay đang sử dụng là các phế phẩm từ dầu
mỏ, than đá, khí đốt. Đây là những dạng tài nguyên không phục hồi được trong
khi mức tiêu dùng ngày càng tăng đã làm cho giá năng lượng tăng và các giả
pháp cho việc tìm kiếm năng lượng mới thay thế đang mở ra cho các công ty
những hứa hẹn trong tương lai.
-Mức độ ô nhiễm tăng:
Các hoạt động sản xuất công nghiệp đều ít nhiều ảnh hưởng đến môi trường
tự nhiên. Các chất thải hoá học, giác thải tiêu dùng… đều làm cho môi trường
bị ô nhiễm nếu không được xử lý tốt, vì thế ô nhiễm môi trường đang là vấn
đề quan tâm hàng đầu đối với các quốc gia cũng như công chúng. Mọi lo lắng
của công chúng đã tạo ra cơ hội marketing cho cac Công Ty nhạy bén trong
việc tìm ra các giải pháp kiểm soát ô nhiễm. Tuy nhiên bên cạnh đó chính phủ
và các tổ chức bảo vệ môi trường đang đặt ra nững yêu cầu tiêu chuẩn khắt khe
hơn đối với các doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh .
-Sự thay đổi vai trò của các chính phủ trong việc bảo vệ môi trường .
Bảo vệ môi trường đang trở thành vấn đề toàn cầu chứ không chỉ trong từng
quốc gia vì thế ngay cả những Công Ty cũng phải nhận thức rõ hơn trách
nhiệm của mình đối với xã hội trong việc bảo vệ môi trường .
3.2.4. Môi trường công nghệ:
Với sự phát triển một cách nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã tạo ra
những cơ hội đổi mới vô hạn về công nghệ. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
chịu ảnh hưởng của số lượng công nghệ mới quan trọng được khám phá ra.
Mỗi một công nghệ mới đều tạo ra những thị trường và cơ hội đầu tư mới,
song nó cũng tạo ra một hậu quả lâu dài quan trọng mà không phải bao giờ
cũng thấy trước được.
Những người làm marketing phải theo dõi những xu hướng thay đổi lan
trong môi trường công nghệ.
- Sự tăng tốc của việc thay đổi công nghệ.
- Những cơ hội đổi mới vô hạn với sự xuất hiện những khả năng vô hạn.
- Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu, thiết kế thí nghiệm.
- Quan tâm hơn đến việc ứng dụng những cải tiến nhỏ cho những hàng
hoá hiện có và quy định về thay đổi công nghệ ngày càng chặt chẽ.
11
3.2.5. Môi trường chính trị:
Môi trường chính trị tác động mạnh mẽ đến các quyết định marketing.
Môi trường này bao gồm luật pháp, các cơ quan nhà nứơc và những nhóm gây
sức ép có ảnh hưởng và hạn chế các tổ chức và cá nhân khác nhau trong xã hội
với hai xu hướng chủ yếu sau:
-Có nhiều đạo luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh : Ngày càng có nhiều
đạo luật ảnh hưởng đến kinh doanh nhằm mục đích bảo vệ các Công Ty quan
hệ với nhau và bảo vệ người tiêu dùng trước tình trạng kinh doanh gian dối,
cuối cùng là bảo vệ lợi ích của xã hội, chống lại những hành vi bừa bãi trong
kinh doanh .
-Sự xuất hiện của các nhóm bảo vệ lợi ích công cộng. Trong những thập kỷ
qua, số lượng của sức mạnh, của các nhóm bảo vệ lợi ích công cộng đã tăng
lên nhiều. Những đạo luật mới và số nhóm gây sức ép ngày càng nhiều đã kìm
trế lớn những người làm marketing, và họ ngày càng phải chú ý tới lợi ích của
mình đối với lợi ích công cộng.
3.2.6. Môi trường văn hoá.
Trong môi trường văn hoá có một số đặc điểm cần quan tâm sau:
- Những giá trị văn hoá cốt lõi rất bền vững. Những người sống trong một
xẫc hội cụ thể, có rất nhiều niềm tin và giá trị cốt lõi, khuynh hướng tồn tại
lâu bền được chuyền từ bố mẹ sang con cái và được các định trế xã hội như
nhà trường, nhà thờ, doanh nghiệp, nhà nước củng cố thêm. Những người
làm marketing rất có khả năng làm thay đổi những giá trị văn hoá cốt lõi.
- Mỗi nền văn hóa đều bao gồm những nhánh văn hoá. Mọi xã hội đều
chứa đựng nhiều nhánh văn hoá và các nhóm văn hoá của nhánh văn hoá
thể hiện những mong muốn và hành vi tiêu dùng khác nhau.
- Những giá trị văn hoá thứ yếu biến đổi theo thời gian. Mặc dù những
giá trị văn hoá khá bền vững song cũng có những biến đổi nhất định.
Những người làm marketing rất quan tâm đến việc phát hiện những biến
đổi về văn hoá có thể báo trước những cơ hội marketing và những mối đe
doạ mới.
II-MARKETING TRONG DOANH NGHIỆP:
1-Khái niệm.
Có nhiều định nghĩa về marketing, tuỳ theo quan điểm, góc độ nhìn nhận mà
giữa các định nghĩa có sự khác nhau. Tựu chung lại có ba khái niệm marketing
cần quan tâm sau:
-Khái niệm của viện nghiên cứu Anh:
“ Marketing là chức năng quản lý Công Ty về mặt tổ chức và quản lý toàn
bộ các hoạt động kinh doanh, từ việc phát hiện và biến sức mua của người
tiêu dùng thành nhu cầu thực sự của một mặt hàng cụ thể, đến việc đưa
hàng hoá đến người tiêu dùng cuối cùng đảm bảo cho Công Ty thu được lợi
nhuận dự kiến.”
12
Khái niệm này liên quan đến bản chất của marketing là tìm kiếm và thoả
mãn nhu cầu, khái niệm nhấn mạnh đến tính chất quá trình của hoạt động
marketing bao gồm từ việc phát hiện nhu cầu đến việc đưa hàng hoá đến người
tiêu dùng, và khái niệm marketing bao gồm các hoạt động trong quá trình kinh
doanh nhằm đảm bảo thu hút được lợi nhuận cho Công Ty .
-Khái niệm của hiệp hội marketing :
“Marketing là quá trình kế hoạch hoá và thực hiện nội dung sản phẩm,
định giá, xúc tiền và phân phối cho sản phẩm, dịch vụ và tư tưởng để tạo ra
sự trao đổi nhằm thoả mãn các mục tiêu của cá nhân và tổ chức .”
-Theo Philip Kotle, marketing được định nghĩa như sau:
“ Marketing là hoạt động của con người hướng tới thoả mãn nhu cầu và
ước muốn thông qua qua trình trao đổi.”
Hai định nghĩa này bao gồm cả quá trình chao đổi trong kinh doanh như là
một bộ phận của marketing. Hoạt động marketing diễn ra trong tất cả các lĩnh
vực trao đổi nhằm hướng tới thoả mãn nhu cầu với các hoạt động cụ thể trong
thực tiễn kinh doanh cũng như ở các lĩnh vực trao đổi không kinh doanh khác.
2- Vai trò của marketing trong hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp
Trong thời kì kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp hoạt
động sản xuất theo hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh. Doanh nghiệp nhận chỉ tiêu
sản xuất định mức đầu vào và hiệu quả hoạt động được thể hiện qua mức hoàn
thành kế hoạch chỉ tiêu, sản phẩm sản xuất ra được phân phối qua tem phiếu,
do đó hoạt động của doanh nghiệp hoàn toàn tách khỏi thị trường và hoạt động
marketing không hề tồn tại.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được tự do cạnh
tranh để đáp ứng nhu cầu của khoa học một cách tốt nhất. Kinh tế thị trường
ngày càng phát triển, mức độ cạnh tranh càng cao, cạnh tranh vừa là động lực
thúc đẩy, vừa là công cụ đào thải, chọn lựa khắt khe của thị trường đối với
doanh nghiệp. Vì vậy muốn tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải hoà
mình vào thị trường một cách năng động, linh hoạt. Khi khách hàng trở thành
người phán quyết cuối cùng đối với sự sống còn của doanh nghiệp thì các
doanh nghiệp lớn buộc phải nhận thức được vai trò của khách hàng. Lợi nhuận
của doanh nghiệp chỉ có được khi làm hài lòng, thoả mãn nhu cầu của khách
hàng, và marketing trở thành “chìa khoá vàng” của doanh nghiệp để đi đến
thành công.
Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không thể tách khỏi thị trường và họ
cũng không hoạt động một cách đơn lẻ mà diễn ra trong quan hệ với thị trường
với môi trường bên ngoài của Công Ty. Do vậy, bên cạnh chức năng tài chính,
chức năng sản xuất, chức năng quản trị nhân sự, thì chức năng quan trọng và
không thể thiếu được để đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển đó là
chức năng quản trị marketing. Chức năng kết nối hoạt động của doanh nghiệp
với thị trường, với khách hàng, với môi trường bên ngoài để đảm bảo cho hoạt
13
động kinh doanh của doanh nghiệp hướng theo thị trường, lấy thị trường-nhu
cầu của khách hàng làm cơ sở cho mọi quyết định kinh doanh .
Hoạt động marketing trong các doanh nghiệp đóng vai chò quyết định đến vị
chí của doanh nghiệp trên thị trường. Bắt đầu từ việc nghiên cứu thị trường,
lập danh mục hàng hoá, đến thực hiện sản xuất, phân phối và khi hàng hoá
được bán hoạt động marketing vẫn được tiếp tục cho đến chức năng quản trị
marketing có liên quan đến các lĩnh vực quản trị khác trong doanh nghiệp và
nó có vai trò định hướng, kết hợp các chức năng khác để không chỉ nhằm lôi
kéo khách hàng mà còn tìm ra các công cụ có hiệu quả để thoả mãn nhu cầu
của khách hàng, từ đó đem lại lợi nhuận cho Công Ty .
Nói chung chức năng hoạt động marketing của doanh nghiệp giúp cho
doanh nghiệp trả lời những câu hỏi sau:
- Khách hàng của doanh nghiệp là ai? Họ mua hàng ở đâu, mua bao nhiêu?
mua như thế nào? Vì sao họ mua?
- Họ cần những hàng hoá nào? hàng hoá đó có đặc tính gì? Vì sao những đặc
tính đó là cần thiết ?
- Hàng hoá của doanh nghiệp có ưu điểm và hạn chế gì? Có cần thay đổi
không? Tại sao? Những đặc tính nào cần thay đổi?
- Giá của sản phẩm cuả doanh nghiệp nên quy định là bao nhiêu? Tại sao?
Khi nào cần tăng giá, giảm giá? Mức tăng giảm là bao nhiêu? Thay đổi đổi
với những khách hàng nào?
- Doanh nghiệp nên tự tổ chức lực lượng bán hay dựa vào tổ chức trung gian
khác? Khi nào đưa hàng ra thị trường ? Khối lượng là bao nhiêu?
- Làm thế nào để khách hàng biết, ưa thích và mua hàng của doanh nghiệp
?Trong các phương thức thu hút khách hàng, doanh nghiệp chọn phương
thức nào, phương tiện nào? Tại sao?.
- Dịch vụ sau bán hàng sẽ được thực hiện như thế nào?.
Đó là những câu hỏi mà ngoài chức năng marketing không có chức năng
nào có thể trả lời được. Dựa vào các vấn đề cơ bản trên, doanh nghiệp xây
dựng cho mình một chính sách marketing mới phù hợp với thị trường, đáp
ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng .
Tóm lại, trong một doanh nghiệp chỉ có bốn lĩnh vực quản trị chủ yếu là:
sản xuất-kỹ thật, lao động, tài chính và marketing thì chức năng marketing là
chức năng quan trọng nhất khi doanh nghiệp hoạt động theo định hướng thị
trường và các chức năng lĩnh vực khác trong doanh nghiệp chỉ có thể phát huy
sức mạnh qua các hoạt động marketing, nhờ đó các doanh nghiệp đạt được các
mục tiêu kinh doanh trên thị trường .
III- CÁC GIẢI PHÁP MARKETING CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY MẠNH TIÊU THỤ
SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG .
1-Vị trí của tiêu thụ hàng hoá trong nền kinh tế thị trường .
14
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay cũng như trong hoạt động kinh
doanh thương mại thì tiêu thụ hàng hoá chiếm một vị chí then chốt và nó giữ
một vai trò rất quan trọng.
Việc tiêu thụ hàng hoá không những làm tăng doanh thu, lợi nhuận của
doanh nghiệp mà nó còn khẳng định rằng phương hướng, chính sách kinh
doanh của doanh nghiệp là đúng. Doanh nghiệp đã xác định được nhu cầu của
khách hàng và góp phần thoả mãn nhu cầu đó, qua đó sản phẩm của doanh
nghiệp đã khẳng định được lợi thế, chỗ đứng của mình trong tiêu thụ. Tất cả
các điều trên được đánh giá vá kiểm tra, khẳng định qua sức tiêu thụ sản phẩm
của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh .
2-Các giải pháp marketing chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm
của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường .
2.1.Khái niệm về marketing hỗn hợp.( marketing - mix).
“Marketing-mix là tập hợp những công cụ marketing mà Công Ty sử
dụng để theo đuổi những mục tiêu marketing của mình trên thị trường mục
tiêu”.
