Tài liệu Luận văn Tốt nghĩa và xấu nghĩa trong tiếng Việt: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
TĂNG THỊ TUYẾT MAI
TỐT NGHĨA VÀ XẤU NGHĨA
TRONG TIẾNG VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 602201
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS HOÀNG DŨNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Hoàng Dũng đã
tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin cảm ơn quý thầy cô, gia đình và bạn bè đã hỗ trợ tôi rất
nhiều trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
TP. Hồ Chí Minh - 2010
Tăng Thị Tuyết Mai
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TP. Hồ Chí Minh - 2010
Tăng Thị Tuyết Mai
BẢNG QUY ƢỚC TRÌNH BÀY
1. Quy ƣớc về tài liệu trích dẫn
Số thứ tự (tương ứng với số thứ tự ở phần Tài liệu tham khảo) và số
trang của tài liệu trích dẫn được đặt trong dấu ngoặc v...
292 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1572 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tốt nghĩa và xấu nghĩa trong tiếng Việt, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
TĂNG THỊ TUYẾT MAI
TỐT NGHĨA VÀ XẤU NGHĨA
TRONG TIẾNG VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 602201
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS HOÀNG DŨNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Hoàng Dũng đã
tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin cảm ơn quý thầy cô, gia đình và bạn bè đã hỗ trợ tôi rất
nhiều trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
TP. Hồ Chí Minh - 2010
Tăng Thị Tuyết Mai
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TP. Hồ Chí Minh - 2010
Tăng Thị Tuyết Mai
BẢNG QUY ƢỚC TRÌNH BÀY
1. Quy ƣớc về tài liệu trích dẫn
Số thứ tự (tương ứng với số thứ tự ở phần Tài liệu tham khảo) và số
trang của tài liệu trích dẫn được đặt trong dấu ngoặc vuông [] và ngăn cách
nhau bằng dấu phẩy (,). Nếu đoạn trích dẫn gồm nhiều trang liên tục thì giữa
trang đầu và trang cuối có ghi thêm dấu gạch ngang (-), ví dụ [5,2-11]; nếu
đoạn trích dẫn gồm nhiều trang không liên tục thì giữa các trang này có chữ
“và” ở giữa, ví dụ…[1,1 và 2].
2. Quy ƣớc về chú thích nghĩa của từ
Tất cả các định nghĩa không ghi nguồn trong luận văn đều được trích từ
Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng, 2002).
Cách viết của các từ cũng được sao từ tài liệu này.
3. Quy ƣớc viết tắt
%: Tỉ lệ phần trăm
DK: Danh từ khối
DTĐV: Danh từ đơn vị
DTĐVCL: Danh từ đơn vị chất liệu
DTĐVKCL: Danh từ đơn vị không chất liệu
KNKH: Khả năng kết hợp
NC: Ngữ cảnh
SL: Số lượng
STNN: Sắc thái ngữ nghĩa
T: Tốt nghĩa
TH - Xấu: Sắc thái ngữ nghĩa giao thoa giữa trung hoà và xấu nghĩa
TH: Trung hoà về nghĩa
THX: Khả năng kết hợp với yếu tố trung hoà về nghĩa và xấu nghĩa
Tốt - TH - Xấu: Sắc thái ngữ nghĩa giao thoa giữa tốt nghĩa, trung hoà và xấu
nghĩa
Tốt - TH: Sắc thái ngữ nghĩa giao thoa giữa tốt nghĩa và trung hoà về nghĩa
Tốt - Xấu: Sắc thái ngữ nghĩa giao thoa giữa tốt nghĩa và xấu nghĩa
TTH: Khả năng kết hợp với yếu tố tốt nghĩa và trung hoà về nghĩa
TTHX: Khả năng kết hợp với yếu tố tốt nghĩa, trung hoà và xấu nghĩa
TX: Khả năng kết hợp với yếu tố tốt nghĩa và xấu nghĩa
VTTT: Vị từ trạng thái
X: Xấu nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Khi nói về màu trắng của da người, trắng hồng, trắng tươi... được xem là
những từ biểu thị thái độ đánh giá tích cực trong khi trắng hếu, trắng bệch,
trắng nhởn... biểu thị điều ngược lại. Bằng chứng là trắng hồng, trắng tươi...
không thể dùng để chê và trắng hếu, trắng bệch... không thể dùng để khen làn
da của một người nào đó. Như vậy, rõ ràng trong tiếng Việt tồn tại những sự
biểu đạt tốt nghĩa (ameliorative) và xấu nghĩa (pejorative).
Tốt nghĩa và xấu nghĩa được giới ngôn ngữ học quan tâm dưới nhiều
phương diện, có thể là dưới quan điểm ngôn ngữ học lịch đại hay ngôn ngữ
học đồng đại, cũng có thể là dưới cái nhìn ngữ âm học, từ vựng học, ngữ pháp
học, hay ngữ dụng học.
Trong tiếng Việt, nghiên cứu hiện tượng tốt nghĩa và xấu nghĩa hứa hẹn
nhiều điều thú vị, đặc biệt là trong sự thể hiện của các danh từ đơn vị (DTĐV)
và các vị từ trạng thái (VTTT) bởi vì theo đánh giá của chúng tôi, so với các
loại đơn vị từ vựng khác, hai loại đơn vị này có sự biểu hiện phức tạp hơn cả
về sắc thái ngữ nghĩa (STNN) theo từng loạt ngữ cảnh mà chúng xuất hiện.
Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi sẽ đề cập đến tốt nghĩa và xấu
nghĩa ở hai loại đơn vị từ vựng đã nêu dưới quan điểm ngôn ngữ học đồng
đại, dưới góc độ ngữ nghĩa học từ vựng để có thể có một hình dung tương đối
khái quát về STNN của các đơn vị từ vựng này trong tiếng Việt.
1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tốt nghĩa và xấu nghĩa là những khái niệm không xa lạ trong giới ngôn
ngữ học. Chúng thường được chú ý dưới dạng danh từ: sự biến đổi tốt nghĩa
(amelioration) và sự biến đổi xấu nghĩa (pejoration).
2
Nói đến sự biến đổi tốt nghĩa và sự biến đổi xấu nghĩa, trước hết là nói
đến những quá trình chuyển nghĩa mang tính chất lịch đại. Trong các công
trình nghiên cứu ngôn ngữ học lịch sử, các tác giả thường đề cập đến hai quá
trình này khi bàn về sự biến đổi ngữ nghĩa (semantic change). Hầu như không
một công trình nào bàn về ngôn ngữ học lịch sử lại không bàn về quá trình
chuyển nghĩa, và nếu đã bàn về quá trình này thì nhất định sẽ không bỏ qua
quá trình biến đổi tốt nghĩa và biến đổi xấu nghĩa dưới hai dạng thức: mở
rộng và thu hẹp nghĩa. Chúng ta có thể nhận ra điều này qua các công trình
nghiên cứu theo quan điểm lịch đại: Introduction to Historical Linguistics
(1972) của Anthony Arlotto, Historical Linguistics (1979) của Theodora
Bynon, Historical Linguistics: An Introduction (1992) của Winfred Lehmann,
Understanding Language Change (1994) của April M. S. McMahon, An
Introduction to Historical Linguistics (1997) của Terry Crowley, Language
History - An Introduction (2000) của Andrew L. Sihler, An Approach to
Semantic Change (2003) của Brian D. Joseph and Richard D. Janda…
Về sự biến đổi xấu nghĩa, April M.S. McMahon đã lấy một ví dụ tiếng
Pháp maitresse (bà chủ nhà), từng có nghĩa là “cô dâu”. Tương tự, sely
(thiêng liêng) đã biến đổi nghĩa thành “ngớ ngẩn”, và từ tiếng Pháp crétin đã
chuyển nghĩa từ “sùng đạo Cơ Đốc” thành “ngu ngốc”. Tác giả cũng đã lấy từ
tiếng Anh cổ cniht làm ví dụ cho sự biến đổi tốt nghĩa. Nghĩa gốc của nó là
“người hầu”, nhưng tiếng Anh hiện đại có nghĩa là “hiệp sĩ”.
Tốt nghĩa và xấu nghĩa mang tính phổ quát cho mọi ngôn ngữ chứ không
giới hạn ở một ngôn ngữ nào. Có lẽ vì vậy mà vấn đề này được nghiên cứu
trong một phạm vi rộng ở nhiều ngôn ngữ: tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha,
tiếng Nga, tiếng Italia... Trong công trình A History of the Spanish Language
(2002), Ralph Penny có bàn về những hậu tố xấu nghĩa trong tiếng Tây Ban
Nha kèm theo những ví dụ rất thú vị. Chẳng hạn hậu tố -aco trong những từ
3
libraco (cuốn sách cũ mục nát), pajarraco (con chim xấu xí)… hay hậu tố -
ajo trong từ cintajo (dải ruy băng loè loẹt), trapajo (giẻ rách)… John J.
Kinder và Vincenzo M. Savini trong Using Italian: A Guide to Contemporary
Usage cũng đã đề cập đến những hậu tố xấu nghĩa tiếng Italia. Chẳng hạn như
hậu tố -accio (hay -azzo) trong những từ libraccio (cuốn sách dở tệ),
ragazzaccio (cậu bé thô lỗ), coltellaccio (con dao lớn nguy hiểm)…
Nhìn chung, khi bàn về tốt nghĩa và xấu nghĩa, các tác giả chủ yếu xem
xét chúng như một phần của quá trình chuyển nghĩa dưới quan điểm của ngôn
ngữ học lịch đại.
Trong tiếng Việt, hầu như chưa có công trình nào tập trung bàn về vấn
đề này. Đáng kể nhất là các công trình của Nguyễn Ngọc Trâm [65], Chu
Bích Thu [11] và Nguyễn Thị Bảo [74].
Khi đi sâu tìm hiểu bản chất ngữ nghĩa của nhóm từ biểu thị tâm lí - tình
cảm trong tiếng Việt, Nguyễn Ngọc Trâm đã đề cập đến tính chất tích
cực/tiêu cực của chúng. Luận án mô tả cấu trúc ngữ nghĩa điển hình của 19
nhóm vị từ tâm lí - tình cảm cơ bản của tiếng Việt (vui - buồn, tự hào - xấu
hổ, thoả mãn, chán, giận, tiếc, thương, thích…). Chẳng hạn, nhóm vị từ vui -
buồn được tác giả mô tả như sau:
Trạng thái tâm lí - tình cảm tích cực/tiêu cực
Cho rằng sự việc xảy ra phù hợp/không phù hợp với yêu cầu,
nguyện vọng của mình.
Có thể nói, công trình của Nguyễn Ngọc Trâm khai thác một cách hiệu
quả bản chất ngữ nghĩa - ngữ pháp của nhóm vị từ tâm lí - tình cảm tiếng
Việt, trong đó có chú ý đến thành phần đánh giá, một trong những thành phần
ngữ nghĩa quan trọng của loại đơn vị này.
Cũng như Nguyễn Ngọc Trâm, Chu Bích Thu đặc biệt chú ý khai thác
thành phần đánh giá khi nghiên cứu ngữ nghĩa của tính từ tiếng Việt hiện đại.
4
Tác giả chỉ ra hai bộ phận trong cấu trúc ngữ nghĩa của tính từ tiếng Việt: bộ
phận miêu tả và bộ phận đánh giá.
Theo Chu Bích Thu, nghĩa của các tính từ kiểu như đẹp, xấu, hay, dở…
có thể được phân tích:
Đẹp:
- Có hình thức
- Gây cảm giác dễ chịu
- Phù hợp với ý thích
Hay:
- Có âm thanh, kỹ thuật…
- Gây cảm giác dễ chịu
- Phù hợp với ý thích
Và cấu trúc nghĩa của chúng có thể khái quát thành ba thành tố:
1. Có thuộc tính nào đó tác động vào giác quan
2. Gây cảm giác nào đó
3. Đánh giá tác động do cảm giác gây nên
Trong ba thành tố ngữ nghĩa trên, thành tố (1) biểu thị phạm trù thuộc
tính của bản thân sự vật (hoàn toàn mang tính chất khách quan); thành tố (2)
biểu thị phản ứng của con người trước tác động của thuộc tính sự vật (vừa
mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan) và thành tố (3) biểu thị thái
độ của con người đối với thuộc tính của sự vật qua sự tác động của thuộc tính
ấy vào giác quan của mình (hoàn toàn mang tính chất chủ quan).
Chu Bích Thu áp dụng quan điểm này một cách nhất quán khi miêu tả
đặc trưng ngữ nghĩa của các tính từ tiếng Việt tiêu biểu trong luận án của
mình.
Khi bàn về ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt
(đối chiếu với tiếng Anh), Nguyễn Thị Bảo cũng đã xét đến tiêu chí tích cực,
5
tiêu cực, trung hoà về ngữ nghĩa và đưa ra những phân tích khá thú vị. Theo
tác giả, đa số từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh đều
thiên về nghĩa tiêu cực, chẳng hạn như “bò”, “cáo”, “lợn”, “chó”, “vịt”,
“chuột”, “ếch”, “mèo”, “ốc”, “rắn”, “ruồi”… Số lượng từ ngữ thiên về nghĩa
tích cực rất ít: “ngựa”, “phượng”, “rồng”… Nghĩa tích cực, tiêu cực hay trung
hoà của các đơn vị này do văn hoá của mỗi dân tộc quy định.
Nhìn chung, mặc dù đã chú ý đến hiện tượng tốt nghĩa và xấu nghĩa
trong tiếng Việt như một thành phần quan trọng trong ngữ nghĩa của từ nhưng
các tác giả chỉ gói gọn vấn đề trong một phạm vi hẹp, chẳng hạn như trong
một nhóm từ mà thôi.
1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Do khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi tạm chưa khảo sát
hiện tượng tốt nghĩa và xấu nghĩa trong tiếng Việt ở góc độ ngữ dụng học mà
chỉ xem xét ở góc độ ngữ nghĩa học từ vựng, trên quan điểm ngôn ngữ học
đồng đại, trong đó chú ý đến sự kết hợp của từ trong ngữ cảnh.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu STNN trong hai bộ phận từ loại cơ bản của tiếng
Việt: DTĐV và VTTT.
1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn của mình, người viết sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
1.4.1. Phương pháp phân tích phân bố
Đây là phương pháp vô cùng quan trọng trong việc xác định STNN của
các đơn vị từ vựng tiếng Việt. Thông qua các kết hợp của từ trong các loạt
6
ngữ cảnh khác nhau, chúng ta có thể nhận ra STNN chứa đựng trong từ cũng
như những biến đổi ngữ nghĩa (nếu có) qua các loạt ngữ cảnh nhất định.
1.4.2. Phương pháp thống kê ngôn ngữ
Luận văn sử dụng phương pháp này để thống kê số lượng các tiểu loại
DTĐV và VTTT dựa trên STNN tốt, xấu, trung hoà cũng như khả năng kết
hợp của chúng. Bên cạnh đó, việc khảo sát mối quan hệ giữa vỏ ngữ âm và
STNN của các yếu tố chỉ mức độ cao theo sau VTTT cũng cần đến phương
pháp này.
1.4.3. Phương pháp miêu tả ngôn ngữ
Để thực hiện có hiệu quả đề tài này, vấn đề miêu tả ngữ nghĩa các đơn
vị, đặc biệt là các đơn vị có biểu hiện phức tạp về STNN là việc làm vô cùng
cần thiết. Vì vậy, phương pháp miêu tả ngôn ngữ cũng được chúng tôi lưu ý ở
đây.
1.4.4. Phương pháp so sánh đối chiếu
Ở một vài luận điểm, luận văn có sử dụng phương pháp so sánh đối
chiếu để thấy sự tương đồng và khác biệt giữa tốt nghĩa và xấu nghĩa trong
tiếng Việt và trong các ngôn ngữ khác.
1.5. Tƣ liệu nghiên cứu
Vì luận văn cần đến một số lượng ngữ cảnh đủ lớn để đảm bảo tính
chính xác cho việc xác lập các mức độ STNN của từng đơn vị từ vựng nên
việc thu thập tư liệu từ nhiều nguồn là vô cùng cần thiết.
Nguồn tư liệu chủ yếu là các loại từ điển (từ điển tiếng Việt, từ điển đồng
nghĩa tiếng Việt, từ điển từ láy, từ điển từ đồng nghĩa…), trong đó Từ điển
tiếng Việt (2002) do tác giả Hoàng Phê chủ biên được xem là nguồn tư liệu
chính.
7
Các văn bản thuộc các phong cách ngôn ngữ khác nhau cũng được xem là
nguồn tư liệu quan trọng của luận văn.
1.6. Đóng góp của luận văn
1.6.1. Về mặt lý luận
Từ những tiền đề lý thuyết về ngữ cảnh, chúng tôi khái quát một phương
pháp phân tích STNN dựa trên ngữ cảnh nhằm xác lập STNN của các đơn vị
từ vựng tiếng Việt. Theo đó, phân loại và miêu tả STNN của hai bộ phận
DTĐV và VTTT tiếng Việt dựa theo phương pháp này là đóng góp chủ yếu
của luận văn.
1.6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn nghiên cứu hiện tượng tốt nghĩa và xấu nghĩa trong hai loại
đơn vị từ vựng tiếng Việt (DTĐV và VTTT) trên phương diện đồng đại, dưới
góc độ ngữ nghĩa học từ vựng, từ đó hình thành cái nhìn bao quát về STNN
của các đơn vị từ vựng này, giúp người bản ngữ hiểu rõ hơn ngôn ngữ mẹ đẻ
của mình đồng thời góp phần giúp học viên nước ngoài có thể dễ dàng hơn
khi sử dụng các đơn vị từ vựng vốn được xem là tinh tế và khó phân biệt
trong quá trình học tiếng Việt.