Marketing hỗn hợp là một bộ các biến số có thể điều khiển được, chúng
được quản lý để thoả mãn thị trường mục tiêu và đạt các mục tiêu của tổ chức .
Trong marketing - mix có rất nhiều công cụ khác nhau, mỗi công cụ là một
biến số có thể diều khiển được và được phân loại theo 4 yếu tố là 4 P: sản
phẩm (product), giá cả (price), phân phối (place), xúc tiến khuyếch trương
(promotion).
2.2- Các bước xây dựng chương trình marketing -mix.
Để xây dựng được một chiến lược marketing - mix Công ty cần thực
hiện thông qua các bước sau:
Bước 1: Thiết lập các mục tiêu marketing .
Mọi Công Ty đề theo đuổi những mục tiêu nhất định nào đó. Các mục
tiêu marketing thường được định hướng theo các mục tiêu của tổ chức, trong
trường hợp Công Ty được định hướng marketing hoàn toàn, hai nhóm mục tiêu
này là trùng nhau. Các mục tiêu marketing thường được đánh giá như là các
tiêu chuẩn hoạt động hay như là công việc phải đạt được ở một thời gian nhất
định. Các mục tiêu này cung cấp khuân khổ thực hiện cho chiến lược
marketing. Mục tiêu marketing được thiết lập từ những phân tích về khả năng
của thị trường và đánh giá khả năng của Công Ty. Những phân tích này dựa
trên cơ sở những số liệu về sản phẩm thị trường cạnh tranh, môi trường
marketing, từ đó rút ra được những tiềm năng của thị trường cần khai thác và
lựa chọ những ý tưởng mục tiêu phù hợp với khả năng marketing của Công Ty
Bước 2: Lựa chọn thị trường mục tiêu:
Việc nghiên cứu, lựa chọn chính sác thị trường muc tiêu cho Công Ty
đòi hỏi phải được thực hiện dựa trên những phân tích kỹ lưỡng các số liệu về
thị trường, khách hàng. Đây là công việc nhận dạng nhu cầu của khách hàng và
lựa chọn các nhóm hoạc các đoạn khách hàng tiềm năng mà Công Ty sẽ phục
15
vụ với mỗi sản phẩm của mình. Công Ty có thể lựa chọn, quyết định xâm nhập
một hay nhiều khúc của thị trường. Những khúc thị trường này có thể được
phân chia theo những tiêu chí khác nhau, trong đó các yếu tố của môi trường vĩ
mô có nhiều ảnh hưởng tới sự phân chia thị trường thành các khúc thị trường
nhỏ hơn. Như vậy, để lựa chọn được thị trường mục tiêu cho Công Ty đòi hỏi
phải nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng yếu tố của môi trường vĩ mô, của thị
trường và môi trường vi mô. Những yếu tố này làm ơ sở cho việc phân khúc và
đánh giá các khúc của thị trường khác nhau, Công Ty sẽ phải quyết định nên
phục vụ bao nhiêu và những khúc thị trường nào.
Bước 3: Xây dựng các định hướng chiến lược .
Trước khi thiết lập các chiến lược marketing - hỗn hợp cho sản phẩm ở
thị trường mục tiêu, Công Ty phải đề ra các định hướng chiến lược cho sản
phẩm cần đạt tới ở thị trường mục tiêu. Những định hướng này cung cấp
đường lối cụ thể cho chiến lược marketing - mix. Việc xây dựng các định
hướng chiến lược phải căn cứ vào thị trường mục tiêu nhằm định vị sản phẩm
hàng hoá của Công Ty trên thị trường một cách có hiệu quả.
Bước 4: Hoạch định chiến lược marketing - mix .
Nội dung của chiến lược này bao gồm 4 chính sách cơ bản. Công Ty
phải dựa vào những phân tích ban đầu về môi trường marketing, thị trường
khách hàng và các mục tiêu chiến lược cần được thực hiện cần với đặc điểm
của thị trường mục tiêu của mình để thiết lập một bộ phận 4 biến số phù hợp
nhất để thoả mãn thị trường mục tiêu, từ đó để đạt được các mục tiêu của tổ
chức .
Bước 5: Xây dượng các chương trình marketing -mix.:
Chiến lược marketing phải được thực hiện thành các chương trình
marketing, chiến lược mới chỉ thể hiện những nét chính về marketing nhằm
đạt được mục tiêu. Vì vậy phải xây dựng các chương trình hoạt động để thực
hiện các chiến lược marketing -mix.
Markting-mix là sự cụ thể hoá chiến lược marketing bằng các biến số
marketing được kế hoạch chi tiết ở thị trường mục tiêu.
Như vậy, để thiết lập được một chiến lược marketing-mix chu đáo, hiệu
quả và phù hợp với thị trường mục tiêu của Công Ty, Công Ty phải làm rõ các
yếu tố thuộc về thị trường, môi trường vi mô và vĩ mô của Công Ty , từ đó đi
sâu, phân tích những vấn đề cơ bản, điểm yếu và mạnh, các mối đe doạ có
những căn cứ xác đáng nhằm xây dựng mục tiêu, xây dựng các định hướng
chiến lược và hoạch định, thiết kế một chiến lược marketing -mix hiệu quả cho
sản phẩm thị trường mục tiêu với các chương trình hoạt động cụ thể.
2.3-Nội dung của các chiến lược marketing hỗn hợp( marketing -mix).
2.3.1.Chính sách sản phẩm .
16
Đây là biến số quan trọng nhất của cả chiến lược kinh doanh cũng như
chiến lược marketing hỗn hợp, chính sách sản phẩm được thực hiện thông qua
các quyết định sau:
*Quyết định về danh mục, chủng loại sản phẩm .
“Danh mục sản phẩm là tập hợp tất cả những loại sản phẩm và mặt hàng mà
một người bán cụ thể đưa ra để bán cho những người mua “.
- Danh mục sản phẩm của một Công Ty sẽ có chiều rộng, chiều dài, chiều dài
và mật độ nhất định. Chiều rộng của danh mục sản phẩm thể hiện Công Ty có
bao nhiêu sản phẩm khác nhau. Chiều dài danh mục sản phẩm là tổng số mặt
hàng trong danh mục sản phẩm . Chiều sâu danh mục sản phẩm thể hiện có
bao nhiêu phương án của mỗi sản phẩm trong loại.
Mật độ của mỗi danh mục sản phẩm thể hiện mối quan hệ mật thiết đến
nức độ nào giữa các loại sản phẩm khác nhau xét theo cách sử dụng cuấi cùng,
thiết bị sản xuất kinh doanh , phân phối hay một phương tiện nào khác.
Bốn chiều trên của danh mục sản phẩm tạo nên những căn cứ để xác
định chiến lược sản phẩm của Công Ty, có thể khuyếch trương doanh nghiệp
của mình theo bốn cách:
+Mở rộng danh mục sản phẩm của mình bằng cách bổ sung sản phẩm mới.
+Kéo dài từng loại sản phẩm làm tăng chiều dài danh mục.
+Bổ sung thêm các phương án sản phẩm cho từng sản phẩm và tăng chiều
sâu của danh mục sản phẩm
+Tăng hay giảm mật độ của loại sản phẩm tuỳ theo ý đồ Công Ty muốn có
uy tín vững chắc trong lĩnh vực hay tham gia vào nhiều lĩnh vực.
-Chủng loại sản phẩm là một nhóm sản phẩm có quan hệ chặt chẽ với
nhau, bởi vì chúng thực hiện một chức năng tương tự, được bán cho cùng một
nhóm người tiêu dùng, qua cùng kênh như nhauhay tạo nên một khung giá cụ
thể .
Một danh mục sản phẩm bao gồm nhiều sản phẩm khác nhau. Người
quản lý cần biết doanh số bán và lợi nhuận của từng mặt hàng trong loại sản
phẩm và tình trạng của loại sản phẩm đó so với loại sản phẩm của đối thủ cạnh
tranh, từ đó có quyết định về chiều dài tối ưu của loại sản phẩm, quyết định
hiện đại hoá sản phẩm , quyết định làm nổi bật hoạc thanh lọc loại sản phẩm .
*Quyết định về nhãn hiệu , bao bì sản phẩm :
Khi hoạch định chiến lược marketing cho từng loại sản phẩm người bán
phải đứng trước việc quyết định nhãn hiệu. Việc gắn nhãn hiệu là chủ đề quan
trọng trong chiến lược sản phẩm. Nhãn hiệu về cơ bản là một sự hứa hẹn của
người bán đảm bảo cung cấp cho người mua một tập hợp nhất định những tính
chất lợi ích và dịch vụ . Một nhãn hiệu có thể có 6 cấp độ và mỗi nhãn hiệu có
sức mạnh và giá trị khác nhau trên thị trường . Những quyết định về nhãn hiệu
là những quyết định rất quan trọng trong chiến lược sản phẩm bởi nhãn hiệu
được coi là tài sản lâu bền quan trọng của một Công Ty. Việc quản lý nhãn
hiệu cũng được coi như một công cụ marketing chủ yếu trong chiến lược sản
phẩm .
17
Bao bì có thể đóng vai trò chủ yếu hay thứ yếu đối với từng loại sản
phẩm . Đối với những người làm marketing bao bì được xem như là một yếu
tố của chiến lược sản phẩm và trở thành một công cụ marketing đắc lực. Bao
bì thiết kế tốt có thể tạo ra giá trị thuận tiện cho người tiêu dùng và giá trị
khuyến mãi cho người sản xuất .
*Quyết định về chất lượng sản phẩm :
“ Chất lượng sản phẩm là toàn bộ những tính năng và đặc điểm của một sản
phẩm hay dịch vụ đem lại cho nó khả năng thoả mãn nhu cầu và mong muốn
của người tiêu dùng “.
Giữa chất lượng sản phẩm và dịch vụ, sự thoả mãn của khách hàng và
khả năng sinh lợi của Công Ty có một mối liên hệ mật thiết . Mức chất lượng
càng cao thì mức độ thoả mãn của khách hàng cũng càng cao, trong khi có thể
tính giá cao hơn mà chi phí thường là thấp hơn.
Chất lượng hàng hoá đối với sản phẩm là thuộc tính đầu tiên và quan
trọng nhất đối với khách hàng khi lựa chọn sản phẩm , do vậy chất lượng sản
phẩm phải lấy khách hàng làm trung tâm. Chất lượng phù hợp là chất lượng
đáp ứng được nhu cầu thị trường mục tiêu và khi phân tích chất lượng phải
tính đến chất lượng theo thị trường chứ không chỉ là chất lượng theo kỹ thuật.
Trong chiến lược sản phẩm thì quyết định về chất lượng sản phẩm là quyết
định then chốt bởi tất cả nỗ lực marketing là vô nghĩa khi sản phẩm đó là một
sản phẩm tồi, chất lượng sản phẩm là yếu tố quyết định đến hiệu quả của các
biến số marketing khác, do vậy đòi hỏi phải luôn cải tiến chất lượng sản phẩm
Để cải tiến chất lượng sản phẩm cần xuất phát từ những tiêu đề sau:
- Chất lượng phải được khách hàng nhận thức được .
- Chất lượng phải phản ánh trong mọi hoạt động của Công Ty chứ không
chỉ trong sản phẩm của Công Ty .
- Chất lượng đòi hỏi sự tận tâm chung của toàn thể công nhân viên.
- Chất lượng đòi hỏi phải có những người công tác chất lượng cao.
- Chất lượng bao giờ cũng có thể cải tiến.
- Cải tiến chất lượng đôi khi đòi hỏi phải có bước đột phá .
- Chất lượng không đòi hỏi chi phí thêm.
- Chất lượng là cần thiết nhưn có thể là không đủ.
- Chạy đua chất lượng không thể cứu vãn một sản phẩm tồi, khiếm
khuyết.
*Dịch vụ sau bán hàng:
Đây là một công cụ quan trọng để đảm bảo lợi thế cạnh tranh của Công
Ty. Dịch vụ sau bán hàng nếu được thực hiện tốt sẽ làm tăng lợi nhuận nhận
được của khách hàng, làm tăng sự hài lòng của khách hàng. Dịch vụ sau bán
hàng là một công cụ đắc lực trong việc tạo ra sự khác biệt và tỏ ra có hiệu quả
khi tạo ra sự khác biết cho sản phẩm vật chất.
2.3.2- Chính sách giá:
18
Các nhà kinh tế phân định hai kiểu giá kinh doanh cơ bản: Giá thực hiện(
giá thị trường ) và giá chuẩn.
- Giá thị trường : Là mức giá tồn tại trên thị trường, đó là giá mà người bán
nhận thức được từ sản phẩm của mình và người mua thực trả cho sản phẩm
nhận được.
- Giá chuẩn là một quan niệm có tính lý thuyết để phản ứng mức giá trị điểm
cân bằng của hai đường cong cung-cầu thị trường đối với một sản phẩm mà
giá trị thị trường có su hướng tiệm cận nó.
Giá kinh doanh là một vấn đề quan trọng trong chiến lược marketing
của doanh nghiệp được hình thành như một dẫn xuất lợi ích tương hỗ, khi cầu
gặp cung trên thị trường và việc thực hiện nó ảnh hưởng trực tiếp đến các vấn
đề của Công Ty như: lợi nhuận, doanh số bán…Do vậy việc xây dựng một
chính sách giá đúng đắn là một yêu cầu cấp thiết của Công Ty làm sao để bán
được hàng mà đối thủ cạnh tranh không phản đối.