1.7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được chia làm ba chương.
Chƣơng một đề cập đến những vấn đề lý thuyết cơ bản như các thành phần
nghĩa, các phương pháp phân tích ngữ nghĩa, STNN của các đơn vị từ vựng,
từ đó đúc kết nên phương pháp nhận diện STNN trong các đơn vị từ vựng
tiếng Việt của luận văn. Dựa trên phương pháp nhận diện này, chƣơng hai
xác lập và miêu tả STNN của hai tiểu loại DTĐV tiếng Việt (DTĐVKCL và
DTĐVCL). Tương tự, chƣơng ba phân loại các VTTT tiếng Việt dựa trên
STNN của chúng kèm theo những miêu tả cụ thể. Bên cạnh đó, chương này
8
còn đề cập đến các vấn đề: 1. STNN của những từ láy xuất phát từ VTTT và
vai trò của các yếu tố cộng thêm vào VTTT trong những kết hợp này. 2. Mối
quan hệ giữa ngữ âm và STNN của những từ chỉ mức độ cao theo sau các
VTTT. 3. STNN của những kết hợp giữa một VTTT và một vị từ chỉ hướng
biểu thị một quá trình.
Ngoài 121 trang chính văn, luận văn dành 166 trang cho 4 phụ lục.
9
CHƢƠNG MỘT
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Sắc thái ngữ nghĩa của các đơn vị từ vựng
1.1.1. Các thành phần nghĩa
Nghĩa từ vựng (lexical meaning) của một đơn vị từ vựng gồm ba thành
phần cơ bản: nghĩa miêu tả (descriptive meaning), nghĩa xã hội (social
meaning) và nghĩa biểu cảm (expressive meaning). Bên cạnh đó, người ta
thường hay nhắc đến một loại nghĩa được xem là loại nghĩa thêm vào - nghĩa
liên tưởng (connotation).
1.1.1.1. Nghĩa miêu tả và sự quy chiếu
Nhiều người cho rằng nghĩa miêu tả chỉ tồn tại đối với những thực từ.
Đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm. Nếu nghĩa miêu tả của một thực từ
(content word) là “một khái niệm dành cho các vật quy chiếu tiềm năng của
nó”1 thì những từ chức năng như giới từ, liên từ… hay những hình thức ngữ
pháp (đối với những ngôn ngữ biến hình) vẫn có nghĩa miêu tả, và ở đây,
nghĩa miêu tả chính là “đóng góp của chúng vào nghĩa miêu tả của câu”2.
Chẳng hạn, nghĩa miêu tả của từ mèo là một khái niệm dành cho tất cả
các con mèo, những con thú nhỏ cùng họ với hổ báo thường được nuôi trong
nhà để bắt chuột. Trong khi đó, nghĩa miêu tả của từ sẽ là một khái niệm
“biểu thị sự việc, hiện tượng nói đến xảy ra trong tương lai, sau thời điểm nói,
hoặc xảy ra trong thời gian sau thời điểm nào đó trong quá khứ được lấy làm
1
“The descriptive meaning of a content word is a concept for its potential referents.” [117,23]
2
“The descriptive meaning of a word or a grammatical form is its contribution to descriptive sentence
meaning” [117,24]
10
mốc.” Và từ này sẽ biểu hiện nghĩa miêu tả một cách cụ thể khi tham gia vào
các câu cụ thể.
Khi nhắc đến nghĩa miêu tả, người ta hay nhắc đến nghĩa sở thị
(denotation hay denotative meaning). Sự phân biệt nghĩa miêu tả và nghĩa sở
thị được Sebastian Lobner thể hiện qua sơ đồ hình tam giác trong công trình
của mình [117]. Theo đó, nghĩa sở thị không có quan hệ trực tiếp với từ mà
quan hệ gián tiếp thông qua nghĩa miêu tả. Nói cách khác, chính nghĩa miêu
tả đã quyết định nghĩa sở thị.
nghĩa biểu thị
quyết định
Một số tác giả xác định nghĩa sở thị trong quan hệ với nghĩa liên tưởng
như phần nghĩa hạt nhân, cơ bản của từ (phần nghĩa mà chúng ta có thể tìm
thấy trong từ điển) và phần nghĩa thêm vào.
1.1.1.2. Nghĩa xã hội và mối tương tác xã hội
Nghĩa xã hội được xem là một trong những thành phần nghĩa chính yếu
của nghĩa từ vựng song song với thành phần nghĩa miêu tả bên trên.
Phần nghĩa này được hiểu là tất cả những STNN do xã hội quy định,
nghĩa là tính chất phù hợp hay không phù hợp với các chuẩn đạo đức, văn
hoá… của xã hội.
Chẳng hạn, mặc dù cùng có chung một nghĩa miêu tả, nhưng hai từ phu
Thực từ
Nghĩa miêu tả
Một khái niệm
Nghĩa sở thị
Một phạm trù
11
nhân và vợ lại có nghĩa xã hội rất khác nhau. Từ phu nhân chỉ dùng để chỉ vợ
của những người có địa vị cao trong xã hội. Không ai dùng phu nhân để nói
về vợ của một người bình thường, trừ khi có một hàm ý khác (trêu đùa, mỉa
mai…) bởi vì khi dùng từ phu nhân, tức là đã giả định sự trang trọng.
Nghĩa xã hội không chỉ xuất hiện trong các thực từ mà còn có mặt cả
trong các hư từ. Chẳng hạn, các trợ từ à, ư, nhỉ, nhé… chỉ dùng trong các
trường hợp biểu hiện sự thân mật. Vì thế, những phát ngôn kiểu như: “Tình
hình có vẻ rất nghiêm trọng, thủ tướng nhỉ?” khó được chấp nhận khi xuất
phát từ người nói có địa vị xã hội thấp hơn thủ tướng.
Tuy nhiên, nghĩa xã hội có được xem là một phần nghĩa nằm trong nghĩa
từ vựng hay không vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi. Phần lớn các tác giả quy
phần nghĩa này về phong cách chức năng, nghĩa là một vấn đề thuộc tu từ
học.
1.1.1.3. Nghĩa biểu cảm và tính chủ quan
Bất cứ một sự biểu đạt nào cũng bao hàm trong đó tình cảm, quan điểm,
thái độ của con người. Chẳng hạn, từ xanh lè không chỉ đơn thuần biểu thị
màu sắc của sự vật mà còn thể hiện sự đánh giá (hàm ý chê) của người nói.
Thật vậy, với câu “Chiếc áo này màu xanh lè.”, ai cũng hiểu rằng người nói
đang thể hiện thái độ đánh giá tiêu cực về màu sắc của chiếc áo.
Cũng như nghĩa miêu tả, nghĩa biểu cảm là một phần của nghĩa từ vựng,
một phẩm chất ngữ nghĩa của từ và ngữ không phụ thuộc vào ngữ cảnh.
Phần nghĩa biểu cảm được hiểu là tất cả những STNN do cảm xúc con
người quy định, nghĩa là tính chất phù hợp hay không phù hợp với cảm xúc
con người. Phần nghĩa này do tính chủ quan của con người quy định, nhưng
nó có một mẫu số chung tương đối giữa các cá nhân.
Nghĩa biểu cảm có một vị trí khá quan trọng trong nghĩa của từ. Nếu
12
một cặp từ có nghĩa sở thị đồng nhất thì phần nghĩa biểu cảm sẽ quyết định
ngữ cảnh xuất hiện của từ. Một ví dụ điển hình là các DTĐV đồng nhất về
nghĩa sở thị trang, đấng, vị, tên, thằng… Những từ này đều có cùng nghĩa sở
thị là chỉ cá thể người, nhưng chúng khác nhau ở phần nghĩa biểu cảm. Nếu
trang, đấng, vị… bao hàm thái độ, tình cảm trân trọng thì tên, thằng… lại bao
hàm thái độ, tình cảm coi khinh. Trong trường hợp này, chính nghĩa biểu cảm
đã quyết định sự có mặt hay không của từng từ trong từng ngữ cảnh.
1.1.1.4. Nghĩa liên tưởng và sự liên tưởng
Nếu như ba thành phần nghĩa kể trên được xem là những thành phần
chính yếu trong nghĩa từ vựng của từ thì nghĩa liên tưởng chỉ được xem là
phần nghĩa thêm vào.
Mikko Lehtonen [116,74] cho rằng nghĩa đầu tiên của từ chính là nghĩa
sở thị trong khi đó nghĩa liên tưởng được hiểu là một số phẩm chất (những
ngữ cảnh và hành vi cảm xúc) liên quan đến sở chỉ của từ. Ronald Carter,
Angela Goddad, Danuta Reah, Keith Sanger & Maggie Bowing [103,102]
cũng cho rằng nghĩa liên tưởng của từ là phần nghĩa thuộc về cá nhân, cảm
xúc; còn nghĩa sở thị là phần nghĩa trong từ điển. Sebastian Lobner [117] thì
lại phân biệt rất rõ nghĩa liên tưởng với những thành phần nghĩa từ vựng cơ
bản. Nó không thể là nghĩa miêu tả hay nghĩa biểu cảm vì nó có thể thay đổi
theo từng cá nhân trong khi các thành phần nghĩa từ vựng cơ bản không như
vậy.
Theo ý kiến của chúng tôi, nếu nghĩa sở thị là thành phần hạt nhân, cơ
bản của đơn vị từ vựng thì nghĩa liên tưởng là phần thêm vào, không nằm
trong nghĩa từ vựng của từ. Tuy nhiên, đó không phải là sự liên tưởng của
từng cá nhân mà là sự liên tưởng của cả một cộng đồng. Do đó, dù nghĩa liên
tưởng có mang tính chủ quan, nhưng là liên chủ quan, nên nó vẫn là khách
13
quan. Đây là vấn đề của ngôn ngữ học chứ không phải vấn đề của tâm lý học.
Nghĩa liên tưởng là sự liên tưởng của cả một cộng đồng nên nó liên quan
nhiều đến văn hoá. Sự liên tưởng ở đây có thể là tình cảm, có thể là bất kỳ
một vấn đề nào khác. Chẳng hạn, nghĩa liên tưởng gợi ra của từ kiến là “nhỏ”.
Bất cứ khi chúng ta nói một câu nào đó về kiến (ví dụ Chuyện bằng con kiến),
hàm ý đầu tiên cũng là nghĩa liên tưởng này. Nếu thật sự trên thế giới này có
một loài kiến khổng lồ đi chăng nữa, chúng ta cũng sẽ nói: Tuy là kiến nhưng
nó rất to. Khi nói như vậy, ta hiểu sự khổng lồ của loài kiến này là điều bất
thường bởi vì tiền giả định của từ kiến ở đây chính là “nhỏ”.
1.1.2. Sắc thái ngữ nghĩa trong quan hệ với các thành phần nghĩa
STNN không thuộc về nghĩa miêu tả mà thuộc về nghĩa biểu cảm và
nghĩa xã hội. Tuy nhiên, STNN của từ không hoàn toàn trùng lắp phần nghĩa
biểu cảm và phần nghĩa xã hội. STNN của từ còn bị chi phối ít nhiều bởi
nghĩa liên tưởng.
Cũng giống như nghĩa biểu cảm và nghĩa liên tưởng, STNN mang đậm
tính chủ quan nhưng đó là liên chủ quan, nghĩa là phải liên hệ đến những
chuẩn chung mang tính phổ biến, mang tính cộng đồng. Nó phải là một cái gì
đó có tính xu hướng chứ không phải chỉ là những trường hợp riêng lẻ. Chẳng
hạn, khi nói về phạm trù kích cỡ của người, đối với người này, có thể béo là
tích cực, nhưng đối với người khác lại không như vậy. Điều đó xảy ra tương
tự đối với từ gầy. Chuẩn chung nhất là xem béo và gầy đều mang nghĩa trung
hoà khi nói về người. Ở đây, cần chú ý phân biệt ranh giới về STNN giữa các
từ kiểu như béo và đầy đặn; gầy và thon thả, mảnh mai… hay béo với béo
ịch, béo núc ních, béo xụ, béo xù…; gầy và gầy gò, gầy guộc, gầy rốc, gầy
rộc... Nếu như béo và gầy trung tính khi miêu tả người, thì đầy đặn, thon thả,
mảnh mai… mang nghĩa tích cực còn béo ịch, béo núc ních, béo xụ, béo xù,
14
gầy gò, gầy guộc, gầy rốc, gầy rộc… mang nghĩa tiêu cực.
Có 3 loại STNN cơ bản: tốt (hay tích cực), trung hoà và xấu (hay tiêu
cực).
The Dictionary of Historical and Comparative Linguistics đã định nghĩa
sự biến đổi tốt nghĩa là “bất cứ sự thay đổi nào về ngữ nghĩa trong đó từ biểu
thị một cái gì đó trang trọng hơn hay cao quý hơn so với trước đây […].
Ngược lại là sự biến đổi xấu nghĩa.”3. Như vậy, tốt nghĩa hàm ý trang trọng,
cao quý… còn xấu nghĩa mang hàm ý ngược lại. Từ pejorative vốn bắt nguồn
từ từ Latin pejor có nghĩa là “tệ” (worse). The Encyclopedia of Language and
Linguistics do R. E. Asher chủ biên xem sự biến đổi tốt nghĩa là việc “mất đi
những sự quy chiếu không hài lòng trong nghĩa của từ (trái với sự biến đổi
xấu nghĩa).”4 Như vậy, một từ hay một sự biểu đạt nào đó có thể xem là tốt
nghĩa nếu nó mang những hàm ý quy ước như: tích cực, tán thành, trân trọng,
ca tụng… và ngược lại, nếu nó có xu hướng tiêu cực, không tán thành, không
trân trọng, coi thường… thì được xem là xấu nghĩa. STNN trung hoà dành
cho các trường hợp không tốt nghĩa, cũng không xấu nghĩa.
Tốt nghĩa và xấu nghĩa mà chúng tôi muốn đề cập ở đây là tốt nghĩa và
xấu nghĩa trên quan điểm ngôn ngữ học, trên bình diện người nói - người
nghe chứ không phải trên quan điểm đạo đức học, thẩm mỹ học, tâm lý học…
Chẳng hạn, trên quan điểm đạo đức học, những hành động như giết, bắn chết,
đâm chết… có thể được xem là tiêu cực, nhưng trên quan điểm ngôn ngữ học,
chúng được xem là trung hoà về STNN. Hay với kinh nghiệm bản thân, chúng
ta luôn nghĩ rằng cao là tốt, thấp là xấu. Thực tế là chúng ta đang dùng thước
3
“any change in meaning in which a word comes to denote something grander or more
elevated than formerly (…). The opposite is pejoration” [126,17]
4
“Loss of an unpleasant reference in the meaning of a word. (Contrasts with
deterioration)” [101,5091]
15
đo thẩm mỹ để đo giá trị tốt/xấu của từ. Với câu nói “Cô ấy rất cao.”, người
nói đơn giản chỉ muốn miêu tả trạng thái, tính chất của đối tượng được nói
đến, hoàn toàn không bao hàm một lời khen tặng hay chê bai nào cả. Điều này
diễn ra tương tự trong trường hợp “Cô ấy rất thấp.”. Nhưng với câu nói “Cô
ấy cao lênh khênh.” hay “Cô ấy thấp chủn.” thì rõ ràng đã xuất hiện một sự
đánh giá tiêu cực.
Trong tiếng Anh, chúng ta có thể nhận ra hai hệ thống từ vựng dùng để
chỉ những đối tượng giống nhau, một hệ thống được gọi là từ kiêng kỵ (taboo
word) và một được gọi là uyển ngữ (euphemism). Nếu một số từ trong hệ
thống từ kiêng kỵ mang nghĩa xấu thì những uyển ngữ tương đương của
chúng lại mang nghĩa trung hoà và đây chính là một cách nói giảm nhẹ STNN
xấu ở từ kiêng kỵ. Chẳng hạn, nếu deaf (điếc) mang nghĩa xấu thì uyển ngữ
tương đương của nó là hard of hearing (nghe khó khăn) lại mang nghĩa TH.
Tương tự, nếu crippled (người què) là từ kiêng kỵ với STNN xấu thì uyển
ngữ tương đương handicapped (người khuyết tật) lại trung hoà về STNN.
Như vậy, việc từ nói về đối tượng nào trong hiện thực khách quan thì
không quan trọng mà quan trọng là nói bằng cách nào, thái độ của người nói
ra sao. STNN của từ sản sinh từ đó.
Một câu hỏi đặt ra là chúng ta có thể dùng chệch chuẩn các STNN
không, nghĩa là đặt một từ xấu nghĩa vào ngữ cảnh cần phải dùng từ tốt nghĩa
và ngược lại. Nếu có thể thì điều gì sẽ xảy ra?
Người vợ diện một chiếc áo màu sắc loè loẹt. Người chồng liếc nhìn
chiếc áo, buông một câu thõng thượt: “Đẹp!”. Anh ta không hề thích chiếc áo
này và không hề thấy nó đẹp nhưng đã dùng một từ có STNN tích cực (đẹp)
thay vì một từ có STNN tiêu cực (xấu) để nhận xét về nó. Rõ ràng là trong
câu nói của người chồng có hàm ý mỉa mai và đây chính là mục đích của anh
ta khi dùng chệch chuẩn các STNN.