Người ta có thể thayđổi giá nhanh hơn bất kỳ một yếu tố nào khác của
marketing-mix, đặc tính này góp phần quan trọng vào việc tăng giá chiến
thuật hoặc khi họ phải đối mặt với một tình huống đòi hỏi phải có một quyết
định nhanh chóng để phản ưngs lại .
Việc đánh giá một bộ phận tinh vi, phức tạp và quan trọng của quyết
định quản trị marketing. Nó một mặt vừa là yếu tố chiến lược chủ chốt của
marketing-mix, vì nó ảnh hưởng tới sự chấp nhận chất lượng sản phẩm và do
đó đóng một vị thế quan trọng đối với vị thế sản phẩm .
Mục tiêu của chính sách giá là đảm bảo doanh số gia tăng tối đa, lợi
nhuận của Công Ty tăng, đảm bảo các hoạt động của Công Ty được thông
suốt.
Khi Công Ty lựa chọn thị trường mục tiêu của mình và định vị trên thị
trường thì lúc đó việc hoạch định chiến lược marketing-mix được tiến hành.
Chiến lược định giá của Công Ty sẽ phụ thuộc vào mục tiêu marketing của
Công Ty. Khi xác định giá cho sản phẩm, Công Ty cần tuân thủ 6 bước định
giá sau:
Bước 1: Công Ty phải lựa chọn mủ tiêu marketing của mình thông qua
định giá đó là: Sống sót, tăng tối đa lợi nhuận trước mắt, tăng tối đa thu nhập
trước mắt, tăng tối đa mức tiêu thụ, tăng tối đa việc hớt phần ngon của thị
trường hay dành vị chí về mặt dẫn đầu về chất lượng sản phẩm .
Bước 2: Công Ty xác định đồ thị nhu cầu để căn cứ vào độ co giãn của cầu
để đánh giá cho thích hợp.
Bước 3: Công Ty ước tính giá thành, đây sẽ là mức giá sàn mà Công ty có
thể có.
Bước 4: Tìm hiểu giá của đối thủ cạnh tranh để làm cơ sở xác định vị trí
cho giá của mình.
Bước 5: Lựa chọn phương pháp định giá , bao gồm các phương pháp: Đánh
giá theo phụ giá, định giá theo lợi nhuận mục tiêu, định giá theo giá trị nhận
thức được, định giá theo mức giá hiện hành…
19
Bước 6: Công Ty lựa chọn giá cuối cùng của mình, phối hợp với các yếu tố
khác của marketing-mix.
Tình hình thị trường luôn thay đổi do vậy Công Ty sẽ phải điều chỉnh giá
cho phù hợp, có các chiến lược điều chỉnh sau: Định giá theo nguyên tắc địa
lý, chiết giá và bớt giá, định giá khuyến mãi, định giá phân biệt và định giá cho
danh mục hàng hoá .
Khi xem xét việc thay đổi giá , Công Ty cần thận trọng xem xét những
phản ứng của khách hàng và đối thủ cạnh tranh .
2.3.3- Chính sách phân phối .
Khái niệm :
Kênh phân phối của Công Ty là một tập cấu chúc lựa chọn có chủ đích
mục tiêu giữa Công Ty với các trung gian phân phối và người tiêu dùng cuối
cùng để tổ chức phân phối và vận động hàng hoá hợp lý nhất cho các khách
hàng tiềm năng trọng điểm, trực tiếp và cuối cùng của Công Ty .
Nghiên cứu về marketing phân phối hàng hoá của Công Ty phải nghiên
cứu hình thức đưa hàng từ sản xuất đến tiêu dùng, các thành phần nào tham
gia kênh phân phối, phối hợp điều hành trong kênh như thế nào, chính sách
phân phối tổ chức lực lượng bán ra sao, các trang bị cơ sở vật chất, các hoạt
động hỗ trợ…
Phân phối trong marketing bao gồm các yếu cơ bản sau:
- Người cung ứng và người tiêu dùng cuối cùng.
- Các phần tử trung gian.
- Hệ thống thông tin thị trường, các dịch vụ mua bán hàng hoá và các hoạt
động yểm trợ khuyếch trương.
- Hệ thống kho tàng bến bái, phương tiện vận tải.
Để tổ chức tốt quyết định quá trình phân phối chúng ta cần phải xác lập
được các kênh phân phối hợp lý, muốn vậy phải căn cứ vào tính chất vật lý của
hàng hoá, vị trí hàng hoá trong nền kinh tế, chiến lược kinh doanh của Công
Ty.
- Kênh phân phối vận động vật lý hàng hoá: Đây là yếu tố cấu thành nên
kênh tập thể , nó là một lĩnh vực sản xuất vật chất đặc biết có sự tham gia của
nhiều tổ chức hoạt động kinh tế khác nhau và không gian cấu thành trực tiếp
vào kênh phân phối . Nó bao gồm các hoạt động: Vận chuyển, phân loại, chỉnh
lý, bao bì, bao gói và các nghiệp vụ về kho. Hoạt động phân phối vận động vật
lý được nhìn nhận ở hai khía cạnh:
+Theo không gian nó bắt đầu khởi điểm (Nhà máy, xí nghiệp…) đi qua
trạm điều tiết (các trung gian thương mại) cuối cùng tới các khu vực không
gian khác nhau của thị trường với một dung lượng thích ứng.
+Theo thời gian: Nó bắt đầu từ khi kết thúc quá trình sản xuất và kết thúc
bằng việc bán hàng cho người tiêu dùng cuối cùng.
Điều hành phân phối vận động vật lý là một hoạt động phức tạp và đa
dạng, có những lĩnh vực rất trọng yếu trong marketing điều đó chứng tỏ rằng
điều hành này sẽ tạo ra ưu thế cạnh tranh trong marketing .
20
Biểu hình 4: Các loại kênh phân phối chủ yếu.
Các loại kênh phân phối bao gồm các loại kênh sau:
+ Kênh ngắn: Trong một số trường hợp, kênh này được tổ chức thực
hiện thông qua bán lẻ thuộc Công Ty sản xuất , trường hợp này thường để giới
thiệu sản phẩm mới, hoạc đẩy mạnh bán ra hàng chậm luân chuyển với giá hạ
hoặc những hàng có quy mô sản xuất nhỏ, chưa có ý nghĩa xã hội lớn.
Trường hợp công dụng thứ hai là phương pháp án đặt hàng và giao hàng
bưu điện giữa người tiêu dùng và người sản xuất, đối với các loại hàng có dấu
chất lượng đủ tin cậy và rõ ràng.
+Kênh dài: áp dụngtrong phân phối hàng công nghiệp tiêu dùng tới các
cửa hàng bán lẻ độc lập bởi phần lớn các nhà sản xuất hàng hoá này chỉ có một
sản lượng không lớn trong danh mục hàng hoá trên thị trường và cũng không
có khả năng giao tiếp trực tiếp với các cửa hàng bán lẻ được phân phối rộng
khắp trên thị trường tổng thể. Trong trường hợp này nhà sản xuất thường tổ
chức giao tiếp với các nhà bán buôn để thực hiện việc mua bán, tập hợp, chỉnh
lý, dự trữ hàng hoá và làm hậu cần cho thị trường bán kẻ tổng hợp, thậm chí ở
các vùng xa xôi so với điểm phát luồng.
Các chính sách phân phối điển hình thường được các nhà doanh nghiệp
sư dụng là chính sách phân phối rộng rãi, chính sách phân phối đặc biệt và
chính sách phân phối chọn lọc vừa đảm bảo được những ưu thế của chính sách
phân phối đặc biệt, đồng thời lại tiết kiệm được trong kinh doanh .
Các quyết định tổ chức kênh phân phối của Công Ty :
Nghiên cứu, phân định mục tiêu và ràng buộc.
Hoạch định lựa chọn các phương án thế vị chủ yếu
Phân tích động thái hệ kênh tổng thể .
Người
tiêu
dùng
cuối
cùng
Công Ty thương
mại bán lẻ
Công Ty thương
mại bán buôn
Đại lý
bán lẻ
Đại lý
bán
buôn
Công Ty
thương
mại bán
Nhà phân
phối công
nghiệp
Công
ty
sản
xuất
Công Ty thương mại
bán lẻ
21
Biểu Hình 5: Quy trình quyết định tổ chức kênh phân phối .
Từ việc tổ chức kênh phân phối , bây giờ nó phải vận hành và quản trị kênh
đã lựa chọn. Việc quản trị kênh đòi hỏi sự lựa chọn và kích thích từng thành
viên và đánh giá hoạt động của họ theo thời gian.
+Tuyển chọn thành viên của kênh.
+Kích thích các thành viên của kênh.
+Đáh giá các thành viên của kênh.
+Điều chỉnh các quyết định biến thể kênh mạng.
2.3.4- Chính sách xúc tiến hỗn hợp.(giao tiếp – khuyếch trương).
Khái niệm:
- Giao tiếp thương mại là một lĩnh vực hoạt động marketing đặc biệt và có
chủ đích đã được định hướng vào việc chào hàng, chiều khách và xác lập mối
quan hệ thuận lợi nhất giữa Công Ty và bạn hàng của nó với tập khách hàng
tiềm năng trọng điểm nhằm phối hợp chiển khai năng động chiến lược và
chương trình marketing - mix đã được lựa chọn của Công Ty .
- Khuyếch trương được hiểu là một hệ thống hoạt động nhằm mở rộng tư
duy, sự hiểu biết của khách hàng về những lợi ích , ưu thế trội và kích thích,
thu hút khách hàng tiềm năng, thành lập khách hàng hiện thực và đẩy mạnh
hiệu lực bán hàng, tăng cường trách nhiệm và tín nhiệm về hình ảnh thương
mại của Công Ty trên thị trường mục tiêu.
- Ở lĩnh vực kinh doanh, các Công Ty rất chú trọng tới giao tiếp khuyếch
trương, những công cụ làm kích thích khả năng tiêu thụ và giành giật nhà tiêu
dùng đến với nhà sản xuất. Ngoài ra hoạt động này còn đẩy mạnh mối quan hệ
22
với các tổ chức liên quan tới hoạt động mua bán của Công Ty nhằm thúc đẩy
hàng hoá bán ra trên thương trường. Để khách hàng mua buôn và người mua
hàng, các Công Ty đã sử dụng nhiều hình thức và phương tiên quảng cáo phù
hợp với mặt hàng vào thời điểm thích hợp, cụ thể là:
Thông qua các cửa hàng bán lẻ để quảng cáo, giới thiệu các mặt hàng đã
và kinh doanh, một hình thức được tiến hành thường xuyên.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG VÀ VIỆC TỔ CHỨC, VẬN HÀNH CHIẾN LƯỢC
MARKETING HỖN HỢP NHẰM THÚC ĐẨY TIÊU THỤ MẶT HÀNG SĂM LỐP
TẠI CÔNG TY CAO SU AN DƯƠNG.
I-MỘT SỐ NÉT CHỦ YẾU VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY
CAO SU AN DƯƠNG.
1-Quá trình hình thành và phát triển của công ty cao su AN DƯƠNG
Công ty cao su AN DƯƠNG là công ty TNHH chuyên đắp, phục chế các
loại lốp ô tô, sản xuất các loại băng tải, cao su chịu dầu và các chi tiết kĩ thuật
bằng cao su.
Công ty cao su AN DƯƠNG được khởi công xây dựng vào năm 1989 tại
khu an dương, tiền thân của công ty cao su AN DƯƠNG là HTX- AN
DƯƠNG
Trải qua trên 10 năm phát triển,tuy gặp nhiều khó khăn thử thách trong
những năm đầu của công cuộc đổi mới song với sự quyết tâm nhất trí của toàn
thể cán bộ công nhân viên, công ty cao su AN DƯƠNG đã từng bước ổn định,
vượt qua khó khăn của giai đoạn đầu tiên hoà nhập nhanh chóng và đứng vững
23
trong cơ trế thị trường.Đến năy, công ty cao su AN DƯƠNG đã thực sự khẳng
định vị trí của mình, sản phẩm của công ty đã từng bước in sâu vào trong tâm
trí người tiêu dùng viết nam với chất lươngj đảm bảo, giá cả hợp lý.
Cùng với sự phát triển đi lên của cả nước trong công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo,công ty cao su AN DƯƠNG
đã trưởng thành và không ngừng lớn mạnh trong cơ chế mới. Trong những
năm vừa qua, doanh thu hàng năm của công ty đạt được trên một trăm tỷ đồng,
lợi nhuận hàng năm của công ty cũng tăng lên nhanh chóng, đời sống của cán
bộ, công nhân viên vì thế được nâng lên với mức lương bình quân hiện năy
hơn 1 triệu đồng/tháng/người. Sản phẩm của công ty hiện đang có mặt ở hơn
31 tỉnh thành trong cả nước thông qua hơn 100 đại lý phân phối và 3 chi nhánh
(Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố HCM) đảm bảo cung cấp đến tận tay người tiêu
dùng. Có dược thành tích đó là nhờ công ty có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật và
hơn 100 công nhân viên đoàn kết , gắn bó cùng nhau chia xẻ gánh vác mọi khó
khăn thử thách .