16
Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể dùng chệch chuẩn các STNN với
các mục đích tu từ khác nhau: mỉa mai, châm biếm, trêu đùa… Việc một từ có
thể tham gia vào các ngữ cảnh cần đến các STNN khác nhau không hề làm nó
đánh mất đi STNN của riêng mình mà ngược lại, càng khẳng định rõ ràng hơn
STNN của mình thông qua các sắc thái tu từ được tạo thành khi dùng chệch
chuẩn.
1.2. Các phƣơng pháp phân tích ngữ nghĩa
1.2.1. Phương pháp phân tích thành tố
Phương pháp phân tích thành tố là thành tựu của ngữ nghĩa học cấu trúc.
Theo phương pháp này, mỗi đơn vị từ vựng được coi như một cấu trúc gồm
các nghĩa có quan hệ với nhau, được tổ chức theo một trật tự nhất định. Mỗi
nghĩa lại được xem như một cấu trúc gồm các nét nghĩa (hay còn gọi là nghĩa
vị, thành tố ngữ nghĩa) có quan hệ với nhau, được tổ chức theo một trật tự
nhất định. Chẳng hạn như từ béo2 có 5 nghĩa sau:
1. (Cơ thể động vật) có nhiều mỡ; trái với gầy.
2. Có tính chất của mỡ, của dầu thực vật.
3. (Thức ăn) có nhiều chất béo.
4. (Đất) có nhiều màu mỡ.
5. Có tác dụng nuôi béo.
Trong nghĩa 1, chúng ta lại có thể phân tích thành các nét nghĩa sau:
1. Tính chất của cơ thể động vật
2. Có nhiều mỡ
3. Trái với gầy
Tương tự, các nghĩa còn lại cũng được phân tích thành các nét nghĩa như
nghĩa 1.
Phương pháp phân tích thành tố được áp dụng tương đối phổ biến trong
17
nghiên cứu ngôn ngữ nói chung và trong nghiên cứu tiếng Việt nói riêng.
Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả đối với những nghiên cứu cần đến sự
phân tích các thành tố ngữ nghĩa, chẳng hạn như việc xử lý các nhóm từ đa
nghĩa, các nhóm từ đồng nghĩa cũng như xác lập ranh giới giữa các nhóm từ
vựng ngữ nghĩa. Nghiên cứu các nhóm danh từ chỉ người trong quan hệ họ
hàng thân thuộc, nhóm danh từ chỉ cấp bậc, chỉ chức vụ… bằng phương pháp
phân tích thành tố là ví dụ điển hình cho việc sử dụng phương pháp nghiên
cứu một cách có hiệu quả.
Tuy nhiên, phương pháp phân tích thành tố không phải là lựa chọn tối ưu
cho mọi đối tượng nghiên cứu. Có những loại đơn vị từ vựng không thể đem
ra phân tích thành các thành tố ngữ nghĩa, chẳng hạn các loại đơn vị chức
năng như: giới từ, liên từ, phụ từ… hay những loại đơn vị từ vựng với những
nét nghĩa phức tạp, có nhiều biểu hiện trong từng loạt ngữ cảnh khác nhau
cũng khó có thể áp dụng phương pháp này một cách có hiệu quả.
1.2.2. Phương pháp sử dụng ngữ cảnh
1.2.2.1. Ngữ cảnh là gì?
Theo nghĩa rộng, ngữ cảnh chỉ “những nhân tố quan yếu thuộc cấu trúc
ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ xung quanh trong mối liên hệ với sự biểu đạt
được xem xét.”5 Như vậy, ngữ cảnh có thể là một tình huống, một phát ngôn,
một câu, một ngữ đoạn và cũng có thể là một từ.
Trong mỗi ngữ cảnh, từ thể hiện khả năng kết hợp từ vựng và khả năng
kết hợp ngữ pháp, qua đó bộc lộ một nghĩa xác định nào đó.
Từ có khả năng tham gia vào những cấu trúc ngữ pháp nhất định. Chẳng
hạn như DTĐV có thể tham gia vào cấu trúc trước nó là một lượng từ, sau nó
5
“In a broad sense, it refers to the relevant elements of the surrounding linguistic or nonlinguistic structures
in relation to an uttered expression under consideration” [101,730-731]
18
là một danh từ khối (DK) (một con gà, mấy quả cam, vài cuốn sách…). Vị từ
hành động có thể tham gia vào cấu trúc có chứa các từ: đã, đang, sẽ, sắp, lại,
vừa, cứ... ở đằng trước; và: xong, rồi, mãi... ở đằng sau (ví dụ: đã học xong,
cứ làm mãi…). VTTT có thể tham gia vào cấu trúc mà ở trước và sau nó là
các từ chỉ mức độ: hơi, quá, rất (ở đằng trước) và lắm, quá (ở đằng sau),
chẳng hạn như: hơi đẹp, quá tức giận, rất vui, buồn lắm, xinh quá…
Từ cũng có khả năng tham gia vào những cấu trúc từ vựng nhất định. Đó
là những kết hợp giữa một nghĩa của từ này với một nghĩa của từ khác để tạo
thành kết hợp sao cho có nghĩa đúng với thực tại, phù hợp với logic và thói
quen sử dụng ngôn ngữ của người bản ngữ. Chẳng hạn, đối với các kết hợp có
chứa từ lòng diễn tả tâm trạng của con người, có thể có đắng lòng, xót lòng…
mà không có những kết hợp kiểu như chua lòng, cay lòng…; ngược lại, với
những từ chua, cay, chúng ta có các kết hợp: giọng nói chua, cay mắt, cay
mũi… Điều này phụ thuộc vào khả năng kết hợp của từng từ: có những từ có
khả năng kết hợp cao nhưng có những từ, khả năng đó rất thấp.
1.2.2.2. Cách phân tích nghĩa của từ dựa vào ngữ cảnh
Để thực hiện phương pháp phân tích nghĩa của từ dựa vào ngữ cảnh,
chúng ta cần tiến hành các thao tác sau:
1.2.2.2.1. Thu thập ngữ cảnh
Đây chính là bước thu thập ngữ liệu cho quá trình phân tích nghĩa của từ.
Chúng ta phải tập hợp được một số lượng đủ lớn những ngữ cảnh có chứa từ
cần phân tích trong các loại văn bản thành văn thuộc các loại hình phong cách
chức năng khác nhau để đảm bảo cho một kết quả chính xác.
Chẳng hạn, các ngữ cảnh của từ béo2 mà luận văn thu thập được gồm:
(1) Con gà béo
(2) Cô gái béo
19
(3) Nó béo bệu.
(4) Không nên ăn nhiều chất béo!
(5) Miếng mồi có vẻ béo bở đấy!
(6) Đất béo
(7) Chỉ béo bọn con buôn.
(8) Gà rán béo ngậy.
(9) Trông nó béo phè.
(10) Ông ấy béo phệ.
(11) Nó bị béo phì.
1.2.2.2.2. Phân loại ngữ cảnh
Chúng ta hình dung rằng các nghĩa của một từ đa nghĩa sẽ cấu tạo thành
một mạng cấu trúc có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi nhóm ngữ cảnh sẽ
tương ứng với một nghĩa trong mạng cấu trúc này.
Vì thế, khi đã thu thập được đủ số lượng ngữ cảnh có thể phản ánh trọn
vẹn các nghĩa của từ, chúng ta sẽ tiến hành phân loại chúng thành những
nhóm ngữ cảnh đồng loại tương ứng với các nghĩa của từ.
Luận văn đã chia 11 ngữ cảnh của từ béo2 (đã liệt kê ở phần 1.2.2.2.1.)
Nghĩa 4
Nhóm NC 4
Nghĩa 3
Nhóm NC 3
Nghĩa 2
Nhóm NC 2
Nghĩa 1
Nhóm NC 1
Nho
20
thành 5 nhóm tương ứng với 5 nghĩa cơ bản của nó.
Nhóm 1 gồm ngữ cảnh (1), (2), (3), (9), (10), (11)
Nhóm 2 gồm ngữ cảnh (4)
Nhóm 3 gồm ngữ cảnh (5), (8)
Nhóm 4 gồm ngữ cảnh (6)
Nhóm 5 gồm ngữ cảnh (7)
1.2.2.2.3. Phân tích nghĩa
Sau khi phân loại các nhóm ngữ cảnh, chúng ta có thể tiến hành phân
tích nghĩa theo các bước sau:
1/ Loại bỏ nghĩa không thường trực (nếu có)
2/ Xác định nghĩa cơ bản của từ
Chúng ta có thể đặt từ trong mối tương quan với các từ khác cùng nhóm
(tương đồng, tương cận hoặc tương phản) để phát hiện ra nét nghĩa cơ bản
nhất trong cấu trúc nghĩa của từ.
Chẳng hạn, đối với trường hợp béo2 đã đề cập ở trên, tất cả 5 nghĩa mà
luận văn thu thập được (tương đương với 5 nhóm ngữ cảnh) đều là các nghĩa
thường trực của từ. Luận văn nhận thấy nghĩa 1 (nghĩa miêu tả tính chất “có
nhiều mỡ” của cơ thể động vật) xuất hiện trong đa số các ngữ cảnh (6 ngữ
cảnh) đồng thời các nghĩa khác đều xuất phát từ nghĩa này - đều chỉ ý nhiều
mỡ (Gà rán béo ngậy. Không nên ăn nhiều chất béo!), màu mỡ (đất béo), có
tác dụng nuôi béo đối tượng nào đó (Chỉ béo bọn con buôn.)… Khi đặt từ
béo2 trong nhóm từ tương quan (gầy2, mập, ốm2), chúng ta thấy rằng tính chất
có nhiều mỡ hay ít mỡ của cơ thể động vật chính là nghĩa cơ bản của cả nhóm
từ này. Như vậy, nghĩa 1 xuất hiện trong 6 nhóm ngữ cảnh trên chính là nghĩa
cơ bản của từ béo2.
Thực ra, nếu phân loại ngữ cảnh chuẩn xác thì về cơ bản, số nhóm ngữ
21
cảnh cùng loại sẽ tương ứng với số nghĩa khác nhau của từ bởi thao tác phân
loại ngữ cảnh đã bao hàm việc tách nghĩa từ trong đó.
1.2.2.3. Ngữ cảnh và sắc thái ngữ nghĩa của từ
Sử dụng ngữ cảnh trong phân tích STNN của từ có một hiệu quả đặc
biệt, nhất là đối với những đơn vị từ vựng khó xác định STNN.
Cũng như phân tích ngữ nghĩa của từ nói chung, việc đầu tiên chúng ta
cần làm khi sử dụng ngữ cảnh trong phân tích STNN của từ là thu thập ngữ
cảnh và phân loại chúng thành những loạt ngữ cảnh cùng loại.
Khi đã phân loại được các loạt ngữ cảnh cùng loại, chúng ta tiến hành
phân tích STNN của từ.
Nếu từ biểu hiện một STNN duy nhất trong toàn bộ ngữ cảnh đã thu thập
được, chúng ta kết luận từ mang STNN đó trong toàn bộ ngữ cảnh. Chẳng
hạn, nếu một từ tốt nghĩa trong tất cả các ngữ cảnh, chúng ta kết luận STNN
của từ là tốt nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh.
Đối với DTĐV trang5, trong tất cả các ngữ cảnh mà chúng tôi thu thập
được, từ này đều có biểu hiện tốt nghĩa, kể cả khi yếu tố cộng thêm là tốt
nghĩa (hào kiệt, thục nữ, quân tử, nam nhi) hay là trung hoà về nghĩa (thanh
niên). Vì vậy, luận văn đi đến kết luận trang5 mang STNN tốt trong toàn bộ
ngữ cảnh.
Nếu STNN của từ biến đổi ở các loạt ngữ cảnh khác nhau, chúng ta xét
hai trường hợp nhỏ sau:
1/ Nếu từ biến đổi STNN trong một (hay một vài) loạt ngữ cảnh nhất định với
cơ chế biến đổi rõ ràng, chúng ta kết luận từ đã biến đổi STNN. Chẳng hạn,
trong tất cả các nhóm ngữ cảnh, từ trung hòa về STNN, trừ trong loạt ngữ
cảnh chỉ người, nó có nghĩa xấu; chúng ta sẽ kết luận từ mang sắc thái trung
hòa về nghĩa nhưng biến đổi xấu nghĩa trong loạt ngữ cảnh nhất định.
22
Mớ1 là một trường hợp như vậy. Mớ1 mang STNN trung hoà trong hầu
hết các ngữ cảnh (mớ cá, mớ trầu cay, mớ dây, mớ khoai, mớ rau, mớ tóc…),
trừ trong loạt ngữ cảnh chỉ người như: mớ đàn ông, mớ đàn bà, mớ con gái,
mớ người…, mớ1 mang nghĩa xấu. Như vậy, chúng ta có thể kết luận mớ1
trung hoà về nghĩa nhưng biến đổi nghĩa trong loạt ngữ cảnh nhất định.
2/ Nếu từ có biểu hiện phức tạp về STNN ở các ngữ cảnh khác nhau mà
không có cơ chế biến đổi rõ ràng, chúng ta kết luận từ có STNN giao thoa
giữa các STNN. Chẳng hạn, một từ có biểu hiện trung hoà về nghĩa trong ngữ
cảnh này nhưng lại có biểu hiện xấu nghĩa trong một ngữ cảnh khác, chúng ta
nói từ đó có STNN giao thoa giữa trung hoà và xấu (TH - Xấu).
DTĐV tụi là một trường hợp như vậy. Khi phân tích các ngữ cảnh, luận
văn nhận thấy, STNN của tụi có biểu hiện khác nhau ở các ngữ cảnh khác
nhau mà không có cơ chế biến đổi rõ ràng. Đối với những ngữ cảnh chỉ
người, chẳng hạn như tụi nó, tụi có thể vừa mang STNN trung hoà vừa mang
STNN xấu. Nếu tụi nó được người nói dùng khi nói về những người bạn thân
thiết của mình với thái độ thân mật, tụi sẽ mang nghĩa trung hoà nhưng khi
dùng để nói về kẻ thù của mình, tụi sẽ mang nghĩa xấu với hàm ý coi khinh.
Như vậy, trên lý thuyết, các đơn vị từ vựng tiếng Việt có thể có các loại
STNN sau:
Đơn vị tốt nghĩa
Tốt nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh
Tốt nghĩa nhưng biến đổi STNN trong loạt ngữ cảnh nhất định
Đơn vị trung hòa về nghĩa
Trung hoà về nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh
TH về nghĩa nhưng biến đổi STNN trong loạt ngữ cảnh nhất định
Đơn vị xấu nghĩa
23
Xấu nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh
Xấu nghĩa nhưng biến đổi STNN trong loạt ngữ cảnh nhất định
Các đơn vị có STNN giao thoa
Giao thoa giữa sắc thái tốt nghĩa và trung hòa về nghĩa
Giao thoa giữa sắc thái tốt nghĩa và xấu nghĩa
Giao thoa giữa sắc thái trung hòa về nghĩa và xấu nghĩa
Giao thoa giữa sắc thái tốt nghĩa, trung hòa về nghĩa và xấu nghĩa
1.3. Sắc thái ngữ nghĩa của danh từ đơn vị và vị từ trạng thái tiếng Việt
Trong tiếng Việt, bên cạnh các đơn vị có sự biểu hiện rõ ràng về STNN
như thành ngữ, DK, các đơn vị chức năng… thì cũng có những đơn vị từ
vựng rất khó xác định STNN, nhất là những đơn vị đa nghĩa có khả năng kết
hợp cao dẫn đến có sự biểu hiện phức tạp về STNN.
Một trong những loại đơn vị như vậy là DTĐV và VTTT.
1.3.1. Danh từ đơn vị tiếng Việt và sắc thái ngữ nghĩa
1.3.1.1. Danh từ đơn vị tiếng Việt
Là bộ phận từ loại có vị trí quan trọng trong hệ thống từ loại của ngôn
ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng, danh từ tiếng Việt đã được các nhà
ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu trên nhiều phương diện, trong đó có các
tiểu loại của nó. Và như thế, một tiểu loại của danh từ tiếng Việt là DTĐV đã
được xem xét từ nhiều quan điểm với những tiêu chí phân loại và phương
pháp nghiên cứu khác nhau.
“DTĐV là loại danh từ biểu thị hình thức tồn tại của thực thể hoặc biểu
thị những sự vật được ngôn ngữ đối xử như những thực thể phân lập, có kích
thước xác định, có thể phân lượng hoá được, dùng để chỉ đơn vị của thực thể,
chuyên đảm đương chức năng thành tố chính trong cấu trúc danh ngữ”
24
[77,42].
DTĐV thiên về chỉ thuộc tính hình thức của thực thể. Theo Cao Xuân
Hạo, người Việt thiên về cách gọi tên sự vật dựa trên chất liệu hình thành nên
vật đó. Bản thân tên gọi không cung cấp cho ta một ý niệm nào về hình thức,
phân lập vật đó với những cái không phải là nó, mà chỉ đề cập đến thuộc tính
chủng loại của nó. Điều này rất khác so với tiếng Anh, ngôn ngữ thiên về
cách gọi tên sự vật dựa trên cả chất liệu và hình thức. Quan sát sự tương quan
giữa tiếng Anh và tiếng Việt chúng ta có thể nhận thấy điều này. Từ table
trong tiếng Anh phải được dịch trong tiếng Việt là cái/chiếc bàn bởi nó đã
bao hàm trong đó cả chất liệu và hình thức trong khi từ bàn của tiếng Việt chỉ
đơn thuần mang tính chất liệu. Nếu muốn thể hiện cả chất liệu và hình thức,
người Việt phải nhờ đến DTĐV như từ cái hoặc chiếc trong ví dụ trên.
Hai đặc trưng cơ bản của DTĐV là tính đếm được và tính đơn vị. Đây
cũng được xem là các tiêu chí khu biệt DTĐV trong hệ thống danh từ tiếng
Việt.
Tính đếm được
Căn cứ vào tiêu chí đếm được, Cao Xuân Hạo đã phân biệt hai loại danh
từ tiếng Việt: DTĐV (Danh từ đếm được, Count Nouns) và DK (Mass
Nouns). Theo ông, tính đếm được là đặc trưng của DTĐV [6,266-297].
Một ví dụ điển hình của tính đếm được trong tiếng Anh là chalk (phấn)
và stone (viên đá). Chúng ta có thể nói: a stone (một viên đá), two stones (hai
viên đá)… nhưng không thể nói a chalk, two chalks… Muốn diễn tả một viên
phấn, hai viên phấn, chúng ta phải dùng a piece of chalk, two pieces of chalk.
Nói cách khác, a và two không kết hợp được với chalk nhưng lại có thể kết
hợp được với piece. Như vậy, ta có thể thấy rằng stone, piece là danh từ đếm
được còn chalk là danh từ không đếm được.
25
Trong tiếng Việt, tính đếm được của DTĐV thể hiện ở khả năng kết hợp
sau các lượng từ (mấy, từng, mỗi, một, vài, đôi, dăm, những…). Những
DTĐV như cái, con, quyển, chiếc… đều có khả năng này (mấy cái, từng con,
mỗi quyển, một chiếc, vài con, đôi chiếc, dăm quyển, những cái…) trong khi
DK hầu như không có.
Tính đơn vị
Khái niệm đơn vị có thể hiểu với ba nội dung sau6:
1/ Đại lượng dùng để đo các vật đồng tính, chia cắt chúng ra thành những
phần quy ước bằng nhau (chẳng hạn sào, dặm, mét, năm, tháng, giây,
phút…). Với nghĩa này, DTDV được dùng để đo lường và qua đó mà tính
đếm sự vật.
2/ Vật rời được xác định (cái, con, tấm, đứa…) hoặc là tập hợp của những vật
đó thành một đơn vị (bầy, đàn, cụm, đống…). Với nghĩa vừa nêu, DTĐV
không dùng để biểu thị sự đo lường, mà dùng để tính đếm.
3/ Thành tố trong một hệ thống tổ chức/chỉnh thể nào đó (tỉnh, xã, trung
đội…) hoặc là yếu tố làm nên một chỉnh thể (câu, bài, từ…), những loại đơn
vị có tính văn hoá (hầu hết đều là từ Hán Việt).
Nguyễn Thị Ly Kha cho rằng, tính đơn vị mới là đặc trưng cơ bản của
DTĐV, chứ không phải tính đếm được, vì có những đơn vị là DK vẫn có tính
đếm được (chẳng hạn như học sinh, giáo viên, cầu thủ, quốc tịch…). Chính
tính đơn vị là dấu hiệu khu biệt danh từ [+đơn vị] và danh từ [-đơn vị] (như
quyển, chiếc, cân, tấc, xã, trung đội… với học sinh, giáo viên, cầu thủ, quốc
tịch…).
DTĐV thường không độc lập làm danh ngữ mà phải kết hợp với các yếu
tố khác để làm nên danh ngữ. Những trường hợp danh ngữ được cấu tạo từ
6
Xem [16,33] và [75,34-37]
26
hai DTĐV như tấm miếng, tấm món… chỉ là lối nói có tính thành ngữ mà
thôi. DTĐV có khả năng kết hợp với phân lượng từ7 (nửa cái, nửa con…), với
DK (cái bàn, con thuyền, chiếc lá…), với từ ngữ chỉ xuất (cái con mèo đen
ấy, cái quyển sách này…) và có thể mang mọi loại định ngữ như: định ngữ
bao hàm ý đơn nhất (quyển cuối cùng, con duy nhất, bức thứ hai…), định ngữ
bao hàm ý phức số (một bầy đông đúc, mấy thứ khác nhau…), định ngữ miêu
tả (con to tướng, chiếc đẹp nhất, cái đen xì…)…
Trong cấu trúc các danh ngữ, DTĐV chuyên đảm đương chức năng
thành tố chính. Chẳng hạn, khi xét danh ngữ: con mèo đen to tướng kia,
chúng ta nhận thấy tất cả các yếu tố: đen, to tướng, kia chỉ có quan hệ cú pháp
với DTĐV con, chứ không có quan hệ cú pháp với DK mèo, vì có thể có:
Nó ghét con mèo đen to tướng kia.
chứ không thể có:
*Nó ghét mèo đen to tướng kia.
Ngữ cảnh này cho thấy trung tâm của danh ngữ trên là con chứ không phải là
mèo. Cấu trúc cú pháp của danh ngữ con mèo đen to tướng kia là như sau:
con mèo đen to tướng kia
Các DTĐV có thể là:
1/ DTĐV không chất liệu (Danh từ hình thức thuần tuý)
Là những danh từ mà sở biểu chỉ bao gồm hình thức tồn tại phân lập (tuy
7
Cao Xuân Hạo cho rằng DTĐV có khả năng kết hợp với lượng từ. Tuy nhiên, Nguyễn Thị Ly Kha [75]
nhận thấy trong thực tế, có những danh từ chỉ chủng loại và đếm được, tức là có khả năng kết hợp với lượng
từ, nhưng không có tính đơn vị, không phân lượng hoá được nên đã sửa cụm từ “lượng từ” thành “phân
lượng từ”.
27
có thể kèm theo một vài thuộc tính hình thức khác), không chứa đựng những
thuộc tính nội dung (chất liệu). Chất liệu ở đây “không phải chỉ là vật liệu, mà
là cái tập hợp những đặc trưng làm cho một chủng loại sự vật này khu biệt với
các chủng loại khác” [6,293]. Chẳng hạn những DTĐV như cái, con… là
những danh từ hình thức thuần tuý.
2/ DTĐV chất liệu
Là những danh từ mà sở biểu, ngoài hình thức tồn tại phân lập, còn chứa
đựng những thuộc tính nội dung (chất liệu) tương tự như các DK. Vì có tính
trội về nội dung, nên đặc điểm ngữ pháp của nhóm này có những biểu hiện
không hoàn toàn rõ ràng, dứt khoát, nghĩa là chúng có thể được dùng như
DTĐV và cũng có thể được dùng như DK. Chẳng hạn, DTĐV bài, đại đội…
vừa có tính đơn vị lại vừa có tính chất liệu nên ta có thể dùng như những
DTĐV (hai bài, những đại đội đặc công…) vừa có thể dùng như những DK
(hai loại bài ấy, những kiểu đại đội…).
Nếu dựa vào tiêu chí chất liệu, chúng ta có hai loại DTĐVKCL và
DTĐVCL như trên; còn nếu dựa vào số lượng âm tiết, chúng ta có hai loại
DTĐV đơn tiết và DTĐV đa tiết.
1.3.1.2. Sắc thái ngữ nghĩa của danh từ đơn vị
Theo khảo sát của luận văn, những DTĐVKCL đa tiết như: niên kỷ, thế
kỷ, thời điểm, thời hạn và những DTĐVCL đa tiết như bệnh xá, công ty, hạm
đội, khối lượng, phân khối, thành đoàn... đều trung hoà về STNN. Trong các
danh ngữ một bệnh xá tốt, một bệnh xá rác rưởi, ai cũng nhận thấy rằng
không phải STNN của bệnh xá quy định STNN của cả danh ngữ mà chính các
yếu tố theo sau: tốt, rác rưởi đã quyết định sắc thái tốt hay xấu của cụm từ
này. Tương tự như vậy, hơn hai trăm DTĐVCL đa tiết8 còn lại đều được xem
8
Xem danh sách các DTĐV đa tiết này ở công trình của Nguyễn Thị Ly Kha [77]
28
như các đơn vị trung hoà về nghĩa. Do đó, trong luận văn, chúng tôi sẽ chỉ tập
trung xác lập STNN của DTĐV đơn tiết mà thôi.
Phần lớn DTĐV đơn tiết tiếng Việt mang STNN trung hòa. Các đơn vị
mang STNN tốt và STNN xấu chỉ chiếm một tỉ lệ rất khiêm tốn. Điều đáng
nói là trong bộ phận DTĐV đơn tiết mang sắc thái trung hòa có một số lượng
tương đối DTĐV bị biến đổi nghĩa trong loạt ngữ cảnh nhất định. Khám phá
cơ chế biến đổi nghĩa của chúng, chúng ta có thể phát hiện ra nét tinh tế trong
ngữ nghĩa tiếng Việt, từ đó giúp người Việt cũng như học viên nước ngoài
học tiếng Việt có ý thức sử dụng tiếng Việt một cách phù hợp hơn.
Bên cạnh đó, DTĐV đơn tiết tiếng Việt còn có những đơn vị có cùng
một nghĩa sở thị nhưng khác nhau về STNN. Đó là sự khác biệt mà những
học viên người nước ngoài học tiếng Việt, và đôi khi cả người Việt, cũng khó
nhận ra. Chẳng hạn như dấu1 và vết đều chỉ về cái để lại do tác động của
những sự vật, hiện tượng đã qua nhưng dấu1 mang sắc thái trung hoà trong
khi vết mang STNN giao thoa TH - Xấu. Trong các kết hợp vết mực, vết bẩn,
có vết…, vết mang nghĩa xấu còn trong kết hợp vết chân, vết lại mang nghĩa
trung hoà. Trong khi đó, từ dấu1 luôn xuất hiện với STNN trung hoà trong tất
cả các ngữ cảnh (dấu chân, dấu son, dấu tích, dấu vết…).
1.3.2. Vị từ trạng thái tiếng Việt và sắc thái ngữ nghĩa
1.3.2.1. Vị từ trạng thái tiếng Việt
Vị từ là những từ có khả năng làm chức năng của một vị ngữ trong câu
có cấu trúc chủ vị hay là thành phần chính trong thuyết ngữ của câu có cấu
trúc đề thuyết.
Cao Xuân Hạo [3,440] cho rằng, thuật ngữ “trạng thái” dùng để chỉ
chung “những tính chất và những tình trạng của sự vật”. Tính chất là đặc
trưng thường tồn của một đối tượng. Tình trạng là một trạng thái nhất thời. Và
29
sự phân biệt này dĩ nhiên là tương đối.
Cao Xuân Hạo cũng khu biệt tính chất thành hai cặp phạm trù: thể chất
và tinh thần. Ông còn phân biệt các tính chất vật chất ở các vật vô sinh (rắn,
mềm, đặc, loãng…) với các tính chất vật chất của các vật hữu sinh (khoẻ, yếu,
béo, gầy…). Trong nhóm các tính chất tinh thần ở con người, ông lại phân
biệt thành các tính chất thuộc trí tuệ (thông minh, dốt nát, nhanh trí, chậm
hiểu…), thuộc đạo đức (thật thà, trung thực, gian xảo…), thuộc phong cách
ứng xử (nóng nảy, bình tĩnh, nhu nhược…), thuộc cảm tính (nhạy cảm, lạnh
lùng, nhẫn tâm…).
Nếu tính chất là đặc trưng thường tồn nằm trong thuộc tính của một đối
tượng, thì tình trạng là một cách thức tồn tại nhất thời không nằm trong thuộc
tính của đối tượng. Tác động vật lý hay hoá học của môi trường làm nên các
tình trạng vật chất ở các vật vô sinh, trong khi các tình trạng vật chất có được
ở vật hữu sinh ngoài nguyên nhân này, cần kể thêm những nhân tố thuộc lĩnh
vực sinh lý. Những tình trạng tâm lý chủ quan: những cảm giác như đau,
nóng, khoái cảm…, những tâm trạng như vui, lo, sợ, mừng… chỉ có ở các
động vật.
Như vậy, về cơ bản, chúng ta có thể hiểu khái niệm VTTT như sau:
VTTT là vị từ biểu thị tính chất và tình trạng của sự vật.
Trong đề tài của mình, để phục vụ cho mục đích xác lập STNN của các
VTTT và các yếu tố cộng thêm vào các VTTT gốc, chúng tôi phân loại VTTT
dựa trên tiêu chí: Số lượng âm tiết.
Tiêu chí này được tiến hành để phân loại VTTT thành hai bộ phận: đơn
tiết và đa tiết. Tuy nhiên, vì VTTT đa tiết có biểu hiện khá đơn giản về STNN
cho nên luận văn sẽ tập trung bàn kỹ về bộ phận có biểu hiện về STNN phức
tạp hơn: VTTT đơn tiết.
30
1.3.2.2. Sắc thái ngữ nghĩa của vị từ trạng thái tiếng Việt
Có thể nói VTTT là lớp từ loại có STNN phức tạp, đặc biệt đối với các
từ đa nghĩa, vì vậy việc xác định STNN của chúng là điều không mấy dễ
dàng.
Mặc dù STNN trung hòa vẫn chiếm ưu thế trong VTTT tiếng Việt nhưng
tỉ lệ sắc thái tốt nghĩa và xấu nghĩa ở lớp từ này đã tăng vọt so với ở DTĐV.
Điều này không có gì khó hiểu bởi VTTT là lớp từ chỉ tính chất, tình trạng
của đối tượng, nghĩa là đã bao hàm sự đánh giá, nhận xét của con người trong
đó, mà đã gọi là đánh giá, nhận xét thì hiển nhiên sẽ xuất hiện sự phù hợp hay
không phù hợp với mong muốn của con người, tương ứng với STNN tốt/xấu;
trong khi đó DTĐV là loại từ chỉ cá thể, chỉ hình thức phân lập của thực thể,
vì vậy hầu hết các DTĐV không bao hàm sự đánh giá, nhận xét của con
người.
31
CHƢƠNG HAI
TỐT NGHĨA VÀ XẤU NGHĨA
TRONG DANH TỪ ĐƠN VỊ TIẾNG VIỆT
Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi khảo sát hiện tượng tốt nghĩa và
xấu nghĩa ở 396 DTĐV đơn tiết9 không chất liệu và 279 DTĐVCL với 4861
ngữ cảnh.
Một điều có thể dễ dàng nhận thấy là DTĐV trung hoà về nghĩa chiếm
ưu thế về số lượng trong DTĐV tiếng Việt (91.16% ở DTĐVKCL và 95.70%
ở DTĐVCL). Trong khi đó, STNN tốt, STNN xấu và các loại STNN giao
thoa (TH - Xấu và Tốt - Xấu) chiếm một tỉ lệ rất khiêm tốn. Điều này dẫn đến
một nhận xét ban đầu: dường như các DTĐV đều có biểu hiện STNN khá đơn
giản với xu hướng là trung tính.
Tỉ lệ các loại STNN ở hai bộ phận DTĐV không chênh lệch nhiều lắm.
Đơn vị tốt nghĩa có tỉ lệ khá cân bằng (1.52% so với 1.08%), còn đơn vị xấu
nghĩa và đơn vị có STNN giao thoa ở DTĐVKCL có tỉ lệ nhiều hơn ở
DTĐVCL một ít. Tất cả những điều này thể hiện ở các bảng thống kê dưới
đây: bảng thống kê STNN của từng bộ phận DTĐV tiếng Việt và bảng thống
kê STNN của DTĐV tiếng Việt nói chung.
Bảng 1. Bảng thống kê STNN của DTĐVKCL
Loại STNN Tốt TH Xấu Giao thoa Tổng cộng
Số lƣợng 6 361 20 9 396
% 1.52 91.16 5.05 2.27 100.00
9
Vì DTĐV đa tiết không được đề cập đến trong khi miêu tả STNN, vì vậy để giản lược, từ bây giờ trở đi,
chúng tôi gọi DTĐV thay cho DTĐV đơn tiết.
32
Bảng 2. Bảng thống kê STNN của DTĐVCL
Loại STNN Tốt TH Xấu Giao thoa Tổng cộng
Số lƣợng 3 267 6 3 279
% 1.08 95.70 2.15 1.08 100.00
Bảng 3. Bảng thống kê STNN của DTĐV
Loại STNN Số lƣợng %
Tốt nghĩa 9 1.33
TH về nghĩa 628 93.04
Xấu nghĩa 26 3.85
Giao thoa 12 1.78
Tổng cộng 675 100.00
2.1. Danh từ đơn vị tốt nghĩa
Như đã nói ở trên, đơn vị tốt nghĩa chiếm một tỉ lệ rất khiêm tốn trong
tổng số DTĐV tiếng Việt, chỉ có 9 trường hợp (1.33%). Dựa vào tính đồng
nhất về STNN trong toàn bộ ngữ cảnh mà các đơn vị này xuất hiện, luận văn
chia loại này thành hai nhóm: DTĐV tốt nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh và
DTĐV tốt nghĩa biến đổi nghĩa trong loạt ngữ cảnh nhất định. Dưới đây là
bảng thống kê hai nhóm DTĐV tốt nghĩa.