Dưới đây là một số chỉ tiêu phản ánh sự đi lên vững chắc của công ty cao su
AN DƯƠNG:
Năm
Chỉ tiêu
1998 1999 % so
với 98
2000 % so với
99
2001 % so với
2000
Giá trị tổng
sản lượng
18875 22950 121.6 66593 290 98389 147.7
Doanh thu 55464 69000 124.4 73247.5 106.1 115232 157.3
Nộp ngân sách 3187.5 3455 4215.5 6021.05
Lợi nhuận 601.5 1005 167 1080 107.5 1250 115.7
Lương bình
quân
679550 725183 106.7 950000 131 1200000 126.3
Sản phẩm chủ
yếu: lốp ôtô
15981 24727 154.7 36306.5 146.8 52273 143.9
Biểu hình 6: Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu
2-Chúc năng , nhiệm vụ của công ty cao su An Dương.
2.1.Chức năng:
Công ty cao su AN DƯƠNG được thành lập với những chức năng sau:
+ Sản xuất, kinh doanh các sản phẩm cao su.
+ Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mặt hàng săm lốp của các phương tiện như:
ô tô, xe cơ giới, máy khai thác…
+Nhập khẩu các loại nguyên vật liệu: Hoá chất cốt cao su cùng các
nguyên vật liệu trong nước để tái sản xuất lốp ô tô.
24
2.2.Nhiệm vụ.
+Thực hiện chế độ hạch toán độc lập nhằm sử dụng hợp lý lao động, tài
sản,vật tư, tiền vốn, đảm bảo hiệu quả cao trong kinh doanh, thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ đối với nhà nức, bảo toàn và phát triển.
+Chấp hành các chính sách, chế độ và biện pháp của nhà nước, thực hiện
đầy đủ các hợp đồng kinh tế với bạn hàng trong và ngoài nước .
+Nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới,lập
quy hoạch và tiến hành gây dựng nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật để sao cho
phù hợp với yêu cầu xây dựng và phát triển của doanh nghiệp, bảo vệ môi
trường và ngày càng nâng cao chất lượng thoả mãn tối đa nhu cầu và đa dạng
hoá các sản phẩm cao su.
+Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ công nhân viên, trẻ hoá đội ngũ đáp ứng
yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, thực hiện các chính sách, chế dộ tiền
lương, BHXH, an toàn và bảo vệ lao động đối với các bộ công nhân viên chức
và chế độ bồi dưỡng độc hại.
3. Cơ cấu tổ chức quản lý sản xuất của công ty cao su AN DƯƠNG:
Công ty cao su AN DƯƠNG là một doanh nghiệp TNHH với sự góp
vốn của ba thành viên, công ty thực hiện phương thức quả lý trực tuyến tham
mưu, tổng số cán bộ công nhân viên của công ty hiện nay là trên 260 người và
được phân bổ như sau:
Biểu hình 7: Sơ đồ tổ chức bộ máy Công ty Cao su An Dương
Trong đó với 300 công nhân viên sản xuất chính và 60 nhân viên phục vụ
cho công tác quản lý và tiêu thụ. Đứng đầu công ty là một giám đốc. Giúp việc
cho giám đốc là ba phó giám đốc: Phó giám đốc kỹ thuật, phó giám đốc sản
xuất, phó giám đốc kinh doanh.
Giám đốc Công ty
Phó GĐ kỹ thuật Phó GĐ sản xuất Phó GĐ kinh doanh
Phòng
kỹ thuật
cao su
Phòng
KCS
Xưởng
cao su
Phòng kế
hoạch
kinh
doanh
Phòng
TC- HC
25
Với một cơ sở vật chất kỹ thuật và một mạng lưới phân phối rộng khắp đã
giúp cho công ty không nhuững đứng vững trên thị trường mà còn phát triển
một cách ngày càng lớn mạnh.
4. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty qua các năm.
Năm
Chỉ số
1996 1997 1998 1999 2000 2001
Giá trị tổng sản
lượng
12415 17055 18875 22950 66593 98389
Tổng doanh thu
tiêu thụ
28356 50032 55464 69000 73247 115232
Nộp ngân sách 2204 3755 3187 3455 4215 6021
Thu nhập bình
quân (Đ/ng/th)
248.05 368.000 679550 725183 95000 1200000
Mức độ tăng
trưởng ( % )
10 22 15 9.3 16.3 11.1
Biểu hình 8: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doan của công ty
Cao Su An Dương (1996-2001)
Nhận xét:
Nhìn vào các chỉ tiêu cơ bản các hoạt động kinh doanh của công ty thật
đáng khích lệ. Nó phản ánh một sự tăng trưởng lành mạnh, ổn định và tiến bộ.
Công ty đã khẳng định được vị trí của mình: là một doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh có hiệu quả, có doanh thu và có các khoản nộp ngân sách cao, có nhịp
độ tăng trưởng ổn định năm sau cao hơn năm trước, thu nhập của người lao
động dần dần được nâng cao, đời sống luôn luôn được cải thiện.
II. THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG SĂM LỐP Ô TÔ Ở VIỆT NAM.
1.Quy mô và cơ cấu của thị trường :
Trong số các loại hình vận chuyển ở Việt Nam gồm đường bộ, đường
sắt, đường thuỷ và đường không thì vận tải đường bộ luôn chiến một vị trí
quan trọng, ngoài nhiệm vụ trực tiếp tham gia vận chuyển như các ngành vận
tải khác thì vận tải đường bộ còn là cầu nối, gắn kết giữa các ngành vận tải
với nhau. Tính ưu việt của vận tải đường bộ là cơ động, kịp thời, đáp ứng mọi
nhu cầu về vận tải hành khách và hàng hoá. Do vậy sản lượng vận tải đường
bộ chiếm tỷ trọng lớn so với toàn ngành, xấp xỉ 67,5% về tấn hàng hoá và
76% về lượt hành khách trong mấy năm vừa qua (tạp chí giao thông vận tải số
52), cụ thể năm 2000 vừa qua, khối lượng vận tải hành khách đạt tổng số
726.169.000 lượt hành khách, trong đó vận chuyển đường bộ là 581.511000
lượt hành khách, chiếm 80% so với toàn ngành và tăng 6,1% so với năm
1999. Khối lượng vận tải hàng hoá năm 2000 đạt 120.050.000 tấn hàng hoá,
26
trong đó vận chuyển đường bộ là 77.878.000 tấn, chiếm 65% và tăng 7,3% so
với năm 1999 (số liệu từ tạp chí con số và sự kiện).
Qua số liệu trên ta thấy nhu cầu vận tải đường bộ ở Việt Nam là rất lớn
và tăng lên qua các năm. Trong các loại phương tiện vận chuyển đường bộ thì
phương tiện chủ yếu, quan trọng nhất là ô tô, do đó cùng với sự gia tăng về
nhu cầu giao thông vận tải kéo theo sự gia tăng nhanh chóng về số phương
tiện vận tải đường bộ. Thập kỷ qua, ngành vận tải đường bộ đã không ngừng
phát triển về các mặt: Số lượng phương tiện, các thành phần kinh tế tham gia
vận tải và phạm vi hoạt động .
Như vậy, số lượng ô tô tại Việt Nam đã không ngừng tăng lên trong
những năm vừa qua cho thấy nhu cầu về saưm, lốp ô tô là rất lớn và tăng
nhanh.Quy mô cầu săm lốp ô tô phụ thuộc vào số lượng xe hiện có ở Việt
Nam,và số lần thay thế săm lốp trung bình hàng năm mỗi xe. Theo số liệu
thống kê tính đến tháng 12/1995 nước ta có 351000 xe ô tô các loại. Hàng
năm do nhu cầu vận chuyển tăng lên, lượng nhập khẩu ô tô vào Việt Nam
khá cao. Cụ thể năm 1997 là 28.433 chiếc, năm 1998 là 19.499 chiếc ….Bên
cạnh đó một số liên doanh sản xuất lắp ráp ô tô tại Việt Nam được thành lập
và đi vào hoạt động hàng năm đã cung cấp ra thị trường hàng chục ngàn xe ô
tô các loại, số lượng đầu xe vì thế hàng năm đã tăng với số lượng khá
lớn.Tính đến tháng 12/2000, cả nước ta có khoảng 46.235 xe ô tôcác loại,
tăng 95.235 xe tương ứng 27% so với năm 1997.
Săm lốp ô tô là bộ phận không thể thiếu được khi sử dụng xe ô tô và đó
là bộ phận có mức độ hao mòn, thời gian thay thế nhanh nhất trong tổng
thành xe ô tô. Nước ta là nước có khí hậu nhiệt đới nóng nực vào mùa hạ,
mưa nhiều vào mùa đông. Hệ thống cơ sở hạ tầng, đường xá giao thông, cầu
cống còn thấp kém, chưa hoàn thiện,vì thế mức độ hao mòn săm lốp giao
thông vận tải của các phương tiện giao thông đường bộ là khá cao, nhu cầu
thay thế săm lốp ô tô hang năm do đó cũng rất lớn. Trung bình mỗi bộ săm
lốp ô tô xe khách, xe tải chạy được 5-7 vạn Km, xe du lịch , xe hơi khoảng 4-
6 vạn Km phải thay thế. Thời gian thay thế lốp bình quân như vậy khoảng 2-
3 năm một lần. Một chiếc ô tô cần ít nhất 4 chiếc lốp, vậy mỗi năm một chiếc
ô tô cần khảng 4:2,5 =1,6 chiếc lốp thay thế . Tuy nhiên khi thay thế người ta
thường thay thế cả bộ săm lốp, trung bình cứ thay thế 1,5 chiếc lốp sẽ thay
thế một chiếc săm và như thế một xe ô tô một năm cần thay thế 1,6/1,5 =1,07
chiếc săm ô tô.
Qua phân tích ta thấy nhu cầu hàng năm về lốp ôtô khoảng 1,6 số đầu xe
ô tô sử dụng và nhu cầu về săm khoảng 1,07 số đầu xe ô tô. Năm 2000 cả
nứơc ta có khoảng 446.235 xe ô tô, nhu cầu về lốp sẽ là:
1,6* 446.235 = 713.976 lốp ô tô.
Nhu cầu về săm là 1,07 * 446.235 = 477471 săm ô tô /năm.
Năm 2000 nước ta nhập khẩu khoảng 19.499 chiếc ô tô, sản xuất lắp ráp
trong nước khá cao, khoảng 20.000 xe ô tô các loại. số lượng phương tiện xe
ô tô mấy năm qua được biểu diễn qua biểu sau:
27
(theo tạp chí số liệu và sự kiện năm 2000 )
Biểu hình 10: Số lượng xe ôtô ở Việt nam qua các năm
0
100000
200000
300000
400000
500000
1997 1998 1999 2000
Sau đây là biểu nhu cầu về săm lốp ôtô qua các năm:
0
100000
200000
300000
400000
500000
600000
700000
800000
1997 1998 1999 2000
Biểu hình 11: Nhu cầu săm lốp ôtô qua các năm
Như vậy đến nay cả nước ta có khoảng gần 500.000 xe ô tô các loại với nhu
cầu săm lốp ô tô gần 800.000 lốp mỗi năm, hơn 500.000 săm mỗi năm. Số đầu
28
xe hàng năm đều tăng lên kéo theo nhu cầu về săm lốp ô tô cũng tăng lên
nhanh chóng. Ô tô là loại hàng hoá có giá trị cao thường được sử dụng trong
các doanh nghiệp, các tổ chức phục vụ nhu cầu vận tải hàng hoá, hành khách
trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vì vậy số đầu xe tập trung ở
các tổ chức, các doanh nghiệp và được coi là các tư liệu sản xuất . Săm lốp ô tô
là loại hàng hoá bổ sung, cần thiết cho sử dụng ô tô. Vì vậy săm lốp ôtô trở
thành sản phẩm thiết yếu đối với các tổ chức, các doanh nghiệp trong hoạt
động của mình .Trong tổng số đầu xe lưu hành cả nước thì các khu vực công
nghiệp phát triển, các trung tâm và khu tập trung nhiều nhà máy, xí nghiệp
chiếm tỷ lệ lớn về đầu xe ôtô do nhu cầu vận chuyển hàng hoá, hành khách cao
và đường xá, giao thông thuận tiện hơn.Các khu vực nông thôn miền núi do
đường xá không thuận tiện, điều kiện giao thông khó khăn ,sản xuất không tập
trung nên nhu cầu vận tải ít, nhỏ bé. Vì thế phương tiện vận tải chủ yếu là các
loại xe thồ, xe cải tiến, xe công nông, máy kéo và các loại xe tải nhỏ phù hợp
địa hình, số đầu xe ôtô vì vậy mà chiếm tỷ lệ ít.
Trong tổng số 446.235 xe ôtô(năm 2000) có 115.694 xe tham gia kinh
doanh vận tải chiếm 26% .Trong đó có 70.018 xe tải chiếm 60,5% và 45.676
xe khách chiếm 39,5% số lượng xe tham gia kinh doanh vận tải.