Bảng 4. Bảng thống kê DTĐV tốt nghĩa
DTĐV tốt nghĩa Số lƣợng %
Tốt nghĩa trong toàn bộ NC 5 55.56
Biến đổi STNN 4 44.44
Tổng cộng 9 100
33
Trong 9 trường hợp tốt nghĩa, có đến 5 trường hợp thuộc nhóm DTĐV
tốt nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh. Nếu xét riêng hai bộ phận DTĐVKCL và
DTĐVCL, các trường hợp tốt nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh chủ yếu rơi vào
bộ phận DTĐVKCL. DTĐVCL chỉ xuất hiện nhóm đơn vị tốt nghĩa bị biến
đổi STNN trong loạt ngữ cảnh nhất định.
Dưới đây là bảng thống kê các nhóm tốt nghĩa trong hai bộ phận DTĐV.
Bảng 5. Bảng thống kê các tiểu loại DTĐV tốt nghĩa
DTĐV tốt nghĩa SL %
Tốt nghĩa trong toàn bộ NC
DTĐVKCL 5 55.56
DTĐVCL 0 0.00
Biến đổi STNN
DTĐVKCL 1 11.11
DTĐVCL 3 33.33
Tổng cộng 9 100
2.1.1. Tốt nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh
Theo lý thuyết, loại đơn vị này mang sắc thái tốt nghĩa trong tất cả các
ngữ cảnh mà chúng tham gia. Chúng chỉ có thể kết hợp với những yếu tố tốt
nghĩa và/hoặc trung hoà để tạo thành những kết hợp mang nghĩa tốt và hoàn
toàn không có khả năng kết hợp với các yếu tố xấu nghĩa.
2.1.1.1. Bình thường về KNKH
4/5 DTĐV tốt nghĩa loại này (áng2
10, đấng, đứcII, trang5) đều tuân thủ
nguyên tắc kể trên một cách nghiêm ngặt: chỉ có thể kết hợp với cả hai mức
độ STNN (tốt và trung hoà) để tạo nên nghĩa tốt.
Dưới đây là một số kết hợp được tạo thành khi các DTĐV tốt nghĩa
nhóm này kết hợp với các yếu tố tốt nghĩa và trung hoà về nghĩa.
10
Từ dùng chỉ đơn vị thuộc loại sự vật được coi là có vẻ đẹp lộng lẫy, rực rỡ.
34
Kết hợp với những yếu tố tốt nghĩa
áng2
áng văn bất hủ
áng văn hay
áng văn kiệt tác
đấng
đấng anh hùng
đứcII
đức anh minh
đức chí tôn
trang5
trang hào kiệt
trang quân tử
trang thục nữ
Kết hợp với những yếu tố trung hoà
áng2
áng mây
áng văn
đấng
đấng mày râu
đấng sinh thành
đứcII
đức ấy
đức vua
trang5
trang nam nhi
trang thanh niên
2.1.1.2. Bất thường về KNKH
DTĐV trong nhóm này ngoài khả năng kết hợp với yếu tố trung hoà còn
có thể kết hợp với các yếu tố xấu nghĩa để tạo ra các kết hợp mang nghĩa xấu.
Chỉ có duy nhất 1 DTĐV thuộc nhóm này: vị1.
Vị1 có khả năng kết hợp với các yếu tố tốt nghĩa và trung hoà về nghĩa để
tạo ra các kết hợp mang nghĩa tốt như vị tướng tài, vị tướng, vị đại biểu, vị
khách… nhưng đồng thời cũng có thể kết hợp với các yếu tố xấu nghĩa để tạo
ra các kết hợp mang nghĩa xấu: vị tướng bất tài, vị khách điên rồ, vị khách
không mời…
2.1.2. Biến đổi sắc thái ngữ nghĩa trong loạt ngữ cảnh nhất định
DTĐV trong nhóm này có xu hướng biến đổi STNN sang trung hoà hoặc
xấu nghĩa. Danh sách nhóm này chỉ có 4 từ (1 DTĐVKCL và 3 DTĐVCL).
2.1.2.1. Biến đổi sang sắc thái ngữ nghĩa trung hoà
35
DTĐVKCL dịp1 ban đầu chỉ “toàn bộ nói chung những điều kiện khách
quan có được vào thời gian nào đó, thuận tiện để làm việc gì” (có dịp, dịp
được sống sung sướng, dịp hiếm có, dịp may, dịp may mắn, dịp thuận tiện,
dịp tốt…), nhưng nghĩa thứ hai của từ dịp1 đã mở rộng hơn so với nghĩa thứ
nhất, chỉ “khoảng thời gian gắn liền với sự việc được nói đến” (dịp ấy, dịp
cưới hỏi, dịp đầu xuân, dịp Tết…). Nếu nghĩa thứ nhất mang sắc thái tốt thì
nghĩa thứ hai chỉ mang sắc thái trung hoà.
Tương tự như vậy, DTĐVCL hội₁ ban đầu chỉ “cuộc vui tổ chức chung
cho đông đảo người dự, theo phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt” (ngày hội, hội
vui, hội xuống đồng, hội Lim, hội hè, hội xuân, hội mùa…) nhưng sau đó đã
mở rộng phạm vi đối tượng, chỉ “tổ chức quần chúng rộng rãi của những
người cùng chung một nghề nghiệp hoặc có chung một hoạt động” (hội từ
thiện, hội chữ thập đỏ, hội phá phách…). Như vậy, hội₁ đã biến đổi STNN
của mình từ tốt thành trung hoà trong loạt ngữ cảnh sau.
Nghĩa thứ nhất của DTĐVCL lẽ1 là điều thường thấy ở đời, được coi là
hợp với quy luật, với đạo lí (lẽ sống, phải lẽ, lẽ phải, lẽ tự nhiên, lẽ thường
tình…) nhưng nghĩa thứ hai của nó đã không giữ được sắc thái tốt nữa. Nghĩa
thứ hai chỉ “điều được coi là lí do giải thích, là nguyên nhân của sự việc” (làm
cho ra lẽ, vì nhiều lẽ…). So với nghĩa thứ nhất, nghĩa thứ hai của từ lẽ1 đã
giảm đi mức độ tích cực.
3.1.2.2. Biến đổi sang xấu nghĩa
Mánh có thể vừa có sắc thái tốt nghĩa với nét nghĩa thứ nhất - “ý tứ khôn
khéo, kín đáo” (Người khôn nói mánh, người dại đánh đòn) vừa có sắc thái
xấu nghĩa như trong các kết hợp về “lối khôn khéo đánh lừa người để mưu lợi
cho mình một cách không đàng hoàng, không chính đáng” (mánh khóeI,
mánh lớiI, mánh mung…) hoặc “môi giới giữa các bên để kiếm lợi một cách
36
bất minh” (chạy mánh, mánh ấy…). Rõ ràng những nét nghĩa sau của
DTĐVCL mánh đã biến đổi xấu nghĩa so với nghĩa ban đầu.
Như vậy, 4 DTĐV trên đều có chung một quy luật biến đổi STNN: nét
nghĩa thứ hai (và thứ ba) đã biến đổi sắc thái theo chiều hướng tiêu cực hơn
so với nét nghĩa thứ nhất.
2.2. Danh từ đơn vị trung hòa về nghĩa
DTĐV trung hoà về nghĩa có số lượng lớn nhất trong DTĐV tiếng Việt,
trong đó chủ yếu là loại DTĐV trung hoà trong toàn bộ ngữ cảnh. Nhóm
DTĐV trung hoà biến đổi STNN trong loạt ngữ cảnh nhất định chỉ chiếm tỉ lệ
6.05% tổng số các DTĐV trung hoà.
Bảng 6. Bảng thống kê DTĐV trung hoà về nghĩa
DTĐV TH Số lƣợng %
TH trong toàn bộ NC 590 93.95
Biến đổi STNN 38 6.05
Tổng cộng 628 100.00
Chỉ xét riêng trong 628 DTĐV trung hoà về nghĩa, tỉ lệ nhóm TH trong
toàn bộ ngữ cảnh ở DTĐVKCL cao hơn ở DTĐVCL, trong khi đó nhóm TH
bị biến đổi STNN ở hai bộ phận DTĐV là tương đương.
Bảng 7. Bảng thống kê các loại DTĐV trung hoà về nghĩa
DTĐV trung hoà về nghĩa SL %
TH trong toàn bộ NC
DTĐVKCL 342 54.46
DTĐVCL 248 39.49
Biến đổi STNN
DTĐVKCL 19 3.03
DTĐVCL 19 3.03
Tổng cộng 628 100.00
37
2.2.1. Trung hoà về nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh
Nhóm DTĐV này chiếm số lượng chủ yếu trong các DTĐV trung hoà về
nghĩa của tiếng Việt. STNN của nhóm này không biến đổi qua các loạt ngữ
cảnh khác nhau.
STNN của những kết hợp do các DTĐV nhóm này tạo ra phụ thuộc vào
STNN của yếu tố cộng thêm. Nếu kết hợp với các yếu tố tốt nghĩa, các đơn vị
này sẽ tạo ra các kết hợp tốt nghĩa; nếu kết hợp với các yếu tố trung hoà về
nghĩa, chúng sẽ tạo ra các kết hợp có STNN trung hoà; và nếu kết hợp với các
yếu tố xấu nghĩa, chúng sẽ tạo ra các kết hợp mang nghĩa xấu. Dựa vào khả
năng kết hợp, luận văn chia nhóm DTĐV này thành 2 nhóm nhỏ: 1. Nhóm
DTĐV trung hoà về nghĩa chỉ kết hợp với yếu tố TH. 2. Nhóm DTĐV trung
hoà về nghĩa có khả năng kết hợp với cả ba loại STNN. Dưới đây là bảng
phân loại DTĐV trung hoà theo khả năng kết hợp của chúng.
Bảng 8. Bảng phân loại DTĐVKCL trung hoà về nghĩa
theo khả năng kết hợp
TH TTHX Tổng cộng
SL % SL % SL %
108 31.58 234 68.42 342 100
Bảng 9. Bảng phân loại DTĐVCL trung hoà về nghĩa
theo khả năng kết hợp
TH TTHX Tổng cộng
SL % SL % SL %
100 40.32 148 59.68 248 100
Nhìn vào hai bảng trên, chúng ta có thể nhận thấy, khả năng DTĐV
trung hoà về nghĩa kết hợp với cả ba loại STNN là phổ biến hơn khả năng còn
lại. Điều này chứng tỏ khả năng kết hợp đa dạng của DTĐV trung hoà. Mặt
38
khác, chúng ta cũng thấy ở đây vắng mặt khả năng DTĐV trung hoà kết hợp
với hai yếu tố tốt và trung hoà và khả năng kết hợp với hai yếu tố xấu và
trung hoà. Điều này càng khẳng định rõ hơn sắc thái trung hoà của các đơn vị
này thay vì có xu hướng nghiêng về sắc thái tốt nghĩa hay xấu nghĩa.
2.2.2.1. Chỉ kết hợp với các yếu tố trung hoà
Nhóm DTĐV này chỉ có khả năng kết hợp với các yếu tố trung hoà về
nghĩa để tạo ra các kết hợp mang STNN trung hoà. Các DTĐV không chất
liệu chỉ đơn vị quy ước như: bảng3
11, bạt3
12
, bít1
13
, giây1, hào3, kỉ2
14, kỉ3
15
,
lai2… và một số DTĐV chất liệu chỉ các đơn vị hành chính như châu1,
chiềng1
16, chủng1, cục2, nha1, phủ1, quận2, sở2, sư2, viện1, vụ3… nằm trong
loại này.
2.2.2.2. Kết hợp với yếu tố tốt nghĩa, trung hoà về nghĩa và xấu nghĩa
Đây là nhóm DTĐV điển hình cho loại DTĐV trung hoà trong toàn bộ
ngữ cảnh. Nhóm này chiếm ưu thế về số lượng và mang những đặc trưng của
loại đơn vị trung hoà: khả năng kết hợp cao nên có thể kết hợp được với các
yếu tố ở đủ mọi STNN và do đó tạo ra các kết hợp đa dạng về ngữ nghĩa.
Dựa vào STNN của các kết hợp do DTĐV nhóm này tạo nên, chúng tôi
chia chúng thành hai nhóm nhỏ sau.
11
Bảng Anh
12
Bạt Thái
13
Đơn vị thông tin nhỏ nhất, được lưu giữ trong bộ nhớ của máy tính, tương đương với sự lựa chọn giữa một
trong hai giá trị (thường được ký hiệu bằng 0 và 1); một chuỗi 8 bít làm thành một byte, đơn vị thông tin cơ
bản của máy tính.
14
Kỷ carbon, kỷ nguyên
15
Khoảng thời gian giữa 12 năm
16
Mường hay bản lớn nhất, có lang cun hoặc phìa tạo ở, là trung tâm của khu vực do lang cun hoặc phìa tạo
cai trị.
39
2.2.2.3.1. Có quy trình kết hợp bình thường
Các DTĐV trong nhóm này có thể kết hợp với các yếu tố tốt nghĩa để
tạo nên những kết hợp tốt nghĩa, có thể kết hợp với các yếu tố trung hoà về
nghĩa để tạo nên những kết hợp trung hoà và cũng có thể kết hợp với các yếu
tố xấu nghĩa để tạo nên những kết hợp mang nghĩa xấu.
Chẳng hạn, DTĐV trung hoà bướcII17 vừa có thể kết hợp với những yếu
tố tốt nghĩa (tiến bộ) để tạo thành những kết hợp mang nghĩa tốt (bước tiến
bộ), vừa có thể kết hợp với những yếu tố trung hoà (một, hai, này, kia…) để
tạo thành những kết hợp mang nghĩa trung hoà (bước một, bước hai, bước
này, bước kia…) và vừa có thể kết hợp với những yếu tố xấu nghĩa (thụt lùi)
để tạo thành những kết hợp mang nghĩa xấu (bước thụt lùi).
Khả năng kết hợp của DTĐVKCL bướcII có thể được hệ thống thành
một quy trình như sau:
bướcII (TH) + tiến bộ (T) → bước tiến bộ (T)
bướcII (TH) + một/hai/này/kia… (TH) → bước một/hai/này/kia… (TH)
bướcII (TH) + thụt lùi (X) → bước thụt lùi (X)
Như vậy, một quy trình kết hợp của các DTĐV trung hoà với các yếu tố
khác được xem là bình thường sẽ có dạng như sau:
1/ A (TH) + B (T) → C (T)
2/ A (TH) + B (TH) → C (TH)
3/ A (TH) + B (X) → C (X)
Với A là DTĐV trung hoà về nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh
B là yếu tố cộng thêm
C là kết hợp được tạo thành từ hai yếu tố trên
Hầu hết các DTĐV có khả năng kết hợp với 3 loại STNN đều thực hiện
theo đúng quy trình trên, chẳng hạn như các quy trình kết hợp của DTĐVCL
17
Phần chia nhỏ của một quá trình; giai đoạn
40
bướcII18
bướcII + hùng dũng (T) → bước (chân) hùng dũng (T)
bướcII + chân (TH) → bước chân (TH)
bướcII + uể oải (X) → bước (chân) uể oải (X)
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có một vài trường hợp không tuân theo quy
trình này. Chúng tôi gọi các đơn vị này là các DTĐV trung hoà có quy trình
kết hợp bất thường.
2.2.2.3.2. Có quy trình kết hợp bất thường
Chỉ trong một vài ngữ cảnh, các DTĐV trong nhóm này đi chệch ra khỏi
quy trình kết hợp chung. Xét trên lý thuyết, quy trình kết hợp chúng tạo ra sẽ
có dạng:
1/ A (TH) + B (T) →C (TH/X)
2/ A (TH) + B (TH) →C (T/X)
3/ A (TH) + B (X) →C (T/TH)
Với A là DTĐV trung hoà về nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh
B là yếu tố cộng thêm
C là các kết hợp được tạo thành từ hai yếu tố trên. C có thể mang một
trong hai loại STNN đề cập trong ngoặc ().
Với những dữ liệu chúng tôi thu thập được, có hai loại bất thường như
sau.
Trƣờng hợp 1: A (TH) + B (T/X) → C (TH)
DTĐV trung hoà có khả năng kết hợp với yếu tố tốt nghĩa hoặc xấu
nghĩa để tạo thành các kết hợp có STNN trung hoà.
Chẳng hạn như DTĐV phái1
19
có thể kết hợp với yếu tố tốt nghĩa (đẹp,
18
Khoảng cách giữa hai chân khi bước
19
Tập hợp người đứng về một phía nào đó, trong quan hệ với những người phía khác.
41
mạnh) và các yếu tố xấu nghĩa (yếu) để tạo thành các kết hợp mang nghĩa
trung hoà (phái đẹp, phái mạnh, phái yếu). Quy trình kết hợp của chúng có
thể được viết lại như sau:
phái1 (TH) + đẹp (T) → phái đẹp (TH)
phái1 (TH) + mạnh (T)→ phái mạnh (TH)
phái1 (TH) + yếu (X) → phái yếu (TH)
Muốn lý giải cho các trường hợp này có lẽ phải viện đến sự biến đổi tính
chất của các yếu tố đi sau từ phái1. Đẹp, yếu, mạnh vốn là các VTTT chỉ tính
chất nhưng trong các kết hợp này, chúng đã được hình dung như yếu tố dùng
để phân biệt các tiểu loại của phái1. Như vậy, cách giải quyết thoả đáng là
xem phái đẹp, phái yếu, phái mạnh cũng giống như phái nam, phái nữ, nghĩa
là không mang STNN đánh giá, chỉ đơn giản là định danh mà thôi.