Trong tổng số đầu xe trong cả nước lực lượng tham gia vận tải kinh
doanh chiếm 26% được tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh chiếm 89,5% số đầu xe tham gia kinh doanh .Số đầu xe tham gia kinh
doanh vận tải giao thông vận chuyển với cường độ cao ,mức độ sử dụng tối đa
và đi lại với quãng đường dài qua nhiều địa hình khác nhau ,vì vậy mức độ hao
mòn săm lốp ôtô lớn hơn và thời gian thay thế săm lốp mới nhanh hơn so với
lực lượng vận tải không tham gia kinh doanh .Với mức độ hao mòn nhanh, thơì
gian thay thế săm lốp mới ngắn hơn nhu cầu săm lốp mới mỗi năm của mỗi xe
tham gia kinh doanh vận tải lớn hơn và tổng số 115.694 xe, chiếm 26% tổng số
đầu xe trong cả nước sẽ có nhu cầu vào khoảng 35% tổng số săm lốp tiêu dùng
hàng năm. Số xe trong các doanh nghiệp tổ chức không kinh doanh vận tải là
7,4% sẽ chiếm 65% nhu cầu săm lốp ôtô do số lần thay thế trung bình một năm
ít hơn.
Việc nghiên cứu phân tích cơ cấu thị trường theo khu vực , theo lĩnh vực
hoạt động và loại hình kinh doanh cho phép công ty có thể sử dụng các biện
pháp marketing có hiệu quả đối với từng khu vực thị trường, có cách tiếp cận
phù hợp với các doanh nghiệp,tổ chức có nhu cầu săm lốp ôtô lớn cũng như có
các biện pháp tổ chức lực lượng phân phối hiệu quả nhất và lựa chọn phương
tiện quảng cáo, truyền thông thích hợp. Bên cạnh đó cho phép công ty có thể
hiểu rõ hơn cơ cấu thị trường hiện tại để có phương án sản xuất ,kết cấu sản
phẩm tối ưu nhất.
2.Thực trạng nguồn cung ứng trên thị trường:
29
Thị trường săm lốp ôtô tại Việt nam hiện nay có khoảng gần 30 nhãn
hiệu săm lốp ôtô khác nhau với hàng trục chủng loại đến từ nhiều nhà cung cấp
khác nhau, song chủ yếu từ hai nguồn :
Nguồn trong nước:
Việt nam có 3 công ty sản xuất săm lốp ôtô trực thuộc Tổng công ty hoá
chất Việt nam, đó là : Công ty cao su Sao vàng, Công ty cao su Đà nẵng, Công
ty cao Miền nam. Ngoài ra còn có các cơ sở sản xuất săm lốp ôtô ở các địa
phương như: cao su An Dương,....Năng lực sản xuất trong nước hiện nay chỉ
đáp ứng được gần 30% nhu cầu về săm lốp ôtô với sản lượng năm 2000 đạt
135.000 bộ săm lốp, năm 2001 đạt 200.000 bộ tăng 48% so với năm 2000.Như
vậy năng lực sản xuất trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu, mức sản xuất toàn
ngành phụ thuộc vào công suất sản xuất săm lốp của mỗi công ty.Cụt hể như
sau:
+Công ty cao su Sao vàng là doanh nghiệp quốc doanh sản xuất các sản
phẩm cao su lâu đời nhất và là công ty có công suất sản xuất săm lốp lớn nhất
tại Việt nam.Công ty hàng năm cung cấp ra thị trường trên 50% sản lượng săm
lốp sản xuất trong nước với mức sản lượng hiện nay là 120.000 bộ.
+Công ty cao su Đà nẵng là công ty đứng thứ hai tại Việt nam về sản xuất
và cung ứng sản phẩm săm lốp ôtô với công suất hiện nay khoảng 100.000 bộ
mỗi năm.Sắp tới công ty này có kế hoạch nâng tổng công suất lên 200.000 bộ
mỗi năm và đã được Bộ kế hoạch đầu tư phê duyệt với số vốn là 357 tỉ
đồng.Tuy nhiên do đầu tư trước đây nhiều lần không đồng bộ nên chất lượng
sản phẩm chỉ đạt 85-90% so với hàng nhập ngoại.
+Công ty cao su Miền nam : sản phẩm săm lốp ôtô của công ty chủ yếu là
các loại cỡ nhỏ như: xe tải nhỏ ,xe nông nghiệp với công suất khoảng hơn
10.000 bộ mỗi năm.
Ngoài ba công ty lớn trên còn có một số liên doanh cua nước ngoài với các
công ty trong nước hàng năm cũng cung ứng ra thị trường một lượng đáng kể
sản phẩm săm lốp ôtô.
Nguồn nhập ngoại:
Săm lốp ôtô được nhập khẩu từ nước ngoài vào Việt nam với các nguồn
chủ yếu sau:
+Nhật bản : săm lốp ôtô nhập khẩu từ các hãng nổi tiếng của Nhật bản
chiếm tới gần 40% săm lốp trên thì trường với các hãng như: Bridge, Dumlop,
Falken...
+Ấn độ, Trung quốc : ngoài các nhãn hiệu lốp nhật thì nhãn hiệu lốp
ngoại được sử dụng phổ biến là ấn độ ,Trung quốc với giá rẻ hơn lốp Nhật
nhưng chất lượng kém hơn, được sử dụng chủ yếu cho các loại xe khách ,xe tải
với các hãng như : BT-Bila, Jet-Track của Ấn độ,Dongfeng, Marrios... của
Trung quốc. Các loại săm lốp của ấn độ trung quốc hiện nay chiếm khoảng
15% nguồn cung ứng săm lốp trên thị trường.
+Pháp, Mỹ, Đức : những loại săm lốp nhập khẩu từ các quốc gia này là
những mặt hàng chất lượng cao giá rất đắt được ưa chuộng với các loại xe
30
hơi,xe du lích song ưu thế không bằng Nhật với số lượng chiếm khoảng 10%
săm lốp ôtô cung ứng hàng năm trên thị trường từ các hãng như: Michelin của
Pháp, Apollo Good year của Mỹ.
+Những loại khác được nhập vào Việt nam từ các nguồn như Thái lan,
Hàn quốc, Nga ...chiếm khoảng 20% săm lốp cung ứng hàng năm.
III-PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH TỔ CHỨC ,THỰC HIỆN CHIẾN
LƯỢC MARKETING HỖN HỢP NHẰM TIÊU THỤ MẶT HÀNG SĂM LỐP TẠI
CÔNG TY CAO SU AN DƯƠNG:
1-Chính sách sản phẩm :
Việt nam là một quốc gia ma phương tiện giao thông hiện nay chủ yếu là
xe đạp , xe máy và một phần ôtô cho nên nhu cầu về mặt hàng săm lốp là rất
lớn .Ở Việt nam theo thống kê năm 1995 có khoảng 20 triệu chiếc xe đạp ,3,5
triệu xe máy và 35.000 ôtô, nhưng đến nay tỉ lệ này đã tăng lên rất cao. Như
vậy nhu cầu về mặt hàng săm lốp là rất lớn.
Công ty cao su An Dương là một doanh nghiệp chuyên sản xuất ,phục
chế các loại lốp ôtô và xe khai thác mỏ với quy trình công nghệ sản xuất và
hơn 10 năm hoạt động, cho nên đến nay thị trường tiêu thụ sản phẩm của công
ty đã trải rộng khắp từ Bắc đến Nam, Công ty đã đặt thêm hai chi nhánh đại
diện của mình là ở Đà nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.Như vậy thị trường
tiêu thụ của công ty là rất lớn.
Biểu hình 13: Tình hình tiêu tụ năm 2000-2001
Mặt hàng Đơn vị tính 2000 2001 Tốc độ tăng trưởng
Săm lốp ôtô 1000 bộ 47.4 74.5 157.1
Qua quá trình tiêu thụ trong hai năm trên ,chúng ta có thể nhận thấy sự tăng
trưởng và phát triển của công ty năm 2001/2000 là 157.1% .Các sản phẩm của
công ty ngày càng có uy tín trên thị trường và nhu cầu của người tiêu dùng đối
với sản phẩm của công ty là rất lớn.Mặc dù vậy công ty vẫn rất coi trọng yếu
tố sản phẩm , coi sản phẩm là vũ khí sắc bén nhất trong cạnh tranh ,vừa qua
công ty đã nhập mới một số dây chuyền công nghệ của Nhật , Đài loan,Trung
quốc để phục chế lốp ôtô và xe khai thác mỏ,do vậy sản phẩm của công ty
ngày càng có chất lượng cao.Các sản phẩm chất lượng cao chính là lợi thế
cạnh tranh trên thị trường .Ngoài ra công ty còn tăng cường đa dạng hoá sản
phẩm , đủ kích cỡ màu sắc dể qua đó thoả mãn nhu cầu của khách hàng ,đồng
thời không tạo kẽ hở để các dối thủ cạnh tranh khác len vào.Qua đó thị phần
của công ty ngày càng cao: để làm được điều này trước hàng nhập ngoại và các
công ty cao su trong nước như : Sao vàng, Đà nẵng, Miền nam và các doanh
nghiệp địa phương khác đòi hỏi công ty phải luôn quan tâm tới chất lượng sản
phẩm cũng như các dịch vụ bảo hành sau bán.
31
Nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thị trường, đòi hỏi công ty phải không
ngừng khai thác nguồn hàng ,nhập các nguyên vật liệu(Như mủ cao su ,cốt cao
su ,dầu mỏ...) ở trong nước và các nguyên vật liệu (như : tanh, mành....) ở nước
ngoài. Mở rộng và nâng cao các mặt hàng kinh doanh chính đồng thời tổ chức
phân phối hàng hoá cho kịp thời .
Để có thể định hướng và tổ chức các sản phẩm chia theo cấp độ theo nhu
cầu. Công ty phải đánh giá và nghiên cứu chu kỳ sống của từng loại sản phẩm
để từ đó mà công ty đưa ra hướng sản xuất kinh doanh tương ứng. Bởi vì các
sản phẩm thương tiêu thụ theo các thời kỳ khác nhau đối với từng loại ,chẳng
hạn trong thời gian tết thì các sản phẩm săm lốp ôtô cỡ nhỏ thường tiêu thụ
mạnh, còn mùa hè hoặc giữa năm thì các sản phẩm lốp ôtô phục vụ cho công
việc vận chuyển và khai thác tiêu thụ mạnh.
Biểu hình 14: Một số mặt hàng lốp ôtô của công ty
STT Tên sản phẩm
1 Lốp xe tuốt lúa
2 Lốp 600-12 bông sen
3 Lốp 900-20
4 Lốp 840-15
5 Lốp 1000-20
6 Lốp 1200-20
7 Các loại khác
Sản phẩm của công ty trước kia có nhược điểnm là mẫu mã kém ,độ chuẩn
của sản phẩm chưa cao. Hiện nay các sản phẩm của công ty ngày càng có độ
chuẩn cao và mẫu mã đẹp, bao bì sản phẩm cũng được công ty chú ý, nó vừa
gây ra sức thu hút khách hàng và luôn luôn đi liền với hàng hoá để bảo quản
bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình vận động của hàng hoá .Ngoài
ra nó còn là hình ảnh thu nhỏ của công ty dưới con mắt người tiêu dùng. Mặc
dù công ty đa dạng hoá sản phẩm nhưng không vì thế mà công ty lại không chú
ý tới sản phẩm chủ yếu có mức tiêu thụ cao như sản phẩm săm lốp ôtô.
Biểu hình 15: Bảng tổng kết 12 tháng năm 2001
Sản phẩm Đơn
vị tính
Kế hoạch
năm
Sản xuất Tiêu thụ % chênh lệch
(thực tế/kế hoạch)
Lốp ôtô các loại Chiếc 55.000 61.500 62.500 1,36
Qua bảng tổng kết ta thấy các sản phẩm săm lốp ôtô của công ty có mức
tiêu thụ lớn so với kế hoạch và với sản xuất ,các sản phẩm săm lốp của công ty
bán rất chạy. Gần như không có sản phẩm ứ đọng,sản xuất tới đâu tiêu thụ tới
đó. Hàng tồn lại gần như là các sản phẩm bị lỗi, đây đã khẳng định hướng kinh
doanh đúng đắn của công ty đó là :
- Hàng năm đưa ra dự đoán và các kế hoạch tiêu thụ hàng hoá .
32
- Nhà máy sản xuất theo nhu cầu định mức. Do vậy hàng tồn kho ít nên có
thể giải quyết ngay ở kỳ sau.
Mặt hàng ứ đọng của công ty chỉ có pin R-20. Vì đây là mặt hàng mà trên
thị trường có sự cạnh tranh rất lớn. Hơn nữa ở mặt hàng này sự khác biệt về
giá cả là không đáng kể nên các sản phẩm sản xuất ra còn ứ đọng. Mặt khác về
mẫu mã thì các mặt hàng cạnh tranh khác có mẫu mã đẹp hơn, dùng bền và lâu
hơn.
Qua nghiên cứu thực tế tại công ty cao su An Dương, tôi thấy Công ty đã áp
dụng chính sách sản phẩm theo hướng sau:
- Giữ vững và duy trì mặt hàng truyền thống của công ty như lốp ôtô các loại.
- Luôn luôn đảm bảo chất lượng tiêu chuẩn với những mặt hàng trên nhằm
giữ uy tín cho sản phẩm cũng như uy tín đối với khách hàng.
- Đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh các mặt hàng khác như: ống cao su
các loại, joăng cao su, phụ tùng mắy và các sản phẩm cơ khí theo đơn đặt
hàng của khách hàng... Ngoài ra còn chú trọng nghiên cứu sản xuất một số
sản phẩm cao cấp khác để thoả mãn nhu cầu trong nước.
2.Chính sách giá cả .
Gia cả là một yếu tố cơ bản, là một trong bốn yếu tố quan trọng trong
marketing-mix, nó đóng vai trò quyết định trong việc mua hàng này hay hàng
khác đối với người tiêu dùng. Giá cả có một vị trí đặc biệt quan trọng trong
quá trình tái sản xuất vì nó là khâu cuối cùng và thể hiện kết quả của các khâu
khác.
Mặc dù nhìn chung trên thị trường lốp. Giá cảc của công ty có lợi thế nhưng
giờ đây cạnh tranh về giá cả đã nhường vị trí hàng đầu cho cạnh tranh về chất
lượng và thời gian, điều kiện giao hàng. Tuy nhiên , nhiều lúc, nhiều nơi và
trên lĩnh vực cạnh tranh giá cả vẫn là vấn đề nổi cộm, giá cả có liên quan trực
tiếp đến lợi nhuận của công ty vì vậy việc nghiên cứu và định giá cho một sản
phẩm cần phải tính toán hết sức cẩn thận trên cơ sở sản phẩm và thị
trường.(nhu cầu thị trường, giá của đối thủ cạnh tranh...), những quyết định
này được thiết kế để đạt được những mục tiêu(khối lượng bán, doanh thu, lợi
nhuận...) trong một kế hoạch marketing tổng thể. Cái triết lý "cứ rẻ thì người ta
mua" không phải bao giờ cũng đúng, nhất là đối với sản phẩm mới. Với giá
ban đầu thấp, cho phép công ty thâm nhập dễ dàng vào thị trườngvà doanh số
tăng lên. Nếu giá ban đầu đặt cao thì chỉ được lãi trên một đơn vị cao nhưng
khối lượng bán không lớn, đối tượng mua hẹp và kết quả là doanh số thấp.
Việc thiết lập một chính sách giá phù hợp làm cho sản phẩm hấp dẫn,
thu hút được khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho kênh phân phối mà công
ty cụ thể là xác định vùng và biên độ giá của từng sản phẩm , các điều kiện bán
và chính sách cước phí. Nắm bắt được những điều kiện trên, trong những năm
qua, công ty cau su An Dương đã sử dụng một chính sách định giá trên cơ sở :
chi phí bình quân + lãi. Với phương pháp này sẽ tạo được lợi thế trong cạnh
tranh. Như đối với lốp ôtô loại 500 - 10 TL(tuốt lúa) giá của công ty là 600.000
33
đ/chiếc, trong khi giá của công ty cao su sao vàng là 650.000 đ/chiếc. Điều này
đã tạo cho người tiêu dùng tâm lý mất ít tiền mà lại mua được lốp xe có chất
lượng và độ chuẩn cao (gần tương đương với chất lượng ngoại) thì vẫn hơn.
Mặt khác giá cả này cũng phù hợp với người dân Việt Nam.
Biểu Hình 16: Bảng giá lốp ôtô của công ty cao su An Dương.
Stt Quy cách Giá bán buôn Giá bán lẻ
1 500-10(tuốt lúa) 84.000 89.000
2 600-12(TL) 90.000 96.000
3 600-12(bông sen) 188.000 195.000
4 500-12(tải nhẹ) 187.000 194.000
5 650-16(TN) 465.000 472.000
6 700-16(du lịch) 599.000 605.000
7 735-14(DL) 455.000 460.000
8 900-20 1.185.000 1.198.000
9 1000-20 1.372.000 1.389.000
10 1100-20 1.634.000 1.652.000
11 1200-20 1.778.000 1.795.000
12 750-16(DL) 688.000 697.000
13 825-20 964.000 970.000
Nhìn vào bảng giá cho thấy, công ty đã có một chính sách giá linh hoạt, phù
hợp với mục tiêu phát triển của thị trường của công ty .
Còn đối với giá bán buôn, công ty thực hiện trên cơ sở giá bán của công
ty cộng với mua nhiều giảm giá.
Còn đối với các đại lý ở gần thì công ty sẽ vận chuyển giao hàng tại chỗ
trên cơ sở giá bán lẻ cộng vơí mua nhiều giảm giá.
Đối với các đại lý ở xa thì có thể công ty vận chuyển vào ,nếu khách
hàng tự vận chuyển thì công ty sẽ chi phí hỗ trợ vận chuyển .
ngoài ra công ty còn thực hiện chính sách đặt giá theo vùng ,tức là đặt giá tại
vùng tiêu thụ trên cơ sở mặt bằng thị trường .
Như vậy công ty có thể quản lý giá cả các mặt hàng từ xa trên cơ sở giá
bán tại công ty .Không gây nên tình trạng con buôn ,đại lý lợi dụng uy tín của
công ty để nâng giá bán với người tiêu dùng .Qua đó giá cả của các mặt hàng
sản phẩm tại công ty ổn định, gây tâm lý tốt tới khách hàng và các đại lý của
công ty .
Do các sản phẩm của công ty có sức tiêu thụ lớn vượt thậm chí vượt cả
sản xuất .Cho nên công ty thực hiện chính sách "Bán đến đâu thanh toán đến
đó "hoặc công ty có thể thực hiện chính sách giá linh hoạt "cung cấp hàng
trước khi nhập hàng mới thì thanh toán hàng cũ". Như vậy công ty mới có
nguồn vốn để tiếp tục sản xuất kinh doanh, luôn đảm bảo cung cấp đầy đủ sản
phẩm tới tay người tiêu dùng cũng như cung cấp hàng hoá tới các đại lý.Với
34
phương pháp này đã giúp công ty tiếp cận được người tiêu dùng và mở rộng thị
trường của công ty .
Tóm lai: Qua thực tế của công ty chúng ta thấy : mặc dù các sản phẩm lốp
của công ty còn có chất lượng và độ chuẩn thua kém một số công ty lớn trong
nước và nước ngoài nhưng ngược lại ,công ty lại có lợi thế về giá đối với các
sản phẩm săm lốp ôtô, nó lại phù hợp với chi phí và chất lượngcủa các sản
phẩm cùng với uy tín của sản phẩm trên thị trường (chất lượngvà độ chuẩn gần
tương đương với các sản phấm cùng loại trên thị trường ).
Mặt khác nếu sản phẩm nào bị lỗi do sản xuất ,công ty sãn sàng nhận trả lại
hoặc giảm giá thành (nếu khách hàng yêu cầu), các sản phẩm của công ty được
người tiêu dùng đánh giá là chất lượng đảm bảo và mức giá hợp lý. Do đó với
một mức giá như ở trên đã giúp công ty có ưu thế trên cạnh tranh và dẫn đến
các sản phẩm của công ty có sức tiêu thụ rất lớn.
3-Phân phối hàng hoá của Công ty (Chính sách phân phối)
Phân phối là các hoạt đông có liên quan đến việc tổ chức diều hành và
vận chuyển các hàng hoá , dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng nhằm
đạt hiệu quả tối đa với các phí tổn tối thiểu .
Thực tế cho thấy hàng hoá dù tốt hay rẻ mấy cũng khó có thể tiêu thụ
nhanh nếu không biết cách tổ chức một chính sách phân phối phù hợp .Vì vậy
đối với một công ty để thực hiện việc phân phối nào là phù hợp ,có hiệu quả
nhất với điều kiện và khả năng của công ty Cao su An Dương đang là một
thách thức .
Chính sách phân phối luôn gắn liền với đối tượng khách hàng ,vì vậy
việc xác định dặc diểm khách hàng là rất cần thiết.
Đặc diểm của khách hàng :đối tượng khách hàng của sản phẩm săm lốp
là rất lớn và rất da dạng.Các khách hàng có thể là người tiêu thụ công nghiệp ,
hộ gia đình , cá nhân người tiêu dùng, tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh...
Tóm lại là tất cả các đối tượngcó thể sử dụng các phương tiện giao thông
thuộc tất cả các thành phần kinh tế, khách hàng có mặt ở mọi miền trên đất
nước.Nhưng thị trường mục tiêu của công ty vẫn là các thành phố lớn, những
nơi đông dân cư, những tỉnh thành có ngành công nghiệp khai thác như: Quảng
Ninh, Hải Phòng... đặc biệt là đối tượng, tổ chức sửt dụng xe cơ giới. Mặt
khác do đặc điểm của mặt hàng săm lốp phục vụ cho rất nhiều người ,nhiều dối
tượng ở các khu vực ,các vùng khác nhau.Cho nên công ty phải xây dựng các
trung gian ,chi nhánh , đại lý ở nhiều nơi, xây dựng các cửa hàng phục vụ
thuận tiện cho khách hàng và phù hợp với đặc tính tiêu dùng của khách hàng.
*Chính sách phân phối sản phẩm của công ty :
Trong nền kinh tế thị trường một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
trong kinh doanh thì doanh nghiệp phải thực hiện khâu tiêu thụ sản phẩm
Muốn vậy thì doanh nghiệp cần phải sử dụng nhiều hình thức bán hàng .Trên
thực tế tạ Công ty cao su An Dương đã sử dụng các biện pháp bán hàng sau:
+Bán lẻ
35
+Bán buôn
+Bán qua khâu trung gian (Các chi nhánh ,đại lý)
Bán lẻ:
Đây là hình thức bán trực tiếp cho người tiêu dùng với khối lượng nhỏ
đơn chiếc. Hiện naycác sản phẩm của công ty được bán lẻ qua Phòng Thương
mại của công ty và các cửa hàng bán lẻ của công ty. Ngoài ra ở các điểm mà
công ty dặt Phòng Thương mại hoặc các cửa hàng bán lẻ giải khắp cả nước.
Sau hơn 10 năm phát triển ,công ty đã có một hệ thống bán hàng phát
triển nhanh chóng,hệ thống bán hay các cửa hàng bán sản phẩm săm lốp ôtô
không những phù hợp với cơ chế thị trường, với đặc điểm sản phẩm mà còn
mang lại sự thuận tiện cho khách hàng .
Doanh thu bàn hàng của công ty năm 1995 đạt 500.032.500.000 và cho
đến nay đạt 115.232.330.000 đồng.
Ngoài ra công ty cũng trực tiếp bán lẻ các sản phẩm của mình ,hình thức
bán hàng này có ưu điểm là:hàng hóa đến trực tiếp tới tay người tiêu dùng. Do
đó qua các đại lý, người tiêu dùng công ty nắm bắt được thông tin về thị
trường, từ đó có biện pháp, chính sách đúng đắn để đáp ứng kịp thời thị hiếu
người tiêu dùng và đây mạnh khối lượng bán ra.
Tuy nhiên hình thức bàn hàng trực tiếp này chỉ là hình thức phụ thêm vì nó
có nhược điểm là đòi hỏi phải có lực lượng bán hàng đông mà công ty khó có
thể thực hiện được, vả lại nếu thực hiện được thì hiệu quả không cao.
Bán buôn:
Đây là hình thức có vai trò quan trọng trên thị trường và trong kênh phân
phối. Mức độ tập trung(quy mô) của người bán buôn cao.Các nhà bán buôn
thường có thị trường ,vốn và phương tiện kinh doanh nhiều.
Khách hàng của công ty dưới hình thưc nàylà người tiêu dùng công nghiệp như
các cơ sở sản xuất sửa chữa ôtô...công ty đã và đang khai thác thế mạnhcủa
người bán buôn.Để đẩy mạnh việc này, công ty đã thưc hiện một số ưu đãi:
+Việc mua nhiều sản phẩm của công ty sẽ được giảm giá hoặc chiết khấu.
+Nếu ở gần, công ty sẽ vận chuyển trực tiếp tới tận nơi ,còn ở xa thì công ty sẽ
hỗ trợ trong việc vận chuyển.
Đây cũng là một hình thức để công ty nâng cao khả năng cạnh trạnh của mình
và tiêu thụ sản phẩm lốp ôtô nói riêng cũng như các sản phẩm khác của công
ty.
Bán hàng qua hệ thống đại lý, uỷ thác:
Do đặc điểm của mặ hàng săm lốp ôtô cùng đặc điểm tiêu dùng sản phẩm
công ty cần có một hệ thống lớn số lượng điểm bán. Nếu công ty trực tiếp tiền
hành việc này thì sẽ rất tốn kém về thời gian ,tiền bạc và sức người ....mà hiệu
quả lại không cao. Vì vậy công ty chọn hình thức bán hàng qua đại lý uỷ thác
là hình thức bàn hàng chủ yếu.Phòng Kinh doanh của công ty được thành lập
ngay từ những ngày đầu hoạt dộng để thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm của
công ty trên thị trường . Nhiệm vụ cụ thể là:
36
+Xây dựng hệthống đại lý- uỷ thác.
+Tiêu thụ sản phẩm qua các kênh phân phối và nhận những thông tin phản
hồi.
+Thực hiện ký kết các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm
+Quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng
+Lập kế hoạch sản xuất kinh doanh
+Cung ứng vật tư, đảm bảo cho sản xuất phù hợp với điều kiện kinh tế thị
trường hiện nay.
Với nhiệm vụ đó, Phòng Kinh doanh tiến hành xây dựng hệ thống đại lý,uỷ
thác trên cơ sở xem xét các điểm sau:
Khả năng hoạt động đại lý trên một địa phận cụ thể .
Đại lý có nhân viên cần thiết với kinh nghiệm và hiểu biết về sản phẩm
cũng như khả năng để bàn hàng trên thị trường .
Danh tiếng bàn hàng của đại lý.