Trƣờng hợp 2: A (TH) + B (TH) → C (T/X)
Trong trường hợp này, các DTĐV trung hoà kết hợp với các yếu tố trung
hoà khác để tạo thành các kết hợp mang nghĩa tốt hoặc xấu thay vì các kết
hợp mang STNN trung hoà như trên lý thuyết.
Các kết hợp tốt nghĩa và xấu nghĩa được tạo ra trong trường hợp này đều
ít nhiều mang tính thành ngữ, chẳng hạn kết hợp tốt nghĩa như kiểu như:
khuôn mẫu (khuônI) và các kết hợp mang nghĩa xấu như: bụi bờ (bụi1), bờ bụi
(bờ), bữa đực bữa cái, bữa no bữa đói (bữa), nửa vời, nửa mùa, nửa nạc nửa
mỡ, nửa dơi nửa chuột (nửaI), làng chơi (làng), lời ong tiếng ve, lời qua tiếng
lại, lời ra tiếng vào (lời2), tiếng bấc tiếng chì (tiếng1)…
Ngoài ra, còn có các trường hợp DTĐV trung hoà có thể kết hợp với các
yếu tố trung hoà có thể tạo ra các kết hợp xấu nghĩa hay tốt nghĩa khi dùng
với nghĩa hình tượng như: lỗ1 (lỗ hổng), trái1 (trái ngọt, trái đắng).
42
2.2.2. Biến đổi sắc thái ngữ nghĩa trong loạt ngữ cảnh nhất định
Các DTĐV nhóm này có khả năng biến đổi STNN trong loạt ngữ cảnh
nhất định theo hai hướng: hướng biến đổi tốt nghĩa và hướng biến đổi xấu
nghĩa, nghĩa là trong loạt ngữ cảnh ấy, các DTĐV có nghĩa tốt hoặc nghĩa xấu
thay vì nghĩa trung hoà.
Trong hai hướng biến đổi này, biến đổi xấu nghĩa được xem là hướng
biến đổi chính của các DTĐV trung hoà với tỉ lệ 78.95%. Nếu xét riêng hai bộ
phận DTĐV, DTĐVCL có tỉ lệ biến đổi tốt nghĩa cao hơn một ít (26.32% so
với 15.79%). Dưới đây là bảng thống kê các hướng biến đổi STNN của từng
bộ phận DTĐV trung hoà và DTĐV trung hoà nói chung.
Bảng 10. Bảng thống kê hƣớng biến đổi của DTĐVKCL trung hoà
Hƣớng biến đổi Số lƣợng %
Biến đổi tốt nghĩa 3 15.79
Biến đổi xấu nghĩa 16 84.21
Tổng cộng 19 100.00
Bảng 11. Bảng thống kê hƣớng biến đổi của DTĐVCL trung hoà
Hƣớng biến đổi Số lƣợng %
Biến đổi tốt nghĩa 5 26.32
Biến đổi xấu nghĩa 14 73.68
Tổng cộng 19 100.00
Bảng 12. Bảng thống kê hƣớng biến đổi của DTĐV trung hoà
Hƣớng biến đổi Số lƣợng %
Biến đổi tốt nghĩa 8 21.05
Biến đổi xấu nghĩa 30 78.95
Tổng cộng 38 100.00
43
2.2.2.1. Biến đổi tốt nghĩa
Các DTĐV trong nhóm này có xu hướng biến đổi tốt nghĩa, nghĩa là ở
một nét nghĩa hay một loạt ngữ cảnh nhất định nào đó, chúng sẽ có STNN tốt
thay vì trung hoà.
DTĐVCL bậc được dùng với nghĩa đơn vị đầu tiên là để chỉ “hạng, thứ
xếp theo trình độ cao thấp, trên dưới” (bậc bốn, vượt bậc, bậc thầy…) nhưng
sau đó nó đã biến đổi theo chiều hướng tốt nghĩa, dùng để chỉ “người thuộc
hàng đáng tôn kính” (bậc tiền bối, bậc anh hùng, bậc cha mẹ…).
Nghĩa đầu tiên của DTĐVKCL thiên1 chỉ “từng phần lớn của quyển sách
(thường là sách cổ), thường gồm có nhiều chương” (Sách Luận ngữ có cả
thảy hai mươi thiên, thiên dở, thiên hay…), nghĩa thứ hai của nó mang sắc
thái tốt nghĩa chỉ “từng đơn vị bài viết, tác phẩm có giá trị” với hàm ý trang
trọng (thiên phóng sự, thiên truyện, thiên tiểu thuyết…).
DTĐVCL sắc3 có nghĩa ban đầu chỉ màu sắc (sắc hồng, sắc cầu vồng,
sắc xanh, sắc tím, sắc hoa, sắc phục…), nghĩa thứ hai chỉ “nước da và những
biểu hiện trên mặt con người, phản ánh tình trạng sức khoẻ hay trạng thái tâm
lí, tình cảm nhất định” (sắc mặt hồng hào, sắc mặt tái nhợt…), và nghĩa thứ
ba chỉ “vẻ đẹp của người phụ nữ” (sắc đẹp, gái sắc, tài sắc…). Như vậy rõ
ràng là ở nghĩa thứ ba với loạt ngữ cảnh về ngoại hình của người phụ nữ, từ
sắc3 đã có sự biến đổi STNN so với nghĩa ban đầu.
Các DTĐV trung hoà có hướng biến đổi tốt nghĩa khác là: đoá, niềm
(DTĐVKCL) và phép, quả1, thời1 (DTĐVCL).
2.2.2.2. Biến đổi xấu nghĩa
Ở một (một vài) nét nghĩa hay một (một vài) loạt ngữ cảnh nhất định nào
đó, các DTĐV trong nhóm này có xu hướng biến đổi xấu nghĩa, nghĩa là
chúng sẽ có STNN xấu thay vì trung hoà.
44
2.2.2.2.1. Kết hợp với yếu tố chỉ người
a. Nhóm bầy, đàn4, đám, mớ1, xâu2III + Yếu tố chỉ người
bầy, đàn4
Từ bầy, đàn4 vốn chỉ đám đông động vật cùng sống với nhau (bầy chim,
bầy gia súc, bầy đàn, bầy dê, đàn gà, đàn kiến, đàn gia súc…) và mang
STNN trung hoà, nhưng khi dùng để chỉ đám đông người thì các từ này đã
biến đổi xấu nghĩa (bầy người, đàn thằng ngọng, đàn công tử…). Mặc dù
vậy, trong các kết hợp như bầy trẻ, bầy lại mang nghĩa trung hoà, nghĩa là
không mang sắc thái coi khinh mà mang sắc thái thân mật. Như chúng ta đã
biết, ranh giới giữa sắc thái coi khinh hay thân mật rất mong manh. Cùng một
từ, nhưng trong ngữ cảnh này thì được xem là thân mật, trong ngữ cảnh khác
thì lại được xem là coi khinh. Chẳng hạn việc dùng các từ xưng hô mày, tao
trong các cuộc đối thoại giữa những người bạn bè thân thiết thì được xem là
thân mật, còn trong các cuộc khẩu chiến giữa những kẻ thù không đội trời
chung, đó sẽ là coi khinh. Trong trường hợp bầy trẻ, sở dĩ bầy vẫn giữ được
STNN trung hoà là vì kết hợp này thường được dùng với sắc thái thân mật
trong các ngữ cảnh mà người nói/người viết đều ở bậc trên (tuổi tác, địa vị…)
so với đối tượng được đề cập đến.
đám
Trong 6 nét nghĩa của từ đám trong từ điển thì có đến 5 nét nghĩa chỉ
đơn vị, trong đó có nét nghĩa thứ 5 chỉ tập hợp người: “tập hợp gồm một số
người có cùng một nét chung nào đó. Đám bạn bè của anh ta.”
Trong các kết hợp chỉ đơn vị chỉ vật (đám cây, đám cháy, đám cỏ…),
ruộng đất (đám đất, đám ruộng…) hay một số đông tập hợp lại (đám ma, đám
rước, đám lễ…), từ đám có STNN trung hoà. Nhưng trong các kết hợp chỉ tập
hợp người, STNN của từ đám có sự biến đổi.
Chúng ta hãy cùng xét các kết hợp sau:
45
Nhóm 1: đám trẻ, đám học sinh…
Nhóm 2: đám con gái, đám con trai, đám thân thích, đám bạn bè…
Nhóm 3: đám lính, đám người, đám quân, đám phu kiệu, đám thủ hạ…
Nhóm 4: đám cựu thần, đám kiêu binh, đám hào kiệt, đám quan quân, đám
thân quân…
Nhóm 1 không mang sắc thái coi khinh, chỉ mang sắc thái thân mật.
Nhóm 2 có thể mang sắc thái coi khinh hoặc thân mật.
Nhóm 3 và nhóm 4 mang sắc thái coi khinh.
Quan sát 4 nhóm kết hợp kể trên, chúng ta có thể nhận thấy từ đám
không bị biến đổi xấu nghĩa trong nhóm kết hợp 1 (đám trẻ, đám học sinh).
Lý giải cho điều này cũng giống như trường hợp bầy trẻ ở trên: kết hợp này
được dùng trong các ngữ cảnh mà người nói/người viết đều ở bậc trên (tuổi
tác, địa vị…) so với đối tượng được đề cập đến nên nó vẫn giữ được STNN
trung hoà.
Ở nhóm 2, từ đám có STNN tuỳ thuộc vào ngữ cảnh người nói/viết sử
dụng. Ở nhóm 3 và nhóm 4, đám có STNN xấu với hàm ý coi khinh thường
được người nói/người viết sử dụng để nói về những người không có quan hệ
thân thiết với mình hoặc không bao gồm mình trong đó. Đặc biệt với các yếu
tố cộng thêm mang nghĩa tốt (cựu thần, hào kiệt…), sắc thái xấu nghĩa của cả
kết hợp này được đẩy lên một mức. Lý do là ở đây đã có một sự tương phản
khi dùng một từ có sắc thái bị biến đổi thành xấu nghĩa để nói về một đối
tượng mang sắc thái tích cực.
Bảng 13. Bảng thể hiện sự kết hợp của DTĐV đám
DTĐV
Kết hợp từ
STNN của
DTĐV
STNN của yếu tố
cộng thêm
STNN của
cả kết hợp
đám đám cây TH TH TH
đám đám cháy TH TH TH
46
đám đám củi TH TH TH
đám đám tro TH TH TH
đám đám sương mù TH TH TH
đám đám cưới TH TH TH
đám đám đông TH TH TH
đám đám giỗ TH TH TH
đám đám hỏi TH TH TH
đám đám hội TH TH TH
đám đám khao TH TH TH
đám đám ma TH TH TH
đám đám rước TH TH TH
đám đám trẻ TH TH TH
đám đám học sinh TH TH TH
đám đám bạn bè TH/X TH TH/X
đám đám con gái TH/X TH TH/X
đám đám con trai TH/X TH TH/X
đám đám lính X TH X
đám đám người X TH X
đám đám phu kiệu X TH X
đám đám quân X TH X
đám đám thổ hào X TH X
đám đám thủ hạ X TH X
đám đám cựu thần X T X
đám đám hào kiệt X T X
đám đám kiêu binh X T X
đám đám thân quân X T X
đám đám ăn xin TH/X X X
đám đám du côn TH/X X X
47
đám đám đầu gấu TH/X X X
đám đám loạn quân TH/X X X
đám đám nịnh thần TH/X X X
đám đám ruồi nhặng TH/X X X
mớ1
Bản thân mớ1 không phải là một từ xấu nghĩa. Trong từ điển, nghĩa đầu
tiên của từ mớ1 được ghi là: “Tập hợp gồm một số vật cùng loại được gộp lại,
gom lại thành đơn vị. Mua mấy mớ rau. Một mớ cá.” Xem một số ngữ cảnh
chúng tôi đã liệt kê bên dưới để thấy rằng: mớ1 hoàn toàn trung hoà về nghĩa
với các kết hợp mang nghĩa trung hoà khi kết hợp với các yếu tố trung hoà
khác (mớ cá, mớ dây, mớ khoai, mớ rau, mớ tóc, mớ trầu cay…).
Tuy nhiên, trong từ điển còn có một nghĩa thứ hai của từ mớ1: “Số lượng
tương đối nhiều những vật, những thứ cùng loại, nhưng khác nhau nhiều và ở
tình trạng lộn xộn, ngổn ngang, không theo một trật tự nào cả (hàm ý chê).”
Nghĩa thứ hai này phái sinh từ nghĩa thứ nhất và điều đó có nghĩa là từ mớ1 đã
có xu hướng biến đổi nghĩa theo chiều hướng tiêu cực trong những ngữ cảnh
kiểu như mớ tín ngưỡng, mớ lý luận suông, mớ lộn xộn, mớ bòng bong, mớ
giấy lộn…
Trong các kết hợp trên, chúng ta còn có thể nghi ngờ STNN xấu của từ
mớ1, bởi vì hoàn toàn có thể cho rằng sắc thái xấu nghĩa của cả kết hợp được
góp phần từ từ mớ1, hoặc từ yếu tố cộng thêm, hoặc từ cả hai yếu tố nhưng rõ
ràng trong các kết hợp kiểu như mớ đàn bà, mớ đàn ông, mớ người…, chúng
ta không thể nói sắc thái xấu nghĩa của cả kết hợp do các yếu tố cộng thêm
(đàn bà, đàn ông, người…) mang lại. Ở đây chỉ có một hướng giải quyết duy
nhất đó là xác lập STNN tiêu cực cho từ mớ1 trong loạt ngữ cảnh này.
Tại sao lại có sự biến đổi STNN này? Chúng ta nhận thấy rằng trong cả
48
hai nghĩa của từ mớ1, không có nghĩa nào chỉ tập hợp người cả. Nó chỉ dùng
để nói về vật mà thôi. Vì vậy, chúng ta có thể dễ dàng phát hiện sự tinh tế
trong cách dùng từ ở đây: dùng từ chỉ về vật để nói về con người nghĩa là đã
có hàm ý coi khinh, không tôn trọng.
xâu2III
Đối với trường hợp xâu2III, chúng ta cũng giải quyết như đối với trường
hợp mớ1. Bản thân xâu2III không phải là một từ xấu nghĩa. Trong từ điển,
nghĩa đầu tiên của từ xâu2III được ghi là “tập hợp những vật được xâu chung
lại với nhau” (xâu bánh chưng, xâu cá, xâu chìa khóa…). Tuy nhiên, nghĩa
thứ hai của xâu2III lại mang sắc thái xấu nghĩa “tập hợp nhiều người cùng
một loại không được coi trọng như nhau, làm thành một đám, một dãy” (xâu
người, xâu trẻ con, hàng xâu hàng xốc…).
b. Nhóm dạng, hạng, giống1, kiểu, loài, loại₁,môn2, phường, thớ, thứ1 + Yếu
tố liên quan đến con người
Các DTĐV trên đều là các đơn vị dùng để chỉ một loại, một kiểu sự vật,
hiện tượng. Nghĩa thứ nhất của chúng đều mang sắc thái trung hoà (dạng bột,
dạng lỏng, hạng ghế, hạng vé, giống cây trồng, giống vật nuôi, kiểu áo, kiểu
tóc, loài động vật, loài thực vật, loại ghế, loại vải, môn toán, môn văn,
phường chèo, phường vải, thớ gỗ, thứ áo, thứ vải…) nhưng khi kết hợp với
các yếu tố liên quan đến con người, những từ này biến đổi xấu nghĩa.
Dưới đây là một số kết hợp xấu nghĩa do các DTĐV kể trên tạo ra khi
kết hợp với các yếu tố liên quan đến con người.
dạng
dạng đàn bà
dạng đàn ông
dạng người
dạng ba hoa
dạng trộm cắp
giống1
giống đàn bà
giống đàn ông
giống tư sản
giống ba hoa
giống trộm cắp
hạng
hạng đàn bà
hạng đàn ông
hạng người
49
hạng lăng nhăng
hạng trộm cắp
kiểu
kiểu con gái
kiểu đàn bà
kiểu đàn ông
kiểu ba hoa
kiểu lăng nhăng
loài
loài đàn bà
loài đàn ông
loài ba hoa
loài lăng loàn
loài trộm cắp
loại1
loại đàn bà
loại đàn ông
loại người
loại lăng loàn
loại trộm cắp
phƣờng
phường ấy
phường ba hoa
phường lăng loàn
phường trộm cắp
phường vô dụng
môn2
môn ăn diện
môn ba hoa
môn nịnh hót
môn nói khoác
môn tán gái
thớ
thớ ấy
thớ người
thớ lăng loàn
thớ lăng nhăng
thớ trộm cắp
thứ1
thứ chồng
thứ con
thứ người
thứ ba hoa
thứ trộm cắp
c. Nhóm nắmII, dúm, nhúm + Yếu tố chỉ người/thuộc tính của người
Với ý nghĩa là một lượng nhỏ vật gì đó được nhúm lấy, nắm lấy trong
một lần, nắmII, dúm, nhúm có STNN trung hoà. Tuy nhiên, khi chúng kết hợp
với các yếu tố chỉ người hay thuộc tính của người như trong các kết hợp bên
dưới đây, các kết hợp đó lại mang STNN tiêu cực. Chúng hàm ý là ít ỏi, đồng
nghĩa với STNN xấu.
dúm2
dúm người
dúm tuổi
dúm thịt
dúm xương
nắmII
nắm da
nắm xương
nhúm1II
nhúm người
nhúm tuổi
d. “bản2” + Yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người (mặt)
Từ bản2 chỉ có duy nhất một kết hợp trong đó nó mang nghĩa xấu: bản
mặt. Người ta thường nói: Bản mặt anh ta khó ưa. Không ai nói: Bản mặt anh
ta dễ thương. Nói như vậy để thấy bản mặt mang sắc thái tiêu cực, và cụ thể
là ở đây, DTĐV bản2 xấu nghĩa.