Ngoài ra công ty còn bán hàng thông qua các điểm sửa chữa ôtô là nơi tập
trung htợ sửa xe . Họ là những ngưòi biết rõ về sản phẩm săm lốp trên thị
trường và có thể đánh giá chất lượng và giá cả một cách đúng đắn thông qua sử
dụng thử. Đồng thời họ cũng là người đưa ra những lời khuyên quyết định cho
khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm săm lốp của công ty .
Đồng thời công ty luôn đi sát với các đại lý để kịp thời lắm bắt thị hiếu
,nhuy cầu của người tiêu dùng và các đại lý ; thu thập các thông tin thị trường
tư vấn cho các đại lý,uỷ thác để đẩy mạnh việc bản ra ,cho nên các đại lý hoạt
động tương đối ổn định.
Cho đến nay ,công ty đã có đại lý ở khắp cả nước và trong kế hoạch phát
triển năm 2002 công ty sẽ phát triển thêm một số đại lý uỷ quyền tại Đà nẵng.
*Kênh phân phối :
Do đặc điểm sản phẩm săm lốp ôtô cả công ty cho nên đến nay công ty cao
su An Dương có rất nhiều chi nhánh, đại lý như: Chi nhánh cao su tại Thành
Phố Hồ CHí Minh, Chi nhánh cao su tại Đà nẵng...từ các chi nhánh đó có vai
trò chắp nối các tổng đại lý,dại lý.
Trên thực tế công ty có hệ thống phân phối như sau:(Biểu hình 17)
Mặt khác công ty cũng dã thiết lập mạng lưới phân phối đầy đủ giữa các cửa
hàng trong mỗi khu vực thị trường ,thoả mãn kịp thời nhu cầu kinh doanh .Nhờ
thiết lập mạng lưới phân phối đúng đắn ,tính bình quân trong năm 2001 số
lượng sản phẩm săm lốp ôtô và mốt số sản phẩm khác bàn cho khách hàng là
người tiêu dùng cuối cùng chiếm 605%, còn lại là khách hàng hàng mua buôn
và các đại lý lớn.Qua đó ta thấy việc thiế t lập mạng lưới phân phối sẽ đem lại
kết quả khả quan và hiệu quả trong việc kinh doanh của công ty .
Biểu hình 17: Hệ thống kênh phân phối của công ty cao su An Dương
Công
ty
cao
Chi nhánh Tổng đại lý Đại lý
Tổng đại lý Đại lý
Người
tiêu
dùng
ố
37
Qua phân tích hệ thống kênh phân phối cho thấy công ty cao su An
Dương đã thực hiên chính sách phân phối không hạn trế, công ty phân phối
toàn bộ sản phẩm của mình và vận chuyển bằng các loại phương tiện. Với
chính sách này, công ty đã sư dụng nhiều loại kênh phân phối với mức đôn
phân phối rộng. Nhưng chủ yếu công ty sử dụng kênh phân phối từ công ty đến
đậi lý, vì như vậy , công ty vừa tận dụng được thời gian, sản phẩm tới tay
người tiêu dùng nhanh hơn và qua đó nắm được thông tin một cách chính xác
hơn.
Nhờ vậy sản phẩm của công ty đã phân phối rộng rãi khắp trên thị
trường, tạo điều kiện cho công ty mở rộng và thâm nhập vào thị trường gây
ảnh hưởng đến toàn bộ mọi khu vực thị trường thoả mãn tối đa nhu cầu tiêu
dùng trên thị trường và đạt đến mục đích cuối cùng là thu được lợi nhuận tối
đa.
4. Quảng cáo và xúc tiến bán( xúc tiến hỗn hợp)
4.1 .Quảng cáo thương mại .
Quảng cáo là việc sử dụng không gian và thời gian để truyền tin định
trước về sản phẩm , về công ty hay về thị trường cho khách hàng .
Trong nền kinh tế hiện nay, các kỹ thuật yểm trợ marketing đóng một
vai trò quan trọng, nó giúp cho công ty tạo ra và phát triển nhận thức, sự hiểu
biết và lòng ham muốn mua hàng của người tiêu dùng thông qua hoạt động
quảng cáo và xúc tiến bán . Quảng cáo là một mũi nhọn của cổ động, là hình
thức marketing chủ yếu để thu hút sự chú ý của khách hàng , thuyết phục họ về
những lợi ích, sự hấp của về sản phẩm nhằm thay đổi hoạc củng cố thái
độ,lòng tin tưởng của người tiêu dùng về sản phẩm của công ty và làm tăng
lòng ham muốn mua hàng của họ.
Ngoài ra quảng cáo còn là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho cạnh tranh và
cũng là bốn yếu tố quan trọng trong marketing hỗn hợp. Nắm bắt được tầm
quan trọng của hoạt động quảng cáo và hoạt động xúc tiến bán, công ty đã xây
dựng và sử dụng nhiều hình thức quảng cáo khác nhău như: Quảng cáo trên
truyền hình, báo chí, pano, áp phích, bằng tôn... ở các điểm bán hàng, cửa
hàng, các đại lý của công ty ở các địa thế phù hợp( các trục đường giao thông
38
chính, các điểm đỗ xe, khu vực đông dân cư....) Rồi phát phiếu thăm dò thị
trường, qua đó cũng quảng cáo luôn về công ty .
Ngoài ra qua hơn 10 năm sản xuất kinh doanh , công ty còn tiến hành
quảng cáo giới thiệu về công ty , về sản phẩm của mình thông qua các cuộc hội
thảo , hội nghị khách hàng , các hội chợ quảng cáo và các sản phẩm săm lốp
của công ty đã đạt được một số thành tích đáng khích lệ.
Hơn nữa trong hơn 10 năm qua, công ty đã đạt được rất nhiều thành tích
trong kinh doanh cũng như các khỏn nộp ngân sách và các hoạt động xã hội từ
thiện...Cho nên có rất nhiều bài báo, bài bình luận về công ty cũng như sự đánh
giá cao đối với các sản phẩm của công ty và đây cũng là hình thức quảng cáo
rất hay cho công ty .
Tuy nhiên do tần suất quảng cáo chưa lớn và sự tiếp súc vói người tiêu
dùng không nhiều dẫn đến hiệu quả quảng cáo công ty đạt được chưa cao. Mặc
dù biết việc sử dụng nhiều hình thức quảng cáo và nhiều số lần quảng cáo là
cần thiết nhưng công ty cũng hiểu điều quan trọng nhất để công việc sản xuất
kinh doanh được lâu dài là phải quảng cáo trung thực về chất lượng sản phẩm
và phải giữ uy tín với khách hàng .
4.2. Xúc tiến bán:
Bên cạnh hoạt động quảng cáo, công ty cũng đã thực hiện hoạt động xúc
tiến bán hàng một cách hợp lý, để tạo thuận lợi cho khách mua hàng. Công ty
cho phép khách hàng có thể thanh toán bằng tiền mặt, séc, chuyển khoản.
Công ty cũng có chế độ thưởng cho khách hàng có khối lượng mua lớn,
tăng sản phẩm , hỗ trợ các đại lý và các điểm bàn trong việc vận chuyển giao
hàng. Công ty cũng tổ chức tặng quà nhằm khuyến khích các đại lý có sức tiêu
thụ lớn, qua đó để các đại lý khác cố gắng thêm, như vậy sẽ gia tăng được khối
lượng tiêu thụ . Ngoài ra công ty đồng thời giúp cho các đại lý của mình xích
lại gần nhau, cùng trao đổi kinh nghiệm . những tồn tại của mình và hợp tác
với nhau trong tương lai. Công ty cũng tổ chức in ấn phát hành tài liệu của
công ty cũng như sản phẩm của công ty. Vừa qua công ty có in tài liệu về 10
năm thành lập và phát triển của công ty . Tổ chức tặng tài liệu cho khách hàng
. Người tiêu dùng và các bạn hàng lớn. Trong kế hoạch sắp tới,công ty sẽ tăng
cường mở rộng thêm thị trường , tăng cường sản xuất tiêu thụ sản phẩm , đẩy
mạnh doanh thu và lợi nhuận đem lại cho công ty. Do vậy công ty sẽ phải chú
trọng hơn nữa tới việc xúc tiến bán.
IV.NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ TỒN TẠI CỦA CÔNG TY CAO SU AN DƯƠNG
1-Thành công:
Để có thể chiếm lĩnh và mở rộng thị trường , để sản xuất và phục trế các
sản phẩm có chất lượng cao, trong những năm qua , bằng nguồn vốn vay của
ngân hàng, vốn tự có, vốn đầu tư huy động của cán bộ công nhân viên trong
công ty , công ty đã nâng cấp được nhà xưởng, mua các thiết bị hiện đại để
mở rộng sản xuất như: Máy định hình và lưu hoá lốp ôtô của Trung
39
Quốc...Đồng thời cải thiện đời sống công nhân viên, góp phần đóng góp vào
ngân sách nhà nước.
Cũng như nhận thức đúng đắn và thị trường nên công ty không ngừng củng cố,
chiếm lĩnh và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm .Hiện nay công ty đã có 3
chi nhánh và hơn 100 đại lý rải rác và phân bổ trên khắp các tỉnh, thành phố
trong toàn quốc.
Thành công của công ty thể hiện trên số liệu sau:
Biểu hình 18: Bảng tổng kết tiêu thụ sản phẩm của công ty trong 5
năm qua.
Năm
Chỉ số
1997 1998 1999 2000 2001
Giá trị tổng sản lượng 17055 18875 22950 66593 983982
Mức độ tăng trưởng
năm năy so với năm
trước
1.1 1.2 2.9 1.47
Tổng doanh thu 500.32,5 554.64 69.000 732.47,5 115.232,3
Mức độ tăng trưởng
năm nay so với năm
trước
1,1 1,2 1,06 1,5
Nộp ngân sách 3789,5 3187,5 3455 4215,5 6021,05
Qua bảng tổng kết trên ta thấy,việc tăng doanh thu và lợi nhuận cũng
như giá trị tổng sản lượng đã chứng tỏ công ty đã nghiên cứu thị trường và đã
có chíng sách đúng đắn cho quá trình sản xuất kinh doanh .
Lợi nhuận của công ty đã không ngừng tăng lên năm său tăng hơn năm
trước và đến năm 2001 lợi nhuận của công ty tăng hơn 1,5 lần so với năm
2000, và năm 2001 là một năm rất thành công của công ty , lợi nhuận công ty
đã đạt đươc 4.608 triệu đồng.
2.Những tồn tại của công ty:
Mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty những năm qua có sự
tăng trưởng đáng khích lệ, song để hoà nhập với cơ trế thị trường luôn luôn
biến động công ty còn bộc lộ một số nhực điểm sau:
Với một quy trình công nghệ đã hơn 10 năm, nhà xưởng còn chật hẹp,
việc đổi mới cũng chưa đồng bộ, sản xuất chủ yếu là thủ công bán cơ khí, do
vậy chất lượng sản phẩm của công ty vẫn chưa cao, đặc biệt trong các mặt
hàng lốp ôtô.Độ bền của lốp còn kém , độ chòn chuẩn của sản phẩm chưa được
tốt, chưa thoả mãn được nhu cầu của khách hàng có phương tiện giá trị lớn.
Mặc dù công ty có lợi thế vầ giá,nhưng trong việc thanh toán công ty
vẫn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng mua buôn, chưa khuyến khích
được khách hàng quan trọng này bằng việc cho trả chậm theo từng đợt nhất
40
định, vì việc trả chậm theo từng đợt sẽ đem lại cho công ty việc bán được
nhiều sản phẩm cho khách hàng mua buôn.
Công ty vẫn chưa quản lý được các kênh phân phối , việc quản lý các đại lý
công ty vẫn chưa làm được.
Ngoài ra công ty vẫn chưa chú trọng lắm tới giao tiếp khuếch
trương,Quảng cáo còn rời rạc, chưa đồng bộ, do vậy hiệu quả của quảng cáo
đạt được cũng chưa cao, chưa áp dụng các hình thức quảng cáo tiến bộ tiên
tiến.
Tóm Lại:
Trên đây là toàn bộ thực trạng về chiến lược marketing hỗn hợp của
công ty cao su An Dương . Thông qua phân tích tôi đã thấy được những thành
công đạt được và tồn tại chủ yếu là cơ sở cho phép xác lập các giải pháp hoàn
thiện chiến lược marketing hỗn hợp nhằm tiêu thụ mặt hàng săm lốp ôtô của
công ty cao su An Dương.
41
CHƯƠNG III
HOÀN THIỆN CHƯƠNG TRÌNH MARKETING HỖN HỢP NHẰM TIÊU
THỤ MẶT HẠNG SĂM LỐP TẠI CÔNG TY CAO SU AN DƯƠNG.