50
Nguyên nhân là bản2 vốn dùng để chỉ vật (bản án, bản báo cáo, bản bút
thiếp, bản chỉ thị, bản chính, bản chứng nhận, bản danh sách, bản dịch, bản
đồ, bản ghi âm, bản giao hưởng…), nay được dùng để chỉ mặt người với hàm
ý chê bai, coi khinh.
e. con2 + Yếu tố chỉ cá nhân người (nữ)
Con2 vốn là DTĐV mang STNN trung hoà (con dao, con dấu, con
đường, con mắt, con mèo, con sông, con tàu, con tim, con thuyền, con đực,
con cái…), nhưng biến đổi xấu nghĩa trong một số trường hợp chỉ cá nhân
người đàn bà, con gái với hàm ý coi khinh (con đàn bà, con mẹ, con ấy, con
kế toán, con trợ lý...).
f. kiếp - nét nghĩa “thân phận”
Nghĩa đầu tiên (khoảng thời gian sống của một con người từ lúc sinh ra
cho đến lúc chết) và nghĩa thứ ba (đời sống của con người, chết đi lại có một
đời sống khác, trong một thể xác khác, trước và sau có quan hệ nhân quả với
nhau, theo thuyết luân hồi của đạo Phật) của từ kiếp mang STNN trung hoà
(ăn đời ở kiếp, kiếp trước, kiếp sau…) nhưng nghĩa thứ hai của nó đã có sự
biến đổi STNN, chỉ “thân phận của con người, coi như một định mệnh, một
sự đầy ải” (kiếp người, kiếp đời, kiếp đàn bà, kiếp nô lệ, kiếp trâu ngựa, kiếp
hồng nhan, kiếp phong trần…).
2.2.2.2.2. Kết hợp với yếu tố chỉ động vật và yếu tố chỉ người
Mống2 vốn được dùng để chỉ mầm mới nhú và hoàn toàn mang sắc thái
trung hoà (mống khoai), nhưng khi được dùng để chỉ người và động vật với
hàm ý ít ỏi, nó đã biến đổi STNN thành tiêu cực (mống đàn bà, mống đàn
ông, mống người, vài mống, vài mống chó, vài mống gà…).
51
2.2.2.2.3. Kết hợp với yếu tố chỉ đám đông, có quan hệ lợi ích với nhau
Từ bè1 khi được dùng với nghĩa là một tập hợp kết từ những cây rau, cỏ,
tre, nứa…, nó có STNN trung hoà còn khi được dùng để chỉ sự liên kết giữa
một nhóm người (bè cánh, bè đảng, bè lũ, bè phái…), nó thường mang nghĩa
tiêu cực.
Từ phe không được dùng với nghĩa là một tập hợp kết lại từ thực vật như
bè1 mà chỉ là một tập hợp người liên kết với nhau. Trong các kết hợp kiểu như
phe mình, phe ta…, từ phe có sắc thái trung hoà, nhưng trong các kết hợp
kiểu như phe cánh, phe phái, phe lũ…, từ phe có chiều hướng tiêu cực.
2.2.2.2.4. Các kiểu kết hợp khác
ChuyệnI hoàn toàn trung hoà về nghĩa khi biểu thị “sự việc được kể lại,
nhắc lại, hoặc được nói đến” (chuyện lạ, chuyện cũ, kể chuyện…) hoặc biểu
thị “việc, công việc, nói chung” (chuyện chồng con, chuyện học hành, chuyện
yêu đương…) nhưng nó biến đổi xấu nghĩa trong nét nghĩa chỉ “việc lôi thôi,
rắc rối” (gặp chuyện, gây chuyện, xảy ra chuyện…). Rõ ràng trong các kết
hợp gặp chuyện, gây chuyện, xảy ra chuyện, sắc thái xấu nghĩa của cả tổ hợp
do chuyện mang lại chứ không phải do các yếu tố gặp, gây, xảy ra… mang
lại.
Nét nghĩa thứ nhất của trò1 là “hoạt động diễn ra trước mặt người khác,
trước đám đông để mua vui” (trò ảo thuật, trò giải trí, trò chơi…) nhưng
nghĩa thứ hai của nó đã biến đổi STNN, chỉ “việc làm bị coi là không ngay
thẳng hoặc thiếu nghiêm chỉnh” (trò cờ bạc, trò lừa đảo, giở trò…). Trong
các kết hợp trò cờ bạc, trò lừa đảo, người ta còn có thể nghi ngờ STNN xấu
của yếu tố trò vì có thể STNN xấu của cả kết hợp do các yếu tố cờ bạc, lừa
đảo tạo ra. Tuy nhiên, trong kết hợp giở trò, chúng ta dễ dàng nhận ra chính
STNN của trò đã quyết định STNN của cả kết hợp.
52
Các DTĐV khác thuộc nhóm này là: quầng (quầng sáng, trăng quầng,
quầng thâm, mắt có quầng), tao2 (tao dây, tao loạn lạc, mấy tao điêu đứng),
thói (thói quen, quen thói, thói gian, thói hư tật xấu), tấn2 (tấn tuồng cổ, tấn
bi kịch, tấn trò đời).
2.3. Danh từ đơn vị xấu nghĩa
Trong 675 DTĐV, DTĐV xấu nghĩa chiếm một tỉ lệ khá nhỏ, 3.85%
(xem bảng 3), trong đó, nhóm đơn vị xấu nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh chiếm
ưu thế so với nhóm còn lại. Chúng ta có thể kiểm nghiệm điều này qua bảng
thống kê các nhóm DTĐV xấu nghĩa dưới đây.
Bảng 14. Bảng thống kê các nhóm DTĐV tiếng Việt xấu nghĩa
DTĐV xấu nghĩa Số lƣợng %
Xấu nghĩa trong toàn bộ NC 25 96.15
Biến đổi STNN 1 3.85
Tổng cộng 26 100.00
Trong các DTĐV xấu nghĩa, có đến 96.15% đơn vị xấu nghĩa trong toàn
bộ ngữ cảnh, chỉ có 3.85% đơn vị không giữ nguyên sắc thái xấu nghĩa qua
các loạt ngữ cảnh khác nhau. DTĐV xấu nghĩa bị biến đổi STNN chỉ xuất
hiện một trường hợp ở DTĐVCL trong khi đó ở DTĐVKCL, tỉ lệ đơn vị xấu
nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh lại chiếm ưu thế so với DTĐVCL.
Bảng 15. Bảng thống kê hai loại DTĐV xấu nghĩa
DTĐV xấu nghĩa SL %
Xấu nghĩa trong toàn bộ NC
DTĐVKCL 20 76.92
DTĐVCL 5 19.23
Biến đổi STNN
DTĐVKCL 0 0.00
DTĐVCL 1 3.85
Tổng cộng 26 100.00
53
2.3.1. Xấu nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh
Theo lý thuyết, một đơn vị xấu nghĩa chỉ có thể kết hợp với các yếu tố
trung hoà và xấu nghĩa để tạo thành những đơn vị mang nghĩa xấu. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy vẫn có những ngoại lệ. Dựa vào STNN của các kết
hợp theo ngữ liệu mà luận văn thu thập được, chúng tôi chia nhóm DTĐV này
thành hai nhóm nhỏ: 1. Bình thƣờng về khả năng kết hợp (gồm a. chỉ kết
hợp với yếu tố trung hoà về nghĩa, và b. kết hợp với yếu tố trung hoà và xấu
nghĩa). 2. Bất thƣờng về khả năng kết hợp (kết hợp được với cả ba loại
STNN). Dưới đây là bảng thống kê khả năng kết hợp của DTĐVKCL xấu
nghĩa và DTĐVCL xấu nghĩa.
Bảng 16. Bảng thống kê khả năng kết hợp của DTĐVKCL xấu nghĩa
Bình thƣờng về KNKH Bất thƣờng về
KNKH
Tổng cộng
TH THX TTHX
SL % SL % SL % SL %
1 5.00 17 85.00 2 10.00 20 100
Bảng 17. Bảng thống kê khả năng kết hợp của DTĐVCL xấu nghĩa
Bình thƣờng về KNKH
Tổng cộng
TH THX
SL % SL % SL %
1 20.00 4 80.00 5 100
Tỉ lệ 85% và 80% cho thấy khả năng kết hợp với cả hai yếu tố trung hoà
và xấu nghĩa của DTĐV xấu nghĩa phổ biến hơn hai khả năng còn lại. Với 2
trường hợp duy nhất ở DTĐVKCL, khả năng kết hợp với cả ba mức độ
STNN có thể xem như một lệ ngoại về khả năng kết hợp của DTĐV xấu
nghĩa.
54
2.3.1.1. Bình thường về khả năng kết hợp
Các DTĐV trong nhóm này có khả năng kết hợp bình thường như bất kỳ
đơn vị xấu nghĩa nào khác, nghĩa là chúng có khả năng kết hợp với yếu tố
trung hoà về nghĩa, hoặc với yếu tố xấu nghĩa, hoặc cả hai để tạo ra những kết
hợp mang nghĩa xấu.
2.3.1.1.1. Chỉ kết hợp với yếu tố trung hoà về nghĩa
Nhóm này chỉ có thể kết hợp được với yếu tố trung hoà về nghĩa. Danh
sách trong nhóm này chỉ có 2 từ chia đều cho hai bộ phận DTĐV: mửng20
(DTĐVKCL) và lốt2
21
(DTĐVCL).
Khả năng tạo ra kết hợp với từ mửng là không nhiều, và đó đều là các
yếu tố trung hoà về nghĩa: ấy, này, cũ...
Khả năng kết hợp của lốt2 có khá hơn, tuy nhiên lốt2 vẫn không bứt ra
được giới hạn đi kèm với các yếu tố trung hoà. Lý do là, lốt2 dùng để chỉ dấu
hằn còn để lại bởi những hành động đã qua mà các vị từ hành động kiểu này
vốn trung hoà về STNN: lốt chân, lốt rắn bò, lốt dao chém…
2.3.1.1.2. Kết hợp với yếu tố trung hoà về nghĩa và xấu nghĩa
Kết hợp với cả hai loại yếu tố trung hoà và xấu nghĩa là cách thức phổ
biến hơn đối với các DTĐV xấu nghĩa để tạo thành các kết hợp mang nghĩa
xấu.
Chẳng hạn như đối với DTĐVKCL xó, các kết hợp mà nó tạo ra đều
mang sắc thái xấu nghĩa khi kết hợp với các yếu tố trung hoà (chợ, nhà quê,
quê…) và các yếu tố xấu nghĩa (bẩn thỉu, nghèo nàn, rách nát…): xó chợ, xó
nhà quê, xó quê, xó bẩn thỉu, xó nghèo nàn, xó rách nát... Nếu như thay
20
(ph) Kiểu, điệu
21
Dấu hằn còn để lại
55
những DTĐV trung hoà vào vị trí của xó ở những ngữ cảnh có chứa yếu tố
trung hoà, chắc chắn, kết quả tạo ra sẽ không phải là những kết hợp xấu
nghĩa. Chẳng hạn: ở nhà quê, miền quê, vùng quê, khu chợ…
Một điều thú vị là giữa hai từ đồng âm có một sự liên hệ ngữ nghĩa nào
đó, nếu từ thứ nhất mang nghĩa trung hoà, từ thứ hai có thể xấu nghĩa. Điều
này sẽ dễ dàng lý giải hơn với các nghĩa của cùng một từ, khi đó, hiện tượng
này sẽ là sự biến đổi xấu nghĩa từ nghĩa gốc đến nghĩa phái sinh.
Chúng ta hãy cùng xem sự biểu hiện sắc thái ý nghĩa qua các kết hợp của
hai từ đồng âm bãi1 và bãi2 như sau:
bãi1
bãi biển đẹp
bãi cỏ đẹp
bãi bể
bãi biển
bãi cát
bãi cỏ
bãi dâu
bãi hoang
bãi muối
bãi phù sa
bãi sa mạc
bãi sông
bãi tắm
bãi tập
bãi tha ma
bãi mìn
bãi rác
bãi2
bãi cốt trầu
bãi nước dãi
bãi nước miếng
bãi phân
Nếu từ bãi1 trung hoà về nghĩa với các kết hợp được tạo thành mang
STNN của từ kết hợp cùng nó, thì bãi2 là từ xấu nghĩa với các kết hợp mang
nghĩa xấu dù yếu tố cộng thêm mang nghĩa xấu hay trung hoà.
Không thể nói rằng hai từ đồng âm bãi1 và bãi2 không có bất kỳ sự liên
hệ ngữ nghĩa nào, bởi vì chúng đều gợi ra hình dung về một khoảng không
gian trải rộng, trong đó có chứa thứ gì đó. Chẳng qua là bãi2 được thu hẹp
nghĩa bằng cách giảm cái diện tích mặt phẳng ấy lại và giới hạn về thứ vật
chất chứa đựng trong mặt phẳng ấy (chất bẩn nhỏ, thường lỏng hoặc sền sệt,
do cơ thể thải ra), do đó bãi2 mang sắc thái xấu nghĩa.
56
2.3.1.2. Bất thường về khả năng kết hợp
Theo lý thuyết, một đơn vị xấu nghĩa sẽ không thể kết hợp với một đơn
vị tốt nghĩa và ngược lại. Tuy nhiên, ở đây cũng có lệ ngoại. Bằng chứng là
trong các DTĐV xấu nghĩa cũng có một trường hợp có khả năng kết hợp với
những yếu tố tốt nghĩa, hay nói cách khác, chúng bất thường về khả năng kết
hợp.
gã điển trai
gã bảnh trai
gã học giỏi
gã ấy
gã bơi đò
gã buôn
gã thanh niên
gã trai
gã lưu manh
gã người thấp bé
gã khùng
gã điên
gã vô học bất tài
Các kết hợp trên của DTĐVKCL gã đều có STNN xấu mặc dù yếu tố
cộng thêm vào từ gốc có đủ ba loại STNN: tốt, trung hoà, xấu thể hiện ở 3 cột
bên trên.
Một trường hợp trên không thể thay đổi được những tiền lệ trên lý
thuyết, nhưng chúng ta vẫn cần phải ghi nhận rằng, DTĐV xấu nghĩa nếu có
khả năng kết hợp được với những yếu tố tốt nghĩa, thì những kết hợp của
chúng tạo thành vẫn mang nghĩa xấu. Nguyên nhân có phải nằm ở cấu trúc
của ngữ danh từ: yếu tố chính bao giờ cũng có ý nghĩa quyết định STNN của
cả kết hợp? Hãy xem các trường hợp sau đây.
(1) Trang thanh niên
(2) Bãi (biển) đẹp
Bãi rác
(3) Bãi cốt trầu
(4) Gã điển trai
Tất cả đều có một kiểu cấu trúc là một yếu tố chính kết hợp với một yếu
tố phụ (C + P). Tuy nhiên, nếu như ở các trường hợp (1), (3), (4), STNN của
57
yếu tố chính (trang5, bãi2, gã) quyết định STNN của cả kết hợp thì ở trường
hợp (2), chính yếu tố phụ (đẹp, rác) mới có tác dụng quyết định STNN của
kết hợp chứ không phải yếu tố chính (bãi1). Một điều cần lưu ý là trang5, đẹp
(tốt nghĩa) và bãi2, gã, rác (xấu nghĩa) đều được đánh dấu về sự tích cực/tiêu
cực trong khi bãi1 (trung hoà về nghĩa) thì không. Như vậy, nguyên nhân có
lẽ không nằm ở cú pháp mà nằm ở tính ưu tiên của các loại STNN được xếp
theo thứ bậc: các yếu tố có STNN tốt và xấu sẽ có tác dụng quyết định các kết
hợp trong đó có chứa yếu tố trung hoà, còn trong kết hợp giữa một yếu tố tốt
và một yếu tố xấu – như trường hợp gã điển trai ở trên, ngữ liệu cho chúng ta
hình dung về tính ưu tiên của các đơn vị xấu nghĩa. Tóm lại, trong một kết
hợp, thứ tự ưu tiên của các loại STNN sẽ quyết định STNN của cả kết hợp là:
1. Xấu nghĩa. 2. Tốt nghĩa. 3. Trung hoà về nghĩa.
2.3.2. Biến đổi sắc thái ngữ nghĩa trong loạt ngữ cảnh nhất định
Chỉ có duy nhất một trường hợp thuộc nhóm DTĐV xấu nghĩa biến đổi
STNN trong loạt ngữ cảnh nhất định. DTĐV này biến đổi STNN từ xấu nghĩa
sang trung hoà về nghĩa.
DTĐVCL phận vốn chỉ thân phận (phận đàn bà, phận trâu ngựa, thân
phận, phận nghèo…) và mang nghĩa xấu nhưng khi nó dùng để chỉ “địa vị và
gắn với nó là bổn phận của người bề dưới đối với người bề trên” (phận dâu
con, phận con cái…), nó đã biến đổi nghĩa theo chiều hướng tích cực và có
STNN trung hoà.
2.4. Các danh từ đơn vị có sắc thái ngữ nghĩa giao thoa
Sở dĩ luận văn gọi các DTĐV này là các đơn vị có STNN giao thoa là
bởi sự biểu hiện STNN quá phức tạp của chúng. Người viết không thể liệt
chúng vào danh sách DTĐV bị biến đổi STNN trong loạt ngữ cảnh nhất định
58
bởi giữa hai loại đơn vị này có những khác biệt quan trọng. Thứ nhất, nếu như
ở đơn vị bị biến đổi STNN trong loạt ngữ cảnh nhất định, chúng tôi tìm thấy
một cơ chế biến đổi rõ ràng, thì ở loại đơn vị có tính chất giao thoa giữa các
STNN, điều đó là không thể. Thứ hai, nếu đơn vị bị biến đổi STNN chỉ biến
đổi STNN ở một (một vài) loạt ngữ cảnh nhất định (có thể tương ứng với một
(một vài) nét nghĩa) thì ở loại đơn vị có STNN giao thoa, ở một nét nghĩa vừa
có thể biểu hiện STNN này vừa có thể biểu hiện STNN kia. Do đó, chúng tôi
thiết nghĩ việc tách chúng ra thành hai bộ phận là một việc không thể tránh
khỏi.
Tuy nhiên, giữa các STNN giao thoa trong một DTĐV bao giờ cũng có
một STNN nổi trội hơn (tham gia vào nhiều ngữ cảnh hơn) và được xem là
STNN điển hình của đơn vị đó. Chẳng hạn, một đơn vị có sự giao thoa giữa
STNN trung hoà và xấu, nhưng sắc thái xấu nghĩa được tìm thấy ở nhiều ngữ
cảnh, nhiều nét nghĩa thì xấu nghĩa được xem là STNN điển hình của đơn vị
đó.
Sau đây là bảng thống kê số lượng và tỉ lệ các loại DTĐV có STNN giao
thoa.
Bảng 18. Bảng thống kê các tiểu loại DTĐV có STNN giao thoa
DTĐV có STNN giao thoa Số lƣợng %
TH - Xấu
DTĐVKCL 9 75.00
DTĐVCL 2 16.67
Tổng cộng 11 91.67
Tốt - Xấu
DTĐVKCL 0 0.00
DTĐVCL 1 8.33
Tổng cộng 1 8.33
Tổng cộng 12 100.00
59
2.4.1. Giao thoa giữa trung hoà và xấu nghĩa
DTĐV có STNN giao thoa giữa trung hoà về nghĩa và xấu nghĩa chiếm
ưu thế hơn so với nhóm còn lại và DTĐVKCL chiếm ưu thế hơn DTĐVCL.
Các DTĐVKCL bọn, cơn, cú2
22, đứa, lũ2, nỗi, nùi
23, thằng, tụi và các
DTĐVCL vết, vệt đều thuộc nhóm này.
Chẳng hạn, bọn có STNN giao thoa giữa trung hoà và xấu nghĩa, nghĩa
là vừa biểu hiện sắc thái trung hoà vừa biểu hiện sắc thái xấu nghĩa tuỳ theo
ngữ cảnh nó tham gia. Bọn trẻ, bọn nhóc, bọn bạn, bọn học trò, bọn sinh viên,
bọn họ, bọn ta, bọn thiếp, bọn thần… mang STNN trung hoà về nghĩa. Bọn
ấy, bọn này, bọn kia… có thể mang STNN thân mật hoặc coi khinh, nghĩa là
có thể mang sắc thái trung hoà hay xấu nghĩa tuỳ theo tình huống giao tiếp cụ
thể. Bọn đương thứ, bọn kỳ cựu, bọn lý dịch, bọn kỳ mục, bọn kỳ hào, bọn phù
thuỷ, bọn đạo sĩ, bọn thầy bùa, bọn hãnh tiến, bọn cường hào, bọn phi tần mỹ
nữ, bọn thủ hạ, bọn đàn bà… mang nghĩa xấu bất kể nó xuất hiện trong tình
huống nào.
2.4.2. Giao thoa giữa tốt nghĩa và xấu nghĩa
DTĐV có STNN giao thoa giữa tốt nghĩa và xấu nghĩa chỉ tìm thấy ở
DTĐVCL (1 trường hợp). DTĐVKCL vắng mặt STNN giao thoa này.
Mưu có thể vừa có sắc thái tốt nghĩa vừa có sắc thái trung hoà vừa có sắc
thái xấu nghĩa tuỳ theo từng ngữ cảnh nó tham gia. Chẳng hạn mưu cao, mưu
lược, mưu trí, mưu sách… mang STNN tích cực và như thế mưu trong những
kết hợp này mang nghĩa tích cực (vì các yếu tố đi sau nó đều có STNN trung
hoà). Mưu gian, mưu ma chước quỷ… mang STNN tiêu cực trong khi các yếu
tố đi sau nó cũng mang nghĩa tiêu cực, vì thế mưu có thể mang nghĩa tiêu cực
22
Cú đấm, cú đá, cú lừa, cú sốc, một cú…
23
Nùi cỏ, nùi rơm, một nùi, nùi ghẻ rách…
60
hoặc mang nghĩa trung hoà. Trong các kết hợp bày mưu, bày mưu tính kế,
mưu kế, mưu đồ…, chúng ta cũng chưa thể xác định được STNN của từ mưu
(hoặc tốt hoặc xấu) bởi vì ngay cả STNN của cả kết hợp cũng chỉ có thể giới
hạn trong STNN giao thoa tốt - xấu tuỳ vào từng tình huống cụ thể. Ví dụ,
bày mưu giết giặc cứu nước mang nghĩa tốt, nhưng kẻ thù bày mưu thâm độc
mang nghĩa xấu.
Tóm lại, DTĐV tiếng Việt có biểu hiện không quá phức tạp về STNN
trong các ngữ cảnh mà chúng xuất hiện nhưng vẫn có nhiều điểm thú vị thể
hiện qua một loạt DTĐV có khả năng biến đổi nghĩa trong loạt ngữ cảnh nhất
định cũng như những kết hợp được tạo ra theo một quy trình bất thường.
Chính những điều này đã làm nên sự tinh tế trong ngữ nghĩa của DTĐV tiếng
Việt.
61
CHƢƠNG BA
TỐT NGHĨA VÀ XẤU NGHĨA
TRONG VỊ TỪ TRẠNG THÁI TIẾNG VIỆT
Như đã nói ở chương một, luận văn sẽ khảo sát VTTT ở hai bộ phận:
VTTT đơn tiết và VTTT đa tiết. Tuy nhiên, chúng tôi ưu tiên bộ phận đơn tiết
hơn bởi đây là loại đơn vị từ vựng có biểu hiện phức tạp về STNN, do đó, nếu
muốn xác lập STNN của chúng, chúng ta cần phải tiến hành khảo sát trên
diện rộng với số lượng ngữ cảnh đủ lớn. Bộ phận VTTT đa tiết thì ngược lại,
sự biểu hiện STNN của chúng không quá phức tạp, vì thế, việc xác lập STNN
cũng là điều không quá khó. Chính vì thế, trong các mục bàn về khả năng kết
hợp của VTTT, chúng tôi sẽ chỉ bàn về VTTT đơn tiết mà thôi.
Luận văn đã tiến hành khảo sát 1641 VTTT đơn tiết và 3064 VTTT đa
tiết tiếng Việt với 9399 ngữ cảnh và đã thống kê được các loại VTTT cũng
như các tiểu loại của chúng dựa trên các mức độ STNN.
Dưới đây là bảng thống kê các loại STNN của 4705 VTTT tiếng Việt.
Bảng 19. Bảng thống kê STNN của VTTT
VTTT SL %
Tốt nghĩa 740 15.73
TH về nghĩa 2132 45.31
Xấu nghĩa 1817 38.62
có STNN
giao thoa
Tốt - TH 2 0.04
Tốt - Xấu 7 0.15
TH - Xấu 7 0.15
Tốt - TH - Xấu 0 0.00
Tổng cộng 4705 100.00
62
Một điều có thể nhận thấy là, so với DTĐV, tỉ lệ đơn vị trung hoà về
nghĩa đã giảm đáng kể, thay vào đó là sự gia tăng loại đơn vị xấu nghĩa và tốt
nghĩa. Các đơn vị có STNN giao thoa cũng đa dạng hơn nhiều, có đến 3 loại
giao thoa về STNN (chỉ vắng mặt STNN giao thoa giữa Tốt - TH - Xấu).
Điều này cho thấy sự phức tạp trong việc biểu hiện STNN của VTTT tiếng
Việt. Chúng ta hãy cùng xem sự khác biệt về STNN của VTTT đơn tiết trong
sự đối sánh với VTTT đa tiết ở hai bảng thống kê bên dưới.
Bảng 20. Bảng thống kê STNN của VTTT đơn tiết tiếng Việt
VTTT đơn tiết SL %
Tốt nghĩa 226 13.77
TH về nghĩa 749 45.64
Xấu nghĩa 659 40.16
có STNN
giao thoa
Tốt - TH 2 0.12
Tốt - Xấu 1 0.06
TH - Xấu 4 0.24
Tốt - TH - Xấu 0 0.00
Tổng cộng 1641 100.00
Bảng 21. Bảng thống kê STNN của VTTT đa tiết tiếng Việt
VTTT đa tiết SL %
Tốt nghĩa 514 16.78
TH về nghĩa 1383 45.14
Xấu nghĩa 1158 37.79
có STNN
giao thoa
Tốt - TH 0 0.00
Tốt - Xấu 6 0.20
TH - Xấu 3 0.10
Tốt - TH - Xấu 0 0.00
Tổng cộng 3064 100.00
63
Nhìn chung, số liệu trong hai bảng thống kê cho thấy tỉ lệ các loại STNN
giữa VTTT đơn tiết và VTTT đa tiết khá tương đồng. Tuy nhiên, trong những
mục sau, chúng ta sẽ nhận thấy rằng VTTT đa tiết có biểu hiện STNN đơn
giản hơn VTTT đơn tiết rất nhiều. Bằng chứng là VTTT đa tiết chỉ có 3
trường hợp biến đổi STNN qua các loạt ngữ cảnh khác nhau và chỉ xảy ra ở
loại đơn vị trung hoà về nghĩa. Điều này có nghĩa là VTTT đa tiết giữ nguyên
một mức độ STNN trong tất cả các ngữ cảnh mà chúng tham gia. Để lý giải
điều này, có lẽ phải cần nhờ đến khái niệm ngữ cảnh. Khi xuất hiện với hai
âm tiết trở lên, từ có khả năng biểu hiện ngữ nghĩa rõ ràng hơn vì xét cho
cùng, ngữ cảnh cũng có thể là một âm tiết.
Như những lý do đã nói ở trên, các phần miêu tả của luận văn sẽ chủ yếu
hướng vào VTTT đơn tiết. VTTT đa tiết sẽ được nhắc đến trong sự so sánh
với VTTT đơn tiết để làm rõ STNN của VTTT đơn tiết.
3.1. Vị từ trạng thái tốt nghĩa
VTTT tốt nghĩa, về cơ bản, luôn tạo ra các kết hợp mang nghĩa tốt khi
kết hợp với các yếu tố tốt nghĩa và trung hoà về nghĩa. Chẳng hạn như VTTT
tốt nghĩa xinh có thể tạo ra các kết hợp mang nghĩa tốt như nhà xinh, người
xinh, xinh đẹp, xinh tươi, xinh xắn… khi kết hợp với các yếu tố tốt nghĩa (đẹp,
tươi, xắn…) và các yếu tố trung hoà về nghĩa (nhà, người…).
Tạo ra các kết hợp có STNN tốt - đó chính là đặc trưng của loại đơn vị
này dù trên thực tế vẫn còn những ngoại lệ. Một số VTTT tốt nghĩa khi kết
hợp với các yếu tố khác đã tạo ra những kết hợp mang STNN xấu hoặc trung
hoà. Chẳng hạn, VTTT tốt nghĩa hay2 tạo ra các kết hợp mang nghĩa xấu (hay
ho, hay hớm) và kết hợp mang nghĩa trung hoà (hay dở). Các VTTT lợi2II,
may2II, hên, phải3I... là các đơn vị tương tự.
VTTT tốt nghĩa chiếm tỉ lệ thấp nhất trong 3 loại VTTT tốt nghĩa, trung
64
hoà về nghĩa và xấu nghĩa (VTTT đơn tiết có tỉ lệ 13.77% và VTTT đa tiết
chiếm 16.78%). Cũng như ở DTĐV, dựa vào sự biểu hiện STNN trong toàn
bộ ngữ cảnh của VTTT tốt nghĩa, chúng tôi chia chúng thành hai loại như sau:
1. VTTT tốt nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh. 2. VTTT tốt nghĩa nhưng biến đổi
STNN trong loạt ngữ cảnh nhất định.
Bảng 22. Bảng thống kê các tiểu loại VTTT tốt nghĩa
VTTT tốt nghĩa SL %
Tốt trong
toàn bộ NC
VTTT đơn tiết 216 29.19
VTTT đa tiết 514 69.46
Tổng cộng 730 98.65
Biến đổi
STNN
VTTT đơn tiết 10 1.35
VTTT đa tiết 0 0.00
Tổng cộng 10 1.35
Tổng cộng 740 100.00
Chiếm ưu thế về số lượng là loại VTTT tốt nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh
với 216 trường hợp (29.19%) ở VTTT đơn tiết và 514 trường hợp (69.46%) ở
VTTT đa tiết. Chỉ có 10 trường hợp (1.35%) VTTT tốt nghĩa bị biến đổi
STNN trong loạt ngữ cảnh nhất định. VTTT đa tiết không xuất hiện nhóm
đơn vị này.
3.1.1. Tốt nghĩa trong toàn bộ ngữ cảnh
Các VTTT nhóm này có biểu hiện tốt nghĩa trong tất cả các ngữ cảnh mà
chúng xuất hiện. Cũng như DTĐV tốt nghĩa, dựa vào khả năng kết hợp, luận
văn chia nhóm này thành hai nhóm nhỏ: bình thường về khả năng kết hợp và
bất thường về khả năng kết hợp.
Luận văn đã thống kê khả năng kết hợp của 216 VTTT đơn tiết tốt nghĩa
65
trong toàn bộ ngữ cảnh và thấy rằng khả năng kết hợp được với cả hai loại
STNN tốt và trung hoà chiếm ưu thế, tiếp sau đó là khả năng kết hợp được
với riêng yếu tố trung hoà. Ngoài khả năng kết hợp với các yếu tố tốt nghĩa và
trung hoà về nghĩa, một số VTTT đơn tiết tốt nghĩa còn có khả năng kết hợp
với các yếu tố có sắc thái xấu nghĩa. Các trường hợp này chiếm một tỉ lệ
khiêm tốn và được xem là lệ ngoại của loại đơn vị này. Chúng ta có thể kiểm
nghiệm điều này qua bảng thống kê về khả năng kết hợp của VTTT đơn tiết
tốt nghĩa bên dưới.
Bảng 23. Bảng phân loại VTTT đơn tiết tốt nghĩa theo khả năng kết hợp
Bình thƣờng về KNKH Bất thƣờng về KNKH
Tổng cộng
TH TTH THX TTHX
SL % SL % SL % SL % SL %
47 21.76 151 69.91 2 0.93 16 7.41 216 100
3.1.1.1. Bình thường về khả năng kết hợp
Như đã nói ở trên, các VTTT bình thường về khả năng kết hợp chỉ có thể
kết hợp với các yếu tố tốt và các yếu tố trung hoà. Nhóm này chiếm hơn 90%
tổng số VTTT đơn tiết tốt nghĩa.
3.1.1.1.1. Kết hợp với yếu tố trung hoà về nghĩa
Về cơ bản, các VTTT thuộc nhóm này chỉ kết hợp được với riêng các
yếu tố trung hoà về nghĩa để tạo ra nghĩa tốt. Chẳng hạn như VTTT chạyII24
có thể kết hợp với các yếu tố trung hoà về nghĩa như hàng, việc… để tạo ra
các kết hợp tốt nghĩa: chạy hàng, chạy việc... Hay VTTT đượcII25 chỉ có thể
kết hợp với các yếu tố trung hoà như người, nết, giá, việc, tính… để tạo ra các
24
Được tiến hành thuận lợi, không bị tắc.
25
Đạt tiêu chuẩn, đạt yêu cầu, làm cho có thể hài lòng, có thể đồng ý.
66
kết hợp mang nghĩa tốt: được người, được nết, được giá, được việc, được
tính…
Tuy nhiên, vẫn có một trường hợp ngoại lệ. VTTT sõi có thể kết hợp với
các yếu tố trung hoà về nghĩa để tạo nên những kết hợp mang nghĩa tốt chỉ trẻ
nhỏ phát âm “rõ, đúng, rành rọt từng tiếng từng lời” (sõi nói) hoặc để chỉ ý
“sành, thành thạo” một việc gì đó (sõi việc). Bên cạnh đó, sõi cũng tạo nên
một kết hợp mang nghĩa xấu khi kết hợp với yếu tố trung hoà về nghĩa (sõi
đời).
Nhìn chung, tỉ lệ các VTTT đơn tiết tốt nghĩa thuộc nhóm này không cao
(chiếm tỉ lệ 21.76%) vì khả năng kết hợp với cả hai yếu tố tốt nghĩa và trung
hoà mới là đặc trưng của các đơn vị tốt nghĩa.
3.1.1.1.2. Kết hợp với yếu tố tốt nghĩa và trung hoà về nghĩa
Các VTTT nhóm này hầu như đều có thể kết hợp với cả hai l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVNNH029.pdf