I-XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG SĂM LỐP ÔTÔ TẠI VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN TỚI:
Nhu cầu săm lốp ôtô trong mấy năm vừa qua đều tăng lên nhanh chóng
do lượng xe nhập khẩu trong nước tăng lên.Với chủ trương nội địa hoá ôtô
,nhà nước khuyến khích sản xuất lắp đặt ôtô trong nước nhằm đẩy mạnh công
nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước .Tính đến tháng 9-năm 1996 cả nước ta đã có
14 liên doanh sản xuất ,lắp giáp ôtô, hợp tác với nhiều hãng nổi tiếng trên thế
giới như: Ford, Toyota,Honda...với sản lượng thiết kế lên tới 155.000 xe/1năm
Trong năm 1996 đã có 7 liên doanh đi vào hoạt động cung cấp ra thị trường 26
mẫu ôtô khác nhau như: xe du lịch, xe vận tải, xe Citybus.... đến nay 14 liên
doanh này đã đi vào hoạt động với hàng trục ngàn xe mỗi năm được cung cấp
ra thị trường và như vậy ngay nhu cầu săm lốp ôtô sản xuất của các liên doanh
trong nước đã khá lớn , bởi mỗi xe xuất xưởng dòi hỏi ít nhất 4 bộ săm lốp
Theo dự báo nhu cầu ôtô ở Việt nam năm 2002 là 59.000 chiếc, năm 2005 là
88.000 chiếc ,nhiều chuyên gia cho rằng đến năm 2005 con sốnày sẽ là
105.000 chiếc va biến động theo sự phát triển của nền kinh tế.Nhu cầu ôtô tăng
lên kéo theo nhu cầu ôtô săm lốp ôtô tăng lên với tốc độ nhanh hơn nhu cầu
ôtô .Mức tăng trung bình săm lốp ôtô mỗi năm từ 70-90 ngàn bộ săm lốp/năm.
Như vậy đến năm 2002 săm lốp sấp xỉ 900.000 bộ và xu hướng gia tăng được
phản ánh qua biểu sau:
Biểu hình 12: Biểu xu hướng nhu cầu săm lốp ôtô
0
200000
400000
600000
800000
1000000
1200000
1999 2000 2001 2002 2003
Như vậy chúng ta có thể thấy nhu cầu về săm lốp ôtô hiện nay là rất lớn và
có xu hướng tăng nhanh qua các năm ,tạo nên một thị trường rất hấp dẫn và
tăng trưởng nhanh .Đây thực sự là cơ hội lớn với tiềm năng thị trường rồi rào
cho cac doanh nghiệp sản xuất ,chế biến cao su ở Việt nam. Song đây cũng là
42
thách thức khi các công ty trong nước chỉ đáp ứng được khoảng gần 30% nhu
cầu săm lốp ôtô và phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập ngoại.
II-QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TỔ CHỨC KINH DOANH CỦA
CÔNG TY TRONG THỜI GIAN TỚI:
1-Quan điểm đổi mới:
1.1.Quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước:
Việt Nam sau hơn 50 năm (1945-2000)phát triển theo con đườngXHCN và
hơn 15 năm đổi mới (1986- nay) đã đạt được những thành tụ đáng kể khích lệ.
Qua kì họp nghị quyết IV- Ban chấp hành TW Đảng và Đại Hội đại biểu toàn
Quốc lần thứ VIII của đảng đã tổng kết 15 nămđổi mới chuyển từ cơ chế tập
chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước đã
đạt được những thành tựu kinh tế xã hội sau:
-Tổng sản phẩm trong nước (GDP): 8,2% trong đó sản xuất công nghiệp
13,3%, nông nghiệp 4,5%, kim nghạch xuất khẩu 20% kim nghạch nhập
khẩu 22% các nghành dịch vụ 12%, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
50%.
-Quy mô đầu tư và phát triển toàn xã hội(năm 1991-2000): ước tính tổng
số vốn đầu tư 18 tỉ USD . trong đó phần nhà nước chiếm 43%, còn của
nhân dân 30%, đầu tư trực tiếp của nước ngoài 27%...
Với những thành tựu đã đạt được trong 15 năm đổi mới kể trên Nhà nước
ta đã đưa ra kế hoạch phát triển kinh tế trong 5 năm tới(2001-2006) như sau:
Một là: thực hiền đồng thời ba mục tiêu kinh tế : đẩy mạnh công nghiệp
hoá với nhịp độ tăng trưởng cao bền vững và có hiệu quả, ổn định vững chắc
kinh tế vĩ mô, chuẩn bị các tiêu đề cho bước phát triển cao hơn sau 2006.
Hai là: trực tiếp thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành
phần, hoàn thiệ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN.
Ba là: kết hợp hài hoà tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội và công
bằng xã hội.
Bốn là: kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh.
Năm là: kết hợp phát triển các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng kinh tế
khác.
1.2. Quan điểm đổi mới của công ty:
Cùng với sự phát triển của đất nước và phương hướng kế hoạch của nhà
nước trong nhiều năm tới, công ty cao su An Dương cũng đã đề ra một số mục
tiêu để phát triển trong những năm tiếp theo:
Do đặc điểm Công ty là một doanh nghiệp trách nhiêm hữu hạn, đã tồn
tại và phát triển trên 10 năm, cũng đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ.
Nhưng đứng trước một sự cố mạnh mẽ của nhà nước cùng với sự tăng trưởng
kinh tế nhanh, sự đầu tư của nước ngoài, cũng như các quan hệ giữa các nước
ASEAN đã đòi hỏi và buộc công ty có hướng đổi mới trong những năm tới
trên cơ sở " tất cả cho thị trường ".
43
Trên quan điểm: con người là yếu tố quyết định, nên lãnh đạo công ty đã
tổ chức, sắp xếp lại sản xuất, đặc biệt chọn lựa và đầo tạo những đội ngũ cán
bộ chủ chốt, những con nhười năng động, có tại cùng đồng lòng phấn đấu vì
lợi ích của công ty. Phan tích tình hình cụ thể, thực tế của doanh nghiệp và
trong từng thời kỳ nhất định công ty đề ra những đối sách thích hợp và tổ chức
thực hiện nhưng đối sách đó.
Trong các tổ chức đoàn thể,phát huy sức mạnh của tập thể bằng việc tổ
chức các phong trào thi đua nhằm hoàn thạnh và đặt vượt mức các chỉ tiêu đã
đề ra trong sản xuất kinh doanh của công ty.
Do thị trường với đặc điểm vốn có của nó là luôn biến động và cạnh
tranh khốc liệt, nên công ty luôn coi trọng thị trường là yếu tố hàng đầu:"Tất
cả cho thị trường " là khẩu hiệu hoạt động của công ty trong thời gian tới.
Trên cơ sở đó, công ty đã đề ra kế hoạch sản xuất kinh doanh trong năm
tới như sau:
STT Chỉ tiêu Đơn vị tính Kế hoạch năm
2003
1
2
3
4
Tổng số các khoản nộp ngân
sách
Giá trị tổng sản lượng
Tổng doanh thu tiêu thụ
Sản lượng hiện vật:
-Lốp ôtô
Triệu đồng
---
1000 chiếc
6.054
1047830
1085000
50
Biểu hình 19: Kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2003
2-Phương hướng phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
trong thời gian tới:
- Công ty phải chú trọng hơn nữa công tác nghiên cứu thị trường, trong dố
chủ yếu là nghiên cứu khách hàng, coi khách hàng là vị trí trung tâm trong
mọi hoạt động của công ty. Ngoài ra gắn công tác khoa học, kĩ thuật với sản
xuất, nắm bắt về nhu cầu , thị hiếu, chất lượng để tập chung nghiên cứu sản
xuất những mặt hàng cao su mà khách hàng ưa thích; cầu thị và lắng nghe ý
kiến của khách hàng. Tổ chức hạch toán kinh tế triệt để và toàn diện. Qua
hạch toán: từ phân tích lỗ lãi mà biết thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, kịp thời điều chỉnh những sai sót trong quá trình hoạt động
của doanh nghiệp; đặc biệt trong lĩnh vực bảo toàn và phát triển nguồn vốn,
từ đó đầu tư thêm và sử dụng tốt các trang thiết bị, mở rộng mặt bằng sản
xuất kinh doanh, tổ chức tốt lao động, cải thiện điều kiện lao động cho cán bộ
công nhân viên, sử dụng chính sách tiền lương, thưởng một cách hợp lý.
Khuyến khích vật chất cho người lao động, từ đó tạo nên sức mạnh cho công
ty, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng phù hợp nhu cầu thị trường, làm
44
tăng thêm uy tín của công ty để tạo thêm sức mạnh cạnh tranh. Công ty từng
bước thay đổi cơ cấu sản phẩm, tập trung chuyên sản xuất một loại sản phẩm
mũi nhọn nhất định. Nó giúp cho công ty sản xuất ra những sản phẩm có chất
lượng cao hơn và với số lượng lớn hơn.
Với phương hướng của công ty trong thời gian tới, đòi hỏi công ty phải
khách hàngông ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như số lượng sản
phẩm, phải năng động sáng tạo nhậy bén trong kinh doanh, khách hàngông
ngừng khai thác và mở rộng thêm thị trường, đấp ứng tốt nhu cầu của khách
hàng. Qua đó đòi hỏi công ty xác định một phương hướng phát triển đúng
đắn, lấy phương trâm"khách hàng là thượng đế"và "khách hàng luôn luôn
đúng"để làm tiền đề cho sự phát triển của công ty.
III-MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHIẾN LƯỢC MARKETING HỖN HỢP
ĐỂ TIÊU THU MẶT HÀNG SĂM LỐP TẠI CÔNG TY CAO SU AN DƯƠNG.
1-Hoàn thiện chiến lược marketing hỗn hợp.
1.1.Tình hình thị trường.
Việt Nam sau hơn 15 năm đổi mới và mở cửa của nền kinh tế. Nền kinh
tế Việt Nam đã ngày càng phát triển, nhu cầu đi lại của người dân ngày càng
gia tăng cùng với sự phát triển của các phương tiện gia thông, các liên doanh
sản xuất ô tô đã đi vào hoạt động và cung cấp ra thị trường nhiều loại xe ô tô.
Do đó nhu cầu về mặt hàng săm lốp ô tô là rất lớn. Dẫn tới xuất hiện rất
nhiều các loại sản phẩm săm lốp trên thị trường. Trong đó, có các hàng nhập
ngoại từ các nước như: Nhật Bản ,Thái Lan, Trung Quốc... còn trong nước có
các công ty như: công ty cao su Sao Vàng, công ty cao su Đà Nẵng, và các cơ
sở sản xuất ở địa phương...do vậy tình hình cạnh tranh trên thị trường diễn ra
rất mạnh mẽ. Người tiêu dùng đứng trước một sự lựa chọn sản phẩm săm lốp
sao cho phù hợp.
Qua đó đòi hỏi công ty cao su An Dương phải có một hướng sản xuất và
kinh doanh sao cho phù hợp vơí nhu cầu của người tiêu dùng, cũng như uy
tín và chất lượng sản phẩm của công ty trên thị trường .
1.2. Đề suất nhằm hoàn thiện chính sách sản phẩm:
Qua quá trình nghiên cứu tôi nhận thấy công ty cao su An Dương có
chất lượng sản phẩm tương đối hoàn hảo và sản phẩm đang được đánh giá
cao trên thị trường : như Quảng inh, Thái Nguyên và một số tỉnh khác. Trong
thời gian tới Công ty nên tiếp tục duy trì và nâng cao hơn nữa chất lượng sản
phẩm theo ý kiến đánh giá của khách hàng . Trên thực tế chúng tôi thấy
phương tiện giao thông ở Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Vì vậy bên
cạnh việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm hiện có công ty có thể
mở rộng sản xuất các laọi săm lốp cố chất lượng và độ chuẩn cao hơn, phục
vụ cho các loại phương tiện có giá trị cao và cạnh tranh với các sản phẩm
cụng loại trên thị trường.
45
Qua hơn 10 năm hoạt động sản xuất kinh doanh, sản phẩm của công ty
đã được người tiêu dùng biết đến và sử dụng. Đây cũng là thành công của
công ty trong việc coi trọng và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Mặc dù vậy, trong một số phương tiện giao thông có giá trị cao thì các
sản phẩm săm lốp của công ty vẫn chưa được người tiêu dùng chấp nhận vì
chất lượng và độ chuẩn của mặt hàng chưa phù hợp với yêu cầu phương tiện
của khách hàng. Với mục tiêu của công ty trong thời gian tới là duy trì và mở
rộng thị trường hiện có,đồng thời đẩy mạnh tiêu thụ ở các thị trường mới,
thoả mãn tối đa mọi nhu cầu của khách hàng. Đòi hỏi công ty phải ngạy càng
nâng cao chất lượng sản phẩm và có những chiến lược nhằm đưa sản phẩm
vào thị trường đó thành công. Ngoài ra, đối với tựng khu vực thị trường khác
nhau, công ty nên có những chiến lược khác nhau.
-Đối với thị trường lớn và quen thuộc của công ty như: Thành phố Hồ
Chí Minh, Thái Nguyên, Quảng Ninh công ty sẽ tiếp tục đi sâu thoả mãn nhu
cầu của khách hàng.
Công ty nên tung ra thị trường những sản phẩm có chất lượng cao muốn
vậy công ty phải đầu tư những dây truyền sản xuất hiện đại, tiên tiến của
nước ngoài đặc biệt các nước có uy tín về săm lốp như : Nhật, Thái ... như
vậy ngoài việc công ty tung ra được sản phẩm có chất lượng tốt mà lại lợi
dụng được uy tín của nước ngoài để sản phẩm tiếp xúc nhanh hơn với người
tiêu dùng.
Tại các thành phố tập chung đông dân cư thì lại có sự phát triển dân số
nhanh, mạnh do đó đời sống người dân cao hơncác phương
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn tốt nghiệp- Một số giải pháp marketing nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm tại Công ty cao su An Dương.pdf